Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 7

NÓI VỚI CON

- Y Phương -
ĐỀ 1: PHÂN TÍCH ĐOẠN 1
 Mở bài
Quê hương là gì hở mẹ?
Mà cô giáo dạy phải yêu
Quê hương là gì hở mẹ?
Mà ai đi xa cũng nhớ nhiều.
Nhà thơ Đỗ Trung Quân đã diễn tả tình yêu quê hương của mình bằng những vần thơ thật giản dị. Quả thật ai
cũng có một quê hương nơi đón nhận tiếng khóc chào đời. Viết về quê hương, mỗi nhà thơ có một cách thể
hiện khác nhau. Nếu như với Đỗ Trung Quân là “chiếc cầu tre nhỏ”, với Tế Hanh là “chiếc buồm vôi”, là “mùi
nồng mặn quá” thì nhà thơ Y Phương lại biểu lộ tình yêu và niềm tự hào về quê hương qua lời tâm sự với con.
Bài thơ “ Nói với con” được in trong “Thơ Việt Nam 1945 – 1985” là tiếng lòng của một tấm hồn chân thật,
mạnh mẽ, trong sáng của người cha dành cho con. Qua đó, thể hiện tình yêu quê hương thắm thiết và diễn tả
niềm tự hào về cội nguồn dân tộc. Khổ thơ đầu của bài thơ là lời người cha nói với con về cội nguồn sinh
dưỡng của mình: Con lớn lên trong tình yêu thương,sự nâng đỡ của cha mẹ, trong cuộc sống lao động nên thơ
của quê hương.
• Khái quát:
-Y Phương – tên thật là Hứa Vĩnh Sước – là nhà thơ dân tộc Tày, quê ở huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng. Là
một nhà thơ của núi rừng Tây Bắc, nhà thơ của hoa ban, hoa gạo và những dòng suối rì rào . “Thơ ông một bức
tranh thổ cẩm đan dệt nhiều màu sắc khác nhau, phong phú và đa dạng, nhưng trong đó có một màu sắc chủ
đạo, âm điệu chính là bản sắc dân tộc rất đậm nét và độc đáo. Nét độc đáo đó nằm ở cả nội dung và hình thức.
Với Y Phương, thơ của dân tộc Tày nói riêng và thơ Việt Nam nói chung có thêm một “giọng điệu mới, một
phong cách mới”. Có thể nói Y Phương chính là đại diện cho cái hồn, cái cốt cách dân tộc.
- Mang đậm phong cách tác giả, “Nói với con” có thể coi là một trong những thi phẩm xuất sắc nhất nói về tình
quê. Bài thơ được sáng tác năm 1980 – 5 năm sau ngày đất nước giải phóng, ở đó không chỉ có tình quê mà còn
nồng nàn tình cha, tình phụ tử, là tình cảm người cha vĩ đại dành tặng cho đứa con bé bỏng của mình. Đó cũng
được coi như là niềm hi vọng, mong mỏi lớn lao nhất trong cuộc đời người cha: Mong con khôn lớn nên người,
luôn yêu quê hương, tự hào về dân tộc mình. Bài thơ bởi lẽ đó cũng mang đến một niềm xúc động vô bờ trong
lòng độc giả.
- Khổ thơ đầu đã sử dụng những ngôn từ mộc mạc, bình dị, giọng điều thật thiết tha, đầy tình yêu thương để
khơi gợi về cội nguồn sinh dưỡng để đứa con khắc ghi .
LĐ 1: Đầu tiên người cha muốn nói tới là tình cảm gia đình - cái nôi nuôi dưỡng con trưởng thành.
Có thể nói, tình cảm gia đình, nhất là tình cha con, luôn thiêng liêng, là tiền đề, cơ sở cho tình yêu Tổ quốc phát
triển. Năm 1966, ta đã từng được thấm thía tình cha qua tác phẩm “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng.
Cái khác biệt ở chỗ, nếu như Nguyễn Quang Sáng thử thách tình cha con qua bom rơi đạn nổ, qua cái khốc liệt
của kháng chiến mà ánh ngời lên “hạt ngọc ẩn náu trong tâm hồn” người cha. Thì Y Phương lại để thứ tình cảm
ấy nhẹ nhàng mà không kém phần nồng nàn, ấm nóng, là tình cảm tự nó có, không cần phải chờ bất cứ tác nhân
nào. Nhờ đó mà tác phẩm thấm thía như một bài ca quý giá.
- Trong bốn dòng thơ đầu bài thơ là hình ảnh của người con lớn lên trong tình cảm gia đình êm ái yêu thương.
Ở đó còn toát lên tình yêu thương dạt dào sâu nặng và người cha dành cho đứa con thân yêu của mình:
Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười.
- Hiện lên qua từng con chữ vần thơ là một mái nhà đầm ấm yên vui có cả cha có mẹ và có cả con. Ở đó, cha mẹ
đã dìu dắt và nâng đỡ con từng bước đi tiếng nói nụ cười đầu tiên trong cuộc đời. Bằng những từ ngữ giàu hình
ảnh cùng với phép liệt kê “chân phải, chân trái, tiếng nói, tiếng cười”, Y Phương đã vẽ ra trước mắt người đọc
không khí ấm cúng, hạnh phúc của một gia đình. Ở đó, có một đứa trẻ đang cố bước những bước chân non nớt về
phía cha mẹ mình. Không có gì đáng yêu hơn là đôi bàn chân hồng hồng đi trên sàn nhà và đôi tay bé xíu vẫy
vẫy cha mẹ. Trong sự đáng yêu ấy là cả niềm mong đợi, vui sướng của mẹ cha khi lần đầu được nghe con bập bẹ
“mẹ ơi, cha ơi”, lần đầu nhìn thấy con vững chãi bước đi trên chính đôi chân của mình.
Đọc câu thơ ta lại nhớ đến hình ảnh người cha đang vỡ òa hạnh phúc khi lần đâu tiên nhận được tin con
tập đi trong thơ của Huy Cận
Được tin con tập đi
Cha mừng không ngủ được.
Cha nằm đếm thầm thì
Từng bước chân con bước.
(Được tin con tập đi - Huy Cận)
Tin con tập đi đã đánh thức người cha, cha vui mừng khôn xiết không thể ngủ được, từng bước chân con tạo nên
sự chuyển động, cũng như sự lớn lên từng ngày của trẻ trong vòng tay yêu thương của cha mẹ. Ngày con tập đi
có lẽ là ngày đẹp nhất trên thế giới, cha mong sớm được gặp con, nhìn con bước đi.
Y Phương và Huy Cận đã khắc họa lên hình ảnh một gia đình thật hạnh phúc, đầm ấm, tràn ngập yêu thương.
Đứa trẻ được nuôi nấng, che chở trong vòng tay ấm áp của cha mẹ. Mỗi bước đi, mỗi tiếng nói, nụ cười của con
trẻ đều được cha mẹ chờ mong đón nhận.
- Câu thơ mộc mạc cứ như một lời kể nhưng bên trong lại là những tình cảm thân thương, trìu mến của cha mẹ
dành cho đứa con bé bỏng. Nụ cười của con, tiếng nói của con làm sống lại những kỉ niệm tưởng chừng đã mất
khi cha mẹ còn là một đứa trẻ:
Bàn chân từng đạp bằng sắt đá
Trở về làng bập bẹ tiếng đầu tiên.
(Tên làng - Y Phương).
- Những bước đi của con là bước đi của thời gian, bước đi nối tiếp nhau của các thế hệ. Ngày xưa, ông bà đã
từng nắm lấy đôi bàn tay cha mẹ dìu đi thì bây giờ đôi tay cha mẹ đủ trưởng thành để dìu dắt con, làm chỗ dựa
cho con để con yên tâm khôn lớn. Điểm tựa vững chắc là gia đình đã nuôi dưỡng tâm hồn con lớn lên từng ngày.
LĐ 2: Nhắc nhở con về cội nguồn quê hương.
* Cội nguồn sinh dưỡng của mỗi con người được Y Phương nói đến không chỉ là gia đình mà còn là quê
hương, là thiên nhiên tươi đẹp và thấm đượm nghĩa tình. Như bầu sữa tinh thần thứ hai, quê hương với cuộc
sống lao động, với thiên nhiên tươi đẹp, tình nghĩa đã nuôi dưỡng, sẻ chia giúp cho contrưởng thành.
- Quê hương vốn là một khái niệm vô hình nhưng rất đỗi thân thương. Với mỗi người, quê hương hiện lên với
những nét khác nhau. Nếu như với Tế Hanh, quê hương là “Con sông xanh biếc, nước gương trong soi tóc
những hàng tre”, với Đỗ Trung Quân, “Quê hương là chum khế ngọt”, “ là con diều biếc” thì với Y Phương,
quê hương chính là người đồng mình, là rừng, là núi:
Người đồng mình yêu lắm con ơi
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng.
- Quê hương hiện ra qua hình ảnh của “người đồng mình”. Nói với con về những “người đồng mình”, nhà thơ
như đang giới thiệu ân cần đây là những người bản mình, người vùng mình, người dân quê mình gần gũi, thân
thương.
- “Người đồng mình yêu lắm con ơi”- câu cảm thán bộc lộ cảm xúc, niềm xúc động mãnh liệt của người cha
khi vỗ về đứa con của quê hương. Bảy chữ, hai nhịp, nhưng đằng sau câu thơ ngắn ngửi ấy, bao giờ ta cũng thấy
được biết bao nhiêu tình cảm chan chứa và chân thành. Đó cũng chính là cách nói của người đồng mình, người
quê mình. Tiếng nói của người dân đồng bào miền núi, đặc biệt là dân tộc Tày luôn luôn gợi đến cho đối phương
một sự gần gũi, trìu mến, thân thương. Người cha như đang ru vỗ tâm hồn con những tình cảm về quê hương, về
con người, về dân tộc, kể cho con nghe những công việc làm ăn, những phong tục tập quán của quê hương lam
lũ, vất vả nhưng rạng ngời niềm tin sống.
- Cha kể cho con nghe về người đồng mình trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày. Một cuộc sống bình dị nhưng
chứa đựng biết bao tình làng nghĩa xóm.
*Người đồng mình là những con người có đôi bàn tay tài hoa khéo léo:
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát.
- Câu thơ Đan lờ cài nan hoa” đã cho thấy rõ sự tài hoa trong cách dùng từ của nhà thơ Y Phương. Tác giả đang
hướng bạn đọc đến với sự kết nối giữa giá trị lao động và giá trị nghệ thuật. Từ một dụng cụ lao động bình
thường, thô sơ nhưng dưới bàn tay khéo léo, sáng tạo của người đồng mình đẫ biến những nan nứa, nan tre trở
thành nan hoa, thành những tác phẩm nghệ thuật. Điều này ta cũng từng bắt gặp trong câu thơ của Nguyễn Đình
Thi:
Tay ngưởi như có phép tiên
Trên thân tre lá cũng dệt nghìn bài thơ
Có thể nói, bằng tình yêu với quê hương mình, Y Phương tái hiện lên được nét đặc trưng của người dân tộc Tày,
đó chính là sự tài hoa và tâm hồn đầy lãng mạn.
- Câu thơ “vách nhà ken câu hát” đã làm bừng dậy một không gian văn hóa của người dân tộc Tày ở tỉnh Cao
Bằng. Vách nhà được làm bằng nhiều tấm gỗ hoặc tre xếp xít nhau, ken chặt vào nhau tạo thành bức tường.
Nhưng nó được ken đầy bằng những câu hát Si, hát lượn. Qua câu thơ phần nào nói lên được cuộc sống lao động
vất vả, thiếu thốn của người dân nơi đây. Tuy vậy ta không thấy tiếng thở than cho sự vất vả ấy mà trái lại Y
Phương đã nói lên được tinh thần lạc quan, hăng say lao động của con người. Trong khó khăn, họ vẫn hát ca bên
đống lửa, điệu khèn, tiếng sáo, điệu múa uyển chuyển của cô thôn nữ làm cuộc sống của người dân giàu hơn mọi
thứ, một đời sống tinh thần phong phú.
- Các động từ “đan, cài, ken” đều có chung một nét nghĩa đó là gắn kết các vật lại với nhau một cách bền chặt
nhất. Phải chăng tác giả đã khéo léo dụng từ để nói được tinh thần đoàn kết, gắn bó,san sẻ của người đồng mình
trong mọi hoàn cảnh, đó cũng là đức tính là bản sắc văn hóa vùng miền.
* Bên cạnh đó, sự hùng vĩ của núi rừng và sự thơ mộng của thiên nhiên miền núi cũng góp phần bồi đắp cho
đời sống tình cảm của người con ngày một lớn hơn:
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng.
- Nếu như hình dung về một vùng núi cụ thể, chắc hẳn mỗi người có thể gắn nó với những hình ảnh khác cách
nói của Y Phương: là thác lũ, là bạt ngàn cây hay rộn rã tiếng chim thú hoặc cả những âm thanh “gió gào ngàn,
giọng nguồn thét núi”, những bí mật của rừng thiêng… Nhưng đối với người đồng bào mình, núi rừng là cội
nguồn của sự sống, là người mẹ chở che, núi rừng cho con người mọi thứ cần thiết cho đời sống hằng ngày. Để
nói đến điều tuyệt vời mà núi rừng mang lại cho con người, Y Phương chỉ dùng một từ “hoa”. Hoa ở đây không
đơn thuần là đặc trưng của đại ngàn hoa cỏ mà còn mang ý nghĩa chỉ vẻ đẹp, sự tinh túy, sự hòa quyện giữa nét
đẹp hoang dã và tình yêu của con người dành cho thiên nhiên. Hình ảnh hoa như một tín hiệu thẩm mĩ góp phần
diễn đạt điều tác giả đang muốn khái quát: chính những gì đẹp đẽ của quê hương đã hun đúc nên tâm hồn cao
đẹp của con người ở đó.
- Cả “rừng” và “con đường” đều được nhân hóa để nơi ấy không chỉ là nơi đứa con khôn lớn mà còn là chỗ dựa
tinh thần cho những bước đi của con vào đời. Mỗi con đường con ra suối, lên núi, băng rừng hay trở về nhà đều
mang “những tấm lòng”.
- Điệp từ “cho” mang nặng nghĩa tình. Thiên nhiên đã che chở, nuôi dưỡng, bồi đắp tâm hồn cũng như lối sống
của con người. Đó là tấm lòng của quê hương dành cho mỗi con người cũng là tấm lòng của người đồng mình
dành cho nhau: thủy chung, hiền lành, rộng mở. Quê hương ấy chính là cái nôi để đưa con vào cuộc sống êm
đềm. Như nhà thơ Tố Hữu từng viết:
Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây
Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội rừng vây quân thù
(Việt Bắc)
LĐ 3: Từ tình cảm của quê hương, xứ sở, người cha đã không kìm được nỗi hạnh phúc, tự hào để nhắc
cho con mình ngày đầu tiên nhớ mãi:
Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời.
- “Ngày cưới” chính là minh chứng tuyệt vời nhất cho tình yêu của cha mẹ và con cũng chính là kết tinh của
tình yêu ngọt ngào ấy. “Ngày cưới” là ngày gặp gỡ của những tấm lòng, của những con người quê hương.
- “Ngày đầu tiên đẹp nhất” ấy có thể là ngày cưới của cha mẹ nhưng nó cũng có thể là ngày con chào đời,
ngày bố mẹ được hạnh phúc đón chờ con. Người cha nhắc đến những kỉ niệm ngày cưới của mình với con -
điểm tựa của hạnh phúc - chính là để mong con luôn nhớ, con lớn lên trong tình yêu trong sáng và hạnh phúc
của cha mẹ. Con là kết quả của tình yêu và hạnh phúc gia đình. Đó là điểm xuất phát mọi tình yêu thương
trong con. Như vậy, tình cảm riêng đã hoà vào tình cảm chung, tình cảm gia đình đã hòa vào tình cảm quê
hương, đất nước.
Đoạn thơ mở ra bằng hình ảnh đứa con, kết thúc bằng hình ảnh cha mẹ, mở ra bằng cội nguồn gia đình,
kết thúc bằng cội nguồn quê hương, gia đình và quê hương đã cho con nghĩa tình, đã bao bọc, chở che con
ngay từ khi bắt đầu con cất tiếng khóc chào đời. Quê hương và gia đình sẽ mãi mãi luôn bên nhau, nâng đỡ
con trong suốt hành trình dài của cuộc đời.
-> Ba hình ảnh: con người - mảnh đất quê hương - ngày cưới của cha mẹ gợi thức dậy ở đứa trẻ tình yêu
thương, lòng gắn bó với cội nguồn sinh dưỡng. Rằng, con được sinh ra và được nâng niu trong một thế giới đầy
sắc màu cổ tích. Đó là thế giới của những con người tài hoa, những tâm hồn lãng mạn, là thế giới của những
con đường xuyên những cánh rừng đầy hoa và gần gũi hơn nữa, con được sinh ra từ tình yêu tha thiết giữa cha
và mẹ (bằng chứng là nỗi nhớ “ngày đầu tiên đẹp nhất trong đời”). Một thế giới như thế sẽ đủ sức bao bọc con
trong những êm đềm, những yêu thương; đủ sức nuôi lớn tâm hồn con và xứng đáng để con không phụ lòng.
* Liên hệ mở rộng: Tâm sự với con về tình cảm thiêng liêng đó chắc hẳn nhà thơ muốn nhắn nhủ với con rằng:
Con hãy yêu gia đình, yêu quê hương mình đừng bao giờ quên cội nguồn sinh dưỡng đó bởi đúng như nhà thơ
Đỗ Trung Quân từng viết:
“ Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một mẹ thôi
Quê hương nếu ai không nhớ
Sẽ không lớn nổi thành người”
* Đánh giá:
Đẹp làm sao các hình ảnh thơ vừa cụ thể, mộc mạc, cô đọng mà vừa phong phú, sinh động, giàu chất thơ. Với
thể thơ tự do với nhịp điệu, giọng thơ tha thiết, nhiều hình ảnh mộc mạc nhưng giàu sức gợi cảm kết hợp một số
biện pháp nghệ thuật như nhân hóa, ẩn dụ, đoạn thơ đã làm nổi bật sự gắn bó sâu nặng của con người đối với gia
đình, quê hương, đồng bào mình. Đó là tình cảm đáng trân trọng, đáng giữ gìn và nó trở thành nét đẹp văn hóa
của con người Việt Nam. Những đặc sắc về nghệ thuật cộng hưởng hài hoà với những cung bậc tình cảm khác
nhau của cha đã tạo nên dư âm sâu lắng cho bài thơ.
c.Kết bài:
Có thể nói, tác phẩm đã đem đến một định nghĩa mới lạ cho tình phụ tử của dân tộc Tày. Với thể thơ tự do,
câu dài câu ngắn rất phù hợp với cuộc sống gập ghềnh của người dân vùng núi. Hình ảnh thơ mang đậm chất của
núi rừng, sông suối. Kết hợp với mạch cảm xúc tự nhiên, nhẹ nhàng, không chỉ đơn thuần là những lời khuyên
chân tình với con mình, đó còn là lời nhắn nhủ với tất cả chúng ta về truyền thống đạo lý “uống nước nhớ
nguồn”. Bài thơ nói chung và đoạn thơ nói riêng chính là một đóa hoa thơm góp vào mảng đề tài quê hương, đất
nước. Cho ta thêm yêu thêm nhớ quê nhà thân thuộc của mình:
“Quê hương ơi! Xa rồi nhớ thành thơ
Tiếng mẹ đẻ, gặp nhau mừng khôn xiết
Ai cũng vậy xa lâu rồi mới biết
Những ngôn từ không đủ viết…quê hương!”
ĐỀ 2: PHÂN TÍCH ĐOẠN 2
1. Khái quát
 Mở bài
Quê hương là gì hở mẹ?
Mà cô giáo dạy phải yêu
Quê hương là gì hở mẹ?
Mà ai đi xa cũng nhớ nhiều.
Nhà thơ Đỗ Trung Quân đã diễn tả tình yêu quê hương của mình bằng những vần thơ thật giản dị. Quả thật ai
cũng có một quê hương nơi đón nhận tiếng khóc chào đời. Viết về quê hương, mỗi nhà thơ có một cách thể
hiện khác nhau. Nếu như với Đỗ Trung Quân là “chiếc cầu tre nhỏ”, với Tế Hanh là “chiếc buồm vôi”, là “mùi
nồng mặn quá” thì nhà thơ Y Phương lại biểu lộ tình yêu và niềm tự hào về quê hương qua lời tâm sự với con.
Bài thơ “ Nói với con” được in trong “Thơ Việt Nam 1945 – 1985” là tiếng lòng của một tấm hồn chân thật,
mạnh mẽ, trong sáng của người cha dành cho con. Qua đó, thể hiện tình yêu quê hương thắm thiết và diễn tả
niềm tự hào về cội nguồn dân tộc. Khổ thơ thứ hai của bài thơ đã ca ngợi sức sống mạnh mẽ, bền bỉ của quê
hương mình, mong con tiếp nối và phát huy truyền thống tốt đẹp đó.
 Khái quát:
-Y Phương – tên thật là Hứa Vĩnh Sước – là nhà thơ dân tộc Tày, quê ở huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng. Là
một nhà thơ của núi rừng Tây Bắc, nhà thơ của hoa ban, hoa gạo và những dòng suối rì rào . “Thơ ông một bức
tranh thổ cẩm đan dệt nhiều màu sắc khác nhau, phong phú và đa dạng, nhưng trong đó có một màu sắc chủ
đạo, âm điệu chính là bản sắc dân tộc rất đậm nét và độc đáo. Nét độc đáo đó nằm ở cả nội dung và hình thức.
Với Y Phương, thơ của dân tộc Tày nói riêng và thơ Việt Nam nói chung có thêm một “giọng điệu mới, một
phong cách mới”. Có thể nói Y Phương chính là đại diện cho cái hồn, cái cốt cách dân tộc.
- Mang đậm phong cách tác giả, “Nói với con” có thể coi là một trong những thi phẩm xuất sắc nhất nói về tình
quê. Bài thơ được sáng tác năm 1980 – 5 năm sau ngày đất nước giải phóng, ở đó không chỉ có tình quê mà còn
nồng nàn tình cha, tình phụ tử, là tình cảm người cha vĩ đại dành tặng cho đứa con bé bỏng của mình. Đó cũng
được coi như là niềm hi vọng, mong mỏi lớn lao nhất trong cuộc đời người cha: Mong con khôn lớn nên người,
luôn yêu quê hương, tự hào về dân tộc mình. Bài thơ bởi lẽ đó cũng mang đến một niềm xúc động vô bờ trong
lòng độc giả.
- Khổ thơ thứ hai là lời của người cha nói với con về những phẩm chất tốt đẹp, những truyền thống đáng tự hào
của người đồng mình và niềm kì vọng con sẽ kế tục xứng đáng truyền thống ẩy
Luận điểm 1: Trong cái ngọt ngào của kỉ niệm về gia đình và quê hương, người cha đã tha thiết nói với
con về những phẩm chất tốt đẹp của người đồng mình với bao niềm tự hào, yêu thương:
Người đồng mình thương lắm con ơi!
- Tác giả vẫn sử dụng lối nói giàu hình ảnh "người đồng mình" - cách xưng hô quen thuộc, trìu mến của người
vùng cao để gợi lên sự thân thương, gần gũi như cùng chung một gia đình
- Nếu trong khổ thơ trên người đồng mình “yêu lắm con ơi” là yêu cuộc sống vui tươi bình dị, yêu bản làng thơ
mộng, yêu những tấm lòng chân thật nghĩa tình thì đến đây người cha nói với con “thương lắm con ơi”. Động từ
"thương" kết hợp với từ chỉ mức độ "lắm" đã thể hiện sự đồng cảm, sẻ chia về tinh thần đối với những những khó
khăn, vất vả, sóng gió mà người đồng mình đã phải trải qua.
* Nhưng dù cuộc sống có bao vất vả, cực nhọc, người đồng mình vẫn hiện lên thật đẹp. Đó là những con
người biết lo toan và giàu mơ ước, giàu ý chí, nghị lực:
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn”
- Nhà thơ gợi ra hoàn cảnh sống khó khăn vất vả của “người đồng mình” thông qua các từ “cao”, “xa” . Đó là
vùng miền núi địa hình hiểm trở, xa tận vùng phía Bắc địa đầu Tổ quốc, điều kiện sống sinh hoạt còn nhiều khó
khăn. Thế nhưng ở vùng cao dẫu có “buồn”, có vất vả thật đấy, nhưng chính cái “cao”, cái “xa” l ại là tiền đề
“nuôi chí lớn”, dưỡng nên lòng kiên trì, sức mạnh, ý chí phấn đấu khắc phục mọi điều kiện khắc nghiệt, để tạo
nên một cộng đồng dân tộc giàu bản sắc.
- Tư duy của người miền núi mộc mạc chân tình hiện lên trong cách so sánh độc đáo. Y Phương đã lấy cái cao
vời vợi của trời để đo nỗi buồn, lấy cái xa của đất để đo ý chí con người. Cách sắp xếp tính từ “cao”, “xa” trong
sự tăng tiến, nâng cao mức độ cho thấy khó khăn, thử thách càng lớn thì ý chí con người càng mạnh mẽ, càng
quyết tâm chinh phục, vượt qua.
- Có thể nói, cuộc sống của người đồng mình còn nhiều nỗi buồn, còn nhiều bộn bề thiếu thốn song họ sẽ vượt
qua tất cả, bởi họ có ý chí và nghị lực, họ luôn tin tưởng vào tương lai tốt đẹp của dân tộc và không ngừng mơ
ước đến tương lai nơi mà chí lớn sẽ vươn tới.
* Người đồng mình dù sống trong nghèo khổ, gian nan vẫn thủy chung gắn bó với quê hương, cội nguồn.
Và đó cũng là điều cha mong muốn ở con:
“Sống trên đá không chê đá gập gềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc
- Phép liệt kê với những hình ảnh ẩn dụ “đá gập gềnh”, “thung nghèo đói” kết hợp với thành ngữ dân gian “Lên
thác xuống ghềnh”, gợi bao nỗi vất vả, lam lũ gợi cuộc sống đói nghèo, khó khăn, cực nhọc.
- Không những vậy, những câu thơ dài ngắn, cùng những thanh trắc tạo ấn tượng về cuộc sống trắc trở, gian nan,
đói nghèo của quê hương.
- Tác giả cũng thật khéo léo khi sử dụng điệp ngữ “sống”, “không chê” và điệp cấu trúc câu cùng hình ảnh đối
xứng để nhấn mạnh: người đồng mình có thể nghèo nàn, thiếu thốn về vật chất nhưng họ không thiếu ý chí và
quyết tâm. Người đồng mình chấp nhận và thủy chung gắn bó cùng quê hương, dẫu quê hương có đói nghèo, vất
vả. Phải chăng, chính cuộc sống nhọc nhằn, đầy vất vả khổ đau ấy đã tôi luyện cho chí lớn để rồi tình yêu quê
hương sẽ tạo nên sức mạnh giúp họ vượt qua tất cả.
- Không chỉ vậy cha còn mong con sống cuộc đời tự do, khoáng đạt như “người đồng mình”: “Sống như sông
như suối”
+ Phép so sánh gợi vẻ đẹp tâm hồn và ý chí của người đồng mình. Gian khó là thế, họ vẫn tràn đầy sinh lực, tâm
hồn lãng mạn, khoáng đạt như hình ảnh đại ngàn của sông núi. Tình cảm của họ trong trẻo, dạt dào như dòng
suối, con sông trước niềm tin yêu cuộc sống, tin yêu con người, sẵn sàng đương đầu với khó khăn, thử thách của
cuộc đời “không lo cực nhọc”, không bao giờ cam chịu cuộc sống nhỏ bé tầm thường.
- Người cha khuyên con hãy sống cuộc đời rộng lớn, tự do, khoáng đạt, không thụ động chấp nhận thực tại mà
luôn hướng tới tương lai không bao giờ cam chịu cuộc sống nhỏ bé tầm thường. Đã có biết bao nhà thơ, nghệ
sĩ viết về vấn đề này. Nhà thơ Tố Hữu đã viết về lẽ sống “cho - nhận” ở đời (“Sông là cho đâu chi nhận riêng
mình”); nhạc sĩ Trịnh Công Sơn qua ca từ đã đề cập đến lẽ sống yêu thương (“Sống trong đời sống cần có một
tấm lòng”). Đó đều là những lẽ sống cao thượng, đẹp đẽ. Và Y Phương cũng mong con mình sống như thế.
* Trong niềm tự hào của người cha, người đồng mình còn là những con người có tự trọng, có ý thức tự lập,
tự cường và tự tôn dân tộc
- Phẩm chất đó được người cha ca ngợi qua cách nói đổi lập tương phản giữa hình thức bên ngoài và giá trị tinh
thần bên trong, nhưng rất đúng với người miền núi:
“Người đồng minh thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con”
+ Lời thợ mộc mạc, giản dị nhưng chứa bao tâm tình.
+ Cụm từ “thô sơ da thịt" là cách nói bằng hình ảnh cụ thể của bà con dân tộc Tày, ngợi ca những con
người mộc mạc, giản dị, chất phác, thật thà, chịu thương, chịu khó.
+ Nhưng dù vậy họ “chẳng nhỏ bé” mà lại là những con người lớn lao về ý chí, về nghị lực, cốt cách và niềm
tin.
+ Sự tương phản này đã tôn lên tầm vóc của người đồng mình. Họ mộc mạc nhưng giàu chí khí, niềm tin. Họ có
thể “thô sơ da thịt” nhưng không hề nhỏ bé về tâm hồn, về ý chí
- Đặc biệt, người đồng mình luôn có ước mơ xây dựng quê hương với những truyền thống, phong tục tốt đẹp:
“Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục”
Lối nói của Y Phương đậm ngôn ngữ dân tộc – độc đáo mà vẫn chứa đựng ý vị sâu xa:
+ Hình ảnh “Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương” vừa mang tính tả thực chỉ truyền thống làm nhà kê
đá cho cao của người miền núi, vừa mang ý nghĩa ẩn dụ sâu sắc. Người đồng mình bằng chính bàn tay và khối
óc, bằng sức lao động đã xây dựng và làm đẹp giàu cho quê hương, xây dựng để nâng tầm quê hương.
+ Còn quê hương là điểm tựa tinh thần với phong tục tập quán nâng đỡ những con người có chí khí và niềm tin.
=> Câu thơ đã khái quát về tinh thần tự tôn dân tộc, về ý thức bảo vệ nguồn cội, bảo tồn những truyền thống tốt
đẹp của người đồng mình.
Tinh thần ấy ta đa thấy ở hình ảnh Sơn Tinh (thời Hùng Vương thứ 18) bốc từng quả đồi…, là hình ảnh anh hùng
Núp và dân tộc Ba Na anh em đã quyết tâm không khuất phục giặc Pháp bảo vệ cho vùng đất Chư-Lây thân yêu,
làm nên chiến tích lịch sử, cách mạng hào hùng cho quê hương, đất nước….
Trong mạch cảm hứng ca ngợi về vẻ đẹp của người miền núi trong bài thơ “Tiếng hát con tàu” của Chế Lan Viên
cũng có những vần thơ như thế:
Con nhớ anh con, người anh du kích
Chiếc áo nâu anh mặc đêm công đồn
Chiếc áo nâu suốt một đời vá rách
Đêm cuối cùng anh cởi lại cho con
Dù trong chiến tranh hay hòa bình họ vẫn thật đẹp. Đó là vẻ đẹp của chân chất, hồn hậu. Đó là vẻ đẹp của sự rắn
rỏi, khỏe mạnh để đương đầu với sóng gió nơi núi rừng. Đó là vẻ đẹp của con người miền núi tự làm nên phong
tục, truyền thống của quê hương và gìn giữ qua bao thế hệ.
Luận điểm 2. Đoạn thơ khép lại bằng âm hưởng của một lời nhắn nhủ trìu mến với biết bao niềm tin hi
vọng của người cha đặt vào đứa con yêu:
“ Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con!”
- Ý thơ “Tuy thô sơ da thịt” và “Không bao giờ nhỏ bé” được lặp lại với bốn câu thơ trước đó càng trở nên da
diết, khắc sâu trong lòng con về những phẩm chất cao đẹp của “người đồng mình”. Nhưng hai tiếng “Lên đường”
cho thấy người con đã lớn khôn và tạm biệt gia đình - quê hương để bước vào một trang đời mới.
- Trong hành trang của người con mang theo khi “lên đường”có một thứ quí giá hơn mọi thứ trên đời, đó là ý
chí, nghị lực, truyền thống quê hương. Lời dặn của cha thật mộc mạc, dễ hiểu, thấm thía, ẩn chứa niềm hi vọng
lớn lao của cha, hi vọng đứa con sẽ tiếp tục vững bước trên đường đời, tiếp nối truyền thống và làm vẻ vang quê
hương.
- Tiếng gọi “con ơi” và lời dặn dò “nghe con” thật thân thương, trìu mến nhưng chất chứa bao nhiêu kì vọng của
cha dành cho con.
=> Người cha muốn con hiểu và cảm thông với cuộc sống khó khăn của quê hương, tự hào về truyền thống quê
hương, tự hào về dân tộc để vững bước trên con đường đời, để tự tin trong cuộc sống.
Tình cảm tha thiết, chân thành, niềm mong muốn con mạnh mẽ, trưởng thành trên con đường chinh phục ước mơ
cũng được Nguyễn Đăng Tấn gửi gắm trong bài “Không có gì tự đến đâu con”:
Đường Con đi dài rộng biết bao nhiêu..
Năm tháng nụ xanh giữ cây vươn thẳng,
Trời cao đó nhưng chẳng bao giờ lặng,
Chỉ có Con mới nâng nổi chính mình..
3. Đánh giá: mBằng giọng thơ vừa thiết tha, trìu mến vừa trang nghiêm và các hình ảnh thơ cụ thể, chọn lọc,
đoạn thơ đã giúp người đọc cảm nhận được trọn vẹn những phẩm chất đẹp đẽ của người đồng mình. Đó là
những con người giàu ý chí nghị lực và niềm tin, luôn thủy chung tình nghĩa, phóng khoáng lãng mạn … Và
đằng sau những vần thơ ấy, ta nhận ra tình yêu, niềm tự hào và sự gắn bó sâu nặng của nhà thơ với quê hương
mình. Đồng thời cũng dặn con không được quên que hương, phải sống xứng đáng với truyền thống quê hương,
dân tộc.
* Liên hệ Mở rộng: Cùng là dặn con không được quên quê hương dù có khôn lớn tới đâu đi chăng nữa, bởi quê
hương chỉ có một, nếu quên quê hương, quên nguồn cội thì sẽ không nên người, Xuân Quỳnh viết:
"Mỗi người có một quê
Ngày dại thơ để ở
Tuổi thiếu niên để yêu
Và lớn lên để nhớ…"
* Liên hệ Mở rộng: Cùng là dặn con không được quên quê hương dù có khôn lớn tới đâu đi chăng nữa, bởi
nếu quên quê hương, quên nguồn cội thì sẽ không nên người, Đỗ Trung Quân viết:
“Quê hương nếu ai không nhớ
Sẽ không lớn nổi thành người”.

You might also like