Professional Documents
Culture Documents
Quẻ 5 Thủy Thiên Nhu
Quẻ 5 Thủy Thiên Nhu
Quẻ Thủy Thiên Nhu, còn gọi là quẻ Nhu (需 xu1).
Contents
1. Giải nghĩa:.........................................................................................................2
2. Hào từ:...............................................................................................................3
QUẺ SỐ 5 - QUẺ KINH DỊCH CHO GIEO QUẺ...............................................5
QUẺ SỐ 5 - KINH DỊCH - NGÔ TẤT TỐ..........................................................6
QUẺ SỐ 5 - QUỐC VĂN CHU DỊCH - PHAN BỘI CHÂU.............................12
QUẺ SỐ 5 - KINH DỊCH DIỄN GIẢNG - KIỀU XUÂN DŨNG.....................19
QUẺ SỐ 5 - KINH DỊCH DIỄN GIẢI................................................................20
QUẺ SỐ 5 - BỐC PHỆ CHÁNH TÔNG............................................................21
QUẺ SỐ 5 - KINH DỊCH - DỊCH TỰ BẢN NGHĨA.........................................22
QUẺ SỐ 5 - KINH DỊCH - NGU YÊN NGUYỄN ĐẠI BẰNG........................23
QUẺ SỐ 5 - BÍ ẨN QUẺ DỊCH..........................................................................24
1. Giải nghĩa:
Giải nghĩa: Thuận dã. Tương hội. Chờ đợi vì hiểm đằng trước, thuận theo, quây
quần, tụ hội, vui hội, cứu xét, chầu về. Quân tử hoan hội chi tượng: quân tử vui
vẻ hội họp, ăn uống chờ thời.
Quẻ trên là Mông, nhỏ thơ; nhỏ thơ thì cần được nuôi bằng thức ăn, cho nên quẻ
này là Nhu. Chữ Nhu này [ 需 ] là chữ nhu trong “nhu yếu phẩm”, những thứ
cần thiết, tức thức ăn. Tự quái truyện giảng như vậy.
Nhưng Thoán Từ thì lại giải thích khác: Nhu đây còn có nghĩa nữa là chờ đợi,
và theo cái tượng của quẻ thì phải hiểu là chờ đợi.
***
Thoán từ:
需: 有 孚, 光 亨, 貞, 吉 . 利 涉 大 川 .
Nhu: Hữu phu, quang hanh, trinh, cát. Lợi thiệp đại xuyên.
Dịch: Chờ đợi: có lòng thành thực tin tưởng, sáng sủa, hanh thông, giữ vững
điều chính thì tốt. “Dù gặp việc hiểm như qua sông cũng sẽ thành công.
Giảng: Nội quái là Càn, cương kiện, muốn tiến lên nhưng gặp ngoại quái là
Khảm (hiểm) chặn ở trên, nên phải chờ đợi.
Hào làm chủ trong quẻ này là hào 5 dương, ở vị chí tôn (ở quẻ này nên hiểu là
ngôi của trời – theo Thoán truyện) mà lại trung, chính; cho nên có cái tượng
thành thực, tin tưởng, sáng sủa, hanh thông; miễn là chịu chờ đợi thì việc hiểm
gì cũng vượt được mà thành công.
Đại tượng truyện giải thích cũng đại khái như vậy: dưới là Càn, trời, trên là
Khảm, mây (Khảm còn có nghĩa là mây); có cái tượng mây đã bao kín bầu trời,
thế nào cũng mưa; cứ “ăn uống yến lạc” (ẩm thực yến lạc) yên vui di dưỡng thể
xác và tâm chí mà đợi lúc mưa đổ.
2. Hào từ:
1. 初 九: 需 于 郊, 利 用 恆 , 无 咎 .
Dịch: Hào 1 là dương, cương kiện, sáng suốt mà ở xa ngoại quái là Khảm, tức
xa nước, xa chỗ hiểm (cũng như còn ở ngòai thành, không gần sông nước), đừng
nóng nảy xông vào chỗ hiểm nạn, cứ chịu chờ đợi thì không có lỗi. Chu Công
khuyên như vậy vì hào dương này không đắc trung mà có ý muốn tiến.
2. 九 二: 需 于 沙 , 小 有 言 , 終 吉 .
Dịch: Hào 2, dương: Đợi ở bãi cát, tuy có khẩu thiệt một chút, nhưng sau sẽ tốt.
Giảng: Hào này đã gần quẻ Khảm hơn, ví như đã tới bãi cát ở gần sông, chưa tới
nỗi sụp hiểm; mà hào lại đắc trung, cho nên tuy là dương cương mà biết khôn
khéo, ung dung, không nóng nảy như hào 1, cho nên dù có điều tiếng nho nhỏ,
rốt cuộc cũng vẫn tốt.
3. 九 三 : 需 于 泥 . 致 寇 至.
Dịch: Hào 3, dương : đợi ở chỗ bùn lầy, như tự mình vời giặc đến.
Giảng: Hào này đã ở sát quẻ Khảm, tuy chưa sụp xuống nước, nhưng đã ở chỗ
bùn lầy rồi; thể của nó là dương cương, vị của nó cũng là dương, mà lại không
đắc trung, có cái “tượng rất táo bạo nóng nảy, làm càn, tức như tự nó vời giặc
đến, tự gây tai họa cho nó. Nếu nó biết kính cẩn, thận trọng thì chưa đến nỗi
nào, vì tai họa vẫn còn ở ngoài (ở ngoại quái) (theo tiểu tượng truyện).
4. 六 四 : 需 于 血, 出 自 穴 .
Dịch: Hào 4, âm: như đã chờ đợi ở chỗ lưu huyết mà rồi ra khỏi được.
Giảng: hào này đã bắt đầu vào quẻ Khảm, tức chỗ hiểm (như vào chỗ giết hại),
nhưng nhờ nó là âm, nhu thuận lại đắc chính (ở vị âm) , nên tránh được họa.
5. 九 五 : 需 于 酒 食, 貞 吉 .
Cửu ngũ: Nhu vu tửu thực, trinh cát.
Dịch: Hào 5, dương: Chờ đợi ở chỗ ăn uống no say (chỗ yên vui), bền giữ đức
trung chính thì tốt.
Giảng: Hào 5, địa vị tôn quí, mà là dương cương trung chính, cho nên tốt, nhưng
muốn hạnh phúc được bền thì phải giữ đức trung chính.
6. 上 六:. 入 于 穴 , 有 不 速 之 客 三 人 來 , 敬 之 , 終 吉 .
Thượng lục: Nhập vu huyệt, hữu bất tốc chi khách tam nhân lai, kính chi, chung
cát.
Dịch: Hào trên cùng, âm: Vào chỗ cực hiểm rồi, nhưng có ba người khách thủng
thẳng tới, biết kính trọng họ thì sau đựơc tốt lành.
Giảng: Hào này ở trên cùng ngọai quái là Khảm, cho nên bảo là chỗ cực hiểm.
Nó có hào 3 ở dưới ứng với nó, hào 3 là dương , kéo theo cả hào 1 và 2 cũng là
dương, cho nên nói là có 3 người khách sẽ tới; họ không tới ngay được vì họ ở
xa hào 6, cho nên nói là họ thủng thẳng sẽ tới.
Hào 6 âm, có đức Khiêm, nhu thuận, biết trong và nghe theo ba vị khách đó, cho
nên cuối cùng sẽ được họ cứu ra khỏi chỗ hiểm mà được tốt lành.
Tiểu tượng truyện: bàn thêm: Tuy hào 6 không xứng vị (bất đáng vị), nhưng
không đến nỗi thất bại lớn.
Chu Hi hiểu chữ “vị” đó, là ngôi chẵn (âm vị) ; hào âm ở âm vị, là “đáng” chứ
sao lại “bất đáng”, cho nên ông bảo là :”chưa hiểu rõ” (vị tường).
Phan Bội Châu hiểu chữ “vị” là ngôi cao hay thấp; hào 6 ở trên cùng, tức là ngôi
cao nhất, mà là âm nhu, bất tài, cho nên bảo “bất đáng” là phải .
***
Quẻ này chỉ cho ta cách xử thế khi chờ đợi, tùy họa ở gần hay ở xa, cốt nhất là
đừng nóng nảy, mà phải giữ trung chính. Chúng ta để ý: hào 5 ở giữa quẻ Khảm,
tức giữa cơn nguy hiểm mà Chu Công vẫn cho là tốt chỉ vì hào đó cương mà
trung chính, nghĩa là cương một cách vừa phải, sáng suốt, chính đáng.
QUẺ SỐ 5 - QUẺ KINH DỊCH CHO GIEO QUẺ
Quẻ Dịch số 5: Thủy Thiên Nhu "Minh Châu Xuất Thổ"- Vận tốt đã đến
Quẻ Thủy Thiên Nhu đứng số 5 trong số 64 quẻ Kinh dịch. Quẻ Thủy Thiên
Nhu có điềm "Vận tốt đã đến" là quẻ cát trong Kinh Dịch. Mưu việc tất thành,
hôn nhân hòa hợp, cầu tài như ý, ước nguyện thỏa mãn.
Ngũ hành quẻ: Thổ. "Nhu" có nghĩa là "cần đến", được thời mà hành động. Vì
vậy, nó có hình tượng ngọc sáng ra khỏi lòng đất.
"Minh châu" có nghĩa là ngọc sáng. "Minh châu xuất thổ" là chuyện ngọc sáng
vùi lấp trong đất lâu ngày, chưa hề bị phát hiện. Nay bỗng nhiên đất đá bị gió
xối, nước cuốn, ngọc sáng lộ thiên. Ngọc sáng ai nhìn cũng thích.
Nếu gieo được quẻ này là điềm "Vận tốt đã đến" thời vận làm ăn thuận lợi,
thành công.
Hình tượng của quẻ Thủy Thiên Nhu
Ngọc sáng bị vùi trong đất lâu ngày không lộ ra vẻ lung linh, cho đến một hôm
bỗng nhiên gió thổi hoặc nước cuốn, đất đá bay đi, ngọc sáng long lanh xuất
hiện.
Ngày xưa, Nhạc Phi làm tướng dưới trướng Tông Trạch Ma, đã từng gieo được
quẻ này. Sau này, quả nhiên Trạch Ma giao lại ấn tín, Nhạc Phi trở thành nguyên
soái có dịp thi thố tài năng, lập công cái thế. Đúng là ứng với quẻ "Minh châu
xuất thổ", thật là "thời vận tốt đẹp đã đến".
Lời thơ của quẻ Nhu
"Ngọc sáng lộ thiên, đã đến ngày,
Tranh giành kiện tụng, cũng tiêu tan.
Thời cơ vàng ngọc, tự đưa đến,
Mọi việc thành công, chẳng sợ tai."
Lời đoán: Mưu việc tất thành, hôn nhân hòa hợp, cầu tài như ý, ước nguyện thỏa
mãn.
Lời bàn quẻ Thủy Thiên Nhu: "Nhu" còn có nghĩa là "chờ", là "đợi" điều kiện
thuận lợi. Chớ manh động mà rơi vào hoàn cảnh khó khăn nguy hiểm. Người
khôn phải biết chờ thời đợi thế, xử sự rộng lượng, không hành động quá mức.
Có lợi có ích thì tiến, bất lợi vô ích thì lui, được thời thì ra làm quan, mất thế thì
lui về ở ẩn.
QUẺ SỐ 5 - KINH DỊCH - NGÔ TẤT TỐ
QUẺ NHU
Khảm trên; Kiền dưới
Bản nghĩa của Trình Di. - Quẻ Nhu, Tự quái nói rằng: Mông tức là đội, là vật
còn non, vật non thì tất phải nuôi, cho nên tiếp đến quẻ Nhu. Nhu tức là việc ăn
uống. Vật còn non nớt, phải đợi nuôi nấng mới lớn mà cái cần dùng trong sự
nuôi nấng các vật thì là sự ăn uống, cho nên nói rằng quẻ Nhu là việc ăn uống.
Mây [1] bay lên trời [2] có tượng hun bốc nhuần ướt, ăn uống là để nhuần ích
cho các loài vật, cho nên quẻ Nhu - là việc ăn uống - sở dĩ nối dưới quẻ Mông.
Đại ý quẻ này có nghĩa chờ đợi. Cái tính Kiền mạnh nhất định phải tiến, vậy mà
nó lại ở dưới quẻ Khảm là tượng chỗ hiểm, chỗ hiểm làm ngăn trở nó, cho nên
cần phải chờ đợi rồi sau mới tiến.
LỜI KINH
需, 有孚, 光, 亨, 貞, 吉, 利涉 川.
Dịch âm. - Nhu, hữu phu, quang, hanh, trinh, cát, lợi thiệp đại xuyên.
Dịch nghĩa. - Quẻ Nhu, có đức tin, sáng láng, hanh thông, chính bền, tốt! Lợi
sang sông lớn.
GIẢI NGHĨA
Bản nghĩa của Trình Di. - Nhu là chờ đợi. Nói về hai thể, thì Kiền cứng mạnh
cần tiến lên, mà gặp chỗ hiểm, chưa thể tiến được, cho nên là nghĩa chờ đợi. Nói
về tài quẻ, thì hào Năm ở ngôi vua, là chủ sự chờ đợi, có đức cứng mạnh, trung
chính, mà sự thành tín đầy đặc bên trong, tức là bên trong đầy đặc có đức tín; có
đức tín thì sáng láng mà có thể hanh thông, được trinh chính và tốt. Dùng những
cái đó mà chờ đợi, thì gì mà không qua: dù hiểm cũng không khó, cho nên mới
lợi về việc sang sông lớn. Đại phàm trinh cát, có khi là đã chính lại tốt, có khi là
có chính mới tốt, cần phải phân biệt.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Nhu nghĩa là đợi. Quẻ Kiền gặp quẻ Khảm, Kiền mạnh
Khảm hiểm, sức mạnh gặp chỗ hiểm mà không vội tiến cho mắc vào chỗ hiểm
đó, ấy là cái nghĩa chờ đợi. Phu là đức tin ở trong. Quẻ này hào Chín Năm là thể
Khảm bên trong đã đầy đặc, lại có những tính Dương cương, trung chính mà ở
ngôi tôn, tức là cái tượng "có đức tin được ngôi chính". Nước Khảm ở phía
trước, Kiền mạnh kề tới, ấy là cái tượng "sắp sang sông lớn mà chưa tiến lên
một cách khinh thường". Cho nên, kẻ xem, nếu là có sự chờ đợi mà tự mình sẵn
có đức tin thì sẽ sáng láng hanh thông; nếu lại được chính thì tốt mà lợi về việc
sang sông lớn. Chính bền thì không cái gì không tốt, mà sự sang sông lại càng
quý ở chờ đợi. Đó là không vì lòng muốn mau chóng mà phạm vào chỗ hiểm
nạn.
LỜI KINH
彖: 需須也, 險在前也, 剛健 不陷, 其義不困窮矣.
Dịch âm. - Thoán viết: Nhu, tu dã; hiểm tại tiền dã; cương kiện nhi bất hãm, kỳ
nghĩa bất khôn cùng hỹ.
Dịch nghĩa. - Lời thoán nói rằng: Nhu tức là đợi, chỗ hiểm ở trước vậy.
Cứng mạnh mà không bị hãm, nghĩa là nó không khốn cùng rồi.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di - Nghĩa của quẻ Nhu là đợi, vì có chỗ hiểm ở phía trước,
chưa thể vội tiến, nên phải chờ đợi rồi sau mới đi. Là hạng cứng mạnh như Kiền
mà biết chờ đợi, không dám khinh thường mà động, cho nên không bị hãm vào
chỗ hiểm, cái nghĩa của nó không đến khốn cùng.
Bản nghĩa của Chu Hy, - Đây dùng đức quẻ để thích nghĩa tên quẻ.
LỜI KINH
需有孚, 光, 貞, 吉, 位乎天位, 以正中也. 涉 川, 往有功也.
Dịch âm. - Nhu hữu phu, quang, hanh, trinh, cát, vị hồ thiên vị, dĩ chính trung
dã; lợi thiệp đại xuyên, vãng hữu công dã.
Dịch nghĩa. - Quẻ Nhu có đức tin, sáng láng, hanh thông, chính bền, tốt, là vì ở
vào ngôi trời, để chính giữa vậy. Lợi về sự sang sông lớn, đi thì có công vậy.
GIẢI NGHĨA
Bản nghĩa của Trình Di. - Hào Năm cứng đặc, ở giữa, là tượng đức tin, mà lại
được cái nó vẫn chờ đợi, cũng là nghĩa có đức tin. Vì là Kiền cương, rất thành,
cho nên đức nó sáng tỏ mà có thể hanh thông, được trinh chính mà tốt. Sở dĩ có
thể như thế, là vì nó ở ngôi trời mà được chính giữa. Đã có đức tin là lại trinh
chính, tuy qua chỗ hiểm mặc lòng, hễ đi thì có công, đó là điều chí thiện trong
đạo Nhu.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây dùng thể và hai tượng của quẻ để thích lời quẻ.
LỜI KINH
象: 雲上於天, 需.君 飲 宴祟.
Dịch âm: - Tượng viết: Vân thướng ư thiên, Nhu, quân tử dĩ ẩm thực yến lạc.
Dịch nghĩa. - Lời tượng nói rằng: mây lên trời, là quẻ Nhu, đấng quân tử coi đó
mà ăn uống yên vụi.
GIẢI NGHĨA
Bản nghĩa của Trình Di. - Hơi mây hun nấu mà bốc lên trời, phải đợi Âm Dương
hòa hợp mới thành mưa; mây đương lên trời, thì chưa thành mưa, cho nên là
nghĩa chờ đợi. Khí của Âm Dương cảm nhau mà chưa thành mưa, cũng như
đấng quân tử còn nuôi tài đức chưa thi thố ra việc làm. Đấng quân tử coi tượng
mây đương lên trời đợi để làm mưa, mà mang bọc đạo đức ở yên đợi thời, ăn
uống để nuôi khí thể, yên vui để hòa tâm chí. Đó là "Ở cách bình dị để chờ số
mệnh".
Bản nghĩa của Chu Hy. - Mây lên trời, không còn làm gì nữa, chỉ đợi Âm
Dương hòa hợp tự nhiên sẽ mưa. Việc còn phải chờ, thì cũng đừng chờ làm gì
nữa, chỉ hãy ăn uống yên vui, đợi nó đến mà thôi. Nếu lại làm một sự gì, thì
không phải là chờ đợi nữa.
LỜI KINH
初九: 需于郊, 利 但, 無咎.
Dịch âm. - Sơ Cửu: Nhu vu giao, lợi dụng hằng, vô cữu.
Dịch nghĩa. - Hào Chín Đầu: Đợi ở đồng, lợi về dùng lẽ hằng. Không có lỗi.
GIẢI NGHĨA
Bản nghĩa của Trình Đi. - Kẻ đợi vì gặp chỗ hiểm cho nên đợi rồi mới tiến, Hào
Đầu rất xa chỗ hiểm, cho nên là đợi ở đồng, đồng là một noi rộng rãi xa xôi, ở
chỗ rộng rãi xa xôi, lợi ở yên giữ đạo thường thì không có lỗi. Nếu không yên
giữ đạo thường mà nóng nẩy hành động, phạm vào hiểm nạn, há lại cố thể đợi ở
chỗ xa mà không có lỗi được sao?
Bản của Chu Hy. - Đồng là chỗ đất rộng xa, tức là tượng chưa gần chỗ hiểm, mà
hào Chín Đầu là hào Dương cương lại có tượng thường ở nơi chốn của nó; cho
nên mới răn kẻ xem có thể như thế thì không có lỗi.
LỜI KINH
象: 需于郊, 不犯難 也 利 恆, 無咎, 未失常也.
Dịch âm. - Tượng viết: Nhu vu giao, bất phạm hành giã, lợi dụng hằng, vô cữu,
vị thất thường giã.
Dịch nghĩa. - Đợi ở đồng không phạm vào chỗ hiểm nạn vậy, lợi dụng đạo
thường, không lỗi, vì chưa sai mất đạo thường vậy.
GIẢI NGHĨA
Bản nghĩa của Trình Di. - Ý nói kẻ ở nơi rộng xa, không dám xông pha vào chỗ
hiểm nạn mà đi. Dương là vật cứng mạnh mà chỉ tiến lên, hào Đầu hết đợi ở chỗ
rộng xa, không dám xông pha vào chỗ hiểm nạn mà tiến, lại nên ở yên, không
sai đạo thường, thì không có lỗi. Tuy là không tiến, mà kẻ tấm chí thích động,
thì không thể nào chịu yên đạo thường. Đấng quân tử chờ thời, phải nên yên tĩnh
tự giữ, tâm chí tuy có chờ đợi, nhưng vẫn êm lặng như sẽ ở vậy đến trọn đời, thì
mới có thể dùng được đạo thường.
LỜI KINH
九: 需于沙, 有, 終吉
Dịch âm. - Cửu Nhị: Nhu vu sa, tiểu hữu ngôn, chung cát
Dịch nghĩa. - Hào Chín Hai: Đợi ở bãi cát, hơi có điều tiếng, sau chót tốt.
GIẢI NGHĨA
Bản nghĩa của Trình Di. - Khảm là nước, nước gần thì có cát Hào Hai cách chỗ
hiểm đã dần dần hơi gần, cho nên là đợi ở cát. Dần dần gần với hiểm nạn tuy là
chư đến lo hãi, nhưng đã hơi có điều tiếng. Những lời thuộc về hoạn nạn cũng
có lớn nhỏ khác nhau, nhỏ là hơi có điều tiếng, ấy là cái hại rất nhỏ về lời nói
vậy. Hào hai là tài cương minh, ở chỗ mềm yếu, giữ ngôi chính giữa, mà tự xử
một cách rộng rãi, đó là kẻ khéo chờ đợi, tuy cách chỗ hiểm đã gần dần dần, mà
còn chưa tới chỗ hiểm, cho nên chỉ hơi có hại về điều tiếng, mà không có hại
lớn, sau rốt vẫn được lành tốt.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Bãi cát đã gần chỗ hiểm rồi. Hại về, điều tiếng, cũng là
tai hại hạng nhỏ. Vì tiến dần dần gần với quẻ Khảm, cho nên mới có tượng ấy.
Cương trung mà biết chờ đợi, cho nên sau chót được tốt. Đò lả răn kẻ xem phải
nên như thế.
LỜI KINH
象: 需于沙, 衍在中也, 雖 亨, 以終吉也.
Dịch âm. - Tượng viết: Nhu Vu sa, diễn tại trung dã, tuy tiểu hữu ngôn, dĩ trung
cát dã,
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Đợi ở cát là rộng rãi ở trong vậy, tuy là hơi có
điều tiếng, về sau là được tốt vậy.
GIẢI NGHĨA
Bản nghĩa của Trình Di. - Diễn là rộng rãi. Hào Hai tuy gần chỗ hiểm, mà vì
rộng rãi ở giữa, cho nên, tuy là hơi có điều tiếng phạm tới, sau chót vẫn được tốt
lành. Đó là khéo xử.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Diễn tức là ý rộng rãi. Lấy cách rộng rãi ở giữa, đó là
không vội tiến lên.
LỜI KINH
九三: 需于泥, 寇.
Dịch âm. - Cửu Tam: Nhu vu nê, trí khâu chí.
Dịch nghĩa. - Hào Chín ba: Đợi ở bùn, dắt gỉặc đến
GIẢI NGHĨA
Bản nghĩa của Trình Di. - Bùn là chỗ sát với nước: Đã tiến sát đến chỗ hiểm,
cho nên lạ dắt giặc nạn đến nơi. Hào ba cứng mà không giữa, lại ở trên thể
mạnh, có tượng tiến động, cho nên mới là dắt giặc. Nếu không kính thận, thì sẽ
phải lên táng bại.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Bùn là nơi sắp sửa hãm vào chỗ hiểm, giặc thì là thứ
hại lớn. Hào Chín Ba cách với chỗ hiểm càng gần, mà lại quá cứng không giữa,
cho nên tượng nó như thế.
LỜI KINH
象: 需于泥, 災在外也. 我致寇, 敬慎不敗也.
Dịch âm. - Tượng viết: Nhu vu nê, tai tại ngoại dã; tự ngã trí khâu, kính thận bất
bại dã.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Đợi ở bùn, hại ở ngoài vậy; tự mình dắt giặc,
kính thận thì không thất bại vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di Hào Ba bức sát vào chỗ hiểm nạn của thể trên, cho nên nói
rằng: tại hại ở ngoài. Tai là tiếng chung về hoạn nạn, đối với chữ 眚 (sảnh) mà
nói, thì nó là một phần nhỏ. Hào Ba dắt giặc là tại tự mình tiến sát đến nơi, cho
nên nói rằng: tự mình dắt giặc. Nếu biết kính thận, cân nhắc cơ nghi rồi sẽ tiến
lên, thì không thất bại. Thời của quẻ Nhu là phải chờ đợi sẽ tiến, cốt xem thời
thế mà động, không phải là răn người ta không được tiến, chỉ muốn khiến cho
người ta chớ để lỗi mất cơ nghi mà thôi.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Ngoài là quẻ ngoài, kính thận không thất bại là nói rõ
sự chiêm ở ngoài lời chiêm, cái ý thánh nhân dạy bảo người ta thật là thiết tha.
LỜI KINH
六四: 需于, 出.
Dịch âm. - Lục Tử: Nhu vu huyết, xuất tự huyệt
Dịch nghĩa. - Hào Sáu Tư: Đợi chưng máu, ra tự hang.
GIẢI NGHĨA
Bản nghĩa của Trình Di. - Hào tư là chất Âm nhu, ở chỗ hiểm, phía dưới lại
nhằm đường tiến của ba hào Dương, ấy là bị thương về hiểm nạn, cho nên nói
rằng: đợi chưng máu. Đợi ở máu là đã bị thương về hiểm nạn, thì không thể yên,
ắt mất chỗ ở, cho nên nói là ra tự hang.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Máu là chỗ giết hại, hang là nơi hiểm hãm. Hào Tư
giao với thể Khảm, ấy là vào chỗ hiểm rồi, cho nên là tượng "đợi chưng máu".
Nhưng nó mềm được chính đạo, đợi mà không tiến, cho nên lại là tượng "ra tự
hang". Kẻ xem như thế, thì tuy ở chỗ bị hại, sau chót cũng ra được.
LỜI KINH
象 需于, 順以聽也.
Dịch âm. - Tượng viết: Nhu vu huyết, thuận dĩ thính dă.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Đợi chưng máu, thuận mà nghe vậy.
GIẢI NGHĨA
Bản nghĩa của Trình Di. - Hào Tư là Âm nhu ở trong hiểm nạn, không thể cố ở,
cho nên tự hang lui ra. Vì Âm nhu không tranh cạnh với đời, hễ không ở được
thì lui, ấy là xuôi thuận để nghe theo thời, cho nên không đến nỗi hung.
LỜI KINH
九五: 需于酒, 貞吉.
Dịch âm. - Cửu Ngũ: Nhu vu tử thực, trinh cát.
Dịch nghĩa. - Hào Chín Năm: Đợi chưng rượu cơm, chính tốt!
GIẢI NGHĨA
Bản nghĩa của Trinh Di. - Là Dương cương, ở giữa, được chính vị ở ngôi trời,
mà làm được hết đạo mình, dùng kiểu ấy mà đợi, thì đợi gì mà không được? Nên
chỉ yên vui cơm rượu để đợi, mà cái chờ đợi ắt là phải được. Đã trinh chính mà
sự chờ đợi lại thỏa thuê, đáng gọi là tốt.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Rượu cơm là đồ yên vui. Ý nói cứ yên mà đợi. Hào
Chín Năm là bộc Dương cương trung chính, đợi ở ngôi tôn, cho nên có tượng
ấy. Kẻ xem như thế mà chính bền thì được tốt lành.
LỜI KINH
象 貞吉, 以中正也.
Dịch âm. - Tượng viết: Tửu thực trình cát, dĩ trung chính dã.
Dịch nghĩa. - Lời tượng nói rằng: Rượu cơm chính tốt, vì trung chính vậy.
GIẢI NGHĨA
Bản nghĩa của Trình Di. - Đợi ở rượu cơm mà trinh và tốt, là vì hào Năm được
chỗ trung chính mà làm hết đạo của nó.
LỜI KINH
上九: 于, 有不速之客三 來, 敬之, 終吉
Dịch âm. - Thượng Lục: Nhập vu huyệt, hữu bất tốc chi khách tam nhân lại,
kinh chi, chung cát,
Dịch nghĩa. - Hào Chín Trên: Vào chung hang, có ba người khách không mời
mà đến, kính trọng họ, sau chót tốt.
GIẢI NGHĨA
Bản nghĩa của Trình Di. - Quê Nhu vì có chỗ hiểm ở trước, chờ thời mới tiến,
hào Sáu Trên ở chót chỗ hiểm, chót thì biến rồi, ấy là chờ đã cực lâu mà được.
Âm đỗ ở số sáu, tức là ở yên nơi chốn, cho nên là vào trong hang, hang tức là
chỗ yên ở. Ở yên và đã đỗ rồi, thì kẻ đi sau ắt tới. Ba người khách không mời,
chỉ vào ba hào Dương ở dưới. Ba hào Dương của quẻ Kiền không phải là vật ở
dưới, nó chỉ chờ thời mà tiến. Chờ đã lâu rồi, cho nên nó đều tiến lên; "không
mời" tức là không giục mà nó tự đến. Hào Sáu Trên đã đợi được chỗ ở yên, khi
các hào Dương tới nơi, nếu nó không nổi lòng ghen ghét cạnh tranh, mà cứ chí
thành tận kính để chờ, thì những hào kia tuy rất cường bạo, há lại có lẽ xâm lăng
với nó? Cho nên sau chót vẫn tốt. Có người ngờ rằng: Là Hào Âm, ở trên ba hào
Dương, sao được là yên? Đáp rằng: ba hào Dương thuộc về thể Kiền, chì nó cốt
ở tiến lên, hào Sáu là ngôi Âm, không phải chỗ nó đáng đỗ, không có ý muốn
tranh cướp, kính nó thì tốt.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Hào Âm, ở chỗ hiểm cực, không còn chờ đợi, có tượng
bị hãm mà vào hang; dưới thì ứng nhau với hào Chín Ba. Hào Chín Ba và hai
hào Dương ở dưới chờ đợi đã cực mà cùng tiến lên, là tượng ba người khách
không mời mà đến. Hào Sáu Trên là bậc Âm nhu, không thể chống nó mà biết
xuôi thuận với nó, có tượng kính nó. Kẻ xem gặp chỗ hãm hiểm, nhưng với
những người phi ý mà đến, cứ kính trọng mà đãi lại họ, thì sau được tốt.
LỜI KINH
象: 不速之客來, 敬之終吉. 雖不當位, 未 失也.
Dịch âm. - Tượng viết: Bất tốc chi khách lai, kính chi chung cát, tuy bất đáng vị,
vị đại thất dã.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Khách không mời mà đến, kính họ, sau tốt,
tuy không đáng ngôi, mà chưa hỏng lắm vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di - Không đáng ngôi chỉ về Âm mà ở trên. Hào này là hào
Sáu ở ngôi Âm đó là cái tượng yên ổn. Lại nói cho hết nghĩa, tỏ rằng: Âm nên ở
dưới mà nó ở trên là không đáng ngôi.
Nhưng biết kính thật tự xử, thì hào Dương không thể lấn, sau vẫn được tốt, tuy
không đáng ngôi, mà chưa đến nỗi hỏng lắm.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Là Âm ở trên, tức là đáng ngôi. Đây nó không đáng
ngôi, chưa rõ là ý làm sao.
Lời bàn của Tiên Nho. - Có người hỏi: Không đáng ngôi là thế nào? Chu Hy đáp
rằng: Đại phàm hai hào Đầu và Trên đều không có ngôi, hào Hai là ngôi kẻ sĩ,
hào Ba là ngôi khanh đại phu, hào Tư là ngôi đại thần, hào Năm là ngôi vua.
Hào Sáu Trên không đáng ngôi như phụ lão không coi gia chính mà lui về chỗ
nhàn rỗi, nhà chùa có chốn tây đường v.v…"
QUẺ SỐ 5 - QUỐC VĂN CHU DỊCH - PHAN BỘI CHÂU
QUẺ NHU:
Nghĩa chính trong Dịch là chờ đợi, biết chờ thời cơ. Ngày xưa người nông dân
làm việc cật lực xong thì còn phải chờ mưa, có mưa thì ruộng đồng mới phì
nhiêu. Mưa ở Chu Dịch vì vậy luôn là điều tốt lành nhưng là yếu tố không tính
trước được. Quẻ nhu nói về tâm trạng khi chờ đợi nên như cái cảm xúc dần dần
tăng triển dần dà "vào bên trong ": lúc đầu bực bội một chút ờ hào 1 rồi mạnh
hơn ở hào 2, hào 3 đến hào 4 thì tối đa đến mức độ khủng hoảng thì ngộ ra được
nên sang hào 5 thì trở về an nhiên tự tại, đến hào 6 thì quên mất luôn rồi. nhưng
bất ngờ cơ hội lại đến thì nên xét kỹ (kính).
Lời quẻ: Nhu, hữu phu. Quang hanh, trinh cát. Lợi thiệp đại xuyên.
Dịch: Thời nhu, (phải) có lòng tin. Rồi cầu nguyện (hanh / hưởng) sẽ mang lại
ánh sáng, đoán tốt. Nên qua sông lớn.
Xem thêm lợi thiệp đại xuyên ở phần dẫn nhập / biểu tượng. Quang hanh cũng
có thể nên dịch là: hanh thông mang đến ánh sáng.
Hào 1: Nhu vu giao. lợi dụng hằng, vô cữu.
Dịch: Chờ ở ruộng xa. Nên kiên nhẫn, không lỗi.
Giao là nơi xa nhất còn nằm trong phạm vi ấp thành, làng mạc. Vị ở hào đầu,
dương lại nằm trong nhóm 3 hào dương nên vị này dễ mất nhẫn nại. Hằng còn
bền bĩ hơn cả trinh. Thế ở xa chỉ có thể cần cù, kiên trì thôi.
Hào 2: Nhu vu sa. Tiểu hữu ngôn. Chung cát.
Dịch: Chờ ở bãi cát Hành động tiểu nhân / thế nhỏ bé dễ chuốc lấy điều tiếng.
Cuối cùng rồi sẽ mở.
Giữ bình tĩnh, thế không vững (bãi cát), chớ nói bậy. Có mắc tranh kiện cũng
thong thả giải quyết.
Hào 3: Nhu vu nê. Trí khấu chí.
Dịch: Chờ nơi bùn lầy. Tự vời giặc tới.
Mắc kẹt, hào này quá bức xúc, lo sợ. Tự / bị cô lập dễ gây tai họa.
Hào 4: Nhu vu huyết. Xuất tự huyệt.
Dịch: Chờ trong sự kinh sợ / máu me. Ra khỏi hang động.
Hoang mang tột cùng thì nên đi ra ngoài / vượt cái lo sợ.
Hào 5: Nhu vu tửu thực, trinh cát.
Dịch: An nhiên chờ, ăn uống, đoán mở.
Có thái độ an lạc khi chờ đợi là đúng nhất.
Hào 6: Nhập vu huyệt. Hữu bất tốc chi khách. Tam nhân lai. Kính chi, chung
cát.
Dịch: Chui vào động. Có ba người khách không (còn) chờ lại tới. Cung kính họ,
đoán sẽ tốt.
Hào này hết hy vọng không cón chờ nữa (không có chữ nhu), chui rúc vào hang
ổ thì có người đến mời. Chuyện Lã Vọng chăng? Javary không nhắc đến Lã
Vọng, các học giả khác cũng vậy.
QUẺ SỐ 5 - BÍ ẨN QUẺ DỊCH