Professional Documents
Culture Documents
8 TÁC PHẨM VĂN - Copy
8 TÁC PHẨM VĂN - Copy
1. Mở bài:
“Hồn Nước gọi, Tiếng bom Sa Diện
Trái tim Hồng Thái nổ vang trời
Máu thơm tưới mầm non xuân đến
Vui lại rồi, Tổ quốc ta ơi!”
(Theo chân Bác- Tố Hữu)
Câu thơ vang lên khí phách của những con người đất Việt. Hòa vào dòng máu Lạc Hồng của dân tộc, mỗi con người
của cha Lạc Long Quân đã hóa thân cho “dáng hình xứ sở” để làm nên đất nước muôn đời. Và thế hệ trẻ trong
những năm tháng chống Mỹ oai hùng cũng đã góp một tiếng nói riêng để hòa vào cảm hứng chung của dân tộc.
Phạm Tiến Duật – một thi sĩ của núi rừng Trường Sơn huyền thoại, ông đã mang niềm vui hăm hở của tuổi trẻ ra
khắp các nẻo đường chiến đấu. Nhà thơ đã tạo cho mình một giọng điệu thơ rất lính: khỏe khoắn, tự nhiên, tràn trề
sức sống, rất tinh nghịch tươi vui mà giàu suy tưởng. “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là tác phẩm tiêu biểu nhất
của giọng thơ, hồn thơ ấy. Với những vần thơ độc đáo, tác giả đã khắc họa thành công bức chân dung những người
chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn. Hai khổ đầu bài thơ, nhà thơ Phạm Tiến Duật đã khắc họa thật ấn
tượng tư thế ung dung, hiên ngang của người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn đầy khói lửa.
2. Thân bài
a.Tác giả:
- Phạm Tiến Duật sinh năm 1941, quê ở huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ.
- Ông được mênh danh là “con chim lửa của rừng già”, “cây săng lẻ của Trường Sơn huyền thoại:, “ nhà thơ lớn
thời chống Mỹ”.
- Với quan niệm “chủ yếu tìm cái đẹp từ trong những diễn biến sôi động của cuộc sống”, Phạm Tiến Duật đưa tất cả
những chất liệu hiện thực của đời sống chiến trường vào trong thơ. Cách tiếp cận hiện thực ấy đã đem lại cho thơ
Phạm Tiến Duật một giọng điệu sôi nổi, trẻ trung, hồn nhiên, hóm hỉnh, tinh nghịch mà sâu sắc.
- Thơ Phạm Tiến Duật tập trung thể hiện hình ảnh thế hệ trẻ qua các hình tượng người lính và cô gái thanh niên
xung phong trên tuyến đường Trường Sơn.
b. Khái quát hoàn cảnh ra đời, nội dung và nghệ thuật của bài thơ
“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật được sáng tác năm 1969 trong thời kì cuộc kháng
chiến chống Mĩ đang diễn ra rất gay go, ác liệt. Từ khắp các giảng đường đại học, hàng ngàn sinh viên đã gác bút
nghiên để lên đường đánh giặc, và điểm nóng lúc đó là tuyến đường Trường Sơn - con đường huyết mạch nối liền
hậu phương với tiền tuyến. Phạm Tiến Duật đã ghi lại những hình ảnh tiêu biểu của nơi khói lửa Trường Sơn. Có
thể nói, hiện thực đã đi thẳng vào trang thơ của tác giả và mang nguyên vẹn hơi thở của cuộc chiến. Ra đời trong
hoàn cảnh ấy, bài thơ đã thực sự trở thành hồi kèn xung trận, trở thành tiếng hát quyết thắng của tuổi trẻ Việt Nam
thời kì chống Mĩ. Cảm hứng từ những chiếc xe không kính đã làm nền để nhà thơ chiến sĩ khắc họa thành công chân
dung người chiến sĩ lái xe: ung dung tự tại, lạc quan sôi nổi, bất chấp mọi khó khăn gian khổ , tình đồng chí đồng
đội gắn bó, tình yêu đất nước thiết tha…
-Vị trí đoạn thơ: Bài thơ có 7 khổ, hai khổ trên thuộc phần đầu của bài thơ
- Hai khổ thơ cho thấy hình ảnh những chiếc xe không kính và người lính lái xe: ung dung, hiên ngang, dũng cảm.
Mỗi khổ thơ hiện lên một vẻ đẹp của người chiến sĩ, càng đọc ta càng thấy trân trọng, cảm phục phẩm chất của
người chiến sĩ lái xe.
* Luận điểm 1. Trong thơ, Phạm Tiến Duật đã thật sáng tao khi xây dựng hình ảnh những chiếc xe không
kính:
Trên con đường rừng Trường Sơn huyết mạch và nổi tiếng với tên gọi “đường mòn Hồ Chí Minh”, những chiếc xe
thuộc đơn vị vận tải vẫn lao nhanh ra chiến trường tiếp viện. Những chiếc xe và chiến sĩ lái xe trở thành quen thuộc,
đáng yêu. Nhà thơ viết về họ với phong cách tự nhiên thật độc đáo.
-Mở đâu bài thơ, tác giả đã giúp người đọc hình dung được hình ảnh những chiếc xe không kính trên tuyển lửa
Trường Sơn thông qua hai câu thơ giàu chất hiện thực:
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung, kính vỡ đi rồi
– Xưa nay, những hình ảnh xe cộ, tàu thuyền đưa vào thơ thì đều được “mĩ lệ hóa”, “lãng mạn hóa” và thường
mang ý nghĩa tượng trưng hơn là tả thực. Người đọc đã bắt gặp chiếc xe tam mã trong thơ Pus-kin, con tàu trong
“Tiếng hát con tàu” của Chế Lan Viên, chiếc buồm vôi trong bài “Quê hương” của Tế Hanh:
“Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã
Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang”
Hay đoàn thuyền đánh cá trong bài thơ cùng tên của Huy Cận.
“Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng”
- Ở bài thơ này, hình ảnh những chiếc xe không kính được miêu tả cụ thể, chi tiết rất thực – thực đến trần trụi.
Xe không kính là một hình ảnh quen thuộc, thường thấy ở tuyến lửa Trường Sơn trong những năm tháng kháng
chiến chống Mĩ. Nhưng trong thơ ca thì có lẽ đây là lần đầu hình ảnh ấy xuất hiện. Ở hai câu thơ này, hình ảnh
những chiếc xe không kính được miêu tả rất thực. Lời thơ tự nhiên đến mức buộc người ta phải tin ngay vào sự
phân bua của các chàng trai lái xe dũng cảm. Chất thơ của câu thơ này hiện ra chính trong vẻ tự nhiên đến mức khó
ngờ của ngôn từ. Bằng biện pháp tu từ điệp ngữ với các từ phủ định “không” được lặp lại nhiều lần, Phạm Tiến
Duật như muốn nói rằng xe không kính không phải do cấu tạo ban đầu của nó. Vậy thì do đâu? Câu thơ thứ 2 đã
giải thích cho điều này. Với các động từ mạnh “giật, rung” lời thơ đã cho ta nhận ra rằng chính bom đạn của chiến
tranh đã tàn phá khiến cho những chiếc xe vận tải vốn nguyên vẹn, lành lặn giờ đây trở thành không kính.
Hình ảnh những chiếc xe không kính vốn chẳng hiếm trong chiến tranh, song phải có một hồn thơ nhạy cảm, có
nét tinh nghịch, ngang tàn như Phạm Tiến Duật mới phát hiện ra được, đưa nó vào thơ và trở thành biểu tượng độc
đáo của thơ ca thời chống Mĩ. Và từ hình ảnh ấy, tác giả đã tạo ấn tượng cho người đọc một cách cụ thể và sâu sắc
về hiện thực chiến tranh khốc liệt, dữ dội, về cuộc chiến đấu gian khổ mà người lính phải trải qua.
Luận điểm 2. Qua hình ảnh những chiếc xe không kính, nhà thơ đã làm nổi rõ vẻ đẹp của những chiến sĩ lái
xe ở Trường Sơn. Đó là tư thế hiên ngang, ung dung, đường hoàng, tự tin, và tâm hồn lãng mạn:
Song, chính trong cái ác liệt của cuộc chiến, chính từ những cái “không” đó thì tư thế ung dung, hiên ngang
của những người lính lại được thể hiện rõ nét:
“Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời,nhìn thẳng”.
Tư thế của những người lính lái xe mới ung dung và đường hoàng làm sao! Đặt từ “ung dung” lên đầu câu, dường
như nhà thơ muốn nhấn mạnh vào tư thế chủ động trước hoàn cảnh. Mặc dù gian khổ, thiếu thốn, những người lính
vẫn lên xe với tư thế" ung dung" đường hoàng, hiên ngang đầy bản lĩnh. Con mắt “nhìn đất”, “nhìn trời”,”nhìn
thẳng” mang vẻ đẹp trang nghiêm, bất khuất như một lời thề. Điệp ngữ “nhìn” đã nhấn mạnh, khắc sâu vẻ đẹp từ
cách quan sát của người chiến sĩ . Cái nhìn của các anh là cái nhìn bao quát, rộng mở “nhìn đất”, “nhìn trời”, vừa
trực diện, vừa tập trung cao độ “nhìn thẳng”.
- Anh “nhìn đất” để thêm gắn bó yêu thương con đường Trường Sơn hào hùng, thân thuộc, để dẫn đưa chiếc xe đi
an toàn, mau đến đích. Anh “nhìn trời” để tâm hồn thêm lạc quan, bay bổng, thêm tin tưởng vào tương lai.
- Anh “nhìn thẳng” là nhìn về phía trước, nhìn vào con đường trước mặt cần vượt qua, nhìn vào nhiệm vụ đầy gian
khổ, thử thách của mình để thêm cương quyết, tích cực mà sẵn sàng đối phó, đương đầu với bao hiểm nguy, gian
khổ. Bởi thế, mặc cho bom đạn gào thét, anh vẫn cứ tiến lên. Anh chiến sĩ lái xe thật dũng cảm, hào hùng biết bao!
Không có kính chắn gió, người lính lái xe đã bình tĩnh, tự tin để mà:
“ Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái”.
- Điệp ngữ “nhìn thấy”, nghệ thuật nhân hóa “ gió xoa mắt đắng”, từ láy “ đột ngột” và nghệ thuật so sánh, liệt kê đã
diễn tả sự cảm nhận thế giới bên ngoài một cách chân thực, sinh động của người lính do những chiếc xe không kính
đem lại. Không có kính chắn gió nên các yếu tố về thiên nhiên, chướng ngại vật rơi, rụng, quăng, ném, va, đập…
vào trong buồng lái.
- Song, quan trọng hơn là các anh có được cảm giác như bay lên, hòa mình với thiên nhiên, được tự do giao cảm,
chiêm ngưỡng thế giới bên ngoài. Nhịp thơ khoan thai, cùng cách điệp lại từ “nhìn” với các hình ảnh cụ thể như
“gió” - “con đường”, “sao trời”, “cánh chim”... đã diễn tả một cách chân thực và sinh động cảm giác, ấn tượng
của người lính lái xe không kính trên đường ra trận. Lúc này, mọi khó khăn, nguy hiểm đã lùi lại, nhường chỗ để
các anh đón nhận những âm thanh trong trẻo, ùa vào khoảng lặng của cuộc chiến ác liệt. Cuộc sống đẹp biết bao!
Tâm hồn lãng mạn đã thăng hoa trong bộn bề gian truân, mất mát. Sao trời vẫn sáng đường chiến dịch; cánh chim
bền bỉ, đột ngột mà không cô đơn.
Từ “đột ngột” được dùng rất “đắt” trong câu đảo thành phần này đã diễn tả động thái đẹp của thiên nhiên, của
cánh chim trời. Cánh chim được nghệ thuật hóa, để rồi được nhân hóa qua hai từ “sa”, “ùa” hết sức tự nhiên, không
vướng bận. Tất cả cho thấy vẻ đẹp tâm hồn của người lính lái xe Trường Sơn. Đúng là“ Đường ra trận mùa này đẹp
lắm! Trường Sơn Đông nhớ Trường Sơn Tây”. Có thể nói,người lính đã chiến thắng bom đạn của kẻ thù bằng cái
nhìn bình thản.
Hình ảnh ẩn dụ “Con đường chạy thẳng vào tim” mà họ nhìn thấy không chỉ là con đường chiến lược Trường
Sơn xe đang đi mà đó còn là con đường cách mạng,con đường giải phóng miền Nam, con đường mà thế hệ trẻ Việt
Nam đã mang cả tuổi thanh xuân, máu xương của mình để giữ gìn, bảo vệ;đẹp mà hiên ngang, gian khổ mà lạc
quan, chất lãng mạn hòa quyện trong yếu tố hiện thực.
-> Như vậy, với hai khổ thơ mở đầu bài thơ, tác giả đã xây dựng thành công hình tượng những người lính với tư thế
ung dung, tràn đầy bản lĩnh trước những khó khăn, gian khổ, hiểm nguy của cuộc chiến trên cái nền khung cảnh ác
liệt của cuộc chiến tranh. Đó cũng chính là thái độ chung của người chiến sĩ Giải phóng quân thời chống Mĩ. Như
một nhà thơ đã từng viết:
Cuộc đời vẫn đẹp sao
Tình yêu vẫn đẹp sao
Dù đạn bom man rợ thét gào
Dù thân thể mang đầy thương tích.
* Đánh giá: NT+ ND+ nhận định về tác giả
Như vậy, bằng các biện pháp tu từ điệp ngữ, so sánh và các từ ngữ, hình ảnh chọn lọc, hai khổ thơ đầu của bài
thơ đã giúp người đọc cảm nhận được trọn vẹn sự khốc liệt của chiến tranh thông qua hình ảnh những chiếc xe
không kính và tư thế ung dung, hiên ngang, bản lĩnh vững vàng của người lính lái xe trên tuyến lửa Trường Sơn.
Lời thơ cho ta nhận ra ở nhà thơ PTD là niềm cảm phục, sự trân trọng , yêu mến dành cho những người lính bộ đội
cụ Hồ. Tình cảm ấy thật đáng trân trọng.
3. Kết bài
Ra đời gần ba mươi năm, bài thơ vẫn có sức truyền cảm mạnh mẽ đối người chúng ta ngày hôm nay. Cảm ơn nhà
thơ đã giúp tất cả chúng ta cảm nhận sâu sắc về hình ảnh người lính lái xe một thời gian khổ mà hào hùng, đội quân
mình vì quê hương, đất nước. Chúng ta là thế hệ mai sau sẽ sống tiếp nối với truyền thống hào hùng của ông cha
xưa kia và để hoàn thành nhiệm vụ hôm nay. Chúng ta hãy tự do về họ, những người chiến sĩ Trường Sơn: “Ôi đất
anh hùng dễ mấy mươi:
Chi tiết “tu hú kêu” lặp đi lặp lại như một thanh âm quen thuộc trong tâm thức của cháu gợi nên nhiều ý nghĩa
sâu sắc: Tiếng tu hú đã khơi gợi những kỉ niệm tuổi thơ : đó là âm thanh quen thuộc của đồng quê mỗi độ vào hè,
cứ khắc khoải kêu hoài, kêu mãi : “ Tu hú kêu trên những cánh đồng xa”. Tu hú kêu vang vọng những thanh
âm da diết, khắc khoải để lại những nhớ và mong. Tiếng loài chim hè ấy mới hay ho, thiết tha làm sao, một lần
nữa gọi mùa hè vàng ươm trong mường tượng của người tù Cách mạng:
"Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần Vườn
râm dậy tiếng ve ngân
Bắp dây vàng hát đầy sân nắng đào Trời
xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không"
(Tố Hữu)
Tiếng tu hú còn gắn liền với những câu chuyện bà kể về xứ Huế: “ Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà/ Bà hay
kể chuyện những ngày ở Huế” . Chính những câu chuyện đó của bà đã bồi đắp đời sống tâm hồn của cháu; dạy
cho cháu tình yêu quê hương, đất nước, con người. Tiếng tu hú làm cho cuộc sống của hai bà cháu vơi đi nỗi trống
trải, cô đơn, buồn tủi “Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!” .Và âm thanh ấy nhắc nhở nỗi chờ mong người ra trận.
Bà mong đợi các con, cháu ngóng đợi mẹ cha “Mẹ cùng cha công tác bận không về”. Hai bà cháu nương tựa vào
nhau qua những tháng ngày vất vả, cơ cực
(b.-Hình ảnh người bà hiện lên rõ nét trong kí ức của nhà thơ)
(hợp +chuyển ý) Với giọng thơ giàu cảm xúc; hình ảnh thơ mộc mạc, bình dị, tác giả gợi lên một miền kí ức tuổi
thơ với tiếng chim tu hú “tha thiết”, với niềm hạnh phúc khi được sống bên bà:
“ Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học ”
Điệp từ “bà” được lặp đi lặp lại nhiều lần kết hợp với các cụm động từ “bà bảo, bà dạy, bà chăm” , cùng nhịp
điệu câu thơ nhanh , dứt khoát đã nhấn mạnh được công lao to lớn của bà: bà không chỉ nuôi dưỡng hình hài của
cháu, bà không chỉ bồi đắp cho tâm hồn cháu, mà bà còn chắp cánh cho tri thức của cháu. Nhịp thơ 4/4 cân xứng
kết hợp với chữ “bà” và chữ “cháu” được điệp lại 4 lần đã diễn tả cuộc sống bình lặng, quấn quýt, yêu thương
của hai bà cháu. Dẫu phải sống xa cha mẹ, dẫu khó khăn thiếu thốn cháu vẫn hạnh phúc khi được sống trong vòng
tay yêu thương, chăm sóc và dạy bảo của bà.
(hợp) Từng vần thơ tràn đầy xúc động, hình ảnh bà hiện lên thật đẹp, thật gần gũi trong dòng hồi ức của nhà thơ.
Bà không chỉ là bà mà bà còn là sự kết tinh cao quý của công cha, nghĩa mẹ, ơn thầy. Qua đó cho ta cảm nhận
được sự biết hơn sâu sắc của nhà thơ dành cho bà.
…Viết về bà, không chỉ có Bằng Việt mà còn có nhà thơ Xuân Quỳnh với bài thơ “Tiếng gà trưa”:
“… Cháu chiến đấu hôm nay
Vì lòng yêu Tổ quốc
Vì xóm làng thân thuộc
Bà ơi cũng vì bà”
Tuy cách diễn đạt khác nhau nhưng cả hai bài thơ đã thể hiện tình bà cháu –tình cảm gia đình thật thiêng liêng và
ấm áp. Qua đó tác giả khẳng định tình yêu gia đình, quê hương, đất nước-tình yêu nguồn cội- luôn khắc sâu trong
tim mỗi con người Việt Nam.
(6.- Suy ngẫm của người cháu về cuộc đời lận đận, vất vả của bà: khổ 6)
… Đến với đoạn thơ dưới đây trong bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt, ta bắt gặp những suy ngẫm của người cháu về
cuộc đời lận đận, vất vả của bà :
“Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi đến tận bây giờ
Bà vẫn giữa thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm,
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi,
Nhóm nồi xôi gạo mới xẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ
Ôi kỳ lạ và thiêng liêng -bếp lửa ! ”
Tác giả sử dụng Phép đảo ngữ và từ láy “lận đận” đủ để khái quát cuộc đời lam lũ, vất vả , đầy lận đận, gian truân
của bà. Hình ảnh ẩn dụ “ “nắng mưa” đã xuất hiện ở khổ thơ đầu tiên “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa” tiếp
tục xuất hiện: “Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa” đã nhấn mạnh sự vất vả, cực nhọc của bà và sự cảm thương sâu
sắc của cháu. Cụm từ chỉ thời gian “đời bà”, “mấy chục năm”, gợi lên sự xuyên suốt của thời gian từ quá khứ
đến hiện tại diễn tả cảm nhận , sự thấu hiểu của nhà thơ về cuộc đời gian nan, vất vả trải qua nhiều nắng mưa tưởng
như không bao giờ dứt và sự tảo tần, đức hi sinh của bà không chỉ trong khoảng thời gian mà cả cuộc đời. Cháu
thương bà, hiểu bà và nhớ cả “thói quen dậy sớm” của bà . Dáng hình cuộc đời tảo tần thức khuya dậy sớm;
chịu thương, chịu khó của bà đã in hằn trong tiềm thức của cháu. Hình ảnh của bà cũng là hình ảnh của bao người
phụ nữ Việt Nam giàu đức hy sinh dù gian truân vất vả vẫn sáng lên tình yêu thương gợi cho ta liên tưởng đến cuộc
đời đầy lam lũ, cơ cực của bà Tú trong bài thơ “Thương vợ” của nhà thơ Trần Tế Xương:
“Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo xèo mặt nước buổi đò đông”
Suốt cuộc đời, bà luôn chăm chút cho cháu cả về vật chất và tinh thần để cháu lớn lên. Bà là người nhóm lửa, cũng
là người luôn giữ cho ngọn lửa luôn ấm nóng, tỏa sáng trong gia đình:
“ Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới xẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ ”
Điệp từ “nhóm” được nhắc đi nhắc lại tới bốn lần và mang những ý nghĩa khác nhau. Nó cứ bồi đắp cao dần những
nét kỳ lạ và thiêng liêng của bếp lửa. Từ “nhóm” đầu tiên “Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm” mang nghĩa tả
thực: là động từ thể hiện một hành động làm cho lửa bén, cháy lên ngọn lửa và một bếp lửa hoàn toàn có thật có
thể cảm nhận bằng mắt thường để xua tan đi cái giá lạnh của mùa đông khắc nghiệt để nấu chín thức ăn và đó là một
bếp lửa rất bình dị có ở mọi gian bếp của làng quê Việt Nam. Thế nhưng từ “nhóm” ở ba câu thơ sau lại mang nghĩa
ấn dụ sâu sắc: Bà nhóm lên tình yêu thương ruột thịt, khơi dậy những kí ức tuổi thơ gian khổ mà hạnh phúc, để
cháu luôn nhớ về nó cũng như luôn nhớ về gia đình, về quê hương, về cội nguồn của mình: “Nhóm niềm yêu
thương, khoai sắn ngọt bùi” .Bà nhóm lên hơi ấm tình người, khơi dậy trong tâm hồn cháu tình cảm sẻ chia, tình
đoàn kết của xóm làng và rộng hơn là tình yêu quê hương đất nước: “ Nhóm nồi xôi gạo mớ xẻ chung vui”. Bà
nhóm lên, khơi dậy cả những ước mơ, khát vọng và niềm tin trong cháu về một tương lai tươi sáng: “Nhóm dậy cả
những tâm tình tuổi nhỏ”. (hợp) Nhờ ngọn lửa mà bà “nhen”, bà “ủ”, bà “chứa”, cháu biết cách sống ân nghĩa,
thủy chung; cháu biết mở lòng ra với mọi người xung quanh, biết sẻ chia, gắn bó với xóm làng; cháu có nghị lực,
niềm tin và khát vọng. Cũng chình nhờ hình ảnh bếp lửa của bà, đã nhắc nhở cháu rằng phải luôn nhớ về cội
nguồn, nhớ về đất nước quê hương, nhớ về dân tộc mình. Và như vậy hình ảnh bếp lửa đơn sơ giản dị đã mang ý
nghĩa khái quát trở thành ngọn lửa trong trái tim – một ngọn lửa ẩn chứa niềm tin và sức sống của con người
…Trong tâm trí nhà thơ, bếp lửa và bà là những gì tuy thật bình dị, song ẩn giấu điều cao quý thiêng liêng. Cảm xúc
dâng trào, tác giả đã phải thốt lên: “Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”. Câu thơ cảm thán với cấu trúc đảo diễn tả
niềm xúc động trào dâng, da diết, mãnh liệt trong lòng nhà thơ. Tác giả sử dụng từ “kì lạ” và “thiêng liêng” đi
liền nhau một lần nữa nhân mạnh giá trị to lớn của bếp lửa, bếp lửa đó sẽ cháy mãi không thế lực nào có thể dập tắt
được, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào bếp lửa của bà vẫn luôn toả sáng. Dù thực tại hay trong kí ức của cháu bếp lửa
đó là bếp lửa cội nguồn không bao giờ tắt. Lối viết độc đáo“thiêng liêng- bếp lửa” một lần nữa khẳng định bếp lửa
là tổ ấm, là cội nguồn của gia đình, cội nguồn của sự sống, cội nguồn của dân tộc. (hợp) Với giọng thơ chân thành,
giàu cảm xúc, hình ảnh bà và bếp lửa hiện lên thật đẹp và thiêng liêng biết bao. Dù cuộc đời lam lũ, nhọc nhằn bà
vẫn mãi nhóm lên ngọn lửa ấm nồng của sự tảo tần, của đức hi sinh, của niềm tin, của sức sống. Từ ngọn lửa của
bà, cháu nhận ra cả một niềm tin dai dẳng về ngày mai, cháu hiểu được linh hồn của một dân tộc vất vả, gian lao
mà nghĩa tình. Bà không chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa mà còn là người truyền lửa. Phải có một niềm tự hào dân
tộc mãnh liệt, một tình cảm tha thiết dành cho bà của mình, một kí ức không thể nhạt phai về bếp lửa, tác giả mới
viết được những vần thơ tràn đầy cảm xúc đến vậy !
(7.- Khổ thơ cuối: Tác giả đã trực tiếp bộc lộ nỗi nhớ bà trong xa cách )
… Trong mạch cảm xúc tuôn trào khi nghĩ về bà và bếp lửa, cháu đã bày tỏ nỗi nhớ bà da diết :
“…Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở
Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”
Xuyên suốt cả bài thơ hình ảnh bếp lửa được lặp đi lặp lại rất nhiều lần để gợi lên niềm xúc động mãnh liệt của
cháu về bà và bếp lửa. Câu thơ đầu của khổ cuối có cấu trúc thật đặc biệt: dấu chấm ngắt giữa câu thơ. Phải chăng
nhà thơ muốn diễn tả giờ đây giữa cháu và bà là khoảng cách không gian xa vời vợi . Tác gả sử dụng Điệp từ
“trăm” kết hợp với phép liệt kê được thể hiện qua các hình ảnh: “ngọn khói trăm tàu”, “lửa trăm nhà”, “niềm vui
trăm ngả” nhằm nhấn mạnh cuộc sống hiện tại của cháu đang đầy đủ tiện nghi, có rất nhiều điều mới lạ ; cháu đã
trưởng thành, được đặt chân đến nhiều vùng đất mới, cháu đến mọi nhà, cháu có biết bao niềm vui…nhưng điều kì
diệu là cháu không bao giờ nguôi nỗi nhớ thương bà. Sự xuất hiện của từ “Nhưng” được đặt ở đầu câu thơ tiếp theo
là một lời khẳng định dù có đi khắp mọi phương trời, dù có sống ở những nơi xa hoa hiện đại nhất nhưng không bao
giờ cháu quên được bếp lửa của bà . Câu thơ như một lời thề “không bao giờ cháu quên” bởi bếp lửa là bàn tay chắt
chiu của bà, là tình yêu thương của bà, bếp lửa là cội nguồn của sự sống, cội nguồn của ánh sáng, cội nguồn của
niềm tin và cội nguồn của dân tộc. Bài thơ được khép lại bằng câu hỏi tu từ “Sớm mai này bà nhóm bếp lên
chưa?” với giọng thơ da diết làm cho nỗi nhớ về bà khắc khoải khôn nguôi, trào dâng mãnh liệt. Và không bao giờ
cháu quên được bà bởi bà là nguồn cội. (Hợp) Khổ thơ cuối đã bộc lộ rõ nét nỗi nhớ thương mãnh liệt và sự biết ơn
sâu sắc của nhà thơ đối với bà. Ở đó chứa đựng đạo lí thuỷ chung, lòng biết ơn của người Việt “uống nước nhớ
nguồn”- đạo lí nuôi dưỡng tâm hồn ta -để chắp cánh cho ước mơ của mỗi con người.
III.-ĐÁNH GIÁ NGHỆ THUẬT
…… Bài thơ “Bếp lửa” nói chung và đoạn thơ nói riêng đã thể hiện đặc sắc về nội dung và nghệ thuật. Thể thơ tự
do. Ngôn ngữ thơ giàu sắc thái biểu cảm. Hình ảnh thơ giàu ý nghĩa biểu tượng, kết hợp hình ảnh tả thực và liên
tưởng (bếp lửa, ngọn lửa) Giọng thơ giàu cảm xúc. Các phép tu từ phong phú đa dạng : ẩn dụ, đảo ngữ, điệp
ngữ, câu hỏi tu từ, câu cảm thán…Tất cả góp phần gợi lại những kỉ niệm đầy xúc động về người bà và vẻ đẹp của
tình bà cháu, đồng thời thể hiện lòng kính yêu, trân trọng, biết ơn của tác giả đối với bà cũng như đối với gia đình,
quê hương, đất nước.
IV.- ĐÁNH GIÁ NỘI DUNG
…Đoạn thơ cho ta thấy tấm lòng yêu thương, thấu hiểu, biết ơn, trân trọng, tự hào của cháu dành cho bà . Bàn tay
chắt chiu, tấm lòng ấm áp nhân hậu của bà dành cho cháu. Ta cảm nhận được tình bà cháu thật thiêng liêng và cao
đẹp biết bao. Phải có một tình yêu sâu đậm và nỗi nhớ thương mãnh liệt dành cho bà thì tác giả mới viết lên được
những vần thơ tràn đầy cảm xúc đến vậy !
C.- KẾT BÀI
Bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt là một bài thơ dạt dào cảm xúc. Hình tượng bếp lửa được thể hiện độc đáo qua
giọng điệu tâm tình, thiết tha; nhịp điệu thơ linh hoạt; kết hợp với lối trùng điệp được sử dụng biến hóa, khiến cho
lời thơ với hình ảnh bếp lửa cứ tràn ra, dâng lên, mỗi lúc thêm nồng nàn, ấm nóng. Từ đó, khiến cho người đọc
cảm thấy thật thấm thía, xúc động trước nỗi nhớ nhung da diết về những kỉ niệm ấu thơ của người cháu và cả tấm
chân tình của nhà thơ đối với người bà kính yêu. Qua đó, chúng ta càng cảm thấy yêu, càng cảm thấy trần trọng
hơn tình cảm đối với gia đình, với quê hương, đất nước. Từ đó, ta mới thấm thía hết được lời bài hát của nhạc sĩ
Trung Quân, thật ý nghĩa biết chừng nào:
"Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một mẹ thôi
Quê hương nếu ai không nhớ
Sẽ không lớn nổi thành người…"
CHIẾC LƯỢC NGÀ
- Nguyễn Quang Sáng -
ĐỀ 1: NHÂN VẬT BÉ THU
A. Mở bài
Benjamin Franklin từng cho rằng: "Chiến tranh không được trả giá trong thời chiến, hóa đơn sẽ đến sau đó." Cái giá
của chiến tranh không chỉ đắt đỏ và dã man khi nó xảy ra, mà hậu quả của nó là vết thương rỉ máu hàng thập kỉ sau
đó nữa. Và có lẽ một trong những nhân vật khắc họa rõ nét vết thương, vết sẹo luôn bỏng rát của chiến tranh là nhân
vật bé Thu trong tác phẩm truyện ngắn Chiếc lược ngà của nhà văn Nguyễn Quang Sáng. Tác phẩm “Chiếc lược
ngà” đã thể hiện những diễn biến tâm lí tinh tế và tình cảm sâu sắc, mạnh mẽ mà bé Thu dành cho cha.
B.Thân bài
1. Khái quát về tác giả, tác phẩm.
Nguyễn Quang Sáng sinh năm 1932, quê ở Chợ Mới, tỉnh An Giang. Là bộ đội thời đánh Pháp, sau năm 1954 tập
kết ra miền Bắc mới bắt đầu viết văn. Trong những năm đánh Mĩ, ông sống và hoạt động tại chiến trường Nam Bộ.
Cảnh vật, con người và hơi thở nhịp sống trong tác phẩm Nguyễn Quang Sáng đậm đặc màu sắc Nam Bộ. Ông đã
để lại nhiều tác phẩm đặc sắc bằng nhiều thể loại. Tác phẩm của Nguyễn Quang Sáng chưa từng giới hạn ở bất kỳ
chủ đề nào nhưng ông vẫn tập trung nhiều nhất là chiến tranh và con người. Với những cống hiến đồ sộ được nhiều
người công nhận, tác giả xứng đáng được gọi là bậc thầy của văn học Nam Bộ. (Thúy Trân)
“Chiếc lược ngà” được viết năm 1966 khi mà miền Bắc nước ta đã giải phóng đang tiến lên xây dựng xã hội chủ
nghĩa, tăng gia sản xuất và chi viện cho tiền tuyến Miền Nam. Tuy nhiên, trong bối cảnh Nam - Bắc chia hai nhiều
người con miền Bắc đã phải đi bộ dọc rừng Trường Sơn để vào Miền Nam đánh Mỹ cứu nước thống nhất nước nhà,
nhiều gia đình vì thế mà ly biệt. Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” tố cáo tội ác của chiến tranh, tố cáo chiến tranh phi
nghĩa mà giặc Mỹ đã gieo xuống dân tộc ta, làm cho đất nước ta phải chia hai. Nhiều người con phải xa cha, người
vợ xa chồng.
- Khái quát về chủ đề: Câu chuyện tập trung thể hiện tình cảm cha con của ông sáu với bé Thu, đặc biệt là tình yêu
thương mãnh liệt của bé Thu dành cho cha.
2. Phân tích
a. Cảnh ngộ của bé Thu
Như chúng ta đã biết bé Thu sinh và lớn lên trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh. Ba em lên đường đánh
giặc khi em chưa tròn một tuổi, tám năm dòng em chưa được gặp cha, em chỉ được ngắm nhìn ba qua bức hình chụp
chung với má.
=> Như vậy chiến tranh đã chia cắt tình cảm khiến cho gia đình bé Thu cũng như bao gia đình VN khác phải rơi
vào cảnh ngộ li tán, chia lìa.
- Tám tuổi Thu còn quá nhỏ để hiểu được sự khốc liệt và éo le của chiến tranh. Chính vì vậy cuộc gặp gỡ bất ngờ
với người cha sau 8 năm xa cách đã khiến cho bé Thu có nhiều sự ngộ nhận. Từ đó ta càng thấy bé Thu phải chịu
nhiều thiệt thòi và cảm thấy thương em hơn và căm ghét chiến tranh.
* Đặc điểm của bé Thu:
-Chính hoàn cảnh của chiến tranh đã tạo cho bé Thu một cá tính rất mạnh mẽ, ương bướng, ngang ngạnh, đáo để
nhưng cũng rất trong sang, hồn nhiên và đáng yêu.
Sự bướng bỉnh, gai góc ấy còn ươm mầm cho phẩm chất kiên cường, mạnh mẽ của cô giao liên trong tương lai. Nhà
văn Nguyễn Quang Sáng đã lột tả rõ nét chân dung của một cô bé tám tuổi có cách thể hiện tình cảm thiêng liêng,
chân thành dành cho ba mình một cách vô cùng đặc biệt, độc đáo. Ở bé Thu, người ta nhìn thấy bóng dáng của Việt
trong "Những đứa trẻ trong gia đình" hay Tnú trong "Rừng Xà Nu". Nó tạo nên một vẻ đẹp kiên cường, gan góc của
thế hệ trẻ Việt Nam trong kháng chiến, cái vẻ đẹp "đừng đốt. Bản thân nó đã có lửa rồi!" mà Đặng Thùy Trâm đã
viết trong nhật ký của mình: "Ước mơ bây giờ là đánh thắng giặc Mỹ, là Độc lập, Tự do của đất nước. Mình cũng
như những thanh niên khác đã lên đường ra tiền tuyến và tuổi trẻ qua đi giữa tiếng bom rơi đạn nổ Tuổi trẻ của
mình đã thấm đượm mồ hôi, nước mắt, máu xương của những người đang sống và những người đã chết. Tuổi trẻ
của mình đã cứng cáp trong thử thách gian lao của chiến trường, tuổi trẻ của mình cũng đã nóng rực vì ngọn lửa
căm thù đang ngày đêm hun đốt. Và gì nữa, phải chăng mùa xuân của tuổi trẻ cũng vẫn thắm đượm thêm vì màu sắc
của mơ ước và yêu thương vẫn ánh lên trong những đôi mắt nhìn mình." Hay như khi nhà thơ Nam Hà cũng đã viết
"Chúng con chiến đấu cho người sống mãi Việt Nam ơi":
"Đất Nước
Của những người con gái con trai
Đẹp như hoa hồng cứng như sắt thép
Xa nhau không hề rơi nước mắt
Nước mắt để dành cho ngày gặp mặt"
- Trong tâm trí non nớt của bé Thu hình ảnh người cha hiện lên thật đẹp, một người cha mà em luôn thần tượng.
Như vậy em yêu cha bằng một tình yêu bền vững, tuyệt đối không có gì lay chuyển được mặc dù 8 năm em chưa
từng gặp và gọi một tiếng ba.
- Và để làm nổi bật tình cảm đó của bé Thu nhà văn đã đặt bé Thu vào tình huống cụ thể để bé Thu bộc lộ rõ cá tính
của mình đó cũng là khi ông Sáu trở về thăm nhà sau 8 năm xa cách.
b. Thái độ và hành động của bé Thu trước khi nhận ra ông Sáu
* Khi mới gặp cha
- Diễn biến tâm lí của bé Thu: Bao ngày trông ngóng được gặp lại cha nhưng khi gặp cha Thu lại có phản ứng vô
cùng dữ dội:
- Khi đang chơi ở nhà chòi bỗng có người đàn ông xa lạ gọi mình là con, bé Thu tròn mắt ngơ ngác, lạ lung nhìn.
Đặc biệt khi nhìn vết sẹo dài trên má ông Sáu và thấy người đàn ông cứ tiến đến với giọng run run: “ba đây con”
khiến cho con bé Thu chớp mắt như muốn hỏi “ Đây là ai?” , Mặt nó tái đi rồi gọi “ Má! Má!”
=> Phản ứng ấy của bé Thu cho thấy em rất bất ngờ trước một người đàn ông xa lạ gọi mình là con và em cũng
không nhận ra ông Sáu là ba. Phản ứng hoảng sợ của bé Thu rất phù hợp với tâm lí nhân vật đồng thời cho thấy sự
am hiểu tâm lí nhân vật của tác giả.
* Ba ngày ông Sáu ở nhà
- Ba ngày phép ngắn ngủi ông sáu ở nhà là quãng thời gian ngắn ngủi của ông Sáu ở nhà, là quãng thời gian quý báu
của gia đình bé Thu. Ông Sáu tìm mọi cách vỗ về an ủi bé Thu thì Thu lại càng giữ khoảng cách, lạnh lùng, xa lánh
cương quyết không gọi ông Sáu là ba.
- Khi mẹ nhắc nhở Thu bảo ba vô ăn cơm thì con bé tìm mọi cách từ chối khéo: “ Thì mẹ mời đi” , khi bị ép thì Thu
lại nói trổng “ vô ăn cơm” ông Sáu trở vờ không nghe thấy thì Thu lại nói vọng ra “ cơm chin rồi” và cuối cùng
không gọi được con bé bực quá quay lại mẹ và bảo “ con kêu rồi mà người ta không nghe”, cụm từ người ta cho
thấy bé Thu vẫn coi ông Sáu là người xa lạ.
- Không chỉ lời nói, bé Thu còn có những hành động, cử chỉ dứt khoát không nhận ông Sáu là ba: Đó là tình huống
bé Thu phải canh nồi cơm và chắt nước cơm. Nồi cơm thì to, quá sức với một đứa trẻ 8 tuổi, khiến Thu không thể
bắc được, bị đẩy vào thế bí, tưởng Thu sẽ phải gọi ông Sáu là ba để nhờ giúp đỡ nhưng không con bé vẫn nói trổng:
“ Cơm sôi rồi, chắt nước giùm cái” ông Sáu trở vờ không nghe thấy và khi nồi cơm sôi sung sục thì giọng nó vang
vẻ hơn: “cơm sôi rồi nhão bây giờ” khi bị bác Ba dọa thì nó hơi sợ, nhăn nhó như sắp khóc nhưng nhất định không
gọi ông Sáu một tiếng ba. Rồi nó loay hoay tìm lấy cái vá để múc nước cơm ra. Hành động đó của bé Thu cho thấy
Thu thật ương bướng, gan góc nhưng cũng rất đáo để.
* Khi ông Sáu gắp cái trứng cá:
- Đỉnh điểm của sự ngang ngạnh, ương bướng của bé Thu là trong bữa cơm ông Sáu gắp cho một miếng trứng cá to
vàng để vào chén bé Thu.
- Thu liền lấy đũa soi vào chén cơm rồi bất ngờ hất tung miếng trứng cá khiến cơm văng tung tóe cả mâm
=> Hành động ấy của bé Thu cho thấy sự cương quyết từ chối sự chăm sóc tận tâm của ông Sáu.
- Bị cha đánh mắng co bé ngồi im cúi gầm rồi lặng lẽ gắp miếng trứng cá vào bát và đứng dậy. Thu hiểu được việc
làm của mình là quá đáng, là sai, là vô lễ với người lớn tuổi nên thấy mình hối lỗi, nhưng vẫn không thể chấp nhận
người đàn ông kia là ba mình.
- Thu bỏ sang nhà bà ngoại trước khi bơi thuyền đi nó khuya dây lòi tói rộn rang mét và khóc với ngoại.
=> Qua tất cả hành động trên của bé Thu ta thấy Thu rất ương bướng, ngang ngạnh và đáo để, nhưng sự ương
bướng cá tính của Thu không làm người đọc khó chịu, và cũng o thấy Thu không phải là một cô beé hư, hỗn lá, mà
ta lại thấyở Thu hồn nhieên, ngây thơ có phần tội nghiệp. Cô bé cương quyết không chịu nhận ông Sáu là cha chắc
có lí do vì Thu rất yêu ba và khao khát được gặp ba.
- Theo dõi tiếp mạch truyện ta thấy cá tính ương ngạnh, gan lì của bé Thu chỉ là vỏ bọc bề ngoài. Quả thực Thu là
một cô bé rất giàu tình cảm, có tình yêu ba sâu sắc và mãnh liệt.
- Một đêm ngủ với ngoại, được ngoại giảng giải cho hiểu vì sao ông Sáu lại có một vết thẹo dài trên má, Thu đã
hiểu ra sự khốc liệt của chiến tranh, chính chiến tranh đã làm biến rạng khuôn mặt của ba, để ba k hông còn đẹp như
bức hình chụp chung với má nữa. Nó nằm im lăn qua, lăn lại, thỉnh thoảng lại thở dài như người lớn đã cho thấy
Thu đã hiểu ra vấn đề.
c. Thái độ và hành động của bé Thu khi nhận ra ông sáu là cha.
- Sáng hôm sau nó theo ngoại về nhà, buổi sang cuối cùng trước khi ông Sáu lên đường, bé Thu đã thay đổi hoàn
toàn thái độ, vẻ mặt của cô không còn bướng bỉnh cau có nữa mà vẻ mặt ấy sầm lại trông rất đáng thương. Nó
không nhìn ngơ ngác, lạ lùng như trước nữa mà nhìn với một vẻ nghĩ ngợi sâu xa. Nhưng Thu chỉ dám đứng ở góc
nhà nhìn ba từ xa vì cô bé mặc cảm với lỗi lầm của mình mà chưa dám nhận cha.
- Chỉ đợi ông Sáu chào tạm biệt “ Thôi ba đi nghe con” thì tình cảm bị dồn nén bấy lâu bỗng trỗi dậy thật mãnh liệt
nó chạy ào tới như một con sóc rồi thốt lên “ ba…a…a!”, tiếng kêu ấy như tiếng xé, xé sự im lặng của mọi người
nghe thật xót xa. Đó là tiếng ba mà Thu đã kìm nén bao năm nay, tiếng ba như vỡ tung ra trong long nó. Nó vừa kêu
vừa chạy xô tới nhảy tót lên dang hai tay ôm lấy cổ ba nó… Chứng kiến những khoảnh khắc xúc động này nhà văn
đã dung những câu văn ngắn dồn dập, nhiều động từ mạnh để diễn tả cảm xúc vội vàng, cuống quýt của bé Thu.
Thu ôm chặt lấy cổ ba vừa khóc vừa muốn giữ chân ba ở nhà “ Ba! Con không cho ba đi nữa ba ở nhà với con” Nó
hôn ba nó cùng khắp.Dường như Thu muốn lấy nụ hôn đó để chuộc lỗi với ba để xoa dịu những tổn thương mà nó
gây cho ba nó rồi nó nghĩ rằng hai tay không thể ôm chặt lấy ba, nên nó dung cả đôi chân ôm chặt lấy ba.
- Nó hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả vết thẹo dài bên má của ba nó nữa”, Vết thẹo từng là thứ chia cắt cha
con nó, giờ lại là thứ nó tự hào nhất, thứ hiện thân cho sự dũng cảm và can trường của cha nó, như một huy chương
cho tấm lòng nhiệt thành đã xả thân vì tổ quốc mà nó sẽ trân trọng, kiêu hãnh hết đời này. Con bé vội vàng, vồ vập
như vậy vì muốn được cảm nhận tình cảm của cha co bằng hết trước khi ông Sáu lại phải đi xa, chẳng biết bao giờ
mới quay trở lại. Cách bộc lộ tình cảm có phần tham lam này đã thể hiện rõ tấm lòng muốn bù đắp lại sự lạnh nhạt
trong những ngày qua của nó mà còn xuất phát từ nỗi sợ sệt sẽ còn rất lâu nữa, thậm chí là lần cuối bé Thu được gặp
ông Sáu.
- Những cái hẹn trở về không rõ ngày nhưng người ta vẫn nguyện chờ mong, hi vọng vì đó là cách duy nhất
thắp lên ánh sáng và chỉ có thế ngày hẹn ấy mới thành hiện thực. Nó chợt khiến ta nhớ lại cảnh đoàn tụ xúc động
của bé Hồng với mẹ mình trong văn bản Trong lòng mẹ. Sau cuộc chia tay ấy, đáng trân trọng hơn cả là khi bé Thu
đã noi gương theo người cha đáng kính, trở thành người chiến sĩ quả cảm viết tiếp những trang sử vẻ vang, vàng son
của Việt Nam. Sự kế thừa ấy đã được đã được Hoàng Trung Thông kết tinh thành những câu thơ:
"Ta lại viết bài thơ trên báng súng
Con lớn lên đang viết tiếp thay cha
Người đứng dậy viết tiếp người ngã xuống
Người hôm nay viết tiếp người hôm qua."
- Khoảnh khắc xúc động ấy bé Thu khiến cho những người chứng kiến không ai cầm được nước mắt, còn bác Ba
người kể chuyện cảm thấy khó thể như ai chiếm lấy trái tim, khoảnh khắc ấy Thu chỉ biết dặn ba vội vã: “ ba về ba
mua cho con một chiếc lược ngà nghe ba”
- Có thể nói đây là đoạn văn rất thành công khi tác giả miêu tả sinh động khoảnh khắc hai cha con nhận nhau. Lúc
Thu nhận ra ba cũng là lúc ông Sáu phải ra chiến trường. Chiến tranh thật éo le và khắc nghiệt đã khiến cho niềm
hạnh phúc, tình phụ tử của cha con bé Thu phải chia lìa xa cách.
=> Như vậy ta thấy bé Thu đại diện cho lớp trẻ VN phải chịu nhiều thiệt thòi mất mát do chiến tranh gây ra, cả tuổi
thơ phải sống xa cha, được gần ba ba ngày nhưng ba ngày cũng không trọn vẹn. cả đời chỉ được gọi tiếng ba có
một lần, chỉ được nhận sự chăm sóc của ba bằng một cây lược ngà nhưng cũng phải chờ đợi. Bấy nhiêu thôi ta
cũng thấy bé Thu cũng như những đứa trẻ VN khác phải chịu mất mát thiệt thòi như thế nào và cũng cho thấy sự
khốc liệt của chiến tranh. Ta càng thấy thương những em bé như Thu và căm phẫn chiến tranh.
3. Đánh giá
- Truyện thành công bởi xây dựng tình huống truyện đặc sắc. Truyện đặt nhân vật bé Thu vào tình huống
gặp ba nhưng không nhận ra, khi nhận ba lại vào đúng lúc chia tay để bộc lộ diễn biến tâm lý và tình cảm sâu sắc bé
Thu dành cho ba. Từ đó, nhân vật bé Thu hiện ra thật có tình, yêu ghét rõ ràng, nhưng cũng thật hồn nhiên, trong
sáng.
- Qua những diễn biến tâm lí của bé Thu, ta thấy tác giả tỏ ra rất am hiểu tâm lí bé trẻ thơ và diễn tả rất sinh
động với tấm lòng yêu mến, trân trọng những tình cảm trẻ thơ.
C. Kết bài:
Chiến tranh đã lùi xa nhưng mỗi lần đọc “ Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng chúng ta lại thấy vô
cùng xúc động về tình yêu cha mãnh liệt, thiêng liêng của bé Thu dành cho người cha của mình trong hoàn cảnh éo
le của chiến tranh cũng từ nhân vật Thu ta càng thấy trân trọng hơn tình cảm gia đình, cuộc sống hòa bình hiện nay.
Ca,mr xúc viết về chiến tranh nhưng Nguyễn Quang Sáng lại không viết về bom đạn nơi chiến trường mà tác giả lại
viết về đề tài tình cảm con người trong chiến tranh, tình cảm cha con thiêng liêng sâu nặng. Chính điều này có thể
khẳng định bom đạn có thể hủy diệt đi tất cả nhưng không thể nào hủy diệt đi tình cảm con người, đặc biệt là tình
cảm cha con, tình cảm gia đình. Với những giá trị ấy truyện ngắn “ Chiếc lược ngà” đã làm thổn thức, rung động
biết bao trái tim bạn đọc hôm nay và mai sau.
* Mở bài
Mùa xuân luôn là đề tài bất tận của thi ca nhạc hoạ xưa và nay. Trong kho tàng dân tộc, ta đã biết đến "Mùa xuân
chín" của Hàn Mạc Tử, "Mùa xuân xanh" của Nguyễn Bính, "Một chiều xuân" của Anh Thơ. Và giờ đây ta lại biết
thêm "Mùa xuân nho nhỏ" của người con xứ Huế mộng mơ - Thanh Hải. Ra đời vào tháng 11 /1980, bài thơ là sáng
tác cuối cùng của Thanh Hải, khi ông đang nằm trên giường bệnh, giành giật với tử thần từng giây phút của sự
sống.Bài thơ đã ghi lại những cảm xúc và nghĩ suy của ông trước mùa xuân thiên nhiên, trước cuộc đời và lời tâm
niệm về khát vọng sống cống hiến của nhà thơ.
* Thân bài
1. Tác giả:
- Thanh Hải tên khai sinh là Phạm Bá Ngoãn, quê ở tỉnh Thừa Thiên – Huế.
- Thanh Hải hoạt động cách mạng và tham gia công tác văn nghệ suốt hai thời kháng chiến chống thực dân Pháp và
đế quốc Mỹ ngay chính trên quê hương ruột thịt của mình. Ở địa diểm nào, hoàn cảnh nào ông cũng thể hiện được
lẽ sống của mình. Đó là sự giản dị, chân thành, yêu người và khát vọng dâng hiến sức mạnh cho đời như chính cuộc
sống và tâm hồn ông.
- “Thơ ông chân chất, bình dị, đôn hậu và chân thành…Đối với nền thơ chống Mĩ của miền Nam,Thanh Hải là một
trong những cây bút có nhiều đóng góp”.(Trần Hữu Tá)
2. Tác phẩm:
- Hoàn cảnh sáng tác: Bài thơ “ Mùa xuân nho nhỏ” được nhà thơ Thanh Hải sáng tác tháng 11/1980, năm năm
sau ngày đất nước ta giành được độc lập. Viết ở giữa mùa đông giá rét của xứ Huế. Khi đó đất nước ta vừa trải qua
hai cuộc kháng chiến trường kì, kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ, phải đối mặt với vô vàn những khó khăn,
thách thức. Và đây cũng là một hoàn cảnh rất đặc biệt đối với nhà thơ Thanh Hải. Thanh Hải lúc này đang bị bệnh
nặng phải điều trị ở bệnh viện trung ương thành phố Huế, và một tháng sau ông qua đời. Đối lập giữa ranh giới sự
sống và cái chết nhưng không làm trái tim nhà thơ nguội lạnh. Ngược lại tâm hồn thi nhân lại nảy nở, bừng sức sống
để cảm nhận ấm áp về một mùa xuân nồng ấm tình người.
“Mùa xuân nho nhỏ” là món quà cuối cùng của nhà thơ trước khi về với cõi vĩnh hằng, “là lời tự bạch chân thành
với những tâm niệm đầy tính nhân văn về lẽ sống và đời thơ.” (Lê Khánh Mai). Chính vì vậy nó bâng khuâng, tha
thiết và sâu lắng hơn tất cả để cuối cùng thể hiện một Thanh Hải yêu người, yêu cuộc sống, yêu quê hương đất nước
và còn là một Thanh Hải sống cho thơ và sống cho đời.
- Chủ đề: Bài thơ ca ngợi vẻ đẹp mùa xuân thiên nhiên, đất nước, con người và khát vọng cống hiến của nhà thơ.
II. Kiến thức trọng tâm:
1. Khổ 1: Cảm xúc của nhà thơ trước mùa xuân thiên nhiên, đất trời.
Khác với bức tranh thiên nhiên mùa xuân rực rỡ sắc màu, rạo rực tình ái trong thi phẩm “Vội vàng” của Xuân Diệu,
với:
Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi…
Không mang một sắc xanh tràn ngập không gian như trong bài thơ “Mùa xuân xanh” của Nguyễn Bính với:
Mùa xuân là cả một mùa xanh
Giời ở trên cao, lá ở cành
Lúa ở đồng anh và lúa ở
đồng nàng và lúa ở đồng quanh
Cũng không được khoác lên tấm áo mơ màng, tình tứ như trong bài thơ “Mùa xuân chín” của Hàn Mặc Tử, với:
Trong làn nắng ửng khói mơ tan
Đôi má nhà tranh lấm tấm vàng
Sột soạt gió trêu tà áo biếc
Trên giàn thiên lý. Bóng xuân sang
Bức tranh thiên nhiên mùa xuân trong “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải được vẽ bằng những hình ảnh, màu sắc,
âm thanh hài hòa, sống động, tràn đầy sức sống:
Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng.
- Ngay hai câu mở đầu ta đã bắt gặp một cách viết khác lạ. Không viết như bình thường: “một bông hoa tím biếc
mọc giữa dòng sông xanh” mà đảo lại “Mọc giữa dòng sông xanh/Một bông hoa tím biếc”. Động từ “mọc” được
đảo lên đầu câu thơ là một dụng ý nghệ thuật của tác giả => khắc sâu ấn tượng về sức sống trỗi dậy và vươn lên của
mùa xuân. Tưởng như bông hoa tím biếc kia đang từ từ, lồ lộ mọc lên, vươn lên, xòe nở trên mặt nước xanh của
dòng sông xuân.
- Không gian mùa xuân rộng mở tươi tắn với hình ảnh một dòng sông trong xanh chảy hiền hoà. Cái màu xanh ấy
phản ánh được màu xanh của bầu trời, của cây cối hai bên bờ, cái màu xanh quen thuộc mà ta có thể gặp ở bất kì
một con sông nào ở dải đất miền Trung.
- Nổi bật trên nền xanh lơ của dòng sông là hình ảnh “một bông hoa tím biếc”, một hình ảnh thân thuộc của cánh
lục bình hay bông súng,bông trang mà ta thường gặp ở các ao hồ sông nước của làng quê:
“ Con sông nhỏ tuổi thơ ta tắm
Vẫn còn đây nước chẳng đổi dòng
Hoa lục bình tím cả bờ sông…” ( Lê Anh Xuân)
Màu tím biếc ấy không lẫn vào đâu được với sắc màu tím Huế thân thương- vốn là nét đặc trưng của những cô gái
đất kinh kỳ với sông Hương núi Ngự.
-> Màu xanh của nước hài hoà với màu tím biếc của bông hoa tạo nên một nét chấm phá nhẹ nhàng mà sống động,
đem lại một vẻ đẹp tự nhiên, hài hòa, một màu sắc đặc trưng của xứ Huế.
- Bức tranh không chỉ có “họa” mà còn có “nhạc” bởi tiếng chim chiền chiện cất lên với muôn vàn lời ca tiếng hót,
reo mừng:
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời.
+ Nhà thơ gọi “ơi” nghe sao mà tha thiết thế! Lời gọi ấy không cất lên từ tiếng nói mà cất lên từ sâu thẳm tình yêu
thiên nhiên, cất lên từ tấm lòng của nhà thơ trước mùa xuân tươi đẹp với những âm thanh rộn rã.
+ Lời gọi ấy mới đầu nhen nhóm ở một góc trái tim, nhưng con người nhà thơ và những cảnh sắc, âm thanh kia như
đã hòa vào làm một, cảm xúc từ đó mà òa ra thành lời, thật ngỡ ngàng, thật thích thú.
+ Cảm xúc của nhà thơ đã trào dâng thực sự qua câu hỏi tu từ: “Hót chi mà vang trời”. Thứ âm thanh không thể
thiếu ấy làm sống dậy cả không gian cao rộng, khoáng đạt, làm sống dậy, vực dậy cả một tâm hồn con người đang
phải đối mặt với những bóng đen u ám của bệnh tật, của cái chết rình rập.
-> Dòng sông êm trôi, bông hoa lững lờ, tiếng chim rộn rã… bức tranh mùa xuân xứ Huế bao giờ cũng đẹp, nhẹ
nhàng, và mơ mộng như thế!
- Thiên nhiên, nhất là mùa xuân vốn hào phóng, sẵn sàng trao tặng con người mọi vẻ đẹp nếu con người biết mở
rộng tấm lòng. Thanh Hải đã thực sự đón nhận mùa xuân với tất cả sự tài hoa của ngòi bút, sự thăng hoa của tâm
hồn. Nhà thơ lặng ngắm, lặng nghe bằng cả trái tim xao động, bằng trí tưởng tượng, liên tưởng độc đáo:
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng.
+ Cụm từ “ giọt long lanh” gợi lên những liên tưởng phong phú và đầy thi vị. Nó có thể là giọt sương lấp lánh qua
kẽ lá trong buổi sớm mùa xuân tươi đẹp, có thể là giọt nắng rọi sáng bên thềm, có thể giọt mưa xuân đang rơi…
Theo mạch cảm xúc của nhà thơ thì có lẽ đây là giọt âm thanh của tiếng chim ngân vang, đọng lại thành từng giọt
niềm vui, rơi xuống cõi lòng rộng mở của thi sĩ, thấm vào tâm hồn đang rạo rực tình xuân.
+ Phép ẩn dụ chuyển đổi cảm giác được vận dụng một cách tài hoa, tinh tế qua trí tưởng tượng của nhà thơ. Thành
Hải cảm nhận vẻ đẹp của mùa xuân bằng nhiều giác quan: thị giác, thính giác và cả xúc giác.
+ Cử chỉ “Tôi đưa tay tôi hứng” thể hiện sự nâng niu, trân trọng của nhà thơ trước vẻ đẹp của thiên nhiên, đất trời
lúc với xuân với cảm xúc say sưa, xốn xang, rạo rực. Nhà thơ như muốn ôm trọn vào lòng tất cả sức sống của mùa
xuân, của cuộc đời.
=> Khổ thơ mở đầu đã mở ra một bức tranh xứ Huế thật đẹp: có hình ảnh, có màu sắc, âm thanh được họa lên từ
những vần thơ có nhạc…
=> Bài thơ được viết vào tháng 11 năm 1980, khi ấy đang là mùa đông giá rét. Như vậy, hình ảnh mùa xuân được
miêu tả ở đây là mùa xuân trong tâm tưởng của nhà thơ. Đối mặt với bệnh tật, thậm chí phải đối mặt với cả cái chết,
vậy mà nhà thơ vẫn hướng đến mùa xuân tươi trẻ, tràn đầy sức sống, thể hiện một tâm hồn lạc quan yêu đời, một
niềm khát khao cuộc sống vô bờ.
=> Đọc những vần thơ của ông, người đọc trân trọng hơn, yêu hơn một tâm hồn nghệ sĩ, một tìnhyêu quê hương, đất
nước đến vô ngần.
2. Khổ 2+3: Cảm xúc của nhà thơ về mùa xuân đất nước:
Khi xưa, trong đêm đen của kiếp sống nô lệ, nhà thơ Tố Hữu –một người con xứ Huế đã từng viết:
Ta nện gót trên đường phố Huế
Dửng dưng không một cảm tình chi
Không gian sặc sụa mùi ô uế
Như nước dòng Hương mải cuốn đi
Đó là Huế trong quá khứ nô lệ đen tối, lầm than. Thời nay, trong hiện tại, Huế đã đổi khác, đang hối hả nhịp chiến
đấu, xây dựng cùng đấtnước:
Mùa xuân người cầmsúng
Lộc giắt đầy trên lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ
Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao…
- Không phải ngẫu nhiên trong khổ thơ lại xuất hiện hình ảnh “người cầm súng” và “người ra đồng”. Họ là những
con người cụ thể, những con người làm nên lịch sử với hai nhiệm vụ cơ bản của đất nước ta trong suốt quá trình
phát triển lâu dài: chiến đấu và sản xuất, bảo vệ và xây dựng Tổ quốc.
- Mùa xuân đến mang đến tiếng gọi của những cố gắng mới và hi vọng mới, mang đến tiếng gọi của đất nước, của
quê hương đang trên đà đổi thay, phát triển. Những tiếng gọi lặng lẽ tới từ mùa xuân làm thức dậy con người, làm
trái tim con người như bừng lên rạng rỡ trong không khí sôi nổi của đất nước, của muôn cây cỏ đã đi theo người
lính vào chiến trường, sát kề vai, đã cùng người lao động hăng say ngoài đồng ruộng.
- Mùa xuân không những chắp thêm đôi cánh sức mạnh cho con người mà còn chuẩn bị cho con người những “lộc”
non tươi mới, căng tràn nhựa sống:
+ “Lộc” không chỉ là hình ảnh tả thực mà con mang ý nghĩa ẩn dụ, tượng trưng.
+ “Lộc” là nhành non chồi biếc của cỏ cây trong mùa xuân.
+ Đối với người chiến sĩ, “lộc” là cành lá ngụy trang che mắt quân thù trong cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc đầy
cam go và ác liệt.
+ Đối với người nông dân “một nắng hai sương”, “lộc” là những mầm xuân tươi non trải dài trên ruộng đồng bát
ngát, báo hiệu một mùa bội thu.
+ Nhưng đặc biệt hơn cả, “lộc” là sức sống, là tuổi trẻ, sức thanh xuân tươi mới đầy mơ ước, lí tưởng, đầy những
hoài bão và khát vọng cốnghiến của tuổi trẻ, sôi nổi trong mỗi tâm hồn con người – tâm hồn của người lính dũng
cảm, kiên cường nơi lửa đạn bom rơi – tâm hồn của người nông dân cần cù, hăng say tăng gia sản xuất. “Lộc” chính
là thành quả hôm nay và niềm tin, hivọng ngày mai.
- Từ những suy nghĩ rất thực về đất nước, nhà thơ khái quát:
Tất cả như hồi hả
Tất cả như xôn xao
+ Điệp ngữ “tất cả”, các từ láy biểu cảm “hối hả”, “xôn xao”, nhịp thơ nhanh => nhà thơ đã khái quát được cả một
thời đại của dân tộc.
+ “Hối hả” diễn tả nhịp điệu khẩn trương, tất bật của những con người Việt Nam trong giai đoạn mới, thời đại mới,
trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa.
+ Còn “xôn xao” lại bộc lộ tâm trạng náo nức rộn ràng.
-> Ý thơ khẳng định một điều: không chỉ cá nhân nào vội vã mà cả đất nước đang hối hả, khẩn trương sản xuất và
chiến đấu. Tất cả đều náo nức, rộn ràng trong mùa xuân tươi đẹp của thiên nhiên, của đất nước.
-> Thanh Hải đã rất lạc quan, say mê và tin yêu khi viết nên những vần thơ này.
- Xúc cảm trước vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước khi bước vào mùa xuân, nhà thơ Thanh Hải đã có cái nhìn sâu sắc
và tự hào về lịch sử bốnnghìn năm dân tộc:
“Đất nước bốn ngàn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước”
+ Với nghệ thuật nhân hóa, Tổ quốc như một người mẹ tần tảo,vất vả và gian lao, đã làm nổi bật sự trường tồn của
đất nước. Để có được sựtrường tồn ấy, giang sơn gấm vóc này đã thấm bao máu, mồ hôi và cả nước mắt của các thế
hệ, của những tháng năm đằng đẵng lúc hưng thịnh, lúc thăng trầm. Nhưng dù trở lực có mạnh đến đâu cũng không
khuất phục được dân tộc Việt Nam:
“Sống vững chãi bốn nghìn năm sừng sững
Lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa”. (Huy Cận)
+ Đặc biệt, phép tu từ so sánh được nhà thơ sử dụng vô cùng đặc sắc, làm ý thơ hàm súc – “Đất nước như vì sao/Cứ
đi lên phía trước”. Sao là nguồn sáng bất diệt của thiên hà, là vẻ đẹp lung linh của bầu trời đêm, là hiện thân của sự
vĩnh hằng trong vũ trụ. So sánh như thế, là tác giả đã ngợi ca đất nước trường tồn, tráng lệ, đất nước đang hướng về
một tương lai tươi sáng. Điệp ngữ “đất nước” được nhắc lại hai lần thể hiện sâu sắc ý thơ: trải qua những gian truân,
vất vả, đất nước vẫn toả sáng đi lên không gì có thể ngăn cản được.
=> Ta cảm nhận được niềm tin tưởng của tác giả vào tương lai rạng ngời của dân tộc Việt Nam. Âm thanh mùa
xuân đất nước vang lên từ chính cuộc sống vất vả, gian lao mà tươi thắm đến vô ngần.
3.Khổ 4+5 Lời ước nguyện chân thành, tha thiết của nhà thơ.
- Từ những cảm xúc về mùa xuân, tác giả đã chuyển mạch thơ một cách tự nhiên sang bày tỏ những suy ngẫm và
tâm niệm của mình về lẽ sống,về ý nghĩa giá trị của cuộc đời mỗi con người:
“Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hoà ca
Một nốt trầm xao xuyến”.
+ Để bày tỏ lẽ sống của mình, ngay từ những câu thơ mở đầu đoạn, Thanh Hải đã đem đến cho người đọc cái giai
điệu ngọt ngào, êm ái của những thanh bằng liên tiếp “ta”-“hoa”-“ca”.
+ Điệp từ “ta” được lặp đi lặp lại thể hiện một ước nguyện chân thành, thiết tha.
+ Động từ “làm”-“nhập” ở vai trò vị ngữ biểu lộ sự hoá thân đến diệu kỳ - hoá thân để sống đẹp, sống có ích.
+ Nhà thơ đã lựa chọn những hình ảnh đẹp của thiên nhiên,của cuộc sống để bày tỏ ước nguyện: con chim, một
cành hoa, một nốt trầm. Còn gì đẹp hơn khi làm một cành hoa đem sắc hương tô điểm cho mùa xuân đất mẹ!Còn gì
vui hơn khi được làm con chim nhỏ cất tiếng hót rộn rã làm vui cho đời!
+ Các hình ảnh bông hoa, tiếng chim đã xuất hiện trong cảm xúc của thi nhân về mùa xuân thiên nhiên tươi đẹp, giờ
lại được sử dụng để thể hiện lẽ sống của mình. Một ý nghĩa mới đã mở ra, đó là mong muốn được sống có ích, sống
làm đẹp cho đời là lẽ thường tình.
+ Cái “tôi”của thi nhân trong phần đầu bài thơ giờ chuyển hoá thành cái “ta”. Có cả cái riêng và chung trong cái
“ta” ấy. Với cách sử dụng đại từ này, nhà thơ đã khẳng định giữa cá nhân và cộng đồng, giữa cái riêng và cái chung.
+ Hình ảnh “nốt trầm”và lặp lại số từ “một” tác giả cho thấyước muốn tha thiết, chân thành của mình. Không ồn ào,
cao giọng, nhà thơ chỉmuốn làm “một nốt trầm” nhưng phải là“một nốt trầm xao xuyến” để góp vào bảnhoà ca
chung. Nghĩa là nhà thơ muốn đem phần nhỏ bé của riêng mình để góp vào công cuộc đổi mới và đi lên của đất
nước.
-> Đọc đoạn thơ,ta xúc động trước ước nguyện của nhà thơ xứ Huế và cũng là ước nguyện của nhiều người.
- Lẽ sống của Thanh Hải còn được thể hiện trong những vần thơ sâu lắng:
“Một mùa xuân nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc.”
+ Cách sử dụng ngôn từ của nhà thơ Thanh Hải rất chính xác,tinh tế và gợi cảm. Làm cành hoa, làm con chim,làm
nốt trầm và làm một mùa xuân nho nhỏ để lặng lẽ dâng hiến cho cuộc đời.
+ “Mùa xuân nho nhỏ” là một ẩn dụ đầy sáng tạo, biểu lộ một cuộc đời đáng yêu, một khát vọng sống cao đẹp. Mỗi
người hãy làm một mùa xuân,hãy đem tất cả những gì tốt đẹp, tinh tuý của mình, dẫu có nhỏ bé để góp vào làm đẹp
cho mùa xuân đất nước.
+ Cặp từ láy “nho nhỏ”, “lặng lẽ” cho thấy một thái độ chân thành, khiêm nhường, lấy tình thương làm chuẩn mực
cho lẽ sống đẹp, sống để cống hiến đem tài năng phục vụ đất nước, phục vụ nhân dân.
-> Không khoe khoang, cao điệu mà chỉ lặng lẽ âm thầm dâng hiến. Ý thơ thể hiện một ước nguyện, một khát vọng,
một mục đích sống.Biết lặng lẽ dâng đời,biết sống vì mọi người cũng là cách sống mà nhà thơ Tố Hữu đã viết:
“Nếu là con chimchiếc lá
Thì con chim phải hót, chiếc là phải xanh,
Lẽ nào vay mà không trả
Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình”.
Nhớ khi xưa, Ức Trai tiên sinh đã từng tâm niệm:
“Bui một tấc lòng trung lẫn hiếu
Mài chẳng khuyết ,nhuộm chẳng đen”.
Còn bây giờ, Thanh Hải – nhà thơ xứ Huế trước khi về với thế giới “người hiền” cũng đã ước nguyện: “Lặng lẽ
dâng cho đời/Dù là tuổi hai mươi/Dù là khi tóc bạc”. Lời ước nguyện thật thuỷ chung, son sắt. Sử dụng điệp ngữ
“dù là” nhắc lại hai lần như tiếng lòng tự dặn mình đinh ninh: dẫu có ở giai đoạn nào của cuộc đời, tuổi hai mươi
tràn đầy sức trẻ, hay khi đã già, bệnh tật thì vẫn phải sống có ích cho đời, sống làm đẹp cho đất nước.
-> Đây là một vấn đề nhân sinh quan nhưng đã được chuyển tải bằng những hình ảnh thơ sáng đẹp, bằng giọng thơ
nhẹ nhàng, thủ thỉ, thiết tha. Vì vậy, mà sức lan tỏa của nó thật lớn.
=> Như trên đã nói, bài thơ được viết vào thời gian cuối đời, trước khi nhà thơ đi vào cõi vĩnh hằng, nhưng trong
bài thơ không hề gợi chút băn khoăn về bệnh tật, về những suy nghĩ riêng tư cho bản thân. Chỉ “lặng lẽ” mà cháy
bỏng một nỗi khát khao được dâng những gì đẹp đẽ nhất của cuộc đời mình cho đất nước. Đây không phải là câu
khẩu hiệu của mộtthanh niên vào đời mà là lời tâm niệm của một con người đã từng trải qua hai cuộc chiến tranh, đã
cống hiến trọn vẹn cuộc đời và sự nghiệp của mình cho cách mạng. Điều đó càng làm tăng thêm giá trị tư tưởng của
bài thơ.
4.Khổ cuối: Lời ngợi ca quê hương, đất nước qua điệu dân ca xứ Huế.
- Bài thơ kết thúc bằng sự trở về với những cảm xúc thiết tha, tự hào về quê hương, đất nước qua điệu dân ca xứ
Huế.
Mùa xuân – ta xin hát
Câu Nam ai, Nam bình
Nước non ngàn dặm mình
Nước non ngàn dặm tình
Nhịp phách tiền đất Huế.
+ Tác giả có nhắc đến những khúc dân ca xứ Huế “Nam ai”, “Nam bình”, có giai điệu buồn thươngnhưng vô cùng
tha thiết.
+ Và qua những khúc “Nam ai”, “nam bình” này thì nhà thơđã bộc lộ tình yêu tha thiết của mình đối với quê hương,
đất nước; thể hiện niềm tin yêu vào cuộc đời, vào đất nước với những giá trị truyền thống vững bền.
Như vậy, xuyên suốt bài thơ không chỉ là hình tượng mùa xuân. Từ tiếng chim chiền chiện – tượng trưng cho khúc
hát tạo ấn tượng về một bài ca không dứt. Bài thơ khép lại nhưng bài ca về mùa xuân, bài ca yêu cuộc sống của
Thanh Hải gửi đến bạn đọc vẫn còn vang vọng mãi.
III. Tổng kết:
1. Nội dung: Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” là tiếng lòng tha thiết yêu mến và gắn bó với đất nước, với cuộc đời; thể
hiện ước nguyện chân thành của nhà thơ được cống hiến cho đất nước; góp một “mùa xuân nho nhỏ” của mình vào
mùa xuân lớn của dân tộc.
2. Nghệ thuật:
- Thể thơ năm chữ, có nhạc điệu trong sáng, tha thiết, gần gũi với các làn điệu dân ca.
- Bài thơ giàu nhạc điệu, với âm hưởng nhẹ nhàng, tha thiết.
- Kết hợp những hình ảnh thơ tự nhiên, giản dị, từ thiên nhiên và giàu ý nghĩa biểu tượng, khái quát.
- Cấu tứ chặt chẽ, sự phát triển tự nhiên của hình ảnh mùa xuân với các phép tu từ đặc sắc.
- Giọng điệu bài thơ thể hiện đúng tâm trạng, cảm xúc của tác giả: vui, say sưa ở đoạn đầu; trầm lắng, hơi trang
nghiêm mà thiết tha ở đoạn bộc bạch những tâm niệm; sôi nổi, tha thiết ở đoạn kết.
* Kết bài: Tình yêu thiên nhiên, sự xúc động trước vẻ đẹp của mùa xuân thiên nhiên, mùa xuân cách mạng và và
khát vọng cống hiến cho đất nước đã được Thanh Hải gợi lên qua bài thơ " Mùa xuân nho nhỏ ". Tuy là tác phẩm
được viết không lâu trước khi nhà thơ qua đời, nhưng bài thơ vẫn để lại trong lòng bao thế hệ bạn đọc, những cảm
xúc sâu lắng, khó phai mờ. Và, bài thơ vẫn sẽ tiếp tục trường tồn cùng với những bước đi lên của đất nước, gợi nhắc
cho những thế hệ trẻ một cách sống đẹp, góp một " mùa xuân nho nhỏ " của mình vào mùa xuân lớn của dân tộc, để
đất nước ta mãi mãi tươi đẹp như mùa xuân. Cuộc đời của con người thì có hạn, nhưng những giá trị tinh thần mà
con người để lại cho đời sau có giá trị vĩnh hằng.
VIẾNG LĂNG BÁC
- Viễn Phương -
1. Mở bài:
“Chúng con sinh ra khi nước còn chia cắt. Nỗi nhớ Bác Hồ dằng dặc đất miền Trung.”
Những lời ngọt ngào tha thiết ấy trong bài hát “Miền Trung nhớ Bác” của nhạc sĩ Thuận Yến đã nói hộ
những người con miền Nam, nói hộ nhân dân Việt Nam lòng biết ơn và niềm thương nhớ Bác vô hạn. Có biết bao
nhiêu bài thơ viết về Bác mà mạch cảm xúc và ngôn ngữ không hề với cạn vì Bác là hồn thơ của dân tộc. Viễn
Phương - nhà thơ của miền Nam, vào năm 1976 đã vinh dự cùng với những người con miền Nam ưu tú nhất được ra
thủ đô Hà Nội thăm lăng Bác Hồ. Với tất cả niềm xúc động và lòng thành kính, tác giả đã sáng tác bài thơ “ Viếng
lăng Bác”. Bài thơ là tiếng lòng tha thiết của nhà thơ, là món quà quí giá tác giả dâng lên Bác kính yêu đã góp trọn
lòng biết ơn, niềm thương nhớ Bác khôn nguôi.
2. Thân bài:
a. Giới thiệu tác giả, tác phẩm:
Nhà thơ Viễn Phương, tên khai sinh là Phan Thanh Viễn, quê ở An Giang, là một trong những cây bút có mặt sớm
nhất của lực lượng văn nghệ giải phóng miền Nam thời chống Mĩ. Nhắc đến Viễn Phương, Mai Văn Tạo có lần
từng nhận xét: “Thơ Viễn Phương nền nã, thì thầm, man mác, bâng khuâng, day dứt, không gút mắc, cầu kỳ, kênh
kiệu, khoa ngôn. Hình ảnh nào trong đời sống anh cũng tìm thấy chất thơ.”
“Viếng lăng Bác” ra đời vào tháng 4 năm 1976 - đây là một hoàn cảnh lịch sử thật đặc biệt - là một năm sau ngày
đất nước thống nhất, lăng Bác vừa được khánh thành. Viễn Phương vinh dự góp mặt trong đoán cán bộ miền Nam
ra thăm miền Bắc để vào lăng viếng Bác. Trong giây phút lịch sửa ấy, nhà thơ đã viết bài thơ “Viếng lăng Bác”. Bài
thơ được in trong tập “Như mây mùa xuân”
Bài thơ là nén nhang thơm mà Viễn Phương, toàn thể người dân miền Nam cũng như toàn thể nhân dân Việt Nam
kính dâng lên Bác kính yêu.
b. Khổ 1: Cảm nhận của nhà thơ khi nhìn thấy lăng Bác từ xa:
Dòng cảm xúc và tâm trạng nhà thơ được diễn tả theo trình tự của cuộc viếng thăm lăng Bác. Trong tâm
tưởng của tác giả, Bác Hồ như đang sống, như thể Bác nhìn thấy mọi người từ xa, nên tác giả ngầm giới thiệu:
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Câu thơ như chứa đựng một nỗi đau và một niềm tự hào. Tự hào “con ở miền Nam”, miền Nam gian khổ và
anh hùng, miền Nam thành đồng Tổ quốc, miền Nam vừa chiến thắng vẻ vang…Nhớ lúc sinh thời Người luôn nghĩ
đến miền Nam “Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà” bởi Bác thương “Miền Nam đi trước về sau” sau năm 1954 vẫn
chưa được độc lập. Người từng có mong muốn được vào miền Nam để thăm hỏi và động viên đồng bào chiến sĩ. Và
trước ân tình của Bác, miền Nam cũng “mong Bác nỗi mong cha”. Tình cảm ấy cũng là những ý thơ trong bài thơ
của Tố Hữu:
“Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà
Miền Nam mong Bác nỗi mong cha”
(Bác ơi)
Hoặc: “Nam Bộ là máu của máu Việt Nam, là thịt của thịt Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song
chân lí ấy không bao giờ thay đổi”.
Thế mà miền Nam không được đón Bác vào thăm trong ngày vui đại thắng. Nay thì Bác đã ra đi, nỗi đau
mất Bác không gì bù đắp được.
Chính vì thế, như hàng chục triệu người con miền Nam, nhà thơ Viễn Phương đã canh cánh trong lòng một
ước nguyện được ra thủ đô Hà Nội để thăm vị cha già kính yêu và niềm ao ước bấy lâu nay đã thỏa nỗi chờ mong.
Từ xa dõi nhìn về phía lăng Bác nhà thơ đã thấy lòng nghẹn ngào, dưng dưng.
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa vẫn đứng thẳng hàng.”
Sau bao nhiêu năm chiến tranh, Bắc Nam chia cắt nhà thơ đã được ra thủ đô Hà Nội thăm lăng Bác. Với tất
cả niềm xúc động, lòng kính yêu nhà thơ đã thành kính thưa với Bác: “Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”. Tác giả
xưng “con” với Bác, cách xưng hô ngọt ngào, thân thương, rất Nam Bộ. Tiếng “con” ấy bật lên từ trái tim tha thiết
yêu thương nhớ mong của nhà thơ nghe sao mà xúc động. Đó là cách xưng hô rất đặc biệt của nhà thơ, của nhân dân
miền Nam với Bác Hồ kính yêu. Cách xưng hô ấy vừa thể hiện sự kính trọng của nhà thơ, vừa nói lên được tình cảm
mà nhà thơ hướng về Bác, dành cho Bác rất ruột thịt, thân thương như tình cảm của người con với người cha kính
yêu. Bác thật vĩ đại nhưng cũng rất gần gũi với nhân dân “Người là cha, là Bác, là Anh”.
Con cũng là cách xưng hô không phải là mới của các nhà thơ khi viết về Bác:
Người không con mà có triệu con.
Tác giả sử dụng biện pháp nói giảm nói tránh “thăm” để giảm đi bao đau thương mất mát về việc Bác đã đi
xa.
Nhà thơ hẳn phải đến từ rất sớm, khi màn sương còn bao phủ xung quanh. Từ xa, theo con đường quanh
quanh, nhìn về phía lăng Bác, nhà thơ bắt gặp một hình ảnh rất đỗi quen thuộc, thân thương, đó là hình ảnh “hàng
tre bát ngát”. Bát ngát của tre và bát ngát của sương, là những nét vẽ mờ tỏ, đậm nhạt, tạo nên vẻ đẹp lung linh như
tranh thủy mạc nhưng đồng thời cũng làm rõ chất thực và hư trong cuộc viếng thăm này. Cây tre là loại cây rất bình
dị, quen thuộc ta bắt gặp ở mọi miền đất nước, không người Việt Nam nào lại không biết đến cây tre. Bởi vì nói đến
hàng tre bát ngát là nói đến quê hương và con người Việt Nam với biết bao đức tính cao quí và trong sáng: chịu
thương, chịu khó, cần cù, chăm chỉ... Nói đến hàng tre là chúng ta nghĩ ngay đến ngôi nhà thân yêu, tuổi thơ trìu
mến, lời ru của mẹ dịu dàng, ấm áp, tiếng võng đưa kẽo kẹt trưa hè dưới bóng tre làng một nắng hai sương, cần cù,
bền bỉ…Tre bao quanh làng cho bóng mát. Tre làm rá, rổ, giần, sàng…Tre làm chông, làm gậy đáng giặc giữ
nước… Và hơn hết, qua bao gian khó, hiểm nguy tre vẫn kiên trì bám đất, bám làng, sống hiên ngang như dân tộc
Việt Nam vững vàng đi qua những sóng gió của thời đại… Một thoáng ngỡ ngàng, nhà thơ không ngờ bên lăng vị
chủ tịch vĩ đại lại có khóm tre già bình dị, thân quen tỏa bóng mát rượi. Hình ảnh ấy gợi cho nhà thơ bao suy tư:
Bác thật giản dị, lúc nào cũng gắn bó với quê hương, với đồng bào, với lũy tre làng thân thương. Ra thăm Bác ở thủ
đô mà nhà thơ có cảm giác về quê thăm cha. Từ hình ảnh tả thực, cây tre đã được nâng lên thành hình ảnh ẩn dụ
mang ý nghĩa tượng trưng:
Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa vẫn đứng thẳng hàng.
Nhìn hàng tre xanh ngắt bên lăng Bác nhà thơ thấy lòng trào dâng niềm xúc động, tình cảm ấy đã được gói
trọn trong từ cảm thán “ôi” - hình ảnh tre xanh xanh Việt Nam là một ẩn dụ vừa biểu tượng cho sự bình dị, thanh
cao của Bác, của tâm hồn người Việt, vừa biểu tượng cho sức sống mãnh liệt của dân tộc Việt Nam. Như cây tre,
người Việt Nam tiềm tàng sức sống, không khó khăn nào, kẻ thù nào có thể hủy diệt được sức sống của dân tộc Việt
Nam. Khẳng định điều này, trong bài thơ “Tre Việt Nam” nhà thơ Nguyễn Duy cũng viết:
Ở đâu tre cũng xanh tươi
Cho dù đất sỏi, đất vôi bạc màu
Sức sống ấy bắt nguồn từ tình đoàn kết của tre và người Việt Nam:
Bão bùng thân bọc lấy thân
Tay ôm, tay níu, tre gần nhau thêm
Thương nhau tre không ở riêng
Lũy thành từ đó mà nên hỡi người…
(Tre Việt Nam - Nguyễn Duy)
Rõ ràng, trong bốn câu thơ đầu ta vừa cảm nhận được tình cảm thương xót của tác giả vì tre phải hứng chịu
bão táp, mưa sa nhưng đồng thời cũng cảm nhận được cả niềm tự hào vì tre vẫn thẳng hàng, không nghiêng ngửa.
Hình ảnh “tre đứng thẳng hàng” cũng là một ẩn dụ rất đẹp biểu tượng cho sự ngay thẳng, sự kiên cường bất khuất
của người dân Việt Nam. Giống như cây tre, người Việt Nam không chịu khuất phục trước kẻ thù, trước bom đạn,
trước gian nguy, hàng tre lăng Bác tượng trưng cho thế đứng vững vàng của toàn dân tộc, khẳng định điều này, nhà
thơ Nguyễn Duy cũng đã viết:
Nòi tre đâu chịu mọc cong
Chưa lên đã thẳng như chông lạ kì.
Miêu tả cảnh quan bên ngoài lăng Bác nhà thơ không chỉ tạo nên những suy nghĩ sâu sắc về phẩm chất tốt
đẹp của nhân dân ta mà còn từ hình ảnh cây tre đứng thẳng hành bên lăng Bác còn gợi ta liên tưởng đến những
người con trung hiếu đang canh giữ cho giấc ngủ của Bác ở trong lăng bình yên.
c. Khổ 2 : Cảm xúc của nhà thơ khi cùng mọi người vào lăng viếng Bác :
Khổ thơ trên, cảnh vật đang còn sương phủ, bây giờ mặt trời đã lên cao trên đầu. Cũng là lúc tác giả hòa
cùng dòng người vào lăng viếng Bác, trong lòng nhà thơ trào dâng một nỗi xúc động, một niềm tôn kính khó tả,
giọng thơ vẫn thành kính, trang nghiêm, nhà thơ đã bày tỏ thật chân thành cảm xúc của ông khi dòng người vào lăng
viếng Bác :
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trên lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân.
Hai câu thơ sóng đôi, hô ứng với nhau. Ngày lại ngày, theo qui luật tuần hoàn của tự nhiên, mặt trời rực rỡ
của thiên nhiên « đi qua trên lăng ». Nó đã thấy trong lăng có một mặt trời rất đỏ đang tỏa sáng. Ta bắt gặp hai hình
ảnh mặt trời trong hai câu thơ. Mặt trời trong câu thơ thứ nhất là mặt trời của thiên nhiên, của vũ trụ được nhân hóa
như có tâm hồn. Mặt trời ấy mang ánh sáng, mang sự sống đến cho muôn loài muôn vật trên trái đất. Nó xua tan đi
đêm trường lạnh giá, tối tăm. « Mặt trời trong lăng rất đỏ » là một hình ảnh ẩn dụ rất đẹp, nhà thơ đã ngầm so sánh
Bác với mặt trời, tác giả đã mượn cái vĩ đại của thiên nhiên để ca ngợi sự vĩ đại của Bác, Bác là mặt trời chân lí.
Người đã tìm ra con đường cách mạng đúng đắn để đưa dân tộc ta thoát khỏi đêm trường nô lệ tối tăm. Người đã
mang đến độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân, trái tim của Người ấm áp như vầng Thái dương đã sưởi
ấm, che chở cho bao kiếp người nô lệ. Mặt trời - Bác Hồ tỏa hơi ấm tình thương bao la trong lòng mỗi con người.
Nhà thơ Tố Hữu đã so sánh Bác như : « Quả tim lớn lọc trăm dòng máu nhỏ ». Người là mặt trời không bao giờ tắt
trong lòng nhân dân Việt Nam. Còn hình ảnh mặt trời « rất đỏ » làm chúng ta liên tưởng đến hình ảnh một trái tim,
trái tim nhiệt huyết, chân thành, trái tim thương nước, thương dân. Mặt trời đỏ còn biểu trưng cho ý nghĩa chiều
sâu : Bác nằm xuống nhưng lí tưởng rực rỡ để cứu nước, xây dựng Tổ quốc và sự nghiệp của Người vẫn còn đấy,
vẫn soi đường cho cả nước tiến lên, truyền cảm hứng và sức sống cho con dân đất Việt mai sau. Và dường như ta
còn cảm giác như mặt trời của tự nhiên cũng phải ngắm nhìn, chiêm ngưỡng mặt trời của dân tộc - chính là Bác Hồ
kính yêu. Thật ra, việc so sánh Bác Hồ với Mặt trời, ta đã từng bắt gặp trong thơ Tố Hữu, trong ca dao dân ca :
Người rực rỡ một mặt trời cách mạng
Mà đế quốc là loài dơi hốt hoảng
Đêm tàn bay chập chạng dưới chân người.
(Tố Hữu - “Sáng tháng năm”)
Nhưng Viễn Phương đã rất sáng tạo khi sử dụng biện pháp so sánh kết với nhân hoá. Mặt trời của tự nhiên vốn đã
đẹp, rực rỡ vậy mà phải ngước nhìn, ngưỡng mộ trước vẻ đẹp của « Mặt trời Hồ Chí Minh » trong lăng.
Chỉ với hai câu thơ, tác giả đã ca ngợi công lao to lớn, vĩ đại của Bác và bày tỏ chân thành lòng kính yêu, lòng biết
ơn vô hạn của nhân dân miền Nam với Bác. Ca ngợi sự bất tử của Bác nhà thơ Phạm Tiến Duật đã viết :
Mặt trời lặn, mặt trời mang theo nắng
Người ra đi để ánh sáng cho đời.
Hai câu thơ tiếp trong đoạn thơ :
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân
Giọng thơ đượm buồn, lắng trầm, trĩu nặng suy tư, câu thơ được ngắt thành ba nhịp 2-2-4 chậm rãi. Từ «
ngày ngày » được nhắc lại hai lần gợi cảm giác một thời gian vô tận, vĩnh hằng, không bao giờ ngừng như tấm lòng
nhân dân không nguôi nhớ Bác. Ngày nối ngày, những con người đất Việt vẫn thường đều đặn đến thăm cha, đoàn
người dài như một dòng người vô tận, một cách nói hoán dụ rất sáng tạo « dòng người đi trong thương nhớ » đã
diễn tả tâm trạng buồn đau vô hạn trước sự ra đi của Bác. Dù dòng người từ mọi miền đất nước về đây để viếng
Bác, để thăm nơi yên nghỉ cuối cùng của Người, tất cả đều có chung một nỗi lòng thương nhớ khôn nguôi. Nhìn
dòng người vào lăng viếng Bác với muôn vàn sắc áo, với nhiều màu da, đến từ nhiều vùng miền khác nhau, nhà thơ
liên tưởng đến tấm lòng của mỗi người khi đến thăm Bác thành tâm, thơm ngát như những đóa hoa kết thành « tràng
hoa » dài dâng lên Bác, mừng Bác bảy mươi chín mùa xuân. Tràng hoa là một ẩn dụ rất đẹp và sáng tạo và từ «
dâng » nói lên tấm lòng thành kính, biết ơn của nhà thơ, của nhân dân ta với Bác. Khi vào lăng viếng Bác, ai cũng
muốn dâng lên Bác đóa hoa thơm ngát của lòng mình để chúc thọ Bác bảy mưới chín mùa xuân. Ta lại băt gặp hình
ảnh hoán dụ thật đẹp. Tác giả đã gọi 79 năm Bác hưởng thọ là bảy mươi chín mùa xuân. Cuộc đời Bác là mùa xuân
vĩ đại, vĩnh hằng, tươi đẹp bởi người đã làm cho đất nước ta nở hoa độc lập, kết quả tự do.
d. Khổ 3 : Cảm xúc của nhà thơ khi nhìn thấy Bác ở trong lăng :
Giây phút nhà thơ cũng như những con người đất Việt đến thủ đô thăm Bác nóng lòng trông đợi đó là được
nhìn thấy Bác, cái thời khắc thiêng liêng ấy đã đến, lòng nhà thơ rưng rưng xúc động. Ông đã viết :
Bác nằm trong lăng giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim.
Cách nói giảm, nói tránh, Bác mất rồi mà nhà thơ lại viết “bác ngủ bình yên” giữa “một vầng trăng sáng dịu
hiền”. Sự liên tưởng thật hợp lí và độc đáo kết hợp với phép nhân hóa làm cho cảnh vật, ánh trăng thật có hồn. Câu
thơ khiến ta có cảm giác: Bác đang nằm ngủ bình yên, thanh thản, ung dung, tự tại trong một không gian yên tĩnh,
sáng trong, dịu hiền của “vầng trăng” Ba Đình lịch sử vì mong ước của Bác nay đã thành sự thực. Suốt 79 năm qua
có đêm nào Bác được ngủ trọn giấc đâu bởi lúc nào người cũng canh cánh một nỗi lo cho dân cho nước, Người chỉ
mong sao “nước ta được độ lập, dân ta được tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”.
Ánh điện dịu dàng sáng trong lăng Bác giống như ánh trăng dịu hiền, một sự liên tưởng rất sáng tạo. Ta vẫn biết lúc
sinh thời Bác rất yêu trăng, Người coi trăng là bạn bè, là tri ân tri kỉ. Con người tha thiết yêu trăng mà chưa bao giờ
được bình yên để ngắm trăng ấy bây giờ đã được yên nghỉ cùng trăng. Người đã ngủ bình yên thanh thản giữa vầng
trăng sáng dịu hiền thuần khiết như tâm hồn trong sáng và cuộc đời thanh cao của Người. Đọc câu thơ ta lại nghẹn
ngào nhớ lại những vần thơ Bác viết về trăng:
Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa
Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà.
Hoặc:
Trăng nhòm khe cửa đòi nhà thơ
Việc quân đang bận xin chờ hôm sau.
Hay:
Việc quân, việc nước bàn xong,
Gối khuya ngon giấc bên song trăng nhòm.
Bao tình cảm dâng trào trong tim khi nhà thơ được chiêm ngưỡng Bác. Mái tóc, chòm râu bạc phơ, vầng trán
cao thanh thản, vẻ mặt hiền từ…Dù chỉ được dừng bên Bác vài phút song thời gian ngắn ngủi mà vô cùng quí giá ấy
sẽ trở thành kỉ niệm không thể nào quên trong suốt cuộc đời. Ngòi bút Viễn Phương đã chạm đến chốn sâu thẳm
tâm hồn những người con miền Nam xa xôi được về lăng viếng Bác.
Hai câu thơ cuối trong đoạn thơ giọng thơ bỗng lắng xuống nghẹn ngào như muốn khóc:
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim.
Cặp quan hệ từ “Vẫn biết…mà sao…” đã diễn tả sự mâu thuẫn giữa tình cảm và lí trí của nhà thơ. Tác giả tự
mâu thuẫn với chính mình. Trái tim yêu Bác như thầm nói Người vẫn còn sống cùng dân tộc, cùng cháu con như
trời xanh mãi mãi. “Trời xanh” là ẩn dụ chỉ sự bất tử, sự trường tồn của Bác, Bác mãi là trời xanh vĩnh hằng, là
niềm hi vọng, là tình yêu bao la của dân tộc Việt nam ta. Người bất tử trong lòng nhân dân Việt Nam. Nhà thơ Tố
Hữu viết “Bác sống như trời đất của ta” bởi Bác đã hóa thân thành thiên nhiên, đất nước và dân tộc. Nhà thơ Chế
Lan Viên cũng đã khẳng định:
Người vĩnh cửu muôn đời không thể mất
Người trong lăng và ở ngoài lăng.
Thế nhưng lí trí lại mach bảo nhà thơ Bác đã đi xa rồi “Người đã lên đường theo tổ tiên”, Bác ra đi àm chưa
thỏa ước nguyện được trở lại thăm Thành đồng Tổ quốc, được gặp gỡ đồng bào miền Nam ruột thịt. Nhân dân miền
Nam day dứt khôn nguôi bởi không được: “Rước bác vào thăm, thấy Bác cười”. Sự ra đi của Bác đã để lại trong
lòng dân tộc nỗi thương đau không gì bù đắp nổi. Dù biết tạo hóa có sinh, có tử. Nhưng nhà thơ vẫn thấy “Nhói ở
trong tim” - đó là nỗi đau nhức nhối sâu thẳm tận trong trái tim. Rõ ràng từ nỗi đau tinh thần đã chuyển thành nỗi
đau thể xác - đau tim - cái đau khủng khiếp nhất. Viễn Phương có một lối viết hàm súc, đầy thi vị; câu chữ để lại
nhiều ám ảnh trong lòng người đọc.
Chắc chắn nhà thơ cũng như chúng ta rất yêu Bác, thương Bác nên đã nén chặt nỗi đau trong tim, đã để cho
nước mắt chảy vào trong để cho Bác thanh thản yên lòng ra đi. Nhà thơ Tố Hữu cũng đã tự nhủ lòng:
Thương Bác lòng không dám khóc nhiều
Bác chẳng buồn đâu Bác chỉ đau
Nỗi đau dân nước, nỗi năm châu.
Có lẽ Bác là lãnh tụ duy nhất trên Trái đất này được nhiều người yêu mến sâu sắc, bởi thông qua lời nói,
việc làm, lối sống của Người, Bác làm cho chúng ta cảm thấy Người thật vĩ đại nhưng cũng thật gần gũi như những
người anh, người cha trong gia đình. Sự ra đi của Bác không chỉ là sự ra đi của một vị lãnh tụ đứng đầu đất nước mà
còn là sự ra đi của một thành viên trong đại gia đình Việt Nam. Đến đây ta chợt nhớ đến khi Người còn sống:
Đầu tiên là tình thương với thiếu nhi:
Ôi vẫn còn đây của các em
Chồng thư mới mở Bác đang xem
Chắc Người thương lắm đàn con trẻ
Nên để bâng khuâng gió động rèm
(Theo chân Bác – Tố Hữu)
Bác không ngủ vì thương đoàn dân công:
Bác thương đoàn dân công,
Đêm nay ngủ ngoài rừng
Rải lá cây làm chiếu
Manh áo phủ làm chăn
(Đêm nay Bác không ngủ - Minh Huệ)
Bác giản dị mà vĩ đại:
Bác để tình thương cho chúng con
Một đời thanh bạch chẳng vàng son
Mong manh áo vải hồn muôn trượng
Hơn tượng đồng phơi giữa lối mòn
(Bác ơi – Tố Hữu)
* Trong niềm tự hào của người cha, người đồng mình còn là những con người có tự trọng, có ý thức tự lập, tự
cường và tự tôn dân tộc
- Phẩm chất đó được người cha ca ngợi qua cách nói đổi lập tương phản giữa hình thức bên ngoài và giá trị tinh thần
bên trong, nhưng rất đúng với người miền núi:
“Người đồng minh thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con”
+ Lời thợ mộc mạc, giản dị nhưng chứa bao tâm tình.
+ Cụm từ “thô sơ da thịt" là cách nói bằng hình ảnh cụ thể của bà con dân tộc Tày, ngợi ca những con người
mộc mạc, giản dị, chất phác, thật thà, chịu thương, chịu khó.
+ Nhưng dù vậy họ “chẳng nhỏ bé” mà lại là những con người lớn lao về ý chí, về nghị lực, cốt cách và niềm tin.
+ Sự tương phản này đã tôn lên tầm vóc của người đồng mình. Họ mộc mạc nhưng giàu chí khí, niềm tin. Họ có thể
“thô sơ da thịt” nhưng không hề nhỏ bé về tâm hồn, về ý chí
- Đặc biệt, người đồng mình luôn có ước mơ xây dựng quê hương với những truyền thống, phong tục tốt đẹp:
“Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục”
Lối nói của Y Phương đậm ngôn ngữ dân tộc – độc đáo mà vẫn chứa đựng ý vị sâu xa:
+ Hình ảnh “Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương” vừa mang tính tả thực chỉ truyền thống làm nhà kê đá
cho cao của người miền núi, vừa mang ý nghĩa ẩn dụ sâu sắc. Người đồng mình bằng chính bàn tay và khối óc, bằng
sức lao động đã xây dựng và làm đẹp giàu cho quê hương, xây dựng để nâng tầm quê hương.
+ Còn quê hương là điểm tựa tinh thần với phong tục tập quán nâng đỡ những con người có chí khí và niềm tin.
=> Câu thơ đã khái quát về tinh thần tự tôn dân tộc, về ý thức bảo vệ nguồn cội, bảo tồn những truyền thống tốt đẹp
của người đồng mình.
Tinh thần ấy ta đa thấy ở hình ảnh Sơn Tinh (thời Hùng Vương thứ 18) bốc từng quả đồi…, là hình ảnh anh hùng
Núp và dân tộc Ba Na anh em đã quyết tâm không khuất phục giặc Pháp bảo vệ cho vùng đất Chư-Lây thân yêu,
làm nên chiến tích lịch sử, cách mạng hào hùng cho quê hương, đất nước….
Trong mạch cảm hứng ca ngợi về vẻ đẹp của người miền núi trong bài thơ “Tiếng hát con tàu” của Chế Lan Viên
cũng có những vần thơ như thế:
Con nhớ anh con, người anh du kích
Chiếc áo nâu anh mặc đêm công đồn
Chiếc áo nâu suốt một đời vá rách
Đêm cuối cùng anh cởi lại cho con
Dù trong chiến tranh hay hòa bình họ vẫn thật đẹp. Đó là vẻ đẹp của chân chất, hồn hậu. Đó là vẻ đẹp của sự rắn rỏi,
khỏe mạnh để đương đầu với sóng gió nơi núi rừng. Đó là vẻ đẹp của con người miền núi tự làm nên phong tục,
truyền thống của quê hương và gìn giữ qua bao thế hệ.
Luận điểm 2. Đoạn thơ khép lại bằng âm hưởng của một lời nhắn nhủ trìu mến với biết bao niềm tin hi vọng
của người cha đặt vào đứa con yêu:
“ Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con!”
- Ý thơ “Tuy thô sơ da thịt” và “Không bao giờ nhỏ bé” được lặp lại với bốn câu thơ trước đó càng trở nên da diết,
khắc sâu trong lòng con về những phẩm chất cao đẹp của “người đồng mình”. Nhưng hai tiếng “Lên đường” cho
thấy người con đã lớn khôn và tạm biệt gia đình - quê hương để bước vào một trang đời mới.
- Trong hành trang của người con mang theo khi “lên đường”có một thứ quí giá hơn mọi thứ trên đời, đó là ý chí,
nghị lực, truyền thống quê hương. Lời dặn của cha thật mộc mạc, dễ hiểu, thấm thía, ẩn chứa niềm hi vọng lớn lao
của cha, hi vọng đứa con sẽ tiếp tục vững bước trên đường đời, tiếp nối truyền thống và làm vẻ vang quê hương.
- Tiếng gọi “con ơi” và lời dặn dò “nghe con” thật thân thương, trìu mến nhưng chất chứa bao nhiêu kì vọng của cha
dành cho con.
=> Người cha muốn con hiểu và cảm thông với cuộc sống khó khăn của quê hương, tự hào về truyền thống quê
hương, tự hào về dân tộc để vững bước trên con đường đời, để tự tin trong cuộc sống.
Tình cảm tha thiết, chân thành, niềm mong muốn con mạnh mẽ, trưởng thành trên con đường chinh phục ước mơ
cũng được Nguyễn Đăng Tấn gửi gắm trong bài “Không có gì tự đến đâu con”:
Đường Con đi dài rộng biết bao nhiêu..
Năm tháng nụ xanh giữ cây vươn thẳng,
Trời cao đó nhưng chẳng bao giờ lặng,
Chỉ có Con mới nâng nổi chính mình..
3. Đánh giá
Bằng giọng thơ vừa thiết tha, trìu mến vừa trang nghiêm và các hình ảnh thơ cụ thể, chọn lọc, đoạn thơ đã giúp
người đọc cảm nhận được trọn vẹn những phẩm chất đẹp đẽ của người đồng mình. Đó là những con người giàu ý
chí nghị lực và niềm tin, luôn thủy chung tình nghĩa, phóng khoáng lãng mạn … Và đằng sau những vần thơ ấy, ta
nhận ra tình yêu, niềm tự hào và sự gắn bó sâu nặng của nhà thơ với quê hương mình. Đồng thời cũng dặn con
không được quên que hương, phải sống xứng đáng với truyền thống quê hương, dân tộc.
* Liên hệ Mở rộng: Cùng là dặn con không được quên quê hương dù có khôn lớn tới đâu đi chăng nữa, bởi quê
hương chỉ có một, nếu quên quê hương, quên nguồn cội thì sẽ không nên người, Xuân Quỳnh viết:
"Mỗi người có một quê
Ngày dại thơ để ở
Tuổi thiếu niên để yêu
Và lớn lên để nhớ…"
* Liên hệ Mở rộng: Cùng là dặn con không được quên quê hương dù có khôn lớn tới đâu đi chăng nữa, Vũ Thu
Giang trong bài “Lời cha dặn dò” cũng từng viết:
“Rời tổ ấm chim tung bay xứ lạ
Gói hành trang chỉ vỏn vẹn “nhớ nguồn”.
- Cùng là dặn con không được quên quê hương dù có khôn lớn tới đâu đi chăng nữa, bởi nếu quên quê hương,
quên nguồn cội thì sẽ không nên người, Đỗ Trung Quân viết:
“Quê hương nếu ai không nhớ
Sẽ không lớn nổi thành người”.