phuong phap nckh o truong dh

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 9

Câu 1. Nghiên cứu khoa học có những đặc trưng cơ bản nào?

Lấy ví dụ cụ thể để làm


sáng tỏ các đặc trưng cơ bản của nghiên cứu khoa học.
Nghiên cứu khoa học có những đặc trưng cơ bản:
a) Phương pháp NCKH có mặt chủ quan và khách quan thể hiện sự tương tác
biện chứng giữa chủ thể và khách thể trong hoạt động NCKH
Mặt chủ quan gắn liền với chủ thể nghiên cứu. Đó chính là đặc điểm, trình độ,
năng lực nhận thức, kinh nghiệm hoạt động sáng tạo, khả năng thực hành… của chủ
thể, thể hiện trong việc ý thức được các quy luật vận động của đối tượng và sử dụng
chúng để khám phá chính đối tượng và kết quả đạt được sẽ phù hợp với khả năng chủ
quan ấy. Mặt chủ quan này bao gồm sự hiểu biết cá nhân, sự sáng tạo và cách tiếp cận
độc đáo của mỗi người nghiên cứu. Chính những yếu tố này tạo nên sự đa dạng trong
các phương pháp nghiên cứu và kết quả đạt được, đồng thời cũng phản ánh sự phát
triển cá nhân của người nghiên cứu qua từng giai đoạn.
Mặt khách quan gắn liền với đối tượng nghiên cứu, phản ánh đặc điểm của đối
tượng và quy luật khách quan chi phối đối tượng mà chủ thể nghiên cứu phải ý thức
được. Trong nghiên cứu khoa học, đối tượng nghiên cứu luôn tồn tại theo những quy
luật nhất định, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của người nghiên cứu. Các quy
luật này bao gồm các hiện tượng tự nhiên, xã hội hoặc bất kỳ yếu tố nào thuộc về bản
chất của đối tượng mà người nghiên cứu cần nhận thức và tuân thủ. Hiểu rõ và tuân
theo những quy luật này là yêu cầu bắt buộc để đạt được những kết quả chính xác và
có giá trị khoa học.
Trong nghiên cứu khoa học (NCKH), cái chủ quan phải tuân thủ cái khách
quan. Điều này có nghĩa là dù phương pháp nghiên cứu có sáng tạo, độc đáo đến đâu
thì vẫn phải dựa trên những quy luật khách quan của đối tượng nghiên cứu. Vì vậy,
chủ thể phải hiểu biết chân thực về đối tượng để trên cơ sở đó tìm ra được những thao
tác đúng đắn với đối tượng và hành động chủ quan theo đúng quy luật đó. Việc hiểu
biết chân thực này không chỉ đòi hỏi người nghiên cứu phải có kiến thức sâu rộng về
lĩnh vực mình nghiên cứu mà còn phải có khả năng phân tích, tổng hợp thông tin một
cách chính xác và khoa học. Ngoài ra, việc kết hợp giữa mặt chủ quan và mặt khách
quan trong nghiên cứu khoa học cũng đòi hỏi người nghiên cứu phải có tinh thần cầu
tiến, không ngừng học hỏi và hoàn thiện bản thân. Họ cần phải luôn mở rộng tầm nhìn,
tiếp thu những kiến thức mới và áp dụng chúng một cách sáng tạo vào nghiên cứu của
mình. Chỉ khi đó, kết quả nghiên cứu mới thực sự có giá trị, đóng góp vào kho tàng tri
thức của nhân loại và phục vụ tốt hơn cho sự phát triển của xã hội.
Ví dụ: Nghiên cứu về thói quen ăn sáng của học sinh trong lớp:
Mặt khách quan: Là các số liệu về việc các học sinh ăn sáng như thế nào, ăn
những gì, tần suất ăn sáng ra sao.
Mặt chủ quan: Là cách mà người thực hiện nghiên cứu (các em học sinh) suy
nghĩ, cảm nhận và phân tích dữ liệu này. Chẳng hạn, nếu các em quan sát thấy nhiều
bạn không ăn sáng, các em có thể suy luận rằng không ăn sáng có thể ảnh hưởng đến
sức khỏe và học tập.
b) Phương pháp NCKH có tính mục đích, gắn liền với nội dung; chịu sự chi
phối của mục đích và nội dung; bản thân phương pháp có chức năng phương tiện để
thực hiện mục đích và nội dung
Mục đích nào, phương pháp ấy; mục đích chỉ đạo việc tìm tòi và lựa chọn
phương pháp nghiên cứu. Trong nghiên cứu khoa học, mục đích là yếu tố quyết định
hướng đi và cách tiếp cận của toàn bộ quá trình nghiên cứu. Khi mục đích nghiên cứu
được xác định rõ ràng, nó sẽ dẫn dắt người nghiên cứu trong việc tìm ra những phương
pháp phù hợp nhất để đạt được mục tiêu đó. Điều này có nghĩa là mỗi loại mục đích sẽ
yêu cầu một phương pháp tiếp cận riêng, không thể áp dụng một cách chung chung
hoặc thiếu sự linh hoạt. Muốn cho phương pháp nghiên cứu được áp dụng hiệu quả, áp
dụng thành công cần đảm bảo được hai điều: xác định mục đích và tìm được phương
pháp thích hợp với mục đích nghiên cứu. Đầu tiên, xác định mục đích nghiên cứu là
bước khởi đầu quan trọng, định hình toàn bộ hướng đi của quá trình nghiên cứu. Khi
đã có mục đích rõ ràng, người nghiên cứu cần tìm kiếm và lựa chọn phương pháp sao
cho phù hợp nhất với mục đích đó. Phương pháp được chọn phải có khả năng giải
quyết các vấn đề đặt ra bởi mục đích nghiên cứu, đảm bảo rằng các kết quả thu được
sẽ có giá trị và đáp ứng được các yêu cầu đề ra.
Nội dung nào, phương pháp ấy; sự thống nhất của nội dung và phương pháp thể
hiện ở logic phát triển của bản thân đối tượng nghiên cứu. Nội dung nghiên cứu đóng
vai trò quyết định trong việc lựa chọn phương pháp phù hợp. Khi nội dung nghiên cứu
đã được xác định, phương pháp phải được điều chỉnh để phù hợp với nội dung đó, đảm
bảo rằng quá trình nghiên cứu diễn ra một cách logic và khoa học. Sự thống nhất này
cho thấy rằng nội dung và phương pháp không thể tách rời mà phải phát triển cùng
nhau trong một logic nhất quán, phản ánh đúng bản chất của đối tượng nghiên cứu.
Mối quan hệ của mục đích, nội dung và phương pháp nghiên cứu là mối quan hệ biện
chứng, được diễn ra theo quy luật: mục đích và nội dung quy định phương pháp. Sự
biện chứng trong mối quan hệ này thể hiện rõ qua việc mục đích nghiên cứu xác định
hướng đi, nội dung nghiên cứu cung cấp chất liệu và phương pháp là công cụ để tiến
hành nghiên cứu. Khi mục đích và nội dung thay đổi, phương pháp cũng phải được
điều chỉnh tương ứng để đảm bảo rằng các kết quả nghiên cứu luôn phù hợp và có giá
trị. Điều này đòi hỏi người nghiên cứu phải có khả năng linh hoạt, điều chỉnh phương
pháp một cách kịp thời và chính xác để đáp ứng yêu cầu của mục đích và nội dung
nghiên cứu.
Còn phương pháp là phương tiện thực hiện nội dung để đạt mục đích. Phương
pháp nghiên cứu chính là các công cụ, kỹ thuật mà người nghiên cứu sử dụng để khám
phá, phân tích và tổng hợp các thông tin liên quan đến nội dung nghiên cứu. Nhờ có
phương pháp, những ý tưởng và mục tiêu nghiên cứu mới có thể được hiện thực hóa
một cách cụ thể và khoa học. Phương pháp giúp chuyển hóa các ý tưởng trừu tượng
thành những kết quả cụ thể, có thể đo lường và đánh giá được. Do đó, việc lựa chọn và
áp dụng phương pháp phù hợp không chỉ là bước quan trọng mà còn là yếu tố quyết
định sự thành công của toàn bộ quá trình nghiên cứu
Ví dụ: Trong nghiên cứu về giảm thiểu ô nhiễm môi trường, mục đích là tìm ra
giải pháp hiệu quả để giảm thiểu ô nhiễm. Nội dung của nghiên cứu bao gồm phân tích
nguyên nhân gây ô nhiễm, đánh giá các biện pháp hiện tại và đề xuất giải pháp mới.
Phương pháp nghiên cứu có thể bao gồm thu thập dữ liệu từ các nhà máy, phân tích
mức độ ô nhiễm trong không khí và nước, và thực hiện mô phỏng để dự đoán hiệu quả
của các giải pháp mới. Mục đích và nội dung của nghiên cứu sẽ chi phối việc lựa chọn
phương pháp thu thập và phân tích dữ liệu.
c) Phương pháp NCKH có một cấu trúc đặc biệt (cấu trúc đa cấp) đó là hệ
thống các thao tác được sắp xếp theo một chương trình tối ưu.
Hoạt động (có mục đích chung là M) bao gồm nhiều hành động A1…. An (có
mục đích riêng – chính là các mục tiêu: MA1… MAn) mà mỗi hành động lại bao gồm
nhiều thao tác: t1…. tn ( thao tác không có mục đích). Để đạt được mục đích chung,
người nghiên cứu cần phải thực hiện một loạt các hành động với những hệ thống logic
chặt chẽ được sắp xếp theo một trình tự xác định và có kế hoạch rõ ràng. Người nghiên
cứu phải biết tổ chức hợp lý cấu trúc bên trong của phương pháp và triển khai quy
trình đó một cách tinh thông - đây là mặt kỹ thuật của phương pháp nghiên cứu.
Ví dụ, nếu mục đích của nghiên cứu là tìm hiểu về tác động của biến đổi khí hậu
lên hệ sinh thái của một khu vực nhất định, quy trình nghiên cứu có thể bao gồm các
bước như thu thập dữ liệu về khí hậu và môi trường tự nhiên, phân tích dữ liệu thu
thập được, xây dựng mô hình mô phỏng tác động của biến đổi khí hậu, và đánh giá các
kịch bản khả thi để ứng phó với biến đổi khí hậu. Các bước này được lên kế hoạch cẩn
thận và sắp xếp theo thứ tự để tối ưu hóa kết quả nghiên cứu.
Trong quá trình thực hiện, người nghiên cứu cần phải biết tổ chức và điều chỉnh
các hành động và thao tác sao cho phù hợp với mục tiêu nghiên cứu cụ thể. Công việc
này đòi hỏi sự tinh thông về phương pháp nghiên cứu và khả năng áp dụng các công
cụ và kỹ thuật hỗ trợ phù hợp.
d) Phương pháp nghiên cứu cần có công cụ, các phương tiện hỗ trợ
Phương pháp nghiên cứu không chỉ đơn thuần là một bộ khung hoặc quy trình,
mà còn phải đi kèm với các công cụ và phương tiện hỗ trợ phù hợp để thực hiện một
cách hiệu quả. Các công cụ và phương tiện này có vai trò quan trọng trong việc thu
thập dữ liệu, xử lý thông tin, và phân tích kết quả, giúp nghiên cứu đạt được độ chính
xác và tin cậy cao.
Ví dụ, trong một nghiên cứu về tác động của ô nhiễm không khí đến sức khỏe
con người, các công cụ và phương tiện hỗ trợ có thể bao gồm các thiết bị đo lường
chất lượng không khí như cảm biến khí CO, NO2, SO2, và các dụng cụ thu thập mẫu
không khí. Những công cụ này giúp thu thập dữ liệu về mức độ ô nhiễm không khí tại
các địa điểm khác nhau và trong các khoảng thời gian khác nhau.
Ngoài ra, các phần mềm và công nghệ mới cũng đóng vai trò quan trọng trong
việc hỗ trợ phương pháp nghiên cứu. Ví dụ, việc sử dụng phần mềm phân tích dữ liệu
như R, Python, hoặc SPSS có thể giúp nghiên cứu viên phân tích dữ liệu một cách
nhanh chóng và hiệu quả. Các công nghệ mới như học máy và trí tuệ nhân tạo cũng có
thể được áp dụng để phân tích dữ liệu phức tạp và dự đoán xu hướng trong nghiên cứu.
Tuy nhiên, việc lựa chọn và sử dụng các công cụ và phương tiện hỗ trợ cần
được thực hiện một cách cẩn thận và có kế hoạch. Đôi khi, việc tạo ra các công cụ đặc
biệt để nghiên cứu đối tượng là cần thiết để đảm bảo tính chính xác và tin cậy của kết
quả nghiên cứu. Sự kết hợp hợp lý giữa phương pháp và các công cụ/phương tiện hỗ
trợ sẽ tạo ra một nền tảng vững chắc cho quá trình nghiên cứu và giúp nghiên cứu đạt
được những kết quả mong muốn.
Câu 2. Nghiên cứu thực nghiệm là một trong những loại hình nghiên cứu có sức
thuyết phục nhất mà nhà nghiên cứu có thể sử dụng. Đây là cách tốt nhất để thiết lập
mối quan hệ nguyên nhân – kết quả giữa các biến số. Anh/Chị hãy trình bày tổng quan
về các loại hình nghiên cứu thực nghiệm.
1. Đặc trưng của phương pháp thực nghiệm
Đặc trưng chính của nghiên cứu thực nghiệm là người nghiên cứu điều khiển
biến số độc lập hay còn gọi là biến số thực nghiệm. Họ quyết định sẽ tác động đến
khía cạnh nào, đối tượng nào và ở chừng mực nào. Trong nghiên cứu về khoa học giáo
dục, các biến số độc lập có thể là các phương pháp giảng dạy; các loại hình kiểm tra,
đánh gía; tài liệu học tập; các hình thức tổ chức họat động giáo dục; các loại hình câu
hỏi giáo viên đặt ra trong giờ học; các hình thức tổ chức lớp học, các hình thức khen
thưởng... Biến số phụ thuộc là kết quả của nghiên cứu. Đó thường là kết quả học tập,
hứng thú đối với môn học, với hoạt động, động cơ, thái độ đối với nhà trường...
Những đặc trưng cơ bản của nghiên cứu thực nghiệm: Ý tưởng cơ bản của tất cả
các nghiên cứu thực nghiệm rất đơn giản: thử nghiệm một cái gì đó và quan sát một
cách có hệ thống xem cái gì xảy ra. Các thực nghiệm chính thức thường bao gồm hai
điều kiện chính: (1) Thứ nhất, ít nhất phải có hai điều kiện hay phương pháp đem so
sánh để đánh giá hiệu quả của một điều kiện đặc biệt hay còn gọi là biến số độc lập;
(2) Thứ hai, biến số độc lập thường được vận hành trực tiếp bởi nhà nghiên cứu ngay
từ đầu. Ngoài ra sắp xếp các đối tượng vào các nhóm một cách ngẫu nhiên cũng là
khía cạnh quan trọng của nghiên cứu thực nghiệm.
- So sánh nhóm. Một thực nghiệm thường có 2 nhóm đối tượng - một nhóm
thực nghiệm và một nhóm so sánh hay còn gọi là nhóm đối chứng (đôi khi có thể chỉ
có một nhóm, hoặc nhiều hơn 2 nhóm). Nhóm thực nghiệm được nhận sự tác động của
nhà nghiên cứu hay được nhận cách thức tiến hành mới, trong khi nhóm đối chứng vẫn
tiến hành theo cách thức bình thường, hoặc có thể một cách thức khác. Nhóm đối
chứng rất quan trọng trong tất cả các thực nghiệm vì được sử dụng nhằm mục đích so
sánh để tìm xem cách thức tiến hành mới có hiệu quả hơn trong nhiều cách đưa ra. Đôi
khi trong thực tế chúng ta bắt gặp nhiều thực nghiệm, mà ở đó, nhóm đối chứng không
nhận được bất kì một cách thức mới nào cả.
- Điều khiển biến số độc lập. Đặc trưng cơ bản thứ hai của tất cả các thực
nghiệm là người nghiên cứu điều khiển biến số độc lập một cách tích cực. Điều đó có
nghĩa là người nghiên cứu xác định trực tiếp và có mục đích các hình thức của biến số
độc lập, nhóm đối tượng nào sẽ nhận hình thức nào. Để điều khiển biến số độc lập,
người nghiên cứu cần phải qui định ai sẽ nhận được cái gì; khi nào, ở đâu và bằng cách
nào họ nhận được nó.
Biến số độc lập trong thực nghiệm có thể được thiết lập dưới nhiều cách khác
nhau. Cụ thể là:
+ Hai cách thức tiến hành đối ngược nhau.
+ Sự hiện diện và sự vắng mặt của một cách thức tiến hành nào đó.
+ Các mức độ khác nhau của cùng một cách thức.
- Tính ngẫu nhiên: Khía cạnh quan trọng của bất cứ một thực nghiệm nào là sự
sắp xếp ngẫu nhiên các đối tượng vào các nhóm nghiên cứu. Trên thực tế, có nhiều
thực nghiệm không thể sử dụng sự sắp xếp ngẫu nhiên được, nhưng người nghiên cứu
cần cố gắng sử dụng nó bất cứ khi nào có thể. Sự sắp xếp ngẫu nhiên này tương tự như
sự chọn mẫu ngẫu nhiên mà chúng ta sẽ thảo luận chi tiết ở phần sau. Tuy nhiên,
chúng không phải giống nhau hoàn toàn. Sự sắp xếp ngẫu nhiên có nghĩa là từng cá
nhân - đối tượng nghiên cứu đều có cơ hội như nhau để được xếp đặt vào nhóm thực
nghiệm hay nhóm đối chứng. Để có được sự sắp xếp ngẫu nhiên, từng đối tượng trong
mẫu nghiên cứu được đánh số và sau đó dùng “Bảng số ngẫu nhiên” để lựa chọn đối
tượng vào nhóm thực nghiệm và nhóm đối chứng.
Việc xếp đặt một cách ngẫu nhiên vào nhóm thực nghiệm và nhóm đối chứng là
nhằm hạn chế đến mức tối đa những ảnh hưởng của các biến số không liên quan đến
thực nghiệm nhưng có tác động đến kết quả nghiên cứu. Đây chính là một trong những
lí do vì sao thực nghiệm thường được xem xét có hiệu quả hơn các loaị hình nghiên
cứu khác trong việc đánh giá mối quan hệ nguyên nhân và hệ quả.
Tuy nhiên, chúng ta cần phải hiểu một thực tế là việc xếp đặt ngẫu nhiên chỉ
đảm bảo các nhóm tương đương nhau ở một vài khía cạnh. Hơn nữa, việc xếp đặt ngẫu
nhiên sẽ không bảo đảm các nhóm tương đương nếu cả hai nhóm không đủ về số
lượng. Trong nghiên cứu thực nghiệm ít nhất mỗi nhóm phải có 30 đối tượng.
2. Các loại hình thực nghiệm
2.1 Loại hình tiền thực nghiệm:
Trong một số tài liệu người ta còn gọi loại thực nghiệm này là loại hình thực
nghiệm yếu, bởi vì chúng không kiểm soát được bất cứ một sự tác động nào từ phía
ngoài đến kết quả nghiên cứu. Bên cạnh biến số độc lập, còn có nhiều sự giải thích cho
kết quả nghiên cứu. Vì thế, nhà nghiên cứu khi sử dụng loại hình này sẽ khó khăn khi
đánh giá hiệu quả của biến số độc lập. Có 4 loại hình nghiên cứu tiền thực nghiệm sau:
- Loại thứ nhất: Nghiên cứu thực nghiệm một trường hợp: Loại hình này chỉ thu
hút một nhóm chịu sự điều khiển hay tác động của nhà nghiên cứu và sau đó tiến hành
đo đạc để đánh giá hiệu quả của sự tác động. Điểm yếu nhất của loại hình này là không
có bất kì sự kiểm soát nào.
- Loại thứ hai: một nhóm có kiểm tra trước và sau thực nghiệm: Khi sử dụng
loại hình này, người nghiên cứu cũng chỉ thu hút một nhóm đối tượng, nhưng việc
kiểm tra, đo đạc sẽ được tiến hành trước và sau khi tác động: đo trước thực nghiệm
(0)- tác động (X) - đo sau TN (0). Thành công của thực nghiệm được xác định bằng sự
so sánh điểm số đo trước và đo sau. Loại hình này có tốt hơn loại hình trên, nhưng vẫn
còn yếu. Bởi vì còn có nhiều yếu tố người nghiên cứu không thể kiểm soát được như:
thời gian, cách thức thu thập số liệu, khoảng cách đo trước và sau thực nghiệm, thái độ
của đối tượng nghiên cứu...
- Loại thứ ba: so sánh nhóm tĩnh (cố định): Ở đây hai nhóm đối tượng có sẵn
được sử dụng làm thực nghiệm, nghĩa là các đối tượng không được xếp đặt ngẫu nhiên
thành hai nhóm. Một nhóm được nhận phương thức tiến hành mới, còn nhóm kia vẫn
tiến hành bình thường, rồi cả hai nhóm đều được đo sau thực nghiệm. Nhóm thứ nhất
gọi là nhóm thực nghiệm, nhóm thứ hai gọi là nhóm đối chứng.
Mặc dù loại hình này kiểm soát được một vài biến số ngoại lai tác động đến kết
quả thực nghiệm như yếu tố thời gian, kiểm tra..., nhưng còn có một yếu tố quan trọng
nhất có thể tạo ra kết quả khác nhau. Đó là sự khác nhau giữa các đối tượng trong hai
nhóm.
- Loại thứ tư: so sánh nhóm tĩnh có kiểm tra trước và sau thực nghiệm. Loại
hình này khác loại hình so sánh nhóm tĩnh chỉ ở một điểm là: có sự đo đạc, kiểm tra
trước thực nghiệm ở cả hai nhóm. Khi phân tích số liệu, lấy điểm số đo được của mỗi
nhóm đối tượng sau thực nghiệm trừ đi điểm số đo được trước thực nghiệm của chính
nhóm đó. Sự chênh lệch sẽ cho phép kết luận về sự thay đổi. Ở đây nhiều biến số
ngoại lai đã được kiểm soat. Tuy nhiên, nhiều khi sự chênh lệch về điểm số giữa trước
thực nghiệm và sau thực nghiệm chỉ đơn giản là do đối tượng đã quen với công cụ đo
đạc.
Loại hình thực nghiệm khoa học đích thực.
Đặc trưng cơ bản của loại hình thực nghiệm khoa học đích thực này là các đối
tượng được xếp đặt ngẫu nhiên vào nhóm thực nghiệm và nhóm đối chứng. Như đã
nói ở trên, việc xếp đặt ngẫu nhiên là cách tốt nhất để kiểm soát sự tác động của những
khác biệt giữa các đối tượng nghiên cứu đến kết quả thực nghiệm. Có ba loại hình thực
nghiệm khoa học đích thực.
- Loại thứ nhất: nhóm ngẫu nhiên chỉ kiểm tra sau thực nghiệm. Loại hình này
cũng gồm hai nhóm được xếp đặt ngẫu nhiên. Một nhóm được nhận sự tác động thực
nghiệm, còn nhóm kia không và sau đó cả hai nhóm được kiểm tra, đo đạc sau thực
nghiệm. Điểm số đo đạc đó được so sánh với nhau để đánh giá hiệu quả của thực
nghiệm.
Sự kết hợp giữa việc xếp đặt đối tượng một cách ngẫu nhiên và sự hiện diện của
nhóm đối chứng cho phép nhà nghiên cứu kiểm soát được tất cả những biến số ngoại
lai tác động đến kết quả thực nghiệm.
- Loại thứ hai: nhóm ngẫu nhiên có đo trước và đo sau thực nghiệm. Loại hình
này chỉ khác loại hình trên ở một điểm duy nhất là đối tượng được đo trước thực
nghiệm. Hai nhóm đối tượng đều được đo hai lần. Sự đo đạc hai nhóm đối tượng cần
phải tiến hành cùng thời gian. Kết quả đo trước thực nghiệm nhằm mục đích tìm hiểu
xem liệu hai nhóm đối tượng có tương đương nhau hay không. Còn để đánh giá hiệu
quả của thực nghiệm, chúng ta chỉ cần so sánh điểm số đo đạc sau thực nghiệm của cả
hai nhóm là đủ, bằng cách sử dụng một vài dạng test để kiểm định mức ý nghĩa của
khác biệt trong thống kê toán học.
Loại hình này có thể kiểm soát được tất cả các tác động của những ảnh hưởng
khác đến kết quả thực nghiệm nhờ sự kết hợp giữa xếp đặt ngẫu nhiên và sự đo đạc
trước thực nghiệm.
- Loại thứ ba: thực nghiệm bốn nhóm: Ở đây, đối tượng nghiên cứu được sắp
xếp ngẫu nhiên thành bốn nhóm. Hai nhóm được đo đạc trước thực nghiệm, còn hai
nhóm kia thì không. Cả bốn nhóm sẽ được đo sau thực nghiệm. Một trong hai nhóm
được đo trước thực nghiệm còn một trong hai nhóm không được đo trước thực nghiệm
sẽ được xếp vào các nhóm thực nghiệm, hai nhóm kia là nhóm đối chứng.
Mô hình này hạn chế được sự ảnh hưởng của đo đạc trước thực nghiệm. Tuy
nhiên, nhược điểm của loại hình này là đòi hỏi một mẫu nghiên cứu lớn để có thể đủ
sắp xếp vào bốn nhóm. Đồng thời, việc tiến hành nghiên cứu bốn nhóm cùng một lúc
đòi hỏi sự chi phí về tài lực cũng như sự nỗ lực của người nghiên cứu là rất lớn.
2.2 Loại hình thực nghiệm trong môi trường tự nhiên
Đôi khi nhà nghiên cứu không thể sắp xếp đối tượng một cách ngẫu nhiên vào
các nhóm nghiên cứu, bởi vì họ chỉ được phép sử dụng các lớp học như nó đang tồn tại
trong thực tế mà không có bất kỳ một sự xáo trộn nào. Thuộc nhóm này cũng có nhiều
loại hình khác nhau.
- Thực nghiệm nhóm đối chứng không tương đương: Loại hình này gần giống
với loại hình thực nghiệm có kiểm tra trước và sau thực nghiệm. Điểm khác biệt duy
nhất là không có sự sắp xếp ngẫu nhiên các đối tượng nghiên cứu vào các nhóm. Vì
thế có nhiều ảnh hưởng khác đến kết quả thực nghiệm mà người nghiên cứu không
kiểm soát được.
- Loại hình thực nghiệm theo chuỗi thời gian: Loại hình này cũng gần giống như
loại hình thực nghiệm một nhóm có kiểm tra trước và sau thực nghiệm. Điểm khác
biệt là ở chỗ việc đo đạc, kiểm tra được lặp đi lặp lại nhiều lần trong thời gian trước,
trong và sau thực nghiệm. Nếu như các điểm số đo được trước thực nghiệm đều như
nhau và sau đó tăng dần lên trong quá trình thực nghiệm và sau thực nghiệm thì người
nghiên cứu có thể tin tưởng hơn trong việc khẳng định hiệu quả của thực nghiệm so
với loại hình thực nghiệm chỉ gồm một lần đo trước và sau.
- Loại hình thực nghiệm ngang bằng: Ở đây, tất cả các nhóm tham gia thực
nghiệm đều nhận được sự tác động như nhau của người nghiên cứu nhưng theo trật tự
khác nhau. Số nhóm tham gia có thể là hai hay nhiều hơn nhưng phải tương đương với
số lượng tác động. Trật tự tác động mà các nhóm nhận được phải bố trí ngẫu nhiên.
Loại hình thực nghiệm này được minh hoạ như sau:

Nhóm I: X1 O X2 O X3 O

Nhóm II: X2 O X3 O X1 O

Nhóm III: X3 O X1 O X2 O

Có 3 nhóm đối tượng tham gia. Nhóm 1 nhận được sư tác động 1 (X1) và đo
ngay (O); sau đó nhận sự tác động 2 (X2) và đo (O); cuối cùng là sự tác động 3 (X3) -
lại đo (O). Tương tự, nhóm II nhận sự tác động 2 trước – rồi đo; sau đó là tác động 3 –
rồi lại đo; cuối cùng là tác động 1 - và đo; Nhóm III nhận sự tác động 3 trước - đo; tác
động 1 - đo và cuối cùng là tác động 2 - đo. Điểm số trung bình đo được sau lần tác
động 1 của tất cả 3 nhóm được đem so sánh với điểm số trung bình đo được sau lần tác
động 2 và sau lần tác động 3 của tất cả các nhóm để xác định hiệu quả của từng tác
động.
Loại hình thực nghiệm này kiểm soát được rất tốt ảnh hưởng của sự khác biệt
giữa các đối tượng đến kết quả nghiên cứu. Tuy nhiên, có thể có sự tác động qua lại
giữa các tác động khi mà cùng một nhóm nhận được nhiều tác động khác nhau. Vì thế
người nghiên cứu cần kiểm tra cẩn thận khi sử dụng loại hình này.
- Loại hình thực nghiệm nhiều yếu tố: Trong mô hình này người nghiên cứu
thường quan tâm đến hai hay nhiều biến số độc lập (biến số tác động) và ít nhất có một
biến số do người nghiên cứu điều khiển. Đây là sự chi tiết hoá loại hình thực nghiệm
khoa học đích thực và nó cho phép nghiên cứu hai hay nhiều biến số riêng rẽ hoặc
trong mối tương tác lẫn nhau. Khái niệm "yếu tố" ở đây có nghĩa là mô hình này thu
hút hai hay nhiều biến số độc lập. Mỗi biến số có hai hay nhiều mức độ. Ví dụ, biến số
"phương pháp giảng dạy" có hai hình thức giảng dạy - giảng dạy theo nhóm và giảng
dạy truyền thống; biến số “năng khiếu” cũng có hai mức độ - cao và thấp. Như vậy mô
hình 2 - 2 yếu tố có hai biến số và mỗi biến số có hai mức độ. Ta có thể có sơ đồ đơn
giản sau:
Loại hình giảng dạy:

Truyền thống Nhóm


Năng khiếu Cao Nhóm I Nhóm II

Thấp Nhóm III Nhóm IV

Mô hình 2 - 2 yếu tố này đòi hỏi có bốn nhóm đối tượng. Mỗi nhóm thể hiện sự
kết hợp giữa một mức độ của một yếu tố và một mức độ của yếu tố khác. Ở đây có
một yếu tố được tác động - loại hình giảng dạy; còn yếu tố kia - năng khiếu - không
được tác động mà được xem như biến số kiểm chứng. Ngoài ra, còn có thể có mô hình
3 - 2 (3 loại hình giảng dạy và giới tính của học sinh - nam, nữ chẳng hạn); hoặc mô
hình 2 - 3 (2 loại hình giảng dạy; 3 mức độ của năng khiếu - cao, trung bình, thấp)...
Mục đích của loại hình thực nghiệm nhiều yếu tố là để xác định xem tác động
của biến số thực nghiệm có thể khái quát hoá ở mọi mức độ của biến số kiểm chứng
hay chỉ có hiệu quả ở một mức độ riêng biệt nào đó. Ngoài ra nó còn nghiên cứu các
mối liên hệ giữa tập hợp các số liệu.
3. Đề xuất một hướng nghiên cứu mà Anh/Chị quan tâm và hoàn thành việc xây dựng
đề cương theo mẫu sau:

Đề tài nghiên cứu

Nhiệm vụ nghiên cứu


Hay nội dung nghiên
cứu

Mục tiêu nghiên cứu/


Mục đích nghiên cứu
Giả thuyết nghiên cứu

Khách thể nghiên cứu


Đối tượng khảo sát

Phạm vi nghiên cứu

You might also like