Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 8

I.

Câu hỏi đúng sai


1. Nội dung cương lĩnh chính trị 2/1930
Hội nghị thành lập Đảng đã thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt và Chương trình
tóm tắt do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Các văn kiện đó hợp thành Cương lĩnh chính trị đầu
tiên của Đảng ta - Cương lĩnh Hồ Chí Minh. Nội dung cơ bản như sau:
- Cương lĩnh chính trị đầu tiên xác định phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam:
“chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.
- Xác định nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của cách mạng Việt Nam: đánh đổ đế quốc chủ nghĩa
Pháp và bọn phong kiến. Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập. Cương lĩnh đã xác định:
chống đế quốc và chống phong kiến là nhiệm vụ cơ bản để giành độc lập cho dân tộc và ruộng
đất cho dân cày, trong đó chống đế quốc, giành độc lập cho dân tộc được đặt ở vị trí hàng đầu.
- Xác định lực lượng lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân thông qua đội tiên phong là
Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Xác định lực lượng cách mạng: phải đoàn kết công nhân, nông dân, đây là lực lượng cơ bản
đồng thời chủ trương đoàn kết tất cả các giai cấp, các lực lượng tiến bộ, yêu nước để tập trung
chống đế quốc và tay sai.
- Xác định phương pháp tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc, Cương lĩnh khẳng định phải
bằng con đường bạo lực cách mạng của quần chúng.
- Xác định tinh thần đoàn kết quốc tế, Cương lĩnh chỉ rõ trong khi thực hiện nhiệm vụ giải
phóng dân tộc, đồng thời tranh thủ sự đoàn kết, ủng hộ của các dân tộc bị áp bức và giai cấp
vô sản thế giới, nhất là giai cấp vô sản Pháp.
=> Những văn kiện được thông qua trong Hội nghị hợp nhất dù “vắn tắt”, nhưng đã phản ánh
những vấn đề cơ bản trước mắt và lâu dài cho cách mạng Việt Nam, đưa cách mạng Việt Nam
sang một trang sử mới.
2. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V (3/1982)
- Đại hội Đảng lần thứ V họp từ ngày 27 đến ngày 31/3/1982. Dự Đại hội có 1.033 đại biểu
thay mặt cho hơn 1,7 triệu đảng viên cả nước, có 47 đoàn đại biểu của các đảng và tổ chức
quốc tế. Đại hội gồm 116 ủy viên chính thức, Bộ Chính trị gồm 13 ủy viên chính thức. Đồng
chí Lê Duẩn được bầu lại làm Tổng Bí thư của Đảng.
- Đại hội có nhiệm vụ kiểm điểm những hoạt động của Đảng từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IV (tháng 12/1976), đánh giá những thành tựu và khuyết điểm, phân tích thực trạng
kinh tế xã hội nước ta và những nguyện nhân dẫn đến thực trạng đó. Đồng thời chỉ ra những
phương hướng cơ bản để tháo gỡ khó khăn, tíêp tục đưa đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
- Đại hội thảo luận và thông qua các văn kiện: Báo cáo chính trị; Phương hướng, nhiệm vụ và
những mục tiêu chủ yếu về kinh tế và xã hội trong 5 năm (1981- 1985) và những năm 80; Báo
cáo xây dựng Đảng và Điều lệ Đảng (bổ sung và sửa đổi). Nội dung cơ bản của những văn
kiện đó là:
Một là, chỉ ra ba thắng lợi trong 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội IV.
Hai là, xuất phát từ thực tiễn, Đại hội đã nêu lên hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng nước
ta trong giai đoạn mới là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội; sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ
vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Hai nhiệm vụ chiến lược đó có quan hệ mật
thiết với nhau.
Ba là, đưa ra khái niệm chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ, bao gồm thời kỳ 5 năm
(1981 - 1985) và kéo dài đến năm 1990, "là khoảng thời gian có tầm quan trọng đặc biệt",
nhiêm vụ cần thiết trước mắt là ổn định tình hình kinh tế - xã hội.
Bốn là, chủ trương đổi mới cơ chế quản lý một cách đồng bộ, lấy kế hoạch nhà nước làm trung
tâm, đồng thời coi trọng các đòn bẩy kinh tế, vận dụng các quan hệ thị trường, khuyến khích
sáng kiến và tài năng, nâng cao hiệu lực điều hành của các cấp, làm cho kế hoạch nhà nước
thật sự là cương lĩnh thứ hai của Đảng, là công cụ trung tâm của hệ thống quản lý.
Năm là, đề ra một số chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội trong 5 năm (1981 - 1985): sản xuất
nông nghiệp tăng bình quân hằng năm là 6 - 7%, sản xuất công nghiệp tăng bình quân khoảng
4 - 5%, thu nhập quốc dân tăng bình quân 4,5 - 5%, sản lượng lương thực tăng 32%...
Về công tác đối ngoại, Đại hội xác định: ra sức tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi, tranh thủ
sự giúp đỡ quốc tế to lớn và nhiều mặt cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
Về công tác xây dựng Đảng, Đại hội chủ trương xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư
tưởng và tổ chức, làm cho Đảng luôn giữ vững bản chất cách mạng và khoa học, một Đảng
thật sự trong sạch, có sức chiến đấu cao và gắn bó chặt chẽ với quần chúng.

- Sau Đại hội V, Trung ương Đảng có nhiều Hội nghị cụ thể hoá, thực hiện Nghị quyết Đại
hội. Nổi bật nhất là Hội nghị Trung ương 8 khoá V (6/1985) được coi là bước đột phá thứ
haitrong quá trình tìm tòi, đổi mới kinh tế của Đảng. Tại Hội nghị này, Trung ương chủ
trương xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu hành chính bao cấp, lấy giá lương tiền là khâu đột
phá để chuyển sang cơ chế hạch toán, kinh doanh xã hội chủ nghĩa.
- Hội nghị Bộ Chính trị khoá V (8/1986) đưa ra “Kết luận đối với một số vấn đề thuộc về quan
điểm kinh tế”. Đây là bước đột phá thứ bavề đổi mới kinh tế,đồng thời cũng là bước quyết
định cho sự ra đời của đường lối đổi mới của Đảng.
Về cơ cấu sản xuất, Cần tiến hành một cuộc điều chỉnh lớn về cơ cấu sản xuất và cơ cấu đầu
tư theo hướng thật sự lấy nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, ra sức phát triển công nghiệp nhẹ,
việc phát triển công nghiệp nặng phải có lựa chọn cả về quy mô và nhịp độ.
Về cải tạo xã hội chủ nghĩa, lựa chọn bước đi và hình thức thích hợp trên quy mô cả nước
cũng như từng vùng, từng lĩnh vực.
Về cơ chế quản lý kinh tế, Đổi mới kế hoạch hoá theo nguyên tắc phát huy vai trò chủ đạo của
các quy luật kinh tế xã hội chủ nghĩa.
3. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (kinh tế thị trường)
- Nhu cầu đổi mới
+ Đường lối do Đại hội IV (năm 1976) và Đại hội V (năm 1982) đề ra đã phạm nhiều sai lầm
trong việc xác định mục tiêu và bước đi về xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, cải tạo xã hội chủ
nghĩa và quản lý kinh tế khiến cho đất nước lâm vào khủng hoảng KT-XH trầm trọng.
+ Về đối ngoại, nước ta ở vào tình thế bị các thế lực thù địch cô lập, bao vây, cấm vận, phải
chống lại cuộc chiến tranh phá hoại nhiều mặt do bọn bành trướng, bá quyền gây ra.
+ Đầu những năm 80 nhiều nước xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm
trọng.
+ Đổi mới bắt đầu từ dưới lên.Trước những khó khăn về kinh tế - xã hội, các đổi mới cục bộ
(còn gọi là làm chui hoặc xé rào) đã diễn ra ở nhiều địa phương và đơn vị trong toàn quốc.
+ Đại hội họp từ ngày 15 đến ngày 18/12/1986 tại Hà Nội. Dự Đại hội có 1.129 đại biểu thay
mặt cho gần 1,9 triệu đảng viên cả nước và 32 đoàn đại biểu của các đảng và tổ chức quốc tế.
+ Với phương châm “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật” ĐH
VI (năm 1986) đã “phân tích đúng đắn nguyên nhân (chủ quan) của tình hình khủng
hoảng kinh tế - xã hội từ nhiều năm trước, đề ra các định hướng lớn để từng bước thoát
khỏi tình trạng đó”.
- Nội dung Đại hội
+ Đại hội đã đánh giá đúng mức những thành tựu đạt được sau 10 năm xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, đi sâu phân tích những tồn tại và nghiêm khắc tự phê bình những sai lầm, khuyết điểm
trong lãnh đạo và chỉ đạo của Đảng trong 10 năm (1976 - 1986).
+ Đại hội khẳng định quyết tâm đổi mới công tác lãnh đạo của Đảng theo tinh thần cách mạng
và khoa học và đánh giá cao quá trình dân chủ hóa sinh hoạt chính trị của Đảng và nhân dân ta
trong thời gian chuẩn bị và tiến hành Đại hội.
+ Đại hội đã đánh giá những thành tựu, những khó khăn của đất nước do cuộc khủng hoảng
kinh tế - xã hội tạo ra, những sai lầm kéo dài của Đảng về chủ trương, chính sách lớn, về chỉ
đạo chiến lược và tổ chức thực hiện khuynh hướng tư tưởng chủ yếu của những sai lầm đó,
đặc biệt là sai lầm về kinh tế là bệnh chủ quan duy ý chí, lối suy nghĩ về hành động đơn giản,
nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ quan, là khuynh hướng buông lỏng trong quản lý kinh tế,
xã hội, không chấp hành nghiêm chỉnh đường lối và nguyên tắc của Đảng đó là tư tưởng vừa
tả khuynh vừa hữu khuynh.
+ Báo cáo chính trị tổng kết thành bốn bài học kinh nghiệm lớn:
Một là, trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”.
Hai là, Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách
quan.
Ba là, phải biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới.
Bốn là, chăm lo xây dựng Đảng ngang tầm với một đảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân tiến
hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.
+ Báo cáo xác định nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát trong những năm còn lại của chặng
đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế- xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề
cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo.
+ Mục tiêu cụ thể về kinh tế - xã hội cho những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là:
Sản xuất đủ tiêu dùng và có tích luỹ.
Bước đầu tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý, trong đó đặc biệt chú trọng ba chương trình kinh tế
lớn là lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, coi đó là sự cụ thể hóa nội
dung công nghiệp hoá trong chặng đường đầu của thời kỳ quá độ. Làm cho thành phần kinh tế
xã hội chủ nghĩa giữ vai trò chi phối, sử dụng mọi khả năng của các thành phần kinh tế khác
trong sự liên kết chặt chẽ, dưới sự chỉ đạo của thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa. Tiến hành
cải tạo xã hội chủ nghĩa theo nguyên tắc phát triển sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế và tăng
thu nhập cho người lao động.
Xây dựng và hoàn thiện một bước quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất.
Tạo ra chuyển biến về mặt xã hội, việc làm, công bằng xã hội, chống tiêu cực, mở rộng dân
chủ, giữ kỷ cương phép nước.
Bảo đảm nhu cầu củng cố quốc phòng và an ninh.
+ Đại hội đã nêu ra năm phương hướng cơ bản của chính sách kinh tế - xã hội và đề ra hệ
thống các giải pháp để thực hiện mục tiêu: Bố trí lại cơ cấu sản xuất, điều chỉnh lớn cơ cấu đầu
tư; xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, sử dụng và cải tạo đúng đắn các
thành phần kinh tế. Coi nền kinh tế có nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ;
đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, dứt khoát xoá bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp,
chuyển sang cơ chế kế hoạch hoá theo phương thức hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa;
phát huy động lực của khoa học - kỹ thuật; mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại.
+ Trong hệ thống các giải pháp, Đại hội nhấn mạnh phải tập trung sức lực vào việc thực hiện
được ba chương trình, mục tiêu: 1. Lương thực - thực phẩm; 2. Hàng tiêu dùng; 3. Hàng xuất
khẩu. Đây là sự cụ thể hoá nội dung chính của công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong chặng
đường đầu tiên của thời kỳ quá độ.
+ Nhiệm vụ của chính sách đối ngoại nhằm góp phần giữ vững hòa bình ở Đông Dương, Đông
Nam Á và thế giới, góp phần vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội, tăng cường tình hữu nghị và hợp tác toàn diện với Liên
Xô và các nước xã hội chủ nghĩa; bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc vì lợi ích của nhân
dân hai nước, vì hòa bình ở Đông Nam Á và trên thế giới.
+ Về huy động sức mạnh của quần chúng, Đại hội xác định phải phát huy quyền làm chủ tập
thể của nhân dân lao động, thực hiện khẩu hiệu "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra",
tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước là điều kiện tất yếu bảo đảm huy động lực lượng to
lớn của quần chúng.
+ Để tăng cường sức chiến đấu và năng lực tổ chức thực hiện của Đảng, Đại hội nêu rõ Đảng
phải đổi mới về nhiều mặt: đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế; đổi mới tổ chức; đổi
mới đội ngũ cán bộ; đổi mới phong cách lãnh đạo và công tác.
+ Đại hội đã thông qua bản Điều lệ Đảng (sửa đổi) và bầu Ban Chấp hành Trung ương khoá
VI gồm 124 uỷ viên chính thức và 49 uỷ viên dự khuyết. Ban Chấp hành Trung ương Đảng
bầu Bộ Chính trị gồm 13 uỷ viên chính thức, 01 uỷ viên dự khuyết. Ban Bí thư gồm 13 đồng
chí. Nguyễn Văn Linh được bầu làm Tổng Bí thư của Đảng. Đại hội VI của Đảng là Đại hội
kế thừa và quyết tâm đổi mới, đoàn kết để tiến lên.
=> Đại hội VI của Đảng có ý nghĩa lịch sử trọng đại, đánh dấu bước ngoặt trong sự nghiệp quá
độ lên chủ nghĩa xã hội của nước ta. Đại hội thể hiện sự kết tinh trí tuệ của toàn Đảng, toàn
dân và cũng thể hiện tinh thần trách nhiệm cao của Đảng trước đất nước và trước dân tộc. Sau
Đại hội, Đảng đã lãnh đạo triển khai thực hiện đường lối đổi mới toàn diện, từng bước tổng
kết thực tiễn, bổ sung, phát triển, đưa cách mạng nước ta từng bước đạt được những thành tựu
rất quan trọng.
4. Nghị quyết trung ương 5 khóa VIII về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc

Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc ra đời trong bối cảnh Đảng ta chủ động đổi mới tư duy, lãnh đạo toàn
dân thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, trong đó có văn hóa.
Nghị quyết này thể hiện bước chuyển quan trọng về tư duy lý luận, năng lực đúc kết thực tiễn
những năm đầu đổi mới; chứa đựng nhiều giá trị tư tưởng, nhân văn và khoa học.
Nghị quyết đưa ra các quan điểm chỉ đạo cơ bản có sự đổi mới, có giá trị về cả lý luận và thực
tiễn, gồm:
1- Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự
phát triển kinh tế - xã hội
2- Nền văn hoá mà chúng ta xây dựng là nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
3- Nền văn hoá Việt Nam là nên văn hoá thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các
dân tộc Việt Nam
4- Xây dựng và phát triển văn hoá là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, trong đó
đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng
5- Văn hoá là một mặt trân; xây dựng, phát triển văn hoá là một sự nghiệp cách mạng
lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì, thận trọng
Trong đó, quan điểm văn hóa là mục tiêu và động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội
thể hiện sự đổi mới mạnh mẽ, khẳng định mối quan hệ giữa văn hóa với chính trị và kinh tế.
Nghị quyết khẳng định: “Xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu văn hóa, vì xã hội
công bằng, văn minh, con người phát triển toàn diện. Văn hóa là kết quả của kinh tế đồng thời
là động lực của phát triển kinh tế. Các nhân tố văn hóa phải gắn kết chặt chẽ với đời sống và
hoạt động xã hội trên mọi phương diện chính trị, kinh tế, xã hội, luật pháp, kỷ cương…”
Có thể khẳng định rằng, Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII đã đánh dấu bước tiến quan trọng
trong quá trình phát triển, hoàn thiện lý luận về văn hóa của Đảng, định hướng phát triển văn
hóa trong trong điều kiện đất nước hội nhập quốc tế, phát triển kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa.
II. Câu hỏi phân tích
1. Nội dung Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (9/1960) và kế hoạch 5 năm lần thứ 1
- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9/1960):
+ Về đường lối chung của cách mạng Việt Nam, Đại hội xác định nhiệm vụ thực hiện đồng
thời hai chiến lược cách mạng khác nhau ở hai miền: Một là, đẩy mạnh cách mạng xã hội
chủ nghĩa ở miền Bắc. Hai là, tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam,
thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước.
+ Về mục tiêu chiến lược chung, Đại hội cho rằng, cách mạng ở miền Bắc và cách mạng ở
miền Nam thuộc hai chiến lược khác nhau, có mục tiêu cụ thể riêng, song trước mắt đều
hướng vào mục tiêu chung là giải phóng miền Nam, hòa bình, thống nhất đất nước.
+ Mối quan hệ của cách mạng hai miền: Do cùng thực hiện một mục tiêu chung nên "Hai
nhiệm vụ chiến lược ấy có quan hệ mật thiết với nhau và có tác dụng thúc đẩy lẫn nhau".
+ Vị trí, tác dụng:
Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc có nhiệm vụ xây dựng tiềm lực và bảo vệ căn cứ
địa của cả nước, hậu thuẫn cho cách mạng miền Nam, chuẩn bị cho cả nước đi lên chủ
nghĩa xã hội về sau, nên giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách
mạng Việt Nam và đối với sự nghiệp thống nhất cả nước.
Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam giữ vai trò quyết định trực tiếp đối với
sự nghiệp giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, thực
hiện hoà bình thống nhất nước nhà, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong
cả nước.
+ Con đường thống nhất đất nước: Trong khi tiến hành đồng thời hai chiến lược cách
mạng, Đảng kiên trì con đường hoà bình thống nhất theo tinh thần Hiệp nghị Giơnevơ, sẵn
sàng thực hiện hiệp thương tổng tuyển cử hoà bình thống nhất Việt Nam, vì đó là con
đường tránh được sự hao tổn xương máu cho dân tộc ta và phù hợp với xu hướng chung
của thế giới. Nhưng chúng ta phải luôn luôn nâng cao cảnh giác, sẵn sàng đối phó với mọi
tình thế. Nếu đế quốc Mỹ và bọn tay sai của chúng liều lĩnh gây ra chiến tranh hòng xâm
lược miền Bắc, thì nhân dân cả nước ta sẽ kiên quyết đứng dậy đánh bại chúng, hoàn thành
độc lập và thống nhất Tổ quốc.
+ Triển vọng của cách mạng Việt Nam: Cuộc đấu tranh nhằm thực hiện thống nhất nước
nhà là một quá trình đấu tranh cách mạng gay go, gian khổ, phức tạp và lâu dài chống đế
quốc Mỹ và bè lũ tay sai của chúng ở miền Nam. Thắng lợi cuối cùng nhất định thuộc về
nhân dân ta, Nam Bắc nhất định sum họp một nhà, cả nước sẽ đi lên chủ nghĩa xã hội.
Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965):
Nhiệm vụ: Thực hiện một bước công nghiệp hóa XHCN. Xây dựng bước đầu cơ sở vật chất
và kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội. Hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa, làm cho nền kinh tế
miền Bắc trở thành nền kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Quá trình thực hiện:
- Năm 1963, Bộ Chính Trị đề ra 3 cuộc vận động lớn: Cuộc vận động cải tiến quản lý HTX,
cải tiến kĩ thuật trong nông nghiệp. Cuộc vận động nâng cao tinh thần trách nhiệm, quản lý
kinh tế - tài chính, cải tiến kỹ thuật, chống tham ô, lãng phí, quan liêu (ba xây, ba chống).
Cuộc vận động xây dựng và phát triển kinh tế văn hóa miền núi.
- Tổ chức nhiều phong trào thi đua sôi nổi ở các cấp, các ngành: Trong nông nghiệp
có: Đại Phong. Trong công nghiệp: Duyên Hải. Tiểu thủ CN: Thành Công. Giáo dục: Hai
Tốt. Quân đội: Ba Nhất. Phong trào “Mỗi người làm việc bằng hai để đền đáp lại cho đồng
bào miền Nam ruột thịt”.
Thành tựu đạt được: Các mục tiêu của kế hoạch căn bản hoàn thành. Tốc độ phát triển
công nghiệp 1961-1965 đạt 13,6%/năm. Đến năm 1965, xây dựng được 1.132 xí nghiệp
quốc doanh, hàng chục ngàn cơ sở tiểu thủ CN đảm bảo cung ứng 90% hàng tiêu dùng cho
nhân dân. Miền Bắc có 2.165 người có trình độ đại học và trên đại học, 11.600 cán bộ có
trình độ trung cấp. Tổng sản lượng nông nghiệp hàng năm tăng 4,1%, CS VC_KT trong
nông nghiệp được tăng cường. Văn hóa - xã hội - giáo dục: Năm 1965 so với 1960: số
trường phổ thông các cấp tăng từ 7.066 lên 10.294 trường, số học sinh tăng từ 1.899.600
lên 2.934.900. Toàn miền Bắc có hơn 4,5 triệu người đi học trên tổng số 16 triệu dân. Công
tác chăm sóc sức khỏe người dân, y tế được chú trọng và mở rộng hơn.
=> Trong 10 năm qua miền Bắc đã tiến những bước dài chưa từng thấy trong lịch sử dân
tộc. Đất nước, xã hội và con người đều đổi mới.
2. Nội dung các bước đột phá tiếp tục đổi mới kinh tế giai đoạn 1982-1986
- Sau Đại hội V, Trung ương Đảng có nhiều Hội nghị cụ thể hoá, thực hiện Nghị quyết Đại
hội. Nổi bật nhất là Hội nghị Trung ương 8 khoá V (6/1985) được coi là bước đột phá thứ
haitrong quá trình tìm tòi, đổi mới kinh tế của Đảng. Tại Hội nghị này, Trung ương chủ
trương xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu hành chính bao cấp, lấy giá lương tiền là khâu đột
phá để chuyển sang cơ chế hạch toán, kinh doanh xã hội chủ nghĩa.
- Hội nghị Bộ Chính trị khoá V (8/1986) đưa ra “Kết luận đối với một số vấn đề thuộc về
quan điểm kinh tế”. Đây là bước đột phá thứ bavề đổi mới kinh tế,đồng thời cũng là bước
quyết định cho sự ra đời của đường lối đổi mới của Đảng.
Về cơ cấu sản xuất, Cần tiến hành một cuộc điều chỉnh lớn về cơ cấu sản xuất và cơ cấu
đầu tư theo hướng thật sự lấy nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, ra sức phát triển công
nghiệp nhẹ, việc phát triển công nghiệp nặng phải có lựa chọn cả về quy mô và nhịp độ.
Về cải tạo xã hội chủ nghĩa, lựa chọn bước đi và hình thức thích hợp trên quy mô cả nước
cũng như từng vùng, từng lĩnh vực.
Về cơ chế quản lý kinh tế, Đổi mới kế hoạch hoá theo nguyên tắc phát huy vai trò chủ đạo
của các quy luật kinh tế xã hội chủ nghĩa.
=>Các bước đột phá: Thứ nhất là Hội nghị Trung ương 6 khóa IV (Tháng 8/1979), thứ hai
là Hội nghị Trung ương 8 khóa V (Tháng 6/1985), thứ ba là Hội nghị Bộ chính trị khóa V
(Tháng 8/1986) phản ánh sự phát triển nhận thức từ quá trình khảo nghiệm, tổng kết thực
tiễn, từ sáng kiến và nguyện vọng lợi ích của nhân dân để hình thành đường lối đổi mới.
3. Nội dung Đảng lãnh đạo xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa từ Đại hội Đảng lần IX đến lần XIII
- Nghị quyết của Đại hội IX (2001) xác định phải gắn tăng trưởng kinh tế với phát triển văn
hóa, phát triển toàn diện con người, thực hiện dân chủ, tiến bộ và công bằng xã hội, tạo
nhiều việc làm, cải thiện đời sống, khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói,
giảm nghèo.
- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (2006) của Đảng đã đặc biệt nhấn mạnh tới việc xây
dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam, bảo vệ và phát huy bản sắc dân
tộc trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế. Bồi dưỡng các
giá trị văn hóa trong thanh niên, học sinh, sinh viên, đặc biệt là lý tưởng sống, lối sống,
năng lực trí tuệ, đạo đức, bản lĩnh văn hóa con người Việt Nam.
- Đại hội XI (2011) của Đảng đã yêu cầu: Sớm có chiến lực quốc gia về xây dựng gia đình
Việt Nam, góp phần giữ gìn và phát triển những giá trị truyền thống của văn hóa, con người
Việt Nam, nuôi dưỡng, giáo dục thế hệ trẻ. Đoàn kết và xây dựng hệ giá trị chung của con
người Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
- Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung và phát
triển 2011) khẳng định con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ
thể phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi
ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân. Chăm lo xây dựng con người
Việt Nam giàu lòng yêu nước, có ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân; có tri thức, sức
khỏe, lao động giỏi; sống có văn hóa, tình nghĩa; có tinh thần quốc tế chân chính.
- Đại hội XII (2016) xác định: Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện phải trở
thành một mục tiêu của chiến lược phát triển. Đúc kết và xây dựng hệ giá trị văn hóa và hệ
giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội
nhập quốc tế; tạo môi trường và điều kiện để phát triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng
lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp
luật.
- Đại hội Đảng XIII (2021) chủ trương phát triển con người toàn diện; tài năng, trí tuệ,
phẩm chất của con người Việt Nam là trung tâm, mục tiêu và động lực phát triển quan
trọng nhất của đất nước.
4. Tầm quan trọng và nội dung xây dựng chiến lược con người mới giai đoạn hiện
nay.

You might also like