ĐỀ CƯƠNG VẤN ĐỀ XÃ HỘI

You might also like

Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 26

CHƯƠNG/BÀI 1

1. Hãy trình bày sơ lược các luận điểm về mối quan hệ giữa tăng dân số và tăng trưởng
kinh tế. Với thực trạng của Việt Nam, anh/chị ủng hộ luận điểm nào và giải thích.
TL:
Cho đến nay, có ba luận điểm chủ yếu về mối quan hệ này:
- Luận điểm “bi quan” (persimistic view) – tăng dân số tác động tiêu cực
Đối với Malthus, ông cho rằng dân số tăng theo cấp số nhân, trong khi đó thì lương
thực thực phẩm chỉ tăng theo cấp số cộng. Như vậy, khoảng cách giữa cung và cầu ngày càng
lớn khi sự gia tăng dân số ngày càng tăng. Áp lực gia tăng dân số đối với nguồn cung thực
phẩm sẽ phá hủy sự hoàn hảo và đem đến sự đói nghèo trên thế giới và nếu không kiểm soát
sẽ dẫn đến nạn đói và chiến tranh. Ngày nay, người ta còn phát triển quan điểm này đến mức
quy mọi tiêu cực về kinh tế, xã hội, môi trường cho sự gia tăng dân số quá nhanh ở các nước
đang phát triển.
- Luận điểm “lạc quan” (optimistic view) – tăng dân số tác động tích cực
Boserup gợi ý rằng sự gia tăng dân số có tác động tích cực. Khi quy mô dân số tăng
lên, tài nguyên bắt đầu cạn kiệt kéo theo nhu cầu tiêu dùng tăng lên, chúng ta buộc phải "Phát
minh" ra cách để giải quyết vấn đề. Theo ý tưởng này, sự gia tăng dân số là tích cực vì nó
kích thích sự phát triển Công nghệ. Còn Simon cho rằng, khi thị trường được mở rộng sẽ thúc
đẩy sự sản xuất của cải phát triển để bù đắp vào những gì có sẵn đã bị thiếu hụt. Mặt khác, có
nhiều người sẽ làm tăng kiến thức thông qua học hỏi thêm và cạnh tranh. Sức ép của nhu cầu
sẽ thúc đẩy khoa học, kỹ thuật phát triển. Tất cả những yếu tố trên sẽ làm sản lượng bình
quân đầu người tăng lên, nghĩa là sản lượng tăng nhanh hơn dân số.
- Luận điểm “trung tính” (neutral view) – tác động còn phụ thuộc vào nhiều nhân
tố khác.
Vào đầu những năm 1990, một nhóm các nhà dân số học khác đánh giá tác động của
tăng dân số đến tăng trưởng kinh tế ở một góc độ rộng hơn và thận trọng hơn. Các chủ thể là
những đại diện cho những người theo lí thuyết dân số học trung tính với quan điểm cho rằng
tăng dân số tác động đến tăng trưởng kinh tế qua nhiều kênh khác nhau mà những kênh này
có thể lại tác động tích cực hoặc tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế.
- Với thực trạng của Việt Nam, tôi ủng hộ luận điểm thứ ba, cho rằng tăng dân số có tác
động vừa tích cực vừa tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế.
Về mặt tích cực, dân số đông của Việt Nam là nguồn lực lao động dồi dào, là động lực
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Dân số đông sẽ giúp Việt Nam có nhiều lao động trẻ, khỏe,
năng động, sáng tạo. Điều này sẽ giúp Việt Nam có lợi thế trong cạnh tranh quốc tế, thu hút
đầu tư nước ngoài, phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn.
Tuy nhiên, về mặt tiêu cực, tăng dân số quá nhanh của Việt Nam cũng gây ra nhiều áp
lực cho nền kinh tế, dẫn đến tình trạng thất nghiệp, nghèo đói, bất bình đẳng xã hội,... Dân số
tăng quá nhanh sẽ làm tăng nhu cầu về giáo dục, y tế, nhà ở,... Điều này sẽ làm tăng chi phí
của chính phủ, gây khó khăn cho việc phát triển kinh tế.
Để tận dụng được những lợi thế của dân số đông và hạn chế những tác động tiêu cực
của nó, Việt Nam cần có những chính sách phù hợp để phát triển kinh tế bền vững. Cụ thể,
Việt Nam cần tập trung vào các giải pháp sau:
● Nâng cao chất lượng dân số, giảm tỷ lệ sinh, nâng cao trình độ học vấn, tay nghề của
người dân.
● Cải thiện cơ cấu dân số, tăng tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động, giảm tỷ lệ dân số phụ
thuộc.
● Phát triển kinh tế theo hướng bền vững, chú trọng phát triển các ngành kinh tế sử
dụng nhiều lao động, ít gây ô nhiễm môi trường.
Với những giải pháp trên, Việt Nam có thể tận dụng được những lợi thế của dân số
đông để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao đời sống của người dân.

2. Hãy giải thích tác động của biến đổi cơ cấu tuổi dân số đến tăng trưởng kinh tế. Để
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thì cần có các chính sách nào?
TL:
Tác động tích cực
Trong giai đoạn dân số vàng, khi tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động chiếm tỷ lệ cao trong
tổng dân số, sẽ có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế, cụ thể như:
● Tăng lực lượng lao động: Dân số vàng sẽ tạo ra nguồn nhân lực dồi dào cho nền kinh
tế, thúc đẩy tăng trưởng sản xuất, kinh doanh.
● Tăng tích lũy cho đầu tư: Dân số vàng sẽ đóng góp nhiều hơn cho nền kinh tế, tạo ra
nguồn tài chính cho đầu tư phát triển.
● Tăng tiêu dùng: Dân số vàng sẽ có nhu cầu tiêu dùng cao, thúc đẩy phát triển thị
trường trong nước.
Tác động tiêu cực
Khi tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động giảm xuống, sẽ có tác động tiêu cực đến tăng trưởng
kinh tế, cụ thể như:
● Giảm lực lượng lao động: Dân số già sẽ làm giảm lực lượng lao động, gây khó khăn
cho việc phát triển sản xuất, kinh doanh.
● Giảm tích lũy cho đầu tư: Dân số già sẽ đóng góp ít hơn cho nền kinh tế, tạo ra nguồn
tài chính cho đầu tư phát triển.
● Giảm tiêu dùng: Dân số già sẽ có nhu cầu tiêu dùng thấp, làm giảm sức mua trong
nước.
Để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh biến đổi cơ cấu tuổi dân số, cần có các
chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế, cụ thể như:
● Chính sách phát triển nguồn nhân lực: Tăng cường giáo dục, đào tạo, nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế trong giai đoạn mới.
● Chính sách thu hút đầu tư: Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, thu hút đầu tư nước
ngoài và trong nước, tạo thêm việc làm cho người lao động.
● Chính sách hỗ trợ doanh nghiệp: Hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới công nghệ, nâng cao
năng suất, chất lượng sản phẩm, dịch vụ.
● Chính sách phát triển thị trường trong nước: Tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát
triển thị trường trong nước, thúc đẩy tiêu dùng nội địa.
Ngoài ra, cần có các chính sách hỗ trợ người cao tuổi, như:
● Chính sách bảo hiểm xã hội: Mở rộng diện bao phủ bảo hiểm xã hội, đảm bảo an sinh
xã hội cho người cao tuổi.
● Chính sách chăm sóc sức khỏe: Tăng cường chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi,
nâng cao tuổi thọ trung bình của dân số.
● Chính sách giáo dục, đào tạo: Tạo điều kiện cho người cao tuổi học tập, nâng cao kỹ
năng, kiến thức.
Việc triển khai các chính sách trên một cách đồng bộ, hiệu quả sẽ góp phần thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế bền vững trong bối cảnh biến đổi cơ cấu tuổi dân số.
Liên hệ Việt Nam: Tác động của biến đổi cơ cấu tuổi dân số đến tăng trưởng kinh tế Việt
Nam
1. “Dư lợi dân số” ở Việt Nam
Có sự khác biệt trong chi tiêu giữa các nhóm tuổi, đặc biệt chi tiêu cho y tế cho nhóm
tuổi 55-77 gấp hơn hai lần cho nhóm trẻ em (0-15 tuổi). Chi tiêu cho giáo dục tăng liên tục và
đạt cao nhất ở tuổi 22 và sau đó giảm dần cho đến tuổi 34. Chi tiêu của hộ gia đình cho y tế
và giáo dục chiếm tỷ trọng lớn, trong khi chi tiêu Chính phủ trong các lĩnh vực này vẫn còn
rất khiêm tốn dù đã tăng lên trong những năm qua. dân số trong độ tuổi 23-53 có mức thu
nhập từ lao động lớn hơn mức tiêu dùng nên họ tạo ra nguồn tiết kiệm có thể được tái đầu tư
cho nền kinh tế và từ đó kích thích tăng trưởng kinh tế.
2. Thay đổi cơ cấu tuổi dân số và cơ cấu tuổi lao động có tác động tích cực tới tăng trưởng
kinh tế: Tác động tích cực tới tốc độ tăng GDP bình quân đầu người, nhưng tác động có sự
thay đổi rõ nét cùng với xu hướng già hóa dân số.
Một số đề xuất chính sách
1. Tạo việc làm và tăng năng suất lao động cho nhóm dân số trong độ tuổi lao động, biến “cơ
hội dân số vàng” thành “dư lợi dân số”. Điều này đặc biệt quan trọng trong bối cảnh dân số
Việt Nam đã bước vào thời kỳ “già hóa dân số”.
2. Cần có các chính sách phù hợp để tận dụng lao động lớn tuổi vẫn có khả năng lao động,
góp phần tạo thêm thu nhập và làm giảm thiểu “thâm hụt” có thể có. Đồng thời, cũng cần có
các chính sách y tế và an sinh xã hội phù hợp để đáp ứng với mô hình chăm sóc sức khỏe cho
nhóm dân số cao tuổi ngày càng tăng ở Việt Nam.
3. Đào tạo nghề và hướng nghiệp cho lực lượng lao động trẻ vào ngành, nghề có tính cạnh
tranh sẽ tạo việc làm bền vững ngay cả khi hội nhập và cạnh tranh quốc tế ngày càng sâu,
rộng.

3. Thế nào là “cơ cấu dân số vàng”? Cơ cấu này có những thuận lợi, thách thức gì với
tăng trưởng kinh tế?
TL:
"Cơ cấu dân số vàng" được hiểu là khi 2 người trong độ tuổi lao động (15 - 60) phải
“gánh” 1 hoặc ít hơn 1 người ăn theo, tức là số người trong độ tuổi lao động nhiều gấp
hai lần số người phụ thuộc.
Cơ cấu dân số vàng mang lại một số thuận lợi cho tăng trưởng kinh tế:
1. Lực lao động: Tỷ lệ cao người lao động so với không lao động có thể cung cấp nhiều nhân
công cho các ngành công nghiệp và dịch vụ, góp phần vào sản xuất và phát triển kinh tế.
2. Tiêu thụ: Dân số và tuổi trẻ nhiều hơn có thể góp phần vào việc tiêu thụ hàng hóa và dịch
vụ, khuyến khích sự tiêu xài trong nền kinh tế.
3. Tiết kiệm: Với mức tiết kiệm cao hơn của các nhóm tuổi này, quốc gia có thể tích luỹ được
các khoản tiền để đầu tư vào các ngành công nghiệp và hạ tầng, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Tuy nhiên, cơ cấu dân số vàng cũng đối mặt với một số thách thức:
1. Chăm sóc người già: Với sự gia tăng tuổi thọ, quốc gia phải đảm bảo có các chính sách xã
hội và chăm sóc người già hiệu quả để đáp ứng nhu cầu của nhóm này.
2. Thiếu lao động trẻ: Khi dân số già điều chỉnh cao hơn so với dân số trẻ, có thể gây ra thiếu
hụt lao động trong một số ngành công nghiệp hoặc giảm khả năng tiếp tục tăng trưởng kinh
tế.
3. Hệ thống bảo hiểm xã hội: Với sự gia tăng người cao tuổi, áp lực lên các hệ thống bảo
hiểm xã hội có thể gia tăng do chi phí chăm sóc sức khỏe và trợ cấp cho người cao tuổi.
Tóm lại, mặc dù "cơ cấu dân số vàng" mang lại những thuận lợi cho tăng trưởng kinh tế như
lực lao động và tiêu thụ cao, nhưng nó cũng gây ra một số thách thức như chăm sóc người già
và thiếu lao động trẻ. Quan trọng là quốc gia phải có các chính sách và biện pháp phù hợp để
tận dụng lợi ích của cơ cấu dân số vàng và đối mặt với những thách thức tương ứng.

4. Thế nào là “già hóa dân số”? Dân số già hóa có những tác động tích cực và tiêu cực
thế nào đến tăng trưởng kinh tế?

Khái niệm già hóa dân số:


● Một quá trình mà tỷ lệ người trưởng thành và người già tăng lên trong cơ cấu dân số,
trong khi tỷ lệ trẻ em và vị thành niên giảm đi. Quá trình này dẫn tới tăng tuổi trung vị
của dân số.
● Già hóa xảy ra khi mức sinh giảm trong khi triển vọng sống duy trì không đổi hoặc
tăng lên ở các độ tuổi già.

Tác động tích cực của già hóa dân số đối với tăng trưởng kinh tế:
● Tăng tích lũy cho đầu tư: Dân số già thường có xu hướng tiết kiệm nhiều hơn, tạo ra
nguồn tài chính cho đầu tư phát triển.
● Tăng nhu cầu tiêu dùng: Dân số già thường có nhu cầu tiêu dùng cao, thúc đẩy phát
triển thị trường trong nước.
● Tăng kinh nghiệm và kiến thức: Dân số già thường có kinh nghiệm và kiến thức
phong phú, có thể đóng góp cho sự phát triển kinh tế, xã hội.

Tuy nhiên, già hóa dân số cũng có thể có những tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh
tế:

● Giảm lực lượng lao động: Dân số già sẽ làm giảm lực lượng lao động, gây khó khăn
cho việc phát triển sản xuất, kinh doanh.
● Tăng chi phí cho an sinh xã hội: Dân số già sẽ cần nhiều chi phí cho an sinh xã hội,
như lương hưu, chăm sóc y tế,... Điều này sẽ làm tăng chi phí của chính phủ và doanh
nghiệp, khiến cho tích lũy cho đầu tư giảm xuống
● Giảm khả năng cạnh tranh của nền kinh tế: Dân số già sẽ làm giảm khả năng cạnh
tranh của nền kinh tế, do thiếu hụt nguồn nhân lực trẻ, năng động.
Để tận dụng lợi ích và giảm thiểu tác động tiêu cực của già hóa dân số đối với tăng trưởng
kinh tế, chính phủ và các tổ chức liên quan thường cần phải thiết kế các chính sách kinh tế và
xã hội thông minh để tận dụng nguồn lực nhân sự và tài chính một cách hiệu quả.

5. Thế nào là mất cân bằng giới tính? Hãy cho biết một vài hệ lụy kinh tế-xã hội từ mất
cân bằng giới tính
- Khái niệm: Mất cân bằng giới tính xảy ra khi có sự chênh lệch giữa số lượng nam và
nữ trong cùng một độ tuổi, phạm vi nhất định.

Một số hệ lụy kinh tế-xã hội từ mất cân bằng giới tính bao gồm:

1. Thị trường lao động:


a. Mất cân bằng giới tính thường dẫn đến sự chênh lệch trong việc trả lương và
cơ hội nghề nghiệp giữa nam và nữ. Phụ nữ thường nhận được mức lương
thấp hơn và gặp khó khăn hơn trong việc tiến lên sự nghiệp so với nam giới,
điều này gây ra bất công và mất cân bằng trong thị trường lao động.
b. sự thiếu hụt trầm trọng lao động trong những ngành nghề cần nhiều lao động
nữ đòi hỏi sự khéo léo, như: dệt may, giáo viên mầm non, công nghiệp chế
biến…
2. Mất cân bằng giới tính có thể dẫn đến sự thiếu hụt phụ nữ trong các vị trí quyền lực
và quyết định. Sự thiếu thốn này không chỉ là bất công mà còn làm mất đi cơ hội cho
quyền lợi và quyết định công bằng trong xã hội. Nếu một giới tính bị hạn chế trong
việc tham gia vào nền kinh tế, đất nước sẽ không thể tận dụng được toàn bộ tiềm năng
phát triển.
3. Với chế độ hôn nhân một vợ, một chồng, do dư thừa nam giới, thì hàng triệu nam giới
sẽ phải sống độc thân. Điều này dẫn tới cấu trúc gia đình vợ - chồng, cha mẹ - con cái
bị phá vỡ. Tỷ lệ người già neo đơn, không nơi nương tựa, cần sự quan tâm chăm sóc
của cộng đồng trong tương lai cũng sẽ tăng lên.
4. Mất cân bằng giới tính khiến nam giới khó lấy vợ, gia tăng tình trạng bạo lực, tình
dục, bắt cóc trẻ em gái và buôn bán người. Tỷ lệ sinh giảm, tỷ lệ già hóa dân số tăng,
qua đó tạo gánh nặng với hệ thống an sinh xã hội.
5. Việc lựa chọn giới tính trên cơ sở định kiến giới sẽ khiến phụ nữ gặp áp lực phải sinh
bằng được con trai, dễ dẫn đến nạo phá thai hoặc sinh con nhiều lần đến khi có được
con trai. Điều này gây ảnh hưởng đến sức khỏe thể chất, tinh thần, sức khỏe sinh sản
và tình dục của phụ nữ.

Tóm lại, mất cân bằng giới tính không chỉ gây tổn thất cho cá nhân mà còn ảnh hưởng đến
toàn bộ cộng đồng và nền kinh tế-xã hội, tạo ra những hệ lụy nghiêm trọng và cản trở sự phát
triển bền vững.

CHƯƠNG/BÀI 2
1. 4 cách đo lường bất bình đẳng thu nhập: Ưu và nhược điểm
(1) Đường cong Lorenz
Đường Lorenz được vẽ trong một hình vuông mà trục hoành biểu thị phần trăm dân số có thu
nhập, còn trục tung biểu thị tỷ trọng thu nhập của các nhóm tương ứng. Đường chéo được vẽ
từ gốc tọa độ biểu thị tỷ lệ phần trăm thu nhập nhận được đúng bằng tỷ lệ phần trăm của số
người có thu nhập (mọi người có mức thu nhập giống nhau). Còn đường Lorenz biểu thị mối
quan hệ định lượng thực tế giữa tỷ lệ phần trăm của số người có thu nhập và tỷ lệ phần trăm
thu nhập mà họ nhận được. Đường cong Lorenz mô phỏng một cách dễ hiểu tương quan giữa
nhóm thu nhập cao nhất với nhóm thu nhập thấp nhất. Đường Lorenz càng xa đường chéo thì
thu nhập được phân phối càng bất bình đẳng.

-Ưu điểm: là một công cụ tiện lợi, giúp xem xét mức độ bất bình đẳng trong phân phối thu
nhập thông qua quan sát hình dạng của đường cong.
- Nhược điểm: mang tính trực quan này còn quá đơn giản, chưa lượng hóa được mức độ bất
bình đẳng và khó có thể đưa ra các kết luận chính xác trong những trường hợp phức tạp.
(2) Hệ số Gini
Hệ số Gini = A/(A+B), 0 < Gini <1
- Gini > 0,5 gọi là rất mất công bằng; từ 0,4 – 0,5: bất công bằng vừa; Gini < 0, 4: bất công
bằng chấp nhận được
-Hệ số Gini = 0 khi diện tích A = 0 => đường Lorenz và đường chéo trùng nhau, bình đẳng
tuyệt đối: mọi người có mức thu nhập giống nhau. Hệ số Gini = 1 khi diện tích B = 0
=>đường Lorenz nằm xa đường chéo nhất,bất bình đẳng tuyệt đối: một số ít người nhận được
tất cả, còn những người khác không nhận được gì.

-Ưu điểm: lượng hóa được mức độ bất bình đẳng thu nhập và do đó dễ dàng so sánh mức độ
bất bình đẳng thu nhập theo thời gian cũng như giữa các khu vực, vùng và quốc gia.

-Nhược điểm: thước đo này cũng có hạn chế bởi vì Gini có thể giống nhau khi diện tích A
như nhau nhưng sự phân bố các nhóm dân cư có thu nhập khác nhau (đường Lorenz có hình
dáng khác nhau).
(3) Hệ số Kuznets: So sánh % khoảng cách về thu nhập giữa % dân số giàu nhất và % dân số
nghèo nhất

Hệ số Kuznets =% thu nhập của X% dân số có mức thu nhập cao nhất / Y% dân số có mức
thu nhập thấp nhất.

Nếu X = Y, có thể bằng 20%, 10%, 5% thì có hệ số giãn cách thu nhập, phản ánh khoảng
cách thu nhập giữa hai đầu giàu nhất và nghèo nhất

- Ưu điểm: đơn giản, dễ tính và dễ sử dụng,


-Nhược điểm:chỉ tính thu nhập của hai nhóm giàu nhất và nghèo nhất mà không phản ánh
được toàn bộ bức tranh về phân phối thu nhập của tất cả dân cư.
(4)Tiêu chuẩn “40” (WB):
% thu nhập của 40% dân số nghèo nhất: trong tổng số thu nhập toàn bộ dân cư. Theo chỉ tiêu
này có 3 mức độ bất bình đẳng cụ thể sau: Nếu tỷ trọng này nhỏ hơn 12% là có sự bất bình
đẳng cao về thu nhập; trong khoảng 12% – 17% có sự bất bình đẳng tương đối và lớn hơn
17% là bất bình đẳng thấp.
-Các thước đo bất bình đẳng ở trên không chỉ tính theo thu nhập mà còn tính theo chi tiêu hay
sở hữu tài sản như đất đai. Bất bình đẳng có thể tính riêng cho các vùng hay các nhóm dân cư

2. Một số nguyên nhân chính của bất bình đẳng thu nhập ở Việt Nam hiện nay:
+ Trong nền kinh tế thị trường, khi còn nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, phát
triển kinh tế nhiều thành phần và sản xuất hàng hóa thì sự phân hóa giàu nghèo là một
hiện tượng khách quan và nguyên nhân trực tiếp của sự chênh lệch về thu nhập, sự phân hóa
giàu nghèo từ quan hệ phân phối thu nhập. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, để thực
hiện nguyên tắc phân phối công bằng vẫn phải thừa nhận sự tồn tại của sự bất bình đẳng
trong phân phối thu nhập và mức sống như một tất yếu kinh tế, chấp nhận sự chênh lệch
trong thu nhập do năng suất và hiệu quả lao động, chấp nhận sự phân hóa giàu nghèo trong
giới hạn, mức độ cho phép.
+Trình độ người lao động phân bổ không đều ở vị trí địa lý. Mặc dù trình độ học vấn của
người lao động đã được cải thiện đáng kể, nhưng lại có sự khác biệt đáng kể giữa các vùng.
Tỷ trọng những người chưa từng đi học trong lực lượng lao động cao nhất ở vùng trung du và
miền núi phía Bắc và Tây Nguyên. Hai vùng có mức độ phát triển cao nhất về kinh tế – xã
hội là Đông Nam bộ và đồng bằng sông Hồng cũng là nơi thu hút mạnh số người có học vấn
cao và tỷ lệ tốt nghiệp phổ thông trung học trở lên cũng đạt mức cao nhất. Về trình độ chuyên
môn kỹ thuật: tỷ trọng lực lượng đã qua đào tạo ở nước ta vẫn còn thấp, trong đó tỷ lệ lao
động đã qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật cao nhất là ở đồng bằng sông Hồng và thấp nhất là
ở đồng bằng sông Cửu Long. Tỷ trọng lực lượng lao động có trình độ đại học trở lên cũng
khác nhau đáng kể giữa các vùng. Vùng có tỷ trọng này cao nhất là Đông Nam bộ, tiếp đến là
đồng bằng sông Hồng.
+Sự phát triển của các vùng miền có sự khác biệt làm cho sự chênh lệch về thu nhập
cũng như bất bình đẳng giữa các nhóm dân cư tại các vùng miền khác nhau rõ rệt. Hệ
số GINI ở tất cả các vùng kinh tế có xu hướng giảm dần, khoảng cách bất bình đẳng ngày
càng được thu hẹp. Hai vùng kinh tế lớn của cả nước là Đồng bằng Sông Hồng và Đông Nam
Bộ là khu vực kinh tế phát triển có tốc độ phát triển cao so với các khu vực còn lại, hệ số
GINI có tốc độ giảm mạnh và thấp so với các khu vực khác. Hệ số GINI (theo thu nhập) của
Việt Nam năm 2022 là 0,375, giữ ổn định so với năm 2020 và 2021 và vẫn giữ ở mức bất
bình đẳng trung bình. Hai vùng có tỷ lệ hộ nghèo cao là Trung du miền núi phía Bắc và Tây
Nguyên vẫn là hai vùng có hệ số GINI cao nhất (tương ứng 0,408 và 0,399). ( theo Bộ LĐ-
TB&XH)
+ Điều kiện tự nhiên là một trong những nhân tố quan trọng tạo ra sự khác biệt về trình
độ phát triển kinh tế cũng như bất bình đẳng thu nhập giữa các vùng. Các vùng có trình
độ phát triển kinh tế thấp như trung du miền núi phía Bắc, Bắc Trung bộ và Duyên hải miền
Trung thường có địa hình hiểm trở, gây khó khăn cho việc phát triển kinh tế nói chung và
việc đi lại nói riêng. Do địa hình phức tạp, bị chia cắt manh mún tạo nên những tiểu vùng khí
hậu khắc nghiệt thường gây ra lũ, sạt lở núi về mùa mưa, hạn hán và thiếu nước về mùa khô
làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới sản xuất nông nghiệp. Tài nguyên thiên nhiên đang bị xuống
cấp, đất đai bị xói mòn.

3. Hãy phân tích chỉ số nghèo FGT.


● Định nghĩa: Quan niệm nghèo khổ vật chất là thu nhập hạn chế, thiếu cơ hội tạo thu
nhập, thiếu tài sản để bảo đảm tiêu dùng ở mức độ tối thiểu
● Các chỉ tiêu đo lường nghèo vật chất:
- Tỷ lệ nghèo / tỷ lệ đếm đầu
- Khoảng cách nghèo
- Độ sâu của nghèo
→ Thể hiện bằng chỉ số FGT - kí hiệu là P:

Trong đó:
Yi là chỉ số phúc lợi (thể hiện bằng thu nhập hoặc tiêu dùng) của người i;
z là chuẩn nghèo chi tiêu;
n là tổng dân số trong mẫu;
q là số người nghèo;
α được coi là hệ số thể hiện các chỉ số nghèo. Khi α = 0, chúng ta có tỷ lệ nghèo H -
đo lường tỷ lệ dân số có chi tiêu thấp hơn chuẩn nghèo. Khi α = 1 và α = 2, chúng ta
có tương ứng khoảng cách nghèo PG và độ sâu của nghèo PD.
- Có ba phiên bản chính của chỉ số FGT, ký hiệu là P(α), trong đó α là một tham số
kiểm soát. Khi giá trị α tăng lên thì những người ở dưới chuẩn nghèo sẽ có vai trò
quan trọng hơn trong chỉ số
1. P_0 ( Chỉ số đơn giản): đo lường tỷ lệ người nghèo, trong khi không quan tâm đến
mức độ nghèo- chỉ đo lường sự sâu rộng của nghèo mà không quan tâm đến mức độ
chênh lệch giữa thu nhập của người nghèo và ngưỡng nghèo.
2. P_1 (Chỉ số chênh lệch): không chỉ đo lường tỷ lệ người nghèo mà còn tính toán
khoảng cách trung bình (tính theo tiền tệ) đến chuẩn nghèo.
3. P_2 (Chỉ số bình phương): đo mức sống phân tán giữa những người nghèo, là bình
phương của khoảng cách trung bình, nhằm trao tầm quan trọng nhiều hơn cho các hộ
gia đình ở phía dưới chuẩn nghèo và làm nổi bật sự bất bình đẳng giữa những người
nghèo
● Ưu điểm: bao gồm nhiều mặt của nghèo đói, từ cơ sở vật chất đến giáo dục và sức
khỏe, có thể được sử dụng để đo lường nghèo đói ở cả cấp độ hộ gia đình và cá nhân.
● Hạn chế: dựa trên các tiêu chí khách quan, không tính đến các yếu tố chủ quan như
mức độ hài lòng của người nghèo, có thể bị ảnh hưởng bởi các yếu tố khác như phân
bố thu nhập và giá cả.

4. Nghèo đa chiều là gì? Hiện nay sự khác biệt về nghèo đa chiều ở Việt Nam giữa
các nhóm dân số (ví dụ: nam vs. nữ; dân tộc Kinh vs. dân tộc khác; thành thị vs.
nông thôn…) là do các yếu tố nào? (Gợi ý: dựa vào các báo cáo mới nhất của
Ngân hàng Thế giới, Bộ LĐ-TB&XH…)
a. Nghèo đa chiều
- Năm 1997: UNDP đưa ra khái niệm nghèo khổ tổng hợp: đó là sự phủ nhận các cơ
hội và sự lựa chọn để đảm bảo cuộc sống cơ bản nhất, điều kiện khó khăn trong phát
triển con người: cuộc sống ngắn ngủi, thiếu giáo dục cơ bản, thiếu sự tiếp cận đến các
nguồn lực tư nhân và xã hội.
- Năm 2003: Phát triển khái niệm nghèo khổ đa chiều trên khía cạnh ‘quyền cơ bản của
con người’: Quyền tự do, quyền bình đẳng, sự khoan dung.
→ Đo lường nghèo đa chiều – 3 mảng lớn với 10 chỉ tiêu:
+ Trình độ học vấn: số năm đi học, việc tham gia học
+ Sức khỏe: tỷ lệ tử vong ở trẻ em, chế độ dinh dưỡng
+ Mức sống: điện, nước uống, vệ sinh, sàn nhà, nhiên liệu nấu ăn, tài sản
→ Một người được xác định là nghèo đa chiều nếu người đó thiếu ⅓ các mảng trên.
b. Các yếu tố dẫn đến sự khác biệt về nghèo đa chiều ở Việt Nam giữa các nhóm dân số
*Ở Việt Nam, xác định nghèo đa chiều qua các chiều:

Chiều nghèo Chỉ số đo lường

1) Giáo dục 1.1 Trình độ giáo dục của người lớn

1.2 Tình trạng đi học của trẻ em

2) Y tế 2.1 Tiếp cận các dịch vụ y tế

2.2 Bảo hiểm y tế


3) Nhà ở 3.1. Chất lượng nhà ở

3.2 Diện tích nhà ở bình quân đầu người

4) Điều kiện sống 4.1 Nguồn nước sinh hoạt

4.2. Hố xí/nhà vệ sinh

5) Tiếp cận thông tin 5.1 Sử dụng dịch vụ viễn thông

5.2 Tài sản phục vụ tiếp cận thông tin

Nguồn: Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, 2015

→ Dựa trên thực trạng của Việt Nam hiện nay, ta nhận thấy sự khác biệt nghèo đa chiều ở
Việt Nam giữa các nhóm dân số với các yếu tố như sau:
1. Sự khác biệt về giới tính( Nam-Nữ): Nữ giới thường xuyên phải đối mặt với các rủi
ro nghèo đói hơn so với nam giới do các vấn đề liên quan đến các yếu tố:
● Bất bình đẳng giới: do văn hóa-phong tục chuộng con trai để nối dõi tạo ra sự
chênh lệch giới tính(tỷ số giới tính nam trên nữ) đáng kể.
● Cơ hội giáo dục: Hiện nay, đa số nền giáo dục đều bình đẳng về 2 giới nhưng
ở một số khu vực thiểu số, hay một số vùng còn kém phát triển vẫn còn nữ
giới không có cơ hội tiếp cận giáo dục do sự thiếu hụt cơ sở hạ tầng giáo dục,
như trường học và giao thông; hôn nhân và thai nghén ở tuổi trẻ có thể làm
giảm cơ hội tiếp cận giáo dục cho nữ giới, đặc biệt là ở các cộng đồng có văn
hóa giữ gìn truyền thống; một số khu vực vẫn giữ quan điểm tiêu cực về giáo
dục cho nữ giới, xem đó là một ưu tiên thấp và không cần thiết. Trong khi nam
giới thường được ưu ái hơn trong việc giáo dục.
● Tiếp cận nguồn lực: Thu Nhập và Cơ Hội Nghề Nghiệp: Nữ giới thường
được xem là phái yếu nên hay gặp khó khăn trong việc tiếp cận cơ hội nghề
nghiệp và thu nhập ổn định. Bất kỳ chênh lệch giới tính trong lĩnh vực nghề
nghiệp cũng có thể ảnh hưởng đến thu nhập của họ.
● Y tế: Đối với nữ giới đặc biệt là phụ nữ trong thời kì sinh đẻ thường gặp nhiều
vấn đề về tiếp cận y tế sinh sản. Với sự ưu thích con trai, làm dẫn đến các biện
pháp lựa chọn giới tính thai nhi tiêu cực như: nạo phá thai, thuốc bắc, lễ bái,...
làm ảnh hưởng sức khỏe sinh sản cũng như tâm lý của người phụ nữ.
2. Sự khác biệt về dân tộc( Kinh và nhóm dân tộc khác):
Dân tộc Kinh chiếm đến chiếm 86,83% dân số trên toàn quốc( theo số liệu 2019) và
thường tập trung sinh sống chủ yếu ở các khu vực các vùng đồng bằng và thành thị.
Vậy nên các yếu tố về giáo dục, y tế, điều kiện sống của người kinh thường tốt hơn,
đầy đủ hơn các dân tộc khác.
● Giáo dục: Cơ sở hạ tầng giáo dục, chất lượng giáo viên, và tài liệu giảng dạy có thể
không được đảm bảo như trong những khu vực phát triển hơn, ảnh hưởng đến chất
lượng giáo dục của các dân tộc khác ở vùng núi.
● Y tế: Cơ sở hạ tầng, khả năng tiếp cận y tế cũng như chất lượng đội ngũ nhân viên
và số lượng đội ngũ bác sĩ còn ít ỏi, thiếu thốn.
● Điều kiện sống: Có một số dân tộc còn ở khu vực tương đối khó khăn dẫn đến điều
kiện nhà ở , khả năng tiếp cận thông tin còn kém hay nguồn nước sạch sinh hoạt còn
chưa được xử lý triệt để.
3. Sự khác biệt về vùng miền( Thành thị và Nông thôn):
● Chất Lượng Giáo Dục: Hệ thống giáo dục thành thị thường phát triển và có chất
lượng cao hơn so với nông thôn. Các trường học, đại học, và cơ sở giáo dục khác
thường tập trung ở thành thị, tạo điều kiện thuận lợi cho học tập và phát triển.
● An Sinh Xã Hội và Y Tế: Cơ hội an sinh xã hội và dịch vụ y tế thường cao hơn ở
thành thị. Việc có nhiều bệnh viện, trung tâm y tế, và các dịch vụ y tế chất lượng giúp
cải thiện sức khỏe và chăm sóc y tế cho cư dân thành thị.
● Hạ Tầng và Dịch Vụ Cơ Bản: Thành thị thường có hạ tầng và các dịch vụ cơ bản (như
điện, nước sạch, giao thông) phát triển hơn, tạo điều kiện sống tốt hơn so với nông
thôn. Sự chênh lệch này ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống và cơ hội phát triển.
● Nhà ở: Khu vực thành thị thường đa dạng hơn, chất lượng về dịch vụ tốt hơn so với
nông thôn và giá cả cũng cao hơn rất nhiều so với các khu vực khác. Nhưng bên cạnh
đó còn có một số khu vực nhà ở gặp phải vấn đề đối với các khu nhà ở cho dân lao
động thu nhập thấp- nhà ở xã hội vì thành thị thu hút dân cư đông đặc biệt trong độ
tuổi sinh sản dẫn đến mật độ dân số cao và số lượng nhà ở thiếu hụt.
CHƯƠNG/BÀI 3
1. Phân tích khái quát các tác động (tích cực và tiêu cực) của di cư (trong nước và quốc
tế) tới tăng trưởng kinh tế một quốc gia
a. Khái niệm. Theo Liên Hợp Quốc (có thể bỏ qua nếu ko kịp chép)
- Di cư ra nước ngoài: Là sự di chuyển ra ngoài biên giới của một quốc gia. Người di
cư di dời từ nước này sang nước khác để lao động, học tập, cư trú, tái định cư hoặc
nhằm tránh sự trừng phạt, ép buộc hoặc cưỡng bức di cư.
- Di cư trong nước: Là sự di chuyển bên trong biên giới của một quốc gia với thời gian
lâu dài hoặc tạm thời, bao gồm 4 hình thức di cư: Nông thôn-Nông thôn; Thành
thị-Thành thị; Nông thôn-Thành thị; Thành thị-Nông thôn.
b. Tác động của di cư đến tăng trưởng kinh tế
● Tác động tích cực
Một là, di cư lao động góp phần tăng trưởng kinh tế. Đối với nơi xuất cư lao động, di
cư lao động góp phần toàn dụng lao động, tăng thu nhập cho người lao động, từ đó gia tăng
thu nhập quốc gia. Đối với nơi tiếp nhận lao động, lao động nhập cư là nguồn lực mở rộng
các ngành, lĩnh vực sản xuất, qua đó tăng trưởng kinh tế. Khi thu nhập nơi xuất cư và nhập cư
lao động tăng, kinh tế phát triển.
Hai là, di cư lao động góp phần khai thác có hiệu quả các nguồn lực của các quốc gia
vào tăng trưởng, phát triển kinh tế. Đối với nơi tiếp nhận lao động di cư, bù đắp lượng lao
động thiếu hụt và bổ sung thêm lao động để mở rộng, phát triển các ngành, lĩnh vực của nền
kinh tế. Chẳng hạn, Báo cáo của Liên hợp quốc cho biết, các phát minh, sáng chế của Mỹ
phần lớn là sản phẩm của lao động nhập cư. Các nước phát triển như Canađa, Thụy Điển,
Nhật Bản, Đức... lao động nhập cư đã góp phần quan trọng vào phát triển các ngành dịch vụ
chăm sóc sức khỏe, phát triển nông nghiệp, xây dựng và một số lĩnh vực thuộc công nghiệp
chế tạo. Đối với nơi có lao động xuất cư, nguồn vốn từ người lao động xuất cư gửi về bù đắp
lượng vốn thiếu hụt để phát triển kinh tế, làm gia tăng vốn đầu tư tư nhân.
Ba là, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hợp lý và tiến bộ. Đối với nơi
tiếp nhận lao động di cư, do thiếu hụt lực lượng lao động, các quốc gia này sẽ tập trung
nguồn lực vào phát triển các ngành, lĩnh vực có lợi thế so sánh, tạo ra giá trị gia tăng cao.
Ngoài ra, một bộ phận lao động nhập cư có tay nghề thấp được sử dụng trong các ngành sản
xuất cơ bản, dịch vụ truyền thống (chăm sóc sức khỏe, chế biến thực phẩm, vận chuyển,...).
Đối với nơi có lao động xuất cư, trong ngắn hạn do giảm được lượng lao động dư thừa, tạo
điều kiện cho các lĩnh vực đầu tư theo chiều sâu và khai thác được tiềm năng, lợi thế để phát
triển. Trong dài hạn, người lao động đi làm việc ở nước ngoài, thành thị tích lũy được tri
thức, khi trở về, sẽ tạo động lực để chuyển dịch cơ cấu kinh tế quốc gia, địa phương theo
hướng hợp lý và tiến bộ.
Bốn là, di cư lao động góp phần tăng năng suất lao động nền kinh tế. Việc tiếp nhận
lao động có tay nghề cao vào phát triển các ngành, lĩnh vực sử dụng công nghệ cao sẽ giúp
cho năng suất lao động của các quốc gia tiếp nhận lao động di cư tăng lên. Đối với các quốc
gia xuất cư, di chuyển lao động ra nước ngoài làm việc sẽ góp phần đưa nhanh các tiến bộ kỹ
thuật, công nghệ mới vào sản xuất, thúc đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, qua đó,
nâng cao năng suất lao động. Kinh nghiệm từ Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ và Ixraen cho
thấy, lao động đi làm việc ở nước ngoài, sau khi về nước mang những tri thức đã tích lũy
được áp dụng vào quá trình lao động sản xuất, nhờ đó thúc đẩy nâng cao năng suất lao
động.
● Tác động tiêu cực
Một là, di chuyển lao động có trình độ cao sang các quốc gia khác làm giảm nguồn
cung nhân lực chất lượng cao. Về lâu dài, ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế và phát triển
của các quốc gia xuất cư. Đây là tình trạng đáng lo ngại ở các nước chậm và đang phát triển,
vì có thể tác động rất lớn đối với sự phát triển bền vững cũng như làm giảm khả năng tăng
trưởng kinh tế dài hạn của các nước xuất cư.
Hai là, việc di chuyển lao động có kỹ năng cũng có thể tác động đến luồng di chuyển
vốn. Do các quốc gia có lao động xuất cư không có đủ lao động có kỹ năng nên khó thành
công trong thu hút FDI từ nước ngoài. Hơn nữa, lao động di cư có thể mang theo nguồn vốn
đầu tư ra nước ngoài. Trong khi các quốc gia xuất cư thường là các quốc gia chậm và đang
phát triển rất cần vốn để phát triển kinh tế cũng như tạo việc làm, thu nhập cho người lao
động.
Ba là, tạo sức ép về dân số, lao động, việc làm. Tình trạng thiếu việc làm, thất nghiệp
ở nhiều thành phố lớn trên thực tế đã tồn tại nay lại được bổ sung thêm do tình trạng di dân
ngoại thành vào, điều đó làm cho số người có nhu cầu giải quyết việc làm mỗi năm tăng
nhanh, gây nên sức ép về việc làm tại các thành phố ngày càng tăng.

2. Phân tích khái quát các tác động (tích cực và tiêu cực) của di cư (trong nước và quốc
tế) tới phúc lợi (thu nhập, nghèo, việc làm…) hộ gia đình.
a. Khái niệm. Theo Liên Hợp Quốc (có thể bỏ qua nếu ko kịp chép)
- Di cư ra nước ngoài: Là sự di chuyển ra ngoài biên giới của một quốc gia. Người di
cư di dời từ nước này sang nước khác để lao động, học tập, cư trú, tái định cư hoặc
nhằm tránh sự trừng phạt, ép buộc hoặc cưỡng bức di cư.
- Di cư trong nước: Là sự di chuyển bên trong biên giới của một quốc gia với thời gian
lâu dài hoặc tạm thời, bao gồm 4 hình thức di cư: Nông thôn-Nông thôn; Thành
thị-Thành thị; Nông thôn-Thành thị; Thành thị-Nông thôn.
b. Tác động của di cư tới phúc lợi hộ gia đình
● Tác động tích cực
Một là, nâng cao sự hiểu biết về các vấn đề văn hóa – xã hội – giáo dục, đời sống tinh
thần. Việc người dân di cư ngày càng nhiều lên thành phố hay xuất khẩu lao động sang các
nước đến từ nhiều mục đích khác nhau, nhưng chủ yếu là giải quyết vấn đề kinh tế vốn rất
khó khăn, thuần nông ở các vùng nông thôn. Với việc đến những nơi văn minh, kinh tế, thông
tin phát triển, trong mỗi người xa quê đều tích lũy cho mình được nhiều giá trị của cuộc sống.
Hai là, giải quyết việc làm cho lao động dư thừa ở nơi di cư, giảm tỷ lệ thất nghiệp.
Cùng với đó, tạo nguồn lao động có chất lượng khi họ trở về, bởi người di cư đi làm việc ở
nơi khác sẽ học được các kỹ năng, nâng cao tay nghề và đặc biệt là kỹ năng mềm trong mọi
lĩnh vực. Đối với nơi đến, hiện tượng di cư sẽ bù đắp được sự thiếu hụt lao động có kỹ năng
cho quá trình cơ cấu lại nền kinh tế; phát triển dịch vụ bởi lao động nhập cư chi tiêu tại nơi
đến kéo theo sự phát triển các ngành dịch vụ khác.
Ba là, xóa đói giảm nghèo cho các gia đình. Lao động di cư, ngoài khoản chi tiêu
dùng tại các thành phố, một phần thu nhập của họ sẽ được chuyển về gia đình, đây là một
trong những nguồn lực góp phần vào việc xóa đói giảm nghèo, tạo dựng cơ sở vật chất, đầu
tư vào giáo dục và chăm sóc sức khỏe cũng như các hoạt động kinh tế khác. Việc gia đình
nhận được tiền từ người di cư giúp họ có mức thu nhập cao hơn, thường có mức chi tiêu bình
quân đầu người cao hơn đáng kể. Khi số tiền gửi tăng thì tỷ lệ hộ gia đình có người di cư tự
đánh giá “nghèo” giảm đi, trong khi tỷ lệ những hộ tự cho mình là “giàu” thì tăng lên.
● Tác động tiêu cực
Đối với nơi đi, sự phân công lao động trong gia đình có nhiều thay đổi. Theo kết quả
điều tra, trong số lao động di cư có đến 70% là những người trong độ tuổi lao động và xu
hướng trẻ hóa ngày càng tăng. Hệ quả là thiếu lao động ở các vùng nông thôn vào thời điểm
mùa vụ, tạo nên sự mất cân đối cục bộ, gây khó khăn trong cấu trúc phân công lao động gia
đình. Trong một số gia đình có sự thay đổi về vai trò giới khi nam giới là người ở nhà nội trợ,
phụ nữ đi làm ăn xa kiếm tiền. Trẻ em ở nông thôn đã sớm phải tự kiểm soát chi tiêu để bảo
đảm các nhu cầu sinh hoạt hằng ngày. Cùng với đó, việc chăm sóc người già ở nơi đi cũng là
một vấn đề, do thiếu người chăm sóc lúc ốm đau, khiến người già trở nên cô đơn
Đối với nơi đến, tình trạng di cư sẽ tạo áp lực lớn lên cơ sở hạ tầng: Điện, nước, giao
thông, y tế, giáo dục và tài nguyên môi trường. Gánh nặng an sinh xã hội và phá vỡ các quy
hoạch của địa phương. Ngoài ra, tình trạng thiếu việc làm, thất nghiệp ở nhiều thành phố lớn
trên thực tế đã tồn tại nay lại được bổ sung thêm do tình trạng di dân ngoại thành vào, điều đó
làm cho số người có nhu cầu giải quyết việc làm mỗi năm tăng nhanh, gây nên sức ép về việc
làm tại các thành phố ngày càng tăng.

CHƯƠNG/BÀI 4
1. Giả định rằng bảng kết quả dưới đây mô tả so sánh giữa nhóm report “good health”
so với nhóm “bad health”. Nhìn bảng và diễn giải kết quả, nêu hàm ý chính sách
“bad health” = 0; “good health” = 1
=> So sánh 1 vs 0 (“good health” so với “bad health”)
Ngược lại: “bad health” = 1; “good health” = 0
=> So sánh 1 vs 0 (“bad health” so với “good health”)
Nam = 1; Nữ = 0
=> So sánh 1 vs 0 (Nam sẽ có xu hướng report… so với nữ)
PROBIT

srh Coefficient Std.err. z P>|z| 95% conf. interval

d_male .19 .05 3.57 0.00 .08 .29

d_6064 .22 .05 3.80 0.00 .11 .34

d_6569 .04 .07 0.61 0.54 -.10 .19


d_urban .34 .05 6.03 0.00 .23 .45

d_read .40 .05 1.08 0.00 .29 .51

d_afl_y -.94 .12 -7.23 0.00 -1.19 -.62

_cons -.98 .04 -29.71 0.00 -1.07 -.88

Ta có các biến …. đều có giá trị p-value = 0 < 5%, nên các biến này đều có ý nghĩa thống kê.
Biến d_6569 có giá trị p-value = 0.54 (54%) nên biến này không có ý nghĩa thống kê

d_male có hệ số góc dương, có ý nghĩa thống kê ở mức 1%: Nam có xác suất nói rằng sức
khỏe tốt nhiều hơn so với phụ nữ
d_6064 có hệ số góc dương, có ý nghĩa thống kê ở mức 1%: Những người ở độ tuổi 60-64 có
xác suất nói rằng sức khỏe tốt nhiều hơn so với nhóm 70+
d_6569: không có sự khác biệt so với nhóm 70+ vì không có ý nghĩa thống kê
d_urban có hệ số góc dương, có ý nghĩa thống kê ở mức 1%: Người ở khu vực đô thị có xu
hướng nói rằng sức khỏe tốt hơn so với người ở khu vực nông thôn
d_read có hệ số góc dương, có ý nghĩa thống kê ở mức 1%: Người biết đọc có xu hướng nói
rằng sức khỏe tốt hơn so với người không biết đọc
d_afl_y có hệ số góc âm, có ý nghĩa thống kê ở mức 1%: Người có khó khăn trong sinh hoạt
hằng ngày có xác suất nói rằng sức khỏe tốt thấp hơn so với người không có khó khăn

LOGISTIC

srh Odds ratio Std.err. z P>|z| 95% conf. interval

d_male 1.37 .05 3.57 0.00 1.08 .29

d_6064 1.45 .05 3.80 0.00 1.11 .34

d_6569 1.04 .07 0.61 0.54 .10 .19

d_urban 1.34 .05 6.03 0.00 1.23 .45

d_read 1.40 .05 1.08 0.00 1.29 .51

d_afl_y .17 .12 -7.23 0.00 .19 -.62

_cons -.98 .04 -29.71 0.00 -1.07 -.88

Ta có các biến …. đều có giá trị p-value = 0<5%, nên các biến này đều có ý nghĩa thống kê.
Biến d_6569 có giá trị p-value = 0.54 (54%) nên biến này không có ý nghĩa thống kê

d_male có hệ số góc lớn hơn 1, có ý nghĩa thống kê ở mức 1%: Nam giới có xu hướng nói
rằng sức khỏe tốt gấp khoảng 1.37 lần so với phụ nữ

d_6064 có hệ số góc lớn hơn 1, có ý nghĩa thống kê ở mức 1%: Người ở độ tuổi 60-64 có xu
hướng nói rằng sức khỏe tốt hơn so với người 70+ khoảng 1.45 lần.
Tương tự…
d_afl_y có hệ số góc nhỏ hơn 1, có ý nghĩa thống kê ở mức 1%: Người có khó khăn trong
sinh hoạt hằng ngày có xác suất report sức khỏe tốt chỉ bằng 0.17 lần so với người không có
khó khăn

2. HÀM Ý CHÍNH SÁCH

1. Việc làm của thanh niên và các yếu tố tác động.


Đầu tiên, thanh niên cần phát huy nỗ lực và trách nhiệm của bản thân trong học tập,
lao động và tìm kiếm việc làm. Xây dựng cho thanh niên ý chí tự vươn lên, chủ động, tự giác
học tập, nâng cao trình độ, kiến thức chuyên môn; cần cù, chịu khó, sáng tạo, rèn luyện tác
phong công nghiệp, vươn lên lập thân, lập nghiệp, làm giàu chính đáng. Thường xuyên rèn
luyện đạo đức, lối sống lành mạnh, ý thức tổ chức, kỷ luật lao động, ý thức và năng lực làm
chủ bản thân, làm chủ xã hội, sẵn sàng đảm nhận những công việc khó khăn, gian khổ. Chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 nêu rõ, một trong các đột phá chiến lược cần tập
trung là “phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung
vào việc đổi mới căn bản nền giáo dục quốc dân; gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực
với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ”. Thanh niên là lực lượng nòng cốt trong quá
trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, vì vậy cần đổi
mới nâng cao chất lượng đào tạo, xây dựng mô hình giáo dục kết hợp giữa lý thuyết và thực
hành, ứng dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ. Cụ thể, các cơ sở giáo dục, đào tạo cần liên kết
với doanh nghiệp để tạo ra cơ hội việc làm nhằm giúp người trẻ thấy được những kỹ năng cần
thiết trong công việc cũng như nâng cao trình độ chuyên môn của bản thân.
Hai là, thực hiện chính sách giải quyết việc làm cho thanh niên theo các nhóm đối
tượng:
- Đối với nhóm thanh niên tốt nghiệp các trường đại học, cao đẳng, trung cấp nghề cần
được sử dụng vào khu vực kinh tế đòi hỏi chất lượng lao động cao, có chính sách ưu
đãi, trọng dụng nhân tài. Đối với những thanh niên học hết phổ thông, không có điều
kiện học lên cao hơn, cần có chính sách hỗ trợ đào tạo nghề, phát triển ngành nghề,
sản xuất nông nghiệp hàng hóa; phát triển các khu công nghiệp thu hút nhiều lao động
không đòi hỏi cao về tay nghề, ưu tiên đưa thanh niên đi xuất khẩu lao động theo
hướng mở rộng thị trường, khuyến khích phát triển kinh tế hộ gia đình, tự tạo việc
làm trong thanh niên.
- Đối với nhóm thanh niên thất nghiệp, mất việc làm, cần thực hiện các giải pháp
khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế tư nhân, doanh nghiệp vừa và nhỏ, hộ
kinh doanh cá thể, tiểu thương để thu hút lao động, giải quyết việc làm.
- Có chính sách hỗ trợ đào tạo nghề đáp ứng nhu cầu thị trường lao động, đặc biệt là
cho thanh niên ven đô, nơi chuyển đổi mục đích sử dụng đất cho công nghiệp và đô
thị hoá. Tạo điều kiện thuận lợi cho thanh niên thất nghiệp, mất việc làm tiếp cận
được các nguồn vốn vay ưu đãi giải quyết việc làm, xoá đói, giảm nghèo để tự tạo
việc làm. Tạo môi trường thuận lợi và khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư vào
khu vực nông thôn để phát triển sản xuất, tạo việc làm mới, tăng thu nhập cho thanh
niên nông thôn cải thiện đời sống.
Ba là, thực hiện xã hội hoá công tác giải quyết việc làm cho thanh niên. Xã hội hoá
giải quyết việc làm cho thanh niên là quá trình mở rộng sự tham gia của các chủ thể, các tổ
chức chính trị - xã hội với các hình thức, phương thức đa dạng, linh hoạt nhằm huy động tối
đa nguồn lực của cộng đồng, xã hội cùng Nhà nước tạo nhiều việc làm cho thanh niên. Đồng
thời, tích cực huy động từ nhiều nguồn lực để tăng vốn Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm cho
thanh niên; đầu tư ngân sách để mở rộng mạng lưới cơ sở dạy nghề, phổ cập nghề cho thanh
niên. Có chính sách tín dụng ưu đãi cho các cơ sở dạy nghề, đặc biệt là các nghề kỹ thuật cao.
Mở rộng các hình thức tư vấn nghề, nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động các trung tâm
dịch vụ việc làm cho thanh niên. Theo báo cáo của Bộ Lao động thương binh – xã hội, hiện
nay có 88 trung tâm dịch vụ việc làm, trong đó có 25 trung tâm thuộc tổ chức chính trị - xã
hội như Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Tổng
Liên đoàn Lao động Việt Nam… 63 trung tâm dịch vụ việc làm do các địa phương quản lý.
Bốn là, tăng cường công tác tuyên truyền và xây dựng chiến lược truyền thông quốc
gia về hướng nghiệp, tạo việc làm cho thanh niên, trong đó chú trọng những thông tin về thị
trường lao động, cung cấp kịp thời những số liệu tin cậy về lao động, việc làm đến các địa
phương, cơ sở để có căn cứ xây dựng chương trình hướng nghiệp cho thanh niên, giúp họ có
điều kiện tiếp cận với thông tin chính xác và những cơ hội tìm kiếm việc làm.
2. Thất nghiệp của thanh niên và các hệ lụy về kinh tế, xã hội và sức khỏe.
Đầu tiên, hơn ai hết, người trẻ cần chủ động trang bị cho mình kiến thức cũng như
vốn ngoại ngữ, kiến thức thực tế, kiến thức xã hội, kỹ năng thực hành, kỹ năng làm việc
nhóm, phương pháp ứng xử, giao tiếp,... Do vậy cần đổi mới nâng cao chất lượng đào tạo,
xây dựng mô hình giáo dục kết hợp giữa lý thuyết và thực hành. Cụ thể, các cơ sở giáo dục,
đào tạo cần liên kết với doanh nghiệp để tạo ra cơ hội việc làm nhằm giúp người trẻ thấy
được những kỹ năng cần thiết trong công việc cũng như nâng cao trình độ chuyên môn của
bản thân.
Thứ hai, để gắn cung với cầu lao động, công tác thông tin, tuyên truyền cần được
tăng cường, tạo điều kiện cho người dân hiểu hơn về thị trường lao động và nhu cầu của thị
trường. Trong các nhà trường, việc hướng nghiệp cho học sinh nên được tiến hành từ bậc
trung học cơ sở trở lên, giúp học sinh hiểu rõ nhu cầu của thị trường, năng lực của bản thân,
từ đó chủ động lựa chọn những công việc phù hợp trong tương lai.
Thứ ba, Chính phủ cần có chính sách hoàn thiện hệ thống bảo hiểm thất nghiệp để hỗ
trợ người thất nghiệp. Có một thực tế cho thấy, bảo hiểm thất nghiệp có thể hỗ trợ đảm bảo
cuộc sống cho người lao động cũng như hỗ trợ họ tìm được việc làm và quay trở lại làm việc
sớm nhất. Bên cạnh đó, bảo hiểm thất nghiệp còn giúp giảm bớt gánh nặng cho ngân sách nhà
nước và doanh nghiệp.
Cuối cùng, các cơ quan pháp luật cần thực hiện các chính sách giải quyết việc làm cho
thanh niên theo các nhóm đối tượng. Đối với nhóm thanh niên tốt nghiệp đại học, cao đẳng,
trung cấp nghề nên sử dụng vào các ngành kinh tế có yêu cầu cao về chất lượng lao động,
chính sách ưu đãi và tuyển dụng nhân tài. Đối với những thanh niên đã học xong phổ thông,
không có điều kiện học lên cao hơn nên cần có chính sách hỗ trợ đào tạo nghề, phát triển
nghề nghiệp và sản xuất nông nghiệp.
3. Già hoá dân số và tác động của nó tới tăng trưởng kinh tế.
1. Chính phủ và cộng đồng nên chuẩn bị cả về nhận thức lẫn tài chính phù hợp để có thể đối
mặt và xử lý kịp thời những khó khăn xuất hiện. Bên cạnh xây dựng hệ thống chính sách liên
quan, chính phủ cần thiết lập một mạng lưới an sinh xã hội với sự mở rộng của dịch vụ y tế
và sự hiệu quả trong năng lực đảm nhận trọng trách chăm sóc tốt cho người cao tuổi, lưu ý tới
những người không có nguồn thu nhập ổn định. Ngoài ra, chính phủ cũng nên chú ý tạo ra
môi trường cho các công dân cao tuổi có thể tiếp cận được việc làm để họ có thể kiếm được
tiền và chi trả cho cuộc sống riêng của họ.
2. Chính phủ cần coi trọng công tác dự báo, linh hoạt áp dụng chính sách sinh con trong từng
giai đoạn, từng vùng hay theo điều kiện tài chính, hoàn cảnh gia đình, v.v... để duy trì mức
sinh thay thế và điều tiết mức sinh hợp lý trong phạm vi cả nước theo điều kiện tài chính,
hoàn cảnh gia đình, v.v..
3. Cần tăng cường truyền thông, giáo dục thay đổi hành vi, nâng cao nhận thức, tạo môi
trường xã hội đồng thuận tham gia chăm sóc sức khỏe người cao tuổi; xây dựng, phát triển
phong trào chăm sóc sức khỏe người cao tuổi. Nâng cao ý thức và hiểu biết của các nhà quản
lý, hoạch định chính sách cũng như toàn bộ cộng đồng về những thách thức của già hoá dân
số với đời sống của người cao tuổi nói riêng và toàn bộ xã hội nói chung.
4. Nên giải quyết đồng bộ các chính sách tăng trưởng, phát triển kinh tế và bảo đảm an sinh
xã hội nhằm bảo đảm và cải thiện thu nhập của người cao tuổi từ lao động và hưu trí. Các
quốc gia có thể thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế bằng việc tận dụng cơ hội dân số
vàng đang có để có được một dân số già có thu nhập cao và sức khỏe tốt trong tương lai.
5. Xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia cho các nghiên cứu toàn diện về dân số cao tuổi. Đây là
những cơ sở quan trọng cho việc xây dựng các chính sách, chương trình can thiệp thiết thực,
có trọng tâm và hiệu quả; khắc phục những hạn chế trong sự kết nối chặt chẽ cần thiết của
nghiên cứu và xây dựng; quy hoạch và thực thi chính sách dân số ở các quốc gia. Ngoài ra,
các quốc gia cần thúc đẩy các nỗ lực quốc tế trong và ngoài nước để tiến hành nghiên cứu so
sánh về già hoá nhằm đảm bảo cung cấp các số liệu và bằng chứng quan trọng.
6. Trong thời đại cách mạng 4.0 phát triển mạnh mẽ như hiện nay, các quốc gia nên ứng dụng
những thành tựu khoa học kỹ thuật đó trong việc thích ứng với già hoá dân số. Nâng cao công
cụ tự động hoá thay thế cho con người trong lao động sản xuất, sinh hoạt cá nhân và y tế.
Công nghệ tự động hoá được ứng dụng, vừa nâng cao năng suất lao động, vừa giảm được sự
ảnh hưởng đến sức khỏe người lao động trong môi trường độc hại, vừa giảm nhân công khi
xu hướng già hoá dân số gia tăng.
4. Thực trạng và các yếu tố tác động đến sự hài lòng với cuộc sống của người cao
tuổi.
Nâng cao sức khỏe của NCT trên cơ sở nâng cao kiến thức, kỹ năng tự chăm sóc sức
khỏe và tăng khả năng tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu cho NCT. Đáp ứng ngày
càng đầy đủ nhu cầu chăm sóc sức khỏe của NCT tại gia đình, cộng đồng và trong cơ sở
chăm sóc sức khỏe tập trung. Tuyên truyền, giáo dục thay đổi hành vi của người dân về
quyền, nhu cầu chăm sóc sức khỏe của NCT; các cơ quan, tổ chức, gia đình và cộng đồng
không kỳ thị và coi NCT là gánh nặng.
Xây dựng các chính sách quốc gia và địa phương tạo điều kiện cho người cao tuổi
tham gia tích cực vào cộng đồng của họ. Các chính sách này cần được điều phối trong khuôn
khổ các chính sách quốc gia về già hóa dân số nhằm kết nối các chính sách y tế, xã hội và
kinh tế và phải được cập nhật để thích ứng với các điều kiện và chính sách đang thay đổi.
Các chính sách phúc lợi xã hội nên được thiết kế để đặc biệt tập trung vào những
người cao tuổi sống một mình vì nhóm người này có mức độ hài lòng với cuộc sống thấp
hơn. Khởi xướng chương trình bảo hiểm y tế quốc gia tạo ra chương trình hoạt động xã hội
hơn trong cộng đồng địa phương có thể cải thiện sức khỏe tinh thần của người cao tuổi vì rõ
ràng là người cao tuổi tham gia các hoạt động xã hội có mức độ hài lòng với cuộc sống cao
hơn.
Nên quan tâm nhiều hơn đến người cao tuổi từ 75 tuổi trở lên, thường xuyên thăm hỏi,
tư vấn sức khỏe cho người cao tuổi, ít nhất 01 lần/quý. Cần tạo điều kiện cho người cao tuổi
hoạt động thể chất thông qua việc nâng cấp các khu vực công cộng, nhà văn hoá liên ấp, bê
tông hóa đường liên ấp. Tăng cường tầm soát các bệnh mãn tính cho người trung niên (từ 40
tuổi) để phát hiện sớm và điều trị kiểm soát để hạn chế tình trạng đa bệnh tật lúc tuổi già. Gia
đình cần dành nhiều thời gian quan tâm, chăm sóc về thể chất lẫn tinh thần cho người cao
tuổi.
5. Sự khác nhau về tuổi thọ giữa các vùng miền, tỉnh/thành phố.
Thứ nhất, vì tuổi thọ bị ảnh hưởng các điều kiện môi trường như chất lượng nước
sạch, không khí và đất, nên chính phủ phải quan tâm hơn nữa trong việc đưa ra các chính
sách bảo vệ môi trường xanh, sạch để hạn chế tối đa tác động của ô nhiễm đến sức khỏe
người cao tuổi.
Thứ hai, cần đề ra các chiến lược xóa đói giảm nghèo đối với người cao tuổi có thu
nhập thấp, đảm bảo thu nhập tối thiểu thông qua hệ thống an sinh xã hội quốc gia và đầu tư
xã hội khác.
Thứ ba, xây dựng các đề án chăm sóc sức khỏe ở tất cả các vùng. Nâng cao chất
lượng dịch vụ y tế, bảo đảm tất cả người cao tuổi được tiếp cận những y tế thiết yếu, dịch vụ
xã hội. Bên cạnh đó cũng cần tuyên truyền giáo dục, vận động thông tin để loại bỏ những
phong tục tập quán cổ hủ, siết chặt lối sống khoa học, nề nếp để nâng cao chất lượng cuộc
sống con người.
Cuối cùng là xây dựng và theo dõi sát sao cơ sở dữ liệu quốc gia cho các nghiên cứu
toàn diện về dân số nói chung và các vấn đề chênh lệch tuổi thọ giữa các vùng nói riêng. Từ
đó có những hướng đi thiết thực và kịp thời nhất.
6. Tình hình làm việc người cận cao tuổi.
Từ những yếu tố tác động đến việc làm của người cận cao tuổi đã nêu trên, có thể
khẳng định sự cần thiết phải có những hàm ý chính sách cụ thể để cải thiện chất lượng việc
làm người lao động. Matthew S.Rutledge và các cộng sự (2012) cũng đưa ra gợi ý phải tăng
chi tiêu y tế tư nhân, tăng chi tiêu công cho các chương trình y tế của chính phủ để đảm bảo
mức sống cũng như phúc lợi tối thiểu của mọi người dân, đặc biệt là những người cận cao
tuổi và cao tuổi. Chính sách đó cũng được Seungho Lee và cộng sự (2023) xem là một phần
quan trọng. Họ nhấn mạnh cần phải mở rộng dài hạn hệ thống an sinh thu nhập tuổi già để có
những cung cấp kịp thời cho người cao tuổi tham gia thị trường lao động. Tiếp theo, họ cũng
nhắc đến phải có những chính sách thay thế để kéo dài thời gian làm việc của những người
cao tuổi không được hưởng lợi từ việc kéo dài tuổi nghỉ hưu. Qua tổng quan các bài nghiên
cứu, chúng tôi cũng nhận thấy nên có những địa điểm hỗ trợ đào tạo nghề, tư vấn, giới thiệu
việc làm cho lao động lớn tuổi, những chính sách ưu tiên khi sử dụng lao động cao tuổi (vay
vốn, tham gia việc làm công)...
7. Tình hình việc làm của người cao tuổi Việt Nam và đề xuất mô hình ước lượng các
yếu tố tác động đến việc làm của người cao tuổi.
Thứ nhất, Chính phủ cần phát triển các chương trình và mở nhiều cơ hội việc làm hơn
cho người lớn tuổi. Chính phủ được coi là đóng một vai trò quan trọng trong việc biến tầm
nhìn tăng việc làm của NCT thành hiện thực. Vì nếu không có những sáng kiến và nỗ lực từ
Chính phủ thì sẽ không bao giờ thành công. Bên cạnh các chính sách của Chính phủ, cũng
cần sự tham gia của các tổ chức, người sử dụng lao động và bản thân NCT cũng cần phải
được nhấn mạnh trong việc thúc đẩy tạo việc làm cho NCT.
Thứ hai, Nhà nước cần có cơ chế, chính sách để khuyến khích người sử dụng lao
động thuê và giữ chân người lao động lớn tuổi và cung cấp hỗ trợ tài chính cho NCT có ý
định thành lập doanh nghiệp của riêng mình.
Thứ ba, hiện tại ở các tỉnh, thành phố đều đã có Trung tâm giới thiệu việc làm vì vậy,
cần sớm hình thành các phòng tư vấn việc làm riêng cho lao động cao tuổi để họ có thể tiếp
cận và nhận được sự hỗ trợ tìm việc làm. Đảm bảo môi trường làm việc thuận lợi và bình
đẳng cho NCT.
Thứ tư, trung tâm giới thiệu việc làm cung cấp các cơ hội đào tạo và đào tạo lại cho
NCT để giúp họ nâng cao tay nghề và kỹ năng mới để có thể cạnh tranh trong tìm việc làm ở
thị trường lao động mới.
Thứ năm, Bộ LĐ-TB-XH phối hợp với các cơ quan báo chí đẩy mạnh truyền thông
nâng cao nhận thức của xã hội về việc làm cho NCT, qua đó tăng cơ hội việc làm cho NCT
theo nhu cầu của thị trường.
Cuối cùng, bên cạnh những lỗ lực cải thiện tình trạng làm việc cho NCT thì Chính
phủ cũng cần tập trung vào các chính sách nhằm cải thiện phúc lợi cho NCT, nhất là nhóm
NCT yếu thế như phụ nữ và những người sống ở khu vực nông thôn.
8. Các nguyên nhân dẫn đến sự khác biệt về tỷ suất sinh (TFR) giữa các vùng/miền;
tỉnh/thành.
Các chính sách phát triển kinh tế - xã hội cần tiếp tục đẩy mạnh nhằm thúc đẩy bình
đẳng giới và tăng cường tiếp cận của phụ nữ tới giáo dục, chăm sóc sức khỏe sinh sản và tình
dục, việc làm, thu nhập. Nâng cao vị thế của phụ nữ trong gia đình và xã hội nhằm giảm tư
tưởng ưa thích con trai và lựa chọn giới tính trên cơ sở định kiến giới, góp phần giảm thiểu
tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh. Tăng cường thực hiện các chính sách về giáo dục,
sức khỏe sinh sản và sức khỏe tình dục, chăm sóc và bảo vệ trẻ em của các bà mẹ di cư…
(GSO, 2019). Cần tăng cường giáo dục cho những người có hoàn cảnh khó khăn có trình độ
thấp hơn, điều này có thể cải thiện triển vọng lâu dài của con cái họ về mặt giáo dục và thu
nhập; lợi ích của giáo dục về sử dụng biện pháp tránh thai ở cả các nước phát triển và đang
phát triển hàm ý rằng các chính sách thúc đẩy giáo dục cho phụ nữ sẽ bổ sung cho kế hoạch
hóa gia đình (J.Kim, 2016). Chính sách đầu tư vào trẻ em gái và phụ nữ trong độ tuổi sinh sản
cần tiếp tục được tập trung, bao gồm cả trang bị đầy đủ những kiến thức và kỹ năng về chăm
sóc sưc khỏe sinh sản và sức khỏe tình dục. Đẩy mạnh các chính sách tăng cường sức khỏe
sinh sản và tình dục, bình đẳng trong thu nhập và việc làm, cũng như đưa ra những lựa chọn
linh hoạt về sức khỏe sinh sản phù hợp với các nguyên tắc của Hội nghị quốc tế về dân số và
phát triển; nâng cao chất lượng nguồn thông tin thống kê mức sinh và các thông tin khác có
liên quan nhằm phục vụ cho quá trình xây dựng chính sách phù hợp (GSO, 2019).
9. Lý do và hệ lụy của mất cân bằng giới tính khi sinh.
- Cần có các chiến lược quốc gia để ngăn chặn việc lạm dụng dịch vụ siêu âm và lựa
chọn giới tính mà không cản trở việc phụ nữ tiếp cận các dịch vụ phá thai an toàn.
Cần có những can thiệp toàn diện bằng sự kết hợp giữa luật pháp, chính sách và các
chiến dịch vận động nhằm cải thiện vị thế của phụ nữ và xóa bỏ phân biệt đối xử dựa
trên giới tính.
- Cần rà soát, sửa đổi, bổ sung chính sách, pháp luật, tuyệt đối cấm mọi hình thức lựa
chọn giới tính khi sinh. Để giảm tỉ lệ mất cân bằng giới tính, phải có chính sách ưu
tiên phụ nữ, ưu tiên đối với những gia đình sinh con một bề là gái chứ không dừng lại
ở bình đẳng giới.
- Tuy nhiên, trong tất cả các giải pháp giải pháp quan trọng nhất là truyền thông, giáo
dục thay đổi hành vi của người dân. Bên cạnh đó, việc cam kết chính trị phải được đặt
lên hàng đầu bởi một ngành dân số không thể đạt được việc thành công trong việc
kiểm soát, giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh nếu không có sự vào cuộc của
cả hệ thống chính trị với sự tham mưu nòng cốt của ngành Dân số - KHHGĐ và sự
tham gia tự nguyện của người dân.
- Công bố các kết quả về tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh, và các hậu quả của
tình trạng này, tập trung vào các nhóm đối tượng mục tiêu như các tổ chức phụ nữ và
các cơ quan y tế.
- Phổ biến các phát hiện trong báo cáo này nhằm nâng cao nhận thức của người dân về
tình trạng lựa chọn giới tính trên cơ sở định kiến giới hiện nay.
- Khuyến khích học hỏi giữa các quốc gia qua việc chia sẻ bài học rút ra từ kinh
nghiệm của Việt Nam và các khoảng trống còn tồn tại trong chương trình toàn cầu
nhằm ngăn chặn tình trạng lựa chọn giới tính trên cơ sở định kiến giới.
- Rút ra bài học kinh nghiệm từ chính sách của các quốc gia khác. Củng cố hợp tác giữa
các tổ chức trong nước và các cơ quan liên quan của Chính phủ nhằm đẩy mạnh hợp
tác quốc tế tại Châu Á và các khu vực khác về nghiên cứu, xây dựng chính sách và
đối thoại về các yếu tố liên quan đến giới.
10. Sự tham gia BHXH của lao động di cư và các yếu tố tác động.
Trước tiên, cần xây dựng mức đóng chính sách an sinh xã hội phù hợp với người di
cư. Sau khi giảm tỷ lệ đóng an sinh xã hội của người lao động một cách thích hợp, người lao
động nhập cư cần được đưa vào hệ thống an sinh xã hội của người lao động để đạt được mức
đóng góp và phúc lợi thống nhất. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ, nơi tập trung nhiều lao động
nhập cư, có khả năng đóng góp thấp hơn nhiều so với các doanh nghiệp lớn. Trước khi giảm
tỷ lệ BHXH, việc đưa người lao động nhập cư vào hệ thống BHXH cho người lao động ở
thành thị rất có thể sẽ làm giảm tỷ lệ tham gia của họ. Xét thực trạng của người lao động nhập
cư, cần giảm mức đóng BHXH của người lao động nhập cư để thiết thực hơn và tăng mức độ
sẵn sàng mua bảo hiểm của họ. Gánh nặng đối với người lao động nhập cư cũng có thể được
giảm bớt bằng cách cắt giảm mức phí cơ bản và trợ cấp hoặc thậm chí miễn một số chi phí
BHXH. Bằng cách này, những người lao động nhập cư này thực sự được hưởng các quyền lợi
của BHXH, từ đó làm tăng sự sẵn sàng tham gia bảo hiểm của người lao động nhập cư và tối
đa hóa diện bao phủ BHXH.
Thứ hai, việc thiết lập chính sách BHXH toàn diện giúp tăng cường khả năng linh
hoạt của an sinh xã hội giữa các vùng. Điều này rất quan trọng đối với người lao động nhập
cư. Một hệ thống BHXH thống nhất với các tỷ lệ đóng đa cấp và chế độ BHXH phù hợp với
các nhóm đối tượng khác nhau mới thực sự hiện thực hóa được tính quốc hữu hóa và tính linh
hoạt của hệ thống BHXH.
- Tăng cường hợp tác truyền thông: BHXH các cấp cần phối hợp với các cơ quan chức
năng, cơ quan báo chí, đài phát thanh, truyền hình để phát sóng công tác thông tin,
truyền thông thật tốt để người lao động hiểu và tham gia BHXH tự nguyện, vì đối
tượng tham gia BHXH tự nguyện là điều không thể phủ nhận bảo hiểm rất đa dạng,
phần lớn họ chưa từng tham gia BHXH.
- Xây dựng chính sách BHXH tự nguyện linh hoạt và hấp dẫn: Đây là hình thức BHXH
phi thương mại nhằm hỗ trợ cộng đồng, đặc biệt là những người có thu nhập thấp khi
về già, được nhận một khoản tiền tương ứng và được Nhà nước chăm sóc y tế. Đối
với tỷ lệ bảo hiểm tai nạn lao động và bảo hiểm thất nghiệp thấp, các cơ quan chính
phủ nên tiếp tục tuyên truyền, giám sát, mặt khác đối với đặc điểm di chuyển cao và
thay đổi dịch vụ thường xuyên tùy thuộc vào việc xây dựng chiến lược tương ứng. Có
thể thiết lập các tệp thông tin điện tử cho người lao động nhập cư theo tình hình tham
gia bảo hiểm để nâng cao tính linh hoạt khi tham gia bảo hiểm và đơn giản hóa thủ tục
tham gia. Đồng thời, không ngừng hoàn thiện thiết kế hệ thống bảo hiểm thất nghiệp,
hình thành hệ thống bảo hiểm thất nghiệp có khả năng chi trả cho hầu hết người lao
động di cư trong thời gian sớm nhất.
- Tác động xã hội của BHXH tự nguyện: Trong xã hội hiện đại với sự hỗ trợ mạnh mẽ
của công nghệ thông tin, người dân càng nhận thức được vấn đề và sự cần thiết của
chính sách BHXH tự nguyện thì tốc độ tác động nhanh chóng của chúng đến người
khác là một lợi thế lớn, bởi vì người thân trong gia đình hoặc những người đã hài lòng
với BHXH tự nguyện. Họ sẽ trở thành kênh truyền thông hiệu quả tới người thân và
người dân địa phương vì rõ ràng họ biết cách truyền đạt và giải thích vấn đề một cách
hiệu quả và hiệu quả nhất. Nhân vật chủ yếu ảnh hưởng đến ý định tham gia BHXH
tự nguyện của người lao động có thể là người thân trong gia đình, bạn bè, đồng
nghiệp, giới truyền thông, v.v. Việc họ đóng góp vào BHXH tự nguyện cũng góp phần
quyết định tham gia của người lao động với những thế mạnh khác nhau tùy theo mối
quan hệ của người lao động và sự tôn trọng các nhóm có ảnh hưởng.
- Phổ biến mạnh mẽ BHXH tự nguyện cho người lao động khu vực tư nhân: Bên cạnh
việc điều chỉnh phù hợp ở cấp độ cá nhân và cấp độ hệ thống pháp luật, nên chuẩn
hóa hệ thống sử dụng lao động của doanh nghiệp, từng bước thực hiện và giám sát
việc ký kết và thực hiện hợp đồng lao động. Đồng thời, đơn vị cần hạn chế sự biến
động về việc làm, cố gắng cung cấp môi trường làm việc và chỗ làm ổn định cho
người lao động.
Cần tăng cường giáo dục, tuyên truyền cho người lao động về chính sách BHXH tự
nguyện và hướng dẫn họ về thủ tục, quyền lợi khi tham gia BHXH. Việc tăng số
người tham gia BHXH tự nguyện là rất quan trọng. Vì vậy, Cơ quan BHXH cần đào
tạo đội ngũ tuyên truyền có kỹ năng, kiến thức và chăm sóc tốt “khách hàng” để tư
vấn cho họ về các chính sách, giúp họ hiểu rõ lợi ích khi tham gia BHXH tự nguyện
sẽ đảm bảo cuộc sống cho họ sau này.
11. Sự tham gia BHXH của lao động nông thôn.
Trước hết, tăng cường hợp tác truyền thông sẽ có thể tác động đến đại đa số lao động,
cần vận động nhiều người thay đổi tư duy để quan tâm hơn đến công việc hiện tại của họ mà
không lo lắng nhiều về tương lai hay bỏ qua việc tham gia vào các hoạt động xã hội tự
nguyện để họ được hưởng lương hưu và trợ cấp cũng như được hưởng bảo hiểm y tế khi về
già.
Chính sách thứ hai là xây dựng một chính sách BHXHTN linh hoạt và hấp dẫn hơn.
Đây là hình thức BHXH phi thương mại nhằm hỗ trợ cộng đồng, đặc biệt là những người có
hoàn cảnh khó khăn, để khi về già được nhận một khoản thu nhập tương ứng và được hưởng
chế độ chăm sóc y tế của Nhà nước.
Ngoài ra, có thể tùy theo thu nhập của từng nhân viên địa phương để xây dựng mức
phí phù hợp. Từ năm 2018, mặc dù Nhà nước hỗ trợ đóng BHXH tự nguyện 30% cho hộ
nghèo, 25% đối với hộ cận nghèo và 10% đối với hộ nghèo trên mức đóng BHXH hàng tháng
so với ngưỡng nghèo của khu vực nông thôn nhưng mức hỗ trợ này vẫn còn rất thấp; thậm
chí những người thuộc hộ nghèo và cận nghèo tuyến tính, mặc dù nhận được sự hỗ trợ cao
hơn nhưng cũng không thể tham gia.
Chính sách thứ tư là giáo dục ý thức trách nhiệm của nhân viên khi nghỉ hưu đặc biệt
là những người ở độ tuổi 36-45. Họ cần được khuyến khích để có trách nhiệm với gia đình và
có thể tham gia BHXH tự nguyện với thu nhập ổn định.
Thứ năm là cần đào tạo thái độ của người tham gia BHXH tự nguyện. Hiện nay, có
thể khẳng định người lao động có nhận định rõ ràng trong việc tự chăm sóc bản thân khi già
đi, ít phụ thuộc vào con cháu như truyền thống, và để phù hợp với xu hướng đó, chọn tham
gia BHXH tự nguyện có thể có được nguồn tài chính ổn định và được hưởng chính sách bảo
hiểm y tế khi họ già đi.
12. Việc tăng tuổi hưu tới thị trường lao động, cân đối quỹ hưu trí và ngân sách Nhà
nước.
- Chương trình đào tạo và tái đào tạo liên quan đến tuổi nghỉ hưu: Chính phủ có thể đầu
tư vào chương trình đào tạo và tái đào tạo có liên quan đến tuổi nghỉ hưu để giúp
người lao động thích nghi với môi trường lao động thay đổi.
- Điều chỉnh mức trợ cấp hưu trí và thuế: Chính phủ có thể xem xét điều chỉnh mức trợ
cấp hưu trí và thuế để đảm bảo rằng hệ thống hưu trí là cân đối và công bằng.
- Chính phủ có thể khuyến khích việc đa dạng hóa quỹ hưu trí bằng cách thúc đẩy sự
lựa chọn giữa nhiều tùy chọn quản lý tiền tiết kiệm hưu trí, như quỹ đầu tư, bảo hiểm
hưu trí, và tiết kiệm cá nhân.
- Theo dõi, hỗ trợ về sức khỏe và tâm lý: Các dữ liệu thu thập cần được sử dụng để đưa
ra quyết định chính trị thông minh hơn và điều chỉnh chính sách khi cần thiết.
13. Để phát huy tác động tích cực, hạn chế tác động tiêu cực từ di cư lao động đến nền
kinh tế, các quốc gia tiếp nhận và xuất cư lao động, cần thực hiện các biện pháp dưới
đây:

Một là, hợp tác giữa các quốc gia để đơn giản hóa thủ tục, quy trình để di cư lao động.
Trên cơ sở những quy định của Tổ chức Lao động Quốc tế, căn cứ vào thị trường lao động
quốc gia tiếp nhận và quốc gia xuất cư lao động xây dựng cơ chế phù hợp của mỗi nước sao
cho thu hút cũng như toàn dụng được lực lượng lao động vào phát triển các ngành, lĩnh vực
của nền kinh tế.

Hai là, đào tạo lao động có kỹ năng nghề từ các quốc gia xuất cư lao động sao cho
phù hợp với yêu cầu sử dụng lao động từ các quốc gia tiếp nhận lao động. Qua đó, mang lại
lợi ích cho cả người sử dụng lao động và người lao động xuất cư, góp phần nâng cao năng
suất lao động và thu nhập cho người lao động di cư.

Ba là, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH ở các nước xuất
cư lao động, từ đó chuẩn bị điều kiện tốt nhất để tiếp nhận và sử dụng có hiệu quả lao động
xuất cư khi họ hết thời hạn lao động ở nước ngoài trở về tham gia vào các ngành, lĩnh vực
trong nước.

Bốn là, các quốc gia xuất cư lao động cần đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế theo
chiều sâu, tăng trưởng kinh tế dựa trên cơ sở khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo. Trên
cơ sở đó, các quốc gia này tận dụng được kỹ năng, tay nghề cũng như kỷ luật, tác phong lao
động của những lao động trở về từ nước ngoài. Các nghiên cứu cho thấy, hầu như các quốc
gia xuất cư lao động chưa tận dụng được điều này, dẫn đến lãng phí trong sử dụng nguồn lực
lao động trở về từ nước ngoài.

You might also like