BÀI THƠ VỀ TIỂU ĐỘI XE KHÔNG KÍNH

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 8

BÀI THƠ VỀ TIỂU ĐỘI XE KHÔNG KÍNH

- Phạm Tiến Duật -


Đề 1: Phân tích, cảm nhận của em về khổ 1,2

1. Mở bài:
“Hồn Nước gọi, Tiếng bom Sa Diện
Trái tim Hồng Thái nổ vang trời
Máu thơm tưới mầm non xuân đến
Vui lại rồi, Tổ quốc ta ơi!”
(Theo chân Bác- Tố Hữu)
Câu thơ vang lên khí phách của những con người đất Việt. Hòa vào dòng máu Lạc Hồng của dân tộc, mỗi con người
của cha Lạc Long Quân đã hóa thân cho “dáng hình xứ sở” để làm nên đất nước muôn đời. Và thế hệ trẻ trong
những năm tháng chống Mỹ oai hùng cũng đã góp một tiếng nói riêng để hòa vào cảm hứng chung của dân tộc.
Phạm Tiến Duật – một thi sĩ của núi rừng Trường Sơn huyền thoại, ông đã mang niềm vui hăm hở của tuổi trẻ ra
khắp các nẻo đường chiến đấu. Nhà thơ đã tạo cho mình một giọng điệu thơ rất lính: khỏe khoắn, tự nhiên, tràn trề
sức sống, rất tinh nghịch tươi vui mà giàu suy tưởng. “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là tác phẩm tiêu biểu nhất
của giọng thơ, hồn thơ ấy. Với những vần thơ độc đáo, tác giả đã khắc họa thành công bức chân dung những người
chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn. Hai khổ đầu bài thơ, nhà thơ Phạm Tiến Duật đã khắc họa thật ấn
tượng tư thế ung dung, hiên ngang của người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn đầy khói lửa.

2. Thân bài
a.Tác giả:
- Phạm Tiến Duật sinh năm 1941, quê ở huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ.
- Ông được mênh danh là “con chim lửa của rừng già”, “cây săng lẻ của Trường Sơn huyền thoại:, “ nhà thơ lớn
thời chống Mỹ”.
- Với quan niệm “chủ yếu tìm cái đẹp từ trong những diễn biến sôi động của cuộc sống”, Phạm Tiến Duật đưa tất cả
những chất liệu hiện thực của đời sống chiến trường vào trong thơ. Cách tiếp cận hiện thực ấy đã đem lại cho thơ
Phạm Tiến Duật một giọng điệu sôi nổi, trẻ trung, hồn nhiên, hóm hỉnh, tinh nghịch mà sâu sắc.
- Thơ Phạm Tiến Duật tập trung thể hiện hình ảnh thế hệ trẻ qua các hình tượng người lính và cô gái thanh niên
xung phong trên tuyến đường Trường Sơn.
b. Khái quát hoàn cảnh ra đời, nội dung và nghệ thuật của bài thơ
“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật được sáng tác năm 1969 trong thời kì cuộc kháng
chiến chống Mĩ đang diễn ra rất gay go, ác liệt. Từ khắp các giảng đường đại học, hàng ngàn sinh viên đã gác bút
nghiên để lên đường đánh giặc, và điểm nóng lúc đó là tuyến đường Trường Sơn - con đường huyết mạch nối liền
hậu phương với tiền tuyến. Phạm Tiến Duật đã ghi lại những hình ảnh tiêu biểu của nơi khói lửa Trường Sơn. Có
thể nói, hiện thực đã đi thẳng vào trang thơ của tác giả và mang nguyên vẹn hơi thở của cuộc chiến. Ra đời trong
hoàn cảnh ấy, bài thơ đã thực sự trở thành hồi kèn xung trận, trở thành tiếng hát quyết thắng của tuổi trẻ Việt Nam
thời kì chống Mĩ. Cảm hứng từ những chiếc xe không kính đã làm nền để nhà thơ chiến sĩ khắc họa thành công chân
dung người chiến sĩ lái xe: ung dung tự tại, lạc quan sôi nổi, bất chấp mọi khó khăn gian khổ , tình đồng chí đồng
đội gắn bó, tình yêu đất nước thiết tha…
-Vị trí đoạn thơ: Bài thơ có 7 khổ, hai khổ trên thuộc phần đầu của bài thơ
- Hai khổ thơ cho thấy hình ảnh những chiếc xe không kính và người lính lái xe: ung dung, hiên ngang, dũng cảm.
Mỗi khổ thơ hiện lên một vẻ đẹp của người chiến sĩ, càng đọc ta càng thấy trân trọng, cảm phục phẩm chất của
người chiến sĩ lái xe.
* Luận điểm 1. Trong thơ, Phạm Tiến Duật đã thật sáng tao khi xây dựng hình ảnh những chiếc xe không
kính:
Trên con đường rừng Trường Sơn huyết mạch và nổi tiếng với tên gọi “đường mòn Hồ Chí Minh”, những chiếc xe
thuộc đơn vị vận tải vẫn lao nhanh ra chiến trường tiếp viện. Những chiếc xe và chiến sĩ lái xe trở thành quen thuộc,
đáng yêu. Nhà thơ viết về họ với phong cách tự nhiên thật độc đáo.

-Mở đâu bài thơ, tác giả đã giúp người đọc hình dung được hình ảnh những chiếc xe không kính trên tuyển lửa
Trường Sơn thông qua hai câu thơ giàu chất hiện thực:
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung, kính vỡ đi rồi
– Xưa nay, những hình ảnh xe cộ, tàu thuyền đưa vào thơ thì đều được “mĩ lệ hóa”, “lãng mạn hóa” và thường
mang ý nghĩa tượng trưng hơn là tả thực. Người đọc đã bắt gặp chiếc xe tam mã trong thơ Pus-kin, con tàu trong
“Tiếng hát con tàu” của Chế Lan Viên, chiếc buồm vôi trong bài “Quê hương” của Tế Hanh:
“Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã
Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang”
Hay đoàn thuyền đánh cá trong bài thơ cùng tên của Huy Cận.
“Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng”
- Ở bài thơ này, hình ảnh những chiếc xe không kính được miêu tả cụ thể, chi tiết rất thực – thực đến trần trụi.
Xe không kính là một hình ảnh quen thuộc, thường thấy ở tuyến lửa Trường Sơn trong những năm tháng kháng
chiến chống Mĩ. Nhưng trong thơ ca thì có lẽ đây là lần đầu hình ảnh ấy xuất hiện. Ở hai câu thơ này, hình ảnh
những chiếc xe không kính được miêu tả rất thực. Lời thơ tự nhiên đến mức buộc người ta phải tin ngay vào sự
phân bua của các chàng trai lái xe dũng cảm. Chất thơ của câu thơ này hiện ra chính trong vẻ tự nhiên đến mức khó
ngờ của ngôn từ. Bằng biện pháp tu từ điệp ngữ với các từ phủ định “không” được lặp lại nhiều lần, Phạm Tiến
Duật như muốn nói rằng xe không kính không phải do cấu tạo ban đầu của nó. Vậy thì do đâu? Câu thơ thứ 2 đã
giải thích cho điều này. Với các động từ mạnh “giật, rung” lời thơ đã cho ta nhận ra rằng chính bom đạn của chiến
tranh đã tàn phá khiến cho những chiếc xe vận tải vốn nguyên vẹn, lành lặn giờ đây trở thành không kính.
Hình ảnh những chiếc xe không kính vốn chẳng hiếm trong chiến tranh, song phải có một hồn thơ nhạy cảm, có
nét tinh nghịch, ngang tàn như Phạm Tiến Duật mới phát hiện ra được, đưa nó vào thơ và trở thành biểu tượng độc
đáo của thơ ca thời chống Mĩ. Và từ hình ảnh ấy, tác giả đã tạo ấn tượng cho người đọc một cách cụ thể và sâu sắc
về hiện thực chiến tranh khốc liệt, dữ dội, về cuộc chiến đấu gian khổ mà người lính phải trải qua.
Luận điểm 2. Qua hình ảnh những chiếc xe không kính, nhà thơ đã làm nổi rõ vẻ đẹp của những chiến sĩ lái
xe ở Trường Sơn. Đó là tư thế hiên ngang, ung dung, đường hoàng, tự tin, và tâm hồn lãng mạn:
Song, chính trong cái ác liệt của cuộc chiến, chính từ những cái “không” đó thì tư thế ung dung, hiên ngang
của những người lính lại được thể hiện rõ nét:
“Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời,nhìn thẳng”.
Tư thế của những người lính lái xe mới ung dung và đường hoàng làm sao! Đặt từ “ung dung” lên đầu câu, dường
như nhà thơ muốn nhấn mạnh vào tư thế chủ động trước hoàn cảnh. Mặc dù gian khổ, thiếu thốn, những người lính
vẫn lên xe với tư thế" ung dung" đường hoàng, hiên ngang đầy bản lĩnh. Con mắt “nhìn đất”, “nhìn trời”,”nhìn
thẳng” mang vẻ đẹp trang nghiêm, bất khuất như một lời thề. Điệp ngữ “nhìn” đã nhấn mạnh, khắc sâu vẻ đẹp từ
cách quan sát của người chiến sĩ . Cái nhìn của các anh là cái nhìn bao quát, rộng mở “nhìn đất”, “nhìn trời”, vừa
trực diện, vừa tập trung cao độ “nhìn thẳng”.
- Anh “nhìn đất” để thêm gắn bó yêu thương con đường Trường Sơn hào hùng, thân thuộc, để dẫn đưa chiếc xe đi
an toàn, mau đến đích. Anh “nhìn trời” để tâm hồn thêm lạc quan, bay bổng, thêm tin tưởng vào tương lai.
- Anh “nhìn thẳng” là nhìn về phía trước, nhìn vào con đường trước mặt cần vượt qua, nhìn vào nhiệm vụ đầy gian
khổ, thử thách của mình để thêm cương quyết, tích cực mà sẵn sàng đối phó, đương đầu với bao hiểm nguy, gian
khổ. Bởi thế, mặc cho bom đạn gào thét, anh vẫn cứ tiến lên. Anh chiến sĩ lái xe thật dũng cảm, hào hùng biết bao!
Không có kính chắn gió, người lính lái xe đã bình tĩnh, tự tin để mà:
“ Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái”.
- Điệp ngữ “nhìn thấy”, nghệ thuật nhân hóa “ gió xoa mắt đắng”, từ láy “ đột ngột” và nghệ thuật so sánh, liệt kê đã
diễn tả sự cảm nhận thế giới bên ngoài một cách chân thực, sinh động của người lính do những chiếc xe không kính
đem lại. Không có kính chắn gió nên các yếu tố về thiên nhiên, chướng ngại vật rơi, rụng, quăng, ném, va, đập…
vào trong buồng lái.
- Song, quan trọng hơn là các anh có được cảm giác như bay lên, hòa mình với thiên nhiên, được tự do giao cảm,
chiêm ngưỡng thế giới bên ngoài. Nhịp thơ khoan thai, cùng cách điệp lại từ “nhìn” với các hình ảnh cụ thể như
“gió” - “con đường”, “sao trời”, “cánh chim”... đã diễn tả một cách chân thực và sinh động cảm giác, ấn tượng
của người lính lái xe không kính trên đường ra trận. Lúc này, mọi khó khăn, nguy hiểm đã lùi lại, nhường chỗ để
các anh đón nhận những âm thanh trong trẻo, ùa vào khoảng lặng của cuộc chiến ác liệt. Cuộc sống đẹp biết bao!
Tâm hồn lãng mạn đã thăng hoa trong bộn bề gian truân, mất mát. Sao trời vẫn sáng đường chiến dịch; cánh chim
bền bỉ, đột ngột mà không cô đơn.
Từ “đột ngột” được dùng rất “đắt” trong câu đảo thành phần này đã diễn tả động thái đẹp của thiên nhiên, của
cánh chim trời. Cánh chim được nghệ thuật hóa, để rồi được nhân hóa qua hai từ “sa”, “ùa” hết sức tự nhiên, không
vướng bận. Tất cả cho thấy vẻ đẹp tâm hồn của người lính lái xe Trường Sơn. Đúng là“ Đường ra trận mùa này đẹp
lắm! Trường Sơn Đông nhớ Trường Sơn Tây”. Có thể nói,người lính đã chiến thắng bom đạn của kẻ thù bằng cái
nhìn bình thản.
Hình ảnh ẩn dụ “Con đường chạy thẳng vào tim” mà họ nhìn thấy không chỉ là con đường chiến lược Trường
Sơn xe đang đi mà đó còn là con đường cách mạng,con đường giải phóng miền Nam, con đường mà thế hệ trẻ Việt
Nam đã mang cả tuổi thanh xuân, máu xương của mình để giữ gìn, bảo vệ;đẹp mà hiên ngang, gian khổ mà lạc
quan, chất lãng mạn hòa quyện trong yếu tố hiện thực.
-> Như vậy, với hai khổ thơ mở đầu bài thơ, tác giả đã xây dựng thành công hình tượng những người lính với tư thế
ung dung, tràn đầy bản lĩnh trước những khó khăn, gian khổ, hiểm nguy của cuộc chiến trên cái nền khung cảnh ác
liệt của cuộc chiến tranh. Đó cũng chính là thái độ chung của người chiến sĩ Giải phóng quân thời chống Mĩ. Như
một nhà thơ đã từng viết:
Cuộc đời vẫn đẹp sao
Tình yêu vẫn đẹp sao
Dù đạn bom man rợ thét gào
Dù thân thể mang đầy thương tích.
* Đánh giá: NT+ ND+ nhận định về tác giả
Như vậy, bằng các biện pháp tu từ điệp ngữ, so sánh và các từ ngữ, hình ảnh chọn lọc, hai khổ thơ đầu của bài
thơ đã giúp người đọc cảm nhận được trọn vẹn sự khốc liệt của chiến tranh thông qua hình ảnh những chiếc xe
không kính và tư thế ung dung, hiên ngang, bản lĩnh vững vàng của người lính lái xe trên tuyến lửa Trường Sơn.
Lời thơ cho ta nhận ra ở nhà thơ PTD là niềm cảm phục, sự trân trọng , yêu mến dành cho những người lính bộ đội
cụ Hồ. Tình cảm ấy thật đáng trân trọng.
3. Kết bài
Ra đời gần ba mươi năm, bài thơ vẫn có sức truyền cảm mạnh mẽ đối người chúng ta ngày hôm nay. Cảm ơn nhà
thơ đã giúp tất cả chúng ta cảm nhận sâu sắc về hình ảnh người lính lái xe một thời gian khổ mà hào hùng, đội quân
mình vì quê hương, đất nước. Chúng ta là thế hệ mai sau sẽ sống tiếp nối với truyền thống hào hùng của ông cha
xưa kia và để hoàn thành nhiệm vụ hôm nay. Chúng ta hãy tự do về họ, những người chiến sĩ Trường Sơn: “Ôi đất
anh hùng dễ mấy mươi:

“Chìm trong khói lửa vẫn xanh tươi


Mưa bom, bão đạn lòng thanh thản
Nhạt muối, vơi cơm miệng vẫn cười”
*PHÂN TÍCH KHỔ 3, 4 CỦA BÀI THƠ
* Mở bài
“Hồn Nước gọi, Tiếng bom Sa Diện
Trái tim Hồng Thái nổ vang trời
Máu thơm tưới mầm non xuân đến
Vui lại rồi, Tổ quốc ta ơi!”
(Theo chân Bác- Tố Hữu)
Câu thơ vang lên khí phách của những con người đất Việt. Hòa vào dòng máu Lạc Hồng của dân tộc, mỗi con người
của cha Lạc Long Quân đã hóa thân cho “dáng hình xứ sở” để làm nên đất nước muôn đời. Và thế hệ trẻ trong
những năm tháng chống Mỹ oai hùng cũng đã góp một tiếng nói riêng để hòa vào cảm hứng chung của dân tộc.
Phạm Tiến Duật – một thi sĩ của núi rừng Trường Sơn huyền thoại, ông đã mang niềm vui hăm hở của tuổi trẻ ra
khắp các nẻo đường chiến đấu. Nhà thơ đã tạo cho mình một giọng điệu thơ rất lính: khỏe khoắn, tự nhiên, tràn trề
sức sống, rất tinh nghịch tươi vui mà giàu suy tưởng. “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là tác phẩm tiêu biểu nhất
của giọng thơ, hồn thơ ấy. Với những vần thơ độc đáo, tác giả đã khắc họa thành công bức chân dung những người
chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn. Ở khổ thơ thứ ba và thứ tư, nhà thơ đã làm nổi bật tinh thần lạc quan,
yêu đời của người chiến sĩ.
1.Khái quát.
* Giới thiệu
a.Tác giả:
- Phạm Tiến Duật sinh năm 1941, quê ở huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ.
- Ông được mênh danh là “con chim lửa của rừng già”, “cây săng lẻ của Trường Sơn huyền thoại:, “ nhà thơ lớn
thời chống Mỹ”.
- Với quan niệm “chủ yếu tìm cái đẹp từ trong những diễn biến sôi động của cuộc sống”, Phạm Tiến Duật đưa tất cả
những chất liệu hiện thực của đời sống chiến trường vào trong thơ. Cách tiếp cận hiện thực ấy đã đem lại cho thơ
Phạm Tiến Duật một giọng điệu sôi nổi, trẻ trung, hồn nhiên, hóm hỉnh, tinh nghịch mà sâu sắc.
- Thơ Phạm Tiến Duật tập trung thể hiện hình ảnh thế hệ trẻ qua các hình tượng người lính và cô gái thanh niên
xung phong trên tuyến đường Trường Sơn.
b. Khái quát hoàn cảnh ra đời, nội dung và nghệ thuật của bài thơ
“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật được sáng tác năm 1969 trong thời kì cuộc kháng
chiến chống Mĩ đang diễn ra rất gay go, ác liệt. Từ khắp các giảng đường đại học, hàng ngàn sinh viên đã gác bút
nghiên để lên đường đánh giặc, và điểm nóng lúc đó là tuyến đường Trường Sơn - con đường huyết mạch nối liền
hậu phương với tiền tuyến. Phạm Tiến Duật đã ghi lại những hình ảnh tiêu biểu của nơi khói lửa Trường Sơn. Có
thể nói, hiện thực đã đi thẳng vào trang thơ của tác giả và mang nguyên vẹn hơi thở của cuộc chiến. Ra đời trong
hoàn cảnh ấy, bài thơ đã thực sự trở thành hồi kèn xung trận, trở thành tiếng hát quyết thắng của tuổi trẻ Việt Nam
thời kì chống Mĩ. Cảm hứng từ những chiếc xe không kính đã làm nền để nhà thơ chiến sĩ khắc họa thành công chân
dung người chiến sĩ lái xe: ung dung tự tại, lạc quan sôi nổi, bất chấp mọi khó khăn gian khổ , tình đồng chí đồng
đội gắn bó, tình yêu đất nước thiết tha…
*Nhắc lại nội dung của 2 khổ đầu
- Bằng các biện pháp tu từ điệp ngữ, so sánh và các từ ngữ, hình ảnh chọn lọc, hai khổ thơ đầu của bài thơ đã giúp
người đọc cảm nhận được trọn vẹn sự khốc liệt của chiến tranh thông qua hình ảnh những chiếc xe không kính và tư
thế ung dung, hiên ngang, bản lĩnh vững vàng của người lính lái xe trên tuyến đường TS lịch sử. Và vẻ đẹp của họ
tiếp tục được PTD ca ngợi ở 2 khổ thơ tiếp.
- Ở khổ thơ thứ ba và thứ tư, nhà thơ đã làm nổi bật tinh thần lạc quan, yêu đời của người chiến sĩ.
2. Phân tích
LĐ1. Trên con đường ra trận, người chiến sĩ lái xe phải đối mặt với bao nhiêu khó khăn, gian khổ, hiểm nguy
song họ bất chấp mọi khó khăn, gian khổ để vượt lên tất cả. Điều ấy được thể hiện qua hai câu đầu của mỗi
khổ:
“Không có kính, ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già…”
“Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời…”
-Câu thơ đậm chất văn xuôi, mộc mạc như lời nói thường ngày. Nếu như hai khổ trên là những cảm giác về những
khó khăn thử thách thì đến đây, thử thách, khó khăn ập tới cụ thể, trực tiếp.
+ Cuộc sống nơi chiến trường, người lính không chỉ đối diện với bom đạn của kẻ thù mà còn phải đối diện với
những tac sđộng của ngoại cảnh như gió, mưa, bụi, cây cối va đập… điều này ảnh hưởng rất lớn tới tay lái của họ
-Bằng biện pháp tu từ điệp ngữ với cấu trúc “không có kính ừ thì... Chưa cần ...” được lặp lại ở hai khổ thơ, nhà thơ
đã đem đến cho đoạn thơ giọng điệu ngang tàn, giàu thách thức. Cấu trúc lặp: “không có…, ừ thì…” đi liền với kết
cấu phủ định “chưa có…” ở hai khổ thơ đã thể hiện thái độ bất chấp khó khăn, coi thường gian khổ của những chiến
sĩ lái xe Trường Sơn.
-Hình ảnh so sánh: “Bụi phun tóc trắng như người già” và “Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời” nhấn mạnh sự khắc
nghiệt của thiên nhiên và chiến trường, đồng thời cho thấy sự ngang tàn, phơi phới lạc quan, dũng mãnh tiến về phía
trước của người lính Trường Sơn. Kết hợp với những câu thơ tả thực, khẩu ngữ “ừ thì” thể hiện sự bất chấp gian
khổ, coi thường hiểm nguy, thử thách. Hẳn đó là nhờ chất lính, dẫu mưa có tuôn, có xối, dẫu bụi có phun bạc trắng
mái đầu thì người lính vẫn “chưa cần thay”, “chưa cần rửa” để lái trăm cây số nữa. Thật là biết đùa cùng gian
khó! Giọng thơ đã thể hiện trọn vẹn thái độ bất chấp khó khăn, coi thường hiểm nguy của người lính lái xe.
LĐ2. Trước muôn vàn những khó khăn, gian khổ như thế nhưng những người lính lái xe vẫn luôn lạc quan,
sôi nổi, trẻ trung:
“Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.”
“Chưa cần thay lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng gió lùa khô mau thôi.”
- Tác giả đưa vào lời thơ ngôn từ tự nhiên, đậm chất khẩu ngữ, tạo nên giọng thơ vừa dí dỏm, vừa ngang tàng đã
diễn tả thái độ đón nhận mọi thử thách của người lính lái xe như một lẽ thường.
- Nếu từ ngữ “ừ thì” thể hiện sự chấp nhận, chịu đựng những cơn mưa,cơn bụi thì thái độ “chưa cần rửa, chưa cần
thay” lại là sự thách thức,ý chí kiên cường, hiên ngang, thái độ bất chấp, xem thường mọi hiểm nguy,gian khổ. Gian
khổ này dường như không tác động, làm lay chuyển, ý chí, quyết tâm anh. Người chiến sĩ xem đó là dịp để rèn
luyện ý chí, sức mạnh của mình.
- Giữa không gian nồng nặc thuốc súng, đạn bom, lửa khói là tiếng “cười ha ha”. Tiếng cười hồn nhiên trong trẻo
biết bao. Tiếng cười vút lên như thách thức kẻ thù. Tiếng cười lạc quan, sảng khoái của người lính làm tan biến
những âu lo, mệt mỏi trên tuyến đường vốn nhiều lửa nhiều bom. Tiếng cười ấy còn đọng lại trong ta một tâm hồn
trẻ trung, lãng mạn của những người lính trẻ. Với họ,những gian khổ khi lái xe không kính ra trận chẳng hề hấn gì.
Tất cả thể hiện sự bất chấp cuộc sống đầy gian khó bằng niềm vui sôi nổi, trẻ trung và bằng tinh thần lạc quan của
người lính lái xe những năm tháng chống Mỹ cứu nước.
( Bài thơ cũng xuất hiện hình ảnh nụ cười đó là bài ” Đồng chí ” của Chính Hữu .Câu thơ ” miệng cười buốt giá “
Thể hiện sự khó khăn thiếu thốn của những người lính chống Pháp giữa nơi rừng Việt Bắc trong đêm tối sương
muối
So sánh : đó đều là nụ cười nở trên môi người lính . Nhưng mỗi người lính ở mỗi thời kì có nét khác nhau .
Người lính của Chính Hữu là thời chống Pháp với nhiều khó khăn thiếu thốn còn người lính trong thơ của PTD là
thời chống Mĩ có những chuyển biến vui tươi lạc quan yêu đời hơn và có cái nét ngang tàng , nụ cười đã thể hiện
rất rõ điều đó. Một phần xuất phát từ phong cách của hai nhà thơ : CH chuyên viết thơ giàu cảm xúc, ngôn ngữ
hình ảnh thơ chắc lọc còn PTD lại nghiêng về cái ngang tàng tinh nghịch của tuổi trẻ nhưng cũng rất sâu sắc
- Cài tài của Phạm Tiến Duật trong đoạn thơ này là cứ hai câu đầu nói về hiện thực nghiệt ngã phải chấp nhận thì
hai câu sau nói lên tinh thần vượt lên để chiến thắng hoàn cảnh của người lính lái xe trong chiến tranh ác liệt.
*Đánh giá
-Giọng điệu bài thơ vừa ngang tàng lại vừa rất vui tươi, sôi nổi thể hiện thái độ quyết tâm trong nhiệm vụ, thách
thức trước gian khổ. Lời thơ có chỗ nhẹ nhàng, cân đối như chiếc xe vẫn đang tiến tới, có chỗ gợi cảm, trong sáng
như văng vẳng tiếng cười, tiếng hát. Tất cả dã khắc họa hình ảnh người chiến sĩ giải phóng quân thời chống Mĩ
dũng cảm, kiên cường, bất khuất mà cũng rất lãng mạn, trẻ trung, bình dị.
-Việc kết hợp linh hoạt thể thơ 7 chữ và 8 chữ, tạo cho đoạn thơ có điệu thơ gần với lời nói tự nhiên, sinh động.
Những yếu tố về ngôn ngữ và giọng điệu bài thơ đã góp phần trong việc khắc họa hình ảnh người chiến sĩ lái xe trên
tuyến đường Trường Sơn một cách chân thực và sinh động. Đoạn thơ không chỉ nói về tiểu đội xe không kính, nó
còn phản ánh cả khí thế quyết tâm giải phóng miền Nam của toàn quân và toàn dân ta, khẳng định rằng ý chí của
con người mạnh hơn cả sắt thép.
*Kết bài
Vui biết bao nhiêu khi lịch sử đã chọn “những chàng Thạch Sanh của thế kỉ hai mươi” làm điểm tựa, để ngọn lửa
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta trở thành một bản anh hùng ca bất diệt. Trong những năm
tháng sục sôi khí thế “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước/ Mà lòng phơi phới dậy tương lai” ấy, những người lính đi
vào cuộc chiến đấu với tất cả tính chất chủ động, tự tin của những con người có lí tưởng cao đẹp, có sức mạnh và
tiềm lực nên họ rất thanh thản, vui tươi. Bài thơ không chỉ phản ánh được sự khốc liệt, gian khổ của chiến tranh qua
hình ảnh những chiếc xe không kính mà còn là lời khẳng định, ngợi ca vẻ đẹp phẩm chất của người lính lái xe trên
tuyến đường huyền thoại. Dù lớp bụi thời gian có phủ đầy những trang sách và những đổi mới của cuộc sống làm
biến chuyển đi tất cả, nhưng hình ảnh những người lính cụ Hồ, những chiến sĩ Trường Sơn vẫn sống mãi trong lòng
mọi người với tấm lòng trân trọng trọng, biết ơn.
PHÂN TÍCH KHỔ 5,6,7
* Mở bài
“Hồn Nước gọi, Tiếng bom Sa Diện
Trái tim Hồng Thái nổ vang trời
Máu thơm tưới mầm non xuân đến
Vui lại rồi, Tổ quốc ta ơi!”
(Theo chân Bác- Tố Hữu)
Câu thơ vang lên khí phách của những con người đất Việt. Hòa vào dòng máu Lạc Hồng của dân tộc, mỗi con người
của cha Lạc Long Quân đã hóa thân cho “dáng hình xứ sở” để làm nên đất nước muôn đời. Và thế hệ trẻ trong
những năm tháng chống Mỹ oai hùng cũng đã góp một tiếng nói riêng để hòa vào cảm hứng chung của dân tộc.
Phạm Tiến Duật – một thi sĩ của núi rừng Trường Sơn huyền thoại, ông đã mang niềm vui hăm hở của tuổi trẻ ra
khắp các nẻo đường chiến đấu. Nhà thơ đã tạo cho mình một giọng điệu thơ rất lính: khỏe khoắn, tự nhiên, tràn trề
sức sống, rất tinh nghịch tươi vui mà giàu suy tưởng. “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là tác phẩm tiêu biểu nhất
của giọng thơ, hồn thơ ấy. Với những vần thơ độc đáo, tác giả đã khắc họa thành công bức chân dung những người
chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn. 3 khổ thơ cuối của bài thơ đã thể hiện tinh thần đồng chí đồng đội
thắm thiết và lòng yêu nước và ý chí chiến đấu vì miền Nam.
*Khái quát:
a.Tác giả:
- Phạm Tiến Duật sinh năm 1941, quê ở huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ.
- Ông được mênh danh là “con chim lửa của rừng già”, “cây săng lẻ của Trường Sơn huyền thoại:, “ nhà thơ lớn
thời chống Mỹ”.
- Với quan niệm “chủ yếu tìm cái đẹp từ trong những diễn biến sôi động của cuộc sống”, Phạm Tiến Duật đưa tất cả
những chất liệu hiện thực của đời sống chiến trường vào trong thơ. Cách tiếp cận hiện thực ấy đã đem lại cho thơ
Phạm Tiến Duật một giọng điệu sôi nổi, trẻ trung, hồn nhiên, hóm hỉnh, tinh nghịch mà sâu sắc.
- Thơ Phạm Tiến Duật tập trung thể hiện hình ảnh thế hệ trẻ qua các hình tượng người lính và cô gái thanh niên
xung phong trên tuyến đường Trường Sơn.
b. Khái quát hoàn cảnh ra đời, nội dung và nghệ thuật của bài thơ
- “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật được sáng tác năm 1969 trong thời kì cuộc kháng chiến
chống Mĩ đang diễn ra rất gay go, ác liệt. Từ khắp các giảng đường đại học, hàng ngàn sinh viên đã gác bút nghiên
để lên đường đánh giặc, và điểm nóng lúc đó là tuyến đường Trường Sơn - con đường huyết mạch nối liền hậu
phương với tiền tuyến. Phạm Tiến Duật đã ghi lại những hình ảnh tiêu biểu của nơi khói lửa Trường Sơn. Có thể
nói, hiện thực đã đi thẳng vào trang thơ của tác giả và mang nguyên vẹn hơi thở của cuộc chiến. Ra đời trong hoàn
cảnh ấy, bài thơ đã thực sự trở thành hồi kèn xung trận, trở thành tiếng hát quyết thắng của tuổi trẻ Việt Nam thời kì
chống Mĩ. Cảm hứng từ những chiếc xe không kính đã làm nền để nhà thơ chiến sĩ khắc họa thành công chân dung
người chiến sĩ lái xe: ung dung tự tại, lạc quan sôi nổi, bất chấp mọi khó khăn gian khổ, tình đồng chí đồng đội gắn
bó, tình yêu đất nước thiết tha…
-Ở những khổ thơ đầu vẻ đẹp của người lính hiện lên với tư thế ung dung tự tại, lạc quan sôi nổi. Ba khổ cuối thể
hiện vẻ đẹp của tình đồng chí đồng đội gắn bó, tình yêu đất nước thiết tha…
LĐ 1:. Sâu sắc hơn,bằng ống kính điện ảnh của người nghệ sĩ, nhà thơ đã ghi lại những khoảnh khắc đẹp đẽ
thể hiện tình đồng chí đồng đội của những người lính lái xe :
“Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới
Bắt tay nhau qua của kính vỡ rồi.”
- Sau những chặng đường đầy mưa bom bão đạn đầy gió bụi, mưa tuôn, người lính lái xe vẫn có giây phút bình yên.
Từ nơi cảm tử, họ tìm về nhau.
- Câu thơ “Những chiếc xe từ trong bom rơi” gợi về cuộc chiến thật ác liệt. Người chiến sĩ lái xe phải đối diện với
mưa bom, lửa đạn, với cả thần chết ở bất cứ lúc nào. Trong hoàn cảnh ác liệt ấy, điều gì khiến các anh trở về được
bình an? Nhà thơ Phạm Tiến Duật đã chỉ ra điều kì diệu ấy: “Đã về đây họp thành tiểu đội”.
+ Chữ “họp” gợi sự đoàn tụ, sự bảo toàn. Thì ra, vì không thể thiếu nhau, không thể vắng nhau, những người đồng
đội ấy đã băng qua mưa bom bão đạn để “về” trong vòng tay nhau, vòng tay của sự sống và chiến thắng. Ta thấy ở
họ sáng ngời lên một tình cảm đẹp, tình đồng đội! Tình cảm ấy tạo ra sức mạnh để chiến đấu, chiến thắng.
Khi lên xe ta chưa quen nhau
Lúc xuống xe ta đã thành bè bạn
Ta tựa lưng vào bốn năm tấn đạn
Chúng ta đi đường dài
Mấy trăm xe và mấy trăm người
Nhằm mặt trận tiến vào như cơn lốc
(Chúng ta đi đường dài – Phạm Tiến Duật)
Tình cảm của những người lính trẻ được nhà thơ diễn tả rất đúng, rất phù hợp với phong cách của họ. Sau những
chặng đường đầy gian khổ,đầy mất mát hy sinh, họ đã cùng nhau họp thành tiểu đội xe không kính. Cái bắt tay của
họ rất độc đáo - “Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi” - một cái bắt tay mang đầy ý nghĩa. Một cử chỉ thật thân thiện, cảm
động. Có biết bao nhiêu điều muốn nói trong cái bắt tay ấy. Đó là niềm vui trong họ vừa thoát khỏi chặng đường
hiểm nguy gian khó. Họ động viên nhau dù trong hoàn cảnh nào cũng vẫn quyết tâm cầm chắc vô lăng để đưa xe về
đến đích.
+ Chỉ một cái bắt tay qua cửa kính vỡ rồi cũng đủ để họ san sẻ cho nhau,truyền sức mạnh cho nhau, cảm hiểu lẫn
nhau giữa những người đồng chí, đồng đội chung một chiến hào, chưng một nhiệm vụ thiêng liêng cao cả mà Tổ
quốc và nhân dân giao phó.
+ Cái bắt tay qua ô cửa kính là sự bù đắp tinh thần cho sự thiếu thốn về vật chất.
Liên hệ : Trong những năm kháng chiến chống Pháp, nhà thơ Chính Hữu cũng đã phát hiện sức mạnh của tình cảm
đó trong bài thơ “Đồng chí”. Hình ảnh “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay” của những người nông dân mặc áo lính
xưa chính là sự thầm lặng sẻ chia cảnh ngộ và cùng chung lí tưởng sống. Đó là cái bắt tay thầm lặng nhưng đã giúp
người lính vượt lên những thiếu thốn về vật chất. Cái nắm tay đó đã đi dọc dài cuộc kháng chiến để rồi trong những
năm chống Mỹ ác liệt, những người lính trẻ bắt tay nhau qua cửa kính vỡ để tiếp thêm ý chí nghị lực niềm tin cho
đồng đội. Dù trong giai đoạn nào, hoàn cảnh nào cái nắm tay hay cái bắt tay đều ấm áp tình đồng đội.
*Nếu thơ Chính Hữu định nghĩa về tình đồng chí là sự tương đồng về cảnh ngộ về lý tưởng và khó khăn gian khổ
thì đến với thơ Phạm Tiến Duật ta lại thấy có sự phát hiện thú vị với ông tình đồng chí là tình cảm ruột thịt tình
cảm gia đình:
“Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm.”
- Bếp Hoàng Cầm là hình ảnh quen thuộc của cuộc kháng chiến chống Mỹ là tín hiệu của sự sum vầy hội ngộ
sau chặng đường dài hành quân vất vả ngọn lửa ấm áp như kết nối tấm lòng người chiến sĩ. Tất cả là một gia đình
ấm cúng em chứa tình thương
- Hơi ấm Bếp Hoàng Cầm đã được nhạc sĩ Huy Du nhắc đến trong bài Nổi Lửa Lên Em:
“Ơi Miền Nam ơi những đêm chẳng đuốc đèn
Lửa trong tim rừng rực sáng trên đường
Đôi quang gánh nặng tình yêu đất nước
Hơi bếp Hoàng Cầm ta sưởi ấm nơi nơi.”
- Phạm Tiến Duật đã đưa ra một khái niệm gia đình thật lạ thật giản đơn chung bát đũa đã trở thành gia đình của
nhau.
- Đây là cách định nghĩa rất lính, tếu táo nhưng chân tình, sâu nặng. Gắn bó với nhau trong đời thường, tình cảm
của người lính được xích lại từ những cái chung: “chung bát, chung đũa, bếp lửa, con đường”
Đó là gia đình của những con người cùng chung chí hướng, cùng chung nhiệm vụ. Rõ ràng, những người lính
thương yêu nhau như tình ruột thịt. Họ có chung bát, chung đũa, chung bếp lửa, chung mâm cơm, chung ánh sao
trời… Những tình cảm ấy chỉ có những người lính cách mạng mới được thưởng thức và nếm trải. Nó thật bình
thường nhưng cũng thật cao đẹp, thiêng liêng.
-Từ nơi chiến trường ác liệt, họ đã làm thành một gia đình, tạm nghỉ bên nhau, và quây quần trong bữa cơm hội ngộ,
để rồi:
“Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi lại đi trời xanh thêm”.
Câu thơ ngắt nhịp 2/2/3, như nhịp hành quân, như niềm lạc quan tin tưởng của người lính lái xe trên đường ra trận.
Từ “chông chênh” gợi lên tư thế của người lính, họ vừa đi vừa có người ngủ trên xe, vừa có người chạy xe để xe
được chạy liên tục. Từ “chông chênh”giàu sức gợi như tạo hình cho giấc ngủ của người lính. Điệp từ “lại đi” và
hình ảnh ẩn dụ “ lại đi trời xanh thêm” gợi tâm hồn lạc quan của người chiến sĩ. Màu xanh đó là màu của của niềm
tin và tin tưởng ở ngày chiến thắng đang đến gần, khẳng định những người lính như không ngừng tiến tới, không
ngừng ra đi vì bầu trời xanh bình yên phía trước, vì viễn cảnh rộng lớn hơn.
=> Chính tình đồng chí, đồng đội đã biến thành động lực giúp các anh vượt qua khó khăn, nguy hiểm, chiến đấu
bảo vệ Tổ quốc thân yêu.Sức mạnh của người lính thời đại Hồ Chí Minh là vẻ đẹp kết hợp truyền thống và hiện đại.
Họ là hiện thân của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, là hình tượng đẹp nhất của thế kỷ “Như Thạch Sanh của thế kỷ
hai mươi” (Tố Hữu).
Luận điểm 2. Vẫn một giọng thơ mộc mạc, gần với lời nói thường ngày như văn xuôi, nhưng nhạc điệu, hình
ảnh trong khổ thơ cuối rất đẹp, rất thơ góp phần hoàn thiện bức chân dung tuyệt vời của người lính lái xe
trên tuyến đường Trường Sơn trong những năm đánh Mĩ. Đó là ý chí chiến đầu giải phóng miền Nam thống
nhất đất nước, là tình yêu Tổ quốc thiết tha.
"Không có kinh rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim."
- Điệp ngữ “không có” lặp lại ba lần.
- Phép liệt kê “không kính”,”không đèn”, “không mui” và “thùng xe có xước” cho thấy bom đạn của giặc Mỹ đã
làm biến dạng, làm méo mó, làm trơ trụi những chiếc xe ra trận. Qua đó ta hình dung rõ hơn sự khốc liệt của chiến
tranh, khó khăn nối tiếp khó khăn, càng đi sâu vào chiến trường chiến tranh càng khốc liệt, nguy hiểm hơn. Chiếc xe
không chỉ mất đi bộ phận kính mà còn không đèn, không mui, thùng xe bị xước và rất nhiều bộ phận khác:
“Xe đâu xe lạ xe lùng
Đầu xe thì bẹp, chắn bùn lại không
Chỗ ngồi tựa như bàn chông
Thùng xe gỗ mục vô cùng thảm thương
Đêm nào cũng chạy trên đường
Kế hoạch vượt mức chẳng nhường cho ai.”
- Nhưng đối lập với những mất mát ấy, những cái “không” ấy là một thứ như thép như đồng tồn tại: ý chí của người
lính lái xe. Người lính lái xe vẫn cứ vững chắc tay lái đối diện với con đường vững vàng trên vị trí chiến đấu vì
Miền nam thân yêu.
“Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.”
+ Chữ “Vẫn chạy” sao mà gan góc, mà ý chí, mà bướng bỉnh và ngoan cường!
+Tác giả đã sử dụng nghệ thuật tương phản giữa hoàn cảnh ác liệt của cuộc kháng chiến và phẩm chất của anh lính
lái xe, ý chí kiên cường quyết tâm chiến thắng kẻ thù xâm lược.
+ “Trái tim”là hình ảnh hoán dụ mang ý nghĩa tượng trưng, đó chính là người chiến sĩ lái xe, là sức mạnh và tinh
thần quả cảm, là nhiệt huyết của tuổi trẻ, là ý chí chiến đầu giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, là tình
yêu Tổ quốc thiết tha.
+ Hình ảnh này đã khẳng định: khi trái tim cầm lái thì mọi gian khổ, hiểm nguy đều được người lính chấp nhận và
vượt qua với tư thế ung dung và niềm vui sôi nổi, lạc quan phơi phới.
+Hình ảnh này cũng khẳng định bom đạn của kẻ thù chỉ có thể phá hủy được những chiếc xe chứ không thể ngăn
cản được nhiệt huyết cứu nước của những con người:
“Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai” (Tố Hữu).
+Như vậy xe chạy không phải chỉ bằng nhiện liệu mà bằng nước mắt, mồ hôi và cả xương máu của người chiến sĩ:
xe còn là người lính còn
->Có thể coi câu thơ cuối là câu thơ hay nhất của bài thơ. Nó là nhãn tự, là con mắt thơ, bật sáng chủ đề, tỏa sáng
vẻ đẹp hình tượng người lính lái xe thời chống Mĩ. Thiếu phương tiện vật chất, nhưng những chiến sĩ vận tải Đoàn
559 vẫn hoàn thành vẻ vang nhiệm vụ, nêu cao phẩm chất con người Việt Nam. Như Tố Hữu từng viết:
Thiếu tất cả, ta rất giàu dũng khí
Sống, chẳng cúi đầu. Chết, vẫn ung dung
Giặc muốn ta nô lệ, ta lại hoá anh hùng
Sức nhân nghĩa mạnh hơn cường bạo.
d. Đánh giá
Như vậy, bằng các biện pháp tu từ điệp ngữ, so sánh và các từ ngữ, hình ảnh chọn lọc, đoạn thơ trên đã giúp
người đọc cảm nhận được trọn vẹn Vẻ đẹp tâm hồn của những người lính lái xe. Đó chính là tinh thần lạc quan, là
thái độ bất chấp khó khăn gian gian khổ và tình đồng chí đồng đội keo sơn gắn bó. Lời thơ cho ta nhận ra ở nhà thơ
PTD là niềm cảm phục, sự trân trọng , yêu mến dành cho những người lính bộ đội cụ Hồ. Tình cảm ấy thật đáng
trân trọng.
 Kết bài
Vui biết bao nhiêu khi lịch sử đã chọn “những chàng Thạch Sanh của thế kỉ hai mươi” làm điểm tựa, để ngọn lửa
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta trở thành một bản anh hùng ca bất diệt. Trong những năm
tháng sục sôi khí thế “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước/ Mà lòng phơi phới dậy tương lai” ấy, những người lính đi
vào cuộc chiến đấu với tất cả tính chất chủ động, tự tin của những con người có lí tưởng cao đẹp, có sức mạnh và
tiềm lực nên họ rất thanh thản, vui tươi. Bài thơ không chỉ phản ánh được sự khốc liệt, gian khổ của chiến tranh qua
hình ảnh những chiếc xe không kính mà còn là lời khẳng định, ngợi ca vẻ đẹp phẩm chất của người lính lái xe trên
tuyến đường huyền thoại. Dù lớp bụi thời gian có phủ đầy những trang sách và những đổi mới của cuộc sống làm
biến chuyển đi tất cả, nhưng hình ảnh những người lính cụ Hồ, những chiến sĩ Trường Sơn vẫn sống mãi trong lòng
mọi người với tấm lòng trân trọng trọng, biết ơn.

You might also like