Professional Documents
Culture Documents
Quẻ 4 Sơn Thủy Mông
Quẻ 4 Sơn Thủy Mông
Quẻ 4 Sơn Thủy Mông
Contents
1. Giải nghĩa:.........................................................................................................2
2. Hào từ:...............................................................................................................2
QUẺ SỐ 4 - QUẺ KINH DỊCH CHO GIEO QUẺ...............................................5
QUẺ SỐ 4 - KINH DỊCH - NGÔ TẤT TỐ..........................................................6
QUẺ SỐ 4 - QUỐC VĂN CHU DỊCH - PHAN BỘI CHÂU.............................14
QUẺ SỐ 4 - KINH DỊCH DIỄN GIẢNG - KIỀU XUÂN DŨNG.....................22
QUẺ SỐ 4 - KINH DỊCH DIỄN GIẢI................................................................23
QUẺ SỐ 4 - BỐC PHỆ CHÁNH TÔNG............................................................24
QUẺ SỐ 4 - KINH DỊCH - DỊCH TỰ BẢN NGHĨA.........................................26
QUẺ SỐ 4 - KINH DỊCH - NGU YÊN NGUYỄN ĐẠI BẰNG........................27
QUẺ SỐ 4 - BÍ ẨN QUẺ DỊCH..........................................................................29
1. Giải nghĩa:
Giải nghĩa: Muội dã. Bất minh. Tối tăm, mờ ám, không minh bạch, che lấp, bao
trùm, phủ chụp, ngu dại, ngờ nghệch. Thiên võng tứ trương chi tượng: tượng
lưới trời giăng bốn mặt.
蒙: 亨, 匪我 求 童 蒙, 童 蒙 求 我 .
初 筮 告, 再 三 瀆, 瀆 則 不 告 .利 貞 .
Mông: Hanh, Phỉ ngã cầu đồng mông, đồng mông cầu ngã.
Sơ phệ cáo, tái tam độc, độc tắc bất cáo. Lợi trinh.
Dịch: Trẻ thơ được hanh thông. Không phải ta tìm trẻ thơ mà trẻ thơ tìm ta. Hỏi
(bói) một lần thì bảo cho, hỏi hai ba lần thì là nhàm, nhàm thì không bảo. Hợp
với đạo chính thì lợi (thành công).
Giảng: Theo nghĩa của quẻ thì cấn là ngưng, Khảm là hiểm. Ở trong (nội quái)
thì hiểm, mà ở ngoài (ngoại quái) thì ngưng, không tiến được, tỏ ra ý mù mờ,
cho nên gọi là Mông.
Xét theo hình tượng thì ở trên có núi (Cấn), dưới chân núi có nước sâu (khảm),
cũng có nghĩa tối tăm (Mông). Cũng có thể giảng là dưới chân núi có suối nước
trong, tức như hạng người còn nhỏ (khi thành sông mới là lớn), hạng “đồng
mông”, cho nên gọi quẻ này là Mông (mông có nghĩa là non yếu).
Đặc biệt quẻ này chỉ chú trọng vào hào 2 và hào 5. Hào 2 là dương cương, đắc
trung làm chủ nội quái, đáng là một vị thầy cương nghị, khải mông (tức mở
mang cái tối tăm) cho trẻ. Hào đó ứng với hào 5 âm nhu thuận mà cùng đắc
trung, là tượng học trò ngoan. Vậy là thầy trò tương đắc, sự học hành tất có kết
quả tốt, cho nên quẻ này có đức hanh thông.
Tư cách của thầy cương, của trò nhu, cho nên thầy không phải cầu trò, mà trò
phải cầu thầy. Và khi dạy, trò hỏi một lần thì bảo, nếu hỏi 2, 3 lần thì là nhàm,
không bảo. Giữ được đạo chính (hoặc bồi dưỡng chính nghĩa) thì lợi thành công.
2. Hào từ:
2.1. Sơ lục: phát mông, lợi dụng hình nhân, Dụng thoát chất cốc, dĩ vãng lận.
Dịch: Hào 1, âm: mở mang cái tối tăm (cho hạng người hôn ám) thì nên dùng
hình phạt cốt cho họ thoát khỏi gông cùm, nhưng đừng đi quá mức sẽ hối tiếc.
Giảng: Hào âm này vị ở thấp nhất trong quẻ Mông là tượng kẻ hôn ám nhất,
phải dùng hình phạt trừng trị mới cởi cái gông cùm (vĩ vật dục) cho họ được; khi
có kết quả rồi thì thôi, đừng quá dùng hình phạt mà sẽ ân hận.
Chữ: "dụng hình nhân", dịch sát là dùng người coi về hình, tức dùng hình phạt.
2.2. Cửu nhị: Bao mông cát, nạp phụ cát, tử khắc gia.
Dịch: Hào, dương: Bao dung kẻ mờ tối, dung nạp hạng người nhu ám như đàn
bà, tốt; (ở ngôi dưới mà gánh vác việc trên) như người con cai quản được việc
nhà.
Giảng: Hào 2 dương, cương cường, nhưng đắc trung cho nên bảo là có đức bao
dung; nó làm chủ nội quái, thống trị cả bốn hào âm, cho nên bảo nó dung nạp
được các hào âm, tức hạng người nhu ám như đàn bà, nó ở dưới thấp mà lại là
hào quan trọng nhất trong quẻ, nên ví nó như người con cai quản được việc nhà.
Tóm lại hào này tốt.
Phan Bội Châu giảng ba chữ “tử khắc gia”cách khác: Cụ cho hào 5 ở địa vị tôn
trong quẻ trên (ngoại quái) tức như cha trong nhà, hào 2 ở dưới, tức như con.
Cha nhu nhược (vì là âm), con cương cường sáng suốt (vì là dương), cảm hóa
được cha mà cha hết hôn ám, như vậy là con chỉnh lý được việc nhà.
Cao Hanh chỉ đứng về phương diện bói, mà không đứng về phương diện đạo lý,
không cho Kinh Dịch có ý nghĩa triết lý, xử thế, cho nên hiểu khác hẳn: giảng
“nạp phụ” là cưới vợ cho con “tử khắc gia” là con thành gia thất, đó là cái việc
tốt của người làm bếp mắt không có đồng tử (bao mông, theo ông là : bào mông,
bào là người làm bếp, mông là mắt không có đồng tử). Đại khái cách hiểu của
Cao Hanh như vậy, xin đơn cử làm thí dụ.
2.3. Lục tam: Vật dụng thủ nữ kiến kim phu.
Bất hữu cung, vô du lợi.
Dịch: hào 3, âm: đừng dùng hạng con gái thấy ai có vàng bạc là (theo ngay)
không biết thân mình nữa; chẳng có lợi gì cả.
Giảng: Hào 3 là âm nhu (ở trong quẻ Mông, là hôn ám) bất trung, bất chính, cho
nên ví với người con gái không có nết, bất trinh, ham của. Mà hạng tiểu nhân
thấy lợi quên nghĩa cũng vậy (âm còn có nghĩa là tiểu nhân). Phan Bội Châu cho
hào này xấu nhất; hạng người nói trong hào không đáng dùng, không đáng giáo
hóa nữa.
2.6. Thượng cửu: Kích mông bất lợi vi khấu, lợi ngự khấu.
Dịch: Hào trên cùng, dương : phép trừ cái ngu tối mà nghiêm khắc quá thì kẻ
mình dạy dỗ sẽ phẫn uất, có thể thành giặc, như vậy không có lợi, ngăn ngừa
giặc ở ngoài (tức những vật dục quyến rũ kẻ đó) thì có lợi.
Giảng: Hào này ở trên cùng quẻ Mông, có nghĩa sự ngu tối tới cùng cực; nó là
dương, ở trên cùng, mà bất trung, cho nên tuy có tài mở mang sự ngu tối nhưng
quá nghiêm khắc, làm cho kẻ ngu tối phẫn uất, phản kháng, bất tuân giáo hóa, có
thể thành giặc, có hại (chữ “khấu có cả hai nghĩa: giặc, có hại), nên tìm cách
ngăn ngừa những vật dục quyến rũ nó thì hơn; mà “cả thầy lần trò đều thuận đạo
lý (thượng hạ thuận dã, Tiểu tượng truyện).
Quẻ này nói về cách giáo hóa, cần nghiêm (hào 1) nhưng không nên nghiêm
khắc quá mà nên ngăn ngừa lỗi của trẻ (hào 6).
QUẺ SỐ 4 - QUẺ KINH DỊCH CHO GIEO QUẺ
Quẻ Dịch số 4: Sơn Thủy Mông – "Tiểu Quỷ Thâu Tiền" Thời vận không hay
Quẻ Sơn Thủy Mông đứng số 4 trong số 64 quẻ Kinh dịch. Quẻ Sơn Thủy Mông
có điềm "thời vận không hay" là quẻ xấu trong Kinh Dịch. Việc hôn nhân, việc
góp vốn kinh doanh không thành. Mọi việc gian lao vất vả, phí công vô ích.
Lời đoán quẻ Sơn Thủy Mông: Gieo phải quẻ này là điềm "thời vận không hay"
(thời vận bất tường). Là người chuộng nghĩa khinh tài, kiếm tiền dễ dàng, học
đến nơi đến chốn, nhưng bị ma quỷ lấy trộm hết.
Ngày xưa, Dương Chí áp giải 10 vạn lạng bạc, rất nhiều ngọc ngà châu báu –
quà mừng sinh nhật của con rể Lương Trung Thư – quan phủ phủ Đại Danh đi
Đông Kinh chúc thọ Thái sư Sái Kinh, bố vợ của Trung Thư. Trước khi đi, ông
ta đã gieo quẻ phải này. Quả nhiên trên đường đi, Dương Chí mắc mưu của
Bạch Thắng, Tiều Cái, Ngô Dụng. Dương Chí và bọn lính áp giải uống phải
rượu có thuốc mê, tiền bạc châu báu bị cướp sạch. Đúng là ứng với quẻ "Tiểu
quỷ thâu tiền", thật là "Thời vận không hay".
Lời đoán: Là người chuộng nghĩa khinh tài, kiếm tiền dễ dàng, học đến nơi đến
chốn, nhưng bị ma quỷ lấy trộm hết.
Lời bàn: Của bất nghĩa dù giữ thế nào cũng không được, tất có ngày bị "tiểu quỷ
thâu tiền". Trẻ con ăn trộm tiền là do trí tuệ còn mờ, lòng dạ còn tối, còn kẻ tích
của bất nghĩa lòng dạ mới thực.
QUẺ SỐ 4 - KINH DỊCH - NGÔ TẤT TỐ
QUẺ MÔNG
Cấn trên; Khảm dưới
Truyện của Trình Di - Quẻ Mông, Tự quái nói rằng: Truân tức là đầy, Truân là
các vật mói sinh, các vật sinh ra thì phải đội lên, cho nên tiếp đến quẻ Mông.
Mông nghĩa là đội, tức là vật hãy còn non. Truân là các vật mới sinh, các vật
mới sinh thì còn bé, mờ tối, chưa phát ra được, cho nên quẻ Mông mới nối quẻ
Truân. Nó là quẻ Cấn trên Khảm dưới. Cấn là núi, là đỗ, Khảm là nước, là hiểm,
dưới núi là chỗ hiểm; gặp chỗ hiểm thì đỗ, không biết đi đâu, đó là tượng của
quẻ Mông. Nước là vật phải đi, mới ra chưa đi đâu, cho nên là mông. Tới khi nó
tiến thì là nghĩa hanh.
LỜI KINH
蒙亨, 匪我童蒙, 童蒙求我.初筮告, 再三漬, 漬則不告.利貞.
Dịch âm. - Mông hanh, phỉ ngã cầu đồng mông, đồng mông cầu ngã. Sơphệ cốc,
tái tam độc, độc tắc bất cốc, lợi trinh.
Dịch nghĩa. - Quẻ Mông hanh, chẳng phải ta tìm trẻ thơ [1], trẻ thơ tìm ta.
Mới bói bảo: hai, ba lần nhàm, không bảo. Lợi về sự chính.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di - Chữ "mông"’ có lẽ khai phát, tức là nghĩa hanh. Quẻ này
có tài thời trung, chính là cái đạo làm đến hanh thông. Hào Sáu Năm là chủ quẻ
Mông, mà hào Chín Hai là người mở mang sự mờ tối. "Ta" là hào Hai. Hào Hai
không phải là quẻ Mông, hào Năm đã nhún thuận vào hào Hai, hào Hai bèn mở
mang sự mờ tối cho nó. Cho nên, mới lấy hào Hai, làm chủ mà nói: "Chẳng phải
ta tìm trẻ thơ, trẻ thơ tìm ta". Hào Năm ở ngôi tôn, có đức nhu thuận, quẻ này
đương ở hồi trẻ thơ, chính ứng với hào Hai, mà đức "trung" lại cũng giống nhau,
có thể dùng đạo của hào Hai để mở mang sự mờ tối. Hào Hai lấy đức cương
trung, ở dưới, được vua tìm theo, phải nên lấy đạo tự giữ, đợi vua chí thành cầu
mình mà sau mới ứng, thì có thể dùng được đạo của mình, đó là "không phải ta
tìm trẻ thơ, trẻ thơ tìm ta" Bói là xem để quyết đoán. Mới bói, bảo, nghĩa là thật
lòng, dốc ý để tìm mình thì mình bảo họ, đến hai, ba lần thì là nhảm nhí, cho nên
không bảo. Cái đạo mở mang kẻ mờ tối, chỉ lợi về sự đính chính. Vả lại, hào Hai
tuy là cương trung, nhưng ở ngôi Âm, cho nên, nên có răn bảo.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Cấn cũng là tên quẻ ba vạch, một hào Dương đỗ ở trên
hai hào Âm, cho nên đức nó là đỗ, tượng nó là núi. Mông nghĩa là tối, các vật
mới sinh, mờ tối chưa sáng. Quẻ này là Khảm gặp Cấn, dưới núi [2] có chỗ hiểm
[3] tức là cái đất mờ tối; trong hiểm ngoài đồ [4] tức là cái ý mờ tối, cho nên đặt
tên là Mông. Từ chữ 亨(hanh) trở xuống là lời Chiêm. Hào Chín Hai là chủ quẻ
trong, tính cứng, ở giữa có thể mở mang sự mờ tối cho ngườí ta, mà với hào Sáu
Hai Âm Dương ứng nhau, cho nên hễ gặp quẻ này thì có đạo hanh thông; "Ta"
là hào Hai, "trẻ thơ" là kẻ trứng nước tối tăm, chỉ vào hào Năm. Kẻ bói là bậc
sáng thì người ta nên đến tìm mình mà sự hanh thông ở người ta, kẻ bói là hạng
tối, thì mình nên đi tìm người, mà sự hanh thông ở mình. Người ta tìm mình, thì
mình nên xem lẽ nên chăng mà ứng với họ. Mình tìm người ta thì nên hết lòng
trung thành chuyên nhất mà hỏi. Bậc sáng láng nuôi kẻ tối tăm và kẻ tối tăm tự
nuôi lấy mình lại đều lợi về sự chính đính.
LỜI KINH
象: 蒙, 下有險, 險, 蒙.
Dịch âm. - Thoán viết: Mông, sơn hạ hữu hiểm, hiểm nhi chỉ, Mông.
Dịch nghĩa. - Lời Thoán nói rằng: Quẻ Mông, dưới núi có chỗ hiểm, hiểm mà
đỗ, là Mông.
GIẢI NGHĨA
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây dùng tượng quẻ, đức quẻ để thích tên quẻ có hai
nghĩa.
Lời bàn của Tiên Nho. - Chu Hy nói rằng: Dưới núi có chỗ hiểm là tượng của
quẻ, hiểm mà đỗ là đức của quẻ. Quẻ Mông có hai nghĩa. Hiểm mà đỗ là hiểm ở
trong, đỗ ở ngoài, trong nhà đã không yên ổn, mặt ngoài lại đi không được, đó là
cái tượng tối tăm.
LỜI KINH
蒙亨, 以亨 時中也.匪我求童蒙, 童蒙求我, 志應也.
Dịch âm. - Mông hanh dĩ hanh hành thì trung dã. Phỉ ngã cầu đồng mông, đồng
mông cầu ngã, chí ứng dã.
Dịch nghĩa. - Quẻ Mông hanh, dùng lẽ hành mà làm cho đúng mực giữa của thời
vậy. Chẳng phải ta tìm trẻ thơ, trẻ thơ tìm ra, chí ứng nhau vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di – Dưới núi có chỗ hiểm, trong đã hiểm không thể ở, đỗ ở
ngoài lại không thể tiến, chưa biết làm gì, cho nên mới là cái nghĩa tối tăm. Quẻ
Mông hanh thông, vì nó dùng lẽ hanh thông để làm cho đúng mực giữa của thời.
Thời là được vua hưởng ứng, giữa là ở được chỗ giữa. Được chỗ giữa thì là phải
thời. Chẳng phải ta tìm trẻ thơ, trẻ thơ tìm ta, chí ứng nhau vậy. Hào Hai là
người hiền cương minh ở dưới, hào Năm là hạng trẻ thơ ở trên, không phải là
hào Hai tìm hào Năm, là chí hào Năm ứng với hào Hai. Người hiền ở dưới, há
lại có thể tự mình tiến lên để đi tìm vua. Nếu mà tự tìm, ắt không có lẽ mà được
tin dùng. Người đời xưa sở dĩ phải đợi ông vua hết lòng kính lễ mà sau mới đi,
không phải là tự tôn đại. Là vì người ta tôn đức vui đạo, không như thế thì
không thể cùng nhau làm việc.
LỜI KINH
初筮, 告, 以剛中也再三瀆, 漬則不告, 瀆蒙也.
Dịch âm. - Sơ phệ, cốc, dĩ cương trung dã; tái tam độc, độc tắc bất cốc, độc
mông dã.
Dịch nghĩa. - Mới bói, bảo, vì cứng giữa vậy; hai ba lần, nhàm, nhàm thì không
bảo, vì làm nhàm trẻ thơ vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di - Mới bói, nghĩa là thành tâm chuyên nhất mà lại, cầu để
quyết sự mờ tối, thì nên lấy đạo cương trung mà bảo, để mở mang cho họ. Hai
ba lần thì là phiền nhiễu, cái ý đến bói đã là phiền nhiễu mà không thành chuyên
tâm nhất; thì là nhảm nhí khinh nhờn, không nên bảo nữa. Bảo họ, họ cũng
không thể tin nhận, chỉ làm phiền nhàm, cho nên nói là nhàm trẻ thơ. Kẻ tìm, kẻ
bảo đều là phiền nhàm tất cả.
Lời bàn của Tiên Nho. - Lã Đông Lai nói rằng: "Mới bói bảo, vì là cứng giữa.
Hào Chín Hai là người mở mạng trẻ thơ. Chín là cứng.
Hai là giữa, cứng giữa là toàn thể của hào Chín Hai. Đương lúc kẻ học mới lại
hỏi, lòng họ thành thật chuyên nhất, cho nên đem luôn toàn thể mà bảo. "Hai ba
lần nhàm, nhàm thì không bảo, vì nhàm trẻ thơ", hai ba lần là nhàm, đó là trẻ thơ
làm nhàm người mở mang trẻ thơ. Nay không nói "làm nhàm người mở mang
trẻ thơ", mà lại nói "nhàm trẻ thơ" là sao? Bởi vì thánh nhân dạy người không
mỏi há lại chán kẻ trẻ thơ làm nhàm mình? Sở dĩ hai ba lần nhàm mà không bảo,
là tại chí lý không thể so sánh bàn bạc, sau một lời nói, thì phải nhận hiểu tức
thì; nếu chưa nhận hiểu thì ta cứ bỏ đó không bảo, kẻ kia tuy là chưa đạt mà cái
lẽ trời ở trong bụng hắn vẫn còn nguyên vẹn không động. Nếu hai ba lần nhàm
mà còn bảo họ, thì họ sẽ phải sánh bàn, đồ đoán, lại là làm nhàm lẽ trời của họ.
Vì vậy mới nói là "nhàm trẻ thơ".
LỜI KINH
蒙以養正, 聖功也.
Dịch âm. - Mông dĩ dưỡng chính, thánh công dã.
Dịch nghĩa. - Trẻ thơ để nuôi sự đính chính, công bậc thánh vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di - Lời quẻ nói "lợi trinh", lời Thoán lại nhắc cho rõ nghĩa để
tỏ bất chính là điều đáng răn trong ở hào Hai, thật là đạo nuôi trẻ thơ vậy. Chưa
được mở mang gọi là trẻ thơ; hạng trẻ thơ hãy còn thuần nhất chưa mở mang mà
muôi lấy sự chính đính, ấy là cái công làm nên bậc thánh. Nếu đã mở mang mà
sau mới cấm, thì nó ngăn cách mà khó thắng được. Nuôi sự đính chính từ thuở
trẻ thơ là cách rất khéo trong việc học. Trong sáu hào quẻ Mông, hai hào Dương
là người trị sự mờ tối, bốn hào Âm là người ở cảnh mờ tối.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Lời Thoán này dùng thể quẻ để thích lời quẻ. Hào chín
Hai đem cái đạo có thể hanh thông, mở mang sự tối tăm cho người khác, mà lại
hợp với mực "giữa" của thời (tức vào những việc nói ở đoạn dưới), đều là dùng
đạo hanh thông mà làm, mà nhằm với lẽ nên phải vậy. Chí ứng nghĩa là hào Hai
cứng sáng, hào Năm mềm tối, cho nên hào Hai không tìm hào Năm mà hào Năm
phải tìm hào hai, cái chí của nó tự nhiên ứng nhau. Dĩ cương trung, nghĩa là đã
cứng lại giữa, cho nên biết cách giảng bảo mà có chừng độ. Nhàm, nghĩa là bói
đến hai ba lần thì kẻ hỏi vẫn nhàm mà kẻ bảo cũng nhàm. Trẻ thơ để nuôi sự
đính chính, tức là cái công làm nên thánh nhân, câu đó là để thích nghĩa hai chữ
"lợi trinh".
LỜI KINH
象: 出下出泉, 蒙. 君 以果, 育德.
Dịch âm. - Tượng viết: Sơn hạ xuất tuyền, Mông, quân tử dĩ quả hạnh, dục đức.
Dịch nghĩa. – Lời tượng nói rằng: Dưới núi ra suối, là quẻ Mông, đấng quân tử
coi đó mà quyết việc làm, nuôi lấy đức.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di - Dưới núi ra suối, ra mà gặp phải chỗ hiểm, chưa đi, đó là
tượng quẻ Mông, ví như người ta trẻ thơ, chưa hề đến đâu. Đấng quân tử xem
tượng quẻ Mông mà quyết việc làm, nuôi lấy đức, nghĩa là coi nó chảy ra mà
chưa thể thông đi, để mình quả quyết việc của mình làm; coi nó mới ra mà chưa
thể ngảnh về đâu, để mình nuôi lấy cái mình sở đắc vậy.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Suối là nước mới chảy ra, . tất nhiên phải đi, mà đi dần
dần.
LỜI KINH
初六: 發蒙, 利 刑, 說桎梏, 以往吝.
Dịch âm. - Sơ Lục: Phát mông, lợi dụng hình nhân, dụng thoát chất cốc, dĩ vãng,
lận.
Dịch nghĩa. - Hào Sáu Đầu: Mở mang trẻ thơ, lợi dùng về sự hình phạt người ta
[5] để thoát gông cùm, đi thì hối tiếc.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di - Hào Đầu là Âm tối, ở dưới, ấy là kệ dân mờ tối; hào này
nói là cách mở mang cho họ. Mở mang sự mờ tối cho kẻ dân, thì tỏ rõ hình cấm
[6] với họ, khiến họ biết sợ, rồi sau mới theo đó mà dạy bảo họ. Từ xưa các đấng
thánh vương làm việc chính trị, phải đặt ra hình phạt để làm cho dân chúng nhất
tề, tỏ rõ giáo hóa để làm cho phong tục lành phải; hình phạt lập rồi, giáo hóa
mới thực hiện được. Dù mà thánh nhân chỉ chuộng đức hóa không chuộng hình
phạt, nhưng cũng chưa từng bỏ riêng đàng nào. Cho nên lúc mới dựng nền chính
trị, phải lập phép luật trước đã, lúc mới trị kẻ tối tăm phải dọa họ bằng hình
phạt, để trút những cái gông cùm về sự mờ mịt của họ (?), gông cùm tức là trói
buộc, không bỏ được những gông cùm về sự mờ mịt, thì thiện giáo không có
đường nào mà vào. Đã dùng hình cấm dắt họ, dầu mà bụng họ chưa thể hiểu
được, nhưng họ cũng phải sợ oai mà theo, không dám thả động cái lòng ham
muốn mờ mịt, rồi mới có thể dần dần hiểu biết đạo phải mà đổi cái bụng, thì mới
có thể thay đổi thói tục. Nếu chỉ chuyên dùng hình phạt để làm việc, thì kẻ tối
tăm tuy là có sợ, nhưng rút lại vẫn không thể mở mang, họ chỉ cẩu thả tránh cho
khỏi tội mà không còn có liêm sỉ, trị hóa không thể thành được. Cho nên hễ
dùng kiểu đó mà đi thì là đáng tiếc.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Là Âm ở dưới, đó là tối tăm quá đỗi. Kẻ xem gặp hào
đó thì nên mở mang sự tối tăm của mình. Nhưng cách mở mang sự tối tăm đó,
cần phải trừng giới một cách thống thiết mà tạm bỏ đó [7] để coi về sau, nếu cứ
đi mà không chịu bỏ, thì sẽ đến phải hổ thẹn hối tiếc. Đó là răn kẻ xem phải nên
như thế.
Lỏi bàn của Tiên Nho. - Chu Hy nói rằng: "Phát mông" nghĩa là tự mình mờ tối,
được người mở mang cho, hoặc là người ta mờ tối, được mình mở mang cho.
"Lợi dụng hình nhân, dụng thoát chất cốc": nói cách thô thiển như ngày nay
người ta đánh tù, phải tháo gông cùm mới được, nếu cứ một mực cùm hẳn thì
không thể được. Nhược bằng một mực cùm hẳn, thì là "dĩ vãng lận". Đây chỉ nói
về cách trị kẻ tối tăm, cần nên rộng rãi chầy chậm, phép phải như thế.
LỜI KINH
象: 利 刑, 以正法也.
Dịch âm. - Tượng viết: Lợi dụng hình nhân, dĩ chính pháp dã.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Lợi dụng hình phạt người, để chính pháp vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di - Lúc mới trị kẻ mờ tối, phải dựng bờ ngăn, tỏ rõ tội phạt
của họ, thế là làm chính pháp luật, khiến họ cứ đó mà noi, dần dần đến phải biến
hóa. Có người ngờ rằng: lúc mới mở mang kẻ mờ tối, đã vội hình phạt người ta,
há chẳng là "không dạy mà giết" hay sao? Ngờ vậy là không biết rằng: trong
việc lập ra pháp chế, hình phạt là để dạy bảo. Về sau những người bàn về hình
phạt, đều không biết có giáo hóa ở trong.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Lúc mới mở mang cho kẻ mờ tối, phải trừng giới ngay,
là để làm cho pháp luật được đúng.
LỜI KINH
九: 包蒙, 吉.納婦吉, 克家.
Dịch âm. - Cửu Nhị: Bao Mông, cát! Nạp phụ, cát Tử khắc gia.
Dịch nghĩa. - Hào Chín Hai: Bao dung trẻ thơ, tốt! Nộp vợ [8], tốt! Con trị nhà!
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di - Bao là bao dung. Hào Hai ở đời mờ tối có tài cương
minh, cùng ông vua ở hào Sáu năm ứng nhau, cái đức trung chính, giống nhau,
tức là người đảm đang nhiệm vụ của đời, ắt phải rộng lượng bao dung, thương
kẻ ngu tối, thì có thể mở mang sự tối tăm của thiên hạ mà làm nên việc "trị kẻ
tối tăm"; đạo phải cho rộng, đức phải cho khắp, như thế thì tốt. Quẻ này có hai
hào Dương, hào Chín Trên thì cứng mà thái quá, chỉ hào Chín Hai có đức cứng
và trung chính, lại ứng với hào Năm, tức là kẻ được dùng với đời, mà chỉ riêng
mình sáng suốt vậy. Nếu cậy sáng suốt mà chuyên tự nhiệm, thì đức không rộng,
cho nên dù hạng đàn bà yếu đuối tối tăm, cũng nên nghe theo điều thiện của nó,
thì sự sáng suốt của mình mới rộng rãi. Vả lại, vì rằng các hào đều thuộc về Âm,
cho nên gọi là đàn bà. Thành như Nghiêu, Thuấn, thiên hạ không ai kịp, mà còn
nói rằng: " rộng hỏi kẻ dân", "lấy điều thiện của người làm điều thiện của mình",
hào Hai biết bao nạp, thì có thể làm nên công việc của vua, cũng như người con
làm nổi công việc của nhà. Hào Năm đã là Âm nhu, cho nên cái công mở mang
sự tối tăm, đều ở hào Hai. Nói về gia đình, thì Năm là cha, Hai là con, hào Hai
chủ trương được công việc của nhà, ấy là con người trị được gia đình vậy.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Hào Chín Hai lấy tư cách Dương cương làm chủ quẻ
trong, tóm coi các hào Âm, tức là người gánh cái nhiệm vụ mở mang kẻ tối tăm.
Nhưng hạng người mà nó phải trị thì rộng, mà tính loài người lại không nhất luật
như nhau, không thể nhất khái quyết định, mà đức hào ấy lại cứng mà không
thái quá, tức là cái tượng có sự bao dung. Vả lại, nó là Dương mà tiếp nhận các
hào Âm, cho nên lại là cái tượng "nghe vợ". Hơn nữa, nó ở ngôi dưới mà có thể
gánh việc trên, tức là cái tượng người con trị được gia đình. Cho nên kẻ xem, hễ
có đức ấy mà gánh việc ấy thì nên như thế là tốt.
LỜI KINH
象: 克家, 剛接柔也.
Dịch âm. - Tượng viết: Tử khắc gia, cương tiếp nhu dã.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Còn trị được nhà, cứng tiếp mềm vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di - Con mà trị nổi nhà là nhờ về sự tin dùng của cha chuyên
chất. Hào Hai chủ trương được công việc mở mang kẻ tối tăm, là nhờ về sự tin
dùng của hào Năm chuyên nhất. Hai và Năm, cái tính cứng mềm tiếp nhau, cho
nên đúng đạo cương trung, làm nên công việc mở mang kẻ mờ tối. Nếu tình trên
dưới mà không tiếp nhau, thì hào Hai tuy là cương trung, cũng không có thể làm
chủ công việc.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây là chỉ về hào Hai hào Năm ứng nhau.
LỜI KINH
六三: 勿 取, 夫, 不有躬, 無攸利.
Dịch âm. - Lục Tam: Vật dụng thử nữ, kiến kim phu, bất hữu cung, vô du lợi
Dịch nghĩa. - Hào Sáu Ba: Chớ dừng lấy gái, thây chồng vàng không có mình,
không thửa lợi.
GIẢI NGHĨA
Bản nghĩa của Trình Di. - Hào ba là Âm nhu ở chỗ tối tăm, tức là cái hạng gái
bất trung chính mà hay động càn, chính ứng ở trên, không thể đi xa mà theo, gần
thấy hào Chín Hai được các kẻ tối tăm theo về, và lại cực kỳ được thời, cho nên
nó mới bỏ nơi chính ứng mà theo hào đó, đó là con gái chỉ lấy chồng vàng. Con
gái theo người phải có chính lễ, vậy mà người này thấy kẻ nhiều tiền mà theo,
không thể giữ được thân mình, thì không đi đâu được lợi.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Hào Sáu Ba là hào Âm nhu, chẳng trung chẳng chính,
ấy là cái tượng con gái trông thấy vàng mà không tự chủ được mình.
Kẻ xem gặp hào đó, thì hẳn lấy vợ, ắt được cái người như thế, không còn lợi gì.
Chồng vàng, tức là đàn ông lây vàng đút mình mà chòng ghẹo mình, như việc
làm của chàng Thu Hồ nước lỗ [9].
Lời bàn của Tiên Nho. - Hồ Quảng nói rằng: Hai chữ "Kim phu" sách Bản nghĩa
giải không bó sát với tượng của hào. Trình truyện cho "Kim phu" là hào Chín
Hai, nhưng hào Chín Hai là chủ việc mở mang kẻ tối tăm, nếu hào Ba mà nếu
theo nó, thì cũng hợp với nghĩa của câu "trẻ thơ tìm ta" ở lời Thoán, không nên
cho là bất thuận. Nghĩa là, theo lệ Kinh Dịch: hào Âm ở thể dưới, mà có cầu
cạnh vói ngôi trên, thì đều hung, thuyết của họ Vương gần phải.
LỜI KINH
象: 勿 取, 不順也
Dịch âm. - Tượng viết: Vật dạng thủ nữ, hạnh bất thuận dã.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Chớ dùng lấy gái, nết không thuận vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di - Con gái như thế, nết họ cong queo không thuận, không
thể lấy được.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Chữ 順 nên đổi ra làm chữ 慎 (thận là cẩn thận), chữ
順(thuận), chữ 慎(thận) vẫn dùng lẫn lộn. "Nết không cẩn thận" với ý kinh càng
bén sát hơn.
LỜI KINH
六四: 困蒙, 吝.
Dịch âm. - Lục Tứ: Khẩn mông, lận.
Dịch nghĩa. - Hào Sáu Tư: Khốn về tăm tối, hối tiếc.
GIẢI NGHĨA
Bản nghĩa của Trình Di. - Hào Tư là Âm nhu mà tối tăm, không có bậc cương
minh giúp đỡ, chẳng có lối nào mở mang sự tối tăm của mình, nên mới bị khốn
về sự tối tăm, đáng hối tiếc lắm.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đã xa hào Dương, lại không có hào chính ứng, đó là
cái tượng bị khốn về sự tối tăm. Kẻ xem như thế là đáng hổ thẹn hối tiếc. Biết
tìm những kẻ cương minh mà gần gũi với họ, thì có thể khôn.
LỜI KINH
象: 困蒙之吝, 獨遠實也.
Dịch âm. - Tượng viết: Khôn mông chi lận, độc viễn thật dã.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Sự hối tiếc của kẻ khốn về tối tăm, một mình
xa sự thật (?) vậy.
GIẢI NGHĨA
Bản nghĩa của Trình Di. - Trong thời tốỉ tăm, Dương cương là kẻ mở mang sự
tối tăm, hào Tư là Âm nhu mà rất xa với Dương cương, tức là một hạng ngu tối
mà không được gần người hiền, không bởi đâu mà được sáng, cho nên phải
khốn về sự tối tăm. Đáng thẹn tiếc, là vì riêng nó phải xa người hiền minh.
Không được gần người hiền đến nỗi phải khốn, đáng thẹn tiếc lắm. "Thật" tức là
Dương minh vậy.
LỜI KINH
六五: 童蒙, 吉.
Dịch âm. - Lục Ngũ: Đồng mông, cát!
Dịch nghĩa.- Hào Sáu năm: Trẻ thơ, tốt!
GIẢI NGHĨA
Bản nghĩa của Trình Di. - Hào Năm lấy tư cách nhu thuận mà ở ngôi vua, phía
dưói ứng với hào Hai là hạng lấy đức cương minh, dùng tài cương minh, để trị
sự tối tăm của thiên hạ, cho nên mới tốt. "Trẻ thơ" là lây cái nghĩa "chưa được
mở mang, còn phải nhờ người".
Bản nghĩa của Chu Hy. - Cứng mềm ở giữa, nhằm ngôi tôn, phía dưới ứng nhau
với hào Chín Hai, giữ đức thuần nhất chưa mở mang để nghe người ta, cho nên
tượng nó là hạng trẻ thơ, mà lời chiêm như thế thì tốt.
LỜI KINH
象: 童蒙之吉, 順以巽也.
Dịch âm. - Tượng viết: Đồng mông chi cát, thuận dĩ tốn dã.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: sự tốt của trẻ thơ, thuận và nhũn vậy.
GIẢI NGHĨA
Bản nghĩa của Trình Di. - Bỏ mình theo người đó là thuận hạ chí mình mà tìm
xuống dưới là nhún. Có thể như thế, tức là hơn cả thiên hạ.
LỜI KINH
上九: 擊蒙, 不利為寇, 利御寇.
Dịch âm. - Thượng Cửu: Kích mông, bất lợi vi khấu, lợi ngự khấu.
Dịch nghĩa. - Hào Chín Trên: Đánh kẻ tối tăm, không lợi cho sự làm giặc, lợi
cho sự chống giặc.
GIẢI NGHĨA
Bản nghĩa của Trình Di. - Ở sau quẻ Mông, là nhằm gỉữa lúc tối tăm đến cùng
cực. Người ta tối tăm đến cùng cực thì dân Miêu không theo đức hóa, làm giặc
làm loạn, nên đánh đẹp nó. Nhưng hào Chín ở trên, cứng quá mà không được
giữa, cho nên răn rằng: "Không lợi cho sự làm giặc". Trị sự tối tăm của người ta,
tức là chống giặc; tự do làm sự tham bạo, thì là làm giặc.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Hào này là Dương cương, ở trên cùng, cho nên là
tượng đánh kẻ tối tăm. Nhưng, cả thuyết thái quá, đánh trị ngặt quá, thì ắt trở lại
làm hại. Chỉ có ngăn sự cám dỗ bên ngoài, để làm cho cái tính chất chân thật
thuần túy của nó được nguyên vẹn, thì dù có quá nghiêm mật, cũng là hợp lẽ nên
chăng, cho nên mới răn kẻ xem như thế. Việc gì cũng vậy, không phải một việc
dạy người mà thôi.
LỜI KINH
象: 利 御寇, 上下順也.
Dịch âm. - Tượng viết: Lợi dụng ngự khâu, thượng hạ thuận dã.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Lời về sự chống giặc, trên dưới đều thuận
vậy.
GIẢI NGHĨA
Bản nghĩa của Trình Di. - Lợi về sự chống giặc, là vì kẻ trên người dưới đều
được sự thuận của mình, người trên không làm dữ quá, kẻ dưới đánh đuổi được
sự tối tăm của nó, đó là cái nghĩa chống giặc.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Chống giặc bằng sự cương minh, kẻ trên dưới đều
đúng với đạo của mình.
QUẺ SỐ 4 - QUỐC VĂN CHU DỊCH - PHAN BỘI CHÂU
QUẺ MÔNG:
Mông là mông muội, ngu tối, non nớt. Chỉ sự rồ dại của tuổi trẻ và nhu cầu giáo
dục. Đây lấy truyện Chu công chú của Thành vương (con Vũ vương) nhiếp
chính và giáo dục ông vua con ngỗ nghịch khi vua anh mất. Thành vương khi
còn trẻ đã bị chú đầy đi xa một thời gian.
Lời quẻ: Mông. hanh. Phỉ ngã cầu đồng mông, đồng mông cầu ngã. Sơ phệ cáo,
tái tam độc, độc tắc bất cáo. Lợi trinh.
Dịch: Ngu tối. Hanh thông. Chẳng phải ta cầu đứa trẻ ngu tối mà là hắn cầu ta.
Hỏi một lần ta bảo cho, hai ba lần là phiền nhiễu. Nhảm phiền ta chẳng dạy. Nên
giữ thẳng và bền bĩ.
Đây nói về cách dạy kẻ thơ dại. Nếu cứ phạm lại lỗi cũ, tái đi tái lại là không
chú ý, không thèm nghe thì không dạy được. Cần kiên nhẫn trì chí.
Hào 1: Phát mông lợi dụng hình nhân. dụng thoát chất cốc, dĩ vãng lận.
Dịch: Buổi đầu để dạy trẻ nên dùng hình phạt. (Nếu) thả lỏng chân tay (sớm
quá) thì sẽ gặp khó lận.
Hình nên hiểu chung là luật lệ trật tự chứ không chỉ thuần túy là hình phạt.
(Nếu) thả lỏng chân tay (sớm quá) - hàm nghĩa buông lỏng kỉ luật, dễ khiến trẻ
không thèm nghe (sinh nhờn) thì không dạy được nên hối tiếc.
Hào 2: Bao mông cát. Nạp phụ cát. Tử khắc gia.
Dịch: Giáo dục trẻ thơ, tốt. (Đủ biết bổn phận để) lấy vợ, tốt. Người con trị vì
(được) gia tộc.
Bao là bao bọc; gia tộc đây là hoàng tộc nhà Chu. Thành vương sau trở thành
một ông vua tốt, biết lo trị vì, không bị che lấp hôn ám. - Hào 2 dương, lại có
hào 5 âm ứng hợp, trợ giúp (bề trên giúp bề dưới), đúng như ông Chu công giúp
dạy bảo Thành vương. Dạy cho biết vai trò của Giáo dục trẻ thơ, tốt. (Đủ biết
bổn phận để) lấy vợ, tốt, do vậy mà có thể làNgười con trị vì (được) gia tộc.
(kiểu như dạy tề gia, rồi biết trị quốc vậy).
Pth 77 chú thêm.
hảo 3: Vật dụng. Thú nữ. Kiến kim phu, bất hữu cung. Vô du lợi.
Dịch: Chớ (vội) làm. Lấy vợ. Thấy(mâm) vàng của chú rể nhưng chẳng thấy
người. Chẳng lợi đâu.
Hào này âm nhu, bất chính, chưa đủ chín muồi. Lời hào không có chữ Mông tức
không nói về quy trình giáo dục; ở đây cho thấy tình trạng hiện hữu: trẻ chưa
trưởng thành, phải nhờ người làm thay mình (hình ảnh là cảnh đến hỏi vợ nhưng
không có chú rể). Kẻ chưa chín thì dù vì nông nổi, ngây thơ hay thiếu thành thật
đều không nên hành động.
Hào 4: Khốn mông, lận.
Dịch: Thơ dại khốn đốn / Khốn trong ngu tối, lận đận (có hối tiếc).
Không ứng (hào 1 cũng âm) không hợp (hai hào bên cạnh cũng âm) như hào 4,
vị hào này khó khăn nhất quẻ. Tôi cho là chỉ vào lúc Thành vương bị đi đầy.
Hào 5: Đồng mông, cát.
Dịch: Trẻ thơ đã thuần, mở.
Đồng là trẻ thơ nhưng không còn mông muội như mông.
Hào 6: Kích mông. Bất lợi vi khấu, lợi ngự khấu.
Dịch: Đánh tan ngu tối. Chẳng nên làm giặc, nên chống giặc.
Đây là cái nhìn lại của kẻ đã trưởng thành. Giặc là những sai trái của chính mình
mà ta phải biết kiểm soát, đập tan.
Chú toàn quẻ của bạn pth 77:
- Quẻ Mông miêu tả một quá trình nuôi dạy trẻ (hay người còn u mê) và có thể
hàm chứa ý nghĩa về mối quan hệ giữa thày trò (ông Chu công và Thành
vương). Hào 1 là thời phát mông cần phải tạo dựng nề nếp. Sau đó là hào 2 có
sự bao mông, hàm nghĩa khi có được nề nếp rồi thì cần theo dõi, bao bọc, nuôi
dưỡng cái nếp đấy để học hành. Hào 3 nhắc nhở rằng phải luôn trông chừng trẻ
để có thể ngăn ngừa kịp thời những hành động vì nông nổi, ngây thơ khiến trẻ
bỏ mất nề nếp (vời hình ảnh Thú nữ. Kiến kim phu, bất hữu cung) thì không có
lợi cho việc học. Hào 4 có sự khốn mông (vị thế rất kém, không trợ lực, không
thân cận), ngoài nghĩa phạt nặng để trẻ biết hối lỗi (quan niệm thời xưa) ta cũng
có thể nghĩ rằng hào này nhắc nhở rằng phải quan tâm đến trẻ, nhằm tránh cho
trẻ khỏi bị khốn đốn trong mông muội, do không được chăm sóc, dạy bảo mà
(người thầy) sẽ hối hận (chẳng hạn như hoàn cảnh của trẻ mồ côi). Khi qua được
thời có thể khốn mông, thì sẽ được đồng mông -Trẻ thơ đã thuần, mở, với hàm
nghĩa là đã tạo dựng được nề nếp cho trẻ, nên mở ra thời mới là thời của hào 6
(thời mạt của quẻ). Khi trẻ đã thuần thì kích mông, hàm nghĩa dùng phương
pháp để giúp trẻ đánh tan u mê (một cách triệt để), bằng cách giúp trẻ kiểm soát,
ngăn chặn được các thói quen xấu - tức là giúp trẻ phân biệt được sự đúng sai,
vượt qua được sự mông muội, tạo ra giá trị mới cho trẻ (cũng là lúc thoát khỏi
thời / quẻ mông muội). Quẻ này có châm ngôn là Quả Hạnh Dục Đức, là sự /
quá trình giúp giữ nết, nuôi đức.
QUẺ SỐ 4 - BÍ ẨN QUẺ DỊCH