Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 47

BÀI THƠ VỀ TIỂU ĐỘI XE KHÔNG KÍNH

- Phạm Tiến Duật -


Đề 1: Phân tích, cảm nhận của em về khổ 1,2

1. Mở bài:
“Hồn Nước gọi, Tiếng bom Sa Diện
Trái tim Hồng Thái nổ vang trời
Máu thơm tưới mầm non xuân đến
Vui lại rồi, Tổ quốc ta ơi!”
(Theo chân Bác- Tố Hữu)
Câu thơ vang lên khí phách của những con người đất Việt. Hòa vào dòng máu Lạc Hồng của dân tộc, mỗi con người
của cha Lạc Long Quân đã hóa thân cho “dáng hình xứ sở” để làm nên đất nước muôn đời. Và thế hệ trẻ trong
những năm tháng chống Mỹ oai hùng cũng đã góp một tiếng nói riêng để hòa vào cảm hứng chung của dân tộc.
Phạm Tiến Duật – một thi sĩ của núi rừng Trường Sơn huyền thoại, ông đã mang niềm vui hăm hở của tuổi trẻ ra
khắp các nẻo đường chiến đấu. Nhà thơ đã tạo cho mình một giọng điệu thơ rất lính: khỏe khoắn, tự nhiên, tràn trề
sức sống, rất tinh nghịch tươi vui mà giàu suy tưởng. “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là tác phẩm tiêu biểu nhất
của giọng thơ, hồn thơ ấy. Với những vần thơ độc đáo, tác giả đã khắc họa thành công bức chân dung những người
chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn. Hai khổ đầu bài thơ, nhà thơ Phạm Tiến Duật đã khắc họa thật ấn
tượng tư thế ung dung, hiên ngang của người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn đầy khói lửa.

2. Thân bài
a.Tác giả:
- Phạm Tiến Duật sinh năm 1941, quê ở huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ.
- Ông được mênh danh là “con chim lửa của rừng già”, “cây săng lẻ của Trường Sơn huyền thoại:, “ nhà thơ lớn
thời chống Mỹ”.
- Với quan niệm “chủ yếu tìm cái đẹp từ trong những diễn biến sôi động của cuộc sống”, Phạm Tiến Duật đưa tất cả
những chất liệu hiện thực của đời sống chiến trường vào trong thơ. Cách tiếp cận hiện thực ấy đã đem lại cho thơ
Phạm Tiến Duật một giọng điệu sôi nổi, trẻ trung, hồn nhiên, hóm hỉnh, tinh nghịch mà sâu sắc.
- Thơ Phạm Tiến Duật tập trung thể hiện hình ảnh thế hệ trẻ qua các hình tượng người lính và cô gái thanh niên
xung phong trên tuyến đường Trường Sơn.
b. Khái quát hoàn cảnh ra đời, nội dung và nghệ thuật của bài thơ
“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật được sáng tác năm 1969 trong thời kì cuộc kháng
chiến chống Mĩ đang diễn ra rất gay go, ác liệt. Từ khắp các giảng đường đại học, hàng ngàn sinh viên đã gác bút
nghiên để lên đường đánh giặc, và điểm nóng lúc đó là tuyến đường Trường Sơn - con đường huyết mạch nối liền
hậu phương với tiền tuyến. Phạm Tiến Duật đã ghi lại những hình ảnh tiêu biểu của nơi khói lửa Trường Sơn. Có
thể nói, hiện thực đã đi thẳng vào trang thơ của tác giả và mang nguyên vẹn hơi thở của cuộc chiến. Ra đời trong
hoàn cảnh ấy, bài thơ đã thực sự trở thành hồi kèn xung trận, trở thành tiếng hát quyết thắng của tuổi trẻ Việt Nam
thời kì chống Mĩ. Cảm hứng từ những chiếc xe không kính đã làm nền để nhà thơ chiến sĩ khắc họa thành công chân
dung người chiến sĩ lái xe: ung dung tự tại, lạc quan sôi nổi, bất chấp mọi khó khăn gian khổ , tình đồng chí đồng
đội gắn bó, tình yêu đất nước thiết tha…
-Vị trí đoạn thơ: Bài thơ có 7 khổ, hai khổ trên thuộc phần đầu của bài thơ
- Hai khổ thơ cho thấy hình ảnh những chiếc xe không kính và người lính lái xe: ung dung, hiên ngang, dũng cảm.
Mỗi khổ thơ hiện lên một vẻ đẹp của người chiến sĩ, càng đọc ta càng thấy trân trọng, cảm phục phẩm chất của
người chiến sĩ lái xe.
* Luận điểm 1. Trong thơ, Phạm Tiến Duật đã thật sáng tao khi xây dựng hình ảnh những chiếc xe không
kính:
Trên con đường rừng Trường Sơn huyết mạch và nổi tiếng với tên gọi “đường mòn Hồ Chí Minh”, những chiếc xe
thuộc đơn vị vận tải vẫn lao nhanh ra chiến trường tiếp viện. Những chiếc xe và chiến sĩ lái xe trở thành quen thuộc,
đáng yêu. Nhà thơ viết về họ với phong cách tự nhiên thật độc đáo.

-Mở đâu bài thơ, tác giả đã giúp người đọc hình dung được hình ảnh những chiếc xe không kính trên tuyển lửa
Trường Sơn thông qua hai câu thơ giàu chất hiện thực:
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung, kính vỡ đi rồi
– Xưa nay, những hình ảnh xe cộ, tàu thuyền đưa vào thơ thì đều được “mĩ lệ hóa”, “lãng mạn hóa” và thường
mang ý nghĩa tượng trưng hơn là tả thực. Người đọc đã bắt gặp chiếc xe tam mã trong thơ Pus-kin, con tàu trong
“Tiếng hát con tàu” của Chế Lan Viên, chiếc buồm vôi trong bài “Quê hương” của Tế Hanh:
“Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã
Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang”
Hay đoàn thuyền đánh cá trong bài thơ cùng tên của Huy Cận.
“Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng”
- Ở bài thơ này, hình ảnh những chiếc xe không kính được miêu tả cụ thể, chi tiết rất thực – thực đến trần trụi.
Xe không kính là một hình ảnh quen thuộc, thường thấy ở tuyến lửa Trường Sơn trong những năm tháng kháng
chiến chống Mĩ. Nhưng trong thơ ca thì có lẽ đây là lần đầu hình ảnh ấy xuất hiện. Ở hai câu thơ này, hình ảnh
những chiếc xe không kính được miêu tả rất thực. Lời thơ tự nhiên đến mức buộc người ta phải tin ngay vào sự
phân bua của các chàng trai lái xe dũng cảm. Chất thơ của câu thơ này hiện ra chính trong vẻ tự nhiên đến mức khó
ngờ của ngôn từ. Bằng biện pháp tu từ điệp ngữ với các từ phủ định “không” được lặp lại nhiều lần, Phạm Tiến
Duật như muốn nói rằng xe không kính không phải do cấu tạo ban đầu của nó. Vậy thì do đâu? Câu thơ thứ 2 đã
giải thích cho điều này. Với các động từ mạnh “giật, rung” lời thơ đã cho ta nhận ra rằng chính bom đạn của chiến
tranh đã tàn phá khiến cho những chiếc xe vận tải vốn nguyên vẹn, lành lặn giờ đây trở thành không kính.
Hình ảnh những chiếc xe không kính vốn chẳng hiếm trong chiến tranh, song phải có một hồn thơ nhạy cảm, có
nét tinh nghịch, ngang tàn như Phạm Tiến Duật mới phát hiện ra được, đưa nó vào thơ và trở thành biểu tượng độc
đáo của thơ ca thời chống Mĩ. Và từ hình ảnh ấy, tác giả đã tạo ấn tượng cho người đọc một cách cụ thể và sâu sắc
về hiện thực chiến tranh khốc liệt, dữ dội, về cuộc chiến đấu gian khổ mà người lính phải trải qua.
Luận điểm 2. Qua hình ảnh những chiếc xe không kính, nhà thơ đã làm nổi rõ vẻ đẹp của những chiến sĩ lái
xe ở Trường Sơn. Đó là tư thế hiên ngang, ung dung, đường hoàng, tự tin, và tâm hồn lãng mạn:
Song, chính trong cái ác liệt của cuộc chiến, chính từ những cái “không” đó thì tư thế ung dung, hiên ngang
của những người lính lại được thể hiện rõ nét:
“Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời,nhìn thẳng”.
Tư thế của những người lính lái xe mới ung dung và đường hoàng làm sao! Đặt từ “ung dung” lên đầu câu, dường
như nhà thơ muốn nhấn mạnh vào tư thế chủ động trước hoàn cảnh. Mặc dù gian khổ, thiếu thốn, những người lính
vẫn lên xe với tư thế" ung dung" đường hoàng, hiên ngang đầy bản lĩnh. Con mắt “nhìn đất”, “nhìn trời”,”nhìn
thẳng” mang vẻ đẹp trang nghiêm, bất khuất như một lời thề. Điệp ngữ “nhìn” đã nhấn mạnh, khắc sâu vẻ đẹp từ
cách quan sát của người chiến sĩ . Cái nhìn của các anh là cái nhìn bao quát, rộng mở “nhìn đất”, “nhìn trời”, vừa
trực diện, vừa tập trung cao độ “nhìn thẳng”.
- Anh “nhìn đất” để thêm gắn bó yêu thương con đường Trường Sơn hào hùng, thân thuộc, để dẫn đưa chiếc xe đi
an toàn, mau đến đích. Anh “nhìn trời” để tâm hồn thêm lạc quan, bay bổng, thêm tin tưởng vào tương lai.
- Anh “nhìn thẳng” là nhìn về phía trước, nhìn vào con đường trước mặt cần vượt qua, nhìn vào nhiệm vụ đầy gian
khổ, thử thách của mình để thêm cương quyết, tích cực mà sẵn sàng đối phó, đương đầu với bao hiểm nguy, gian
khổ. Bởi thế, mặc cho bom đạn gào thét, anh vẫn cứ tiến lên. Anh chiến sĩ lái xe thật dũng cảm, hào hùng biết bao!
Không có kính chắn gió, người lính lái xe đã bình tĩnh, tự tin để mà:
“ Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái”.
- Điệp ngữ “nhìn thấy”, nghệ thuật nhân hóa “ gió xoa mắt đắng”, từ láy “ đột ngột” và nghệ thuật so sánh, liệt kê đã
diễn tả sự cảm nhận thế giới bên ngoài một cách chân thực, sinh động của người lính do những chiếc xe không kính
đem lại. Không có kính chắn gió nên các yếu tố về thiên nhiên, chướng ngại vật rơi, rụng, quăng, ném, va, đập…
vào trong buồng lái.
- Song, quan trọng hơn là các anh có được cảm giác như bay lên, hòa mình với thiên nhiên, được tự do giao cảm,
chiêm ngưỡng thế giới bên ngoài. Nhịp thơ khoan thai, cùng cách điệp lại từ “nhìn” với các hình ảnh cụ thể như
“gió” - “con đường”, “sao trời”, “cánh chim”... đã diễn tả một cách chân thực và sinh động cảm giác, ấn tượng
của người lính lái xe không kính trên đường ra trận. Lúc này, mọi khó khăn, nguy hiểm đã lùi lại, nhường chỗ để
các anh đón nhận những âm thanh trong trẻo, ùa vào khoảng lặng của cuộc chiến ác liệt. Cuộc sống đẹp biết bao!
Tâm hồn lãng mạn đã thăng hoa trong bộn bề gian truân, mất mát. Sao trời vẫn sáng đường chiến dịch; cánh chim
bền bỉ, đột ngột mà không cô đơn.
Từ “đột ngột” được dùng rất “đắt” trong câu đảo thành phần này đã diễn tả động thái đẹp của thiên nhiên, của
cánh chim trời. Cánh chim được nghệ thuật hóa, để rồi được nhân hóa qua hai từ “sa”, “ùa” hết sức tự nhiên, không
vướng bận. Tất cả cho thấy vẻ đẹp tâm hồn của người lính lái xe Trường Sơn. Đúng là“ Đường ra trận mùa này đẹp
lắm! Trường Sơn Đông nhớ Trường Sơn Tây”. Có thể nói,người lính đã chiến thắng bom đạn của kẻ thù bằng cái
nhìn bình thản.
Hình ảnh ẩn dụ “Con đường chạy thẳng vào tim” mà họ nhìn thấy không chỉ là con đường chiến lược Trường
Sơn xe đang đi mà đó còn là con đường cách mạng,con đường giải phóng miền Nam, con đường mà thế hệ trẻ Việt
Nam đã mang cả tuổi thanh xuân, máu xương của mình để giữ gìn, bảo vệ;đẹp mà hiên ngang, gian khổ mà lạc
quan, chất lãng mạn hòa quyện trong yếu tố hiện thực.
-> Như vậy, với hai khổ thơ mở đầu bài thơ, tác giả đã xây dựng thành công hình tượng những người lính với tư thế
ung dung, tràn đầy bản lĩnh trước những khó khăn, gian khổ, hiểm nguy của cuộc chiến trên cái nền khung cảnh ác
liệt của cuộc chiến tranh. Đó cũng chính là thái độ chung của người chiến sĩ Giải phóng quân thời chống Mĩ. Như
một nhà thơ đã từng viết:
Cuộc đời vẫn đẹp sao
Tình yêu vẫn đẹp sao
Dù đạn bom man rợ thét gào
Dù thân thể mang đầy thương tích.
* Đánh giá: NT+ ND+ nhận định về tác giả
Như vậy, bằng các biện pháp tu từ điệp ngữ, so sánh và các từ ngữ, hình ảnh chọn lọc, hai khổ thơ đầu của bài
thơ đã giúp người đọc cảm nhận được trọn vẹn sự khốc liệt của chiến tranh thông qua hình ảnh những chiếc xe
không kính và tư thế ung dung, hiên ngang, bản lĩnh vững vàng của người lính lái xe trên tuyến lửa Trường Sơn.
Lời thơ cho ta nhận ra ở nhà thơ PTD là niềm cảm phục, sự trân trọng , yêu mến dành cho những người lính bộ đội
cụ Hồ. Tình cảm ấy thật đáng trân trọng.
3. Kết bài
Ra đời gần ba mươi năm, bài thơ vẫn có sức truyền cảm mạnh mẽ đối người chúng ta ngày hôm nay. Cảm ơn nhà
thơ đã giúp tất cả chúng ta cảm nhận sâu sắc về hình ảnh người lính lái xe một thời gian khổ mà hào hùng, đội quân
mình vì quê hương, đất nước. Chúng ta là thế hệ mai sau sẽ sống tiếp nối với truyền thống hào hùng của ông cha
xưa kia và để hoàn thành nhiệm vụ hôm nay. Chúng ta hãy tự do về họ, những người chiến sĩ Trường Sơn: “Ôi đất
anh hùng dễ mấy mươi:

“Chìm trong khói lửa vẫn xanh tươi


Mưa bom, bão đạn lòng thanh thản
Nhạt muối, vơi cơm miệng vẫn cười”
*PHÂN TÍCH KHỔ 3, 4 CỦA BÀI THƠ
* Mở bài
“Hồn Nước gọi, Tiếng bom Sa Diện
Trái tim Hồng Thái nổ vang trời
Máu thơm tưới mầm non xuân đến
Vui lại rồi, Tổ quốc ta ơi!”
(Theo chân Bác- Tố Hữu)
Câu thơ vang lên khí phách của những con người đất Việt. Hòa vào dòng máu Lạc Hồng của dân tộc, mỗi con người
của cha Lạc Long Quân đã hóa thân cho “dáng hình xứ sở” để làm nên đất nước muôn đời. Và thế hệ trẻ trong
những năm tháng chống Mỹ oai hùng cũng đã góp một tiếng nói riêng để hòa vào cảm hứng chung của dân tộc.
Phạm Tiến Duật – một thi sĩ của núi rừng Trường Sơn huyền thoại, ông đã mang niềm vui hăm hở của tuổi trẻ ra
khắp các nẻo đường chiến đấu. Nhà thơ đã tạo cho mình một giọng điệu thơ rất lính: khỏe khoắn, tự nhiên, tràn trề
sức sống, rất tinh nghịch tươi vui mà giàu suy tưởng. “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là tác phẩm tiêu biểu nhất
của giọng thơ, hồn thơ ấy. Với những vần thơ độc đáo, tác giả đã khắc họa thành công bức chân dung những người
chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn. Ở khổ thơ thứ ba và thứ tư, nhà thơ đã làm nổi bật tinh thần lạc quan,
yêu đời của người chiến sĩ.
1.Khái quát.
* Giới thiệu
a.Tác giả:
- Phạm Tiến Duật sinh năm 1941, quê ở huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ.
- Ông được mênh danh là “con chim lửa của rừng già”, “cây săng lẻ của Trường Sơn huyền thoại:, “ nhà thơ lớn
thời chống Mỹ”.
- Với quan niệm “chủ yếu tìm cái đẹp từ trong những diễn biến sôi động của cuộc sống”, Phạm Tiến Duật đưa tất cả
những chất liệu hiện thực của đời sống chiến trường vào trong thơ. Cách tiếp cận hiện thực ấy đã đem lại cho thơ
Phạm Tiến Duật một giọng điệu sôi nổi, trẻ trung, hồn nhiên, hóm hỉnh, tinh nghịch mà sâu sắc.
- Thơ Phạm Tiến Duật tập trung thể hiện hình ảnh thế hệ trẻ qua các hình tượng người lính và cô gái thanh niên
xung phong trên tuyến đường Trường Sơn.
b. Khái quát hoàn cảnh ra đời, nội dung và nghệ thuật của bài thơ
“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật được sáng tác năm 1969 trong thời kì cuộc kháng
chiến chống Mĩ đang diễn ra rất gay go, ác liệt. Từ khắp các giảng đường đại học, hàng ngàn sinh viên đã gác bút
nghiên để lên đường đánh giặc, và điểm nóng lúc đó là tuyến đường Trường Sơn - con đường huyết mạch nối liền
hậu phương với tiền tuyến. Phạm Tiến Duật đã ghi lại những hình ảnh tiêu biểu của nơi khói lửa Trường Sơn. Có
thể nói, hiện thực đã đi thẳng vào trang thơ của tác giả và mang nguyên vẹn hơi thở của cuộc chiến. Ra đời trong
hoàn cảnh ấy, bài thơ đã thực sự trở thành hồi kèn xung trận, trở thành tiếng hát quyết thắng của tuổi trẻ Việt Nam
thời kì chống Mĩ. Cảm hứng từ những chiếc xe không kính đã làm nền để nhà thơ chiến sĩ khắc họa thành công chân
dung người chiến sĩ lái xe: ung dung tự tại, lạc quan sôi nổi, bất chấp mọi khó khăn gian khổ , tình đồng chí đồng
đội gắn bó, tình yêu đất nước thiết tha…
*Nhắc lại nội dung của 2 khổ đầu
- Bằng các biện pháp tu từ điệp ngữ, so sánh và các từ ngữ, hình ảnh chọn lọc, hai khổ thơ đầu của bài thơ đã giúp
người đọc cảm nhận được trọn vẹn sự khốc liệt của chiến tranh thông qua hình ảnh những chiếc xe không kính và tư
thế ung dung, hiên ngang, bản lĩnh vững vàng của người lính lái xe trên tuyến đường TS lịch sử. Và vẻ đẹp của họ
tiếp tục được PTD ca ngợi ở 2 khổ thơ tiếp.
- Ở khổ thơ thứ ba và thứ tư, nhà thơ đã làm nổi bật tinh thần lạc quan, yêu đời của người chiến sĩ.
2. Phân tích
LĐ1. Trên con đường ra trận, người chiến sĩ lái xe phải đối mặt với bao nhiêu khó khăn, gian khổ, hiểm nguy
song họ bất chấp mọi khó khăn, gian khổ để vượt lên tất cả. Điều ấy được thể hiện qua hai câu đầu của mỗi
khổ:
“Không có kính, ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già…”
“Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời…”
-Câu thơ đậm chất văn xuôi, mộc mạc như lời nói thường ngày. Nếu như hai khổ trên là những cảm giác về những
khó khăn thử thách thì đến đây, thử thách, khó khăn ập tới cụ thể, trực tiếp.
+ Cuộc sống nơi chiến trường, người lính không chỉ đối diện với bom đạn của kẻ thù mà còn phải đối diện với
những tac sđộng của ngoại cảnh như gió, mưa, bụi, cây cối va đập… điều này ảnh hưởng rất lớn tới tay lái của họ
-Bằng biện pháp tu từ điệp ngữ với cấu trúc “không có kính ừ thì... Chưa cần ...” được lặp lại ở hai khổ thơ, nhà thơ
đã đem đến cho đoạn thơ giọng điệu ngang tàn, giàu thách thức. Cấu trúc lặp: “không có…, ừ thì…” đi liền với kết
cấu phủ định “chưa có…” ở hai khổ thơ đã thể hiện thái độ bất chấp khó khăn, coi thường gian khổ của những chiến
sĩ lái xe Trường Sơn.
-Hình ảnh so sánh: “Bụi phun tóc trắng như người già” và “Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời” nhấn mạnh sự khắc
nghiệt của thiên nhiên và chiến trường, đồng thời cho thấy sự ngang tàn, phơi phới lạc quan, dũng mãnh tiến về phía
trước của người lính Trường Sơn. Kết hợp với những câu thơ tả thực, khẩu ngữ “ừ thì” thể hiện sự bất chấp gian
khổ, coi thường hiểm nguy, thử thách. Hẳn đó là nhờ chất lính, dẫu mưa có tuôn, có xối, dẫu bụi có phun bạc trắng
mái đầu thì người lính vẫn “chưa cần thay”, “chưa cần rửa” để lái trăm cây số nữa. Thật là biết đùa cùng gian
khó! Giọng thơ đã thể hiện trọn vẹn thái độ bất chấp khó khăn, coi thường hiểm nguy của người lính lái xe.
LĐ2. Trước muôn vàn những khó khăn, gian khổ như thế nhưng những người lính lái xe vẫn luôn lạc quan,
sôi nổi, trẻ trung:
“Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.”
“Chưa cần thay lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng gió lùa khô mau thôi.”
- Tác giả đưa vào lời thơ ngôn từ tự nhiên, đậm chất khẩu ngữ, tạo nên giọng thơ vừa dí dỏm, vừa ngang tàng đã
diễn tả thái độ đón nhận mọi thử thách của người lính lái xe như một lẽ thường.
- Nếu từ ngữ “ừ thì” thể hiện sự chấp nhận, chịu đựng những cơn mưa,cơn bụi thì thái độ “chưa cần rửa, chưa cần
thay” lại là sự thách thức,ý chí kiên cường, hiên ngang, thái độ bất chấp, xem thường mọi hiểm nguy,gian khổ. Gian
khổ này dường như không tác động, làm lay chuyển, ý chí, quyết tâm anh. Người chiến sĩ xem đó là dịp để rèn
luyện ý chí, sức mạnh của mình.
- Giữa không gian nồng nặc thuốc súng, đạn bom, lửa khói là tiếng “cười ha ha”. Tiếng cười hồn nhiên trong trẻo
biết bao. Tiếng cười vút lên như thách thức kẻ thù. Tiếng cười lạc quan, sảng khoái của người lính làm tan biến
những âu lo, mệt mỏi trên tuyến đường vốn nhiều lửa nhiều bom. Tiếng cười ấy còn đọng lại trong ta một tâm hồn
trẻ trung, lãng mạn của những người lính trẻ. Với họ,những gian khổ khi lái xe không kính ra trận chẳng hề hấn gì.
Tất cả thể hiện sự bất chấp cuộc sống đầy gian khó bằng niềm vui sôi nổi, trẻ trung và bằng tinh thần lạc quan của
người lính lái xe những năm tháng chống Mỹ cứu nước.
( Bài thơ cũng xuất hiện hình ảnh nụ cười đó là bài ” Đồng chí ” của Chính Hữu .Câu thơ ” miệng cười buốt giá “
Thể hiện sự khó khăn thiếu thốn của những người lính chống Pháp giữa nơi rừng Việt Bắc trong đêm tối sương
muối
So sánh : đó đều là nụ cười nở trên môi người lính . Nhưng mỗi người lính ở mỗi thời kì có nét khác nhau .
Người lính của Chính Hữu là thời chống Pháp với nhiều khó khăn thiếu thốn còn người lính trong thơ của PTD là
thời chống Mĩ có những chuyển biến vui tươi lạc quan yêu đời hơn và có cái nét ngang tàng , nụ cười đã thể hiện
rất rõ điều đó. Một phần xuất phát từ phong cách của hai nhà thơ : CH chuyên viết thơ giàu cảm xúc, ngôn ngữ
hình ảnh thơ chắc lọc còn PTD lại nghiêng về cái ngang tàng tinh nghịch của tuổi trẻ nhưng cũng rất sâu sắc
- Cài tài của Phạm Tiến Duật trong đoạn thơ này là cứ hai câu đầu nói về hiện thực nghiệt ngã phải chấp nhận thì
hai câu sau nói lên tinh thần vượt lên để chiến thắng hoàn cảnh của người lính lái xe trong chiến tranh ác liệt.
*Đánh giá
-Giọng điệu bài thơ vừa ngang tàng lại vừa rất vui tươi, sôi nổi thể hiện thái độ quyết tâm trong nhiệm vụ, thách
thức trước gian khổ. Lời thơ có chỗ nhẹ nhàng, cân đối như chiếc xe vẫn đang tiến tới, có chỗ gợi cảm, trong sáng
như văng vẳng tiếng cười, tiếng hát. Tất cả dã khắc họa hình ảnh người chiến sĩ giải phóng quân thời chống Mĩ
dũng cảm, kiên cường, bất khuất mà cũng rất lãng mạn, trẻ trung, bình dị.
-Việc kết hợp linh hoạt thể thơ 7 chữ và 8 chữ, tạo cho đoạn thơ có điệu thơ gần với lời nói tự nhiên, sinh động.
Những yếu tố về ngôn ngữ và giọng điệu bài thơ đã góp phần trong việc khắc họa hình ảnh người chiến sĩ lái xe trên
tuyến đường Trường Sơn một cách chân thực và sinh động. Đoạn thơ không chỉ nói về tiểu đội xe không kính, nó
còn phản ánh cả khí thế quyết tâm giải phóng miền Nam của toàn quân và toàn dân ta, khẳng định rằng ý chí của
con người mạnh hơn cả sắt thép.
*Kết bài
Vui biết bao nhiêu khi lịch sử đã chọn “những chàng Thạch Sanh của thế kỉ hai mươi” làm điểm tựa, để ngọn lửa
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta trở thành một bản anh hùng ca bất diệt. Trong những năm
tháng sục sôi khí thế “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước/ Mà lòng phơi phới dậy tương lai” ấy, những người lính đi
vào cuộc chiến đấu với tất cả tính chất chủ động, tự tin của những con người có lí tưởng cao đẹp, có sức mạnh và
tiềm lực nên họ rất thanh thản, vui tươi. Bài thơ không chỉ phản ánh được sự khốc liệt, gian khổ của chiến tranh qua
hình ảnh những chiếc xe không kính mà còn là lời khẳng định, ngợi ca vẻ đẹp phẩm chất của người lính lái xe trên
tuyến đường huyền thoại. Dù lớp bụi thời gian có phủ đầy những trang sách và những đổi mới của cuộc sống làm
biến chuyển đi tất cả, nhưng hình ảnh những người lính cụ Hồ, những chiến sĩ Trường Sơn vẫn sống mãi trong lòng
mọi người với tấm lòng trân trọng trọng, biết ơn.
PHÂN TÍCH KHỔ 5,6,7
* Mở bài
“Hồn Nước gọi, Tiếng bom Sa Diện
Trái tim Hồng Thái nổ vang trời
Máu thơm tưới mầm non xuân đến
Vui lại rồi, Tổ quốc ta ơi!”
(Theo chân Bác- Tố Hữu)
Câu thơ vang lên khí phách của những con người đất Việt. Hòa vào dòng máu Lạc Hồng của dân tộc, mỗi con người
của cha Lạc Long Quân đã hóa thân cho “dáng hình xứ sở” để làm nên đất nước muôn đời. Và thế hệ trẻ trong
những năm tháng chống Mỹ oai hùng cũng đã góp một tiếng nói riêng để hòa vào cảm hứng chung của dân tộc.
Phạm Tiến Duật – một thi sĩ của núi rừng Trường Sơn huyền thoại, ông đã mang niềm vui hăm hở của tuổi trẻ ra
khắp các nẻo đường chiến đấu. Nhà thơ đã tạo cho mình một giọng điệu thơ rất lính: khỏe khoắn, tự nhiên, tràn trề
sức sống, rất tinh nghịch tươi vui mà giàu suy tưởng. “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là tác phẩm tiêu biểu nhất
của giọng thơ, hồn thơ ấy. Với những vần thơ độc đáo, tác giả đã khắc họa thành công bức chân dung những người
chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn. 3 khổ thơ cuối của bài thơ đã thể hiện tinh thần đồng chí đồng đội
thắm thiết và lòng yêu nước và ý chí chiến đấu vì miền Nam.
*Khái quát:
a.Tác giả:
- Phạm Tiến Duật sinh năm 1941, quê ở huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ.
- Ông được mênh danh là “con chim lửa của rừng già”, “cây săng lẻ của Trường Sơn huyền thoại:, “ nhà thơ lớn
thời chống Mỹ”.
- Với quan niệm “chủ yếu tìm cái đẹp từ trong những diễn biến sôi động của cuộc sống”, Phạm Tiến Duật đưa tất cả
những chất liệu hiện thực của đời sống chiến trường vào trong thơ. Cách tiếp cận hiện thực ấy đã đem lại cho thơ
Phạm Tiến Duật một giọng điệu sôi nổi, trẻ trung, hồn nhiên, hóm hỉnh, tinh nghịch mà sâu sắc.
- Thơ Phạm Tiến Duật tập trung thể hiện hình ảnh thế hệ trẻ qua các hình tượng người lính và cô gái thanh niên
xung phong trên tuyến đường Trường Sơn.
b. Khái quát hoàn cảnh ra đời, nội dung và nghệ thuật của bài thơ
- “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật được sáng tác năm 1969 trong thời kì cuộc kháng chiến
chống Mĩ đang diễn ra rất gay go, ác liệt. Từ khắp các giảng đường đại học, hàng ngàn sinh viên đã gác bút nghiên
để lên đường đánh giặc, và điểm nóng lúc đó là tuyến đường Trường Sơn - con đường huyết mạch nối liền hậu
phương với tiền tuyến. Phạm Tiến Duật đã ghi lại những hình ảnh tiêu biểu của nơi khói lửa Trường Sơn. Có thể
nói, hiện thực đã đi thẳng vào trang thơ của tác giả và mang nguyên vẹn hơi thở của cuộc chiến. Ra đời trong hoàn
cảnh ấy, bài thơ đã thực sự trở thành hồi kèn xung trận, trở thành tiếng hát quyết thắng của tuổi trẻ Việt Nam thời kì
chống Mĩ. Cảm hứng từ những chiếc xe không kính đã làm nền để nhà thơ chiến sĩ khắc họa thành công chân dung
người chiến sĩ lái xe: ung dung tự tại, lạc quan sôi nổi, bất chấp mọi khó khăn gian khổ, tình đồng chí đồng đội gắn
bó, tình yêu đất nước thiết tha…
-Ở những khổ thơ đầu vẻ đẹp của người lính hiện lên với tư thế ung dung tự tại, lạc quan sôi nổi. Ba khổ cuối thể
hiện vẻ đẹp của tình đồng chí đồng đội gắn bó, tình yêu đất nước thiết tha…
LĐ 1:. Sâu sắc hơn,bằng ống kính điện ảnh của người nghệ sĩ, nhà thơ đã ghi lại những khoảnh khắc đẹp đẽ
thể hiện tình đồng chí đồng đội của những người lính lái xe :
“Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới
Bắt tay nhau qua của kính vỡ rồi.”
- Sau những chặng đường đầy mưa bom bão đạn đầy gió bụi, mưa tuôn, người lính lái xe vẫn có giây phút bình yên.
Từ nơi cảm tử, họ tìm về nhau.
- Câu thơ “Những chiếc xe từ trong bom rơi” gợi về cuộc chiến thật ác liệt. Người chiến sĩ lái xe phải đối diện với
mưa bom, lửa đạn, với cả thần chết ở bất cứ lúc nào. Trong hoàn cảnh ác liệt ấy, điều gì khiến các anh trở về được
bình an? Nhà thơ Phạm Tiến Duật đã chỉ ra điều kì diệu ấy: “Đã về đây họp thành tiểu đội”.
+ Chữ “họp” gợi sự đoàn tụ, sự bảo toàn. Thì ra, vì không thể thiếu nhau, không thể vắng nhau, những người đồng
đội ấy đã băng qua mưa bom bão đạn để “về” trong vòng tay nhau, vòng tay của sự sống và chiến thắng. Ta thấy ở
họ sáng ngời lên một tình cảm đẹp, tình đồng đội! Tình cảm ấy tạo ra sức mạnh để chiến đấu, chiến thắng.
Khi lên xe ta chưa quen nhau
Lúc xuống xe ta đã thành bè bạn
Ta tựa lưng vào bốn năm tấn đạn
Chúng ta đi đường dài
Mấy trăm xe và mấy trăm người
Nhằm mặt trận tiến vào như cơn lốc
(Chúng ta đi đường dài – Phạm Tiến Duật)
Tình cảm của những người lính trẻ được nhà thơ diễn tả rất đúng, rất phù hợp với phong cách của họ. Sau những
chặng đường đầy gian khổ,đầy mất mát hy sinh, họ đã cùng nhau họp thành tiểu đội xe không kính. Cái bắt tay của
họ rất độc đáo - “Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi” - một cái bắt tay mang đầy ý nghĩa. Một cử chỉ thật thân thiện, cảm
động. Có biết bao nhiêu điều muốn nói trong cái bắt tay ấy. Đó là niềm vui trong họ vừa thoát khỏi chặng đường
hiểm nguy gian khó. Họ động viên nhau dù trong hoàn cảnh nào cũng vẫn quyết tâm cầm chắc vô lăng để đưa xe về
đến đích.
+ Chỉ một cái bắt tay qua cửa kính vỡ rồi cũng đủ để họ san sẻ cho nhau,truyền sức mạnh cho nhau, cảm hiểu lẫn
nhau giữa những người đồng chí, đồng đội chung một chiến hào, chưng một nhiệm vụ thiêng liêng cao cả mà Tổ
quốc và nhân dân giao phó.
+ Cái bắt tay qua ô cửa kính là sự bù đắp tinh thần cho sự thiếu thốn về vật chất.
Liên hệ : Trong những năm kháng chiến chống Pháp, nhà thơ Chính Hữu cũng đã phát hiện sức mạnh của tình cảm
đó trong bài thơ “Đồng chí”. Hình ảnh “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay” của những người nông dân mặc áo lính
xưa chính là sự thầm lặng sẻ chia cảnh ngộ và cùng chung lí tưởng sống. Đó là cái bắt tay thầm lặng nhưng đã giúp
người lính vượt lên những thiếu thốn về vật chất. Cái nắm tay đó đã đi dọc dài cuộc kháng chiến để rồi trong những
năm chống Mỹ ác liệt, những người lính trẻ bắt tay nhau qua cửa kính vỡ để tiếp thêm ý chí nghị lực niềm tin cho
đồng đội. Dù trong giai đoạn nào, hoàn cảnh nào cái nắm tay hay cái bắt tay đều ấm áp tình đồng đội.
*Nếu thơ Chính Hữu định nghĩa về tình đồng chí là sự tương đồng về cảnh ngộ về lý tưởng và khó khăn gian khổ
thì đến với thơ Phạm Tiến Duật ta lại thấy có sự phát hiện thú vị với ông tình đồng chí là tình cảm ruột thịt tình
cảm gia đình:
“Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm.”
- Bếp Hoàng Cầm là hình ảnh quen thuộc của cuộc kháng chiến chống Mỹ là tín hiệu của sự sum vầy hội ngộ
sau chặng đường dài hành quân vất vả ngọn lửa ấm áp như kết nối tấm lòng người chiến sĩ. Tất cả là một gia đình
ấm cúng em chứa tình thương
- Hơi ấm Bếp Hoàng Cầm đã được nhạc sĩ Huy Du nhắc đến trong bài Nổi Lửa Lên Em:
“Ơi Miền Nam ơi những đêm chẳng đuốc đèn
Lửa trong tim rừng rực sáng trên đường
Đôi quang gánh nặng tình yêu đất nước
Hơi bếp Hoàng Cầm ta sưởi ấm nơi nơi.”
- Phạm Tiến Duật đã đưa ra một khái niệm gia đình thật lạ thật giản đơn chung bát đũa đã trở thành gia đình của
nhau.
- Đây là cách định nghĩa rất lính, tếu táo nhưng chân tình, sâu nặng. Gắn bó với nhau trong đời thường, tình cảm
của người lính được xích lại từ những cái chung: “chung bát, chung đũa, bếp lửa, con đường”
Đó là gia đình của những con người cùng chung chí hướng, cùng chung nhiệm vụ. Rõ ràng, những người lính
thương yêu nhau như tình ruột thịt. Họ có chung bát, chung đũa, chung bếp lửa, chung mâm cơm, chung ánh sao
trời… Những tình cảm ấy chỉ có những người lính cách mạng mới được thưởng thức và nếm trải. Nó thật bình
thường nhưng cũng thật cao đẹp, thiêng liêng.
-Từ nơi chiến trường ác liệt, họ đã làm thành một gia đình, tạm nghỉ bên nhau, và quây quần trong bữa cơm hội ngộ,
để rồi:
“Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi lại đi trời xanh thêm”.
Câu thơ ngắt nhịp 2/2/3, như nhịp hành quân, như niềm lạc quan tin tưởng của người lính lái xe trên đường ra trận.
Từ “chông chênh” gợi lên tư thế của người lính, họ vừa đi vừa có người ngủ trên xe, vừa có người chạy xe để xe
được chạy liên tục. Từ “chông chênh”giàu sức gợi như tạo hình cho giấc ngủ của người lính. Điệp từ “lại đi” và
hình ảnh ẩn dụ “ lại đi trời xanh thêm” gợi tâm hồn lạc quan của người chiến sĩ. Màu xanh đó là màu của của niềm
tin và tin tưởng ở ngày chiến thắng đang đến gần, khẳng định những người lính như không ngừng tiến tới, không
ngừng ra đi vì bầu trời xanh bình yên phía trước, vì viễn cảnh rộng lớn hơn.
=> Chính tình đồng chí, đồng đội đã biến thành động lực giúp các anh vượt qua khó khăn, nguy hiểm, chiến đấu
bảo vệ Tổ quốc thân yêu.Sức mạnh của người lính thời đại Hồ Chí Minh là vẻ đẹp kết hợp truyền thống và hiện đại.
Họ là hiện thân của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, là hình tượng đẹp nhất của thế kỷ “Như Thạch Sanh của thế kỷ
hai mươi” (Tố Hữu).
Luận điểm 2. Vẫn một giọng thơ mộc mạc, gần với lời nói thường ngày như văn xuôi, nhưng nhạc điệu, hình
ảnh trong khổ thơ cuối rất đẹp, rất thơ góp phần hoàn thiện bức chân dung tuyệt vời của người lính lái xe
trên tuyến đường Trường Sơn trong những năm đánh Mĩ. Đó là ý chí chiến đầu giải phóng miền Nam thống
nhất đất nước, là tình yêu Tổ quốc thiết tha.
"Không có kinh rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim."
- Điệp ngữ “không có” lặp lại ba lần.
- Phép liệt kê “không kính”,”không đèn”, “không mui” và “thùng xe có xước” cho thấy bom đạn của giặc Mỹ đã
làm biến dạng, làm méo mó, làm trơ trụi những chiếc xe ra trận. Qua đó ta hình dung rõ hơn sự khốc liệt của chiến
tranh, khó khăn nối tiếp khó khăn, càng đi sâu vào chiến trường chiến tranh càng khốc liệt, nguy hiểm hơn. Chiếc xe
không chỉ mất đi bộ phận kính mà còn không đèn, không mui, thùng xe bị xước và rất nhiều bộ phận khác:
“Xe đâu xe lạ xe lùng
Đầu xe thì bẹp, chắn bùn lại không
Chỗ ngồi tựa như bàn chông
Thùng xe gỗ mục vô cùng thảm thương
Đêm nào cũng chạy trên đường
Kế hoạch vượt mức chẳng nhường cho ai.”
- Nhưng đối lập với những mất mát ấy, những cái “không” ấy là một thứ như thép như đồng tồn tại: ý chí của người
lính lái xe. Người lính lái xe vẫn cứ vững chắc tay lái đối diện với con đường vững vàng trên vị trí chiến đấu vì
Miền nam thân yêu.
“Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.”
+ Chữ “Vẫn chạy” sao mà gan góc, mà ý chí, mà bướng bỉnh và ngoan cường!
+Tác giả đã sử dụng nghệ thuật tương phản giữa hoàn cảnh ác liệt của cuộc kháng chiến và phẩm chất của anh lính
lái xe, ý chí kiên cường quyết tâm chiến thắng kẻ thù xâm lược.
+ “Trái tim”là hình ảnh hoán dụ mang ý nghĩa tượng trưng, đó chính là người chiến sĩ lái xe, là sức mạnh và tinh
thần quả cảm, là nhiệt huyết của tuổi trẻ, là ý chí chiến đầu giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, là tình
yêu Tổ quốc thiết tha.
+ Hình ảnh này đã khẳng định: khi trái tim cầm lái thì mọi gian khổ, hiểm nguy đều được người lính chấp nhận và
vượt qua với tư thế ung dung và niềm vui sôi nổi, lạc quan phơi phới.
+Hình ảnh này cũng khẳng định bom đạn của kẻ thù chỉ có thể phá hủy được những chiếc xe chứ không thể ngăn
cản được nhiệt huyết cứu nước của những con người:
“Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai” (Tố Hữu).
+Như vậy xe chạy không phải chỉ bằng nhiện liệu mà bằng nước mắt, mồ hôi và cả xương máu của người chiến sĩ:
xe còn là người lính còn
->Có thể coi câu thơ cuối là câu thơ hay nhất của bài thơ. Nó là nhãn tự, là con mắt thơ, bật sáng chủ đề, tỏa sáng
vẻ đẹp hình tượng người lính lái xe thời chống Mĩ. Thiếu phương tiện vật chất, nhưng những chiến sĩ vận tải Đoàn
559 vẫn hoàn thành vẻ vang nhiệm vụ, nêu cao phẩm chất con người Việt Nam. Như Tố Hữu từng viết:
Thiếu tất cả, ta rất giàu dũng khí
Sống, chẳng cúi đầu. Chết, vẫn ung dung
Giặc muốn ta nô lệ, ta lại hoá anh hùng
Sức nhân nghĩa mạnh hơn cường bạo.
d. Đánh giá
Như vậy, bằng các biện pháp tu từ điệp ngữ, so sánh và các từ ngữ, hình ảnh chọn lọc, đoạn thơ trên đã giúp
người đọc cảm nhận được trọn vẹn Vẻ đẹp tâm hồn của những người lính lái xe. Đó chính là tinh thần lạc quan, là
thái độ bất chấp khó khăn gian gian khổ và tình đồng chí đồng đội keo sơn gắn bó. Lời thơ cho ta nhận ra ở nhà thơ
PTD là niềm cảm phục, sự trân trọng , yêu mến dành cho những người lính bộ đội cụ Hồ. Tình cảm ấy thật đáng
trân trọng.
 Kết bài
Vui biết bao nhiêu khi lịch sử đã chọn “những chàng Thạch Sanh của thế kỉ hai mươi” làm điểm tựa, để ngọn lửa
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta trở thành một bản anh hùng ca bất diệt. Trong những năm
tháng sục sôi khí thế “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước/ Mà lòng phơi phới dậy tương lai” ấy, những người lính đi
vào cuộc chiến đấu với tất cả tính chất chủ động, tự tin của những con người có lí tưởng cao đẹp, có sức mạnh và
tiềm lực nên họ rất thanh thản, vui tươi. Bài thơ không chỉ phản ánh được sự khốc liệt, gian khổ của chiến tranh qua
hình ảnh những chiếc xe không kính mà còn là lời khẳng định, ngợi ca vẻ đẹp phẩm chất của người lính lái xe trên
tuyến đường huyền thoại. Dù lớp bụi thời gian có phủ đầy những trang sách và những đổi mới của cuộc sống làm
biến chuyển đi tất cả, nhưng hình ảnh những người lính cụ Hồ, những chiến sĩ Trường Sơn vẫn sống mãi trong lòng
mọi người với tấm lòng trân trọng trọng, biết ơn.
ĐOÀN THUYỀN ĐÁNH CÁ
- Huy Cận -
I. Mở bài
“Yêu biết mấy những con người đi tới
Hai cánh tay như hay cánh bay lên
Ngực dám đón những phong ba dữ dội
Chân lội bùn không sợ những loài sên”.
(Tố Hữu)
Đẹp thay, tự hào thay hình ảnh những con người mới đang làm chủ cuộc đời mình. Có thể nói khung cảnh miền Bắc
đang cuộn chảy theo dòng thác xây dựng chủ nghĩa xã hội và hình ảnh những con người lao động mới là nguồn cảm
hứng dạt dào trong những sáng tác được viết trong giai đoạn. Bên cạnh « Tiếng chổi tre » (Tố Hữu), « Ngói mới »
(Xuân Diệu), « Anh chủ nhiệm » (Hoàng Trung Thông) … sẽ là thiếu sót lớn nếu chúng ta không nhắc đến « Đoàn
thuyền đánh cá » của thi sĩ Huy Cận. Bài thơ đã khắc họa sự giàu đẹp của biển quê hương và cảnh tượng đoàn
thuyền đánh cá làm việc cật lực trong đêm tối để từ đó tác giả kín đáo bộc lộ thái độ ca ngợi sự giàu đẹp của đất
nước và con người Việt Nam trong thời kì mới.
II. Thân bài
1. Giới thiệu tác giả, tác phẩm
1.1. Tác giả
Huy Cận là một trong các nhà thơ nổi tiếng trong phong trào thơ Mới với tập thơ “Lửa thiêng” (1940). Sau năm
1945, Huy Cận cũng là một nhà thơ tiêu biểu cho nền văn học kháng chiến. Nếu trước cách cách mạng tháng 8, Huy
Cận mang một hồn thơ của "cái tôi" ảo não sầu bi – “một mạch sầu ngàn năm ngấm ngầm trong cõi đất này” (Hoài
Thanh) thì sau cách mạng tháng 8, Huy Cận hướng ngòi bút đến sự hòa hợp riêng - chung, biểu hiện niềm vui và sự
hòa nhập với cuộc đời mới.
1.2. Tác phẩm
Bài thơ "Đoàn thuyền đánh cá" rất tiêu biểu cho cảm hứng vũ trụ của Huy Cận, đánh dấu một bước ngoặt trong sự
nghiệp cầm bút của ông. “Đoàn thuyền đánh cá” là một trong những bài thơ thể hiện sự chuyển mình mạnh mẽ
trong phong cách thơ của Huy Cận. Trước cảm hứng của cuộc sống mới, nhà thơ đã không thể nào giữ yên lặng mà
phải đặt bút. Có thể nói đây là một trong những sáng tác hay nhất của ông.” – Thảo Nguyên. Tác phẩm được in
trong tập thơ “Trời mỗi ngày lại sáng” (1958). Qua bài thơ, chúng ta thấy được vẻ đẹp tráng lệ, hài hòa giữa thiên
nhiên và con người lao động của ngư dân miền biển khi đứng trước cuộc sống mới, sau hòa bình lập lại.
2. Hai khổ đầu: Vẻ đẹp người lao động hiện lên qua ảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi (Khổ 1+2)
2.1. Cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi được tác giả vẽ lên giữa nền không gian và thời gian cụ thể:
Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi
- Chi tiết “mặt trời xuống biến” là cách nói rất lạ có thể gây thắc mắc cho người đọc bởi vì ở vùng biển miền
Bắc nước ta chỉ thấy cảnh mặt trời trên biển chứ không thấy cảnh mặt trời xuống biển. Phải chăng nhà thơ Huy Cận
đã đặt điểm nhìn của mình vào điểm nhìn của người dân chài trên con đường ra khơi để có thể quan sát tới phía tây
bến bờ.
- Hình ảnh so sánh mặt trời với hòn lửa giúp chúng ta hình dung rõ đường nét, hình khối của mặt trời khi
hoàng hôn buông xuống đồng thời gợi cảnh tượng lấp lánh, lung linh muôn màu sắc khung cảnh tráng lệ, rực rỡ,
huy hoàng của hoàng hôn trên biển. Hình ảnh so sánh còn gợi cho người đọc cảm giác ấm áp không cô đơn, buồn bã
như ta thường gặp trong thơ ca cổ khi viết về hoàng hôn.
- Nghệ thuật nhân hóa mặt trời cũng như một con người đang đi xuống biển nghĩa là mặt trời đang đi vào
trạng thái nghỉ ngơi sau một ngày làm việc vất vả khiến cho mặt trời hiện lên thật sinh động, gần gũi, thân thiết với
con người. Tại sao mặt trời xuống biển chứ không phải xuống núi? Có sự nhầm lẫn ở đây chăng? Bởi vì ở vùng biển
miền Bắc nước ta chỉ thấy cảnh mặt trời trên biển chứ không thể thấy cảnh mặt trời xuống biển. Phải chăng nhà thơ
Huy Cận đã đặt điểm nhìn của mình vào điểm nhìn của người dân chài trên con đường ra khơi để có thể quan sát tới
phía tây của bến bờ.
- Mặt trời đỏ rực ấy đi vào lòng đại dương tạo cho biển đêm một nguồn ánh sáng ấm áp. Và lúc này “Sóng đã
cài then đêm sập cửa”.
- Hình ảnh thơ cho ta liên tưởng cả vũ trụ hiện lên như một ngôi nhà, màn đêm như một tấm cửa, sóng như
những chiếc then cài vào màn đêm. Dường như thiên nhiên vũ trụ đang đi vào trạng thái nghỉ ngơi, thư giãn. Đêm
sập cửa gợi ra màn đêm buông xuống rất nhanh, chỉ trong thoáng chốc, trong khoảnh khắc ngôi nhà biển đêm ấy đã
ngừng hoạt động đi vào trạng thái nghỉ ngơi, cảnh màn đêm buông xuống đầy huyền bí, đầy thử thách đối với con
người.
- Mở rộng: Từ xưa đến nay, hình ảnh hoàng hôn luôn là nguồn cảm hứng của thi ca, rất nhiều nhà thơ đã viết
về hoàng hôn. Nhà thơ Thôi Hiệu - một lữ khách xa quê trong buổi chiều hoàng hôn lại thấm đẫm nỗi buồn nhớ về
quê hương:
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai
Còn nhà thơ Thâm Tâm trong bài “Tống biệt hành” lại thấm đẫm nỗi buồn man mác, một sự chia ly của chàng
trai Hà Nội ra đi vì tổ quốc, làm xúc động lòng người trong buổi chiều hoàng hôn:
Đưa người ta không đưa qua sông
Sao có tiếng sóng ở trong lòng
Bóng chiều không thắm không vàng vọt
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong
Có thể thấy, chiều hoàng hôn trong thơ xưa cũng như thơ mới thường đượm một nỗi buồn man mác, gợi sự chia
lì, gợi nỗi nhớ quê hương xứ sở của những người lữ khách xa quê.
- Nhưng hoàng hôn trong thơ Huy Cận lại hiện lên hoàn toàn khác, với những hình ảnh thật đẹp, mới lạ: cảnh
chiều hoàng hôn đẹp, tráng lệ, rực rỡ, vô cùng ấm áp, đồng thời gợi sự huyền bí của thiên nhiên, vũ trụ từ đó gợi ra
tâm trạng háo hức say mê khám phá.
- Màn đêm mở ra đã khép lại không gian của một ngày. Giữa lúc vũ trụ, đất trời như chuyển sang trạng thái
nghỉ ngơi thì ngược lại, con người bắt đầu hoạt động:
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi
- Ra khơi không phải là một con thuyền mà là cả một đoàn thuyền. Hình ảnh “đoàn thuyền” đặt ở đầu câu gợi
lên số lượng cả một đoàn thuyền nối tiếp nhau ra khơi. Đây còn là hình ảnh hoán dụ chỉ tập thể những người dân
chài đang bước vào một ngày lao động mới mang theo sức mạnh của cả một tập thể tiến vào biển cả.
- Từ “lại” được tác giả sử dụng rất khéo léo. Không phải là lần đầu tiên đoàn thuyền ra khơi mà sự ra đi của
đoàn thuyền đã trở thành thường xuyên, thành nếp quen thuộc. Từ “lại” kết hợp từ “đã” ở câu thơ trên cho ta thấy
hoạt động ngược chiều giữa thiên nhiên và con người.
- Vậy là khi thiên nhiên vũ trụ đi vào trạng thái nghỉ ngơi thì lại cũng là lúc con người bắt tay vào buổi lao
động mới. Công việc đánh cá trên biển vốn rất khó khăn vất vả nhưng chính lối viết của tác giả cho ta cảm nhận họ
ra khơi đánh cá mà như đang trở về ngôi nhà của mình, hết sức gần gũi, thân thiết, có lẽ vì vậy mà họ ra khơi trong
tâm trạng vui tươi, phấn khởi, câu hát lao động của họ vang lên làm căng cả cánh buồm
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
- Trong câu thơ thứ 2, chữ “căng, cùng” nối liền ba sự vật hiện tượng vốn khác xa nhau “câu hát, cánh buồm,
gió khơi” tạo nên một trường liên tưởng độc đáo: người ngư dân cất cao tiếng hát, tiếng hát vang khỏe của họ như
hòa vào với gió khơi làm căng cánh buồm đẩy con thuyền ra khơi. Hình ảnh ẩn dụ cùng bút pháp khoa trương đã thể
hiện niềm vui, phấn khởi, lạc quan, yêu đời của người dân chài với tư thế làm chủ thiên nhiên, đất trời. Câu thơ giúp
ta có quyền hy vọng về một mẻ lưới trĩu nặng.
_ Đánh giá: Khổ thơ mở đầu tiêu biểu cho phong cách thơ Huy Cận. Cảm hứng về thiên nhiên vũ trụ hòa
quyện với cảm hứng về cuộc sống mới, con người mới những năm đầu miền bắc đi lên chủ nghĩa xã hội tạo nên
những hình ảnh thơ vừa kì vĩ, vừa tráng lệ. Đoạn thơ tái hiện cảnh đoàn thuyền ra khơi với khí thế phấn chấn hứng
khởi say mê dự báo về một chuyến ra khơi gặt hái nhiều thành quả. Đoạn thơ cho ta thấy trí tưởng tượng phong phú,
tình yêu thiên nhiên đất nước, yêu cuộc sống mới của nhà thơ.
2.2. Khổ 2: Khổ thơ là khúc hát ngợi ca biển đẹp, ân tình và giàu có
Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi!
- Nghệ thuật liệt kê các loài cá “cá bạc, cá thu” giúp Huy Cận ca ngợi sự giàu có của biển khơi. Cá bạc là loại
các cỡ nhỏ, thân bầu dục dài, dẹt hai bên, còn gọi là cá mắm mỡ sống gần bờ tại độ sâu 30 - 60m. Có lẽ vì thế mà
nhà thơ nhắc đến nó trước tiên và loài cá ấy làm mặt biển lặng chăng. Khác với cá bạc, cá thu là loại cá nổi điển
hình của đại dương. Hàng năm chúng di cư vào gần bờ hàng đàn lớn để đẻ và vỗ béo. Chúng đi rào rào sát mặt nước
như đoàn thoi, làm sóng biển chứa lân tinh nổi lên muôn luồng sáng. Hình ảnh so sánh liên tưởng cá thu với đoàn
thoi - dệt biển muôn luồng sáng đã gợi nên vẻ đẹp của cá thu.
- Sử dụng những từ ngữ độc đáo qua từ “dệt, đoàn thoi, luồng sáng” gợi cho chúng ta những liên tưởng thú vị
biển đêm như một tấm lưới được dệt nên bởi màu sắc của các loài cá: ánh sáng trắng của đoàn cá bạc hòa quyện với
đàn cá thu rẽ nước tỏa sáng lung linh
_ Liên tưởng phong phú, lãng mạn: khung cửi với biển đêm là hình ảnh thơ độc đáo, ấn tượng, là kết quả của
quan sát thực tế và hồn thơ bay bổng của tác giả.
- Kết thúc đoạn thơ là lời gọi “cá ơi” thân thiết, trìu mến thể hiện sự gắn bó mật thiết giữa con người và biển
cả, họ cất tiếng hát không chỉ đem lại niềm vui trong lao động mà còn để gọi cá vào lưới. Điều này khiến cho công
việc đánh cá trên biển đêm trở nên nhẹ nhàng.
- Nhịp thơ 2/2/3 với nhạc điệu thiết tha sâu lắng cùng trí tưởng tượng, cách sử dụng từ ngữ độc đáo, đoạn thơ
không chỉ thể hiện sự giàu có của biển cả, gần gũi giữa con người và biển cả còn là chuyến ra khơi thuận lợi.
_ Như vậy, hai khổ thơ với yếu tố tả thực cùng một loạt các biện pháp tu từ, ngôn ngữ chọn lọc, tác giả đã
khắc hoạ thành công cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi, tâm trạng say mê, háo hức, tràn đầy lạc quan. Từ đó còn thể
hiện tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống, yêu lao động, trân trọng ngợi ca vẻ đẹp của con người lao động, vẻ đẹp
của biển cả của Huy Cận.
3. Cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển đêm
a. Cảnh thả lưới được tác giả khắc họa qua những hình ảnh thơ đầy lãng mạn:
❖ Khổ 3
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng
- Những câu thơ là kết quả của trí tưởng tượng phong phú bay bổng và cảm hứng dào dạt của nhà thơ trước vẻ
đẹp của thiên nhiên vũ trụ và tư thế làm chủ của người lao động trên vùng biển quê hương.
- Hai chữ “thuyền ta” vang lên đầy tự hào thể hiện niềm vui sướng kiêu hãnh, tư thế sẵn sàng của người ngư
dân khi bắt tay vào công việc, khi làm chủ công việc của chính mình sau những năm tháng dài đất nước chìm trong
nô lệ.
- Với bút pháp lãng mạn kết hợp với hình ảnh ẩn dụ “buồn trăng, lái gió" độc đáo mới lạ qua trí tưởng tượng
phong phú. Câu thơ đầu tiên giúp chúng ta hình dung đoàn thuyền ra khơi vào một đêm có trăng soi gió thổi nên
người lao động hình dung gió là cánh lái, trăng là cánh buồm; con thuyền đánh cá hóa thành thuyền gió trăng thơ
mộng, thuyền của thi ca nghệ thuật, người lao động bỗng thành thi sĩ.
- “Lướt” là động từ gợi dáng trôi nhanh diệu lướt nhẹ của con thuyền trên mặt biển vì nó vướng vào ngọn gió
trời, vì con người biết chung tay góp sức; gợi cảnh lao động nhẹ nhàng không còn mảy may đắng cay, mồ hôi, muối
mặn.
- Hình ảnh “mây cao, biển bằng” gợi không gian bao la, khoáng đạt, cái cao vời của mây, vời vợi của mặt bể;
con thuyền trở thành trung tâm vũ trụ, hình ảnh con người làm chủ thiên nhiên.
_ Hai câu thơ cho ta cảm nhận hình ảnh đoàn thuyền không hề nhỏ nhoi trước biển cả mênh mông mà kì vĩ,
lung linh huyền ảo, hòa nhập với không gian rộng lớn của thiên nhiên vũ trụ. Công việc lao động đánh cá hài hòa
với nhịp sống của thiên nhiên, đất trời. Lời thơ mở ra một không gian rộng lớn với cái cao của trời, cái sâu của
nước, cái rộng dài của biển. Trong không gian ấy, hình ảnh con thuyền trở nên kì vĩ, đi giữa biển khơi mà như đang
lướt giữa chốn tiên cảnh.
- Trên nền biển đêm, hình ảnh người lao động hiện lên với tư thế làm chủ:
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng
- Với 1 loạt động từ “dàn, đan, vậy, giăng” cùng nhịp thở nhanh, dồn dập, đoạn thơ giúp chúng ta hình dung
công việc đánh cá của người dân chài như trận đánh thực sự, người ngư dân bỗng chốc biến thành những chiến sĩ
trên mặt trận sản xuất đang chinh phục thiên nhiên với vũ khí là lưới, thuyền là phương tiện, biển là mặt trận. Đặc
biệt với các từ “đậu, dò", câu thơ biến đoàn thuyền đánh cá giống như một đoàn thám hiểm đang đi dò tìm khai phá
tài nguyên quý giá.
- Tầm vóc con người và đoàn thuyền được nâng lên hòa cùng vũ trụ khiến cho ta cảm giác con người hiện lên
không còn nhỏ nhoi, bé nhỏ, cô đơn giữa thiên nhiên rộng lớn bao la như trong thơ Huy Cận trước cách mạng nữa
mà con người hòa cùng thiên nhiên trong tư thế làm chủ thiên nhiên, làm chủ cuộc sống. Hình ảnh người dân chài
đẹp, hiên ngang. Hình ảnh thơ thật lãng mạn bay bổng và tâm hồn con người cũng thật vui vẻ, phơi phới. Công việc
lao động nặng nhọc của người đánh cá đã trở thành bài ca đầy niềm vui, nhịp nhàng cùng thiên nhiên.
❖ Khổ 4: Ca ngợi sự giàu đẹp của biển cả
- Nếu khổ thơ trên gợi ra tư thế làm chủ thiên nhiên, vũ trụ của con người thì khổ tiếp theo là lời ngợi ca sự
giàu đẹp của biển cả:
Cá nhụ, cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long
- Với nghệ thuật liệt kê, hai câu thơ đầu tác giả đã kể tên rất nhiều loài cá góp phần làm nên sự giàu có của
quê hương với những loài cá rất nổi tiếng được liệt vào hàng: chim – thu – nhụ - đé. Ẩn sau đó là niềm tự hào, yêu
mến của tác giả về biển cả quê hương.
- Ấn tượng nhất trong đoạn thơ có lẽ là hình ảnh những con cá song: “Cá song lấp lánh đuốc đen hồng Cái
đuôi em quẫy trăng vào choé”
- Những câu thơ tràn ngập ánh sáng. Những tính từ “vàng chóe, lấp lánh, đen hồng” khiến cho biển cả về đêm
hiện lên với vẻ đẹp lộng lẫy kì vĩ như một bức tranh sơn mài. Cảnh biển thật sự biến thành đêm hội của các loài cá.
- Cá song là loài cá sống gần bờ, thân hình dày và dài, có nhiều vạch dọc thân hoặc điểm những chấm tròn
màu đen hồng. Màu sắc cá thường rực rỡ. Có lẽ từ vẻ đẹp ngoại hình ấy mà tác giả có So sánh liên tưởng thật thú vị
“lấp lánh đuốc đen hồng”. Một liên tưởng thật đẹp và đầy sức sống, hư ảo trên cơ sở quan sát tinh tế của nhà thơ. Cá
song đang bơi dưới mặt biển tràn ngập ánh trăng khiến tác giả liên tưởng như những ngọn đuốc lấp lánh giữa biển
đêm.
- Từ láy “lấp lánh” đặt giữa câu thơ tạo độ sáng lung linh hư ảo. Hình như cá song đã thu hết ánh sáng bàng
bạc của ánh trăng của nước tạo nên cái lấp lánh ấy. Câu thơ giúp chúng ta hình dung vẻ đẹp mềm mại của con cá
song đồng thời hình dung khung cảnh đẹp, rực rỡ của biển Hạ Long lúc về đêm.
- Không chỉ quan sát thấy vẻ đẹp rực rỡ của các loài cá, nhà thơ còn cất tiếng gọi cá trìu mến : “Cá đuôi em
quẫy trăng vàng chóe”.
- Nhà thơ đã gọi cá là “em”, cách nói nhân hóa khiến cho lời thợ thêm sâu lắng trữ tình. Cách gọi ngọt ngào
tình tứ giống như chàng ngư phủ gọi nàng tiên cá trong vũ hội đêm trăng. Câu thơ thể hiện mối quan hệ thân thiết
gắn bó giữa con người với thiên nhiên cho ta thấy được bao nhiêu yêu thương trìu mến, trân trọng của tác giả với
thiên nhiên biển cả quê hương.
_ Như vậy, dưới ngòi bút của tác giả biển trời Hạ Long hiện lên đầy màu sắc và lộng lẫy. Đặc biệt là câu thơ
cuối “đêm thở sao lùa nước Hạ Long” là sự cảm nhận rất tinh của một tâm hồn họa sĩ và tâm hồn thi sĩ.
- Trước biển về đêm, nhà thơ nghe rõ từng nhịp thở của đêm. Nhà thơ đã thổi hồn vào thiên nhiên qua nghệ
thuật nhân hóa “đêm thở, sao lùa” độc đáo cùng dấu hai chấm khiến câu thơ trở thành câu định nghĩa: Hạ Long
không chỉ có trăng mà cả sao in mặt nước, mỗi khi gió lùa sóng thì sóng lùa sao. Nghe những âm thanh ấy rồi lại
nhìn thấy những gợn sóng nhấp nhô khiến biển như một bộ ngực khổng lồ làm người lao động tưởng là tiếng đêm
đang thở. Vũ trụ vô tri bỗng xôn xao một linh hồn, một sự sống. Đó là chứng tích của một tâm hồn trẻ trung, một
tình yêu thiết tha với biển cả của người lao động mới.
- Điều thú vị là tạo nên nhịp thở phập phồng ấy cho biển đêm là hình ảnh “sao lùa nước Hạ Long”. Câu thơ
xuất phát từ hình ảnh thực: ánh sao in xuống mặt biển dập dềnh theo những con sóng thủy triều lên xuống khiến nhà
thơ có cảm giác như sao đang lùa nước. Đây là một hình ảnh lạ - một sáng tạo nghệ thuật của Huy Cận khiến cho
cảnh thiên nhiên thêm sinh động. Với nghệ thuật nhân hóa này tác giả đã kéo gần hơn mối quan hệ gắn bó giữa các
sự vật hiện tượng vốn cách xa nhau “sao, màn đêm, sóng biển”.
_ Đánh giá: Khổ thơ tiêu biểu cho hồn thơ Huy Cận sau Cách mạng tháng Tám: sự kết hợp giữa cảm hứng
thiên nhiên vũ trụ với cảm hứng về cuộc sống mới, con người mới. Bút pháp lãng mạn cùng những hình ảnh so
sánh, nhân hóa, ẩn dụ... tạo nên vẻ đẹp kì ảo. Toàn khổ thơ cho thấy cảnh biển hiện lên lung linh huyền ảo, sống
động. Biển không chỉ giàu đẹp mà còn gần gũi gắn bó thân thiết với con người. Ân sau lời thơ là một tâm hồn lãng
mạn thơ mộng của Huy Cận với tình yêu thiên nhiên, yêu biển cả. Nếu bài thơ là một khúc tráng ca ngợi ca lao động
sự giàu có của biển cả quê hương thì khổ thơ chính là một lời ca rất đẹp trong khúc ca ấy.
b. Cảnh gọi cá vào lưới (Khổ 5): Biển không những giàu đẹp mà còn rất ân nghĩa thủy chung, bao la như lòng
mẹ. Biển cho con người cá, nuôi lớn con người. Những người dân chài đã hát bài ca gọi cá vào với họ:
Ta hát bài ca gọi cá vào
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao
Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào
- Đại từ “ta”vang lên đầy tự hào mở đầu đoạn thơ, “ta” – là người dân chài hay cũng chính là tác giả đang hòa
mình cùng ngư dân để cất cao tiếng hát: tiếng hát như phá tan không khí yên tĩnh của biển đêm, phá tan khó nhọc,
tiếp thêm sức mạnh cho con người biển công việc đánh cá khó nhọc thành bài ca lao động thể hiện niềm vui.
- Cảnh đánh cá rất đặc biệt: Có tiếng hát con người, có nhịp gõ thuyền của trăng “Gõ thuyền đã có nhịp trăng
cao”. Không phải con người có thuyền để xua cá vào lưới mà là “trăng cao gó”. Trong đêm trăng sáng, vầng trăng
in xuống mặt nước, sóng xô bóng trăng dưới nước gõ vào mạn thuyền khiến tác giả liên tưởng trăng đang gõ nhịp
vào mạn thuyền.
_ Có thể nói đây là hình ảnh lãng mạn đầy chất thơ làm đẹp thêm công việc lao động đánh cá trên biển. Thiên
nhiên đã cùng với con người hòa đồng trong lao động.
- Hòa trong khúc tráng ca lao động ca ngợi công việc lao động đánh cá trên biển đêm còn là những giai điệu
chứa chan ân tình, ân nghĩa biển:
Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào
- Biển cả vốn là hiện tượng thiên nhiên vô cùng dữ dội nhưng nhờ nghệ thuật so sánh “biển như lòng mẹ" và
nghệ thuật nhân hóa qua từ "nuôi", biển trở nên hiền dịu, hào phóng, bao dung như lòng người mẹ cung cấp, nuôi
lớn con người cả về thể xác và tâm hồn.
- Nghệ thuật so sánh không chỉ thể hiện mối quan hệ thân thiết giữa con người với biển cả mà còn gợi đến sự
gắn bó thiêng liêng máu thịt của ngư dân với biển cả như tấm lòng của người con đối với bà mẹ của riêng mình.
- Ẩn sau 2 câu thơ là tấm lòng biết ơn sâu nặng của tất cả dân chài lưới trên biển Đông với biển cả đồng thời
đó là niềm tin yêu mãnh liệt với quê hương.
- Mở rộng: Chúng ta đều biết công việc đánh cá là một công việc vô cùng nặng nhọc, vất vả nhưng trong lời
thơ của Huy Cận ta lại thấy một niềm vui, niềm hạnh phúc, một sự gắn bó máu thịt của người ngư dân với biển. Nhà
thơ Tế Hanh cũng đã từng sống ở làng chài ven biển, khi xa làng quê nghèo khó, từ biệt những chuyến ra khơi đầy
sóng gió gian khổ vẫn nặng lòng với biển cả quê hương:
Nay xa cách, lòng tôi luôn tưởng nhớ
Màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi
Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi
Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá
c. Cảnh kéo lưới: Khổ 6:
- Thời gian về sáng mỗi lúc một gần hơn, hòa cùng nhịp điệu của vũ trụ, công việc đánh cá mỗi lúc 1 khẩn
trương hối hả hơn:
Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng
- Câu thơ với nhịp thơ 2/2/3 gợi nhịp lao động khẩn trương chạy đua với thời gian của con người: ánh sao trên
trời đang mờ dần, màn đêm nhường chỗ cho năng mới ban mai. Đó cũng là lúc con người đang hoàn thành nốt
những hoạt động cuối cùng trong công việc lao động.
- Và trong hoàn cảnh ấy nổi bật lên hình ảnh “ta kéo xoăn tay chùm cá nặng”. Cụm từ “kéo xoăn tay” đã vẽ
nên trước mắt người đọc người dân chài với cơ thể cường tráng gân guốc đang thực hiện công việc kéo lưới cách
bền bỉ. Dường như sức dẻo dai của họ đang dồn lại ở đôi vai để thu lại thành quả lao động.
- Hình ảnh thơ gợi cho ta nghĩ đến hình ảnh những chàng trai làng chài khỏe mạnh, trong nỗi nhớ của nhà thơ
Tế Hanh: Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng
Cả thân hình nồng thở vị xa xăm
_ Có thể nói hai câu thơ đã tạo nên bức tượng đài về người dân chài thật đẹp và khỏe khoắn. Đó là những con
người ăn sóng, nói gió quanh năm gắn bó với biển khơi.
- Câu thơ gây ấn tượng với người đọc bởi hình ảnh “chùm cá nặng” gợi thành quả lao động sau một đêm vất
vả và một lần nữa nhấn mạnh sự giàu có của biển cả. Ẩn sau những lời thơ ấy là niềm vui, là nét mặt hồ hởi của
người dân chài.
- Có thể nói đó chính là phần thưởng của biển cả thiên nhiên dành cho người ngư dân, nhà thơ đã cảm nhận
thật tinh tế khi theo chân họ ra biển. Cũng theo bước chân của người lao động, nhà thơ Hoàng Trung Thông lại ca
ngợi những người lao động trên núi với sức mạnh:
Bàn tay ta làm nên tất cả
Có sức người sỏi đá cũng thành cơm
Thành quả lao động của họ thể hiện rõ hơn trong hai câu thơ cuối:
Vẩy bạc, đuôi vàng loé rạng đông
Lưới xếp, buồm lên đón nắng hồng
- Câu thơ xuất phát từ hình ảnh thực: dưới ánh nắng ban mai của buổi sớm những con cá tươi ngon vừa được
kéo lên từ biển, vẩy cá được ánh bình minh chiếu rọi lung linh nhiều màu sắc làm lóe sáng cả rạng đông trên biển.
Câu thơ còn giúp ta liên tưởng đến một cuộc sống tươi đẹp, tương lai mới của người lao động. Câu thơ vẽ nên một
bức tranh tươi sáng ấm áp bởi sự hòa quyện của màu sắc đó là màu bạc của vảy cá, màu vàng của rạng đông.
- Khổ thơ kết thúc bằng hình ảnh thơ diễn tả những động tác cuối cùng của người lao động khi thu dọn ngư
cự. Hình ảnh thơ tạo một sự nhịp nhàng giữa sự lao động của con người với sự vận hành của vũ trụ. Con người
muốn chia sẻ niềm vui với ánh bình minh. Nhịp thơ đến dây thong thả hơn diễn ra tâm trạng sảng khoái, trạng thái
thư thái, thảnh thơi của người dân sau một đêm chinh phục biển cả.
_ Với cảm hứng lãng mạn về thiên nhiên, vũ trụ con người, trí tưởng tượng phong phú kết hợp với các biện
pháp tu từ so sánh, ẩn dụ, nhân hóa, liệt kê, tác giả giúp ta cảm nhận vẻ đẹp bình dị của con người lao động như hòa
vào vẻ đẹp rực rỡ tươi sáng của thiên nhiên. Cảnh đánh cá trên biển của con thuyền diễn ra thật đẹp với hình ảnh
con người trong tư thế làm chủ thiên nhiên, làm chủ biển cả. Đoạn thơ là cả những lời trầm trồ ngợi ca về vùng biển
quê hương của tác giả.
4. Cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về: Đoàn thuyền đánh cá đã ra đi vào lúc hoàng hôn trong tiếng hát và trở về
vào lúc bình minh cũng trong tiếng hát:
Câu hát căng buồm cùng gió khơi
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi
- Câu thơ mở đầu có sự lặp lại câu thơ ở khổ đầu bài thơ tạo một cảm giác tuần hoàn: câu hát căng buồm đưa
thuyền ra khơi thì nay vẫn câu hát ấy căng buồm dưa thuyền trở về. Sự lặp lại khiến cả bài thơ vang lên như một
khúc tráng ca ngợi ca công việc đánh cá và sự tươi đẹp của biển cả quê hương. Âm hưởng khúc ca ấy vang lên ngân
dài suốt bài thơ. Đoàn thuyền ra khơi trong câu hát “Câu hát căng buồm cùng gió khơi”, đoàn thuyền đánh cá trên
biển cũng trong khúc hát ấy “Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng”, “Ta hát bài ca gọi cá vào". Câu hát hòa cùng công
việc lao động vất vả, gian nan như tiếp thêm sức mạnh cho con người. Vì giờ đây trong giây phút trở về, khúc ca ấy
vang lên “căng buồm với gió khơi". Nhưng nếu tiếng hát ở khổ một là tiếng hát của niềm tin, hy vọng lạc quan khí
thế ra khơi đầy phấn chấn thì giờ tiếng hát cất cao khỏe khoắn với niềm vui phơi phới trước thành quả đạt được. Đó
là khúc ca khải hoàn trong niềm vui chiến thắng.
- Tiếng hát một lần nữa cùng với gió khơi thổi căng cánh buồm đưa đoàn thuyền lướt đi băng băng trên mặt
biển xanh. Nhịp thơ phơi phới tạo cảm giác lâng lâng niềm vui khôn tả. Có thể nói trong tiếng hát ấy ta không hề
thấy sự mệt nhọc vất vả nào sau một đêm lao động cực nhọc trên biển mà chỉ thấy cảm giác xốn xang, sảng khoái.
- Và có lẽ chính trong tâm trạng ấy, ngư dân tưởng như “Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”.
- Nghệ thuật nhân hóa trong câu thơ vừa diễn tả tốc độ lướt đi rất nhanh của con thuyền trên đường trở về đất
liền vừa khắc họa được tầm vóc lớn lao sánh ngang thiên nhiên, mặt trời của đoàn thuyền, nhấn mạnh tư thế chủ
động của con người trước thiên nhiên. Hình ảnh nhân hoá khiến cho con thuyền trở nên sinh động hơn, đoàn thuyền
chạy đua cùng mặt trời để kịp về bến bắt đầu cho một ngày mới. Dường như cuộc đua này đã âm thầm diễn ra từ khi
đoàn thuyền bắt đầu ra khơi và bây giờ đang là lúc nước rút. Câu thơ chính là vẻ đẹp hùng tráng được cất lên từ
niềm vui say lao động, từ cảm hứng dạt dào của tác giả trước vẻ đẹp thiên nhiên vũ trụ và người lao động mới.
- Khổ thơ kết thúc với cảnh bình minh hùng vĩ, tráng lệ, nên thơ trên vùng biển Hạ Long:
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi
- Có một sự đối lập giữa khổ đầu và khổ cuối. Nếu như khổ thơ thứ nhất là hình ảnh mặt trời xuống biển thì
giờ đây là “mặt trời đội biển”, nếu khổ đầu là ánh hoàng hôn thì khổ thơ khép lại bài thơ lại là ánh bình minh cha
hòa thể hiện nhịp vận động tuần hoàn của thiên nhiên đất trời. Sự lặp lại hình ảnh mặt trời không chi gắn kết nối liền
mạch thơ mà còn tạo ra sự ấm áp, nồng hậu, rực rỡ, huy hoàng.
- Cách nói nhân hóa “mặt trời đội biển” khắc họa vẻ đẹp kì vĩ tráng lệ của biển Đông. Mặt trời như một sinh
thể sống động có hồn và gần gũi gắn bó biết bao với con người. Sau một đêm ngủ dậy, mặt trời đội biển từ từ nhỏ
lên. Ánh sáng của một ngày mới đang chan hòa khắp biển khơi, khắp đất trời. Tác giả gọi ánh sáng ấy là “màu 319 mới”
bởi đó là màu của ánh sáng ban mai rực rỡ tinh khôi. Màu mới ấy còn gợi nhiều liên tưởng độc đáo. Đó là màu của
ngày mới, của bình minh, của cuộc sống tươi đẹp đang trỗi dậy trên quê hương là màu của nhịp sống mới tràn ngập
niềm vui. Màu mới là lời chào đón ân cần, thắm thiết của thiên nhiên đối với con người. Câu thơ chứa đựng một cái
nhìn khỏe khoắn, đầy lạc quan của tác giả về cuộc sống mới đang diễn ra trên miền Bắc nước ta lúc bấy giờ.
- Bài thơ khép lại với hình ảnh: “Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”
- Câu thơ bắt nguồn từ thực tế những con cá vừa được đánh lên từ lòng biển vẫn còn tươi nguyên được ánh
mặt trời chiếu rọi khiến nó trở nên lộng lẫy huy hoàng. Muôn ngàn mắt cá lấp lánh là muôn ngàn mặt trời nhỏ bé tỏa
ánh sáng huy hoàng trải dài muôn dặm.
- Hình ảnh thơ còn mang ý nghĩa biểu tượng về cuộc sống ấm no, về tương lai xán lạn, một tương lai tươi
sáng hứa hẹn nhiều điều tốt lành từ chính đôi bàn tay của người lao động. Ân sau những câu thơ, ta không chỉ cảm
nhận được sự giàu có phong phú của biển cả mà còn cảm nhận được niềm vui của ngư dân khi được làm chủ vùng
biển trời tổ quốc, niềm vui phấn chấn vui say của tác giả khi đoàn thuyền trở về với khoang thuyền đầy cá.
_ Đánh giá: Khổ thơ kết tiêu biểu cho phong cách thơ Huy Cận cảm hứng thơ hướng về thiên nhiên vũ trụ và
cảm hứng về cuộc sống mới đã tạo nên những hình ảnh thơ kì vĩ tráng lệ. Bút pháp lãng mạn với nghệ thuật... đã tạo
ra hiệu quả thẩm mĩ đặc biệt. Bức tranh đoàn thuyền đánh cá trở về vừa giàu đường nét vừa lộng lẫy sắc màu không
chỉ khắc họa vẻ đẹp biển Hạ Long khoảnh khắc bình minh lên mà còn khắc họa tư thế làm chủ, tầm vóc, vị thế, vẻ
đẹp, sức mạnh của người lao động. Thiên nhiên và con người có sự gắn bó hòa hợp. Đọc đoạn thơ ta cảm nhận được
tình yêu thiên nhiên, yêu biển cả, niềm say mê hào hứng của tác giả trong cuộc sống mới đang lên.
IV. Đánh giá tổng hợp
1. Nghệ thuật
- Thể thơ thất ngôn trường thiên, giọng điệu khỏe khoắn sôi nổi hào hứng, lúc thì phơi phới bay bổng, khi thì
kéo dài, vang xa.
- Cảm hứng lãng mạn, cảm hứng về thiên nhiên, vũ trụ cùng với trí tưởng tượng phong phú, bay bổng, việc sử
dụng một cách độc đáo những hình ảnh nhân hóa, ẩn dụ, so sánh đã giúp nhà thơ sáng tạo được những hình ảnh độc
đáo, mới lạ, giàu ý nghĩa.
2. Nội dung
- Bài thơ đã khắc họa được nhiều hình ảnh tráng lệ về thiên nhiên, vũ trụ và người lao động thể hiện sự hài
hòa giữa con người và thiên nhiên, từ đó làm nổi bật niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ trước đất nước và cuộc sống
mới.
- Bài thơ chính là khúc tráng ca ngợi ca người lao động trong tư thế làm chủ công việc, làm chủ thiên nhiên,
đất trời, ca ngợi biển cả quê hương giàu đẹp.
3. Mở rộng, nâng cao
- Bài thơ đánh dấu một bước chuyển biến lớn trong thơ Huy Cận: trước Cách mạng, thơ ông thường mang
một nỗi buồn u uất với hình ảnh con người cô đơn nhỏ bé trước thiên nhiên vũ trụ, sau Cách mạng hồn thơ sôi nổi,
phơi phới lạc quan, yêu đời.
- Bài thơ đã góp phần phản ánh chân thực không khí làm ăn tập thể sôi nổi hào hứng say mê của người lao
động miền Bắc nước ta vào cuối thập niên 50 của thế kỷ 20.
- Bài thơ không chỉ giúp ta hiểu hơn về không khí làm ăn tập thể trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa ở
miền bắc những năm đầu hòa bình mà còn cho ta thấy rõ hơn tài năng của Huy Cận, hiểu hơn hồn thơ Huy Cận,
đồng thời gợi ở người đọc tình yêu cuộc sống, yêu lao động, tự hào về người dân đất nước.
- Bài thơ chính là một “món quà đặc biệt của vùng mỏ Hòn Gai - Cẩm Phả cho vào túi thơ Huy Cận” (Xuân
Diệu). Cùng với một số tác phẩm cùng thời, bài thơ đã góp phần làm mới cho gương mặt văn học Việt Nam những
năm đầu sau chiến thắng Điện Biên Phủ: tràn đầy niềm vui ca ngợi cuộc sống mới, khích lệ, động viên người dân
hăng hái tham gia sản xuất, xây dựng đất nước.
III. Kết bài
Đoàn thuyền đánh cá là một bài ca lao động hứng khởi, hào hùng. Nhà thơ ca ngợi biển cả mênh mông - nguồn tài
nguyên bất tận của Tổ quốc, ca ngợi những con người lao động cần cù, gan góc, ngày đêm làm giàu cho đất nước.
Cảm hứng trữ tình của Huy Cận và nghệ thuật điêu luyện của ông đã cuốn hút người đọc thực sự. Chúng ta cùng
chia sẻ niềm vui to lớn với nhà thơ, với tất cả những người lao động mới đang kiêu hãnh ngẩng cao đầu trên con
đường đi tới tương lai tươi sáng. Hơn bốn thập kỷ đã trôi qua, bài thơ vẫn giữ nguyên vẹn giá trị ban đầu của nó.
Phần nào, bài thơ giúp chúng ta hiểu được chân dung tinh thần mới của Huy Cận sau bao biến cố lịch sử trọng đại
của đất nước và dân tộc. Một Huy Cận trữ tình cách mạng.
BẾP LỬA
- Bằng Việt -
A-MỞ BÀI
Có những thi nhân lang thang trên triền đê của ký ức.Trong số ấy có một thi sĩ vì quá đỗi nhớ người yêu, trong cơn
điên loạn bất giác kêu lên:
"Anh đã đi qua bao bão lốc từng cơn
Cây rụng lá trong chiều thanh thản nhất
Anh qua cả màu không gian ngây ngất
Một tiếng thầm trong tháng mới lao xao...
Em đã đến rồi đi như một giấc chiêm bao!"
Và cũng chính thi nhân ấy trong hành trình mở lối tới xứ sở cái đẹp của thơ ca, ta bắt gặp anh dừng chân bên vệ
đường nhặt nhạnh những mẩu lá khô nhóm nhen mảnh hồi ức về thời thơ ấu thuở hoa mới đơm nụ. "Bếp lửa" -
trạm dừng chân ký ức của Bằng Việt, bếp lửa giản dị mà thiêng liêng, chân quê và thân thương. Bếp lửa vẫn cháy
hoài qua năm tháng có lẽ bởi ngọn lửa rạo rực tình bà cháu của thi nhân thiêng liêng đến khó tả, thiêng liêng đến
nằm ngoài quy luật băng hoại của thời gian.
B-THÂN BÀI
II – GIỚI THIỆU TÁC GIẢ, TÁC PHẨM
Bằng Việt là nhà thơ cùng lứa với các nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ như Nguyễn Duy,
Nguyễn Khoa Điềm, Hữu Thỉnh..."Vào những năm đầu của thập kỷ 60, Bằng Việt xuất hiện giữa làng thơ Việt
Nam như một ánh đèn nê-ông kỳ ảo, tỏa sáng trí tuệ, sự mát mẻ của tuổi xuân và cái dịu dàng của hồn thơ
anh"(Phạm Hải). Bằng Việt xếp chữ nên thơ như nỗi trải lòng mềm mại, chính vì vậy mà giáo sư Lê Đình Kỵ nhận
thấy trong anh "cái tâm hồn nhiều suy nghĩ và rung động tinh tế", còn Hồng Thọ cảm được "sự suy nghĩ có tình có
nghĩa được bộc lộ nhất quán trong thơ anh". Cũng như bao người con đem theo trái tim tràn đầy thương nhớ khi xa
nhà, Bằng Việt đem theo tình yêu bà và quê hương da diết tới miền đất Liên Xô xa xôi. Bài thơ Bếp Lửa ra đời
trong nỗi yêu nhớ dâng trào trong lòng tác giả và được đưa vào tập "Hương Cây - Bếp Lửa" - tập thơ đầu tay của
Bằng Việt và Lưu Quang Vũ. Bài thơ như con thác chảy từ quá khứ tới hiện tại theo một vòng tuần hoàn mạch
cảm xúc. Đó là những năm tháng nhọc nhằn, đói khổ nhưng lại rất vui khi bên bà, đó cũng là quá trình trưởng
thành của cháu dọc theo năm tháng, là nơi những rung động tinh tế chớm nảy nở trong hơi ấm nồng nàn của bếp
lửa, trong vòng tay bao bọc và thương yêu vô vàn của bà trước "biết mấy nắng mưa".
II.-VẤN ĐỀ NGHỊ LUẬN
(1.-Bếp lửa trong hiện tại khơi nguồn dòng hồi ức: khổ 1)
Như một quy luật nghiệt ngã của văn chương, của sáng tạo nghệ thuật, bất kỳ ai khi viết về tuổi thơ cũng thường
không tránh khỏi bị lan man, không nổi bật tâm điểm bởi bao bọc những tháng năm qua mãi ấy là những cảm xúc
da diết, những nỗi nhớ tiếc khôn nguôi. Bằng Việt cũng viết về kỉ niệm ấu thơ nhưng thi sĩ đã chọn lựa cho mình
một chi tiết độc đáo, tuy bình dị nhưng độc giả phải tinh tế mới nhận ra: "Bếp lửa". Nhớ về tuổi thơ, nghĩ về bếp
lửa, sóng lòng thi nhân lại dạt xúc cảm của mình tới hình ảnh người bà thương yêu - một hình ảnh xuyên suốt bài
thơ lúc nào cũng chập chờn lay động:
“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”
… Một buổi sáng sớm nơi đất khách quê người, cháu bắt gặp hình ảnh bếp lửa thân thương, ấm áp: “ Một bếp lửa
chờn vờn sương sớm” đó là hình ảnh tả thực được cảm nhận bằng thị giác qua từ láy “chờn vờn”, cho ta hình dung
ngọn lửa bập bùng, chập chờn, lúc mờ lúc tỏ quanh bếp lửa. Bếp lửa ấy toả ra hơi ấm dịu dàng. Trong một phút giây
tĩnh lặng của tâm hồn, cháu thảng thốt nhớ đến bếp lửa của bà:
“…Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa…”
Điệp ngữ “một bếp lửa” trở thành điệp khúc mở đầu bài thơ với giọng điệu sâu lắng, nhằm nhấn mạnh hình ảnh
khơi nguồn dòng hồi ức, tạo ấn tượng khó phai về bếp lửa của bà- một hình ảnh quen thuộc trong mọi gia đình.
Hình ảnh bếp lửa hiện lên thật ấm áp giữa cái lạnh của “chờn vờn sương sớm”, thật thân thương nồng ấm với bao
tình cảm “một bếp lửa ấp iu nồng đượm”. Cụm từ “ấp iu” vừa diễn tả công việc nhóm bếp , vừa gợi ra bàn tay dịu
dàng, kiên nhẫn, khéo léo và tấm lòng của bà. Bếp lửa ấy “nồng đượm” khói bếp hay “nồng đượm” tình bà ấm
áp ? Hình ảnh bếp lửa, rất tự nhiên đánh thức dòng cảm xúc hồi tưởng của cháu về bà- người nhóm lửa, người
nhóm bếp mỗi sớm mai- một hình ảnh xuyên suốt bài thơ: “cháu thương bà biết mấy nắng mưa”. Bếp lửa của bà là
bếp lửa của một cuộc đời vất vả , lam lũ và cơ cực qua hình ảnh ẩn dụ “biết mấy nắng mưa”. Nghĩ về bếp lửa,
nhớ về bếp lửa mà trong lòng cháu trào dâng một cảm xúc thương bà mạnh liệt. Chữ “thương” được dùng thật đắt
qua dòng thơ cảm thán, bộc lộ tình cảm trực tiếp của nhà thơ “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”. Từ “thương”
ấy không chỉ là tình yêu mà mà còn là sự thấu hiểu, cảm thông , chia sẻ, trân trọng nâng niu với những vất vả, nhọc
nhằn, lam lũ của đời bà .
(hợp) Với giọng thơ thiết tha giàu cảm xúc, tác giả cho ta thấy hình ảnh bếp lửa khơi gợi dòng hồi ức về bà, hình
ảnh bà với đôi bàn tay khéo léo, chắt chiu tần tảo, kiên trì nhóm lửa cùng với một tấm lòng đôn hậu, ấm áp yêu
thương. Qua đó ta cảm nhận được tình yêu thương lớn lao, sâu sắc của cháu dành cho bà khi khoảng cách không
gian, thời gian trở nên xa vời vợi.
(2.- Kỉ niệm gắn bó của cháu với bà và bếp lửa năm cháu lên bốn tuổi: khổ 2)
… Thước phim thời gian tua ngược chầm chậm lại vào thời cháu lên bốn. Đó kỉ niệm gắn bó của cháu với bà và
bếp lửa năm cháu lên bốn tuổi: kí ức về nạn đói, về thời gian vất vả, cơ cực:
“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay! ”
Cụm từ “đã quen” trong câu thơ “Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói" cho ta cảm nhận mùi khói của bếp lửa đã
trở thành một phần thân thuộc của tuổi thơ tác giả: Mùi khói hun nhuộm cả tuổi thơ cơ cực mà ấm áp. Bên bếp lửa
cháu cùng bà sẻ chia những bữa cơm nghèo. Mùi khói bếp trở nên gắn bó, thấm vào từng hơi thở nồng nàn của quê
hương. Tác giả sử dụng các cụm từ chỉ thời gian “lên bốn tuổi”, “năm ấy” để gợi lên một thời kì lịch sử đau
thương của dân tộc ta khi phải đối diện với nạn đói thảm khốc năm 1945 đã cướp đi sinh mạng của khoảng hai triệu
người . Lối nói thành ngữ “đói mòn đói mỏi” nói lên sự tàn phá khủng khiếp của nạn đói, cái đói bao trùm lên
mỗi con người, mỗi gia đình và làng xóm : nó làm hao mòn kiệt quệ, bòn rút sức lực, huỷ hoại cuộc sống của con
người. Hình ảnh nạn đói cũng được tái hiện rõ nét trong tác phẩm Vợ Nhặt của nhà văn Kim Lân: “người chết như
ngả rạ, bóng người dật dờ như những bóng ma”. Cái đói không chỉ tàn phá con người mà còn bao trùm lên mọi sinh
vật lúc bấy giờ qua phép đảo ngữ trong câu “Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy” gợi cho ta hình ảnh con ngựa
gầy rạc cùng với người bố đánh xe chắc cũng gầy khô. Cái đói, cái nghèo dai dẳng của quê hương tái hiện những
tháng ngày cơ cực đen tối của người nông dân Việt Nam đã in sâu trong tâm trí của nhà thơ và trở thành những kí
ức sâu đậm đầy ám ảnh đau thương . Cháu nhớ về kí ức ấy với nỗi ngậm ngùi, xúc động :

“ Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu


Nghĩ lại bây giờ sống mũi còn cay !”
Cụm từ “khói hun nhèm mắt” là hình ảnh tả thực: bó củi ẩm ướt ngấm sương đêm khi nhóm lên sẽ tạo rất nhiều
khói, làm cay xè mắt cháu, trong những ngày tháng bóng ma của đói khát bủa vây lấy xóm làng, bếp lửa của bà vẫn
“hun nhoèn mắt cháu”. Mùi khói bếp cay xè mắt mang lại cho cháu bữa khoai, bữa sắn cầm cự qua ngày. Bà lặng lẽ,
tất tả ngược xuôi, lam lũ nắng mưa để nuôi nấng cháu qua những tháng ngày ám ảnh bao kiếp người. Câu cảm thán
kết thúc bằng dấu chấm than “Nghĩ lại bây giờ sống mũi còn cay!” diễn tả cảm xúc nghẹn ngào trào dâng trong
lòng tác giả khi nhớ về những năm tháng tuổi thơ gian khổ, cơ cực lầm than; nghĩ mà cồn cào một nỗi nhớ thương
bà. Cảm giác “khói hùn nhèm mắt ” trong quá khứ như đang hiện hữu hoà trộn với nỗi xúc động của hiện tại
“sống mũi còn cay” đã xoá đi khoảng cách mấy chục năm trời, khiến quá khứ như đồng hiện trong hiện tại. Chắc
hẳn cảm xúc quá khứ nhà thơ phải sâu sắc lắm mới có thể trỗi dậy mạnh mẽ đến thế. Cho dù năm tháng đã trôi qua
nhưng kí ức ấy trở thành một vết thương lòng đâu dễ nguôi ngoai.
(hợp) Với giọng giàu cảm xúc, da diết, nao nao lòng người đọc, tác giả đã tái hiện cả tuổi thơ cơ cực, đói nghèo
cùng quá khứ đau thương, lầm than của dân tộc nhưng bếp lửa của bà vẫn cháy sáng hay tình yêu của bà luôn ấm
áp tràn đầy và sưởi ấm cho tâm hồn cháu. Phải chăng ngọn lửa mang cả niềm hi vọng của cháu, của bà sẽ xua đi
cái lạnh lẽo tang thương của đói nghèo.
(3- Kỉ niệm gắn bó của cháu với bà và bếp lửa năm cháu lên tám tuổi: khổ 3)
Nhớ về những kỉ niệm là nhớ về bếp lửa, nhớ về tình bà trong suốt tám năm bên bà. Kỉ niệm gắn bó của cháu
với bà và bếp lửa năm cháu lên tám tuổi:
“ Tám năm ròng, cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà?
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế !”
Mẹ cùng cha công tác bận không về,
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc
Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa ?
(a. Tiếng chim tu hú)
….Tác giả nhớ về tiếng chim tu hú trong suốt tám năm ròng của tuổi thơ- những kỉ niệm đầy ắp âm thanh, ánh sáng
và những tình cảm sâu sắc xung quanh bếp lửa của bà :
“ Tám năm ròng, cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa”

Chi tiết “tu hú kêu” lặp đi lặp lại như một thanh âm quen thuộc trong tâm thức của cháu gợi nên nhiều ý nghĩa
sâu sắc: Tiếng tu hú đã khơi gợi những kỉ niệm tuổi thơ : đó là âm thanh quen thuộc của đồng quê mỗi độ vào hè,
cứ khắc khoải kêu hoài, kêu mãi : “ Tu hú kêu trên những cánh đồng xa”. Tu hú kêu vang vọng những thanh
âm da diết, khắc khoải để lại những nhớ và mong. Tiếng loài chim hè ấy mới hay ho, thiết tha làm sao, một lần
nữa gọi mùa hè vàng ươm trong mường tượng của người tù Cách mạng:
"Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần Vườn
râm dậy tiếng ve ngân
Bắp dây vàng hát đầy sân nắng đào Trời
xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không"
(Tố Hữu)
Tiếng tu hú còn gắn liền với những câu chuyện bà kể về xứ Huế: “ Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà/ Bà hay
kể chuyện những ngày ở Huế” . Chính những câu chuyện đó của bà đã bồi đắp đời sống tâm hồn của cháu; dạy
cho cháu tình yêu quê hương, đất nước, con người. Tiếng tu hú làm cho cuộc sống của hai bà cháu vơi đi nỗi trống
trải, cô đơn, buồn tủi “Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!” .Và âm thanh ấy nhắc nhở nỗi chờ mong người ra trận.
Bà mong đợi các con, cháu ngóng đợi mẹ cha “Mẹ cùng cha công tác bận không về”. Hai bà cháu nương tựa vào
nhau qua những tháng ngày vất vả, cơ cực
(b.-Hình ảnh người bà hiện lên rõ nét trong kí ức của nhà thơ)
(hợp +chuyển ý) Với giọng thơ giàu cảm xúc; hình ảnh thơ mộc mạc, bình dị, tác giả gợi lên một miền kí ức tuổi
thơ với tiếng chim tu hú “tha thiết”, với niềm hạnh phúc khi được sống bên bà:
“ Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học ”
Điệp từ “bà” được lặp đi lặp lại nhiều lần kết hợp với các cụm động từ “bà bảo, bà dạy, bà chăm” , cùng nhịp
điệu câu thơ nhanh , dứt khoát đã nhấn mạnh được công lao to lớn của bà: bà không chỉ nuôi dưỡng hình hài của
cháu, bà không chỉ bồi đắp cho tâm hồn cháu, mà bà còn chắp cánh cho tri thức của cháu. Nhịp thơ 4/4 cân xứng
kết hợp với chữ “bà” và chữ “cháu” được điệp lại 4 lần đã diễn tả cuộc sống bình lặng, quấn quýt, yêu thương
của hai bà cháu. Dẫu phải sống xa cha mẹ, dẫu khó khăn thiếu thốn cháu vẫn hạnh phúc khi được sống trong vòng
tay yêu thương, chăm sóc và dạy bảo của bà.
(hợp) Từng vần thơ tràn đầy xúc động, hình ảnh bà hiện lên thật đẹp, thật gần gũi trong dòng hồi ức của nhà thơ.
Bà không chỉ là bà mà bà còn là sự kết tinh cao quý của công cha, nghĩa mẹ, ơn thầy. Qua đó cho ta cảm nhận
được sự biết hơn sâu sắc của nhà thơ dành cho bà.
…Viết về bà, không chỉ có Bằng Việt mà còn có nhà thơ Xuân Quỳnh với bài thơ “Tiếng gà trưa”:
“… Cháu chiến đấu hôm nay
Vì lòng yêu Tổ quốc
Vì xóm làng thân thuộc
Bà ơi cũng vì bà”
Tuy cách diễn đạt khác nhau nhưng cả hai bài thơ đã thể hiện tình bà cháu –tình cảm gia đình thật thiêng liêng và
ấm áp. Qua đó tác giả khẳng định tình yêu gia đình, quê hương, đất nước-tình yêu nguồn cội- luôn khắc sâu trong
tim mỗi con người Việt Nam.

(c.-hình ảnh bếp lửa)


…Đồng hành với cuộc sống của bà luôn có hình ảnh bếp lửa:
“…Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc
Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa ?...”
Hình ảnh bếp lửa “Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc”: là hiện thân của hơi ấm tình thương, của nguồn
sống và nguồn ánh sáng dẫn dắt cháu trên con đường đời và con đường hình thành nhân cách. Bếp lửa gắn với sự
tảo tần của bà hết lòng vì con, vì cháu. Từ ngữ chỉ cảm xúc “thương” bộc lộ trực tiếp tình cảm của cháu dành cho
bà. Nếu như ở khổ thơ đầu “cháu thương bà biết mấy nắng mưa” thì khổ thơ này tác giả đã nhắc lại từ “thương”:
đó không chỉ là tình yêu mà còn là mà còn là sự thấu hiểu, cảm thông , chia sẻ, trân trọng nâng niu với những vất
vả, nhọc nhằn, lam lũ của đời bà “nghĩ thương bà khó nhọc” . Cách gọi nhân hoá cùng dấu chấm than “Tu hú
ơi!” và Câu hỏi tu từ “Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa ?” thể hiện rõ tình thương của cháu dành cho bà.
Câu thơ mới thấm thía, xót xa làm sao! Bà đã luôn ở bên nuôi nấng, dạy bảo và chở che cho cháu, cho cháu lớn lên
cả về thể chất lẫn tâm hồn. Vậy mà bây giờ cháu cũng đi xa, để bà một mình cô đơn, khó nhọc. Cháu thương cuộc
đời bà bao vất vả, lo toan; cháu biết ngỏ cùng ai, chỉ có thể tâm tình với chim tu hú: “Tu hú ơi!” hãy cứ vang vang
lên tiếng kêu để làm bạn cùng bà, cho vơi bớt đi sự vắng vẻ, cô độc và nỗi nhọc nhằn, cơ cực của bà.
(hợp) Với giọng thơ tha thiết, thủ thỉ tâm tình; các câu hỏi tu từ và câu cảm thán xuất hiện liên tiếp, đoạn thơ đã
gợi nên những kỉ niệm của cháu năm lên tám tuổi có âm thanh của tiếng chim tu hú, có bếp lửa, có bà . Hình ảnh
bà hiện lên thật đẹp: bà là sự kết tinh của công cha, nghĩa mẹ, ơn thầy cho cháu lớn lên cả về hình hài và nhân
cách. Qua đó tác giả bộc lộ rõ cảm xúc nhớ thương khắc khoải, da diết khôn nguôi . Phải có một tình yêu thương
tha thiết và lòng biết ơn sâu nặng với bà thì tác giả mới viết lên được những dòng thơ tràn đầy cảm xúc đến vậy !
(4.-Kỉ niệm gắn bó của cháu với bà trong những năm giặc đốt làng: khổ 4)
… Đến với khổ thơ tiếp theo, ta bắt gặp những kỉ niệm gắn bó của cháu với bà trong những năm giặc đốt làng:
“Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh
Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh
Bố ở chiến khu bố còn việc bố
Mày có viết thư, chớ kể này kể nọ
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên”
Tác giả sử dụng Thành ngữ dân gian “cháy tàn cháy rụi” để tả thực hình ảnh tiêu điều, tan hoang của ngôi làng
sau sự tàn phá của quân thù. Chúng đốt làng, đốt sạch nhà cửa khiến tất cả vật dụng, đồ đạc, nhà cửa của người dân
chìm trong ngọn lửa hung tàn. Sau cuộc càn quét của quân thù, người nông dân “lầm lụi” , ủ dột, buồn rầu, lặng
thinh trở lại ngôi làng chỉ còn đống tro tàn. Từ đó, tác giả cho ta thấy được sự khốc liệt của chiến tranh, nó không
chỉ cướp đi sự hòa bình, hạnh phúc của người dân mà còn đem đến cho con người nhiều mất mát, đau thương. Song
quân thù không thể dập tắt được tình đoàn kết của tình làng nghĩa xóm, họ luôn sát cánh bên nhau vượt qua hoạn
nạn. Túp lều của hai bà cháu được dựng lại từ sự cưu mang, đùm bọc của hàng xóm bốn bên: “Đỡ đần bà dưng lại
túp lều tranh”:
(hợp)Những hình ảnh tả thực cho ta cảm nhận được tộc ác của quân thù, sự tàn khốc của chiến tranh và tinh thần
đoàn kết tình làng nghĩa xóm cao đẹp của dân tộc Việt Nam. Như vậy trong kí ức của cháu không chỉ có nỗi ám ảnh
đau thương mà còn có vẻ đẹp tinh thần của dân tộc.
Và trong hoàn cảnh ấy hình ảnh bà hiện lên thật đẹp đẽ :
“ Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh
Bố ở chiến khu bố còn việc bố
Mày có viết thư, chớ kể này kể nọ
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên !”
Các cụm từ “vững lòng, đinh ninh”: xuất hiện trong một dòng thơ gợi lên hình ảnh của bà thật kiên cường, mạnh
mẽ, vững vàng trước thử thách, gian khổ của chiến tranh. Hình ảnh của bà cho ta liên tưởng đến vẻ đẹp muôn đời
của con người Việt Nam ta được thể hiện rất rõ qua những vẫn thơ sau:
Sỗng vững chãi bốn nghìn năm sừng sững
Lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa
Bên cạnh sự kiên cường, mãnh mẽ; bà còn là một người mẹ tràn đầy tình yêu thương, sự thấu hiếu và đức hi
sinh cao cả:
“ Bố ở chiến khu bố còn việc bố
Mày có viết thư, chớ kể này kể nọ
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên !”
Bà biết con trai mình ở chiến khu rất nhiều việc phải lo toan “Bố ở chiến khu bố còn việc bố”, nên bà không cho
cháu báo tin ở nhà “Mày có viết thư, chớ kể này kể nọ” vì bà sợ con trai sẽ lo lắng mà không yên tâm công tác.
Thế nên, bà đã dặn cháu: "Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!". Hai chữ "bình yên" ấy được viết bởi bà, người phụ
nữ mạnh mẽ, kiên cường, là chỗ dựa tinh thần cho cả gia đình. Cho dù có bất cứ khó khăn nào ập đến, bà vẫn sẽ cố
gắng giải quyết để con cháu an tâm. Bà chính là hiện thân của những người mẹ Việt Nam anh hùng giàu đức hi
sinh, là hậu phương vững chắc để tiếp thêm sức mạnh cho tiền tuyến. Bà đã biết hi sinh cái riêng của bản thân
mình cho cái chung của dân tộc, đó chính là tình yêu nước lớn lao trong tim bà. Hình ảnh này của bà gợi cho ta liên
tưởng đến nhân vật ông Hai trong tác phẩm làng của nhà văn Kim Lân: khi nghe tin giặc đốt nhà mình ông rất vui đi
khoe với mọi người vì đây là minh chứng làng ông không theo giặc, gia đình ông không theo giặc; ông đã sẵn sàng
hi sinh lợi ích riêng của mình cho lợi ích chung của đất nước.
(hợp) Với những hình ảnh thơ chân thực, chỉ với bảy câu thơ tác giả đã không chỉ cho ta cảm nhận được sự khốc
liệt chiến tranh mà còn cảm thấy tự hào vì tinh thần đoàn kết, đùm bọc nhau trong lúc khó khăn của dân tộc ta. Và
trong hoàn cảnh ấy, người bà hiện lên với vẻ đẹp của người mẹ Việt Nam anh hùng: kiên cường, mạnh mẽ, yêu đất
nước thiết tha, biết hi sinh cái riêng của bản thân mình cho cái chung của dân tộc. Phải có một tình yêu và niềm tự
hào về bà; về quê hương, đất nước sâu sắc tác giả mới viết lên được những vần thơ hay đến vậy !
(5.- Cháu suy ngẫm về cuộc đời bà luôn gắn liền với bếp lửa: Khổ 5)
…Đến với đoạn thơ tiếp theo trong bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt, ta bắt gặp những suy ngẫm của cháu về cuộc
đời của bà, hình ảnh của bà luôn gắn liền với bếp lửa:
Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng ”
Câu thơ “Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen” với cấu trúc thật độc đáo “ Rồi..rồi…lại” gợi lên cho ta thấy
công việc nhóm lửa của bà lặp đi lặp lại hàng ngày, một công việc đã trở nên quen thuộc và cũng trở thành kí ức
không bao giờ phai mờ trong lòng nhà thơ. Đồng thời, bếp lửa ấy còn gợi ra sự tần tảo, chịu thương, chịu khó của bà
. Bếp lửa ấy cháy lên trong mọi cảnh ngộ để nuôi nấng, chăm chút cho cháu lớn khôn. Từ hình ảnh bếp lửa cụ thể ở
câu trên, tác giả chuyển thành hình ảnh ngọn lửa trong lòng bà. Như thế, bếp lửa không chỉ được nhen lên bằng
nhiên liệu củi rơm mà đã sáng bừng lên thành ngọn lửa bất diệt. Hình ảnh ẩn dụ “ngọn lửa” kết hợp khéo léo vói
các động từ “nhen, ủ, chứa” vừa chỉ hoạt động thành thạo công việc nhóm bếp của bà, vừa nhấn mạnh những ý
nghĩa sâu xa: ngày nối tiếp ngày bà nhen lên từng bữa cơm cho cháu, cũng là nhen lên hơi ấm hạnh phúc gia đình,
cho cháu được lớn lên cả về thể chất và tâm hồn.. Ngọn lửa ấm nồng của tình yêu thương luôn ấp ủ trong tim bà
“Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn”. Ngọn lửa ấy có sức sống bền bỉ, mãnh liệt bất chấp thời gian, thắp sáng lên
niềm tin, hi vọng, ý chí và nghị lực: “Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng. Điệp ngữ “một ngọn lửa” vừa nhấn
mạnh tình yêu thương ấm áp của bà dành cho cháu, vừa gợi sức nóng, sức sống dai dẳng bất diệt của ngọn lửa.
Phải chăng chính ngọn lửa của lòng bà đã nhen lên trong tâm hồn cháu tình yêu cuộc sống, nhen lên trong cháu ý
chí, nghị lực và niềm tin vào ngày mai tươi sáng. Đó là biểu hiện của sức sống muôn đời bất diệt mang niềm yêu
thương, ý chí, nghị lực, niềm tin của bà bà truyền cho cháu. Khái quát hơn, đó là ý chí, là nghị lực, là niềm tin về
một ngày mai hoà bình của cả một dân tộc đang trong thời kì vô cùng khó khăn, thử thách của chiến tranh. Ngọn lửa
đó bà đã nhóm lên, đã cháy sáng và lan toả cho con cháu, cho mọi người.
(hợp) Chỉ với ba câu thơ ngắn gọn, từ bếp lửa để gợi về bà, ngọn lửa trở thành biểu tượng bình dị và trọn vẹn về
con người Việt Nam trong kháng chiến toả sáng lấp lánh . Ngọn lửa ấy là ngọn lửa của sức sống, của ý chí, nghị
lực, của niềm tin . Và bà không chỉ là người thắp lửa, giữ lửa mà còn là người truyền lửa cho các thế hệ mai sau.
Phải có một tình yêu, niềm tự hào sâu sắc về bà thì tác giả mới có thể viết lên những vẫn thơ giàu ý nghĩa đến vậy.

(6.- Suy ngẫm của người cháu về cuộc đời lận đận, vất vả của bà: khổ 6)
… Đến với đoạn thơ dưới đây trong bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt, ta bắt gặp những suy ngẫm của người cháu về
cuộc đời lận đận, vất vả của bà :
“Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi đến tận bây giờ
Bà vẫn giữa thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm,
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi,
Nhóm nồi xôi gạo mới xẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ
Ôi kỳ lạ và thiêng liêng -bếp lửa ! ”
Tác giả sử dụng Phép đảo ngữ và từ láy “lận đận” đủ để khái quát cuộc đời lam lũ, vất vả , đầy lận đận, gian truân
của bà. Hình ảnh ẩn dụ “ “nắng mưa” đã xuất hiện ở khổ thơ đầu tiên “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa” tiếp
tục xuất hiện: “Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa” đã nhấn mạnh sự vất vả, cực nhọc của bà và sự cảm thương sâu
sắc của cháu. Cụm từ chỉ thời gian “đời bà”, “mấy chục năm”, gợi lên sự xuyên suốt của thời gian từ quá khứ
đến hiện tại diễn tả cảm nhận , sự thấu hiểu của nhà thơ về cuộc đời gian nan, vất vả trải qua nhiều nắng mưa tưởng
như không bao giờ dứt và sự tảo tần, đức hi sinh của bà không chỉ trong khoảng thời gian mà cả cuộc đời. Cháu
thương bà, hiểu bà và nhớ cả “thói quen dậy sớm” của bà . Dáng hình cuộc đời tảo tần thức khuya dậy sớm;
chịu thương, chịu khó của bà đã in hằn trong tiềm thức của cháu. Hình ảnh của bà cũng là hình ảnh của bao người
phụ nữ Việt Nam giàu đức hy sinh dù gian truân vất vả vẫn sáng lên tình yêu thương gợi cho ta liên tưởng đến cuộc
đời đầy lam lũ, cơ cực của bà Tú trong bài thơ “Thương vợ” của nhà thơ Trần Tế Xương:
“Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo xèo mặt nước buổi đò đông”
Suốt cuộc đời, bà luôn chăm chút cho cháu cả về vật chất và tinh thần để cháu lớn lên. Bà là người nhóm lửa, cũng
là người luôn giữ cho ngọn lửa luôn ấm nóng, tỏa sáng trong gia đình:
“ Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới xẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ ”
Điệp từ “nhóm” được nhắc đi nhắc lại tới bốn lần và mang những ý nghĩa khác nhau. Nó cứ bồi đắp cao dần những
nét kỳ lạ và thiêng liêng của bếp lửa. Từ “nhóm” đầu tiên “Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm” mang nghĩa tả
thực: là động từ thể hiện một hành động làm cho lửa bén, cháy lên ngọn lửa và một bếp lửa hoàn toàn có thật có
thể cảm nhận bằng mắt thường để xua tan đi cái giá lạnh của mùa đông khắc nghiệt để nấu chín thức ăn và đó là một
bếp lửa rất bình dị có ở mọi gian bếp của làng quê Việt Nam. Thế nhưng từ “nhóm” ở ba câu thơ sau lại mang nghĩa
ấn dụ sâu sắc: Bà nhóm lên tình yêu thương ruột thịt, khơi dậy những kí ức tuổi thơ gian khổ mà hạnh phúc, để
cháu luôn nhớ về nó cũng như luôn nhớ về gia đình, về quê hương, về cội nguồn của mình: “Nhóm niềm yêu
thương, khoai sắn ngọt bùi” .Bà nhóm lên hơi ấm tình người, khơi dậy trong tâm hồn cháu tình cảm sẻ chia, tình
đoàn kết của xóm làng và rộng hơn là tình yêu quê hương đất nước: “ Nhóm nồi xôi gạo mớ xẻ chung vui”. Bà
nhóm lên, khơi dậy cả những ước mơ, khát vọng và niềm tin trong cháu về một tương lai tươi sáng: “Nhóm dậy cả
những tâm tình tuổi nhỏ”. (hợp) Nhờ ngọn lửa mà bà “nhen”, bà “ủ”, bà “chứa”, cháu biết cách sống ân nghĩa,
thủy chung; cháu biết mở lòng ra với mọi người xung quanh, biết sẻ chia, gắn bó với xóm làng; cháu có nghị lực,
niềm tin và khát vọng. Cũng chình nhờ hình ảnh bếp lửa của bà, đã nhắc nhở cháu rằng phải luôn nhớ về cội
nguồn, nhớ về đất nước quê hương, nhớ về dân tộc mình. Và như vậy hình ảnh bếp lửa đơn sơ giản dị đã mang ý
nghĩa khái quát trở thành ngọn lửa trong trái tim – một ngọn lửa ẩn chứa niềm tin và sức sống của con người
…Trong tâm trí nhà thơ, bếp lửa và bà là những gì tuy thật bình dị, song ẩn giấu điều cao quý thiêng liêng. Cảm xúc
dâng trào, tác giả đã phải thốt lên: “Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”. Câu thơ cảm thán với cấu trúc đảo diễn tả
niềm xúc động trào dâng, da diết, mãnh liệt trong lòng nhà thơ. Tác giả sử dụng từ “kì lạ” và “thiêng liêng” đi
liền nhau một lần nữa nhân mạnh giá trị to lớn của bếp lửa, bếp lửa đó sẽ cháy mãi không thế lực nào có thể dập tắt
được, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào bếp lửa của bà vẫn luôn toả sáng. Dù thực tại hay trong kí ức của cháu bếp lửa
đó là bếp lửa cội nguồn không bao giờ tắt. Lối viết độc đáo“thiêng liêng- bếp lửa” một lần nữa khẳng định bếp lửa
là tổ ấm, là cội nguồn của gia đình, cội nguồn của sự sống, cội nguồn của dân tộc. (hợp) Với giọng thơ chân thành,
giàu cảm xúc, hình ảnh bà và bếp lửa hiện lên thật đẹp và thiêng liêng biết bao. Dù cuộc đời lam lũ, nhọc nhằn bà
vẫn mãi nhóm lên ngọn lửa ấm nồng của sự tảo tần, của đức hi sinh, của niềm tin, của sức sống. Từ ngọn lửa của
bà, cháu nhận ra cả một niềm tin dai dẳng về ngày mai, cháu hiểu được linh hồn của một dân tộc vất vả, gian lao
mà nghĩa tình. Bà không chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa mà còn là người truyền lửa. Phải có một niềm tự hào dân
tộc mãnh liệt, một tình cảm tha thiết dành cho bà của mình, một kí ức không thể nhạt phai về bếp lửa, tác giả mới
viết được những vần thơ tràn đầy cảm xúc đến vậy !

(7.- Khổ thơ cuối: Tác giả đã trực tiếp bộc lộ nỗi nhớ bà trong xa cách )
… Trong mạch cảm xúc tuôn trào khi nghĩ về bà và bếp lửa, cháu đã bày tỏ nỗi nhớ bà da diết :
“…Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở
Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”
Xuyên suốt cả bài thơ hình ảnh bếp lửa được lặp đi lặp lại rất nhiều lần để gợi lên niềm xúc động mãnh liệt của
cháu về bà và bếp lửa. Câu thơ đầu của khổ cuối có cấu trúc thật đặc biệt: dấu chấm ngắt giữa câu thơ. Phải chăng
nhà thơ muốn diễn tả giờ đây giữa cháu và bà là khoảng cách không gian xa vời vợi . Tác gả sử dụng Điệp từ
“trăm” kết hợp với phép liệt kê được thể hiện qua các hình ảnh: “ngọn khói trăm tàu”, “lửa trăm nhà”, “niềm vui
trăm ngả” nhằm nhấn mạnh cuộc sống hiện tại của cháu đang đầy đủ tiện nghi, có rất nhiều điều mới lạ ; cháu đã
trưởng thành, được đặt chân đến nhiều vùng đất mới, cháu đến mọi nhà, cháu có biết bao niềm vui…nhưng điều kì
diệu là cháu không bao giờ nguôi nỗi nhớ thương bà. Sự xuất hiện của từ “Nhưng” được đặt ở đầu câu thơ tiếp theo
là một lời khẳng định dù có đi khắp mọi phương trời, dù có sống ở những nơi xa hoa hiện đại nhất nhưng không bao
giờ cháu quên được bếp lửa của bà . Câu thơ như một lời thề “không bao giờ cháu quên” bởi bếp lửa là bàn tay chắt
chiu của bà, là tình yêu thương của bà, bếp lửa là cội nguồn của sự sống, cội nguồn của ánh sáng, cội nguồn của
niềm tin và cội nguồn của dân tộc. Bài thơ được khép lại bằng câu hỏi tu từ “Sớm mai này bà nhóm bếp lên
chưa?” với giọng thơ da diết làm cho nỗi nhớ về bà khắc khoải khôn nguôi, trào dâng mãnh liệt. Và không bao giờ
cháu quên được bà bởi bà là nguồn cội. (Hợp) Khổ thơ cuối đã bộc lộ rõ nét nỗi nhớ thương mãnh liệt và sự biết ơn
sâu sắc của nhà thơ đối với bà. Ở đó chứa đựng đạo lí thuỷ chung, lòng biết ơn của người Việt “uống nước nhớ
nguồn”- đạo lí nuôi dưỡng tâm hồn ta -để chắp cánh cho ước mơ của mỗi con người.
III.-ĐÁNH GIÁ NGHỆ THUẬT
…… Bài thơ “Bếp lửa” nói chung và đoạn thơ nói riêng đã thể hiện đặc sắc về nội dung và nghệ thuật. Thể thơ tự
do. Ngôn ngữ thơ giàu sắc thái biểu cảm. Hình ảnh thơ giàu ý nghĩa biểu tượng, kết hợp hình ảnh tả thực và liên
tưởng (bếp lửa, ngọn lửa) Giọng thơ giàu cảm xúc. Các phép tu từ phong phú đa dạng : ẩn dụ, đảo ngữ, điệp
ngữ, câu hỏi tu từ, câu cảm thán…Tất cả góp phần gợi lại những kỉ niệm đầy xúc động về người bà và vẻ đẹp của
tình bà cháu, đồng thời thể hiện lòng kính yêu, trân trọng, biết ơn của tác giả đối với bà cũng như đối với gia đình,
quê hương, đất nước.
IV.- ĐÁNH GIÁ NỘI DUNG
…Đoạn thơ cho ta thấy tấm lòng yêu thương, thấu hiểu, biết ơn, trân trọng, tự hào của cháu dành cho bà . Bàn tay
chắt chiu, tấm lòng ấm áp nhân hậu của bà dành cho cháu. Ta cảm nhận được tình bà cháu thật thiêng liêng và cao
đẹp biết bao. Phải có một tình yêu sâu đậm và nỗi nhớ thương mãnh liệt dành cho bà thì tác giả mới viết lên được
những vần thơ tràn đầy cảm xúc đến vậy !
C.- KẾT BÀI
Bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt là một bài thơ dạt dào cảm xúc. Hình tượng bếp lửa được thể hiện độc đáo qua
giọng điệu tâm tình, thiết tha; nhịp điệu thơ linh hoạt; kết hợp với lối trùng điệp được sử dụng biến hóa, khiến cho
lời thơ với hình ảnh bếp lửa cứ tràn ra, dâng lên, mỗi lúc thêm nồng nàn, ấm nóng. Từ đó, khiến cho người đọc
cảm thấy thật thấm thía, xúc động trước nỗi nhớ nhung da diết về những kỉ niệm ấu thơ của người cháu và cả tấm
chân tình của nhà thơ đối với người bà kính yêu. Qua đó, chúng ta càng cảm thấy yêu, càng cảm thấy trần trọng
hơn tình cảm đối với gia đình, với quê hương, đất nước. Từ đó, ta mới thấm thía hết được lời bài hát của nhạc sĩ
Trung Quân, thật ý nghĩa biết chừng nào:
"Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một mẹ thôi
Quê hương nếu ai không nhớ
Sẽ không lớn nổi thành người…"
CHIẾC LƯỢC NGÀ
- Nguyễn Quang Sáng -
ĐỀ 1: NHÂN VẬT BÉ THU
A. Mở bài
Benjamin Franklin từng cho rằng: "Chiến tranh không được trả giá trong thời chiến, hóa đơn sẽ đến sau đó." Cái giá
của chiến tranh không chỉ đắt đỏ và dã man khi nó xảy ra, mà hậu quả của nó là vết thương rỉ máu hàng thập kỉ sau
đó nữa. Và có lẽ một trong những nhân vật khắc họa rõ nét vết thương, vết sẹo luôn bỏng rát của chiến tranh là nhân
vật bé Thu trong tác phẩm truyện ngắn Chiếc lược ngà của nhà văn Nguyễn Quang Sáng. Tác phẩm “Chiếc lược
ngà” đã thể hiện những diễn biến tâm lí tinh tế và tình cảm sâu sắc, mạnh mẽ mà bé Thu dành cho cha.
B.Thân bài
1. Khái quát về tác giả, tác phẩm.
Nguyễn Quang Sáng sinh năm 1932, quê ở Chợ Mới, tỉnh An Giang. Là bộ đội thời đánh Pháp, sau năm 1954 tập
kết ra miền Bắc mới bắt đầu viết văn. Trong những năm đánh Mĩ, ông sống và hoạt động tại chiến trường Nam Bộ.
Cảnh vật, con người và hơi thở nhịp sống trong tác phẩm Nguyễn Quang Sáng đậm đặc màu sắc Nam Bộ. Ông đã
để lại nhiều tác phẩm đặc sắc bằng nhiều thể loại. Tác phẩm của Nguyễn Quang Sáng chưa từng giới hạn ở bất kỳ
chủ đề nào nhưng ông vẫn tập trung nhiều nhất là chiến tranh và con người. Với những cống hiến đồ sộ được nhiều
người công nhận, tác giả xứng đáng được gọi là bậc thầy của văn học Nam Bộ. (Thúy Trân)
“Chiếc lược ngà” được viết năm 1966 khi mà miền Bắc nước ta đã giải phóng đang tiến lên xây dựng xã hội chủ
nghĩa, tăng gia sản xuất và chi viện cho tiền tuyến Miền Nam. Tuy nhiên, trong bối cảnh Nam - Bắc chia hai nhiều
người con miền Bắc đã phải đi bộ dọc rừng Trường Sơn để vào Miền Nam đánh Mỹ cứu nước thống nhất nước nhà,
nhiều gia đình vì thế mà ly biệt. Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” tố cáo tội ác của chiến tranh, tố cáo chiến tranh phi
nghĩa mà giặc Mỹ đã gieo xuống dân tộc ta, làm cho đất nước ta phải chia hai. Nhiều người con phải xa cha, người
vợ xa chồng.
- Khái quát về chủ đề: Câu chuyện tập trung thể hiện tình cảm cha con của ông sáu với bé Thu, đặc biệt là tình yêu
thương mãnh liệt của bé Thu dành cho cha.
2. Phân tích
a. Cảnh ngộ của bé Thu
Như chúng ta đã biết bé Thu sinh và lớn lên trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh. Ba em lên đường đánh
giặc khi em chưa tròn một tuổi, tám năm dòng em chưa được gặp cha, em chỉ được ngắm nhìn ba qua bức hình chụp
chung với má.
=> Như vậy chiến tranh đã chia cắt tình cảm khiến cho gia đình bé Thu cũng như bao gia đình VN khác phải rơi
vào cảnh ngộ li tán, chia lìa.
- Tám tuổi Thu còn quá nhỏ để hiểu được sự khốc liệt và éo le của chiến tranh. Chính vì vậy cuộc gặp gỡ bất ngờ
với người cha sau 8 năm xa cách đã khiến cho bé Thu có nhiều sự ngộ nhận. Từ đó ta càng thấy bé Thu phải chịu
nhiều thiệt thòi và cảm thấy thương em hơn và căm ghét chiến tranh.
* Đặc điểm của bé Thu:
-Chính hoàn cảnh của chiến tranh đã tạo cho bé Thu một cá tính rất mạnh mẽ, ương bướng, ngang ngạnh, đáo để
nhưng cũng rất trong sang, hồn nhiên và đáng yêu.
Sự bướng bỉnh, gai góc ấy còn ươm mầm cho phẩm chất kiên cường, mạnh mẽ của cô giao liên trong tương lai. Nhà
văn Nguyễn Quang Sáng đã lột tả rõ nét chân dung của một cô bé tám tuổi có cách thể hiện tình cảm thiêng liêng,
chân thành dành cho ba mình một cách vô cùng đặc biệt, độc đáo. Ở bé Thu, người ta nhìn thấy bóng dáng của Việt
trong "Những đứa trẻ trong gia đình" hay Tnú trong "Rừng Xà Nu". Nó tạo nên một vẻ đẹp kiên cường, gan góc của
thế hệ trẻ Việt Nam trong kháng chiến, cái vẻ đẹp "đừng đốt. Bản thân nó đã có lửa rồi!" mà Đặng Thùy Trâm đã
viết trong nhật ký của mình: "Ước mơ bây giờ là đánh thắng giặc Mỹ, là Độc lập, Tự do của đất nước. Mình cũng
như những thanh niên khác đã lên đường ra tiền tuyến và tuổi trẻ qua đi giữa tiếng bom rơi đạn nổ Tuổi trẻ của
mình đã thấm đượm mồ hôi, nước mắt, máu xương của những người đang sống và những người đã chết. Tuổi trẻ
của mình đã cứng cáp trong thử thách gian lao của chiến trường, tuổi trẻ của mình cũng đã nóng rực vì ngọn lửa
căm thù đang ngày đêm hun đốt. Và gì nữa, phải chăng mùa xuân của tuổi trẻ cũng vẫn thắm đượm thêm vì màu sắc
của mơ ước và yêu thương vẫn ánh lên trong những đôi mắt nhìn mình." Hay như khi nhà thơ Nam Hà cũng đã viết
"Chúng con chiến đấu cho người sống mãi Việt Nam ơi":
"Đất Nước
Của những người con gái con trai
Đẹp như hoa hồng cứng như sắt thép
Xa nhau không hề rơi nước mắt
Nước mắt để dành cho ngày gặp mặt"
- Trong tâm trí non nớt của bé Thu hình ảnh người cha hiện lên thật đẹp, một người cha mà em luôn thần tượng.
Như vậy em yêu cha bằng một tình yêu bền vững, tuyệt đối không có gì lay chuyển được mặc dù 8 năm em chưa
từng gặp và gọi một tiếng ba.
- Và để làm nổi bật tình cảm đó của bé Thu nhà văn đã đặt bé Thu vào tình huống cụ thể để bé Thu bộc lộ rõ cá tính
của mình đó cũng là khi ông Sáu trở về thăm nhà sau 8 năm xa cách.
b. Thái độ và hành động của bé Thu trước khi nhận ra ông Sáu
* Khi mới gặp cha
- Diễn biến tâm lí của bé Thu: Bao ngày trông ngóng được gặp lại cha nhưng khi gặp cha Thu lại có phản ứng vô
cùng dữ dội:
- Khi đang chơi ở nhà chòi bỗng có người đàn ông xa lạ gọi mình là con, bé Thu tròn mắt ngơ ngác, lạ lung nhìn.
Đặc biệt khi nhìn vết sẹo dài trên má ông Sáu và thấy người đàn ông cứ tiến đến với giọng run run: “ba đây con”
khiến cho con bé Thu chớp mắt như muốn hỏi “ Đây là ai?” , Mặt nó tái đi rồi gọi “ Má! Má!”
=> Phản ứng ấy của bé Thu cho thấy em rất bất ngờ trước một người đàn ông xa lạ gọi mình là con và em cũng
không nhận ra ông Sáu là ba. Phản ứng hoảng sợ của bé Thu rất phù hợp với tâm lí nhân vật đồng thời cho thấy sự
am hiểu tâm lí nhân vật của tác giả.
* Ba ngày ông Sáu ở nhà
- Ba ngày phép ngắn ngủi ông sáu ở nhà là quãng thời gian ngắn ngủi của ông Sáu ở nhà, là quãng thời gian quý báu
của gia đình bé Thu. Ông Sáu tìm mọi cách vỗ về an ủi bé Thu thì Thu lại càng giữ khoảng cách, lạnh lùng, xa lánh
cương quyết không gọi ông Sáu là ba.
- Khi mẹ nhắc nhở Thu bảo ba vô ăn cơm thì con bé tìm mọi cách từ chối khéo: “ Thì mẹ mời đi” , khi bị ép thì Thu
lại nói trổng “ vô ăn cơm” ông Sáu trở vờ không nghe thấy thì Thu lại nói vọng ra “ cơm chin rồi” và cuối cùng
không gọi được con bé bực quá quay lại mẹ và bảo “ con kêu rồi mà người ta không nghe”, cụm từ người ta cho
thấy bé Thu vẫn coi ông Sáu là người xa lạ.
- Không chỉ lời nói, bé Thu còn có những hành động, cử chỉ dứt khoát không nhận ông Sáu là ba: Đó là tình huống
bé Thu phải canh nồi cơm và chắt nước cơm. Nồi cơm thì to, quá sức với một đứa trẻ 8 tuổi, khiến Thu không thể
bắc được, bị đẩy vào thế bí, tưởng Thu sẽ phải gọi ông Sáu là ba để nhờ giúp đỡ nhưng không con bé vẫn nói trổng:
“ Cơm sôi rồi, chắt nước giùm cái” ông Sáu trở vờ không nghe thấy và khi nồi cơm sôi sung sục thì giọng nó vang
vẻ hơn: “cơm sôi rồi nhão bây giờ” khi bị bác Ba dọa thì nó hơi sợ, nhăn nhó như sắp khóc nhưng nhất định không
gọi ông Sáu một tiếng ba. Rồi nó loay hoay tìm lấy cái vá để múc nước cơm ra. Hành động đó của bé Thu cho thấy
Thu thật ương bướng, gan góc nhưng cũng rất đáo để.
* Khi ông Sáu gắp cái trứng cá:
- Đỉnh điểm của sự ngang ngạnh, ương bướng của bé Thu là trong bữa cơm ông Sáu gắp cho một miếng trứng cá to
vàng để vào chén bé Thu.
- Thu liền lấy đũa soi vào chén cơm rồi bất ngờ hất tung miếng trứng cá khiến cơm văng tung tóe cả mâm
=> Hành động ấy của bé Thu cho thấy sự cương quyết từ chối sự chăm sóc tận tâm của ông Sáu.
- Bị cha đánh mắng co bé ngồi im cúi gầm rồi lặng lẽ gắp miếng trứng cá vào bát và đứng dậy. Thu hiểu được việc
làm của mình là quá đáng, là sai, là vô lễ với người lớn tuổi nên thấy mình hối lỗi, nhưng vẫn không thể chấp nhận
người đàn ông kia là ba mình.
- Thu bỏ sang nhà bà ngoại trước khi bơi thuyền đi nó khuya dây lòi tói rộn rang mét và khóc với ngoại.
=> Qua tất cả hành động trên của bé Thu ta thấy Thu rất ương bướng, ngang ngạnh và đáo để, nhưng sự ương
bướng cá tính của Thu không làm người đọc khó chịu, và cũng o thấy Thu không phải là một cô beé hư, hỗn lá, mà
ta lại thấyở Thu hồn nhieên, ngây thơ có phần tội nghiệp. Cô bé cương quyết không chịu nhận ông Sáu là cha chắc
có lí do vì Thu rất yêu ba và khao khát được gặp ba.
- Theo dõi tiếp mạch truyện ta thấy cá tính ương ngạnh, gan lì của bé Thu chỉ là vỏ bọc bề ngoài. Quả thực Thu là
một cô bé rất giàu tình cảm, có tình yêu ba sâu sắc và mãnh liệt.
- Một đêm ngủ với ngoại, được ngoại giảng giải cho hiểu vì sao ông Sáu lại có một vết thẹo dài trên má, Thu đã
hiểu ra sự khốc liệt của chiến tranh, chính chiến tranh đã làm biến rạng khuôn mặt của ba, để ba k hông còn đẹp như
bức hình chụp chung với má nữa. Nó nằm im lăn qua, lăn lại, thỉnh thoảng lại thở dài như người lớn đã cho thấy
Thu đã hiểu ra vấn đề.
c. Thái độ và hành động của bé Thu khi nhận ra ông sáu là cha.
- Sáng hôm sau nó theo ngoại về nhà, buổi sang cuối cùng trước khi ông Sáu lên đường, bé Thu đã thay đổi hoàn
toàn thái độ, vẻ mặt của cô không còn bướng bỉnh cau có nữa mà vẻ mặt ấy sầm lại trông rất đáng thương. Nó
không nhìn ngơ ngác, lạ lùng như trước nữa mà nhìn với một vẻ nghĩ ngợi sâu xa. Nhưng Thu chỉ dám đứng ở góc
nhà nhìn ba từ xa vì cô bé mặc cảm với lỗi lầm của mình mà chưa dám nhận cha.
- Chỉ đợi ông Sáu chào tạm biệt “ Thôi ba đi nghe con” thì tình cảm bị dồn nén bấy lâu bỗng trỗi dậy thật mãnh liệt
nó chạy ào tới như một con sóc rồi thốt lên “ ba…a…a!”, tiếng kêu ấy như tiếng xé, xé sự im lặng của mọi người
nghe thật xót xa. Đó là tiếng ba mà Thu đã kìm nén bao năm nay, tiếng ba như vỡ tung ra trong long nó. Nó vừa kêu
vừa chạy xô tới nhảy tót lên dang hai tay ôm lấy cổ ba nó… Chứng kiến những khoảnh khắc xúc động này nhà văn
đã dung những câu văn ngắn dồn dập, nhiều động từ mạnh để diễn tả cảm xúc vội vàng, cuống quýt của bé Thu.
Thu ôm chặt lấy cổ ba vừa khóc vừa muốn giữ chân ba ở nhà “ Ba! Con không cho ba đi nữa ba ở nhà với con” Nó
hôn ba nó cùng khắp.Dường như Thu muốn lấy nụ hôn đó để chuộc lỗi với ba để xoa dịu những tổn thương mà nó
gây cho ba nó rồi nó nghĩ rằng hai tay không thể ôm chặt lấy ba, nên nó dung cả đôi chân ôm chặt lấy ba.
- Nó hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả vết thẹo dài bên má của ba nó nữa”, Vết thẹo từng là thứ chia cắt cha
con nó, giờ lại là thứ nó tự hào nhất, thứ hiện thân cho sự dũng cảm và can trường của cha nó, như một huy chương
cho tấm lòng nhiệt thành đã xả thân vì tổ quốc mà nó sẽ trân trọng, kiêu hãnh hết đời này. Con bé vội vàng, vồ vập
như vậy vì muốn được cảm nhận tình cảm của cha co bằng hết trước khi ông Sáu lại phải đi xa, chẳng biết bao giờ
mới quay trở lại. Cách bộc lộ tình cảm có phần tham lam này đã thể hiện rõ tấm lòng muốn bù đắp lại sự lạnh nhạt
trong những ngày qua của nó mà còn xuất phát từ nỗi sợ sệt sẽ còn rất lâu nữa, thậm chí là lần cuối bé Thu được gặp
ông Sáu.
- Những cái hẹn trở về không rõ ngày nhưng người ta vẫn nguyện chờ mong, hi vọng vì đó là cách duy nhất
thắp lên ánh sáng và chỉ có thế ngày hẹn ấy mới thành hiện thực. Nó chợt khiến ta nhớ lại cảnh đoàn tụ xúc động
của bé Hồng với mẹ mình trong văn bản Trong lòng mẹ. Sau cuộc chia tay ấy, đáng trân trọng hơn cả là khi bé Thu
đã noi gương theo người cha đáng kính, trở thành người chiến sĩ quả cảm viết tiếp những trang sử vẻ vang, vàng son
của Việt Nam. Sự kế thừa ấy đã được đã được Hoàng Trung Thông kết tinh thành những câu thơ:
"Ta lại viết bài thơ trên báng súng
Con lớn lên đang viết tiếp thay cha
Người đứng dậy viết tiếp người ngã xuống
Người hôm nay viết tiếp người hôm qua."
- Khoảnh khắc xúc động ấy bé Thu khiến cho những người chứng kiến không ai cầm được nước mắt, còn bác Ba
người kể chuyện cảm thấy khó thể như ai chiếm lấy trái tim, khoảnh khắc ấy Thu chỉ biết dặn ba vội vã: “ ba về ba
mua cho con một chiếc lược ngà nghe ba”
- Có thể nói đây là đoạn văn rất thành công khi tác giả miêu tả sinh động khoảnh khắc hai cha con nhận nhau. Lúc
Thu nhận ra ba cũng là lúc ông Sáu phải ra chiến trường. Chiến tranh thật éo le và khắc nghiệt đã khiến cho niềm
hạnh phúc, tình phụ tử của cha con bé Thu phải chia lìa xa cách.
=> Như vậy ta thấy bé Thu đại diện cho lớp trẻ VN phải chịu nhiều thiệt thòi mất mát do chiến tranh gây ra, cả tuổi
thơ phải sống xa cha, được gần ba ba ngày nhưng ba ngày cũng không trọn vẹn. cả đời chỉ được gọi tiếng ba có
một lần, chỉ được nhận sự chăm sóc của ba bằng một cây lược ngà nhưng cũng phải chờ đợi. Bấy nhiêu thôi ta
cũng thấy bé Thu cũng như những đứa trẻ VN khác phải chịu mất mát thiệt thòi như thế nào và cũng cho thấy sự
khốc liệt của chiến tranh. Ta càng thấy thương những em bé như Thu và căm phẫn chiến tranh.
3. Đánh giá
- Truyện thành công bởi xây dựng tình huống truyện đặc sắc. Truyện đặt nhân vật bé Thu vào tình huống
gặp ba nhưng không nhận ra, khi nhận ba lại vào đúng lúc chia tay để bộc lộ diễn biến tâm lý và tình cảm sâu sắc bé
Thu dành cho ba. Từ đó, nhân vật bé Thu hiện ra thật có tình, yêu ghét rõ ràng, nhưng cũng thật hồn nhiên, trong
sáng.
- Qua những diễn biến tâm lí của bé Thu, ta thấy tác giả tỏ ra rất am hiểu tâm lí bé trẻ thơ và diễn tả rất sinh
động với tấm lòng yêu mến, trân trọng những tình cảm trẻ thơ.
C. Kết bài:
Chiến tranh đã lùi xa nhưng mỗi lần đọc “ Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng chúng ta lại thấy vô
cùng xúc động về tình yêu cha mãnh liệt, thiêng liêng của bé Thu dành cho người cha của mình trong hoàn cảnh éo
le của chiến tranh cũng từ nhân vật Thu ta càng thấy trân trọng hơn tình cảm gia đình, cuộc sống hòa bình hiện nay.
Ca,mr xúc viết về chiến tranh nhưng Nguyễn Quang Sáng lại không viết về bom đạn nơi chiến trường mà tác giả lại
viết về đề tài tình cảm con người trong chiến tranh, tình cảm cha con thiêng liêng sâu nặng. Chính điều này có thể
khẳng định bom đạn có thể hủy diệt đi tất cả nhưng không thể nào hủy diệt đi tình cảm con người, đặc biệt là tình
cảm cha con, tình cảm gia đình. Với những giá trị ấy truyện ngắn “ Chiếc lược ngà” đã làm thổn thức, rung động
biết bao trái tim bạn đọc hôm nay và mai sau.

ĐỀ 2: CẢM NHẬN VỀ NHÂN VẬT ÔNG SÁU


A. Mở bài
“Ê-mi-ly, con đi cùng cha
Sau khôn lớn con thuộc đường, khỏi lạc…
-Đi đâu cha?
-Ra bờ sông Pô-tô-mác
-Xem gì cha?
Không con ơi, chỉ có lầu Ngũ Giác.
Ôi con tôi, đôi mắt tròn xoe
Ôi con tôi, mái tóc vàng hoe
Đừng có hỏi cha nhiều con nhé!
Cha bế con đi, tối con về với mẹ…”
(Tố Hữu)
Người đàn ông tên Mo-ri-xơn ấy bế cô con gái nhỏ trên tay, nhằm thẳng hướng lầu Năm Góc bước tới cùng vẻ mặt
đăm chiêu. Đứa bé ấy vẫn hồn nhiên mà chẳng biết rằng đó là cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam khốc liệt đang
diễn ra mà chính người bố dũng cảm của cô bé quyết phản đối. Người bố ấy đã có thể đặt chiếc hôn cuối cùng lên
má cô con gái bé bỏng của mình trước khi tự thiêu, thế nhưng ông Sáu trong tác phẩm “Chiếc lược ngà” của tác giả
Nguyễn Quang Sáng chưa một lần được âu yếm, ôm ấp đứa con vào lòng. Suốt tám năm ròng rã vì lý tưởng “quyết
tử cho Tổ quốc quyết sinh” mà ông đành gác lại hạnh phúc của mình ở sau. Bé Thu – con gái ông lạ lẫm và chẳng
nhận đấy là cha mình. Là một người cha, ông Sáu thông cảm cho cảm giác của con mình và luôn muốn bù đắp tình
cảm cho đứa con thơ của mình.
B.Thân bài
1. Khái quát về tác giả, tác phẩm
Nguyễn Quang Sáng sinh năm 1932, quê ở Chợ Mới, tỉnh An Giang. Là bộ đội thời đánh Pháp, sau năm 1954 tập
kết ra miền Bắc mới bắt đầu viết văn. Trong những năm đánh Mĩ, ông sống và hoạt động tại chiến trường Nam Bộ.
Cảnh vật, con người và hơi thở nhịp sống trong tác phẩm Nguyễn Quang Sáng đậm đặc màu sắc Nam Bộ. Ông đã
để lại nhiều tác phẩm đặc sắc bằng nhiều thể loại. Tác phẩm của Nguyễn Quang Sáng chưa từng giới hạn ở bất kỳ
chủ đề nào nhưng ông vẫn tập trung nhiều nhất là chiến tranh và con người. Với những cống hiến đồ sộ được nhiều
người công nhận, tác giả xứng đáng được gọi là bậc thầy của văn học Nam Bộ. (Thúy Trân)
“Chiếc lược ngà” được viết năm 1966 khi mà miền Bắc nước ta đã giải phóng đang tiến lên xây dựng xã hội chủ
nghĩa, tăng gia sản xuất và chi viện cho tiền tuyến Miền Nam. Tuy nhiên, trong bối cảnh Nam - Bắc chia hai nhiều
người con miền Bắc đã phải đi bộ dọc rừng Trường Sơn để vào Miền Nam đánh Mỹ cứu nước thống nhất nước nhà,
nhiều gia đình vì thế mà ly biệt. Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” tố cáo tội ác của chiến tranh, tố cáo chiến tranh phi
nghĩa mà giặc Mỹ đã gieo xuống dân tộc ta, làm cho đất nước ta phải chia hai. Nhiều người con phải xa cha, người
vợ xa chồng.
Câu chuyện kể về tình cảnh éo le của cha con ông Sáu để từ đó khẳng định rằng: Chiến tranh có thể cướp đi tất cả,
thậm chí là cả mạng sống của con người nhưng tình cảm gia đình thì không gì có thể giết chết được.
2. Phân tích nhân vật ông Sáu
a. Hoàn cảnh của ông Sáu
- Ông Sáu sinh ra trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh, giống như bao chàng trai khác ông Sáu phải xa gia đình
cầm sung vào chiến trường từ khi đứa con gái chưa đầy một tuổi, mãi đến khi con gái lên 8 tuổi ông mới có dịp về
thăm nhà.
- Nhưng bé Thu con gái ông lại nhất định không chịu nhận ba chỉ vì vết thẹo trên má nên không giống với bức ảnh
chụp chung với má.
- Bé Thu đối xử với ông Sáu như người xa lạ, đến lúc hiểu ra thì tình cha con xúc động mãnh liệt trong em, cũng là
lúc ông sáu phải trở về khu căn cứ.
- Ở khu căn cứ ông dành hết tình cảm nhớ thương con vào việc làm chiếc lược ngà nhưng chưa kịp trao cho con ông
Sáu đã hi sinh trong một trận càn của giặc. Trước lúc nhắm mắt đi xuôi ông đã kịp lấy trong túi áo chiếc lược ngà
để trao lại cho người bạn.
- Như vậy chiến tranh đã làm cho cha con ông Sáu phải li tán, cuộc đời ông chỉ được ôm con một lần và chỉ được
chăm sóc con bằng một cây lược ngà mà cây lược ấy mười năm sau bé Thu mới được nhận.
=> Chiến tranh không chỉ cướp đi ông Sáu mà còn cướp đi biết bao người cha khác. Như vậy tuy không viết về
bom đạn nơi chiến trường nhưng tình cảm gia đình trong chiến tranh đã làm lay động biết bao trái tim bạn đọc.
b. Đặc điểm nhân vật ông Sáu
* Ông Sáu là một người mang vẻ đẹp của người lính cách mạng
- Kháng chiến bùng nổ ông Sáu sẵn sàng từ bỏ những gì quý giá nhất: Con thơ, vợ trẻ… để cầm sung lên đường
chiến đấu
- Trong suốt những năm tháng kháng chiến dai dẳng ông Sáu không được về nhà một lần để thăm nhà, thăm con bởi
với người lính khi tổ quốc chưa giành độc lập thì họ phải lên đường chiến đấu để bảo vệ tổ quốc.
=> Như vậy ông Sáu đã gác bỏ tình riêng để ra đi cùng nghĩa lớn sẵn sàng hi sinh để bảo vệ nhiệm vụ, cống hiến cả
cuộc đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Đó là biểu hiện cao đẹp nhất tình yêu tổ quốc thiêng liêng cao
đẹp.
* Không chỉ là người lính mang phẩm chất anh hung ông Sáu còn là một người cha có tình yêu thương con
tha thiết, sâu nặng.
-Ngay từ đầu câu chuyện người đọc có thể cảm nhận sâu sắc tình thương con của ông Sáu. Người lính đã trải qua
máu lửa của chiến tranh, mưa bom bão đạn, có một khuôn mặt lạnh, một ý chí sắt thép nhưng trái tim người cha
trong ông vẫn ấm nóng. Vì vậy “ Chỉ cần nghĩ đến lúc được về cái tình người cha cứ nôn nao trong anh”
- Khi thuyền chưa cập bến ông đã vội vàng “ nhón chân nhảy thót lên bờ, xô chiếc xuồng dạt ra xa. Hành động vội
vàng đó cho thấy sự nôn nóng gặp con của anh như thế nào?
- Thấy con đang chơi ở nhà chòi mặc dù đã 8 năm chưa được gặp con, ông Sáu vẫn nhận ra bé Thu là con gái mình.
Ông bước những bước dài rồi dừng lại kêu to “ Thu con!”. Tiếng gọi ấy thể hiện rõ nỗi khao khát mong mỏi gặp con
của một người cha. Tiếng gọi đã bị kìm nén trong suốt bao năm qua, nay lại cất lên đầy thổn thức. Và mỗi lần xúc
động như vậy chiếc thẹo dài trên má của anh lại đỏ ửng lên giần giật. “ Ba đây con!” Rồi ông dang hai tay khom
người lại trong tư thế sẵn sàng ôm con vào long. Có thể nói mọi tâm thế, tư thế của ông đều hướng về con.
- Nhưng chính niềm mong mỏi khao khát ấy lại khiến ông đau đớn bội phần khi con gái không đáp lại sự vồ vập của
ông. Trước tiếng gọi cùng giọng nói run run cùng vết thẹo dài đỏ ửng đã khiến bé Thu mặt tái đỏ, vụt bỏ chạy rồi
kêu thét lên “ Má, má” cả bầu trời như sụp đổ trước mắt người cha, niềm đau, sự hụt hẫng đã bóp nghẹt trái tim ông
khiến ông Sáu “ Đứng sững lại đó, nhìn theo con, nỗi đau đớn khiến mặt ông sầm lại thật đáng thương còn hai tay
buông thõng như bị gẫy”.
* Ông Sáu ở nhà ba ngày nghỉ phép:
- Ba ngày nghỉ phép ngắn ngủi trong cuộc đời dài chinh chiến của mình là quãng thời gian quý giá của gia đình bé
Thu. Vì vậy trong ba ngày ngắn ngủi ấy ông Sáu dành tất cả tình cảm cho con. Suốt ngày ông chả dám đi đâu xa chỉ
quanh quẩn ở nhà để được gần con. Ông ân cần nhẹ nhàng chăm chút cho con bé chỉ để được nghe con bé gọi một
tiếng “ba”. Tiếng gọi ấy đối với ông là rất đỗi thiêng liêng và quý giá. Nhưng càng gần gũi chăm sóc vỗ về con thì
con bé càng tìm cách né tránh đẩy ông ra xa.
- Khi nghe con bé mời ông vào ăn cơm mà nó chỉ nói trổng “ Vô ăn cơm”, “ cơm chín rồi” những lúc đó ông cứ
ngồi im giả vờ không nghe thấy là kiên nhẫn để chờ sự đổi thay của con. Và khi con nói “ Gọi rồi mà người ta
không nghe”. Hai chữ “ người ta” như vết dao cứa vào tim ông Sáu, bé Thu vẫn coi ông là người xa lạ, người dưng.
Có lẽ vì khổ tâm đến nỗi không khóc được nên ông chỉ vừa khẽ lắc đầu, vừa cười. Ông cười mà nước mắt chảy
ngược vào trong.
- Khi chứng kiến con loay hoay tìm cách chắt nước cơm mà nhất quyết không chịu nhờ đến ba , trái tim ông Sáu
như tan nát nhưng ông vẫn bền bỉ kiên nhẫn, bao dung với con vì ông yêu con vô bờ bến.
- Và rồi khi tình yêu quá lớn, lại gặp phải sự cự tuyệt phản ứng dữ dội của bé Thu đã có lúc khiến ông Sáu không
giữ được bình tĩnh. Hành động gắp cho co miếng trứng cá ngon nhất là sự khao khát muốn chăm sóc con của một
người cha mà bé Thu lại hất tung miếng trứng cá ra khỏi bát, sự ương bướng, ngang ngạnh của con đã khiến ông
Sáu vung tay đánh mạnh vào mông con bé rồi hét lên: Sao mày cứng cổ vậy hả?” . Ông Sáu đánh con vì quá đau
đớn bất lực. Thời gian ông ở bên con không còn nhiều mà con bé vẫn chưa chịu thừa nhận ông, vẫn không chịu gọi
ông là ba. Hành động đánh con của ông là sự kìm nén của nỗi long mong mỏi quá lớn, sau tất cả nỗ lực, cố gắng với
con không thành và hành động đánh con ấy đã trở thành nỗi ám ảnh day dứt, dày vò ông trong suốt những ngày ông
ở căn cứ.
* Lúc chia tay con để trở về căn cứ
- Vào thời khắc cuối cùng ở nhà được nhìn thấy con gái, trái tim người cha được xoa dịu, bù đắp khi bé Thu kịp
nhận ra ba.
- Lúc chia tay ông Sáu cố nén long, kìm nén cảm xúc của mình. Ông cũng muốn ôm con, hôn con nhưng lại sợ nó
dãy nẩy lên bỏ chạy nên ông: “chỉ đứng nhìn nó với đôi mắt trìu mến lẫn buồn sầu” Bao nhiêu tình yêu thương ông
dành cả vào ánh mắt vừa muốn bộc lộ hết tình yêu thương với con, vừa thể hiện nỗi khao khát bị kìm nén, nỗi đau
của sự khước từ. Vậy nên ông Sáu chỉ dám đứng từ xa khe khẽ dặn con: “Thôi ba đi nghe con”
- Ông Sáu và tất cả mọi người không thể ngờ phản ứng của bé Thu nó bỗng cất tiếng gọi “ ba”. Tiếng gọi mà ông
Sáu khao khát mong chờ đã vang lên khiến tim ông như muốn vỡ ra vì hạnh phúc. Người đọc như bị lỡ nhịp tim khi
âm thanh ấy cất lên: “Ông Sáu không kìm nổi xúc động, một tay ôm con, một tay rút khăn lau nước mắt”. Những
giọt nước mắt dâng trào từ trái tim yêu thương cháy bỏng đã khiến cho tất cả mọi người xung quanh không cầm
được nước mắt - Còn Bác Ba người kể chuyện thì như khó thở khi cảm thấy có bàn tay ai đó đang nắm lấy tim
mình.
-=> Có thể nói nhà văn Nguyễn Quang Sáng thật tài tình khi miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật ông Sáu từ hành
động đến tâm trạng, khiến ông hiện lên thật chân thật và sinh động với một người cha có tình yêu thương con tha
thiết sâu nặng.
a. Tình cảm của ông Sáu dành cho con khi ông ở căn cứ kháng chiến.
*Tình yêu con được thể hiện ở niềm vui khi có thể thực hiện lời hứa với cô con gái bé nhỏ.
- Tình cảm của ông Sáu đối với con trước hết được thể hiện ở niềm vui khi có thể thực hiện được lời hứa với cô con
gái bé nhỏ. Vào chiến trường ông Sáu không nguôi nhớ về con. Nhớ con, ông lại ân hận, day dứt khi mình đã đánh
con bé. Và có lẽ cũng vì thế mà khi kiếm được một khúc ngà, mặt ông “hớn hở như một đứa trẻ được quà”. Nguyễn
Quang Sáng đã rất thành công khi miêu tả tâm lí của người cha. Tác giả so sánh niềm vui của ông Sáu với niềm vui
của “một đứa trẻ được quà”. Trẻ con nhận được quà bao giờ cũng cảm thấy rất sung sướng. So sánh như vậy là nhà
văn muốn làm nổi bật niềm hạnh phúc của người cha khi có thể thực hiện được lời hứa với con, khi có thể làm tặng
con một cây lược.
* Lòng yêu con đã biến người chiến sĩ trở thành một nghệ nhân
Và chính tình yêu thương con mãnh liệt đã biến một người chiến sĩ cách mạng như ông Sáu trở thành một
nghệ nhân - nghệ nhân chỉ sáng tạo ra một tác phẩm duy nhất trong đời. Có khúc ngà rồi, những lúc rỗi, ông Sáu
“ngồi cưa từng chiếc răng lược, thận trọng tỉ mỉ và khổ công như người thợ bạc”. Trên sống lưng cây lược, ông đã
tận mẩn khắc một dòng chữ nhỏ: “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”. Dòng chữ nhỏ mà chứa bao tình cảm lớn lao. Đó
là tình yêu, là nỗi nhớ con luôn thường trực. Việc làm chiếc lược vừa là cách ông giải tỏa tâm trạng mong nhớ, ân
hận vừa là cách gửi vào đó những yêu thương khao khát cháy bỏng dành cho đứa con gái yêu của mình. Chiếc lược
ngà giờ đây đã trở thành một vật quí giá thiêng liêng với ông Sáu. Nó làm dịu đi nỗi ân hận và chứa đựng bao nhiêu
tình cảm yêu mến, nhớ thương, mong đợi của của người cha đối với đứa con xa cách. Ông gửi vào đó bao lời nhắn
nhủ thiêng liêng, gửi vào đó bao nỗi nhớ mong con. Chiếc lược ngà là kết tinh tình phụ tử mộc mạc mà đằm thắm,
đơn sơ mà diệu kì là hiện hữu của tình cha con sâu nặng giữa ông Sáu và bé Thu. Tình thương ông dành cho con
cháy bỏng, như một dòng sông chảy mãi từ suối nguồn, như dòng máu chảy sâu vào tim ông, vào tâm hồn ông đến
phút cuối vẫn bùng cháy chẳng nguôi.
* Trong giờ phút cuối cùng, điều duy nhất ông Sáu nghĩ đến là con gái
- Bao nhiêu yêu thương và mong nhớ được ông Sáu gửi gắm vào cây lược những mong ngày đất nước độc lập, được
trở về bên con, được tận tay trao cho con cây lược ấy. Thế nhưng Một tình cảnh đau thương lại đến với cha con ông
Sáu.Trong một trận càn của quân Mỹ ngụy, ông Sáu bị một viên đạn bắn vào ngực và ông đã hi sinh. “Trong giờ
phút cuối cùng, không còn đủ sức trăng trồi lại điều gì, hình như chỉ có tình cha con là không thể chết được”, tất cả
tàn lực cuối cùng chỉ còn cho ông làm một việc “đưa tay vào túi, móc cây lược” đưa cho người bạn chiến đấu. Đó
là điều trăng trối không lời nhưng nó thiêng liêng hơn cả những lời di chúc. Nó là sự ủy thác, là ước nguyện cuối
cùng, ước nguyện của tình phụ tử.
=> Chiếc lược ngà như là biểu tượng của tình thương yêu, săn sóc của người cha dành cho con gái, cho dù đến khi
không còn nữa anh chưa một lần được chải tóc cho con. Những dòng cuối cùng của đoạn trích khép lại trong nỗi
buồn mênh mang mà chứa chan ý nghĩa nhân văn sâu sắc.
=> Chiến tranh là hiện thực đau xót của nhân loại. Chiến tranh đã làm cho con người phải xa nhau, chiến tranh làm
khuôn mặt ông Sáu biến dạng, chiến tranh khiến cuộc gặp gỡ của hai cha con vô cùng éo le, bị thử thách rồi một lần
nữa chiến tranh lại khắc nghiệt để ông Sáu chưa kịp trao chiếc lược ngà đến tận tay cho con mà đã phải hi sinh trên
chiến trường. “Chiếc lược ngà” như một truyện cổ tích hiện đại dẫn người đọc dõi theo số phận của nhân vật. Người
còn, người mất những kỉ vật gạch nối giữa cái mất mát và sự tồn tại là chiếc lược ngà nói với chúng ta nhiều điều về
tình người, tình đồng chí, tình cha con. Cảm động nhất, đề lại ấn tượng nhiều nhất cho người đọc là tình phụ tử
thiêng liêng, sâu đậm - tình yêu thương mà ông Sáu dành cho đứa con gái.
3. Đánh giá
- Xây dựng nhân vật ông sáu, tác giả đã đặt nhân vật vào các tình huống éo le để khai thác những diễn biến tâm lí,
tình cảm; ngôn ngữ lời thoại nhân vật có sự chọn lọc, chi tiết cụ thể giàu biểu cảm…
- Truyện đã ca ngợi ông sáu là người chiến sĩ cách mạng dũng cảm và là người cha có tình thương con sâu nặng và
cao đẹp. Qua đó, tác giả khẳng định tình cảm cha con là thứ tình cảm nhân bản bền vững, có thể tồn tại trong bất cứ
hoàn cảnh nào; đồng thời cũng cho thấy những nỗi đau thương, mất mát mà chiến tranh gây ra cho cuộc sống con
người.
C. Kết bài
Có thể nói, chiến tranh đã lùi xa hơn năm mươi năm nhưng hình ảnh nhân vật ông Sáu và câu chuyện về
"chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng vẫn để lại bao ám ảnh day dứt trong lòng bạn đọc. Câu chuyện ấy không
chỉ nói lên tình cha con thắm thiết sâu nặng của cha con ông Sáu, đặc biệt là tình cảm ông Sáu dành cho con, mà
còn gợi cho người đọc nỗi đau thương mất mát của chiến tranh gây ra cho bao nhiêu gia đình, con người. Từ đó, ta
càng có ý thức trân trọng giữ gìn tình phụ tử cao đẹp, đồng thời trân trọng cuộc sống hòa bình đang được hưởng
hôm nay.
MÙA XUÂN NHO NHỎ
- Thanh Hải -

* Mở bài
Mùa xuân luôn là đề tài bất tận của thi ca nhạc hoạ xưa và nay. Trong kho tàng dân tộc, ta đã biết đến "Mùa xuân
chín" của Hàn Mạc Tử, "Mùa xuân xanh" của Nguyễn Bính, "Một chiều xuân" của Anh Thơ. Và giờ đây ta lại biết
thêm "Mùa xuân nho nhỏ" của người con xứ Huế mộng mơ - Thanh Hải. Ra đời vào tháng 11 /1980, bài thơ là sáng
tác cuối cùng của Thanh Hải, khi ông đang nằm trên giường bệnh, giành giật với tử thần từng giây phút của sự
sống.Bài thơ đã ghi lại những cảm xúc và nghĩ suy của ông trước mùa xuân thiên nhiên, trước cuộc đời và lời tâm
niệm về khát vọng sống cống hiến của nhà thơ.
* Thân bài
1. Tác giả:
- Thanh Hải tên khai sinh là Phạm Bá Ngoãn, quê ở tỉnh Thừa Thiên – Huế.
- Thanh Hải hoạt động cách mạng và tham gia công tác văn nghệ suốt hai thời kháng chiến chống thực dân Pháp và
đế quốc Mỹ ngay chính trên quê hương ruột thịt của mình. Ở địa diểm nào, hoàn cảnh nào ông cũng thể hiện được
lẽ sống của mình. Đó là sự giản dị, chân thành, yêu người và khát vọng dâng hiến sức mạnh cho đời như chính cuộc
sống và tâm hồn ông.
- “Thơ ông chân chất, bình dị, đôn hậu và chân thành…Đối với nền thơ chống Mĩ của miền Nam,Thanh Hải là một
trong những cây bút có nhiều đóng góp”.(Trần Hữu Tá)
2. Tác phẩm:
- Hoàn cảnh sáng tác: Bài thơ “ Mùa xuân nho nhỏ” được nhà thơ Thanh Hải sáng tác tháng 11/1980, năm năm
sau ngày đất nước ta giành được độc lập. Viết ở giữa mùa đông giá rét của xứ Huế. Khi đó đất nước ta vừa trải qua
hai cuộc kháng chiến trường kì, kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ, phải đối mặt với vô vàn những khó khăn,
thách thức. Và đây cũng là một hoàn cảnh rất đặc biệt đối với nhà thơ Thanh Hải. Thanh Hải lúc này đang bị bệnh
nặng phải điều trị ở bệnh viện trung ương thành phố Huế, và một tháng sau ông qua đời. Đối lập giữa ranh giới sự
sống và cái chết nhưng không làm trái tim nhà thơ nguội lạnh. Ngược lại tâm hồn thi nhân lại nảy nở, bừng sức sống
để cảm nhận ấm áp về một mùa xuân nồng ấm tình người.
“Mùa xuân nho nhỏ” là món quà cuối cùng của nhà thơ trước khi về với cõi vĩnh hằng, “là lời tự bạch chân thành
với những tâm niệm đầy tính nhân văn về lẽ sống và đời thơ.” (Lê Khánh Mai). Chính vì vậy nó bâng khuâng, tha
thiết và sâu lắng hơn tất cả để cuối cùng thể hiện một Thanh Hải yêu người, yêu cuộc sống, yêu quê hương đất nước
và còn là một Thanh Hải sống cho thơ và sống cho đời.
- Chủ đề: Bài thơ ca ngợi vẻ đẹp mùa xuân thiên nhiên, đất nước, con người và khát vọng cống hiến của nhà thơ.
II. Kiến thức trọng tâm:
1. Khổ 1: Cảm xúc của nhà thơ trước mùa xuân thiên nhiên, đất trời.
Khác với bức tranh thiên nhiên mùa xuân rực rỡ sắc màu, rạo rực tình ái trong thi phẩm “Vội vàng” của Xuân Diệu,
với:
Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi…
Không mang một sắc xanh tràn ngập không gian như trong bài thơ “Mùa xuân xanh” của Nguyễn Bính với:
Mùa xuân là cả một mùa xanh
Giời ở trên cao, lá ở cành
Lúa ở đồng anh và lúa ở
đồng nàng và lúa ở đồng quanh
Cũng không được khoác lên tấm áo mơ màng, tình tứ như trong bài thơ “Mùa xuân chín” của Hàn Mặc Tử, với:
Trong làn nắng ửng khói mơ tan
Đôi má nhà tranh lấm tấm vàng
Sột soạt gió trêu tà áo biếc
Trên giàn thiên lý. Bóng xuân sang
Bức tranh thiên nhiên mùa xuân trong “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải được vẽ bằng những hình ảnh, màu sắc,
âm thanh hài hòa, sống động, tràn đầy sức sống:
Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng.
- Ngay hai câu mở đầu ta đã bắt gặp một cách viết khác lạ. Không viết như bình thường: “một bông hoa tím biếc
mọc giữa dòng sông xanh” mà đảo lại “Mọc giữa dòng sông xanh/Một bông hoa tím biếc”. Động từ “mọc” được
đảo lên đầu câu thơ là một dụng ý nghệ thuật của tác giả => khắc sâu ấn tượng về sức sống trỗi dậy và vươn lên của
mùa xuân. Tưởng như bông hoa tím biếc kia đang từ từ, lồ lộ mọc lên, vươn lên, xòe nở trên mặt nước xanh của
dòng sông xuân.
- Không gian mùa xuân rộng mở tươi tắn với hình ảnh một dòng sông trong xanh chảy hiền hoà. Cái màu xanh ấy
phản ánh được màu xanh của bầu trời, của cây cối hai bên bờ, cái màu xanh quen thuộc mà ta có thể gặp ở bất kì
một con sông nào ở dải đất miền Trung.
- Nổi bật trên nền xanh lơ của dòng sông là hình ảnh “một bông hoa tím biếc”, một hình ảnh thân thuộc của cánh
lục bình hay bông súng,bông trang mà ta thường gặp ở các ao hồ sông nước của làng quê:
“ Con sông nhỏ tuổi thơ ta tắm
Vẫn còn đây nước chẳng đổi dòng
Hoa lục bình tím cả bờ sông…” ( Lê Anh Xuân)

Màu tím biếc ấy không lẫn vào đâu được với sắc màu tím Huế thân thương- vốn là nét đặc trưng của những cô gái
đất kinh kỳ với sông Hương núi Ngự.
-> Màu xanh của nước hài hoà với màu tím biếc của bông hoa tạo nên một nét chấm phá nhẹ nhàng mà sống động,
đem lại một vẻ đẹp tự nhiên, hài hòa, một màu sắc đặc trưng của xứ Huế.
- Bức tranh không chỉ có “họa” mà còn có “nhạc” bởi tiếng chim chiền chiện cất lên với muôn vàn lời ca tiếng hót,
reo mừng:
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời.
+ Nhà thơ gọi “ơi” nghe sao mà tha thiết thế! Lời gọi ấy không cất lên từ tiếng nói mà cất lên từ sâu thẳm tình yêu
thiên nhiên, cất lên từ tấm lòng của nhà thơ trước mùa xuân tươi đẹp với những âm thanh rộn rã.
+ Lời gọi ấy mới đầu nhen nhóm ở một góc trái tim, nhưng con người nhà thơ và những cảnh sắc, âm thanh kia như
đã hòa vào làm một, cảm xúc từ đó mà òa ra thành lời, thật ngỡ ngàng, thật thích thú.
+ Cảm xúc của nhà thơ đã trào dâng thực sự qua câu hỏi tu từ: “Hót chi mà vang trời”. Thứ âm thanh không thể
thiếu ấy làm sống dậy cả không gian cao rộng, khoáng đạt, làm sống dậy, vực dậy cả một tâm hồn con người đang
phải đối mặt với những bóng đen u ám của bệnh tật, của cái chết rình rập.
-> Dòng sông êm trôi, bông hoa lững lờ, tiếng chim rộn rã… bức tranh mùa xuân xứ Huế bao giờ cũng đẹp, nhẹ
nhàng, và mơ mộng như thế!
- Thiên nhiên, nhất là mùa xuân vốn hào phóng, sẵn sàng trao tặng con người mọi vẻ đẹp nếu con người biết mở
rộng tấm lòng. Thanh Hải đã thực sự đón nhận mùa xuân với tất cả sự tài hoa của ngòi bút, sự thăng hoa của tâm
hồn. Nhà thơ lặng ngắm, lặng nghe bằng cả trái tim xao động, bằng trí tưởng tượng, liên tưởng độc đáo:
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng.
+ Cụm từ “ giọt long lanh” gợi lên những liên tưởng phong phú và đầy thi vị. Nó có thể là giọt sương lấp lánh qua
kẽ lá trong buổi sớm mùa xuân tươi đẹp, có thể là giọt nắng rọi sáng bên thềm, có thể giọt mưa xuân đang rơi…
Theo mạch cảm xúc của nhà thơ thì có lẽ đây là giọt âm thanh của tiếng chim ngân vang, đọng lại thành từng giọt
niềm vui, rơi xuống cõi lòng rộng mở của thi sĩ, thấm vào tâm hồn đang rạo rực tình xuân.
+ Phép ẩn dụ chuyển đổi cảm giác được vận dụng một cách tài hoa, tinh tế qua trí tưởng tượng của nhà thơ. Thành
Hải cảm nhận vẻ đẹp của mùa xuân bằng nhiều giác quan: thị giác, thính giác và cả xúc giác.
+ Cử chỉ “Tôi đưa tay tôi hứng” thể hiện sự nâng niu, trân trọng của nhà thơ trước vẻ đẹp của thiên nhiên, đất trời
lúc với xuân với cảm xúc say sưa, xốn xang, rạo rực. Nhà thơ như muốn ôm trọn vào lòng tất cả sức sống của mùa
xuân, của cuộc đời.
=> Khổ thơ mở đầu đã mở ra một bức tranh xứ Huế thật đẹp: có hình ảnh, có màu sắc, âm thanh được họa lên từ
những vần thơ có nhạc…
=> Bài thơ được viết vào tháng 11 năm 1980, khi ấy đang là mùa đông giá rét. Như vậy, hình ảnh mùa xuân được
miêu tả ở đây là mùa xuân trong tâm tưởng của nhà thơ. Đối mặt với bệnh tật, thậm chí phải đối mặt với cả cái chết,
vậy mà nhà thơ vẫn hướng đến mùa xuân tươi trẻ, tràn đầy sức sống, thể hiện một tâm hồn lạc quan yêu đời, một
niềm khát khao cuộc sống vô bờ.
=> Đọc những vần thơ của ông, người đọc trân trọng hơn, yêu hơn một tâm hồn nghệ sĩ, một tìnhyêu quê hương, đất
nước đến vô ngần.
2. Khổ 2+3: Cảm xúc của nhà thơ về mùa xuân đất nước:
Khi xưa, trong đêm đen của kiếp sống nô lệ, nhà thơ Tố Hữu –một người con xứ Huế đã từng viết:
Ta nện gót trên đường phố Huế
Dửng dưng không một cảm tình chi
Không gian sặc sụa mùi ô uế
Như nước dòng Hương mải cuốn đi
Đó là Huế trong quá khứ nô lệ đen tối, lầm than. Thời nay, trong hiện tại, Huế đã đổi khác, đang hối hả nhịp chiến
đấu, xây dựng cùng đấtnước:
Mùa xuân người cầmsúng
Lộc giắt đầy trên lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ
Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao…
- Không phải ngẫu nhiên trong khổ thơ lại xuất hiện hình ảnh “người cầm súng” và “người ra đồng”. Họ là những
con người cụ thể, những con người làm nên lịch sử với hai nhiệm vụ cơ bản của đất nước ta trong suốt quá trình
phát triển lâu dài: chiến đấu và sản xuất, bảo vệ và xây dựng Tổ quốc.
- Mùa xuân đến mang đến tiếng gọi của những cố gắng mới và hi vọng mới, mang đến tiếng gọi của đất nước, của
quê hương đang trên đà đổi thay, phát triển. Những tiếng gọi lặng lẽ tới từ mùa xuân làm thức dậy con người, làm
trái tim con người như bừng lên rạng rỡ trong không khí sôi nổi của đất nước, của muôn cây cỏ đã đi theo người
lính vào chiến trường, sát kề vai, đã cùng người lao động hăng say ngoài đồng ruộng.
- Mùa xuân không những chắp thêm đôi cánh sức mạnh cho con người mà còn chuẩn bị cho con người những “lộc”
non tươi mới, căng tràn nhựa sống:
+ “Lộc” không chỉ là hình ảnh tả thực mà con mang ý nghĩa ẩn dụ, tượng trưng.
+ “Lộc” là nhành non chồi biếc của cỏ cây trong mùa xuân.
+ Đối với người chiến sĩ, “lộc” là cành lá ngụy trang che mắt quân thù trong cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc đầy
cam go và ác liệt.
+ Đối với người nông dân “một nắng hai sương”, “lộc” là những mầm xuân tươi non trải dài trên ruộng đồng bát
ngát, báo hiệu một mùa bội thu.
+ Nhưng đặc biệt hơn cả, “lộc” là sức sống, là tuổi trẻ, sức thanh xuân tươi mới đầy mơ ước, lí tưởng, đầy những
hoài bão và khát vọng cốnghiến của tuổi trẻ, sôi nổi trong mỗi tâm hồn con người – tâm hồn của người lính dũng
cảm, kiên cường nơi lửa đạn bom rơi – tâm hồn của người nông dân cần cù, hăng say tăng gia sản xuất. “Lộc” chính
là thành quả hôm nay và niềm tin, hivọng ngày mai.
- Từ những suy nghĩ rất thực về đất nước, nhà thơ khái quát:
Tất cả như hồi hả
Tất cả như xôn xao
+ Điệp ngữ “tất cả”, các từ láy biểu cảm “hối hả”, “xôn xao”, nhịp thơ nhanh => nhà thơ đã khái quát được cả một
thời đại của dân tộc.
+ “Hối hả” diễn tả nhịp điệu khẩn trương, tất bật của những con người Việt Nam trong giai đoạn mới, thời đại mới,
trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa.
+ Còn “xôn xao” lại bộc lộ tâm trạng náo nức rộn ràng.
-> Ý thơ khẳng định một điều: không chỉ cá nhân nào vội vã mà cả đất nước đang hối hả, khẩn trương sản xuất và
chiến đấu. Tất cả đều náo nức, rộn ràng trong mùa xuân tươi đẹp của thiên nhiên, của đất nước.
-> Thanh Hải đã rất lạc quan, say mê và tin yêu khi viết nên những vần thơ này.
- Xúc cảm trước vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước khi bước vào mùa xuân, nhà thơ Thanh Hải đã có cái nhìn sâu sắc
và tự hào về lịch sử bốnnghìn năm dân tộc:
“Đất nước bốn ngàn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước”
+ Với nghệ thuật nhân hóa, Tổ quốc như một người mẹ tần tảo,vất vả và gian lao, đã làm nổi bật sự trường tồn của
đất nước. Để có được sựtrường tồn ấy, giang sơn gấm vóc này đã thấm bao máu, mồ hôi và cả nước mắt của các thế
hệ, của những tháng năm đằng đẵng lúc hưng thịnh, lúc thăng trầm. Nhưng dù trở lực có mạnh đến đâu cũng không
khuất phục được dân tộc Việt Nam:
“Sống vững chãi bốn nghìn năm sừng sững
Lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa”. (Huy Cận)
+ Đặc biệt, phép tu từ so sánh được nhà thơ sử dụng vô cùng đặc sắc, làm ý thơ hàm súc – “Đất nước như vì sao/Cứ
đi lên phía trước”. Sao là nguồn sáng bất diệt của thiên hà, là vẻ đẹp lung linh của bầu trời đêm, là hiện thân của sự
vĩnh hằng trong vũ trụ. So sánh như thế, là tác giả đã ngợi ca đất nước trường tồn, tráng lệ, đất nước đang hướng về
một tương lai tươi sáng. Điệp ngữ “đất nước” được nhắc lại hai lần thể hiện sâu sắc ý thơ: trải qua những gian truân,
vất vả, đất nước vẫn toả sáng đi lên không gì có thể ngăn cản được.
=> Ta cảm nhận được niềm tin tưởng của tác giả vào tương lai rạng ngời của dân tộc Việt Nam. Âm thanh mùa
xuân đất nước vang lên từ chính cuộc sống vất vả, gian lao mà tươi thắm đến vô ngần.
3.Khổ 4+5 Lời ước nguyện chân thành, tha thiết của nhà thơ.
- Từ những cảm xúc về mùa xuân, tác giả đã chuyển mạch thơ một cách tự nhiên sang bày tỏ những suy ngẫm và
tâm niệm của mình về lẽ sống,về ý nghĩa giá trị của cuộc đời mỗi con người:
“Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hoà ca
Một nốt trầm xao xuyến”.
+ Để bày tỏ lẽ sống của mình, ngay từ những câu thơ mở đầu đoạn, Thanh Hải đã đem đến cho người đọc cái giai
điệu ngọt ngào, êm ái của những thanh bằng liên tiếp “ta”-“hoa”-“ca”.
+ Điệp từ “ta” được lặp đi lặp lại thể hiện một ước nguyện chân thành, thiết tha.
+ Động từ “làm”-“nhập” ở vai trò vị ngữ biểu lộ sự hoá thân đến diệu kỳ - hoá thân để sống đẹp, sống có ích.
+ Nhà thơ đã lựa chọn những hình ảnh đẹp của thiên nhiên,của cuộc sống để bày tỏ ước nguyện: con chim, một
cành hoa, một nốt trầm. Còn gì đẹp hơn khi làm một cành hoa đem sắc hương tô điểm cho mùa xuân đất mẹ!Còn gì
vui hơn khi được làm con chim nhỏ cất tiếng hót rộn rã làm vui cho đời!
+ Các hình ảnh bông hoa, tiếng chim đã xuất hiện trong cảm xúc của thi nhân về mùa xuân thiên nhiên tươi đẹp, giờ
lại được sử dụng để thể hiện lẽ sống của mình. Một ý nghĩa mới đã mở ra, đó là mong muốn được sống có ích, sống
làm đẹp cho đời là lẽ thường tình.
+ Cái “tôi”của thi nhân trong phần đầu bài thơ giờ chuyển hoá thành cái “ta”. Có cả cái riêng và chung trong cái
“ta” ấy. Với cách sử dụng đại từ này, nhà thơ đã khẳng định giữa cá nhân và cộng đồng, giữa cái riêng và cái chung.
+ Hình ảnh “nốt trầm”và lặp lại số từ “một” tác giả cho thấyước muốn tha thiết, chân thành của mình. Không ồn ào,
cao giọng, nhà thơ chỉmuốn làm “một nốt trầm” nhưng phải là“một nốt trầm xao xuyến” để góp vào bảnhoà ca
chung. Nghĩa là nhà thơ muốn đem phần nhỏ bé của riêng mình để góp vào công cuộc đổi mới và đi lên của đất
nước.
-> Đọc đoạn thơ,ta xúc động trước ước nguyện của nhà thơ xứ Huế và cũng là ước nguyện của nhiều người.
- Lẽ sống của Thanh Hải còn được thể hiện trong những vần thơ sâu lắng:
“Một mùa xuân nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc.”
+ Cách sử dụng ngôn từ của nhà thơ Thanh Hải rất chính xác,tinh tế và gợi cảm. Làm cành hoa, làm con chim,làm
nốt trầm và làm một mùa xuân nho nhỏ để lặng lẽ dâng hiến cho cuộc đời.
+ “Mùa xuân nho nhỏ” là một ẩn dụ đầy sáng tạo, biểu lộ một cuộc đời đáng yêu, một khát vọng sống cao đẹp. Mỗi
người hãy làm một mùa xuân,hãy đem tất cả những gì tốt đẹp, tinh tuý của mình, dẫu có nhỏ bé để góp vào làm đẹp
cho mùa xuân đất nước.
+ Cặp từ láy “nho nhỏ”, “lặng lẽ” cho thấy một thái độ chân thành, khiêm nhường, lấy tình thương làm chuẩn mực
cho lẽ sống đẹp, sống để cống hiến đem tài năng phục vụ đất nước, phục vụ nhân dân.
-> Không khoe khoang, cao điệu mà chỉ lặng lẽ âm thầm dâng hiến. Ý thơ thể hiện một ước nguyện, một khát vọng,
một mục đích sống.Biết lặng lẽ dâng đời,biết sống vì mọi người cũng là cách sống mà nhà thơ Tố Hữu đã viết:
“Nếu là con chimchiếc lá
Thì con chim phải hót, chiếc là phải xanh,
Lẽ nào vay mà không trả
Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình”.
Nhớ khi xưa, Ức Trai tiên sinh đã từng tâm niệm:
“Bui một tấc lòng trung lẫn hiếu
Mài chẳng khuyết ,nhuộm chẳng đen”.
Còn bây giờ, Thanh Hải – nhà thơ xứ Huế trước khi về với thế giới “người hiền” cũng đã ước nguyện: “Lặng lẽ
dâng cho đời/Dù là tuổi hai mươi/Dù là khi tóc bạc”. Lời ước nguyện thật thuỷ chung, son sắt. Sử dụng điệp ngữ
“dù là” nhắc lại hai lần như tiếng lòng tự dặn mình đinh ninh: dẫu có ở giai đoạn nào của cuộc đời, tuổi hai mươi
tràn đầy sức trẻ, hay khi đã già, bệnh tật thì vẫn phải sống có ích cho đời, sống làm đẹp cho đất nước.
-> Đây là một vấn đề nhân sinh quan nhưng đã được chuyển tải bằng những hình ảnh thơ sáng đẹp, bằng giọng thơ
nhẹ nhàng, thủ thỉ, thiết tha. Vì vậy, mà sức lan tỏa của nó thật lớn.
=> Như trên đã nói, bài thơ được viết vào thời gian cuối đời, trước khi nhà thơ đi vào cõi vĩnh hằng, nhưng trong
bài thơ không hề gợi chút băn khoăn về bệnh tật, về những suy nghĩ riêng tư cho bản thân. Chỉ “lặng lẽ” mà cháy
bỏng một nỗi khát khao được dâng những gì đẹp đẽ nhất của cuộc đời mình cho đất nước. Đây không phải là câu
khẩu hiệu của mộtthanh niên vào đời mà là lời tâm niệm của một con người đã từng trải qua hai cuộc chiến tranh, đã
cống hiến trọn vẹn cuộc đời và sự nghiệp của mình cho cách mạng. Điều đó càng làm tăng thêm giá trị tư tưởng của
bài thơ.
4.Khổ cuối: Lời ngợi ca quê hương, đất nước qua điệu dân ca xứ Huế.
- Bài thơ kết thúc bằng sự trở về với những cảm xúc thiết tha, tự hào về quê hương, đất nước qua điệu dân ca xứ
Huế.
Mùa xuân – ta xin hát
Câu Nam ai, Nam bình
Nước non ngàn dặm mình
Nước non ngàn dặm tình
Nhịp phách tiền đất Huế.
+ Tác giả có nhắc đến những khúc dân ca xứ Huế “Nam ai”, “Nam bình”, có giai điệu buồn thươngnhưng vô cùng
tha thiết.
+ Và qua những khúc “Nam ai”, “nam bình” này thì nhà thơđã bộc lộ tình yêu tha thiết của mình đối với quê hương,
đất nước; thể hiện niềm tin yêu vào cuộc đời, vào đất nước với những giá trị truyền thống vững bền.
Như vậy, xuyên suốt bài thơ không chỉ là hình tượng mùa xuân. Từ tiếng chim chiền chiện – tượng trưng cho khúc
hát tạo ấn tượng về một bài ca không dứt. Bài thơ khép lại nhưng bài ca về mùa xuân, bài ca yêu cuộc sống của
Thanh Hải gửi đến bạn đọc vẫn còn vang vọng mãi.
III. Tổng kết:
1. Nội dung: Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” là tiếng lòng tha thiết yêu mến và gắn bó với đất nước, với cuộc đời; thể
hiện ước nguyện chân thành của nhà thơ được cống hiến cho đất nước; góp một “mùa xuân nho nhỏ” của mình vào
mùa xuân lớn của dân tộc.
2. Nghệ thuật:
- Thể thơ năm chữ, có nhạc điệu trong sáng, tha thiết, gần gũi với các làn điệu dân ca.
- Bài thơ giàu nhạc điệu, với âm hưởng nhẹ nhàng, tha thiết.
- Kết hợp những hình ảnh thơ tự nhiên, giản dị, từ thiên nhiên và giàu ý nghĩa biểu tượng, khái quát.
- Cấu tứ chặt chẽ, sự phát triển tự nhiên của hình ảnh mùa xuân với các phép tu từ đặc sắc.
- Giọng điệu bài thơ thể hiện đúng tâm trạng, cảm xúc của tác giả: vui, say sưa ở đoạn đầu; trầm lắng, hơi trang
nghiêm mà thiết tha ở đoạn bộc bạch những tâm niệm; sôi nổi, tha thiết ở đoạn kết.
* Kết bài: Tình yêu thiên nhiên, sự xúc động trước vẻ đẹp của mùa xuân thiên nhiên, mùa xuân cách mạng và và
khát vọng cống hiến cho đất nước đã được Thanh Hải gợi lên qua bài thơ " Mùa xuân nho nhỏ ". Tuy là tác phẩm
được viết không lâu trước khi nhà thơ qua đời, nhưng bài thơ vẫn để lại trong lòng bao thế hệ bạn đọc, những cảm
xúc sâu lắng, khó phai mờ. Và, bài thơ vẫn sẽ tiếp tục trường tồn cùng với những bước đi lên của đất nước, gợi nhắc
cho những thế hệ trẻ một cách sống đẹp, góp một " mùa xuân nho nhỏ " của mình vào mùa xuân lớn của dân tộc, để
đất nước ta mãi mãi tươi đẹp như mùa xuân. Cuộc đời của con người thì có hạn, nhưng những giá trị tinh thần mà
con người để lại cho đời sau có giá trị vĩnh hằng.
VIẾNG LĂNG BÁC
- Viễn Phương -
1. Mở bài:
“Chúng con sinh ra khi nước còn chia cắt. Nỗi nhớ Bác Hồ dằng dặc đất miền Trung.”
Những lời ngọt ngào tha thiết ấy trong bài hát “Miền Trung nhớ Bác” của nhạc sĩ Thuận Yến đã nói hộ
những người con miền Nam, nói hộ nhân dân Việt Nam lòng biết ơn và niềm thương nhớ Bác vô hạn. Có biết bao
nhiêu bài thơ viết về Bác mà mạch cảm xúc và ngôn ngữ không hề với cạn vì Bác là hồn thơ của dân tộc. Viễn
Phương - nhà thơ của miền Nam, vào năm 1976 đã vinh dự cùng với những người con miền Nam ưu tú nhất được ra
thủ đô Hà Nội thăm lăng Bác Hồ. Với tất cả niềm xúc động và lòng thành kính, tác giả đã sáng tác bài thơ “ Viếng
lăng Bác”. Bài thơ là tiếng lòng tha thiết của nhà thơ, là món quà quí giá tác giả dâng lên Bác kính yêu đã góp trọn
lòng biết ơn, niềm thương nhớ Bác khôn nguôi.
2. Thân bài:
a. Giới thiệu tác giả, tác phẩm:
Nhà thơ Viễn Phương, tên khai sinh là Phan Thanh Viễn, quê ở An Giang, là một trong những cây bút có mặt sớm
nhất của lực lượng văn nghệ giải phóng miền Nam thời chống Mĩ. Nhắc đến Viễn Phương, Mai Văn Tạo có lần
từng nhận xét: “Thơ Viễn Phương nền nã, thì thầm, man mác, bâng khuâng, day dứt, không gút mắc, cầu kỳ, kênh
kiệu, khoa ngôn. Hình ảnh nào trong đời sống anh cũng tìm thấy chất thơ.”
“Viếng lăng Bác” ra đời vào tháng 4 năm 1976 - đây là một hoàn cảnh lịch sử thật đặc biệt - là một năm sau ngày
đất nước thống nhất, lăng Bác vừa được khánh thành. Viễn Phương vinh dự góp mặt trong đoán cán bộ miền Nam
ra thăm miền Bắc để vào lăng viếng Bác. Trong giây phút lịch sửa ấy, nhà thơ đã viết bài thơ “Viếng lăng Bác”. Bài
thơ được in trong tập “Như mây mùa xuân”
Bài thơ là nén nhang thơm mà Viễn Phương, toàn thể người dân miền Nam cũng như toàn thể nhân dân Việt Nam
kính dâng lên Bác kính yêu.
b. Khổ 1: Cảm nhận của nhà thơ khi nhìn thấy lăng Bác từ xa:
Dòng cảm xúc và tâm trạng nhà thơ được diễn tả theo trình tự của cuộc viếng thăm lăng Bác. Trong tâm
tưởng của tác giả, Bác Hồ như đang sống, như thể Bác nhìn thấy mọi người từ xa, nên tác giả ngầm giới thiệu:
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Câu thơ như chứa đựng một nỗi đau và một niềm tự hào. Tự hào “con ở miền Nam”, miền Nam gian khổ và
anh hùng, miền Nam thành đồng Tổ quốc, miền Nam vừa chiến thắng vẻ vang…Nhớ lúc sinh thời Người luôn nghĩ
đến miền Nam “Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà” bởi Bác thương “Miền Nam đi trước về sau” sau năm 1954 vẫn
chưa được độc lập. Người từng có mong muốn được vào miền Nam để thăm hỏi và động viên đồng bào chiến sĩ. Và
trước ân tình của Bác, miền Nam cũng “mong Bác nỗi mong cha”. Tình cảm ấy cũng là những ý thơ trong bài thơ
của Tố Hữu:
“Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà
Miền Nam mong Bác nỗi mong cha”
(Bác ơi)
Hoặc: “Nam Bộ là máu của máu Việt Nam, là thịt của thịt Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song
chân lí ấy không bao giờ thay đổi”.
Thế mà miền Nam không được đón Bác vào thăm trong ngày vui đại thắng. Nay thì Bác đã ra đi, nỗi đau
mất Bác không gì bù đắp được.
Chính vì thế, như hàng chục triệu người con miền Nam, nhà thơ Viễn Phương đã canh cánh trong lòng một
ước nguyện được ra thủ đô Hà Nội để thăm vị cha già kính yêu và niềm ao ước bấy lâu nay đã thỏa nỗi chờ mong.
Từ xa dõi nhìn về phía lăng Bác nhà thơ đã thấy lòng nghẹn ngào, dưng dưng.
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa vẫn đứng thẳng hàng.”
Sau bao nhiêu năm chiến tranh, Bắc Nam chia cắt nhà thơ đã được ra thủ đô Hà Nội thăm lăng Bác. Với tất
cả niềm xúc động, lòng kính yêu nhà thơ đã thành kính thưa với Bác: “Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”. Tác giả
xưng “con” với Bác, cách xưng hô ngọt ngào, thân thương, rất Nam Bộ. Tiếng “con” ấy bật lên từ trái tim tha thiết
yêu thương nhớ mong của nhà thơ nghe sao mà xúc động. Đó là cách xưng hô rất đặc biệt của nhà thơ, của nhân dân
miền Nam với Bác Hồ kính yêu. Cách xưng hô ấy vừa thể hiện sự kính trọng của nhà thơ, vừa nói lên được tình cảm
mà nhà thơ hướng về Bác, dành cho Bác rất ruột thịt, thân thương như tình cảm của người con với người cha kính
yêu. Bác thật vĩ đại nhưng cũng rất gần gũi với nhân dân “Người là cha, là Bác, là Anh”.
Con cũng là cách xưng hô không phải là mới của các nhà thơ khi viết về Bác:
Người không con mà có triệu con.
Tác giả sử dụng biện pháp nói giảm nói tránh “thăm” để giảm đi bao đau thương mất mát về việc Bác đã đi
xa.
Nhà thơ hẳn phải đến từ rất sớm, khi màn sương còn bao phủ xung quanh. Từ xa, theo con đường quanh
quanh, nhìn về phía lăng Bác, nhà thơ bắt gặp một hình ảnh rất đỗi quen thuộc, thân thương, đó là hình ảnh “hàng
tre bát ngát”. Bát ngát của tre và bát ngát của sương, là những nét vẽ mờ tỏ, đậm nhạt, tạo nên vẻ đẹp lung linh như
tranh thủy mạc nhưng đồng thời cũng làm rõ chất thực và hư trong cuộc viếng thăm này. Cây tre là loại cây rất bình
dị, quen thuộc ta bắt gặp ở mọi miền đất nước, không người Việt Nam nào lại không biết đến cây tre. Bởi vì nói đến
hàng tre bát ngát là nói đến quê hương và con người Việt Nam với biết bao đức tính cao quí và trong sáng: chịu
thương, chịu khó, cần cù, chăm chỉ... Nói đến hàng tre là chúng ta nghĩ ngay đến ngôi nhà thân yêu, tuổi thơ trìu
mến, lời ru của mẹ dịu dàng, ấm áp, tiếng võng đưa kẽo kẹt trưa hè dưới bóng tre làng một nắng hai sương, cần cù,
bền bỉ…Tre bao quanh làng cho bóng mát. Tre làm rá, rổ, giần, sàng…Tre làm chông, làm gậy đáng giặc giữ
nước… Và hơn hết, qua bao gian khó, hiểm nguy tre vẫn kiên trì bám đất, bám làng, sống hiên ngang như dân tộc
Việt Nam vững vàng đi qua những sóng gió của thời đại… Một thoáng ngỡ ngàng, nhà thơ không ngờ bên lăng vị
chủ tịch vĩ đại lại có khóm tre già bình dị, thân quen tỏa bóng mát rượi. Hình ảnh ấy gợi cho nhà thơ bao suy tư:
Bác thật giản dị, lúc nào cũng gắn bó với quê hương, với đồng bào, với lũy tre làng thân thương. Ra thăm Bác ở thủ
đô mà nhà thơ có cảm giác về quê thăm cha. Từ hình ảnh tả thực, cây tre đã được nâng lên thành hình ảnh ẩn dụ
mang ý nghĩa tượng trưng:
Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa vẫn đứng thẳng hàng.
Nhìn hàng tre xanh ngắt bên lăng Bác nhà thơ thấy lòng trào dâng niềm xúc động, tình cảm ấy đã được gói
trọn trong từ cảm thán “ôi” - hình ảnh tre xanh xanh Việt Nam là một ẩn dụ vừa biểu tượng cho sự bình dị, thanh
cao của Bác, của tâm hồn người Việt, vừa biểu tượng cho sức sống mãnh liệt của dân tộc Việt Nam. Như cây tre,
người Việt Nam tiềm tàng sức sống, không khó khăn nào, kẻ thù nào có thể hủy diệt được sức sống của dân tộc Việt
Nam. Khẳng định điều này, trong bài thơ “Tre Việt Nam” nhà thơ Nguyễn Duy cũng viết:
Ở đâu tre cũng xanh tươi
Cho dù đất sỏi, đất vôi bạc màu
Sức sống ấy bắt nguồn từ tình đoàn kết của tre và người Việt Nam:
Bão bùng thân bọc lấy thân
Tay ôm, tay níu, tre gần nhau thêm
Thương nhau tre không ở riêng
Lũy thành từ đó mà nên hỡi người…
(Tre Việt Nam - Nguyễn Duy)
Rõ ràng, trong bốn câu thơ đầu ta vừa cảm nhận được tình cảm thương xót của tác giả vì tre phải hứng chịu
bão táp, mưa sa nhưng đồng thời cũng cảm nhận được cả niềm tự hào vì tre vẫn thẳng hàng, không nghiêng ngửa.
Hình ảnh “tre đứng thẳng hàng” cũng là một ẩn dụ rất đẹp biểu tượng cho sự ngay thẳng, sự kiên cường bất khuất
của người dân Việt Nam. Giống như cây tre, người Việt Nam không chịu khuất phục trước kẻ thù, trước bom đạn,
trước gian nguy, hàng tre lăng Bác tượng trưng cho thế đứng vững vàng của toàn dân tộc, khẳng định điều này, nhà
thơ Nguyễn Duy cũng đã viết:
Nòi tre đâu chịu mọc cong
Chưa lên đã thẳng như chông lạ kì.
Miêu tả cảnh quan bên ngoài lăng Bác nhà thơ không chỉ tạo nên những suy nghĩ sâu sắc về phẩm chất tốt
đẹp của nhân dân ta mà còn từ hình ảnh cây tre đứng thẳng hành bên lăng Bác còn gợi ta liên tưởng đến những
người con trung hiếu đang canh giữ cho giấc ngủ của Bác ở trong lăng bình yên.

c. Khổ 2 : Cảm xúc của nhà thơ khi cùng mọi người vào lăng viếng Bác :
Khổ thơ trên, cảnh vật đang còn sương phủ, bây giờ mặt trời đã lên cao trên đầu. Cũng là lúc tác giả hòa
cùng dòng người vào lăng viếng Bác, trong lòng nhà thơ trào dâng một nỗi xúc động, một niềm tôn kính khó tả,
giọng thơ vẫn thành kính, trang nghiêm, nhà thơ đã bày tỏ thật chân thành cảm xúc của ông khi dòng người vào lăng
viếng Bác :
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trên lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân.
Hai câu thơ sóng đôi, hô ứng với nhau. Ngày lại ngày, theo qui luật tuần hoàn của tự nhiên, mặt trời rực rỡ
của thiên nhiên « đi qua trên lăng ». Nó đã thấy trong lăng có một mặt trời rất đỏ đang tỏa sáng. Ta bắt gặp hai hình
ảnh mặt trời trong hai câu thơ. Mặt trời trong câu thơ thứ nhất là mặt trời của thiên nhiên, của vũ trụ được nhân hóa
như có tâm hồn. Mặt trời ấy mang ánh sáng, mang sự sống đến cho muôn loài muôn vật trên trái đất. Nó xua tan đi
đêm trường lạnh giá, tối tăm. « Mặt trời trong lăng rất đỏ » là một hình ảnh ẩn dụ rất đẹp, nhà thơ đã ngầm so sánh
Bác với mặt trời, tác giả đã mượn cái vĩ đại của thiên nhiên để ca ngợi sự vĩ đại của Bác, Bác là mặt trời chân lí.
Người đã tìm ra con đường cách mạng đúng đắn để đưa dân tộc ta thoát khỏi đêm trường nô lệ tối tăm. Người đã
mang đến độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân, trái tim của Người ấm áp như vầng Thái dương đã sưởi
ấm, che chở cho bao kiếp người nô lệ. Mặt trời - Bác Hồ tỏa hơi ấm tình thương bao la trong lòng mỗi con người.
Nhà thơ Tố Hữu đã so sánh Bác như : « Quả tim lớn lọc trăm dòng máu nhỏ ». Người là mặt trời không bao giờ tắt
trong lòng nhân dân Việt Nam. Còn hình ảnh mặt trời « rất đỏ » làm chúng ta liên tưởng đến hình ảnh một trái tim,
trái tim nhiệt huyết, chân thành, trái tim thương nước, thương dân. Mặt trời đỏ còn biểu trưng cho ý nghĩa chiều
sâu : Bác nằm xuống nhưng lí tưởng rực rỡ để cứu nước, xây dựng Tổ quốc và sự nghiệp của Người vẫn còn đấy,
vẫn soi đường cho cả nước tiến lên, truyền cảm hứng và sức sống cho con dân đất Việt mai sau. Và dường như ta
còn cảm giác như mặt trời của tự nhiên cũng phải ngắm nhìn, chiêm ngưỡng mặt trời của dân tộc - chính là Bác Hồ
kính yêu. Thật ra, việc so sánh Bác Hồ với Mặt trời, ta đã từng bắt gặp trong thơ Tố Hữu, trong ca dao dân ca :
Người rực rỡ một mặt trời cách mạng
Mà đế quốc là loài dơi hốt hoảng
Đêm tàn bay chập chạng dưới chân người.
(Tố Hữu - “Sáng tháng năm”)
Nhưng Viễn Phương đã rất sáng tạo khi sử dụng biện pháp so sánh kết với nhân hoá. Mặt trời của tự nhiên vốn đã
đẹp, rực rỡ vậy mà phải ngước nhìn, ngưỡng mộ trước vẻ đẹp của « Mặt trời Hồ Chí Minh » trong lăng.
Chỉ với hai câu thơ, tác giả đã ca ngợi công lao to lớn, vĩ đại của Bác và bày tỏ chân thành lòng kính yêu, lòng biết
ơn vô hạn của nhân dân miền Nam với Bác. Ca ngợi sự bất tử của Bác nhà thơ Phạm Tiến Duật đã viết :
Mặt trời lặn, mặt trời mang theo nắng
Người ra đi để ánh sáng cho đời.
Hai câu thơ tiếp trong đoạn thơ :
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân
Giọng thơ đượm buồn, lắng trầm, trĩu nặng suy tư, câu thơ được ngắt thành ba nhịp 2-2-4 chậm rãi. Từ «
ngày ngày » được nhắc lại hai lần gợi cảm giác một thời gian vô tận, vĩnh hằng, không bao giờ ngừng như tấm lòng
nhân dân không nguôi nhớ Bác. Ngày nối ngày, những con người đất Việt vẫn thường đều đặn đến thăm cha, đoàn
người dài như một dòng người vô tận, một cách nói hoán dụ rất sáng tạo « dòng người đi trong thương nhớ » đã
diễn tả tâm trạng buồn đau vô hạn trước sự ra đi của Bác. Dù dòng người từ mọi miền đất nước về đây để viếng
Bác, để thăm nơi yên nghỉ cuối cùng của Người, tất cả đều có chung một nỗi lòng thương nhớ khôn nguôi. Nhìn
dòng người vào lăng viếng Bác với muôn vàn sắc áo, với nhiều màu da, đến từ nhiều vùng miền khác nhau, nhà thơ
liên tưởng đến tấm lòng của mỗi người khi đến thăm Bác thành tâm, thơm ngát như những đóa hoa kết thành « tràng
hoa » dài dâng lên Bác, mừng Bác bảy mươi chín mùa xuân. Tràng hoa là một ẩn dụ rất đẹp và sáng tạo và từ «
dâng » nói lên tấm lòng thành kính, biết ơn của nhà thơ, của nhân dân ta với Bác. Khi vào lăng viếng Bác, ai cũng
muốn dâng lên Bác đóa hoa thơm ngát của lòng mình để chúc thọ Bác bảy mưới chín mùa xuân. Ta lại băt gặp hình
ảnh hoán dụ thật đẹp. Tác giả đã gọi 79 năm Bác hưởng thọ là bảy mươi chín mùa xuân. Cuộc đời Bác là mùa xuân
vĩ đại, vĩnh hằng, tươi đẹp bởi người đã làm cho đất nước ta nở hoa độc lập, kết quả tự do.
d. Khổ 3 : Cảm xúc của nhà thơ khi nhìn thấy Bác ở trong lăng :
Giây phút nhà thơ cũng như những con người đất Việt đến thủ đô thăm Bác nóng lòng trông đợi đó là được
nhìn thấy Bác, cái thời khắc thiêng liêng ấy đã đến, lòng nhà thơ rưng rưng xúc động. Ông đã viết :
Bác nằm trong lăng giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim.
Cách nói giảm, nói tránh, Bác mất rồi mà nhà thơ lại viết “bác ngủ bình yên” giữa “một vầng trăng sáng dịu
hiền”. Sự liên tưởng thật hợp lí và độc đáo kết hợp với phép nhân hóa làm cho cảnh vật, ánh trăng thật có hồn. Câu
thơ khiến ta có cảm giác: Bác đang nằm ngủ bình yên, thanh thản, ung dung, tự tại trong một không gian yên tĩnh,
sáng trong, dịu hiền của “vầng trăng” Ba Đình lịch sử vì mong ước của Bác nay đã thành sự thực. Suốt 79 năm qua
có đêm nào Bác được ngủ trọn giấc đâu bởi lúc nào người cũng canh cánh một nỗi lo cho dân cho nước, Người chỉ
mong sao “nước ta được độ lập, dân ta được tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”.
Ánh điện dịu dàng sáng trong lăng Bác giống như ánh trăng dịu hiền, một sự liên tưởng rất sáng tạo. Ta vẫn biết lúc
sinh thời Bác rất yêu trăng, Người coi trăng là bạn bè, là tri ân tri kỉ. Con người tha thiết yêu trăng mà chưa bao giờ
được bình yên để ngắm trăng ấy bây giờ đã được yên nghỉ cùng trăng. Người đã ngủ bình yên thanh thản giữa vầng
trăng sáng dịu hiền thuần khiết như tâm hồn trong sáng và cuộc đời thanh cao của Người. Đọc câu thơ ta lại nghẹn
ngào nhớ lại những vần thơ Bác viết về trăng:
Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa
Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà.
Hoặc:
Trăng nhòm khe cửa đòi nhà thơ
Việc quân đang bận xin chờ hôm sau.
Hay:
Việc quân, việc nước bàn xong,
Gối khuya ngon giấc bên song trăng nhòm.
Bao tình cảm dâng trào trong tim khi nhà thơ được chiêm ngưỡng Bác. Mái tóc, chòm râu bạc phơ, vầng trán
cao thanh thản, vẻ mặt hiền từ…Dù chỉ được dừng bên Bác vài phút song thời gian ngắn ngủi mà vô cùng quí giá ấy
sẽ trở thành kỉ niệm không thể nào quên trong suốt cuộc đời. Ngòi bút Viễn Phương đã chạm đến chốn sâu thẳm
tâm hồn những người con miền Nam xa xôi được về lăng viếng Bác.
Hai câu thơ cuối trong đoạn thơ giọng thơ bỗng lắng xuống nghẹn ngào như muốn khóc:
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim.
Cặp quan hệ từ “Vẫn biết…mà sao…” đã diễn tả sự mâu thuẫn giữa tình cảm và lí trí của nhà thơ. Tác giả tự
mâu thuẫn với chính mình. Trái tim yêu Bác như thầm nói Người vẫn còn sống cùng dân tộc, cùng cháu con như
trời xanh mãi mãi. “Trời xanh” là ẩn dụ chỉ sự bất tử, sự trường tồn của Bác, Bác mãi là trời xanh vĩnh hằng, là
niềm hi vọng, là tình yêu bao la của dân tộc Việt nam ta. Người bất tử trong lòng nhân dân Việt Nam. Nhà thơ Tố
Hữu viết “Bác sống như trời đất của ta” bởi Bác đã hóa thân thành thiên nhiên, đất nước và dân tộc. Nhà thơ Chế
Lan Viên cũng đã khẳng định:
Người vĩnh cửu muôn đời không thể mất
Người trong lăng và ở ngoài lăng.
Thế nhưng lí trí lại mach bảo nhà thơ Bác đã đi xa rồi “Người đã lên đường theo tổ tiên”, Bác ra đi àm chưa
thỏa ước nguyện được trở lại thăm Thành đồng Tổ quốc, được gặp gỡ đồng bào miền Nam ruột thịt. Nhân dân miền
Nam day dứt khôn nguôi bởi không được: “Rước bác vào thăm, thấy Bác cười”. Sự ra đi của Bác đã để lại trong
lòng dân tộc nỗi thương đau không gì bù đắp nổi. Dù biết tạo hóa có sinh, có tử. Nhưng nhà thơ vẫn thấy “Nhói ở
trong tim” - đó là nỗi đau nhức nhối sâu thẳm tận trong trái tim. Rõ ràng từ nỗi đau tinh thần đã chuyển thành nỗi
đau thể xác - đau tim - cái đau khủng khiếp nhất. Viễn Phương có một lối viết hàm súc, đầy thi vị; câu chữ để lại
nhiều ám ảnh trong lòng người đọc.
Chắc chắn nhà thơ cũng như chúng ta rất yêu Bác, thương Bác nên đã nén chặt nỗi đau trong tim, đã để cho
nước mắt chảy vào trong để cho Bác thanh thản yên lòng ra đi. Nhà thơ Tố Hữu cũng đã tự nhủ lòng:
Thương Bác lòng không dám khóc nhiều
Bác chẳng buồn đâu Bác chỉ đau
Nỗi đau dân nước, nỗi năm châu.
Có lẽ Bác là lãnh tụ duy nhất trên Trái đất này được nhiều người yêu mến sâu sắc, bởi thông qua lời nói,
việc làm, lối sống của Người, Bác làm cho chúng ta cảm thấy Người thật vĩ đại nhưng cũng thật gần gũi như những
người anh, người cha trong gia đình. Sự ra đi của Bác không chỉ là sự ra đi của một vị lãnh tụ đứng đầu đất nước mà
còn là sự ra đi của một thành viên trong đại gia đình Việt Nam. Đến đây ta chợt nhớ đến khi Người còn sống:
Đầu tiên là tình thương với thiếu nhi:
Ôi vẫn còn đây của các em
Chồng thư mới mở Bác đang xem
Chắc Người thương lắm đàn con trẻ
Nên để bâng khuâng gió động rèm
(Theo chân Bác – Tố Hữu)
Bác không ngủ vì thương đoàn dân công:
Bác thương đoàn dân công,
Đêm nay ngủ ngoài rừng
Rải lá cây làm chiếu
Manh áo phủ làm chăn
(Đêm nay Bác không ngủ - Minh Huệ)
Bác giản dị mà vĩ đại:
Bác để tình thương cho chúng con
Một đời thanh bạch chẳng vàng son
Mong manh áo vải hồn muôn trượng
Hơn tượng đồng phơi giữa lối mòn
(Bác ơi – Tố Hữu)

Người có tình thương vô hạn, có đức hi sinh quên mình:


Ôi lòng Bác vậy cứ thương ta
Thương cuộc đời chung, thương cỏ hoa
Chỉ biết quên mình cho hết thảy
Như dòng sông chảy nặng phù sa
(Theo chân Bác – Tố Hữu)
Có lẽ chính vì tất cả những điều đó nên ngày Bác mất, Bác mất vào ngày mồng 2/9/1969, nhưng Đảng sợ
nhiều người xuyên tạc vì ngày Bác đọc Tuyên ngôn độc lập là ngày 2/9/1945. Ngày mồng 3/9/1969, khi các loa
phóng thanh ở thủ đô Hà Nội thông báo Bác đã ra đi mãi mãi…Tất cả mọi người đều lặng đi, nông dân dừng tay
cày, học sinh ngừng học…người lớn, người già, trẻ nhỏ, tất cả, tất cả đều lặng đi đau đớn, xót xa…Chưa có một
đám tang nào lại não nề đến thế, hàng nghìn, hàng vạn người đứng trước quảng trường Ba Đình khóc thương một
tâm hồn cao cả đã hi sinh đời mình cho sự nghiệp lớn lao của dân tộc. Tâm hồn đó đã làm lay động lòng người, lay
động cả trời và đất, đến nỗi:
Suốt mấy hôm rày đau tiễn đưa
Đời tuôn nước mắt, trời tuôn mưa
Hôm nay con chạy về thăm Bác
Ướt lạnh vườn cau mấy gốc dừa
(Bác ơi – Tố Hữu)
e. Khổ cuối:
Ở bên Bác nhà thơ cố nén nước mắt, nỗi buồn thương nhưng nghĩ tới lúc ngày mai phải xa Bác để trở về
miền Nam, tác giả không cầm được lòng mình. Cảm xúc ấy đã được thể hiện trong khổ thơ cuối:
Mai về miền nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.
Bài thơ đã kết lại trong lời thơ dạt dào cảm xúc, chan chứa yêu thương. Cuộc đoàn viên nào rồi cũng đến lúc
chia tay, phút chia xa ấy sắp tới “Mai về miền Nam” chỉ còn một khoảng thời gian thật ngắn ngủi, nhà thơ và những
người con của miền Nam sẽ phải chia tay với vị cha già kính yêu. Không nén nổi lòng mình, bao nỗi buồn đau, nhớ
nhung, lưu luyến đã trào dâng thành lệ “ Thương trào nước mắt”. Nỗi thương xót trào rơi nước mắt - không phải
rưng rưng, rơm rớm mà là trào, một cảm xúc mãnh liệt. Đó là những giọt nước mắt nhớ thương, lưu luyến của tình
người con đối với cha. Có lẽ khóc được nhà thơ thấy dịu đi, vơi đi rất nhiều nỗi buồn đau. Vượt lên trên nỗi đau mất
Bác, nhà thơ cũng như mỗi người chúng ta muốn sống thật xứng đáng với Bác, muốn ở bên Bác mãi mãi. Tác giả
khát khao muốn làm một điều gì đấy cho Bác, muốn được ở bên Bác mãi mãi. Cụm động từ “muốn làm” được điệp
lại ba lần như một lời hứa danh dự kết hợp với những ẩn dụ rất đẹp liệt kê dồn dập, liên tiếp, “con chim hót, đóa hoa
tỏa hương, cây tre trung hiếu” làm cho âm điệu của đoạn thơ thật tha thiết. Tác giả khao khát muốn hóa thân thành
những vật bình dị thân thương nhưng luôn đẹp đẽ để luôn ở gần Bác, phụng sự Bác. Ông muốn hóa thân thành chú
chim nhỏ để hát cho Bác nghe mỗi sớm bình minh khi Người thức dậy, để mang lại chút vui tươi, nhí nhảnh cho
lăng. Nhà thơ muốn làm đoá hoa tỏa hương đâu đây, một làn hương như thực như hư “đâu đây”, thoang thoảng, để
dâng lên Người hương thơm và sắc thắm của đời mình, để được ở bên Người mãi mãi. Rồi tác giả lại muốn làm cây
tre trung hiếu chốn này để canh giấc ngủ cho Bác bình yên và tận trung tận hiếu với Bác, với Đảng. Mọi ước muốn
đều qui tụ vào một điểm là mong được gần Bác mãi mãi, hẳn là muốn làm vui, làm khuây, làm vợi nỗi vắng vẻ
trong lăng của con người đã suốt đời hi sinh cho sự nghiệp giải phóng Tổ quốc, giải phóng dân tộc, một con người
lúc sinh thời đã dành trọn tình thương yêu cho mọi tầng lớp nhân dân và đặc biệt cho đồng bào miền Nam ruột thịt.
Những ước muốn đó cũng là tấm lòng thành kính, biết ơn của nhà thơ, của người dân miền Nam và của cả dân tộc ta
đối với Bác - người cha vĩ đại, kính yêu. Không phải ngẫu nhiên mở đầu bài thơ ta bắt gặp hình ảnh cây tre thẳng
đứng bên lăng Bác và kết thúc bài thơ ta lại bắt gặp cây tre trung hiếu chốn này. Rõ ràng hình ảnh cây tre đã trở
thành biểu tượng đẹp đẽ của những người con đất Việt - những người con trung hiếu quây quần bên vị cha già kính
yêu để bảo vệ và giữ gìn giấc ngủ cha Bác và nguyện trung thành với sự nghiệp cách mạng mà người đã để lại cho
dân tộc.
f. Đặc sắc nghệ thuật:
Về nghệ thuật bài thơ có nhiều nét nghệ thuật đặc sắc đã biểu hiện thành công những giá trị nội dung. Bài
thơ viết theo thể thơ tám chữ, có đôi chỗ biến thể xen một vài câu 7 chữ và 9 chữ, cách gieo vần và nhịp điệu linh
hoạt. Viễn Phương sáng tạo trong việc xây dựng hình ảnh thơ kết hợp cả hình ảnh thực, hình ảnh ẩn dụ, biểu tượng
có ý nghĩa, khái quát và giá trị biểu cảm cao. Bài thơ có giọng điệu vừa trang nghiêm, sâu lắng, vừa tha thiết, đau
xót, tự hào, phù hợp với nội dung, cảm xúc của bài thơ. Lựa chọn ngữ biểu cảm, sử dụng các ẩn dụ, điệp ngữ có
hiệu quả nghệ thuật.
3. Kết bài:
“Viếng lăng Bác” là một bài thơ hay bởi nó được tạo ra từ những cảm xúc, rung động chân thành của trái tim
nhà thơ, đồng thời cũng là tiếng lòng của tất cả chúng ta. Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Bác Hồ như một
thiên thần thoại của thế kỉ hai mươi. Chủ tịch Hồ Chí Minh là con người Việt Nam đẹp nhất! Nhà thơ Pita Rôđrighết
của đất nước Cu-Ba anh em đã tự hào khẳng định: Hồ Chí Minh – tên Người là cả một niềm thơ.
NÓI VỚI CON
- Y Phương -
ĐỀ 1: PHÂN TÍCH ĐOẠN 1
 Mở bài
Quê hương là gì hở mẹ?
Mà cô giáo dạy phải yêu
Quê hương là gì hở mẹ?
Mà ai đi xa cũng nhớ nhiều.
Nhà thơ Đỗ Trung Quân đã diễn tả tình yêu quê hương của mình bằng những vần thơ thật giản dị. Quả thật ai
cũng có một quê hương nơi đón nhận tiếng khóc chào đời. Viết về quê hương, mỗi nhà thơ có một cách thể hiện
khác nhau. Nếu như với Đỗ Trung Quân là “chiếc cầu tre nhỏ”, với Tế Hanh là “chiếc buồm vôi”, là “mùi nồng
mặn quá” thì nhà thơ Y Phương lại biểu lộ tình yêu và niềm tự hào về quê hương qua lời tâm sự với con. Bài thơ
“ Nói với con” được in trong “Thơ Việt Nam 1945 – 1985” là tiếng lòng của một tấm hồn chân thật, mạnh mẽ,
trong sáng của người cha dành cho con. Qua đó, thể hiện tình yêu quê hương thắm thiết và diễn tả niềm tự hào về
cội nguồn dân tộc. Khổ thơ đầu của bài thơ là lời người cha nói với con về cội nguồn sinh dưỡng của mình: Con
lớn lên trong tình yêu thương,sự nâng đỡ của cha mẹ, trong cuộc sống lao động nên thơ của quê hương.
• Khái quát:
-Y Phương – tên thật là Hứa Vĩnh Sước – là nhà thơ dân tộc Tày, quê ở huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng. Là một
nhà thơ của núi rừng Tây Bắc, nhà thơ của hoa ban, hoa gạo và những dòng suối rì rào. “Thơ ông một bức tranh thổ
cẩm đan dệt nhiều màu sắc khác nhau, phong phú và đa dạng, nhưng trong đó có một màu sắc chủ đạo, âm điệu
chính là bản sắc dân tộc rất đậm nét và độc đáo. Nét độc đáo đó nằm ở cả nội dung và hình thức. Với Y Phương,
thơ của dân tộc Tày nói riêng và thơ Việt Nam nói chung có thêm một “giọng điệu mới, một phong cách mới”. Có
thể nói Y Phương chính là đại diện cho cái hồn, cái cốt cách dân tộc.
- Mang đậm phong cách tác giả, “Nói với con” có thể coi là một trong những thi phẩm xuất sắc nhất nói về tình
quê. Bài thơ được sáng tác năm 1980 – 5 năm sau ngày đất nước giải phóng, ở đó không chỉ có tình quê mà còn
nồng nàn tình cha, tình phụ tử, là tình cảm người cha vĩ đại dành tặng cho đứa con bé bỏng của mình. Đó cũng được
coi như là niềm hi vọng, mong mỏi lớn lao nhất trong cuộc đời người cha: Mong con khôn lớn nên người, luôn yêu
quê hương, tự hào về dân tộc mình. Bài thơ bởi lẽ đó cũng mang đến một niềm xúc động vô bờ trong lòng độc giả.
- Khổ thơ đầu đã sử dụng những ngôn từ mộc mạc, bình dị, giọng điều thật thiết tha, đầy tình yêu thương để khơi
gợi về cội nguồn sinh dưỡng để đứa con khắc ghi .
LĐ 1: Đầu tiên người cha muốn nói tới là tình cảm gia đình - cái nôi nuôi dưỡng con trưởng thành.
Có thể nói, tình cảm gia đình, nhất là tình cha con, luôn thiêng liêng, là tiền đề, cơ sở cho tình yêu Tổ quốc phát
triển. Năm 1966, ta đã từng được thấm thía tình cha qua tác phẩm “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng. Cái
khác biệt ở chỗ, nếu như Nguyễn Quang Sáng thử thách tình cha con qua bom rơi đạn nổ, qua cái khốc liệt của
kháng chiến mà ánh ngời lên “hạt ngọc ẩn náu trong tâm hồn” người cha. Thì Y Phương lại để thứ tình cảm ấy nhẹ
nhàng mà không kém phần nồng nàn, ấm nóng, là tình cảm tự nó có, không cần phải chờ bất cứ tác nhân nào. Nhờ
đó mà tác phẩm thấm thía như một bài ca quý giá.
- Trong bốn dòng thơ đầu bài thơ là hình ảnh của người con lớn lên trong tình cảm gia đình êm ái yêu thương. Ở
đó còn toát lên tình yêu thương dạt dào sâu nặng và người cha dành cho đứa con thân yêu của mình:
Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười.
- Hiện lên qua từng con chữ vần thơ là một mái nhà đầm ấm yên vui có cả cha có mẹ và có cả con. Ở đó, cha mẹ đã
dìu dắt và nâng đỡ con từng bước đi tiếng nói nụ cười đầu tiên trong cuộc đời. Bằng những từ ngữ giàu hình ảnh
cùng với phép liệt kê “chân phải, chân trái, tiếng nói, tiếng cười”, Y Phương đã vẽ ra trước mắt người đọc không
khí ấm cúng, hạnh phúc của một gia đình. Ở đó, có một đứa trẻ đang cố bước những bước chân non nớt về phía cha
mẹ mình. Không có gì đáng yêu hơn là đôi bàn chân hồng hồng đi trên sàn nhà và đôi tay bé xíu vẫy vẫy cha mẹ.
Trong sự đáng yêu ấy là cả niềm mong đợi, vui sướng của mẹ cha khi lần đầu được nghe con bập bẹ “mẹ ơi, cha
ơi”, lần đầu nhìn thấy con vững chãi bước đi trên chính đôi chân của mình.
Đọc câu thơ ta lại nhớ đến hình ảnh người cha đang vỡ òa hạnh phúc khi lần đâu tiên nhận được tin con tập đi trong
thơ của Huy Cận
Được tin con tập đi
Cha mừng không ngủ được.
Cha nằm đếm thầm thì
Từng bước chân con bước.
(Được tin con tập đi - Huy Cận)
Tin con tập đi đã đánh thức người cha, cha vui mừng khôn xiết không thể ngủ được, từng bước chân con tạo nên sự
chuyển động, cũng như sự lớn lên từng ngày của trẻ trong vòng tay yêu thương của cha mẹ. Ngày con tập đi có lẽ là
ngày đẹp nhất trên thế giới, cha mong sớm được gặp con, nhìn con bước đi.
Y Phương và Huy Cận đã khắc họa lên hình ảnh một gia đình thật hạnh phúc, đầm ấm, tràn ngập yêu thương. Đứa
trẻ được nuôi nấng, che chở trong vòng tay ấm áp của cha mẹ. Mỗi bước đi, mỗi tiếng nói, nụ cười của con trẻ đều
được cha mẹ chờ mong đón nhận.
- Câu thơ mộc mạc cứ như một lời kể nhưng bên trong lại là những tình cảm thân thương, trìu mến của cha mẹ
dành cho đứa con bé bỏng. Nụ cười của con, tiếng nói của con làm sống lại những kỉ niệm tưởng chừng đã mất khi
cha mẹ còn là một đứa trẻ:
Bàn chân từng đạp bằng sắt đá
Trở về làng bập bẹ tiếng đầu tiên.
(Tên làng - Y Phương).
- Những bước đi của con là bước đi của thời gian, bước đi nối tiếp nhau của các thế hệ. Ngày xưa, ông bà đã từng
nắm lấy đôi bàn tay cha mẹ dìu đi thì bây giờ đôi tay cha mẹ đủ trưởng thành để dìu dắt con, làm chỗ dựa cho con
để con yên tâm khôn lớn. Điểm tựa vững chắc là gia đình đã nuôi dưỡng tâm hồn con lớn lên từng ngày.
LĐ 2: Nhắc nhở con về cội nguồn quê hương.
* Cội nguồn sinh dưỡng của mỗi con người được Y Phương nói đến không chỉ là gia đình mà còn là quê hương,
là thiên nhiên tươi đẹp và thấm đượm nghĩa tình. Như bầu sữa tinh thần thứ hai, quê hương với cuộc sống lao
động, với thiên nhiên tươi đẹp, tình nghĩa đã nuôi dưỡng, sẻ chia giúp cho contrưởng thành.
- Quê hương vốn là một khái niệm vô hình nhưng rất đỗi thân thương. Với mỗi người, quê hương hiện lên với
những nét khác nhau. Nếu như với Tế Hanh, quê hương là “Con sông xanh biếc, nước gương trong soi tóc những
hàng tre”, với Đỗ Trung Quân, “Quê hương là chum khế ngọt”, “ là con diều biếc” thì với Y Phương, quê hương
chính là người đồng mình, là rừng, là núi:
Người đồng mình yêu lắm con ơi
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng.
- Quê hương hiện ra qua hình ảnh của “người đồng mình”. Nói với con về những “người đồng mình”, nhà thơ
như đang giới thiệu ân cần đây là những người bản mình, người vùng mình, người dân quê mình gần gũi, thân
thương.
- “Người đồng mình yêu lắm con ơi”- câu cảm thán bộc lộ cảm xúc, niềm xúc động mãnh liệt của người cha khi
vỗ về đứa con của quê hương. Bảy chữ, hai nhịp, nhưng đằng sau câu thơ ngắn ngửi ấy, bao giờ ta cũng thấy được
biết bao nhiêu tình cảm chan chứa và chân thành. Đó cũng chính là cách nói của người đồng mình, người quê mình.
Tiếng nói của người dân đồng bào miền núi, đặc biệt là dân tộc Tày luôn luôn gợi đến cho đối phương một sự gần
gũi, trìu mến, thân thương. Người cha như đang ru vỗ tâm hồn con những tình cảm về quê hương, về con người, về
dân tộc, kể cho con nghe những công việc làm ăn, những phong tục tập quán của quê hương lam lũ, vất vả nhưng
rạng ngời niềm tin sống.
- Cha kể cho con nghe về người đồng mình trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày. Một cuộc sống bình dị nhưng
chứa đựng biết bao tình làng nghĩa xóm.
*Người đồng mình là những con người có đôi bàn tay tài hoa khéo léo:
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát.
- Câu thơ Đan lờ cài nan hoa” đã cho thấy rõ sự tài hoa trong cách dùng từ của nhà thơ Y Phương. Tác giả đang
hướng bạn đọc đến với sự kết nối giữa giá trị lao động và giá trị nghệ thuật. Từ một dụng cụ lao động bình thường,
thô sơ nhưng dưới bàn tay khéo léo, sáng tạo của người đồng mình đẫ biến những nan nứa, nan tre trở thành nan
hoa, thành những tác phẩm nghệ thuật. Điều này ta cũng từng bắt gặp trong câu thơ của Nguyễn Đình Thi:
Tay ngưởi như có phép tiên
Trên thân tre lá cũng dệt nghìn bài thơ
Có thể nói, bằng tình yêu với quê hương mình, Y Phương tái hiện lên được nét đặc trưng của người dân tộc Tày, đó
chính là sự tài hoa và tâm hồn đầy lãng mạn.
- Câu thơ “vách nhà ken câu hát” đã làm bừng dậy một không gian văn hóa của người dân tộc Tày ở tỉnh Cao
Bằng. Vách nhà được làm bằng nhiều tấm gỗ hoặc tre xếp xít nhau, ken chặt vào nhau tạo thành bức tường. Nhưng
nó được ken đầy bằng những câu hát Si, hát lượn. Qua câu thơ phần nào nói lên được cuộc sống lao động vất vả,
thiếu thốn của người dân nơi đây. Tuy vậy ta không thấy tiếng thở than cho sự vất vả ấy mà trái lại Y Phương đã nói
lên được tinh thần lạc quan, hăng say lao động của con người. Trong khó khăn, họ vẫn hát ca bên đống lửa, điệu
khèn, tiếng sáo, điệu múa uyển chuyển của cô thôn nữ làm cuộc sống của người dân giàu hơn mọi thứ, một đời sống
tinh thần phong phú.
- Các động từ “đan, cài, ken” đều có chung một nét nghĩa đó là gắn kết các vật lại với nhau một cách bền chặt
nhất. Phải chăng tác giả đã khéo léo dụng từ để nói được tinh thần đoàn kết, gắn bó,san sẻ của người đồng mình
trong mọi hoàn cảnh, đó cũng là đức tính là bản sắc văn hóa vùng miền.
* Bên cạnh đó, sự hùng vĩ của núi rừng và sự thơ mộng của thiên nhiên miền núi cũng góp phần bồi đắp cho
đời sống tình cảm của người con ngày một lớn hơn:
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng.
- Nếu như hình dung về một vùng núi cụ thể, chắc hẳn mỗi người có thể gắn nó với những hình ảnh khác cách nói
của Y Phương: là thác lũ, là bạt ngàn cây hay rộn rã tiếng chim thú hoặc cả những âm thanh “gió gào ngàn, giọng
nguồn thét núi”, những bí mật của rừng thiêng… Nhưng đối với người đồng bào mình, núi rừng là cội nguồn của sự
sống, là người mẹ chở che, núi rừng cho con người mọi thứ cần thiết cho đời sống hằng ngày. Để nói đến điều tuyệt
vời mà núi rừng mang lại cho con người, Y Phương chỉ dùng một từ “hoa”. Hoa ở đây không đơn thuần là đặc
trưng của đại ngàn hoa cỏ mà còn mang ý nghĩa chỉ vẻ đẹp, sự tinh túy, sự hòa quyện giữa nét đẹp hoang dã và tình
yêu của con người dành cho thiên nhiên. Hình ảnh hoa như một tín hiệu thẩm mĩ góp phần diễn đạt điều tác giả
đang muốn khái quát: chính những gì đẹp đẽ của quê hương đã hun đúc nên tâm hồn cao đẹp của con người ở đó.
- Cả “rừng” và “con đường” đều được nhân hóa để nơi ấy không chỉ là nơi đứa con khôn lớn mà còn là chỗ dựa
tinh thần cho những bước đi của con vào đời. Mỗi con đường con ra suối, lên núi, băng rừng hay trở về nhà đều
mang “những tấm lòng”.
- Điệp từ “cho” mang nặng nghĩa tình. Thiên nhiên đã che chở, nuôi dưỡng, bồi đắp tâm hồn cũng như lối sống của
con người. Đó là tấm lòng của quê hương dành cho mỗi con người cũng là tấm lòng của người đồng mình dành cho
nhau: thủy chung, hiền lành, rộng mở. Quê hương ấy chính là cái nôi để đưa con vào cuộc sống êm đềm. Như nhà
thơ Tố Hữu từng viết:
Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây
Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội rừng vây quân thù
(Việt Bắc)
LĐ 3: Từ tình cảm của quê hương, xứ sở, người cha đã không kìm được nỗi hạnh phúc, tự hào để nhắc cho
con mình ngày đầu tiên nhớ mãi:
Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời.
- “Ngày cưới” chính là minh chứng tuyệt vời nhất cho tình yêu của cha mẹ và con cũng chính là kết tinh của tình
yêu ngọt ngào ấy. “Ngày cưới” là ngày gặp gỡ của những tấm lòng, của những con người quê hương.
- “Ngày đầu tiên đẹp nhất” ấy có thể là ngày cưới của cha mẹ nhưng nó cũng có thể là ngày con chào đời, ngày
bố mẹ được hạnh phúc đón chờ con. Người cha nhắc đến những kỉ niệm ngày cưới của mình với con - điểm tựa
của hạnh phúc - chính là để mong con luôn nhớ, con lớn lên trong tình yêu trong sáng và hạnh phúc của cha mẹ.
Con là kết quả của tình yêu và hạnh phúc gia đình. Đó là điểm xuất phát mọi tình yêu thương trong con. Như vậy,
tình cảm riêng đã hoà vào tình cảm chung, tình cảm gia đình đã hòa vào tình cảm quê hương, đất nước.
Đoạn thơ mở ra bằng hình ảnh đứa con, kết thúc bằng hình ảnh cha mẹ, mở ra bằng cội nguồn gia đình, kết
thúc bằng cội nguồn quê hương, gia đình và quê hương đã cho con nghĩa tình, đã bao bọc, chở che con ngay từ khi
bắt đầu con cất tiếng khóc chào đời. Quê hương và gia đình sẽ mãi mãi luôn bên nhau, nâng đỡ con trong suốt
hành trình dài của cuộc đời.
-> Ba hình ảnh: con người - mảnh đất quê hương - ngày cưới của cha mẹ gợi thức dậy ở đứa trẻ tình yêu thương,
lòng gắn bó với cội nguồn sinh dưỡng. Rằng, con được sinh ra và được nâng niu trong một thế giới đầy sắc màu cổ
tích. Đó là thế giới của những con người tài hoa, những tâm hồn lãng mạn, là thế giới của những con đường xuyên
những cánh rừng đầy hoa và gần gũi hơn nữa, con được sinh ra từ tình yêu tha thiết giữa cha và mẹ (bằng chứng là
nỗi nhớ “ngày đầu tiên đẹp nhất trong đời”). Một thế giới như thế sẽ đủ sức bao bọc con trong những êm đềm,
những yêu thương; đủ sức nuôi lớn tâm hồn con và xứng đáng để con không phụ lòng.
* Liên hệ mở rộng: Tâm sự với con về tình cảm thiêng liêng đó chắc hẳn nhà thơ muốn nhắn nhủ với con rằng: Con
hãy yêu gia đình, yêu quê hương mình đừng bao giờ quên cội nguồn sinh dưỡng đó bởi đúng như nhà thơ Đỗ Trung
Quân từng viết:
“ Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một mẹ thôi
Quê hương nếu ai không nhớ
Sẽ không lớn nổi thành người”
* Đánh giá:
Đẹp làm sao các hình ảnh thơ vừa cụ thể, mộc mạc, cô đọng mà vừa phong phú, sinh động, giàu chất thơ. Với thể
thơ tự do với nhịp điệu, giọng thơ tha thiết, nhiều hình ảnh mộc mạc nhưng giàu sức gợi cảm kết hợp một số biện
pháp nghệ thuật như nhân hóa, ẩn dụ, đoạn thơ đã làm nổi bật sự gắn bó sâu nặng của con người đối với gia đình,
quê hương, đồng bào mình. Đó là tình cảm đáng trân trọng, đáng giữ gìn và nó trở thành nét đẹp văn hóa của con
người Việt Nam. Những đặc sắc về nghệ thuật cộng hưởng hài hoà với những cung bậc tình cảm khác nhau của cha
đã tạo nên dư âm sâu lắng cho bài thơ.
c.Kết bài:
Có thể nói, tác phẩm đã đem đến một định nghĩa mới lạ cho tình phụ tử của dân tộc Tày. Với thể thơ tự do, câu
dài câu ngắn rất phù hợp với cuộc sống gập ghềnh của người dân vùng núi. Hình ảnh thơ mang đậm chất của núi
rừng, sông suối. Kết hợp với mạch cảm xúc tự nhiên, nhẹ nhàng, không chỉ đơn thuần là những lời khuyên chân tình
với con mình, đó còn là lời nhắn nhủ với tất cả chúng ta về truyền thống đạo lý “uống nước nhớ nguồn”. Bài thơ nói
chung và đoạn thơ nói riêng chính là một đóa hoa thơm góp vào mảng đề tài quê hương, đất nước. Cho ta thêm yêu
thêm nhớ quê nhà thân thuộc của mình:
“Quê hương ơi! Xa rồi nhớ thành thơ
Tiếng mẹ đẻ, gặp nhau mừng khôn xiết
Ai cũng vậy xa lâu rồi mới biết
Những ngôn từ không đủ viết…quê hương!”
ĐỀ 2: PHÂN TÍCH ĐOẠN 2
1. Khái quát
 Mở bài
Quê hương là gì hở mẹ?
Mà cô giáo dạy phải yêu
Quê hương là gì hở mẹ?
Mà ai đi xa cũng nhớ nhiều.
Nhà thơ Đỗ Trung Quân đã diễn tả tình yêu quê hương của mình bằng những vần thơ thật giản dị. Quả thật ai
cũng có một quê hương nơi đón nhận tiếng khóc chào đời. Viết về quê hương, mỗi nhà thơ có một cách thể hiện
khác nhau. Nếu như với Đỗ Trung Quân là “chiếc cầu tre nhỏ”, với Tế Hanh là “chiếc buồm vôi”, là “mùi nồng
mặn quá” thì nhà thơ Y Phương lại biểu lộ tình yêu và niềm tự hào về quê hương qua lời tâm sự với con. Bài thơ
“ Nói với con” được in trong “Thơ Việt Nam 1945 – 1985” là tiếng lòng của một tấm hồn chân thật, mạnh mẽ,
trong sáng của người cha dành cho con. Qua đó, thể hiện tình yêu quê hương thắm thiết và diễn tả niềm tự hào về
cội nguồn dân tộc. Khổ thơ thứ hai của bài thơ đã ca ngợi sức sống mạnh mẽ, bền bỉ của quê hương mình, mong
con tiếp nối và phát huy truyền thống tốt đẹp đó.
 Khái quát:
-Y Phương – tên thật là Hứa Vĩnh Sước – là nhà thơ dân tộc Tày, quê ở huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng. Là một
nhà thơ của núi rừng Tây Bắc, nhà thơ của hoa ban, hoa gạo và những dòng suối rì rào. “Thơ ông một bức tranh thổ
cẩm đan dệt nhiều màu sắc khác nhau, phong phú và đa dạng, nhưng trong đó có một màu sắc chủ đạo, âm điệu
chính là bản sắc dân tộc rất đậm nét và độc đáo. Nét độc đáo đó nằm ở cả nội dung và hình thức. Với Y Phương,
thơ của dân tộc Tày nói riêng và thơ Việt Nam nói chung có thêm một “giọng điệu mới, một phong cách mới”. Có
thể nói Y Phương chính là đại diện cho cái hồn, cái cốt cách dân tộc.
- Mang đậm phong cách tác giả, “Nói với con” có thể coi là một trong những thi phẩm xuất sắc nhất nói về tình
quê. Bài thơ được sáng tác năm 1980 – 5 năm sau ngày đất nước giải phóng, ở đó không chỉ có tình quê mà còn
nồng nàn tình cha, tình phụ tử, là tình cảm người cha vĩ đại dành tặng cho đứa con bé bỏng của mình. Đó cũng được
coi như là niềm hi vọng, mong mỏi lớn lao nhất trong cuộc đời người cha: Mong con khôn lớn nên người, luôn yêu
quê hương, tự hào về dân tộc mình. Bài thơ bởi lẽ đó cũng mang đến một niềm xúc động vô bờ trong lòng độc giả.
- Khổ thơ thứ hai là lời của người cha nói với con về những phẩm chất tốt đẹp, những truyền thống đáng tự hào của
người đồng mình và niềm kì vọng con sẽ kế tục xứng đáng truyền thống ẩy
Luận điểm 1: Trong cái ngọt ngào của kỉ niệm về gia đình và quê hương, người cha đã tha thiết nói với con
về những phẩm chất tốt đẹp của người đồng mình với bao niềm tự hào, yêu thương:
Người đồng mình thương lắm con ơi!
- Tác giả vẫn sử dụng lối nói giàu hình ảnh "người đồng mình" - cách xưng hô quen thuộc, trìu mến của người vùng
cao để gợi lên sự thân thương, gần gũi như cùng chung một gia đình
- Nếu trong khổ thơ trên người đồng mình “yêu lắm con ơi” là yêu cuộc sống vui tươi bình dị, yêu bản làng thơ
mộng, yêu những tấm lòng chân thật nghĩa tình thì đến đây người cha nói với con “thương lắm con ơi”. Động từ
"thương" kết hợp với từ chỉ mức độ "lắm" đã thể hiện sự đồng cảm, sẻ chia về tinh thần đối với những những khó
khăn, vất vả, sóng gió mà người đồng mình đã phải trải qua.
* Nhưng dù cuộc sống có bao vất vả, cực nhọc, người đồng mình vẫn hiện lên thật đẹp. Đó là những con
người biết lo toan và giàu mơ ước, giàu ý chí, nghị lực:
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn”
- Nhà thơ gợi ra hoàn cảnh sống khó khăn vất vả của “người đồng mình” thông qua các từ “cao”, “xa”. Đó là vùng
miền núi địa hình hiểm trở, xa tận vùng phía Bắc địa đầu Tổ quốc, điều kiện sống sinh hoạt còn nhiều khó khăn.
Thế nhưng ở vùng cao dẫu có “buồn”, có vất vả thật đấy, nhưng chính cái “cao”, cái “xa” lại là tiền đề “nuôi chí
lớn”, dưỡng nên lòng kiên trì, sức mạnh, ý chí phấn đấu khắc phục mọi điều kiện khắc nghiệt, để tạo nên một cộng
đồng dân tộc giàu bản sắc.
- Tư duy của người miền núi mộc mạc chân tình hiện lên trong cách so sánh độc đáo. Y Phương đã lấy cái cao vời
vợi của trời để đo nỗi buồn, lấy cái xa của đất để đo ý chí con người.Cách sắp xếp tính từ “cao”, “xa” trong sự tăng
tiến, nâng cao mức độ cho thấy khó khăn, thử thách càng lớn thì ý chí con người càng mạnh mẽ, càng quyết tâm
chinh phục, vượt qua.
- Có thể nói, cuộc sống của người đồng mình còn nhiều nỗi buồn, còn nhiều bộn bề thiếu thốn song họ sẽ vượt qua
tất cả, bởi họ có ý chí và nghị lực, họ luôn tin tưởng vào tương lai tốt đẹp của dân tộc và không ngừng mơ ước đến
tương lai nơi mà chí lớn sẽ vươn tới.
* Người đồng mình dù sống trong nghèo khổ, gian nan vẫn thủy chung gắn bó với quê hương, cội nguồn. Và
đó cũng là điều cha mong muốn ở con:
“Sống trên đá không chê đá gập gềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc
- Phép liệt kê với những hình ảnh ẩn dụ “đá gập gềnh”, “thung nghèo đói” kết hợp với thành ngữ dân gian “Lên
thác xuống ghềnh”, gợi bao nỗi vất vả, lam lũ gợi cuộc sống đói nghèo, khó khăn, cực nhọc.
- Không những vậy, những câu thơ dài ngắn, cùng những thanh trắc tạo ấn tượng về cuộc sống trắc trở, gian nan,
đói nghèo của quê hương.
- Tác giả cũng thật khéo léo khi sử dụng điệp ngữ “sống”, “không chê” và điệp cấu trúc câu cùng hình ảnh đối xứng
để nhấn mạnh: người đồng mình có thể nghèo nàn, thiếu thốn về vật chất nhưng họ không thiếu ý chí và quyết tâm.
Người đồng mình chấp nhận và thủy chung gắn bó cùng quê hương, dẫu quê hương có đói nghèo, vất vả. Phải
chăng, chính cuộc sống nhọc nhằn, đầy vất vả khổ đau ấy đã tôi luyện cho chí lớn để rồi tình yêu quê hương sẽ tạo
nên sức mạnh giúp họ vượt qua tất cả.
- Không chỉ vậy cha còn mong con sống cuộc đời tự do, khoáng đạt như “người đồng mình”: “Sống như sông như
suối”
+ Phép so sánh gợi vẻ đẹp tâm hồn và ý chí của người đồng mình. Gian khó là thế, họ vẫn tràn đầy sinh lực, tâm
hồn lãng mạn, khoáng đạt như hình ảnh đại ngàn của sông núi. Tình cảm của họ trong trẻo, dạt dào như dòng suối,
con sông trước niềm tin yêu cuộc sống, tin yêu con người, sẵn sàng đương đầu với khó khăn, thử thách của cuộc đời
“không lo cực nhọc”, không bao giờ cam chịu cuộc sống nhỏ bé tầm thường.
- Người cha khuyên con hãy sống cuộc đời rộng lớn, tự do, khoáng đạt, không thụ động chấp nhận thực tại mà
luôn hướng tới tương lai không bao giờ cam chịu cuộc sống nhỏ bé tầm thường. Đã có biết bao nhà thơ, nghệ sĩ
viết về vấn đề này. Nhà thơ Tố Hữu đã viết về lẽ sống “cho - nhận” ở đời (“Sông là cho đâu chi nhận riêng
mình”); nhạc sĩ Trịnh Công Sơn qua ca từ đã đề cập đến lẽ sống yêu thương (“Sống trong đời sống cần có một
tấm lòng”). Đó đều là những lẽ sống cao thượng, đẹp đẽ. Và Y Phương cũng mong con mình sống như thế.

* Trong niềm tự hào của người cha, người đồng mình còn là những con người có tự trọng, có ý thức tự lập, tự
cường và tự tôn dân tộc
- Phẩm chất đó được người cha ca ngợi qua cách nói đổi lập tương phản giữa hình thức bên ngoài và giá trị tinh thần
bên trong, nhưng rất đúng với người miền núi:
“Người đồng minh thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con”
+ Lời thợ mộc mạc, giản dị nhưng chứa bao tâm tình.
+ Cụm từ “thô sơ da thịt" là cách nói bằng hình ảnh cụ thể của bà con dân tộc Tày, ngợi ca những con người
mộc mạc, giản dị, chất phác, thật thà, chịu thương, chịu khó.
+ Nhưng dù vậy họ “chẳng nhỏ bé” mà lại là những con người lớn lao về ý chí, về nghị lực, cốt cách và niềm tin.
+ Sự tương phản này đã tôn lên tầm vóc của người đồng mình. Họ mộc mạc nhưng giàu chí khí, niềm tin. Họ có thể
“thô sơ da thịt” nhưng không hề nhỏ bé về tâm hồn, về ý chí
- Đặc biệt, người đồng mình luôn có ước mơ xây dựng quê hương với những truyền thống, phong tục tốt đẹp:
“Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục”
Lối nói của Y Phương đậm ngôn ngữ dân tộc – độc đáo mà vẫn chứa đựng ý vị sâu xa:
+ Hình ảnh “Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương” vừa mang tính tả thực chỉ truyền thống làm nhà kê đá
cho cao của người miền núi, vừa mang ý nghĩa ẩn dụ sâu sắc. Người đồng mình bằng chính bàn tay và khối óc, bằng
sức lao động đã xây dựng và làm đẹp giàu cho quê hương, xây dựng để nâng tầm quê hương.
+ Còn quê hương là điểm tựa tinh thần với phong tục tập quán nâng đỡ những con người có chí khí và niềm tin.
=> Câu thơ đã khái quát về tinh thần tự tôn dân tộc, về ý thức bảo vệ nguồn cội, bảo tồn những truyền thống tốt đẹp
của người đồng mình.
Tinh thần ấy ta đa thấy ở hình ảnh Sơn Tinh (thời Hùng Vương thứ 18) bốc từng quả đồi…, là hình ảnh anh hùng
Núp và dân tộc Ba Na anh em đã quyết tâm không khuất phục giặc Pháp bảo vệ cho vùng đất Chư-Lây thân yêu,
làm nên chiến tích lịch sử, cách mạng hào hùng cho quê hương, đất nước….
Trong mạch cảm hứng ca ngợi về vẻ đẹp của người miền núi trong bài thơ “Tiếng hát con tàu” của Chế Lan Viên
cũng có những vần thơ như thế:
Con nhớ anh con, người anh du kích
Chiếc áo nâu anh mặc đêm công đồn
Chiếc áo nâu suốt một đời vá rách
Đêm cuối cùng anh cởi lại cho con
Dù trong chiến tranh hay hòa bình họ vẫn thật đẹp. Đó là vẻ đẹp của chân chất, hồn hậu. Đó là vẻ đẹp của sự rắn rỏi,
khỏe mạnh để đương đầu với sóng gió nơi núi rừng. Đó là vẻ đẹp của con người miền núi tự làm nên phong tục,
truyền thống của quê hương và gìn giữ qua bao thế hệ.
Luận điểm 2. Đoạn thơ khép lại bằng âm hưởng của một lời nhắn nhủ trìu mến với biết bao niềm tin hi vọng
của người cha đặt vào đứa con yêu:
“ Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con!”
- Ý thơ “Tuy thô sơ da thịt” và “Không bao giờ nhỏ bé” được lặp lại với bốn câu thơ trước đó càng trở nên da diết,
khắc sâu trong lòng con về những phẩm chất cao đẹp của “người đồng mình”. Nhưng hai tiếng “Lên đường” cho
thấy người con đã lớn khôn và tạm biệt gia đình - quê hương để bước vào một trang đời mới.
- Trong hành trang của người con mang theo khi “lên đường”có một thứ quí giá hơn mọi thứ trên đời, đó là ý chí,
nghị lực, truyền thống quê hương. Lời dặn của cha thật mộc mạc, dễ hiểu, thấm thía, ẩn chứa niềm hi vọng lớn lao
của cha, hi vọng đứa con sẽ tiếp tục vững bước trên đường đời, tiếp nối truyền thống và làm vẻ vang quê hương.
- Tiếng gọi “con ơi” và lời dặn dò “nghe con” thật thân thương, trìu mến nhưng chất chứa bao nhiêu kì vọng của cha
dành cho con.
=> Người cha muốn con hiểu và cảm thông với cuộc sống khó khăn của quê hương, tự hào về truyền thống quê
hương, tự hào về dân tộc để vững bước trên con đường đời, để tự tin trong cuộc sống.
Tình cảm tha thiết, chân thành, niềm mong muốn con mạnh mẽ, trưởng thành trên con đường chinh phục ước mơ
cũng được Nguyễn Đăng Tấn gửi gắm trong bài “Không có gì tự đến đâu con”:
Đường Con đi dài rộng biết bao nhiêu..
Năm tháng nụ xanh giữ cây vươn thẳng,
Trời cao đó nhưng chẳng bao giờ lặng,
Chỉ có Con mới nâng nổi chính mình..
3. Đánh giá
Bằng giọng thơ vừa thiết tha, trìu mến vừa trang nghiêm và các hình ảnh thơ cụ thể, chọn lọc, đoạn thơ đã giúp
người đọc cảm nhận được trọn vẹn những phẩm chất đẹp đẽ của người đồng mình. Đó là những con người giàu ý
chí nghị lực và niềm tin, luôn thủy chung tình nghĩa, phóng khoáng lãng mạn … Và đằng sau những vần thơ ấy, ta
nhận ra tình yêu, niềm tự hào và sự gắn bó sâu nặng của nhà thơ với quê hương mình. Đồng thời cũng dặn con
không được quên que hương, phải sống xứng đáng với truyền thống quê hương, dân tộc.
* Liên hệ Mở rộng: Cùng là dặn con không được quên quê hương dù có khôn lớn tới đâu đi chăng nữa, bởi quê
hương chỉ có một, nếu quên quê hương, quên nguồn cội thì sẽ không nên người, Xuân Quỳnh viết:
"Mỗi người có một quê
Ngày dại thơ để ở
Tuổi thiếu niên để yêu
Và lớn lên để nhớ…"
* Liên hệ Mở rộng: Cùng là dặn con không được quên quê hương dù có khôn lớn tới đâu đi chăng nữa, Vũ Thu
Giang trong bài “Lời cha dặn dò” cũng từng viết:
“Rời tổ ấm chim tung bay xứ lạ
Gói hành trang chỉ vỏn vẹn “nhớ nguồn”.
- Cùng là dặn con không được quên quê hương dù có khôn lớn tới đâu đi chăng nữa, bởi nếu quên quê hương,
quên nguồn cội thì sẽ không nên người, Đỗ Trung Quân viết:
“Quê hương nếu ai không nhớ
Sẽ không lớn nổi thành người”.

You might also like