Professional Documents
Culture Documents
ĐỀ CƯƠNG VẤN ĐỀ XÃ HỘI
ĐỀ CƯƠNG VẤN ĐỀ XÃ HỘI
ĐỀ CƯƠNG VẤN ĐỀ XÃ HỘI
1. Hãy trình bày sơ lược các luận điểm về mối quan hệ giữa tăng dân số và tăng trưởng
kinh tế. Với thực trạng của Việt Nam, anh/chị ủng hộ luận điểm nào và giải thích.
TL:
Cho đến nay, có ba luận điểm chủ yếu về mối quan hệ này:
- Luận điểm “bi quan” (persimistic view) – tăng dân số tác động tiêu cực
Đối với Malthus, ông cho rằng dân số tăng theo cấp số nhân, trong khi đó thì lương
thực thực phẩm chỉ tăng theo cấp số cộng. Như vậy, khoảng cách giữa cung và cầu ngày càng
lớn khi sự gia tăng dân số ngày càng tăng. Áp lực gia tăng dân số đối với nguồn cung thực
phẩm sẽ phá hủy sự hoàn hảo và đem đến sự đói nghèo trên thế giới và nếu không kiểm soát
sẽ dẫn đến nạn đói và chiến tranh. Ngày nay, người ta còn phát triển quan điểm này đến mức
quy mọi tiêu cực về kinh tế, xã hội, môi trường cho sự gia tăng dân số quá nhanh ở các nước
đang phát triển.
- Luận điểm “lạc quan” (optimistic view) – tăng dân số tác động tích cực
Boserup gợi ý rằng sự gia tăng dân số có tác động tích cực. Khi quy mô dân số tăng
lên, tài nguyên bắt đầu cạn kiệt kéo theo nhu cầu tiêu dùng tăng lên, chúng ta buộc phải "Phát
minh" ra cách để giải quyết vấn đề. Theo ý tưởng này, sự gia tăng dân số là tích cực vì nó
kích thích sự phát triển Công nghệ. Còn Simon cho rằng, khi thị trường được mở rộng sẽ thúc
đẩy sự sản xuất của cải phát triển để bù đắp vào những gì có sẵn đã bị thiếu hụt. Mặt khác, có
nhiều người sẽ làm tăng kiến thức thông qua học hỏi thêm và cạnh tranh. Sức ép của nhu cầu
sẽ thúc đẩy khoa học, kỹ thuật phát triển. Tất cả những yếu tố trên sẽ làm sản lượng bình
quân đầu người tăng lên, nghĩa là sản lượng tăng nhanh hơn dân số.
- Luận điểm “trung tính” (neutral view) – tác động còn phụ thuộc vào nhiều nhân
tố khác.
Vào đầu những năm 1990, một nhóm các nhà dân số học khác đánh giá tác động của
tăng dân số đến tăng trưởng kinh tế ở một góc độ rộng hơn và thận trọng hơn. Các chủ thể là
những đại diện cho những người theo lí thuyết dân số học trung tính với quan điểm cho rằng
tăng dân số tác động đến tăng trưởng kinh tế qua nhiều kênh khác nhau mà những kênh này
có thể lại tác động tích cực hoặc tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế.
- Với thực trạng của Việt Nam, tôi ủng hộ luận điểm thứ ba, cho rằng tăng dân số có tác
động vừa tích cực vừa tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế.
Về mặt tích cực, dân số đông của Việt Nam là nguồn lực lao động dồi dào, là động lực
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Dân số đông sẽ giúp Việt Nam có nhiều lao động trẻ, khỏe,
năng động, sáng tạo. Điều này sẽ giúp Việt Nam có lợi thế trong cạnh tranh quốc tế, thu hút
đầu tư nước ngoài, phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn.
Tuy nhiên, về mặt tiêu cực, tăng dân số quá nhanh của Việt Nam cũng gây ra nhiều áp
lực cho nền kinh tế, dẫn đến tình trạng thất nghiệp, nghèo đói, bất bình đẳng xã hội,... Dân số
tăng quá nhanh sẽ làm tăng nhu cầu về giáo dục, y tế, nhà ở,... Điều này sẽ làm tăng chi phí
của chính phủ, gây khó khăn cho việc phát triển kinh tế.
Để tận dụng được những lợi thế của dân số đông và hạn chế những tác động tiêu cực
của nó, Việt Nam cần có những chính sách phù hợp để phát triển kinh tế bền vững. Cụ thể,
Việt Nam cần tập trung vào các giải pháp sau:
● Nâng cao chất lượng dân số, giảm tỷ lệ sinh, nâng cao trình độ học vấn, tay nghề của
người dân.
● Cải thiện cơ cấu dân số, tăng tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động, giảm tỷ lệ dân số phụ
thuộc.
● Phát triển kinh tế theo hướng bền vững, chú trọng phát triển các ngành kinh tế sử
dụng nhiều lao động, ít gây ô nhiễm môi trường.
Với những giải pháp trên, Việt Nam có thể tận dụng được những lợi thế của dân số
đông để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao đời sống của người dân.
2. Hãy giải thích tác động của biến đổi cơ cấu tuổi dân số đến tăng trưởng kinh tế. Để
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thì cần có các chính sách nào?
TL:
Tác động tích cực
Trong giai đoạn dân số vàng, khi tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động chiếm tỷ lệ cao trong
tổng dân số, sẽ có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế, cụ thể như:
● Tăng lực lượng lao động: Dân số vàng sẽ tạo ra nguồn nhân lực dồi dào cho nền kinh
tế, thúc đẩy tăng trưởng sản xuất, kinh doanh.
● Tăng tích lũy cho đầu tư: Dân số vàng sẽ đóng góp nhiều hơn cho nền kinh tế, tạo ra
nguồn tài chính cho đầu tư phát triển.
● Tăng tiêu dùng: Dân số vàng sẽ có nhu cầu tiêu dùng cao, thúc đẩy phát triển thị
trường trong nước.
Tác động tiêu cực
Khi tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động giảm xuống, sẽ có tác động tiêu cực đến tăng trưởng
kinh tế, cụ thể như:
● Giảm lực lượng lao động: Dân số già sẽ làm giảm lực lượng lao động, gây khó khăn
cho việc phát triển sản xuất, kinh doanh.
● Giảm tích lũy cho đầu tư: Dân số già sẽ đóng góp ít hơn cho nền kinh tế, tạo ra nguồn
tài chính cho đầu tư phát triển.
● Giảm tiêu dùng: Dân số già sẽ có nhu cầu tiêu dùng thấp, làm giảm sức mua trong
nước.
Để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh biến đổi cơ cấu tuổi dân số, cần có các
chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế, cụ thể như:
● Chính sách phát triển nguồn nhân lực: Tăng cường giáo dục, đào tạo, nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế trong giai đoạn mới.
● Chính sách thu hút đầu tư: Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, thu hút đầu tư nước
ngoài và trong nước, tạo thêm việc làm cho người lao động.
● Chính sách hỗ trợ doanh nghiệp: Hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới công nghệ, nâng cao
năng suất, chất lượng sản phẩm, dịch vụ.
● Chính sách phát triển thị trường trong nước: Tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát
triển thị trường trong nước, thúc đẩy tiêu dùng nội địa.
Ngoài ra, cần có các chính sách hỗ trợ người cao tuổi, như:
● Chính sách bảo hiểm xã hội: Mở rộng diện bao phủ bảo hiểm xã hội, đảm bảo an sinh
xã hội cho người cao tuổi.
● Chính sách chăm sóc sức khỏe: Tăng cường chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi,
nâng cao tuổi thọ trung bình của dân số.
● Chính sách giáo dục, đào tạo: Tạo điều kiện cho người cao tuổi học tập, nâng cao kỹ
năng, kiến thức.
Việc triển khai các chính sách trên một cách đồng bộ, hiệu quả sẽ góp phần thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế bền vững trong bối cảnh biến đổi cơ cấu tuổi dân số.
Liên hệ Việt Nam: Tác động của biến đổi cơ cấu tuổi dân số đến tăng trưởng kinh tế Việt
Nam
1. “Dư lợi dân số” ở Việt Nam
Có sự khác biệt trong chi tiêu giữa các nhóm tuổi, đặc biệt chi tiêu cho y tế cho nhóm
tuổi 55-77 gấp hơn hai lần cho nhóm trẻ em (0-15 tuổi). Chi tiêu cho giáo dục tăng liên tục và
đạt cao nhất ở tuổi 22 và sau đó giảm dần cho đến tuổi 34. Chi tiêu của hộ gia đình cho y tế
và giáo dục chiếm tỷ trọng lớn, trong khi chi tiêu Chính phủ trong các lĩnh vực này vẫn còn
rất khiêm tốn dù đã tăng lên trong những năm qua. dân số trong độ tuổi 23-53 có mức thu
nhập từ lao động lớn hơn mức tiêu dùng nên họ tạo ra nguồn tiết kiệm có thể được tái đầu tư
cho nền kinh tế và từ đó kích thích tăng trưởng kinh tế.
2. Thay đổi cơ cấu tuổi dân số và cơ cấu tuổi lao động có tác động tích cực tới tăng trưởng
kinh tế: Tác động tích cực tới tốc độ tăng GDP bình quân đầu người, nhưng tác động có sự
thay đổi rõ nét cùng với xu hướng già hóa dân số.
Một số đề xuất chính sách
1. Tạo việc làm và tăng năng suất lao động cho nhóm dân số trong độ tuổi lao động, biến “cơ
hội dân số vàng” thành “dư lợi dân số”. Điều này đặc biệt quan trọng trong bối cảnh dân số
Việt Nam đã bước vào thời kỳ “già hóa dân số”.
2. Cần có các chính sách phù hợp để tận dụng lao động lớn tuổi vẫn có khả năng lao động,
góp phần tạo thêm thu nhập và làm giảm thiểu “thâm hụt” có thể có. Đồng thời, cũng cần có
các chính sách y tế và an sinh xã hội phù hợp để đáp ứng với mô hình chăm sóc sức khỏe cho
nhóm dân số cao tuổi ngày càng tăng ở Việt Nam.
3. Đào tạo nghề và hướng nghiệp cho lực lượng lao động trẻ vào ngành, nghề có tính cạnh
tranh sẽ tạo việc làm bền vững ngay cả khi hội nhập và cạnh tranh quốc tế ngày càng sâu,
rộng.
3. Thế nào là “cơ cấu dân số vàng”? Cơ cấu này có những thuận lợi, thách thức gì với
tăng trưởng kinh tế?
TL:
"Cơ cấu dân số vàng" được hiểu là khi 2 người trong độ tuổi lao động (15 - 60) phải
“gánh” 1 hoặc ít hơn 1 người ăn theo, tức là số người trong độ tuổi lao động nhiều gấp
hai lần số người phụ thuộc.
Cơ cấu dân số vàng mang lại một số thuận lợi cho tăng trưởng kinh tế:
1. Lực lao động: Tỷ lệ cao người lao động so với không lao động có thể cung cấp nhiều nhân
công cho các ngành công nghiệp và dịch vụ, góp phần vào sản xuất và phát triển kinh tế.
2. Tiêu thụ: Dân số và tuổi trẻ nhiều hơn có thể góp phần vào việc tiêu thụ hàng hóa và dịch
vụ, khuyến khích sự tiêu xài trong nền kinh tế.
3. Tiết kiệm: Với mức tiết kiệm cao hơn của các nhóm tuổi này, quốc gia có thể tích luỹ được
các khoản tiền để đầu tư vào các ngành công nghiệp và hạ tầng, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Tuy nhiên, cơ cấu dân số vàng cũng đối mặt với một số thách thức:
1. Chăm sóc người già: Với sự gia tăng tuổi thọ, quốc gia phải đảm bảo có các chính sách xã
hội và chăm sóc người già hiệu quả để đáp ứng nhu cầu của nhóm này.
2. Thiếu lao động trẻ: Khi dân số già điều chỉnh cao hơn so với dân số trẻ, có thể gây ra thiếu
hụt lao động trong một số ngành công nghiệp hoặc giảm khả năng tiếp tục tăng trưởng kinh
tế.
3. Hệ thống bảo hiểm xã hội: Với sự gia tăng người cao tuổi, áp lực lên các hệ thống bảo
hiểm xã hội có thể gia tăng do chi phí chăm sóc sức khỏe và trợ cấp cho người cao tuổi.
Tóm lại, mặc dù "cơ cấu dân số vàng" mang lại những thuận lợi cho tăng trưởng kinh tế như
lực lao động và tiêu thụ cao, nhưng nó cũng gây ra một số thách thức như chăm sóc người già
và thiếu lao động trẻ. Quan trọng là quốc gia phải có các chính sách và biện pháp phù hợp để
tận dụng lợi ích của cơ cấu dân số vàng và đối mặt với những thách thức tương ứng.
4. Thế nào là “già hóa dân số”? Dân số già hóa có những tác động tích cực và tiêu cực
thế nào đến tăng trưởng kinh tế?
Tác động tích cực của già hóa dân số đối với tăng trưởng kinh tế:
● Tăng tích lũy cho đầu tư: Dân số già thường có xu hướng tiết kiệm nhiều hơn, tạo ra
nguồn tài chính cho đầu tư phát triển.
● Tăng nhu cầu tiêu dùng: Dân số già thường có nhu cầu tiêu dùng cao, thúc đẩy phát
triển thị trường trong nước.
● Tăng kinh nghiệm và kiến thức: Dân số già thường có kinh nghiệm và kiến thức
phong phú, có thể đóng góp cho sự phát triển kinh tế, xã hội.
Tuy nhiên, già hóa dân số cũng có thể có những tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh
tế:
● Giảm lực lượng lao động: Dân số già sẽ làm giảm lực lượng lao động, gây khó khăn
cho việc phát triển sản xuất, kinh doanh.
● Tăng chi phí cho an sinh xã hội: Dân số già sẽ cần nhiều chi phí cho an sinh xã hội,
như lương hưu, chăm sóc y tế,... Điều này sẽ làm tăng chi phí của chính phủ và doanh
nghiệp, khiến cho tích lũy cho đầu tư giảm xuống
● Giảm khả năng cạnh tranh của nền kinh tế: Dân số già sẽ làm giảm khả năng cạnh
tranh của nền kinh tế, do thiếu hụt nguồn nhân lực trẻ, năng động.
Để tận dụng lợi ích và giảm thiểu tác động tiêu cực của già hóa dân số đối với tăng trưởng
kinh tế, chính phủ và các tổ chức liên quan thường cần phải thiết kế các chính sách kinh tế và
xã hội thông minh để tận dụng nguồn lực nhân sự và tài chính một cách hiệu quả.
5. Thế nào là mất cân bằng giới tính? Hãy cho biết một vài hệ lụy kinh tế-xã hội từ mất
cân bằng giới tính
- Khái niệm: Mất cân bằng giới tính xảy ra khi có sự chênh lệch giữa số lượng nam và
nữ trong cùng một độ tuổi, phạm vi nhất định.
Một số hệ lụy kinh tế-xã hội từ mất cân bằng giới tính bao gồm:
Tóm lại, mất cân bằng giới tính không chỉ gây tổn thất cho cá nhân mà còn ảnh hưởng đến
toàn bộ cộng đồng và nền kinh tế-xã hội, tạo ra những hệ lụy nghiêm trọng và cản trở sự phát
triển bền vững.
CHƯƠNG/BÀI 2
1. 4 cách đo lường bất bình đẳng thu nhập: Ưu và nhược điểm
(1) Đường cong Lorenz
Đường Lorenz được vẽ trong một hình vuông mà trục hoành biểu thị phần trăm dân số có thu
nhập, còn trục tung biểu thị tỷ trọng thu nhập của các nhóm tương ứng. Đường chéo được vẽ
từ gốc tọa độ biểu thị tỷ lệ phần trăm thu nhập nhận được đúng bằng tỷ lệ phần trăm của số
người có thu nhập (mọi người có mức thu nhập giống nhau). Còn đường Lorenz biểu thị mối
quan hệ định lượng thực tế giữa tỷ lệ phần trăm của số người có thu nhập và tỷ lệ phần trăm
thu nhập mà họ nhận được. Đường cong Lorenz mô phỏng một cách dễ hiểu tương quan giữa
nhóm thu nhập cao nhất với nhóm thu nhập thấp nhất. Đường Lorenz càng xa đường chéo thì
thu nhập được phân phối càng bất bình đẳng.
-Ưu điểm: là một công cụ tiện lợi, giúp xem xét mức độ bất bình đẳng trong phân phối thu
nhập thông qua quan sát hình dạng của đường cong.
- Nhược điểm: mang tính trực quan này còn quá đơn giản, chưa lượng hóa được mức độ bất
bình đẳng và khó có thể đưa ra các kết luận chính xác trong những trường hợp phức tạp.
(2) Hệ số Gini
Hệ số Gini = A/(A+B), 0 < Gini <1
- Gini > 0,5 gọi là rất mất công bằng; từ 0,4 – 0,5: bất công bằng vừa; Gini < 0, 4: bất công
bằng chấp nhận được
-Hệ số Gini = 0 khi diện tích A = 0 => đường Lorenz và đường chéo trùng nhau, bình đẳng
tuyệt đối: mọi người có mức thu nhập giống nhau. Hệ số Gini = 1 khi diện tích B = 0
=>đường Lorenz nằm xa đường chéo nhất,bất bình đẳng tuyệt đối: một số ít người nhận được
tất cả, còn những người khác không nhận được gì.
-Ưu điểm: lượng hóa được mức độ bất bình đẳng thu nhập và do đó dễ dàng so sánh mức độ
bất bình đẳng thu nhập theo thời gian cũng như giữa các khu vực, vùng và quốc gia.
-Nhược điểm: thước đo này cũng có hạn chế bởi vì Gini có thể giống nhau khi diện tích A
như nhau nhưng sự phân bố các nhóm dân cư có thu nhập khác nhau (đường Lorenz có hình
dáng khác nhau).
(3) Hệ số Kuznets: So sánh % khoảng cách về thu nhập giữa % dân số giàu nhất và % dân số
nghèo nhất
Hệ số Kuznets =% thu nhập của X% dân số có mức thu nhập cao nhất / Y% dân số có mức
thu nhập thấp nhất.
Nếu X = Y, có thể bằng 20%, 10%, 5% thì có hệ số giãn cách thu nhập, phản ánh khoảng
cách thu nhập giữa hai đầu giàu nhất và nghèo nhất
2. Một số nguyên nhân chính của bất bình đẳng thu nhập ở Việt Nam hiện nay:
+ Trong nền kinh tế thị trường, khi còn nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, phát
triển kinh tế nhiều thành phần và sản xuất hàng hóa thì sự phân hóa giàu nghèo là một
hiện tượng khách quan và nguyên nhân trực tiếp của sự chênh lệch về thu nhập, sự phân hóa
giàu nghèo từ quan hệ phân phối thu nhập. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, để thực
hiện nguyên tắc phân phối công bằng vẫn phải thừa nhận sự tồn tại của sự bất bình đẳng
trong phân phối thu nhập và mức sống như một tất yếu kinh tế, chấp nhận sự chênh lệch
trong thu nhập do năng suất và hiệu quả lao động, chấp nhận sự phân hóa giàu nghèo trong
giới hạn, mức độ cho phép.
+Trình độ người lao động phân bổ không đều ở vị trí địa lý. Mặc dù trình độ học vấn của
người lao động đã được cải thiện đáng kể, nhưng lại có sự khác biệt đáng kể giữa các vùng.
Tỷ trọng những người chưa từng đi học trong lực lượng lao động cao nhất ở vùng trung du và
miền núi phía Bắc và Tây Nguyên. Hai vùng có mức độ phát triển cao nhất về kinh tế – xã
hội là Đông Nam bộ và đồng bằng sông Hồng cũng là nơi thu hút mạnh số người có học vấn
cao và tỷ lệ tốt nghiệp phổ thông trung học trở lên cũng đạt mức cao nhất. Về trình độ chuyên
môn kỹ thuật: tỷ trọng lực lượng đã qua đào tạo ở nước ta vẫn còn thấp, trong đó tỷ lệ lao
động đã qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật cao nhất là ở đồng bằng sông Hồng và thấp nhất là
ở đồng bằng sông Cửu Long. Tỷ trọng lực lượng lao động có trình độ đại học trở lên cũng
khác nhau đáng kể giữa các vùng. Vùng có tỷ trọng này cao nhất là Đông Nam bộ, tiếp đến là
đồng bằng sông Hồng.
+Sự phát triển của các vùng miền có sự khác biệt làm cho sự chênh lệch về thu nhập
cũng như bất bình đẳng giữa các nhóm dân cư tại các vùng miền khác nhau rõ rệt. Hệ
số GINI ở tất cả các vùng kinh tế có xu hướng giảm dần, khoảng cách bất bình đẳng ngày
càng được thu hẹp. Hai vùng kinh tế lớn của cả nước là Đồng bằng Sông Hồng và Đông Nam
Bộ là khu vực kinh tế phát triển có tốc độ phát triển cao so với các khu vực còn lại, hệ số
GINI có tốc độ giảm mạnh và thấp so với các khu vực khác. Hệ số GINI (theo thu nhập) của
Việt Nam năm 2022 là 0,375, giữ ổn định so với năm 2020 và 2021 và vẫn giữ ở mức bất
bình đẳng trung bình. Hai vùng có tỷ lệ hộ nghèo cao là Trung du miền núi phía Bắc và Tây
Nguyên vẫn là hai vùng có hệ số GINI cao nhất (tương ứng 0,408 và 0,399). ( theo Bộ LĐ-
TB&XH)
+ Điều kiện tự nhiên là một trong những nhân tố quan trọng tạo ra sự khác biệt về trình
độ phát triển kinh tế cũng như bất bình đẳng thu nhập giữa các vùng. Các vùng có trình
độ phát triển kinh tế thấp như trung du miền núi phía Bắc, Bắc Trung bộ và Duyên hải miền
Trung thường có địa hình hiểm trở, gây khó khăn cho việc phát triển kinh tế nói chung và
việc đi lại nói riêng. Do địa hình phức tạp, bị chia cắt manh mún tạo nên những tiểu vùng khí
hậu khắc nghiệt thường gây ra lũ, sạt lở núi về mùa mưa, hạn hán và thiếu nước về mùa khô
làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới sản xuất nông nghiệp. Tài nguyên thiên nhiên đang bị xuống
cấp, đất đai bị xói mòn.
Trong đó:
Yi là chỉ số phúc lợi (thể hiện bằng thu nhập hoặc tiêu dùng) của người i;
z là chuẩn nghèo chi tiêu;
n là tổng dân số trong mẫu;
q là số người nghèo;
α được coi là hệ số thể hiện các chỉ số nghèo. Khi α = 0, chúng ta có tỷ lệ nghèo H -
đo lường tỷ lệ dân số có chi tiêu thấp hơn chuẩn nghèo. Khi α = 1 và α = 2, chúng ta
có tương ứng khoảng cách nghèo PG và độ sâu của nghèo PD.
- Có ba phiên bản chính của chỉ số FGT, ký hiệu là P(α), trong đó α là một tham số
kiểm soát. Khi giá trị α tăng lên thì những người ở dưới chuẩn nghèo sẽ có vai trò
quan trọng hơn trong chỉ số
1. P_0 ( Chỉ số đơn giản): đo lường tỷ lệ người nghèo, trong khi không quan tâm đến
mức độ nghèo- chỉ đo lường sự sâu rộng của nghèo mà không quan tâm đến mức độ
chênh lệch giữa thu nhập của người nghèo và ngưỡng nghèo.
2. P_1 (Chỉ số chênh lệch): không chỉ đo lường tỷ lệ người nghèo mà còn tính toán
khoảng cách trung bình (tính theo tiền tệ) đến chuẩn nghèo.
3. P_2 (Chỉ số bình phương): đo mức sống phân tán giữa những người nghèo, là bình
phương của khoảng cách trung bình, nhằm trao tầm quan trọng nhiều hơn cho các hộ
gia đình ở phía dưới chuẩn nghèo và làm nổi bật sự bất bình đẳng giữa những người
nghèo
● Ưu điểm: bao gồm nhiều mặt của nghèo đói, từ cơ sở vật chất đến giáo dục và sức
khỏe, có thể được sử dụng để đo lường nghèo đói ở cả cấp độ hộ gia đình và cá nhân.
● Hạn chế: dựa trên các tiêu chí khách quan, không tính đến các yếu tố chủ quan như
mức độ hài lòng của người nghèo, có thể bị ảnh hưởng bởi các yếu tố khác như phân
bố thu nhập và giá cả.
4. Nghèo đa chiều là gì? Hiện nay sự khác biệt về nghèo đa chiều ở Việt Nam giữa
các nhóm dân số (ví dụ: nam vs. nữ; dân tộc Kinh vs. dân tộc khác; thành thị vs.
nông thôn…) là do các yếu tố nào? (Gợi ý: dựa vào các báo cáo mới nhất của
Ngân hàng Thế giới, Bộ LĐ-TB&XH…)
a. Nghèo đa chiều
- Năm 1997: UNDP đưa ra khái niệm nghèo khổ tổng hợp: đó là sự phủ nhận các cơ
hội và sự lựa chọn để đảm bảo cuộc sống cơ bản nhất, điều kiện khó khăn trong phát
triển con người: cuộc sống ngắn ngủi, thiếu giáo dục cơ bản, thiếu sự tiếp cận đến các
nguồn lực tư nhân và xã hội.
- Năm 2003: Phát triển khái niệm nghèo khổ đa chiều trên khía cạnh ‘quyền cơ bản của
con người’: Quyền tự do, quyền bình đẳng, sự khoan dung.
→ Đo lường nghèo đa chiều – 3 mảng lớn với 10 chỉ tiêu:
+ Trình độ học vấn: số năm đi học, việc tham gia học
+ Sức khỏe: tỷ lệ tử vong ở trẻ em, chế độ dinh dưỡng
+ Mức sống: điện, nước uống, vệ sinh, sàn nhà, nhiên liệu nấu ăn, tài sản
→ Một người được xác định là nghèo đa chiều nếu người đó thiếu ⅓ các mảng trên.
b. Các yếu tố dẫn đến sự khác biệt về nghèo đa chiều ở Việt Nam giữa các nhóm dân số
*Ở Việt Nam, xác định nghèo đa chiều qua các chiều:
→ Dựa trên thực trạng của Việt Nam hiện nay, ta nhận thấy sự khác biệt nghèo đa chiều ở
Việt Nam giữa các nhóm dân số với các yếu tố như sau:
1. Sự khác biệt về giới tính( Nam-Nữ): Nữ giới thường xuyên phải đối mặt với các rủi
ro nghèo đói hơn so với nam giới do các vấn đề liên quan đến các yếu tố:
● Bất bình đẳng giới: do văn hóa-phong tục chuộng con trai để nối dõi tạo ra sự
chênh lệch giới tính(tỷ số giới tính nam trên nữ) đáng kể.
● Cơ hội giáo dục: Hiện nay, đa số nền giáo dục đều bình đẳng về 2 giới nhưng
ở một số khu vực thiểu số, hay một số vùng còn kém phát triển vẫn còn nữ
giới không có cơ hội tiếp cận giáo dục do sự thiếu hụt cơ sở hạ tầng giáo dục,
như trường học và giao thông; hôn nhân và thai nghén ở tuổi trẻ có thể làm
giảm cơ hội tiếp cận giáo dục cho nữ giới, đặc biệt là ở các cộng đồng có văn
hóa giữ gìn truyền thống; một số khu vực vẫn giữ quan điểm tiêu cực về giáo
dục cho nữ giới, xem đó là một ưu tiên thấp và không cần thiết. Trong khi nam
giới thường được ưu ái hơn trong việc giáo dục.
● Tiếp cận nguồn lực: Thu Nhập và Cơ Hội Nghề Nghiệp: Nữ giới thường
được xem là phái yếu nên hay gặp khó khăn trong việc tiếp cận cơ hội nghề
nghiệp và thu nhập ổn định. Bất kỳ chênh lệch giới tính trong lĩnh vực nghề
nghiệp cũng có thể ảnh hưởng đến thu nhập của họ.
● Y tế: Đối với nữ giới đặc biệt là phụ nữ trong thời kì sinh đẻ thường gặp nhiều
vấn đề về tiếp cận y tế sinh sản. Với sự ưu thích con trai, làm dẫn đến các biện
pháp lựa chọn giới tính thai nhi tiêu cực như: nạo phá thai, thuốc bắc, lễ bái,...
làm ảnh hưởng sức khỏe sinh sản cũng như tâm lý của người phụ nữ.
2. Sự khác biệt về dân tộc( Kinh và nhóm dân tộc khác):
Dân tộc Kinh chiếm đến chiếm 86,83% dân số trên toàn quốc( theo số liệu 2019) và
thường tập trung sinh sống chủ yếu ở các khu vực các vùng đồng bằng và thành thị.
Vậy nên các yếu tố về giáo dục, y tế, điều kiện sống của người kinh thường tốt hơn,
đầy đủ hơn các dân tộc khác.
● Giáo dục: Cơ sở hạ tầng giáo dục, chất lượng giáo viên, và tài liệu giảng dạy có thể
không được đảm bảo như trong những khu vực phát triển hơn, ảnh hưởng đến chất
lượng giáo dục của các dân tộc khác ở vùng núi.
● Y tế: Cơ sở hạ tầng, khả năng tiếp cận y tế cũng như chất lượng đội ngũ nhân viên
và số lượng đội ngũ bác sĩ còn ít ỏi, thiếu thốn.
● Điều kiện sống: Có một số dân tộc còn ở khu vực tương đối khó khăn dẫn đến điều
kiện nhà ở , khả năng tiếp cận thông tin còn kém hay nguồn nước sạch sinh hoạt còn
chưa được xử lý triệt để.
3. Sự khác biệt về vùng miền( Thành thị và Nông thôn):
● Chất Lượng Giáo Dục: Hệ thống giáo dục thành thị thường phát triển và có chất
lượng cao hơn so với nông thôn. Các trường học, đại học, và cơ sở giáo dục khác
thường tập trung ở thành thị, tạo điều kiện thuận lợi cho học tập và phát triển.
● An Sinh Xã Hội và Y Tế: Cơ hội an sinh xã hội và dịch vụ y tế thường cao hơn ở
thành thị. Việc có nhiều bệnh viện, trung tâm y tế, và các dịch vụ y tế chất lượng giúp
cải thiện sức khỏe và chăm sóc y tế cho cư dân thành thị.
● Hạ Tầng và Dịch Vụ Cơ Bản: Thành thị thường có hạ tầng và các dịch vụ cơ bản (như
điện, nước sạch, giao thông) phát triển hơn, tạo điều kiện sống tốt hơn so với nông
thôn. Sự chênh lệch này ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống và cơ hội phát triển.
● Nhà ở: Khu vực thành thị thường đa dạng hơn, chất lượng về dịch vụ tốt hơn so với
nông thôn và giá cả cũng cao hơn rất nhiều so với các khu vực khác. Nhưng bên cạnh
đó còn có một số khu vực nhà ở gặp phải vấn đề đối với các khu nhà ở cho dân lao
động thu nhập thấp- nhà ở xã hội vì thành thị thu hút dân cư đông đặc biệt trong độ
tuổi sinh sản dẫn đến mật độ dân số cao và số lượng nhà ở thiếu hụt.
CHƯƠNG/BÀI 3
1. Phân tích khái quát các tác động (tích cực và tiêu cực) của di cư (trong nước và quốc
tế) tới tăng trưởng kinh tế một quốc gia
a. Khái niệm. Theo Liên Hợp Quốc (có thể bỏ qua nếu ko kịp chép)
- Di cư ra nước ngoài: Là sự di chuyển ra ngoài biên giới của một quốc gia. Người di
cư di dời từ nước này sang nước khác để lao động, học tập, cư trú, tái định cư hoặc
nhằm tránh sự trừng phạt, ép buộc hoặc cưỡng bức di cư.
- Di cư trong nước: Là sự di chuyển bên trong biên giới của một quốc gia với thời gian
lâu dài hoặc tạm thời, bao gồm 4 hình thức di cư: Nông thôn-Nông thôn; Thành
thị-Thành thị; Nông thôn-Thành thị; Thành thị-Nông thôn.
b. Tác động của di cư đến tăng trưởng kinh tế
● Tác động tích cực
Một là, di cư lao động góp phần tăng trưởng kinh tế. Đối với nơi xuất cư lao động, di
cư lao động góp phần toàn dụng lao động, tăng thu nhập cho người lao động, từ đó gia tăng
thu nhập quốc gia. Đối với nơi tiếp nhận lao động, lao động nhập cư là nguồn lực mở rộng
các ngành, lĩnh vực sản xuất, qua đó tăng trưởng kinh tế. Khi thu nhập nơi xuất cư và nhập cư
lao động tăng, kinh tế phát triển.
Hai là, di cư lao động góp phần khai thác có hiệu quả các nguồn lực của các quốc gia
vào tăng trưởng, phát triển kinh tế. Đối với nơi tiếp nhận lao động di cư, bù đắp lượng lao
động thiếu hụt và bổ sung thêm lao động để mở rộng, phát triển các ngành, lĩnh vực của nền
kinh tế. Chẳng hạn, Báo cáo của Liên hợp quốc cho biết, các phát minh, sáng chế của Mỹ
phần lớn là sản phẩm của lao động nhập cư. Các nước phát triển như Canađa, Thụy Điển,
Nhật Bản, Đức... lao động nhập cư đã góp phần quan trọng vào phát triển các ngành dịch vụ
chăm sóc sức khỏe, phát triển nông nghiệp, xây dựng và một số lĩnh vực thuộc công nghiệp
chế tạo. Đối với nơi có lao động xuất cư, nguồn vốn từ người lao động xuất cư gửi về bù đắp
lượng vốn thiếu hụt để phát triển kinh tế, làm gia tăng vốn đầu tư tư nhân.
Ba là, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hợp lý và tiến bộ. Đối với nơi
tiếp nhận lao động di cư, do thiếu hụt lực lượng lao động, các quốc gia này sẽ tập trung
nguồn lực vào phát triển các ngành, lĩnh vực có lợi thế so sánh, tạo ra giá trị gia tăng cao.
Ngoài ra, một bộ phận lao động nhập cư có tay nghề thấp được sử dụng trong các ngành sản
xuất cơ bản, dịch vụ truyền thống (chăm sóc sức khỏe, chế biến thực phẩm, vận chuyển,...).
Đối với nơi có lao động xuất cư, trong ngắn hạn do giảm được lượng lao động dư thừa, tạo
điều kiện cho các lĩnh vực đầu tư theo chiều sâu và khai thác được tiềm năng, lợi thế để phát
triển. Trong dài hạn, người lao động đi làm việc ở nước ngoài, thành thị tích lũy được tri
thức, khi trở về, sẽ tạo động lực để chuyển dịch cơ cấu kinh tế quốc gia, địa phương theo
hướng hợp lý và tiến bộ.
Bốn là, di cư lao động góp phần tăng năng suất lao động nền kinh tế. Việc tiếp nhận
lao động có tay nghề cao vào phát triển các ngành, lĩnh vực sử dụng công nghệ cao sẽ giúp
cho năng suất lao động của các quốc gia tiếp nhận lao động di cư tăng lên. Đối với các quốc
gia xuất cư, di chuyển lao động ra nước ngoài làm việc sẽ góp phần đưa nhanh các tiến bộ kỹ
thuật, công nghệ mới vào sản xuất, thúc đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, qua đó,
nâng cao năng suất lao động. Kinh nghiệm từ Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ và Ixraen cho
thấy, lao động đi làm việc ở nước ngoài, sau khi về nước mang những tri thức đã tích lũy
được áp dụng vào quá trình lao động sản xuất, nhờ đó thúc đẩy nâng cao năng suất lao
động.
● Tác động tiêu cực
Một là, di chuyển lao động có trình độ cao sang các quốc gia khác làm giảm nguồn
cung nhân lực chất lượng cao. Về lâu dài, ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế và phát triển
của các quốc gia xuất cư. Đây là tình trạng đáng lo ngại ở các nước chậm và đang phát triển,
vì có thể tác động rất lớn đối với sự phát triển bền vững cũng như làm giảm khả năng tăng
trưởng kinh tế dài hạn của các nước xuất cư.
Hai là, việc di chuyển lao động có kỹ năng cũng có thể tác động đến luồng di chuyển
vốn. Do các quốc gia có lao động xuất cư không có đủ lao động có kỹ năng nên khó thành
công trong thu hút FDI từ nước ngoài. Hơn nữa, lao động di cư có thể mang theo nguồn vốn
đầu tư ra nước ngoài. Trong khi các quốc gia xuất cư thường là các quốc gia chậm và đang
phát triển rất cần vốn để phát triển kinh tế cũng như tạo việc làm, thu nhập cho người lao
động.
Ba là, tạo sức ép về dân số, lao động, việc làm. Tình trạng thiếu việc làm, thất nghiệp
ở nhiều thành phố lớn trên thực tế đã tồn tại nay lại được bổ sung thêm do tình trạng di dân
ngoại thành vào, điều đó làm cho số người có nhu cầu giải quyết việc làm mỗi năm tăng
nhanh, gây nên sức ép về việc làm tại các thành phố ngày càng tăng.
2. Phân tích khái quát các tác động (tích cực và tiêu cực) của di cư (trong nước và quốc
tế) tới phúc lợi (thu nhập, nghèo, việc làm…) hộ gia đình.
a. Khái niệm. Theo Liên Hợp Quốc (có thể bỏ qua nếu ko kịp chép)
- Di cư ra nước ngoài: Là sự di chuyển ra ngoài biên giới của một quốc gia. Người di
cư di dời từ nước này sang nước khác để lao động, học tập, cư trú, tái định cư hoặc
nhằm tránh sự trừng phạt, ép buộc hoặc cưỡng bức di cư.
- Di cư trong nước: Là sự di chuyển bên trong biên giới của một quốc gia với thời gian
lâu dài hoặc tạm thời, bao gồm 4 hình thức di cư: Nông thôn-Nông thôn; Thành
thị-Thành thị; Nông thôn-Thành thị; Thành thị-Nông thôn.
b. Tác động của di cư tới phúc lợi hộ gia đình
● Tác động tích cực
Một là, nâng cao sự hiểu biết về các vấn đề văn hóa – xã hội – giáo dục, đời sống tinh
thần. Việc người dân di cư ngày càng nhiều lên thành phố hay xuất khẩu lao động sang các
nước đến từ nhiều mục đích khác nhau, nhưng chủ yếu là giải quyết vấn đề kinh tế vốn rất
khó khăn, thuần nông ở các vùng nông thôn. Với việc đến những nơi văn minh, kinh tế, thông
tin phát triển, trong mỗi người xa quê đều tích lũy cho mình được nhiều giá trị của cuộc sống.
Hai là, giải quyết việc làm cho lao động dư thừa ở nơi di cư, giảm tỷ lệ thất nghiệp.
Cùng với đó, tạo nguồn lao động có chất lượng khi họ trở về, bởi người di cư đi làm việc ở
nơi khác sẽ học được các kỹ năng, nâng cao tay nghề và đặc biệt là kỹ năng mềm trong mọi
lĩnh vực. Đối với nơi đến, hiện tượng di cư sẽ bù đắp được sự thiếu hụt lao động có kỹ năng
cho quá trình cơ cấu lại nền kinh tế; phát triển dịch vụ bởi lao động nhập cư chi tiêu tại nơi
đến kéo theo sự phát triển các ngành dịch vụ khác.
Ba là, xóa đói giảm nghèo cho các gia đình. Lao động di cư, ngoài khoản chi tiêu
dùng tại các thành phố, một phần thu nhập của họ sẽ được chuyển về gia đình, đây là một
trong những nguồn lực góp phần vào việc xóa đói giảm nghèo, tạo dựng cơ sở vật chất, đầu
tư vào giáo dục và chăm sóc sức khỏe cũng như các hoạt động kinh tế khác. Việc gia đình
nhận được tiền từ người di cư giúp họ có mức thu nhập cao hơn, thường có mức chi tiêu bình
quân đầu người cao hơn đáng kể. Khi số tiền gửi tăng thì tỷ lệ hộ gia đình có người di cư tự
đánh giá “nghèo” giảm đi, trong khi tỷ lệ những hộ tự cho mình là “giàu” thì tăng lên.
● Tác động tiêu cực
Đối với nơi đi, sự phân công lao động trong gia đình có nhiều thay đổi. Theo kết quả
điều tra, trong số lao động di cư có đến 70% là những người trong độ tuổi lao động và xu
hướng trẻ hóa ngày càng tăng. Hệ quả là thiếu lao động ở các vùng nông thôn vào thời điểm
mùa vụ, tạo nên sự mất cân đối cục bộ, gây khó khăn trong cấu trúc phân công lao động gia
đình. Trong một số gia đình có sự thay đổi về vai trò giới khi nam giới là người ở nhà nội trợ,
phụ nữ đi làm ăn xa kiếm tiền. Trẻ em ở nông thôn đã sớm phải tự kiểm soát chi tiêu để bảo
đảm các nhu cầu sinh hoạt hằng ngày. Cùng với đó, việc chăm sóc người già ở nơi đi cũng là
một vấn đề, do thiếu người chăm sóc lúc ốm đau, khiến người già trở nên cô đơn
Đối với nơi đến, tình trạng di cư sẽ tạo áp lực lớn lên cơ sở hạ tầng: Điện, nước, giao
thông, y tế, giáo dục và tài nguyên môi trường. Gánh nặng an sinh xã hội và phá vỡ các quy
hoạch của địa phương. Ngoài ra, tình trạng thiếu việc làm, thất nghiệp ở nhiều thành phố lớn
trên thực tế đã tồn tại nay lại được bổ sung thêm do tình trạng di dân ngoại thành vào, điều đó
làm cho số người có nhu cầu giải quyết việc làm mỗi năm tăng nhanh, gây nên sức ép về việc
làm tại các thành phố ngày càng tăng.
CHƯƠNG/BÀI 4
1. Giả định rằng bảng kết quả dưới đây mô tả so sánh giữa nhóm report “good health”
so với nhóm “bad health”. Nhìn bảng và diễn giải kết quả, nêu hàm ý chính sách
“bad health” = 0; “good health” = 1
=> So sánh 1 vs 0 (“good health” so với “bad health”)
Ngược lại: “bad health” = 1; “good health” = 0
=> So sánh 1 vs 0 (“bad health” so với “good health”)
Nam = 1; Nữ = 0
=> So sánh 1 vs 0 (Nam sẽ có xu hướng report… so với nữ)
PROBIT
Ta có các biến …. đều có giá trị p-value = 0 < 5%, nên các biến này đều có ý nghĩa thống kê.
Biến d_6569 có giá trị p-value = 0.54 (54%) nên biến này không có ý nghĩa thống kê
d_male có hệ số góc dương, có ý nghĩa thống kê ở mức 1%: Nam có xác suất nói rằng sức
khỏe tốt nhiều hơn so với phụ nữ
d_6064 có hệ số góc dương, có ý nghĩa thống kê ở mức 1%: Những người ở độ tuổi 60-64 có
xác suất nói rằng sức khỏe tốt nhiều hơn so với nhóm 70+
d_6569: không có sự khác biệt so với nhóm 70+ vì không có ý nghĩa thống kê
d_urban có hệ số góc dương, có ý nghĩa thống kê ở mức 1%: Người ở khu vực đô thị có xu
hướng nói rằng sức khỏe tốt hơn so với người ở khu vực nông thôn
d_read có hệ số góc dương, có ý nghĩa thống kê ở mức 1%: Người biết đọc có xu hướng nói
rằng sức khỏe tốt hơn so với người không biết đọc
d_afl_y có hệ số góc âm, có ý nghĩa thống kê ở mức 1%: Người có khó khăn trong sinh hoạt
hằng ngày có xác suất nói rằng sức khỏe tốt thấp hơn so với người không có khó khăn
LOGISTIC
Ta có các biến …. đều có giá trị p-value = 0<5%, nên các biến này đều có ý nghĩa thống kê.
Biến d_6569 có giá trị p-value = 0.54 (54%) nên biến này không có ý nghĩa thống kê
d_male có hệ số góc lớn hơn 1, có ý nghĩa thống kê ở mức 1%: Nam giới có xu hướng nói
rằng sức khỏe tốt gấp khoảng 1.37 lần so với phụ nữ
d_6064 có hệ số góc lớn hơn 1, có ý nghĩa thống kê ở mức 1%: Người ở độ tuổi 60-64 có xu
hướng nói rằng sức khỏe tốt hơn so với người 70+ khoảng 1.45 lần.
Tương tự…
d_afl_y có hệ số góc nhỏ hơn 1, có ý nghĩa thống kê ở mức 1%: Người có khó khăn trong
sinh hoạt hằng ngày có xác suất report sức khỏe tốt chỉ bằng 0.17 lần so với người không có
khó khăn
Một là, hợp tác giữa các quốc gia để đơn giản hóa thủ tục, quy trình để di cư lao động.
Trên cơ sở những quy định của Tổ chức Lao động Quốc tế, căn cứ vào thị trường lao động
quốc gia tiếp nhận và quốc gia xuất cư lao động xây dựng cơ chế phù hợp của mỗi nước sao
cho thu hút cũng như toàn dụng được lực lượng lao động vào phát triển các ngành, lĩnh vực
của nền kinh tế.
Hai là, đào tạo lao động có kỹ năng nghề từ các quốc gia xuất cư lao động sao cho
phù hợp với yêu cầu sử dụng lao động từ các quốc gia tiếp nhận lao động. Qua đó, mang lại
lợi ích cho cả người sử dụng lao động và người lao động xuất cư, góp phần nâng cao năng
suất lao động và thu nhập cho người lao động di cư.
Ba là, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH ở các nước xuất
cư lao động, từ đó chuẩn bị điều kiện tốt nhất để tiếp nhận và sử dụng có hiệu quả lao động
xuất cư khi họ hết thời hạn lao động ở nước ngoài trở về tham gia vào các ngành, lĩnh vực
trong nước.
Bốn là, các quốc gia xuất cư lao động cần đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế theo
chiều sâu, tăng trưởng kinh tế dựa trên cơ sở khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo. Trên
cơ sở đó, các quốc gia này tận dụng được kỹ năng, tay nghề cũng như kỷ luật, tác phong lao
động của những lao động trở về từ nước ngoài. Các nghiên cứu cho thấy, hầu như các quốc
gia xuất cư lao động chưa tận dụng được điều này, dẫn đến lãng phí trong sử dụng nguồn lực
lao động trở về từ nước ngoài.