Quẻ 1 Thuần Càn

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 65

QUẺ 1: THUẦN CÀN

|||||| Thuần Càn (乾 qián)


Quẻ Thuần Càn, hay còn gọi là quẻ Càn (乾 qián),
tức Trời là quẻ số 01 trong Kinh Dịch.
* Nội quái là: ☰ (||| 乾 qián) Càn hay Trời (天).
* Ngoại quái là: ☰ (||| 乾 qián) Càn hay Trời (天).

Contents
1. Giải nghĩa:.........................................................................................................2
2. Đoán về mỗi hào................................................................................................3
QUẺ SỐ 1 - QUẺ KINH DỊCH CHO GIEO QUẺ...............................................6
QUẺ SỐ 1 - KINH DỊCH - NGÔ TẤT TỐ..........................................................7
QUẺ SỐ 1 - QUỐC VĂN CHU DỊCH - PHAN BỘI CHÂU.............................31
QUẺ SỐ 1 - KINH DỊCH DIỄN GIẢNG - KIỀU XUÂN DŨNG.....................56
QUẺ SỐ 1 - KINH DỊCH DIỄN GIẢI................................................................58
QUẺ SỐ 1 - BỐC PHỆ CHÁNH TÔNG............................................................58
QUẺ SỐ 1 - KINH DỊCH - DỊCH TỰ BẢN NGHĨA.........................................60
QUẺ SỐ 1 - KINH DỊCH - NGU YÊN NGUYỄN ĐẠI BẰNG........................61
QUẺ SỐ 1 - BÍ ẨN QUẺ DỊCH..........................................................................63
1. Giải nghĩa:
Kiện dã. Chính yếu. Cứng mạnh, khô, lớn, khỏe mạnh, đức không nghỉ. Nguyên
Khang Hanh Lợi Trinh chi tượng: tượng vạn vật có khởi đầu, lớn lên, toại chí,
hóa thành.
Dịch: Càn (có bốn đức – đặc tính): đầu tiên và lớn, hanh thông, thích đáng,
chính và bền.

Giảng:
- Văn Vương cho rằng bói được quẻ này thì rất tốt, hanh thông, có lợi và tất giữ
vững được cho tới lúc cuối cùng.

- Thoán truyện (tương truyền là Khổng tử, nhưng không chắc), cho quẻ này một
ý nghĩa về vũ trụ, Càn gồm sáu hào đều là dương cả, có nghĩa rất cương kiện,
tượng trưng cho trời.
Trời có đức “nguyên” vì là nguồn gốc của vạn vật; có đức “hanh” vì làm ra mây,
mưa để cho vạn vật sinh trưởng đến vô cùng, có đức “lợi” và “trinh” vì biến hóa,
khiến cho vật gì cũng giữ được bẩm tính được nguyên khí cho thái hòa (cực
hòa).
Bậc thánh nhân đứng đầu muôn vật, theo đạo Càn thì thiên hạ bình an vô sự.

- Tác giả Văn Ngôn truyện cho quẻ này thêm một ý nghĩa nữa về nhân sinh,
đạo đức. Càn tượng trưng cho người quân tử. Người quân tử có bốn đức:
 Nhân, đức lớn nhất, gốc của lòng người, tức như đức “nguyên” của trời.
 Lễ, là hợp với đạo lý, hợp với đạo lý thì hanh thông, cho nên lễ tức như
đức “hanh” của trời.
 Nghĩa, đức này làm cho mọi người được vui vẻ sung sướng, tức như đức
“lợi” của trời.
 Trí, là sáng suốt, biết rõ thị phị, có biết thị phi mới làm được mọi việc cho
nên nó là đức cốt cán, cũng như đức “trinh” chính và bền – của trời.
Nguyên, hanh, lợi , trinh mà giảng thành nhân, lễ, nghĩa, trí, (bốn đức chính của
đạo Nho) thì rõ là chịu ảnh hưởng nặng của Nho gia mà ý nghĩa và công dụng
của Dịch đã thay đổi khá nhiều rồi.
2. Đoán về mỗi hào.
Hào từ: Từ đây trở xuống là Hào từ, lời Chu Công đoán về mỗi hào.

2.1. Sơ cửu: Tiềm long vật dụng.


Dịch: hào 1 dương: Rồng còn ẩn náu, chưa (đem tài ra) dùng được.
Giảng: Người Trung Hoa cho con rồng là thần vật, rất biến hóa, lúc ẩn lúc hiện,
mà lại thuộc về lòai dương, cho nên chu Công dùng nó để cho ta dễ thấy ý nghĩa
các hào – đều là dương cả - trong quẻ Càn.
Hào 1, ở dưới thấp nhất, cho nên ví nó với con rồng còn nấp ở dưới vực sâu,
chưa thể làm mây biến hóa được, còn phải đợi thời. Ý nghĩa rất rõ, Tiểu tượng
truyện không giảng gì thêm. Còn Văn Ngôn truyện thì bàn rộng ra về cách sử sự
của bâc thánh nhân, người quân tử : chưa gặp thời thì nên tu đức, luyện tài,
không vì thế tục mà đổi chí, không cầu danh, ở ẩn, không ai biết mình cũng
không buồn, không gì lay chuyển được chí của mình.

2.2. Cửu nhị: Hiện long tại điền, lợi kiến đại nhân.
Dịch: Hào 2, dương: rồng đã hiện ở cánh đồng, ra mắt đại nhân thì lợi.
Giảng: hào 2 là dương, ở giữa nội quái là đắc trung, như vậy là gặp thời, tài đức
giúp ích cho đời được: lại thêm hào ứng với nó là hào 5, cũng là dương, cũng
đắc trung (vì ở giữa ngọai quái); cho nên hào 2 có thể ví với con rồng đã rời vực
mà hiện lên cánh đồng; mà cũng như người có tài đức gặp thời, nên kiến đại
nhân).
Văn ngôn: khuyên người có tài đức gặp thời này nên giữ đức tín, đức thận trọng
trong ngôn, hành, tránh tà bậy, giữ lòng thành, giúp đời mà không khoe công,
như vậy là giữ được đức trung chính của hào 2.

2.3. Cửu tam: Quân tử chung nhật càn càn, tịch dịch nhược. Lệ, vô cữu.
Dịch: hào 3, dương: Người quân tử mỗi ngày hăng hái tự cường, đến tối vẫn còn
thận trọng như lo sợ. Nguy hiểm, nhưng không tôi lỗi.
Giảng: Hào 3 là dương lại ở vị ngôi dương, như vậy là rất cương, mà không đắc
trung. Hơn nữa, nó ở trên cùng nội quái mà chưa tiến lên ngọai quái, nghĩa là ở
một chỗ chông chênh, rất khó xử, cho nên bảo là nguy hiểm (lệ). Nhưng nó vẫn
là quân tử, có đức tự cường không ngừng, rất thận trọng, lúc nào cũng như lo sợ,
cho nên tuy gặp thời nguy mà cũng không đến nỗi tội lỗi.
Văn ngôn bàn thêm: người quân tử giữ trung tín để tiến đức; sửa lời nói (lập
ngôn) vững lòng thành để lập sự nghiệp . . .nhờ vậy mà thấu được đạo lý, giữ
được điều nghĩa làm được sự nghiệp tới cùng, ở địa vị cao mà không kiêu, địa vị
thấp mà không lo (coi tòan văn ở phần I, Chương II . .. )Lời khuyên đó cũng tựa
như lời khuyên ở hào 2
2.4. Cửu tứ: Hoặc dược, tại uyên, vô cữu.
Dịch: Hào 4, dương: như con rồng có khi bay nhảy, có khi nằm trong vực (biết
tùy thời như thế thì) không lầm lỗi.
(Có người dịch là như con rồng có khi bay nhảy trên vực sâu, không lầm lỗi).
Giảng: Hào 4 là dương ở vị (ngôi) âm, như vậy là bất chính và bất trung; nó lại
cũng như hào 3 ở địa vị chông chênh, mới rời nội quái tiến lên ngọai quái, tiến
chưa chắc đã tốt mà thóai thì dở dang. Cho nên phải thận trọng xem xét thời cơ,
nên tiến thì tiến (như con rồng bay nhảy) nếu không thì chờ thời (con rồng nằm
trong vực), cho nên Chu Công dùng chữ “hoặc”: không nhất định.
Tuy bất chính, bất trung như nó có chất cương kiện (hào dương trong quẻ Càn)
nên cũng như hào 3 là bậc quân tử , biết giữ tư cách, biết tùy thời, và rốt cuộc
không có lỗi.
Hào này chỉ khác hào 3 ở chỗ nó có thể tiến được, còn hào 3 chưa thể tiến được.
Văn ngôn không giảng gì khác, chỉ khuyên người quân tử tiến đức tu nghiệp,
chuẩn bị cho kịp thời để có lúc ra giúp đời.

2.5. Cửu ngũ: Phi long tại thiên, lợi kiến đại nhân.
Dịch: Hào 5, dương: Rồng bay trên trời, ra mắt kẻ đại nhân thì lợi.
Giảng: Hào 5 là dương ở vị (ngôi) dương cao nhất trong quẻ lại đắc trung (ở
giữa ngọai quái), như vậy là có đủ những điều tốt,vừa cao quí vừa chính trung.
Nó lại được hào 2 ở dưới ứng với nó, mà hào 2 cũng cương kiện, đắc trung như
nó. Nó là hào tốt nhất trong quẻ , cho nên ví nó với con rồng bay trên trời, và
ngôi của nó là ngôi chí tôn (ngôi vua).
Chữ đại nhân (người có tài đức) trỏ cả hào 5 lẫn hào 2: hai đại nhân ở hai hào đó
nên gặp nhau, hợp lực với nhau thì có lợi.
Văn ngôn giảng thêm rất rõ và hay về bốn chữ lợi kiến đại nhân: “đồng thanh
tương ứng, đồng khí tương cầu; nước chảy xuống thấp, lửa bén tới chỗ khô; mây
bay theo rồng, gió bay theo cọp, thánh nhân xuất hiện mà vạn vật đều trông vào
(…) Mọi vật đều theo loài của nó” (Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu;
thủy lưu thấp, hỏa tựu táo, vân tòng long, phong tòng hổ, thánh nhân tác nhi vạn
vật đổ (…) các tùy kỳ loại dã).

2.6. Thượng cửu: Kháng long hữu hối.


Dịch: Hào trên cùng, dương: Rồng lên cao quá, có hối hận.
Giảng: hào dương này ở trên cao của quẻ , cương kiện đến cùng rồi, như con
rồng bay lên cao quá, không xuống được nữa, nếu vẫn còn hành động thì sẽ có
điều đáng tiếc, vì lẻ thịnh quá thì tất suy, đầy thì không được lâu, (doanh bất khả
cửu).
Văn ngôn: giảng thêm: Hào 5 địa vị rất quí (vì ở trên cao hơn hết) nhưng không
có ngôi, cao mà không có dân (vì hào 5 là vua mới có dân), các người hiền ở
dưới mình mà không giúp đỡ mình (vì hào 3 tuy ứng với hào 6 nhưng lại ở nội
quái, mà giữa hào 3 và hào 6 có hào 5 là vua làm chủ hào 3 rồi) cho nên hào 6
mà họat động thì tất có điều phải ăn năn.
Tóm lại thời của hào này là thời không nên họat động gì cả, sớm rút lui đi thì
còn giữ được tư cách người quân tử .

2.7. Dụng cửu: Kiến quần long vô thủ. Cát.


Dịch: (nghĩa từng chữ) Dùng hào dương: thấy bầy rồng không có đầu, tốt.
Chú thích: chu Hi giảng: Gặp quẻ Càn này mà sáu hào (dương) đều biến (ra
âm) cả, tức là cương mà biến ra nhu, thì tốt. Thánh nhân dùng cái tượng bầy
rồng (sáu hào dương) mà không đầu (tức là nhu) để diễn ý đó.
J. Legge, R. Wilhelm đều hiểu theo Chu Hi mà không giảng gì thêm. Duy Phan
Bội Châu đưa thêm ý kiến riêng, đại ý bảo “Dụng cửu” không phải là một hào.
“quần long vô thủ” là sáu hào dương đều biến cả. Con rồng họat động khác
thường là cốt ở cái đầu. Sáu hào dương đã biến (ra âm) hết thì không còn hình
tích họat động nữa, cho nên gọi là rồng không đầu.
Nhưng cụ cũng nhận rằng đó chỉ là mặt chữ mà giải thích nghĩa đen thôi, chứ
cái “ý thâm diệu của thánh nhân thì sâu xa huyền bí quá” Nghĩa là lời kinh tối
nghĩa quá, cụ không hiểu nổi.
- Cao Hanh hiểu khác, bảo “bầy rồng không đầu, nghĩa là bầy rồng đã bay lên
trời, đầu bị mây che, nên chỉ thấy mình và đuôi. Đó là cái tượng rồng cưỡi mây
lên trời, tốt”.
Cách giảng đó dễ hiểu, nhưng hai chữ “dụng cửu” có nghĩa gì đây, phải là một
“hào” mới không, thì ông không cho biết. Cứ theo cách ông giảng “dụng lục”
của quẻ Khôn – coi quẻ sau – cho “dụng lục” là một hào, thì chắc ông cũng cho
“dụng cửu” của quẻ Càn là một hào. Nếu vậy thì “hào” này ra sao? Có phải là cả
sáu hào của quẻ đều từ dương biến ra âm, như Chu Hi giảng không ?
- Tào Thăng giải nghĩa khác nữa: “Cửu “ là hào dương biến; “dụng” là lợi dụng,
“vô thủ” là không có đầu mối. Đạo Càn (quần long) vận hành, biến hóa kỳ diệu,
vạn vật nhờ đó mà thành công, nhưng cái lý do nó không thể thấy được (vô thủ),
hễ dùng nó hợp thời thì tốt.
Vậy cơ hồ Tào không cho “dụng cửu” là một hào, mà chỉ có nghĩa là cách dùng
quẻ Càn.
- Chu Tuấn Thanh trong “Lục thập tứ quái kinh giải” – Cổ tịch xuất bản xã –
đưa ra một cách giải nữa cho “Dụng cửu” là tóm lại nghĩa của sáu hào thuần
dương, Thuần dương là cái đức của trời, là gốc của vạn vật không có gì ở trước
nó được, ở trước nó thì xấu, theo sau nó thì tốt. Đó là ý nghĩa của hai chữ “vô
thủ” Nghĩa này theo tôi, khó chấp nhận được.
- Nghiêm Linh Phong trong “Chu Dịch tân luận” – Chính trung thư cục –dẫn
nhiều thuyết nữa.
Thuyết của Vương An Thạch, Đô Khiết, cho câu: “dụng cửu: Kiến quần long vô
thủ, cát “không phải là một tiết riêng mà chỉ là tiếp theo tiết Thượng cửu”
Thuyết của Ngô Nhân Kiệt, bảo các bản Dịch thời cổ, cho đến đời Phi Trực nhà
Hán không có hai chữ “Dụng cửu”, đời sau thêm vào v.v. . .
Tóm lại câu “dụng cửu . .” này, tới nay vẫn còn là một bí mật, không ai hiểu rõ
nghĩa, tòan là đóan phỏng. Nếu coi nó là một hào thứ bảy tức trường hợp cả 6
quẻ Càn biến một lần ra âm hết, thì trường hợp đó cả ức triệu lần chưa chắc đã
xảy ra một (1), các sách bói, đóan số không khi nào dùng nó cả. Về triết lý, thì ý
nghĩa của nó chẳng có gì đặc biệt, cũng chỉ là biết cương mà cũng biết nhu, hợp
thời mới tốt.

QUẺ SỐ 1 - QUẺ KINH DỊCH CHO GIEO QUẺ

Quẻ Kinh Dịch số 1: Thuần Càn "Khốn Long Đắc Thủy" Thời Vận Đã Đến
Quẻ Thuần Càn hay còn gọi là Càn Vi Thiên là quẻ đứng đầu trong Kinh Dịch.
Lời đoán quẻ Thuần Càn:
"Càn" tượng trưng "Trời", mặt đối lập với "Đất". Quẻ Càn là quẻ Đại Cát, đặc
biệt vui sướng. Người gieo được quẻ này rất mừng, mọi việc như ý, không sợ
họa hung.
"Càn" tượng trưng "Trời", mặt đối lập với "Đất". "Quẻ Càn" là quẻ mở đầu
mang ý nghĩa "Khốn Long Đắc Thủy" tức "Rồng bị cùng khốn đang được
nước". Ví như đại hạn gặp mưa rào, không gì tốt bằng. "Càn" cũng có nghĩa
khác là "cứng rắn, khỏe mạnh". Cái gọi là "cứng rắn, khỏe mạnh", không quanh
co, giữ thái độ công bằng chính trực. Vì thế được coi là biểu tượng của rồng bị
khốn khó lấy được nước. Rồng khốn được nước chỉ con rồng sống một thời gian
dài trong vực, không được bay nhảy bỗng trời mưa to, sấm chớp ầm ầm. Nhờ có
mưa mà nó có thể mặc sức bay nhảy.
Hình tượng quẻ Thuần Càn:
Giao long (rồng nước) ở trong vực đã lâu, nay gặp cơn mưa liền bay lên trời.
Rồng bay lượn trên trời ví như sự biến hóa, dù gặp tai họa cũng không bị hại,
thỏa chí vẫy vùng, không còn gì hơn.
Nếu gieo được quẻ này, đó là điểm "Thời vận đã đến", gặp thời đắc thế, thỏa chí
vẫy vùng, không sợ họa hung.
Ngày xưa, Sài Thế Trung cùng khốn phải đẩy xe đi bán than, gieo được quẻ này.
Sau quả nhiên ứng nghiệm: Quách Uy không con đã cân nhắc Thế Trung lên địa
vị lớn. Đúng là ứng với quẻ "Khốn Long Đắc Thủy", thật là "thời vận đã đến".
Lời thơ của quẻ Thuần Càn
"Thế Trung khốn khó, đẩy xe than,
Thành tâm rút thẻ, được quẻ Càn.
Quách Uy không con, nhường tước vị,
Khốn Long Đắc Thủy, thật là sang."
Lời đoán: Quẻ Thuần Càn là quẻ Đại Cát, đặc biệt vui sướng. Người xem thấy
quẻ này rất mừng, mọi việc như ý, không sợ họa hung.
QUẺ SỐ 1 - KINH DỊCH - NGÔ TẤT TỐ

QUẺ KIỀN
Kiền trên; Kiền dưới
LỜI KINH
乾元亨利貞.
Dịch ám. - Kiền nguyên hanh lợi trinh
Dịch nghĩa. - Kiền: Đầu cả, hanh thông, lợi tốt, chính bền.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di – Đời Thượng cổ thánh nhân bắt đầụ vạch ra tám Quẻ, đạo
của ba Tài đủ rồi, nhân đó lại trùng điệp lên cho hết các sự biến đổi của gầm
trời. Cho nên, sáu vạch thành một quẻ, hai hình Kiền thì là quẻ Kiền. Kiền tức là
trời, chữ "trời" chỉ về hình thể của trời, chữ "kiền" chỉ về tính tình của trời. Kiền
nghĩa là mạnh, mạnh mà không nghỉ gọi là Kiền. Ôi! Trời gộp lại, là Đạo, cái
mà "trời cũng không thể sai trái" đó vậy; nếu nói tách ra, thì về phần hình thể
gọi là Trời, về phần chủ tể gọi là Đế, về phần công dụng gọi là Quỉ thần, về
phần diệu dụng gọi là Thần, về phần tính tình gọi là Kiền. Kiền là đầu muôn vật,
cho nên là trời, là Dương, là cha, là vua. Nguyên, hanh, lợi, trình là bốn đức
tính: nguyên là muôn vật bắt đầu, hanh là muôn vật lớn lên, lợi là muôn vật
được thỏa, trinh là muôn vật đã thành. Chỉ Kiền và Khôn có bốn đức tính ấy,
còn ở Quẻ khác thì nó tùy việc mà thay đổi đi. Cho nên nguyên là chuyên làm
những điều thiện lớn; lợi thì chủ về những sự chính bền; thể của hanh, trinh,
việc nào xứng với việc ấy. Ý nghĩa của bốn đức tính rộng lớn, lớn thật.
Bản nghĩa của Chu Hy. – Sáu vạch là Quẻ của Phục Hy vạch ra, nét là lẻ, số của
khí Dương, chữ Kiền là mạnh, tính của khí Dương. Chữ Kiền, trong bản chú là
tên Quẻ ba nét (quẻ đơn) dưới là quẻ trong, trên là quẻ ngoài. Chữ Kiền trong
Kinh văn là tên quẻ sáu nét (quẻ kép). Phục Hy ngửa xem, cúi xét, thấy Âm
Dương có số lẻ chẵn, cho nên vạch một nét lẻ để hình dung khí Dương, vạch
một nét chẵn để hình dung khí Âm; thấy một Âm một Dương lại có cái tượng
sinh ra một Âm và một Dương nữa, cho nên từ dưới kể lên, gấp hai lần nữa, mà
làm ba nét, cho thành tám Quẻ; thấy tính của khí Dương thì mạnh, mà thành cái
hình lớn nhất là Trời, nên những quẻ có ba nét lẻ, đặt tên là Kiền mà sánh với
Trời. Ba nét đủ rồi, tám Quẻ thành rồi, lại gấp thêm ba lần nữa cho thành sáu
nét, mà trên tám Quẻ, mỗi Quẻ lại thêm vào tám Quẻ nữa, cho thành sáu mươi
tư quẻ. Quẻ này sáu nét đều lẻ, trên dưới đều Kiền, thì là Dương đến thuần túy,
mạnh đến cùng tột, cho nên cái tên là Kiền, cái tượng là trời, đều không thể đổi.
Nguyên, hanh, lợi, trinh là lời của Văn Vương đèo vào, để đoán sự lành dữ của
một quẻ, vẫn gọi lời Thoán. Nguyên nghĩa là cả, hanh nghĩa là thông, lợi nghĩa
là nên, trinh nghĩa là chính đính mà bền vững. Văn Vương cho rằng: Đạo Kiền
cả thông mà rất chính đính, cho ta nên khi bói, hễ được quẻ ấy mà cả sáu hào
không biến, thì sự "chiêm" đó sẽ được cả thông mà ắt lợi về đường chính đính
bền vững, mới có thể giữ được trọn vẹn về sau. Đó là một cái tinh ý của thánh
nhân sở dĩ làm ra Kinh Dịch để dạy người ta bói toán, mà lại có thể "mở mang"
các vật, làm nên các việc". Quẻ khác cũng theo như thế mà suy.
Lời bàn của Tiên Nho. - Hồ Vân Phong nói rằng: Sách Liên sơn của nhà Hạ bắt
đầu bằng quẻ Cấn, sách Qui tàng của nhà Thương bắt đầu bằng quẻ Khôn, Kinh
Dịch của vua Văn Vương thì bắt đầu bằng quẻ Kiền. Kinh Dịch vì sự nên rõ
phận cả (phận vị vua tôi) mà làm ra, xem hình Tiên thiên vẽ ngang, Kiền ở số
một mà hình tiên thiên vẽ tròn. Kiền ở mặt trước, thì Kinh Dịch của Phục Hy
cũng đã thế rồi. Sách Bản nghĩa nói rằng: "Nét" - "là lẻ, số của khí Dương", đố
là theo Tượng mà nói; "Kiền nghĩa là mạnh; tính của khí Dương" đó là theo Lý
mà nói. Trình Tử nói rằng: "Rất nhỏ là lý, rất rõ là Tượng". Chu Tử lại theo Số
và Tính mà phát minh thêm. Trong đời Phục Hy, có nét quẻ Kiền, chưa có
những chữ "nguyên, hanh, lợi, trinh" tưởng rằng lúc ấy người nào xem được quẻ
này, theo Tượng của sáu nét kia mà xét cũng đã tự biết có lẽ "nguyên, hanh, lợi,
trinh" rồi.
Lại rằng: Bốn chữ "nguyên, hạnh, lợi, trinh", các nhà đều giải làm bốn đức tính,
riêng sách Bản nghĩa cho là lời "chiêm", cho nên bói được quẻ này mà cả sáu
hào không biến thì lấy câu đó mà đoán. Xét như trong sách Khải mộng, thì
chẳng những sáu hào không biến, mới đoán như thế, quẻ Kiền biến đi ba hào,
hay là ba hào quẻ khác biến sang quẻ Kiền, cũng lấy câu đố mà đoán. Cả thông
và rất chính, ấy là gốc của trời đất. Nhưng cả thông mà lại ắt phải chính bền, ấy
là lẽ đương nhiên của nhân sự. Kiền là quẻ thứ nhất trong Kinh Dịch, bói được
quẻ ấy tuy là việc vẫn cả thông, nhưng nếu mà không chính đính bền vững, thì
cũng không thể giữ được trọn vẹn về sau, huống chi quẻ khác. Cho nên lời
Thoán trong sáu tư quẻ Kinh Dịch, thì bà tư quẻ cố nói đến "trinh" Thế thì
không trinh vẫn không có thể xem bói.
Hồ Song Hồ nói rằng: Sáu mươi tư quẻ đầu là Kiền, thứ hai là Khôn, ấy là theo
ngôi trời đất, bày rỏ cái phận vua tôi, trên dưới, để làm giềng mối cho đạo
người. Nay coi những chữ "lợi trinh", "an trinh cát" trong các lời Thoán của hai
quẻ Kiền, Khôn có thể thấy rõ cái lòng Văn Vương. Rút lại lời Thoán thì là
những lời quyết đoán của việc xem bói, phần nhiều cũng theo hình tượng và sự
biến đổi của các quẻ đại để đều là nhân lời chiêm để ngụ vỉệc dạy đời. Như nói
"lợi trinh" không nói "lợi bất trinh", với "trinh cát" không nói "bất trinh cát"
v.v… Phép của thánh nhân tuy có bốn, giáo của thánh nhân chỉ có một. Một đó
là gì? Tức là "trinh" vậy.
LỜI KINH
初九: 潜 勿.
Dịch âm. - Sơ cửu: Tiềm long vật dụng.
Dịch nghĩa. - Hào Chín Đầu: Rồng lặn chớ dùng.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di - Hào dưới là Đầu, Chín là số Dương đã thịnh, cho nên
dùng để đặt tên hào Dương. Lý vốn là vật vô hình, nên phải mượn Tượng làm
cho rõ nghĩa. Kiền lấy con rồng làm Tượng, rồng là loài vật thiêng liêng biến
hóa không thể lường được, cho nên dùng để hình dung sự biến hóa của đạo
Kiền, sự tiêu tức của khí Dương và sự tiến lui của thánh nhân. Hào Chín Đầu ở
dưới một quẻ, là đầu các vật, khí Dương đương sinh, thánh nhân còn trong hàn
vi, cũng như rồng còn lặn hụp, chưa thể tự ra làm việc, phải náu kín để chờ thời.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Chín Đầu là tên hào Dương ở dưới một quẻ. Phàm lúc
vạch ra các quẻ, đều phải từ dưới lên trên, cho nên lấy hào dưới đất làm hào
Đầu. Số Dương chín là già, mà bảy là trẻ, già thì biến đổi, trẻ không biến đổi,
cho nên mới gọi hào Dương là chín. "Rồng lặn chớ dùng" là lời Chu Công đèo
vào để đoán sự tốt xấu của một quẻ, vẫn gọi nó là lời Hào. Lặn tức là nấp, rồng
tức là vật thuộc Dương. Khí Dương đầu tiền còn ở bậc dưới, chưa thể thi thố
việc gì, cho nên Tượng nó là con rồng lặn, lời chiêm của nó thì là "chớ dùng".
Phàm gặp quẻ Kiền mà hào này biến, thì xem Tượng đó mà ngẫm vào lời
"chiêm" kia. Các hào theo đó mà suy.
Lời bàn của Tiên Nho – Chu Hy nói rằng: Kinh Dịch cũng như cái gương, vật gì
đến cũng soi được. Như nói "rồng, lặn" chỉ là có cái tượng ấy, tự thiên tử đến
thứ nhân, người nào đến cũng "xử" được. Khổng Tử bảo: "có đức con rồng mà
còn ẩn nấp, không đổi dời, không nên danh", tức là chỉ thiết vào việc mà nói.
Những kẻ biết xem, thì dẫu thuyết của Khổng Tử cũng vẫn linh hoạt, và vẫn
không đâu không thông; kẻ không biết xem thì dù thuyết của Văn Chu Cương
cũng là lời chết.
Hào Chín Đầu của quẻ Kiền, chỉ là hình tượng "Khí Dương ẩn nấp" và lời
Chiêm "chưa thể phát dụng" mà thôi. Nếu như để ngay một người "Không đổi
dời", không nên danh, ẩn mà chưa hiện, làm mà chưa nên"; ngồi vào trong đó,
thì là lời chết mất rồi. Bằng như hiểu được bản ý quẻ này, dù gặp thời ấy, ở ngôi
ấy, làm người ấy, cũng không hại gì.
LỜI KINH
九: 在, 利
Dịch âm. - Cửu Nhị: Hiện long tại điền, lợi kiến đại nhân.
Dịch nghĩa. – Hào Chín Hai; Rồng hiện ở ruộng, lợi về sự thấy người lớn.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di – Ruộng là lớp trên mặt đất, xuất hiện ở trên mặt đất, thì
tức đã tỏ, lợi về sự được thấy ông vua có đức lớn để thi hành đạo thuật của
mình; ông vua chúa cung lợi về sự được thấy bề tôi có đức lớn để làm thành
công nghiệp của mình; người trong thiên hạ thì lợi về sự thấy người đức lớn, để
gội ơn huệ của họ. Ông vua đức lớn tức Hào Chín năm. Kiền Khôn là quẻ thuần
túy, không phân biệt cứng mềm, mà lấy cái đức giống nhau để ứng với nhau [1].
Bản nghĩa của Chu Hy. – "Hai" là kể từ dưới lên, nhằm hào thứ hai, sau đây theo
đó mà suy. Hào Chín Hai này cứng mạnh trung chính [2], ra khỏi chỗ lặn, lìa
khỏi chỗ ẩn, ơn huệ lan tới người ta, người ta được thấy là lợi. Cho nên tượng nó
là con rồng hiện ở ruộng, lời chiêm của nó thì là lợi về sự thấy người lớn. Hào
Chín Hai tuy chưa được ngôi [3] mà cái đức của người lớn đã tỏ, người thường
không thể đương nổi, cho nên khi bói gặp hào này biến chỉ là lợi về sự thấy
người ấy. Nghĩa là cũng chỉ vào hạng người lớn ở ngôi dưới vậy; Đó là dùng
hào và lời chiêm cùng làm chủ khách của nhau, ấy là một cái lệ riêng.
Nếu mà có đức "rồng hiện" thì là lợi về sự thấy người lớn ở hào Chín Năm trên
đó.
Lời bàn của Tiên Nho. - Chủ Hy nói rằng: Trong quẻ Kiền, Hào khác, kẻ xem có
thể coi là chính mình, riêng hào Chín Hai và hào Chín Năm thì không thể cho là
nói về mình. Hai câu "lợi về sự thấy người lớn" [4] trước giờ người ta đều giải
không thông. Hào Chín Hai có hình bóng gì? Sao lại bắt thấy người lớn? Xét ra,
hễ xem được hai hào ấy thì có thể thấy người lớn. Người lớn không cần chỉ về
vua chúa, kẻ xem không đương nổi rồng hiện rồng bay, thì kẻ xem là khách, lợi
về sự thấy người lớn ấy. Người lớn tức là rồng hiện, rồng bay, người có đức của
hào Chín Hai và hào Chín Năm vậy. Còn chữ rồng lặn [5] và chữ quân tử [6] thì
kẻ xem tự mình đương lấy.
LỜI KINH
九三: 君 終 乾乾 惕若, 厲! 咎
Dịch âm. - Cửu Tam: Quân tử chung nhật kiến kiền, tịch Dịch nhược! Lệ, vô
cữu.
Dịch nghĩa. - Hào Chín Ba: Đấng quân tử trọn ngày săng sắc [7], tối dương rùng
rợn. Nguy! Không lỗi.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di, - Hào Chín Ba tuy là ngôi của người [8] nhưng đã ở trên
thể dưới [9], chưa lìa khỏi bậc dưới mà được tôn hiển…. Suốt ngày đến tối,
không dám trễ nải mà vẫn nơm nớp lo sợ, thì dù ở chỗ hiểm nghèo cũng không
có lỗi. Kẻ ở ngôi dưới mà đức làm vua đã rõ [10], thiên hạ sắp sửa theo về, đủ
thấy là đáng lo sợ. Tuy là nói về việc thánh nhân, nhưng nếu không đặt ra ý răn
dỗ, thì còn lấy gì làm sự dạy người? Đố là cái nghĩa làm ra Kinh Dịch.
Bản nghĩa của Chu Hy. – Chín là hào Dương, Ba là ngôi Dương, đã hai lần cứng
[11], lại không chính giữa, ở bậc dưới, ấy là chỗ hiểm nghèo. Nhưng tính nó
cứng mạnh, có cái hình tượng có thể săng sắc sợ gắng, cho nên lời chiêm của nó
như thế. Chữ quân tử chỉ về kễm. Ý nói: nếu biết lo sợ như thế thì dù ở chỗ hiểm
nghèo cũng không có lỗi.
Lời bàn của Tiên Nho. – Chu Hy nói rằng: Hỏi rằng: Hào Chín Ba không nói
tượng là cớ làm sao? Đáp rằng: Chín Ba là hào Dương, tính cứng không được
chính nghĩa, ở trên bậc dưới, có cái hình tượng sức mạnh nhọc khổ, không thể
nói bằng con rồng, cho nên chỉ nói săng sắc, rùng rợn. Nghĩa là nó có hình
tượng săng sắc sợ gắng vậy.
Họ Vương nói rằng: Phàm nói không lỗi, đều là đáng lẽ có lỗi, xử được phải
cách thì không có lỗi.
LỜI KINH
九陳或躍在淵, 咎
Dịch âm. – Cửu Tứ: Hoặc dược tại uyên, vô cửu.
Dịch nghĩa. – Hào Chín Tư: Hặc nhảy ở vực, không lỗi.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di – Vực là chỗ của rồng ở. Hoặc là tiếng còn nghi ngờ, nghĩa
là không hẳn. Nhảy hay không nhảy, chỉ cốt kịp thời để tới chỗ yên ổn. Thánh
nhân hành động, không việc gì mà không phải thời.
Bản nghĩa của Chu Hy. – Hoặc là tiếng nghi ngờ chưa định hẳn; nhảy là không
bám vào đâu mà tuyệt hẳn với đất, có điều chưa bay mà thôi; vực là nơi trên
trống dưới rỗng, sâu tối không lường. Con rồng ở đó dường như thấp hơn ở
ruộng, nhưng nếu nhảy và vượt dậy, thì là ngoảnh lên trời rồi.
Chín là hào Dương, thứ Tư [12] là ngôi Âm, ở dưới quẻ trên, tức là giữa lúc thay
đổi, giữa khi tiến lui chưa định, co nên tượng nó như thế, mà Chiêm của nó thì là
tùy thời tiến lui sẽ không có lỗi.
Lời bàn của Tiên Nho. – Dịch Sơn Trai nói rằng: Hào Chín Tư đã lìa khỏi thể
dưới, cho nên gọi là nhảy, nhưng còn ở dưới thể trên, cho nên nói là ở vực. Vực
thấp hơn ruộng, ruộng là đất bằng, vực thì trống cả trên dưới. Hào Hai nói ở
ruộng, hào này lại nói ở vực, là vì vực là chỗ ở của rồng, không thể ví như ở
ruộng, ở ruộng thì không thể biến hóa mà ở vực thì có cách biến hóa.
Khâu Kiến An nói rằng: Chín là Dương, Dương là động, cho nên nói nhảy, Thứ
Tư là Âm, Âm thì trống không, cho nên nói là ở vực. Hoặc là hãy còn nghi ngờ.
TIến lên thì nhảy, lui xuống thì ở trong vực, xuất xử như thế, có thể không có
lỗi.
LỜI KINH
九五: 在天, 利.
Dịch âm. – Cửu Ngũ: Long phi tại thiên, lợi kiến đại nhân.
Dịch nghĩa. – Hào Chín Năm: Rồng bay ở trời, lợi về sự thấy người lớn.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di – Đây là tiến lên ngôi trời Thánh nhân đã được ngôi trời,
thì lợi về sự thấy người ở đức lớn ở dưới, để cùng mình làm việc trong thiên hạ,
thiên hạ cũng lợi về sự được thấy ông vua đức lớn [13].
Bản nghĩa của Chy Hy. – Hào này cứng mạnh, trung chính ở ngôi cao, giống
như lấy đức thánh nhân ở ngôi thánh nhân, cho nên Tượng nó như thế mà Chiêm
thì cũng như hào Chín Hai, có điều cái người hào này thấy mà được lợi là hạng
người lớn ở trên mà thôi. Nếu như có cái ngôi ấy thì người "thấy mà được lợi"
lại là hạng người lớn ở dưới của hào Chín Hai.
Lời bàn của Tiên Nho. – Dương Thành Trai nói rằng: Chín là đức của trời, là
tượng con rồng; Năm là ngôi trời, tức là cái tượng bay mà ở trời.
LỜI KINH
上九: 亢 有悔.
Dịch âm. – Thượng Cửu: Kháng long hữu hối.
Dịch nghĩa. – Hào Chín Trên: Rồng quá cực có ăn năn.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di – Chín Năm là ngôi cùng tột, trung chính là sự đắc thời
cùng tột, quá đó thì là quá cực. Hào Chín Trên tới chỗ quá cực, cho nên có sự ăn
năn. Có lỗi thì có ăn năn, chỉ có thánh nhân biết lẽ tiến, lui, còn, mất mà không
có lỗi, cho nên không đến ăn năn.
Bản nghĩa của Chu Hy. – Trên là tên một hào trên cùng. Quá cực là ý lên quá
mà không thể xuống. Khí Dương đã cực ở trên, hễ hơi động cựa thì nó sẽ có sự
ăn năn, cho nên Tượng nó như thế.
Lời bàn của Tiên Nho. – Trương Bồ Dương nói rằng: Đạo của trời đất, lấy sáu
khí Dương lần lượt đi lại, sinh ra và làm thành muôn vật mà không cùng tận.
Khí Dương đến đây cực thịnh, khí Âm sắp sửa sinh ra mà xô đẩy đi, nếu không
trở lui xuống dưới để theo sự biến, thì là quá cực, không phải là lối "lâu mà
không cùng".
Họ Lý nói rằng: Kiền là vật thuộc về Dương, tiêu, tức, đầy với có thời, rồng là
loài thuộc về Dương, lặn, hiện, nhảy, bay cũng có thời; thánh nhân có đức của
loài rồng, lên xuống, tiến, lui cũng có thời. Thứ tự các hào có thể thấy rõ.
LỜI KINH
九: 羣 無, 吉.
Dịch âm. – Dụng Cửu: Kiền quần long vô thủ, cát.
Dịch nghĩa. – Hào dùng Chín: Thấy đàn rồng không đầu, tốt!
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di – Hào Dùng Chín là cách ở chỗ Kiền cứng. Là hào Dương,
ở thể Kiền, ấy là thuần những tính cứng. Cứng mềm giúp đỡ lẫn nhau mới là vừa
phải, đây là thuần những tính cứng, tức là quá cứng. Thấy đàn rồng tức là xem
các hào Dương, không làm đầu thì tốt. Đem tính cứng làm kẻ đi trước thiên hạ là
hung.
Bản nghĩa của Chu Hy. – Dùng Chín mà nói phép bói toán được hào Dương đều
dùng số chín không dùng số bảy. Đó là thông lệ của một trăm chín mươi hai hào
trong các quẻ, vì quẻ này thuần là Dương mà ở ngay đầu cho nên phát ra ở đấy.
Thánh nhân nhân thể đèo thêm lời vào, khiến cho những người bói được quẻ này
mà sáu hào đều biến thì cứ theo đó mà đoán. Vì sáu hào Dương đều biến, thì là
cứng mà biến mềm, ấy là cách tốt, cho nên mới là Tượng "đàn rồng không đầu",
mà Chiêm là "như thế thì tốt".
Lời bàn của Tiên Nho. – Có người hỏi rằng: Hai quẻ Kiền Khôn riêng nói Dùng
Chín, Dùng Sáu là sao? Chu Hy đáp rằng: Hai quẻ ấy thuần Dương thuần Âm
mà lại ở đầu các quẻ, cho nên đặt ra một lẽ ở đây. phàm phép xem bói đều dùng
hào biến mà xem. Cho nên hễ xem được hào Dương, đều dùng số Chín không
dùng số Bảy, xem được hào đều dùng số Sáu mà không dùng số Tám. Bởi vì số
Bảy là Dương trẻ, số Chín là Dương già, số Sáu là Âm già, số Tám là Âm trẻ,
già biến đổi mà trẻ thì không biến đổi. Phàm việc xem bói, dùng số Chín, dùng
số Sáu là dùng hào biến mà xem. Gặp quẻ Kiền mà sáu hào đều biến, là Âm, gặp
quẻ Khôn mà sáu hào đều biến, là Dương.
Hồ Quảng nói rằng: Lời hào tuy để phát minh về lý của quẻ thật ra chỉ dùng về
bói toán, cho nên dùng số Chín và số Sáu mà đặt tên hào, là cốt lấy ở chỗ dùng
của nó. Lời hào động thì dùng, không động thì không dùng, lời quẻ bất luận
động hay không động đều dùng, có điều không động thì xem bằng lời Thoán của
quẻ gốc, mà động thì phải hợp cả lời Thoán của quẻ gốc quẻ biến mà xem. Ví
như sáu hào quẻ Kiền biến cả thì hóa ra quẻ Khôn, sáu hào quẻ Khôn biến cả thì
hóa ra quẻ Kiền. Thuyết của Tiên nho cho là biến cả thì bỏ quẻ gốc xem quẻ
biến; nhưng Kiền, Khôn là nghĩa lớn của trời đất, quẻ Kiền biến sang quẻ Khôn,
chưa thể dùng toàn lời của quẻ Khôn; quẻ Khôn tuy biến sang quẻ Kiền, chưa
thể dùng toàn lời của quẻ Kiền, cho nên dựng riêng ra hào. Dùng Chín, Dùng
Sáu để làm phép chiêm khi hay quẻ ấy biến cả. Thuyết đó cũng phải. Lấy lý mà
xét, thì phàm các quẻ, tuy là biến cả cũngkhông có lẽ bỏ hẳn quẻ gốc mà không
xem, chẳng riêng hay quẻ Kiền Khôn như thế. Cho nên hợp quẻ gốc quẻ biến
mà xem thì phải. Như thế quẻ Kiền biến sang quẻ Khôn thì xem cả lời quẻ Kiền
và lời quẻ Khôn, quẻ Khôn biến sang quẻ Kiền thì xem cả lời quẻ Khôn và lời
quẻ Kiền. Có điều từ quẻ Kiền biến sang quẻ Khôn thì là cái nghĩa "Dương gốc
ở Âm", từ quẻ Khôn biến sang quẻ Kiền; thì là cái nghĩa "mạnh mà thể thuận".
Hợp xem lời quẻ, nên biết ý đó cho nên lời Dùng Chín Dùng Sáu để phát ra.
LỜI KINH
彖: 哉乾元, 萬物資始, 乃統天.
Dịch âm. – Thoán viết: Đại tai Kiền nguyên, vạn vật tư thủy, nãi thống thiên.
Dịch nghĩa. – Thoán truyện nói rằng: Lớn thay cái đức đầu cả của Kiền, muôn
vật nhờ đó khởi đầu, bèn tóm việc trời.
GIẢI NGHĨA
Bản nghĩa của Chu Hy. – Thoán là lời của Văn Vương đèo vào. Truyện là lời
của Khổng Tử dùng để thích nghĩa Kinh Dịch. Sau đây chỗ nào nói truyện, đều
thế. Đây chuyên dùng đạo trời để tỏ nghĩa quẻ Kiền, lại chia nguyên, hanh, lợi,
trinh làm bốn đức tính để nói rõ là lời than thở, "nguyên" là cả lớn, là mới đầu,
"kiền nguyên" là phần cả lớn mới đầu trong đức tính của trời, cho nên muôn vật
sinh ra đều phải nhờ nó làm khởi đầu. Nó lại là đầu của bốn đức tính mà thông
suốt cả đầu chót đức tính của trời, cho nên nói là "tóm việc trời".
Lời bàn của Tiên Nho. – Chu Hy nói rằng: Kiền nguyên chỉ là đức tính của trời,
không phải hai việc hay hai vật. Cũng như tinh thần người ta, há có thể nói
người là người, tinh thần là tinh thần?
Hồ Song Hồ nói rằng: Thoán truyện là của Khổng Tử tán tụng lời quẻ của Văn
Vương, nhưng chỉ tự tỏ ý mình để giải quẻ của Phục Hy, không phải hết thảy
giống như Văn Vương. Như lời quẻ Kiền, Văn Vương chỉ là lời chiêm, Khổng
Tử lại cho là bốn đức tính, và ở trong đó nhiều chỗ nói về quẻ biến, quẻ này từ
quẻ kia sang, đều tự Khổng Tử phát minh, Văn Vương gián hoặc cũng có,
nhưng không nhiều bằng Khổng Tử.
Lan Đình Thụy nói rằng: Kiền, nguyên là khí nhất nguyên trong phần Dương
của trời, cũng như người ta có nguyên khí vậy. Nhièu người chỉ biết muôn vật
sinh ra ở đất, mà không biết rằng trời đã lấy khí Kiền nguyên alfm cuộc khởi
đầu cho nó, cũng như người ta sinh ra ở mẹ, mà không biết rằng đã nhờ khởi đầu
ở nguyên khí của cha. Khởi đầu từ trước khi chưa sinh, sinh ra nhằm sau khi có
cuộc khởi đầu.
LỜI KINH
雲 施, 品物流形.
Dịch âm. – Vân hành vũ thí, phẩm vật lưu hình.
Dịch nghĩa. – Mây đi mưa tới, sắp đặt các vật, lưu chuyển các hình.
GIẢI NGHĨA
Bản nghĩa của Chu Hy. – Đây thích đức "hanh" của Kiền.
Lời bàn của Tiên Nho. – Trình Di nói rằng: Mây đi mưa tới, là chỗ hanh thông
của Kiền.
Dương Thành Trai nói rằng: Thoán truyện nói nguyên lợi trinh mà không nói
hanh, là vì mây đi mưa tới là cái hanh của phần khí, sắp đặt các vật, lưu chuyển
các hình, tức là cái hanh của phần hình rồi.
LỜI KINH
明終始, 六位時成, 時乘六 以御天
Dịch âm. – Đại minh chung thủy, lục vụ thì thành, thì thừa lục long dĩ ngự thiên.
Dịch nghĩa. – Cả rõ chót đầu, sáu ngôi nhằm thì mà nên, luôn luôn cưỡi sáu con
rồng để ngự đường trời.
GIẢI NGHĨA
Bản nghĩa của Chu Hy. – Đầu tức là nguyên, chót tức là trinh. Không có chót thì
không có đầu, chẳng trinh thì chẳng có gì làm nguyên. Đây nói thánh nhân làm
cho thật tỏ tất cả phần đầu chót của đạo Kiền, thì thấy sáu ngôi trong quẻ, đều cứ
theo thì mà nên, và cưỡi sáu hào Dương đó để đi đường trời, ấy là nguyên hanh
của thánh nhân.
Lời bàn của Tiên Nho. – Chu Hy nói rằng: Trong bốn đức tính của Kiền, nguyên
quan trọng nhất, thứ nữa đến trinh cũng quan trọng. Không có nguyên thì không
có gì để sinh, không có trinh thì không có gì làm chót, không có chót thì không
có gì làm đầu, không có đầu thì không thành chót, xoay quanh không bao giờ
cùng. Thế là "cả rõ đầu chót".
Lại rằng: Đầu chót tức là bốn đức tính, đầu là nguyên mà chót là trinh. Bởi vì
không có chót thì không lấy gì làm đầu, không có trinh thì không lấy gì làm
nguyên, ngôi của sáu hào do đó mà lập nên. "Theo thì mà nên" nghĩa là hào nào
hào nấy đều theo thì vận mà thành ra, ví như lặn, hiện, bay, nhảy đều theo từng
thì, nhưng đều là cuộc lưu hành của bốn đức tính. Hào Chín Đầu và nửa hào
Chín Hai là nguyên: nửa hào Chín Hai và nửa hào Chín Ba là hanh; hào Chín Tư
và nử hào Chín Năm là lợi; nửa hào Chín trên là trinh. Đố là thánh nhân làm cho
thật tỏ phần đầu phần chót của đạo Kiền, cho nên được thấy sáu ngôi đều theo
thì vận mà thành ra, nhân cái thì của vận của sáu hào để dương vào với vận trời,
mà bốn đức tính vì vậy mới cuối chót rồi lại bắt đầu, ứng biến không bao giờ
cùng.
Lại rằng: Trời với người chỉ có một lẽ, sự hành động của người là vận của trời.
Nếu theo ý riêng của mình mà hành động, thì là "người" rồi không phải "trời"
nữa. Chỉ có lặn, hiện, bay, nhảy, đều nhằm thì vận, thì là lấy "người" mà đương
với "trời".
LỜI KINH
乾道變化, 各正性命, 保合太和, 乃利貞.
Dịch âm. – Kiền đạo biến hóa, các chính tính mệnh, bao hợp thái hòa, nãi lợi
trinh.
Dịch nghĩa. – Đạo Kiền biến hóa, vật nào được đúng tính mệnh của vật ấy, giữ
hợp được khí thái hòa, mới hay tốt và chính bên.
GIẢI NGHĨA
Bản nghĩa của Chu Hy. – Biến là hóa dần dần, hóa là biến đã thành. Cái của các
vật bẩm thụ là tính, cái của trời phù cho là mệnh. Thái hòa tức là khí dung hòa
do Âm Dương hội họp mà ra. "Các chính" nghĩa là nhận được từ khi mới sinh,
"bảo hợp" thì là giữ được trọn vẹn sau khi đã sinh. Đây nói đạo Kiền biến hóa,
không gì không lợi, mà trong muôn vật, vật nào nhận đúng tính mệnh của vật ấy
để tự toàn. Đó là thích nghĩa hai chữ "lợi trinh".
Lời bàn của Tiên Nho. Chu Hy nói rằng: Đạo Kiền biến hóa, vật nào được tính
mệnh của vật ấy, chỉ là một cái lý. Lý đó chộn rộn ở khắp các chỗ. Ví như hạt
thóc mọc thành cây lúa, lúa này ra hoa, hoa kết thành quả, lại là hạt thóc, trở lại
hình cũ của nó. Một gié lúa có trăm hạt thóc, hạt nào cũng hoàn toàn; đem trăm
hạt đó mà gieo, mỗi hạt lại thành trăm hạt; lúc đầu chỉ là một hạt chia ra. Vật
nào có lý của vật ấy, tóm lại vẫn chỉ là một cái lý.
LỜI KINH
出庶物, 萬國咸寧
Dịch âm. - Thủ xuất thứ vật, vạn quốc hàm ninh.
Dịch nghĩa. - Vượt đầu mọi vật, muôn nước đều yên.
GIẢI NGHĨA
Bản nghĩa của Chu Hy. - Thánh nhân ở trên vượt cao hơn hết mọi vật, cũng như
đạo Kiền biến hóa, khắp trong muôn nước, nước nào được nơi chốn của nước ấy
mà đều yên ổn, cũng như các vật đều được tính mệnh của nó mà giữ trọn khí
Thái hòa. Đây là nói về lợi trinh của thánh nhân.
Lời bàn của Tiên Nho. - Trình Di nói rằng: Lời ở dưới quẻ là Thoán. Phu Tử
theo đó mà thích, cũng gọi là Thoán [14]. Thoán là nói về nghĩa một quẻ, cho
nên "bậc trí giả cứ xem lời Thoán thì đã nghĩ được quá nửa. "Lớn thay Kiền
nguyên" là khen sự lớn lao trong việc khỏi đầu muôn vật của đạo Kiền.
"Nguyên" trong bốn đức tính cũng như "nhân" trong năm đạo thường, nói riêng
thì là một việc, nói rộng thì nó bao hàm tất cả bốn thứ. "Muôn vật nhờ nó khỏi
đầu, bèn tóm việc trời" là nói về "nguyên". Hai chữ "Kiền nguyên" là nói gổm
cả đạo trời. Đạo trời khởi đầu muôn vật, muôn vật nhờ sự khởi đầu của trời.
"Mây đi mưa tưới, sắp đặt các vật, lưu chuyển các hình" là nói về "hanh", nghĩa
là đạo trời vận hành, sinh nuôi tất cả các vật. Làm cho cả rõ đầu chót của đạo
trời, thì thấy sáu ngôi trong quẻ đều theo thì vận của nó mà thành. Đầu chót của
quẻ, tức là đầu chót của đạo trời. Nhân thì vận của sáu hào ấy, tức là thì vận của
trời. "Để ngự đường trời" tức là để đương vào đạo trời. Đạo Kiền biến hóa sinh
nuôi muôn vật, lớn nhỏ cao thấp, vật nào theo loài vật ấy, đó là "đều được tính
mệnh"; cái của trời cho là mệnh, cái của các vật nhận được là tính. "Giữ hợp khí
Thái hòa bèn lợi trinh": giữ là làm cho còn luôn, hợp là một. Đây là Trình Di
hạn góp từ chữ "Thoán viết" trở xuống, làm cho hòa luôn, vừa giữ vừa hợp được
khí Thái hòa, cho nên mới lợi và trinh. Đạo của trời đất thường lâu không thôi,
đó là giữ và hợp khí Thái hòa. Trời là tổ muôn vật, vua là tông muôn nước, đạo
trời vượt đầu các vật mà muôn vừng hanh thông, đạo vua ở trên ngôi trời, mà
bốn biển phải theo, đấng vương giả thể theo trời, thì mỗi nước đều yên.
Chu Hy nói rằng: Nguyên là loài vật mới sinh, hanh là loài vật tươi tốt, lợi là nói
sắp sửa có quả trinh là quả đã thành rồi, quả đã thành rồi cuống nó rời rụng, có
thể lại trồng cho mọc. Bốn đức tính sở dĩ xoay như vòng tròn mà không có đầu
cũng giống như thế. Nhưng mà trong bốn thứ đó, sinh khí vẫn thương lưu hành,
không bị gián đoạn chỗ nào. Bởi vậy đức "nguyên" mới bao hàm tất cả mấy thứ
mà tóm đạo trời. Nay lấy thánh nhân mà nói thì ý Khổng Tử cho rằng: Quẻ này
tức là lời chiêm của vị thánh nhân được ngôi trời, thực hiện đạo trời mà đem đến
một cuộc thái bình. Tuy là văn nghĩa không giống cái cũ của Văn Vương, những
kẻ đọc, ai nấy lấy ý mà tìm, thì lời Khổng Tử và lời Văn Vương vẫn đi với nhau
mà không trái nhau. Quẻ Khôn cũng vậy.
LỜI KINH
象: 天 健, 君 以 強不息.
Dịch âm. - Tượng viết: Thiên hành kiện, quân tử dĩ tự cường bất tức.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Trời đi rnạnh, quân tử coi đó tự cường không
nghỉ.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di - Lời Tượng ở dưới quẻ giải về tượng của một quẻ, lời
Tượng ở dưới hào giải về tượng của một hào. Các quẻ đầu lấy hình tượng làm
phép, đạo Kiền là cái hình tượng che chở chăn nuôi rất lớn, phi thánh nhân
không thể thể theo. Vì muốn mọi người có thể bắt chước, cho nên chỉ lây cái
tính "đi mạnh" mà thôi. Vả, hai chữ "rất mạnh" cũng đủ để thấy đạo trời. "Quân
tử coi đó tự cường không nghỉ" ấy là bắt chước sự đi mạnh của trời.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Tượng đây là lời Chu Công đèo vào dưới hai hình
tượng trên dưới của quẻ và sáu hào của hai tượng đó.
Trời là hình tượng của quẻ Kiền. Phàm những quẻ trùng [15] đều theo nghĩa
trùng, riêng về quẻ này không thế, là vì trời chỉ có một mà thôi. Chỉ nói trời đi,
thì thấy ngày nay một vòng, ngày mai lại một vòng, giống như hình tượng trùng
phúc, phi có một sức rất mạnh, không thể như thế. Quân tử bắt chước chỗ đó
không thể nhân dục hại đến sự cứng mạnh của đức trời thì phải tự cường không
thôi.
LỜI KINH
潜 勿, 陽在下也.
Dịch âm. - Tiềm long vật dụng, Dương tại hạ dã.
Dịch nghĩa. - Rồng lặn chớ dùng, Dương ở dưới vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di - Khí Dương ở dưới, quân tử ở cảnh hàn vi, chưa thể làm
việc.
Bản dịch của Chu Hy. - Dương chỉ về hào Chín, dưới chỉ về sự lặn,
LỜI KINH
Dịch âm. - Hiện long tại điền, đức phổ thí dã.
Dịch nghĩa. - Rồng hiện ở ruộng, đức lan rộng vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di - Hiện ở trên đất, tức là đức hóa lan tới các vật, sự thi ơn đã
rộng.
Lời bàn của Đổng Bàn Giản - Hào Chính Hai hay còn ở dưới mà lại nói "đức lan
rộng" là vì: cũng như mặt trời đương lên, tuy là chưa tới giữa trời, nhưng mà ánh
sáng của nó không đâu không tới.
LỜI KINH
終 乾乾, 反復道也.
Dịch âm. - Chung nhật kiền kiền, phản phục đạo dã.
Dịch nghĩa. - Suốt ngày săng sắc, trở đi trở lại với đạo vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di - Tức là tiến, lui, động, nghỉ, phải nhằm với đạo.
Lời bàn của Du Quảng Bình. - Thích về cái lúc "trọn ngày săng sắc làm việc"
mà lại nói: "trở đi trở lại với đạo" là sao? Là vì quân tử làm việc tuy là kiền kiệt
đau đáu, nhưng mà cái lẽ giản dị vẫn không phút chốc xa rời, chẳng qua làm
việc một cách vô sự mà thôi. Hào Chín Ba ở trên thể dưới, sắp lìa khỏi "người"
mà đến "trời", cho nên có hình tượng "trở đi trở lại với đạo".
LỜI KINH
或躍在淵, 進無咎也.
Dịch âm. - Hoặc dược tại yên, tiến vô cữu dã.
Dịch nghĩa. - Hoặc nhảy ở vực, tiến lên không lỗi vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di - Cân nhắc thấy có thể tiến mà tiến, tiến được nhằm thì, thì
không có lỗi.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Có thể tiến mà thôi, bất tất phải tiến.
LỜI KINH
在天, 造也.
Dịch âm. - Long phi tại thiên, đại nhân tạo dã.
Dịch nghĩa. - Rồng bay ở trời, việc người lớn vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di - Việc của người lớn, tức là việc của thánh nhân.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Tạo 造 nghĩa là làm
LỜI KINH
亢 有悔, 盈不可久也.
Dịch âm. - Kháng long hữu hối, doanh bất khả cửu dã
Dịch nghĩa. - Rồng quá cực có ăn năn, sự đầy đủ không thể lâu vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di - Đây thì biến đổi, đó là có ăn năn.
Lời bàn của Từ Tiến Trai. – "Đây" là Dương đã quá cực, "không thể lâu dài" là
Âm đã sinh ra. Dùng chữ "đây" để thích chữ "quá cực" dùng chữ "không thể
lâu" để thích chữ "có ăn năn". Người ta biết là không thể lâu mà đề phòng từ khi
còn chưa quá cực, sẽ không ăn năn.
LỜI KINH
九, 天德不可為 也.
Dịch âm. - Dụng cửu, thiên đức bất khả vi thủ dã [16].
Dịch nghĩa. - Dùng Chín: Đức trời không làm đầu vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di - Dùng Chín tức là đức trời. Đức trời vốn là Dương cương,
nếu lại dùng sự cương cường mà thích đi trước người ta, thì là quá quắt.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây nói Dương cương không thể làm đầu người ta, cho
nên sáu hào biến cả thì tốt.
LỜI KINH
.元者善之張也, 亨者嘉之會也, 利者義之和也, 貞者事之乾也.
Dịch âm. - Văn ngôn viết: Nguyên giả thiện chi trưởng dã, hanh giả gia chi hội
dã, lợi giả nghĩa chỉ hòa dã, trinh giả sự chi cán dã.
Dịch nghĩa. - Văn ngôn nói rằng: Nguyên là trường của điều thiện, hanh là sự tốt
tụ họp, lợi là điều nghĩa hòa hợp, trinh là gốc của việc.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di - Các quẻ khác chỉ có lời Thoán là Tượng mà thôi, riêng về
quẻ Kiền quẻ Khôn lại đặt ra bài văn ngôn, để nói cho rõ nghĩa thêm, và để suy
rộng đạo Kiền, đem ra mà làm việc người. Bốn đức nguyên, hanh, lợi, trinh của
Kiền, loài người thì nguyên là đầu của các điều thiện, hanh là cuộc tụ họp của
các sự đẹp, lợi là hòa hợp về nghĩa, trinh là chỗ dùng làm việc.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Thiên này nói lại ý của Thoán truyện, Tượng truyện,
cho hết dư uẩn của hai quẻ Kiền Khôn, mà thuyết của các quẻ khác có thể theo
đó mà suy.
Nguyên là khởi đầu của sinh vật, đức của trời đất, không có cái gì trước nó, ở
bốn mùa là Xuân, ở người ta là nhân mà là trùm trường của các điều thiện.
Hanh là sự thông đạt của các sinh vật, các vật tới đó, vật nào cũng tốt, cho nên
về bốn mùa là Hạ, ở người ta là lễ, mà là cuộc tụ hội của các điều hay. Lợi là sự
thỏa thuê của các sinh vật, vật nào được cái sở nghi của vật ấy, cho nên ở bốn
mùa là Thu, ở người ta là nghĩa mà được sự hòa hợp của từng phần. Trinh là sự
thành công của sinh vật, thực lý đầy đặn, đâu đó đều đủ cho nên ở bốn mùa là
Đông, ở người ta là trí, và là gốc của các sự việc; gốc là thân của loài cây, cành
lá đều tựa vào đó mà đứng.
LỜI KINH
君 體 以表, 嘉會 以合禮, 利物 以和義, 貞固 以 事, 君 此四德也, 故: 乾元亨
利貞.
Dịch âm. - Quân tử thể nhân túc dĩ trưởng nhân, gia hội túc dĩ hợp lễ, lợi vật túc
dĩ hòa nghĩa, trinh coi túc dĩ cán sự. Quân tử hành thử tứ đức giả, cố viết: Kiền
nguyên hanh lợi trinh.
Dịch nghĩa. - Đấng quân tử thể theo điều nhân đủ để làm trùm người ta; tốt sự
hội họp đủ để hợp lề; làm lợi kẻ khác đủ để hòa hợp điều nghĩa; chính đính vững
bền đủ làm gốc các việc. Đấng quân tử thực hành bốn đức ấy, cho nên nói rằng:
"Kiền nguyên hanh lợi trinh".
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di - Bắt chước điều nhân của Kiền, là đạo của đấng quân
trưởng, đủ để làm trùm người ta; thể theo điều nhân. tức là thể theo đức nguyên;
so sánh mà bắt chước nó, gọi là "thể". Được sự hội thông tốt đẹp, mới hợp lễ thì
không phải lý, há được là tốt? Không phải lý đâu có hanh thông? Hòa với nghĩa
thì mới có thể làm lợi kẻ khác. Vì có chính đính vững bền, cho nên mới làm
được việc. Thực hành bốn đức tính ấy mới hợp với quẻ Kiền.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Lấy điều nhân là thể, thì không một vật nào mà không
ở trong yêu thương, cho nên có thể làm trùm người ta. Tốt sự hội họp thì không
điều gì mà không hợp lễ. Khiến cho các vật đều được cái lợi của nó, thì nghĩa
còn gì không hòa? Chính bền nghĩa là biết được sự chính đính ở đâu mà giữ cho
vững, như nói: "biết mà không bỏ vậy" cho nên đủ làm gốc của các việc. Không
phải là bậc quân tử rất mạnh, không thể thực hành được các điều ấy, cho nên nói
là "Kiền nguyên hanh lợi trinh".
Tiết này nóị lại ý của Thoán truyện, Lời lẽ không khác những câu Mục Khương,
đã nói trong truyện Xuân thu. Ngờ rằng đời xưa có mấy câu đó, Mục Khương
nhắc lại, mà đức Phu Tử cũng lấy vào đấy, cho nên chương dưới mới đặt hai chữ
"Tử viết" để nêu cho rõ lời của Khổng Tử. Đó là kẻ chép Thoán truyện muốn tỏ
chương này là lời cổ vậy.
LỜI KINH
初九: 潜 勿, 何謂也?: 露德 隱者也, 不易乎世, 不成 乎名, 遯世無不 是 無悶
i 樂則 性之, 憂則違, 確乎其不可拔, 潜 也.
Dịch âm. - Sơ cửu viết: Tiềm long vật dụng hà vị dã? Tử viết: Long đức nhi ẩn
giả dã. Bất Dịch hồ thế, bất thành hồ danh, độn thế vô muộn, bất kiện thị nhi vô
muộn, lạc tắc hành chi, ưu tắc viễn chi, xác hổ kỳ bất khả bạt, tiềm long dã.
Dịch nghĩa. - Hào Chín Đầu nói rằng: "Rồng lặn chớ dùng’’ là nghĩa làm sao?
Thầy nói: Đó là đức con rồng mà còn ẩn nấp, "không đổi theo đời, không nổi về
tiếng, trọn đời không buồn, vui thì làm, lọ thì lánh xa, vững chắc không thể lay
nhổ, ấy là rồng lặn.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di - Từ đây trở xuống nói về công dụng của Kiền, tức là cách
"dùng chín" vậy. Hào Chín Đầu là Dương còn nhỏ, ấy là "đức rồng ẩn nấp",
cũng như thánh hiền trong thuở hàn vi, chỉ cốt giữ đạo của mình, không hề theo
đời thay đổi, vui nết của mình không cần ai biết, tự tin tự vui, thấy có thể làm thì
làm, biết là khó làm thì tránh. Sự thao thủ vững chắc không thể cướp nổi. Đó là
đức của rồng lặn.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đức rồng tức là đức của thánh nhân, vì còn ở dưới nên
phải ẩn nấp. "Đổi" là thay đổi sự thao thủ của mình. Đại để những Lời Văn ngôn
trong sáu hào quẻ Kiền, đều lấy thánh nhân để giải cho rõ ý nghĩa, chỉ có chỗ
kín chỗ hở, không có chỗ nông chỗ sâu.
LỜI KINH
九: 在, 利 — 何謂也? : 德 正中者也, 庸 之儒 之謹, 閑邪存其誠, 善 不伐, 化.
易: 在, 利, 者德也.
Dịch âm. - Cửu nhị viết: Hiện long tại điền, lợi kiến đại nhân, hà vị dã? Tử viết:
Long đức nhi chính trung giả dã. Dung ngôn chi tín, dung hạnh chi cẩn, nhàn tà
tồn kỳ thành, thiện thế nhi bất phạt, đức bác nhi hóa. Dịch viết: "Hiện long tại
điền, lợi.kiến đại nhân" quân đức dã.
Dịch nghĩa. - Hào Chín Hai nói: "Rồng hiện ở ruộng, lợi về sự thấy người lớn"
là nghĩa làm sao? Thầy nói: Đó là đức rồng mà được trung chính. Nói thường
nhằm đúng, nết thường cẩn thận, ngăn điều tà, giữ điều thành thật, làm hay cho
đời mà không cậy công, đức rộng mà hóa được người. Kinh Dịch nói: "Rồng
hiện ở ruộng, lợi về sự thấy người lớn", đó là đức của ông vua.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di - Là đức rồng mà ở chính giữa, ở vào chính giữa quẻ dưới
là được cái nghĩa chính giữa. Thường tin thường cẩn, trong lúc vội vàng cũng
phải để ý vào đó. Đã ở chỗ không có lỗi, chỉ cốt ngăn điều tà. Điều tà đã ngăn,
thì điều thành thật sẽ còn. Làm hay cho đời mà không cậy công, tức là không
nhận điều hay của mình. Đức rộng mà hóa được người, tức là làm cho mình
được ngay thẳng, người ta sẽ phải ngay thẳng. Bấy nhiều khoản đều là việc của
người lớn, tuy không phải ngôi vua, nhưng là đức của người làm vua.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Chính giữa là lúc không lặn mà chưa nhảy, nói thường
cũng nhằm đúng, nét thường cũng cẩn thận, đó là thịnh đức cùng tột. Ngăn điều
tà, giữ điều thành thực, tức là cái ý "dù không chán nản cũng phải giữ gìn" trong
Kinh Thi. Nói đức ông vua là để thích rõ người lớn là Hào Chín Hai.
Lời bàn của Tiên Nho. - Chu Hy nói rằng: Từ chữ "đức rồng chính giữa" trở
xuống, đều là đức của ông vua. Ý nói dù không ở ngôi vua, nhưng có đức của
ông vua, cho nên mới là người lớn. Y Xuyên lại giảng cái người lớn đó thành
hai kiểu.
LỜI KINH
九三: 君 終 乾乾, 惕若, 厲 咎, 何謂也?: 君 進德修業;忠信所以進德也;
修辭 其誠, 所以居業也;知 之, 可與幾也;知終終之, 可與存義也, 是故居
上位 不驕, 在下位 不憂, 故乾乾 因其時 惧, 雖危 咎矣.
Dịch âm. - Cửu Tam viết: Quân tử chung nhật kiền kiền, tịch Dịch nhược, lệ vô
cửu, hà vị dã? Tử viết: Quân tử tiến đức tu nghiệp; trung tín sở dĩ tiến đức dã, tu
từ lập kỳ thành, sở dĩ cư nghiệp dã; tri chí chí chi, khả dữ cơ dã; tri chung chung
chi, khả dữ tồn nghĩa dã. Thị cố cư thượng vị nhi bất kiêu, tại hạ vị nhi bất ưu,
cố kiền kiền, phân kỳ thì nhi Dịch, tuy nguy, vô cữu hỹ.
Dịch nghĩa. - Hào Chín Ba nói: "Quân tử trọn ngày săng sắc, tối dường rùng rợn
vậy, nguy không lỗi" là nghĩa làm sao? Thầy nói: Quân tử tiến đức sửa nghiệp;
trung tín là để tiến đức; sửa lời nói, dựng điều thành thực là để ở nghiệp; biết
chỗ cùng tột, thì làm cho được cùng tột, người đó có thể chung việc cơ vi, biết
chỗ cuối chót thì giữ cho đến cuối chót, người đó có thể chung việc giữ nghĩa.
Thế cho nên, ở ngôi trên không kiêu căng, ở ngôi dưới không lo lắng, cho nên
săng sắc, hiểm nghèo cũng không có lỗi.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di - Hào Ba ở trên ngôi dưới, mà đức làm vua đã tỏ, thì sẽ làm
gì? Chỉ cố tiến đức sửa nghiệp mà thôi. Lòng chứa trung tín là để tiến đức. Lựa
lời nói, dốc tâm trí là để ở nghiệp. Biết chỗ cùng tột, làm được cùng tột, ấy là chi
trí; tìm chỗ cùng tột của sự biết rồi mới làm cho cùng tột, vì là sự biết ở trước,
cho nên có thể chung việc cơ vi, cũng như - Mạnh Tử - nói rằng: "điều lý phần
đầu là việc của bậc trí". Biết chỗ cuối chót, thì giữ cho đến cuối chót, ấy là lực
hành; đã biết giữ chỗ cuối chót ở đâu, thì gắng sức tiến lên mà giữ cho đến cuối
chót, vì là giữ ở mặt sau, cho nên có thể chung việc giữ nghĩa, cũng như - Mạnh
Tử - nói rằng: "điều lý phần sau là việc của bậc thánh". Đó là đầu chót của việc
học. Sự học của quân tử như thế, cho nên biết cách ở trên ở dưới, mà không kiêu
căng, không lo lắng, không trễ nải mà sợ hãi, dù ở chỗ hiểm nghèo mà không có
lỗi.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Trung tín là cái chủ ở trong lòng, không một điều nghĩ
nào không thực. Sửa lời nói là cái hiện ra ngoài việc, không một câu nói nào
không thực. Biết chỗ cùng tột, làm được cùng tột là việc về mặt tiến đức. Biết
chỗ cuối chót, giữ đến cuối chót, là việc về mặt ở nghiệp. Sử dĩ trọn ngày săng
sẳc, tốn còn lo sợ là vì cớ đó. Có thể ở trên, có thể ở dưới, không kiêu căng,
không lo âu, thế gọi là không có lỗi.
Lời bàn của Tiên Nho. - Chu Hy nói rằng: Có người hỏi rằng: việc dựng điều
thành thực, không nói về cách sửa nết, lại nói về cách sửa lời, là cớ làm sao?
Đáp rằng: Chỗ không thành thực của người ta phần nhiều là ở lời nói… Người
ta thường coi lời nói là không quan trọng, nên mới nói ra một cách dễ dàng. Nếu
như mỗi câu mỗi cần phải thực, thì đó là rất trung tín. Tiến đức thấy được nhiều
nghĩa lý trong việc sửa lời nói dựng điều thành thực. Sửa lời nói, dựng điều
thành thực là cốt để lập cái trung tín đó. Nếu mà miệng không lựa lời, gặp việc
là nói, thì cái trung tín cũng bị chìm đắm trôi dạt, đứng không thể vững.
Trung tín là biết đến chỗ chân thực cùng tột. Sửa lời nói dựng điều thành thực là
làm đến chỗ chân thực cùng tột. Nếu không biết đến chân thực thì tiến cái gì?
Trước mặt tối om tiến làm sao được? Nếu đã biết mà không chân thực làm đi,
cái đạo lý kia chỉ là treo ở lưng trời, không chỗ yên đậu, thì cái gọi là trung tín,
cũng là hão huyền mà thôi.
Trung tín và sửa lời nói, dựng điều thành thực là những tài liệu; mặt dưới, biết
chỗ cùng tột, biết chỗ cuối chót, chỉ có "thực" rồi mới như thế được. Ví như gieo
giống, phải là thực có hạt giống mới gieo xuống trong bùn, mới có thể ngày
ngày thấy nó mọc lên; nếu đem bỏ không vất xuống, thì mọc sao được? Dù cho
là cái đạo lý hão huyền đi nữa, cũng phải thực thấy, nếu chỉ để tai nghe qua,
dùng miệng nói qua thì làm gì được? Trung tín sở dĩ cần phải thực, cũng như
hiếu phải thực hiếu, đức hiếu mới mỗi ngày một tiến; lễ phải thật lễ, đức lễ mới
mỗi ngày một tiến; nếu mà không thật, ấy là nó không có gốc, tiến làm sao
được? Ngày nay biết được như thế, ngày mai có thể thuộc dần; ngày mai mới
thấy có một hai phần, ngày kia liền thấy có ba bốn phần, ý tứ tự nhiên thấy nó
khác nhau. Dựng điều thành thực, vẫn là trung tín ở trên; sửa lời nói tức là nói
năng thế nào, bên trong phải thế ấy; ở nghiệp giữa là thường thường như thế,
không có chút nào gián đoạn. Đức là cái được ở trong lòng; nghiệp là cái thấy ở
công việc; tiến đức nghĩa là ý tứ một ngày một mạnh hơn, một ngày một hăng
hái hơn, không phải việc ở bề ngoài, chỉ là tự mình cảm thấy ý tứ khác nhau…
Hai chữ "trung tín" ở đây, khác với những chữ "trung tín" nói ở chỗ khác. Chữ
"trung tín" này cũng như Hạng Lương - vứt nồi chõ, đốt nhà cửa, đem lương ba
ngày, tỏ cho sĩ tốt biết là phải chết, thì mới có thể đánh trận. Trung tín phải có
bụng ấy, mới tiến đức được…
Trung tín là chỗ "ý thành", như ghét hơi xấu, như thích vẻ đẹp, việc gì vật gì
cũng thấy thuần là lẽ trời như thế, thì đức mỗi ngày mỗi tiến. Trung tín là đầu,
sửa lời nói dựng thành thành thực là chót, biết chỗ cùng tột, làm đến cùng tột là
việc thuộc về tiến đức; biết chỗ cuối chót, giữ đến cuối chót là việc thuộc về ở
nghiệp. Người ta sở dĩ một chân bước lên, một chân lui xuống; chỉ là không làm
bằng cách chân thực, thì tiến làm sao được? Mấy câu "trung tín tiến đức" và
"biết chỗ cùng tột, làm đến cùng tột, người đó có thể chung việc cơ vi" là chữ
nói vể sự đi; "sửa lời nói, dựng điều thành thực" và "biết chỗ cuối chót, giữ đến
cuối chót, người đó có thể chung việc giữ nghĩa" là chữ nói về sự ở; tiến đức là
"mỗi ngày mỗi mới"; ở nghiệp là ngày nào cũng thế; tiến đức cũng như đo đắn,
sửa đắp để làm cái nhà; ở nghiệp cũng như ở vào cái nhà làm sẵn; biết chỗ cùng
tột, nghĩa là biết được tới chỗ vút bậc; làm đến cùng tột, nghĩa là ý tứ theo nó tới
đó; biết chỗ cuối chót là biết được chỗ sau rốt, giữ đến cuối chót, là ý tứ theo nó
đến đấy.
LỜI KINH
九四: 或躍在淵, 無咎, 何謂也?. 上下無常, 為邪.誰退無恆, 難群也.君 進德
修業, 欲及時也, 故無咎.
Dịch âm. - Cửu Tứ viết: Hoặc dược tại uyên, vô cữu, hà dị dã? Tử viết: Thượng
hạ vô thường, phi vi tà dã; tiến thoái vô hằng, phi ly quần dã; quân tử tiến đức tu
nghiệp, dục cập thì dã, cố vô cứu.
Dịch nghĩa. - Hào Chín Tư nói: "Hoặc nhảy ở vực, không có lỗi", là nghĩa làm
sao? Thầy nói "Lên xuống bất thường, không phải làm điều cong queo; tiến lui
không nhất định, không phải lìa bỏ bầy bạn, đấng quân tử tiến đức sửa nghiệp,
muốh cho kịp thì, nên không có lỗi.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di - Hoặc nhảy, hoặc ở, lên xuống bất thường; hoặc tiến, hoặc
lui, đi tới theo lẽ phải, không phải làm điều cong queo, không phải lìa bỏ bầy
bạn, là vì tiến đức sửa nghiệp, muốn được kịp thì mà thôi.
Lúc đáng làm thì làm, lúc đáng thôi thì thôi, không thể nhất định, lúc nào cũng
như lúc nào, cho nên mới là "hoặc". Vực ở chỗ sâu mà nói là nhảy, đó là chỉ lấy
cái nghĩa "đến chỗ yên ổn" mà thôi. Hoặc là tiếng còn nghi ngờ, phải tùy thời
mà chưa chắc hẳn. Quân tử theo thời như bóng theo hình. Nếu mà có thể xa lìa,
thì không phải là đạo nữa.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Quẻ trong nói về đạo đức học vấn, quẻ ngoài nói về
thời thế, địa vị. Tiến đức sửa nghiệp, ở hào Chín Ba đủ rồi, đây chỉ muốn cho
kịp thì mà tiến.
Lời bàn của Tiên Nho. - Hổ Vân Phong nói rằng: Hào Ba, Hào Tư đều nói về
việc tiến đức sửa nghiệp, vì nó hai lần cứng, mà không chính giữa, đều là những
lúc nguy nghi. Từ xưa thánh hiền ở vào chỗ đó; chỉ có tiến đức sửa nghiệp mà
thôi. Huống chi, hai hào đó lại ở giữa chỗ trên dưới tiến lui, giữa nơi đạo Kiền
biến hóa… về sự tiến lui mà biết cơ tức là thức thời, trong lúc biến hóa mà biết
cái mầu nhiệm, tức là biết đạo.
LỜI KINH
先五: 在天, 利, 何謂也?: 同聲相應, 同氣相求. 流濕, 就燥, 會從, 從虎, 聖 作
萬物睹.本乎天者親上, 本乎地者親下, 則各
從其類也.
Dịch âm. - Cửu ngũ viết: Phi long tại thiên, lợi kiến đại nhân, hà vị dã? Tử viết:
Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu, thủy lưu thấp hỏa tựu táo, vân tòng
long, phong tòng hổ. Thánh nhân tác nhi vạn vật đổ. Bản hồ thiên giả thân
thượng, bản hồ địa giả thân hạ, tắc các tòng kỳ loại dã.
Dịch nghĩa. – Hào Chín Năm nói: "Rồng bay ở trời, lợi về sự thấy người lớn" là
nghĩa làm sao? Thầy nói: Cùng tiếng ứng nhau, cùng hơi tìm nhau, nước chảy
chỗ ướt, lửa tới chỗ ráo, mây theo rồng, gió theo hổ, thánh nhân dấy lên mà
muôn vật cùng thấy. Cái gì ở trời thì thân với trên, cái gì ở gốc ở đất thì thân với
dưới, đó là vật nào lại theo với loài vật ấy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di - Người với thánh nhân là cùng một loài, hào Năm là đức
"rồng" mà lên ngôi tôn, loài người cũng đã theo ngóng, huống chi là hạng cùng
đức với nhau, trên ứng với dưới, dưới tìm đến trên, đó là "cùng tiếng ứng nhau,
cùng hơi tìm nhau". Chảy chỗ ướt, tới chỗ ráo, theo rồng, theo hổ cũng đều là vì
khí loại. Cho nên thánh nhân dấy lên muôn vật cũng đều trông thấy. Chữ "vật"
đây chỉ về người ta, cũng như chữ "nhân vật" "vật luận" 钟 物 chữ "vật" đều chỉ
về người. Trong Kinh Dịch, những câu "lợi kiến đại nhân" 利, chữ giống nhau
mà nghĩa khác nhau. Ở quẻ Tụng, câu "lợi kiến đại nhân" 利, nghĩa là nên thấy
hạng người đức lớn, trung chính, sự phân biệt về người lớn đó nói ở trước khi
thấy. Hào Hai, Hào Năm của quẻ Kiền, thì thánh nhân ra rồi, trên dưới cùng
thấy, cùng làm xong việc, hạng người lớn "được thấy là lợi" đó, lại nói ở sau khi
thấy. Gốc ở trời như là mặt trời mặt trăng, các ngôi sao; gốc ở đất thì như loài
sâu, loài thú, loài cây cỏ, âm dương đều theo với loại của nó, người và các vật
đều thế.
Bản nghĩa của Chu Hy. – Tác là nổi lên, vật tức là người, thấy là thích ý của chữ
"lợi kiến. Gốc ở trời giống động vật, gốc ở đất là giống thực vật, vật nào theo
loại vật ấy. Thánh nhân là đầu loài người, cho nên thánh nhân nổi lên, thì người
ta đều được trông thấy.
Lời bàn của Tiên Nho. - Chu Hỵ nói rằng: Gốc ở trời thì thân với trên, phàm các
động vật đều ngảnh lên trên là thân với trên, tức là loài người; gốc ở đất thì thân
với dưới, phàm các thực vật đều ngảnh xuống dưới, đó là thân với dưới. Loài
cầm, loài thú phần nhiều đầu ngang, sở dĩ không khôn. Đó là gốc ở thuyết của
Thiệu Khang Tiết.
LỜI KINH
上九: 亢 有悔, 何謂也?: 貴 位, 民, 賢 在下位 輔, 是以動 有悔也.
Dịch âm. - Thượng Cửu viết: Kháng long hữu hối, hà vị dã?
Tử viết: quý nhi vô vị, cao nhi vô dân, hiền nhân tại hạ vị nhi vô phụ, thị dĩ động
nhi hữu hối dã.
Dịch nghĩa. - Hào Chín Trên nói: "Rống quá cực có ăn năn" là nghĩa làm sao?
Thầy nói: Quý mà không ngôi, cao mà không dân, người hiền ở ngôi dưới mà
không giúp, cho nên hễ hành động thì có ăn năn.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di - Hào Chín ở Trên mà không nhằm vào ngôi tôn, cho nên
không có dân, không kẻ phụ tá, nếu hành động thì có ăn năn.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Người hiền ở ngôi dưới, chỉ về từ hào Chín Năm trở
xuống. Không giúp vì hào Chín Năm quá cao, chí khí kiêu động, các hào kia
không đến giúp đỡ. Đấy là tiết thứ hai, nói lại ý của Tượng truyện.
Lời bàn của Tiên Nho. - Dương Thành Trai nói rằng: hào này ở đầu lục long,
cho nên gọi là quý cao. Bởi vì từ hào Chín Tư trở xuống đều theo về hào Chín
Năm, cho nên (hào này) mới không có kẻ giúp đỡ. Ngô Lâm Xuyên nói rằng:
Chữ "quí" cốt thích hào Chín là rồng, chữ "cao" thì thích ngôi. Trên quá cực
Không có ngôi là vì hào Dương mà không được ở ngôi Dương; không có dân là
vì thuần Dương mà không có Âm. Người hiền của hào Chín Ba lại ở ngôi dưới
và lại là thể đối địch, không ứng với nhau, đó là không giúp. Vì thế, hễ hành
động thì có ăn năn. Nhưng quá cực là thời của trời mà có ăn năn là việc của
người. Những kẻ thức thời khéo xử, dù quá cực mà không hành động thì cũng
không đến ăn năn.
LỜI KINH
潜 勿, 下也.
Dịch âm. - Tiềm long vật dụng, hạ dã.
Dịch nghĩa. - Rồng lặn chớ dùng, vì ở dưới vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di - Đây trở xuống nói về thì vận của quẻ Kiền. Chớ dùng vì
còn ở dưới, chưa thể dùng được.
Lời bàn của Hồ Vân Phong. - Trên kia "Dương ở dưới" là nói về khí. Đây rằng
"ở dưới" là nói về người.
LỜI KINH
在, 時舍也.
Dịch âm. - Hiện long tại điền, thì xá dã.
Dịch nghĩa. - Rồng hiện ở ruộng, thì vận phải ở vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di - Tức là tùy thời mà đỗ.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Ý nói chưa được thời đại dùng đến.
LỜI KINH
終 乾乾, 事也.
Dịch âm. - Chung nhật kiền kiền, hành sự dã.
Dịch nghĩa. - Suốt ngày săng sắc, làm việc vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di - Tức là tiến đức sửa nghiệp.
Lời bàn của Hồ Vân Phong. - Tức là làm việc nên làm
LỜI KINH
或躍在淵, 識也.
Dịch âm. - Hoặc dược tại uyên, tự thi dã.
Dịch nghĩa. - Hoặc nhảy ở vực, là tự thử vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trinh Di. - Nghĩa là tùy theo thì vận, mình tự dùng mình.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Chưa thể làm việc, hãy thử xem có thể làm được
không.
LỜI KINH
在夭, 上治也.
Dịch âm. - Phi long tại thiên, thượng trị dã.
Dịch nghĩa. - Rồng bay ở trời, việc chính trị của bậc trên vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di - Nghĩa là được ngôi mà làm chính trị của bậc trên.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Nghĩa là ở ngôi trên để trị kẻ dưới.
LỜI KINH
亢 有悔, 窮之災也.
Dịch âm, - Kháng long hữu hối, cùng chi tai dã.
Dịch nghĩa. - Rồng quá lắm có ăn năn, cái tai nạn của sự cùng cực vậy.
GIẢI NGHĨA,
Truyện của Trình Di - Tức là cùng cực mà tai nạn đến.
Lời bàn của Ngô Lâm Xuyên. - Chữ "cùng" chỉ về quá cao, chữ"tai" chỉ về có ăn
năn.
LỜI KINH
乾元 久, 天下治也.
Dịch âm. - Kiến nguyên dụng cửu, thiên hạ trị dã.
Dịch nghĩa. - Kiền nguyên dùng Chín, thiên hạ thịnh trị vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di - Cái đạo Dùng Chín, trời với thánh nhân giống nhau.
Hễ được chỗ dùng của nó thì thiên hạ thịnh trị.
Bản nghĩa của Chu Hy. -Ý nói Kiền nguyên dùng Chín, không giống với các quẻ
khác. Đạo của người làm vua cứng lại mà lại có thể mềm, thiên hạ không đâu
không thịnh trị. Đây là tiết thứ ba, nhắc lại ý trước lần nữa.
LỜI KINH
潜 勿, 陽氣潜藏.
Dịch âm. - Tiềm long vật dụng, Dương khí tiềm tàng.
Dịch nghĩa. - Rồng lặn chớ dùng, khí Dương ẩn nấp.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di - Đây trở xuống nói về nghĩa của quẻ Kiền. Đương lúc khí
Dương còn nhỏ và lặn náu, quân tử cũng nên ẩn nấp, chưa thể làm việc.
LỜI KINH
在, 天下 明.
Dịch âm. - Hiện long tại điền thiên hạ văn minh.
Dịch nghĩa. - Rồng hiện ở ruộng, thiên hạ văn vẻ sáng sủa.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di - Đức rồng hiện ở trên đất, thì thiên hạ thấy cái văn vẻ sáng
sủa của nó.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Tuy là chẳng ở ngôi trên, nhưng mà thiên hạ đã thấm
đức hòa.
LỜI KINH
終 乾乾, 與時偕.
Dịch âm. - Chung nhật kiền kiền, dữ thì giai hành.
Dịch nghĩa. - Suốt ngày săng sắc, với thì vận cùng đi.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di - Tức là theo thời mà tiến.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Thời nên như thế.
LỜI KINH
或躍在淵, 乾道乃.
Dịch âm. - Hoặc dược tại uyên, Kiền đạo nãi cách.
Dịch nghĩa. - Hoặc nhảy ở ruộng, đạo Kiền mới đổi.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di - Bỏ ngôi dưới mà lên ngôi trên, đó là trên dưới thay đổi.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Bỏ dưới lên trên tức là thay đổi.
LỜI KINH
在天, 乃位乎天德.
Dịch âm. - Phi long tại thiên, nãi vị hồ thiên đức.
Dịch nghĩa. - Rồng bay ở trời, bèn chính ngôi về đức trời.
LỜI KINH
亢 有悔, 與時揩極.
Dịch âm. – Kháng long hữu hối, dữ thì giai cực.
Dịch nghĩa. – Rồng quá vực có ăn năn, với thì vận đều cùng cực.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di - thì người ở vào thì vận đó cũng phải cùng cực
LỜI KINH
乾元 九, 乃 天則.
Dịch âm. – Kiền nguyên dụng Cửu, nãi kiến thiên tắc.
Dịch nghĩa. – Kiền nguyên dùng Chín, bèn thấy phép trời.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di – Đạo dùng Chín tức là phép của trời. Phép tắc của trời chỉ
về đạo trời, có người hỏi rằng: Có phải sáu hòa quẻ Kiền đều là việc của thánh
nhân chăng? Đáp rằng: Theo được hết đạo của nó thì là thánh nhân. Nếu có chỗ
được chỗ lỗi thì phải có sự lành sự dữ ở bên trong. Há riêng một quẻ Kiền đâu?
Các quẻ đều thế.
Bản nghĩa của Chu Hy. – Cứng mà lại có thể mềm, đó là phép trời. Đây là tiết
thứ tư nhắc lại ý trước một lần thứ ba.
Lời bàn của Tiên Nho. - Hồ Song Hồ nói rằng: Văn ngôn thích sáu Hào quẻ
Kiền tất cả ba tiết, Tiết thứ nhất giống như chuyên nói về đức, riêng có hào
Trên hình như lại nói về ngôi. Tiết thứ hai giống như chuyên nói về ngôi, hào
Hai hình như nói cả về thời và ngôi, hào Ba trở lên lại dường như nói chỗ dùng.
Tiết thứ ba hoàn toàn nói về thì vận, nhưng cũng đều có phân biệt. Rút lại, thì
như Chu Tử bảo rằng: "Thánh nhân học Dịch chỉ cần ‘thể’ ra rất nhiều ý tứ. Kẻ
đọc phải tự hiểu lấy".
LỜI KINH
乾元者始 亨者也.
Dịch âm. - Kiền nguyên giả thủy nhi hanh giả dã,
Dịch nghĩa. - Kiền nguyên là đầu mới mà hanh thông vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di - Đây lại phản phúc nói kỹ cho được hết nghĩa. Đã là đầu
mới ắt phải hanh thông nếu không hanh thông thì phải tắt dứt.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đậu mới thì phải hanh thông, lý thế vậy.
LỜI KINH
利貞者性情也
Dịch âm. - Lợi trinh giả tính tình dã.
Dịch nghĩa. - Lợi trinh và tính tình vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di - Đây là tính tình của Kiền. Đã đầu mới mà hanh thông,
nếu không lợi trinh có thể không tắt được chăng?
Bản nghĩa của Chu Hy. - Thu liễm qui tàng, mới thấy cái thật của tính tình.
Lời bàn của Tiên Nho. - Trình Hiệu nói rằng: nguyên hanh chỉ là đầu mới mà
hanh thông, nghĩa là khi mới phát sinh, hết thảy hanh thông tức khi lợi trinh thì
là vật nào được tính mệnh của vật ấy. Tính tình như nói tư chất thể đoạn. Sắp
đặt, chế nặn, biến hóa, nuôi nấng đều là lợi cả. Không nhận có công, thường
thường và lâu dài mà không thôi, là trinh. Chu Hy nói rằng: "Lợi trinh là tính
tình" đó là tính tình của Kiền. Khi còn mới đầu mà hanh thông, là chỗ phát sinh
của Kiền, chung là một cái tính tình; đến chỗ lợi trinh, thì mỗi vật có một tính
tình. Thóc lúa cây cỏ đều có linh tính. Nguyên hanh tức là lúc nó nở hoa, kết
quả, đến khi lợi trinh mới thấy tính tình của nó. Có người hỏi: "Lợi trinh tức là
tính tình" là nghĩa làm sao? Đáp rằng: Chữ tính tình đó như bản thể. Nguyên
hanh là chỗ phát dụng, lợi trinh là ý thu góp dụm họp, nhưng mà còn chưa rắn
đặc, đến mùa Đông mới thành; trong mùa Thu, tuy là đã đặc và dần dần muốn
lìa gốc, nhưng nó thụ khí chưa đủ, thì trồng không mọc. Cho nên phải đến mùa
Đông mới thành. Người ta khi đến mùa Thu, mùa Đông, ngỡ như không thấy
sinh ý, không biết rằng nó đã thu liễm ở trong. Như một chồi cây có hàng nghìn
quả kết hột, hột nào có đủ sinh lý của hột ấy, đem những hột đó mà trồng, lại
thành nghìn cây. Quẻ Bác nói "Quả lớn không ăn" chính là nghĩa ấy, ở chỗ đó
có thể thấy rõ cái ý "sinh sinh không cùng". Đức lớn của trời đất là sinh. Trời đất
không hề làm gì, chỉ có việc sinh mà thôi. Lẽ đó vốn là tự nhiên xếp đặt, thánh
nhân thấy "mày dàm" ấy thì nói rỗ ra.
LỜI KINH
乾始能以美利利天下, 不 所利, 矣哉.
Dịch âm. - Kiền thủy năng dĩ mỹ lợi lợi thiên hạ, bất ngôn sở lợi, đại hỹ tai!
Dịch nghĩa. - Đức tính đầu mới của Kiền có thể lấy sự tốt lợi làm lợi cho gầm
trời, mà không nói đến cái đã lợi. Lớn lắm thay!
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di - Cái đạo đầu mới của Kiền, có thể khiến cho mọi loài sinh
thành, gầm trời nhờ sự tốt lợi của nó mà không nói được cái đã lợi, là vì không
gì không lợi, không thể chỉ ra mà gọi, nên mới khen cái lợi đó là "lớn lắm thay"!
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đầu mới là nguyên mà hanh. Làm Lợi cho gầm trời là
lợi, không nói cái đã lợi là trinh. Có người nói rằng: "Khôn Lợi cho nết trinh của
ngựa cái", đó là nói cái đã Lợi.
Lời bàn của Tiên Nho. - Chu Hy nói rằng: Có người hỏi rằng: Kinh Dịch của họ
Trình giải rằng: "Không gì không lợi, nên không nói cái đã lợi" câu ấy thế nào?
Đáp rằng: Kiền thì không gì không lợi. Khôn chỉ lợi cho nết trinh của ngựa cái,
thì là có cái lợi, có cái không lợi.
LỜI KINH
哉乾元, 剛健中正, 純粹精也.六艾發揮 旁通六, 以御天下.雲 施, 天下平也.
Dịch âm. - Đại tai kiền hồ, cương kiện trung chính, thuần, túy, tình dã. Lạc hào
phắt huy, bàng thông tình dã. Thì thừa lục long, dĩ ngự thiên dả. Vân hành vũ
thí, thiên hạ bình dã.
Dịch nghĩa. - Lớn thay Kiền kia, vừa cứng vừa mạnh, vừa trung, vừa chính, vừa
thuần, vừa túy, vừa tinh vậy. Sáu hào phát huy, rộng thông các tình vậy. Thường
cưỡi sáu rồng để ngự tận trời vậy. Mây đi mưa tưới, thiên hạ hòa bình vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di - "Lớn thay" là tán dương sự lớn lao của đạo Kiền.
Dùng sáu đức tính cứng, mạnh, trung, chính, thuần, túy để hình dung đạo Kiền.
Tinh tức là phần cực tinh của sáu tính kia. Dùng sáu hào phát huy, rộng thông
cho hết tình nghĩa. Nhân thì vận của sáu hào để dương vào với vận trời, thì công
dụng của trời đã rõ rệt lắm, cho nên mới thấy mây đi mưa tưới, Âm Dương tràn
khắp, tức là cái đạo thiên hạ hòa bình.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Cứng là nói về thể chất, mạnh thì gồm cả công dụng.
Nỏi trung là sự đi của nó không thái quá cũng không bất cập. Nói chính là sự
đứng của nó không lệch về mặt nào. Bốn điều đó là đức tính của Kiền. Thuần là
không lẫn về Âm Dương, túy là không lẫn với tà ác, vì là trung chính cứng mạnh
đến cùng tột; mà tinh thì lại là cái cùng tột của tính thuần túy. Có kẻ ngờ rằng:
Kiền chỉ cứng mà không mềm, không thể nói là trung chính. Không phải như
thế. Trong khoảng trời đất, chỉ có một khí lưu hành, duy có động tính khác nhau
mà thôi. Nói về toàn thể của cuộc lưu hành, thì chỉ gọi là Kiền mà không cái gì
là không bao bọc. Vì lấy động tĩnh chia ra, mới có Âm, Dương, cứng, mềm khác
nhau. Chữ "rộng thông"cúng như chữ "Khúc tận" (hết các chiều) [17]. Câu dưới
ý nói thánh nhân thường cưỡi sáu rồng để ngự trời, thì như trời khi mây đi mưa
tưới, thiên hạ thái bình vậy. Đây là tiết thứ năm, lại nhắc lại ý của chương đầu.
Hồ Vân Phong nói rằng: Cứng, mạnh, trung, chính, thuần, túy và tinh, chỉ hào
Chín Năm mới đương được đức tính ấy. Còn phải gồm dùng sáu hào để phát
huy ý nghĩa của nó, là muốn thông ra một cách rộng rãi, cho hết tình của sự vật
mà thôi.
LỜI KINH
君 以成德為, 可 之 也.潜之爲 也, 隱 未, 未成, 是以君 弗 也.
Dịch âm. - Quân tử dĩ thành đức vi hạnh, viết khả kiến chi hạnh dã. Tiềm chi vi
ngôn dã, ẩn nhi vị hiện, hành nhi vị thành, thị dĩ quân tử phất dụng dã.
Dịch nghĩa. - Đấng quân tử lấy đức đã thành làm nết, gọi là "nết có thể thấy".
Chữ "lặn" nghĩa là ẩn mà chưa hiện, làm mà chưa thành, cho nên đấng quân tử
không dùng.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di - Đức đã thành, việc có thể thấy, là nết, có Đức thành thì
mới có thể đưa ra công dụng, Hào Đầu đương lặn, ẩn mà chưa hiện, nết còn
chưa thành, chưa thành tức là chưa tỏ, cho nên quân tử không làm việc.
Bản nghĩa của Chu Hỵ. - Thành đức là cái đức đã thành. Hào Chín Đầu vẫn đã
thành đức, có điều cái nết của nó chưa hiện mà thôi.
Lời bàn của Tiên Nho. - Hồ Song Hồ nói rằng: Hào Chín Đầu đức thành, hạnh
dựng, tuy có thể tỏ ra việc làm, nhưng mà thời vận và địa vị chưa thể thành được
cái làm, cho nên lời Hào mới nói chớ dùng.
LỜI KINH
君 學以聚之, 問以辯之, 寬以居之, 仁以 之.易: 在, 利, 君德也.
Dịch âm. - Quân tử học dĩ tụ chi, vấn dĩ biện chi, khoan dĩ cư chi, nhân dĩ hành
chi. Dịch viết: Hiện long tại điền, lợi kiến đại nhẫn, quân đức dã.
Dịch nghĩa. - Đấng quân tử dùng sự học để thu họp, dùng sự hỏi để phân biệt,
dùng sự rộng rãi để ở, dùng điều nhân để thi hành.
Kinh Dịch nói rằng: "Rồng hiện ở ruộng lợi về sự thấy người lớn", đức của
người làm vua vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di - Thánh nhân ở dưới tuy đã rõ rệt mà chưa được ngôi, thì
chỉ tiến đức sửa nghiệp mà thôi. Học để thu họp, hỏi để phân biệt, đó là tiến đức;
rộng rãi để ở, điều nhân để thi hành, đó là sửa nghiệp. Cái đức làm vua rõ rệt rồi,
lợi được thấy bậc người lớn, chỉ tiến lên mà thực hành thôi. Tiến lên mà ở vào
ngôi đó, thì như vua Thuấn, vua Vũ, tiến lên mà thực hành cái đạo của mình thì
như Y Doãn, Phó Duyệt.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Vì là do bốn điều ấy (học, vấn, khoan nhân) mới nên
đức của người lớn. Nói lại lần nữa, cho thật rõ hào Chín Hai là người lớn đó.
LỜI KINH
九三重剛 不中, 上不在天, 下不在, 故乾乾, 因其時 惕, 雖危無咎矣.
Dịch âm. - Cửa tam trùng cương nhị bất trung, thượng bất tại thiên, hạ bất tại
điền, cố kiền kiền, nhân kỳ thì nhi Dịch, tuy nguy vô cữu hỹ.
Dịch nghĩa. - Hào Chín Ba hai lần cứng mà không được giữa, trên không ở trời,
dưới không ở ruộng, cho nên săng sắc, nhân thì đó, mà lo lắng, dẫu nguy, không
có lỗi.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di – Hào chín ba hai lần cứng, tức là tính "cứng" đã thịnh, lại
quá bậc giữa mà ở trên bậc dưới, trên chưa tới trời mà dưới đã lìa khỏi ruộng, đó
là chỗ hiểm nghèo. Nhân thì thuận xử, săng sắc lo ngại để phòng sự hiểm nghèo,
cho nên dẫu nguy mà không đến nỗi có lỗi. Đấng quân tử theo thời lo sợ, vì vậy
mà được hanh thái.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Hai lần cứng chỉ về hào Dương ngôi Dương.
Lời bàn của Tiên Nho. - Sái Tiết Trai nói rằng: Quẻ dưới lấy hào Hai là giữa,
quẻ trên lấy hào Năm là giữa. Hào Ba ở trên hào Hai là quá bậc giữa, hào Tứ ở
dưới hào Năm là chưa tới bậc giữa. Ở trời là hào Năm, ở ruộng là hào Hai, hào
Ba trên chưa tới Năm, dưới đã lìa khỏi Hai, mà giữa thì ở ngôi "người", chỉ có
một cách săng sắc không nghỉ, thì dầu là ở chỗ hiểm nghèo cũng không có lỗi.
LỜI KINH
九四重剛 不中, 上不在天, 下不在, 中不在, 故或之.或之者, 疑之也, 故無咎.
Dịch âm. - Cửu Tứ trùng cương (?) nhi bất trung, thượng bất tại thiên, hạ bất tại
điền, trung bất tại nhân, cô hoặc chi. Hoặc chi giả nghi chi dã, cố vô hữu.
Dịch nghĩa. - Hào Chín Tư hai lần cứng (?) mà không được giữa, trên không ở
trời, dưới không ở ruộng, giữa không ở người, cho nên nói "hoặc". Nói "hoặc" là
còn nghi ngờ, cho nên không có lỗi.
GIẢI NGHÍA
Truyện của Trình Di - Hào Tư không ở trời, không ở ruộng mà vượt trên người
là chỗ hiểm nghèo. "Ngờ" là tiếng còn chưa quyết. Cách xử chỗ đó không thể
nhất quyết, hoặc tiến hoặc lui, tùy sự yên ổn mà thôi, vì vậy mà không có lỗi.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Hào Chín Tư không phải là hai lần cứng, chữ 重
(trùng) ngờ thừa. Ở người, chỉ về hào ba, "hoặc" nghĩa là hãy còn tùy thời chưa
định.
LỜI KINH
夫, 與天地合莫德, 與 合其明, 與四時合其序, 與 神合其吉凶 i 先天 天弗違,
後天 奉炙時.天且弗違, 况於 乎, 况; " 神乎.
Dịch âm. - Phù đại nhân giả, dự thiên địa hợp kỳ đức, dữ nhật nguyệt hợp kỳ
minh, dữ tứ thì hợp kỳ tự, dữ quỷ thần hợp kỳ cát hung, tiên thiên nhi thiên phất
vi, hậu thiên nhi phụng thiên thì. Thiên thả phất vi, nhi huống ư nhân hồ? Huống
ư quỷ thần hồ?
Dịch nghĩa. - Ôi người lớn là hạng hợp đức với trời đất, hợp sự sáng với Mặt
trời mặt trăng, hợp thứ tự với bốn mùa, hợp sự lành dữ với quỷ thần, đi trước
trời mà trời không trái đi sau trời mà vâng thì trời. Trời còn không trái, huống
chi người? Huống chi quỷ thần?
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di - Người lớn với trời đất, mặt trời, mặt trăng bốn mùa, quỷ
thần hợp đạo. Trời đất tức là đạo. Quỷ thần là dấu vết tạo hóa. Thánh nhân đi
trước trời mà trời đồng tình, đi sau trời mà thuận được với trời, vì hợp với đạo
mà thôi. Hợp với đạo thì người và quỷ thần hà trái lại được?
Bản nghĩa của Chu Hy. - Chữ "Người lớn" đây thích hạng người lớn mà trong
lời Hào nói rằng: "Được thấy là lợi", có đức ấy ở ngôi ấy thì mới đương nổi.
Người và trời đất quỷ thần vốn không hai lẽ. Chỉ vì bị lấp về sự riêng tây của
bản ngã, cho nên mắc ở hình hài mà không thể thông nhau. Thánh nhân không
có riêng tây, lấy đạo làm thể, khi nào còn có những sự kia nọ, trước sau đáng
nói? "Đi trước trời mà trời không trái" tức là cái gì do ý làm ra, vấn họp với đạo
bằng cách im lặng. "Đi sau trời, mà vâng thì trời" tức là biết lẽ như thế, vâng
theo mà làm.
LỜI KINH
亢之為 者, 知進 不知退, 知存 不知亡, 知得 不知喪.
Dịch âm. - Kháng chí vi ngôn dã, tri tiến nhi bất tri thoái, tri tốn nhi bất trí vong,
tri đắc nhi bất tri táng.
Dịch nghĩa. - Kháng là nói về hạng người biết tiến mà không biết lui, biết còn
mà không biết mất, biết sự được mà không biết sự thiệt hại.
GIẢI NGHĨA
Bản nghĩa của Chu Hy. - Vì vậy cho nên hành động thì có ăn năn.
Lời bàn của Tiên Nho. - Phùng Hậu Trai nói rằng: Tiến lui là nói về mình, còn
mất là nói về ngôi, được và thiệt hại là nói về người. Hào này cùng trên mà trở
lại dưới là lui, chín biến ra sáu là mất, không có dân, không có kẻ giúp là thiệt
hại.
LỜI KINH
其唯聖 乎?知進退存亡 不失其正者, 其唯聖 乎?
Dịch âm. - Kỳ duy thánh nhân hồ? Tri tiến thoái tồn vong nhi bất thất kỳ chính
giả kỳ duy thánh nhân hồ?
Dịch nghĩa. - Chỉ có thánh nhân chăng? Biết tiến lui còn mất mà không lỗi với
sự ngay thẳng, chỉ có thánh nhân chăng?
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di - Quá lắm là "kháng". Đã tới "kháng" thì không biết lẽ tiến
lui còn mất, hơn thiệt. Thánh nhân hiểu lẽ đó mà xử trí không lỗi với sự ngay
thẳng, cho nên không đến nỗi "kháng".
Bản nghĩa của Chu Hy. - Biết rõ lý thế như thế mà xử với nó bằng đạo, thì
không đến nỗi ăn năn và không phải là tính riêng để tránh hại. Đây là tiết thứ
sáu, lại nói lại ý của mấy tiết thứ hai, thứ ba, thứ tư.
Lời bàn của Tiên Nho. - Chu Hy nói rằng: Sáu Hào trong bài Văn ngôn đều nói
về đức của thánh nhân, chỉ có cái ngôi đã ở khác nhau. Hào Đầu "không đổi theo
đời, không nên về tiếng, trốn đời không buồn, không được nhận là phải mà
không buồn, vui thì làm, lo thì tránh, ấy là rồng lặn", đã là nói về đức của thánh
nhân rồi, chỉ là còn lặn chưa được dùng mà thôi. Hào Chín Hai lại tốt, đức hóa
của nó đã tới người ta. Đó là ngôi kẻ bầy tôi ở đó mà yên. Đến Hào Chín Ba ở
trên quẻ dưới, ngôi đã cao rồi, lúc đó thời thế không thể làm gì, chỉ nên lo lắng
sợ hãi, tiến đức sửa nghiệp, săng sắc không nghỉ. Hào Chín Tư "Hoặc nhảy ở
vực", Y Xuyên bảo "ruộng là chỗ ở yên của rồng" e rằng chưa phải. Ruộng là
chỗ bằng phẳng, dù cho có nước cũng nông. "Vực" là chỗ sâu không thể lường,
"nhẩy" là đã lìa khỏi sự"đi", mà chưa tới sự "bay". Đi còn dùng chân, nhảy thì
không dùng đến chân, dùng sự vượt lên mà lên, chân không phải đạp xuống đất,
vượt được thì lên trời không được lại ở vực như cũ, đều không thể lường; dưới
đã lìa khỏi sự đi, trên thì gần với sự bay, trên không ở trời, dưới không ở ruộng,
giữa không ở người, cho nên nói "hoặc" là tiếng còn nghi ngờ, không được yên
ổn như hào Chín Hai. Lúc đó, tiến lui không được và đều không do ở mình, chỉ
theo thì vận của trời mà thôi. Tới hào Chín Trên lại quá cực rồi. Xem ra người ta
trong đại vận không lúc nào nhàn, lành dữ, hối hận, một phút không dừng, giống
như chiếc bánh xe lớn, cứ quay tít mãi. Thánh nhân chỉ theo với nó để xem đạo
lý ra sao, chỗ này xử bằng đạo lý này chỗ kia xử bằng đạo lý kia.
QUẺ SỐ 1 - QUỐC VĂN CHU DỊCH - PHAN BỘI CHÂU

QUẺ BÁT THUẦN CÀN


Kiền trên; Kiền dưới
Quẻ này là quẻ Bát Thuần Càn, Càn hạ cũng là Nội Càn, Càn thượng cũng là
Ngoại Càn.
Quẻ này sáu nét, tất thảy là nét dương, là tượng về thể trời, mà lại hoàn toàn
thuộc về tính cương kiện nên đặt tên quẻ bằng Càn. Ba nét dưới là Càn hạ cũng
là Nội Càn, ba nét trên là Càn thượng cũng là Ngoại Càn.
Nguyên Dịch của Phục Hy chỉ có ngần ấy.
Từ đây sắp xuống là lời Soán của Văn Vương.
SOÁN TỪ: CÀN, NGUYÊN, HANH, LỊ, TRINH
Soán, nghĩa là đoán. Bởi vì Văn Vương thấy được Quái hào của Phục Hy mà
nghĩ rằng: Nếu chỉ thế mà thôi, thời sợ học giả chẳng hiểu được tinh lí diệu dụng
của quẻ. Vậy nên làm lời Soán để phân đoán minh bạch ý nghĩa trong quẻ.
Sáu mươi tư quẻ, hễ xem lời Soán, tất thảy có thể suy được.
Bây giờ, theo chữ một mà thích nghĩa lời Soán quẻ này:
Càn, nghĩa là Thuần Dương cực kiện; Nguyên nghĩa là đầu hết, cũng là lớn;
Hanh nghĩa là thông thái, cũng là thuận tiện; Lị nghĩa là thỏa thích, tiện lợi, cũng
là nên, là phải; Trinh nghĩa là chính, cũng là bền chặt cho đến cuối cùng.
Bây giờ lại thích suốt tuyền Soán từ, ý bảo rằng: Quẻ Càn này in như tính tình
của trời, hoàn toàn dương cương, vả lại trung chính. Tài đức mà cũng được như
Càn, thời làm việc gì cũng có thể được to lớn, thông thái, lị tiện, thuận thích mà
lại kiên cố giữ chính cho đến lúc thành thục, mỹ mãn.
Nói tóm lại, Nguyên là lúc đầu sinh ra người, mà cũng là lúc bắt đầu làm việc.
Người có bản chất rất tốt, mà khi bắt đầu làm việc, có chủ nghĩa rất hay, mục
đích rất tốt, tức là Nguyên.
Đã đúng được cho Nguyên thời trải qua trung gian, tất nhiên tấn hành cũng được
Hanh, Lị, mà đức Nguyên ấy lại tất phải trì thủ vững vàng cho đến lúc kết quả
cuối cùng, tức là Trinh.
Nay lại đặt một lẽ thí dụ cho dễ hiểu. Ví như một giống cây, hạt mộng rất tốt, rất
chắc chắn, gieo xuống đất tức khắc nứt ra măng mậm, ấy là Nguyên. Trung gian
sây ngành, rậm lá, ngậm nụ, nở hoa, ấy là Hanh, Lị. Đến lúc kết thành trái, trái
chín, hạt ở trong trái, in như hạt giống nó khi xưa, ấy là Trinh. Hạt nó đem làm
giống gieo xuống đất, lại y nhiên là Nguyên, bốn đức ấy xây vòng chung thỉ.
Đã Nguyên, tức nhiên Hanh, Lị; đã đến Hanh, Lị tức nhiên đến Trinh. Việc lớn
như thế, việc nhỏ cũng như thế, làm việc một thân, một gia như thế, làm việc
một quốc, một thiên hạ, một xã hội cũng như thế. Nói trái lại, nếu bản chất đầu
đã bất trung, bất chính, chủ nghĩa đầu đã chẳng tốt, thời tất nhiên bất hanh, bất
lị, mà cuối cùng bất trinh. Đó chẳng qua theo giữa mặt chữ mà thích, còn thâm ý
của thánh nhân, thời nhờ ở học giả gia tâm suy nghĩ.
Trên đây là Soán từ của Văn Vương. Từ đây sắp xuống là Soán Truyện của
Khổng Tử.
Vì Đức Khổng thấy lời Soán của Văn Vương ý nghĩa bao hàm quá chừng rộng,
đạo lí quá chừng sâu, mà văn từ lại quá chừng giản, sợ học giả không hiểu. Đã
không hiểu, thời Dịch lí càng thêm lờ mờ. Ngài mới làm ra Soán Truyện, cốt để
phát huy lời Soán của Văn Vương. Vậy nên đầu chương có hai chữ Soán viết
(Soán Truyện, nghĩa là truyện để giải thích lời Soán).
SOÁN TRUYỆN
Soán viết: Đại taì Càn nguyên, vạn vật tư thỉ, nãi thống thiên. Vân hành vũ thí,
phẩm vật lưu hình. Đại minh chung thỉ, lục vị thì thành, thì thừa lục long dĩ ngự
thiên. Càn đạo biến hóa, các chính tính mệnh, bảo hợp thái hòa, nãi lị trinh, thủ
xuất thử vật, vạn quốc hàm ninh.
彖曰: 大哉乾元, 萬物資始, 乃統天. 雲行雨施, 品物流形. 大明終始, 六位時
成, 時乘六龍以御天. 乾道變化, 各正性命, 保合太和, 乃利貞, 首出庶物, 萬
國咸寧.
Truyện Soán này chia làm năm tiết để thích cho rõ ý nghĩa năm chữ: Càn,
Nguyên, Hanh, Lị, Trinh.
Nguyên năm chữ ấy theo lời của Văn Vương, thời chỉ nói tóm về đức Càn, với
sự nghiệp về đức Càn.
Khổng Tử mới phân tách bốn chữ ra làm bốn đức, mà Càn thời bao quát cả bốn
đức ấy.
1. Tiết thứ nhất
Thích riêng nguyên về chữ Nguyên
Soán viết: Đại tai Càn nguyên, vạn vật tư thỉ, nãi thông thiên.
Nghĩa Soán rằng: Lớn vậy thay, đức Nguyên của Càn, bao nhiêu sinh vật ở
trong vũ trụ, tất thảy nhờ đức Nguyên ấy mà bắt đầu nảy nở ra; đức Nguyên ấy
mới thực là thông quát hết thiên đạo.
2. Tiết thứ hai.
Thích nghĩa về chủ Hanh.
Vân hành vũ thí, phẩm vật lưu hình.
Nghĩa là: Khi vạn vật đã bắt đầu sinh dục rồi, thời nhờ nguyên khí của Càn,
càng ngày càng phát triển, làm ra mây mà có biến hóa, làm ra mưa mà khắp
nhuần thấm, bao nhiêu phẩm vật, nào giống phi, giống tiềm, giống động, giống
thực, giống thai sinh, giống noãn sinh, giống hóa sinh, tất thảy thành hình thành
sắc, mà trưởng dục mãi mãi cho đến vô cùng.
Đó là thấy được đức Hanh của Càn. Hai tiết trên đây chỉ thích Nguyên, Hanh
thuộc về phần thiên đạo. Còn về phần nhân sự, cũng có Nguyên, Hanh, nhưng
mà nhân sự quá phiền tạp, nhỏ từ thân một người, cho đên những việc gì cũng
có Nguyên, Hanh ở trong việc ấy, không thể kể ra hết được. Vậy nên Khổng Tử
chỉ lấy cách trừu tượng mà thích lẽ Nguyên, Hanh của nhân sự, tửc là một bậc
người có đức, trời được ngôi trời, chính là một bậc thánh nhân.
3. Tiết thứ ba
Đại minh chung thỉ, lục vị thì thành, thì thừa lục long, dĩ ngự thiên.
Cứ theo chữ mà thích nghĩa, thời nghĩa là: Bậc thánh nhân có đức sáng suốt cả
chung cả thỉ, thấy được sáu hào vị quẻ Càn, mỗi thì một hào thời thành một vị,
thánh nhân mới thuận thì trời mà hành đạo, thì nên ẩn mà ẩn, thì nên hiện mà
hiện, thì nên tịnh mà tịnh, thì nên động mà động, in như cỡi sáu con rồng mà
thông ngự khắp cả vùng trời.
Tiết này bốn câu: cộng mười lăm chữ, nhưng ý tứ thâm diệu cốt ở chữ thì.
Bởi vì sáu hào quẻ Càn, hào nào cũng là thể Càn cả nên gọi bằng lục long, nghĩa
là biến hóa bất trắc, thâm diệu vô phương nên phải mượn chữ lục long để hình
dung sáu hào vậy.
Học giả chớ thấy chữ long mà nhận rằng con rồng thật, sáu rồng chỉ là sáu hào
Dương mà thôi, nhưng mà sáu hào xử vào sáu địa vị, vị đã khác nhau, nhân đó
mà thì cũng khác nhau. Duy thánh nhân biết theo thì mà xử cho đúng vị, lại hay
nhân vị mà chuyển di được thì, ấy là lục vị thì thành. Tiết thứ tư sắp xuống thời
thích góp hai chữ Lị, Trinh.
Tiết thứ tư
Càn đạo biến hóa, các chính tính mệnh, bảo hợp thái hòa, nãi lị, trinh.
Thích tóm cả bốn câu, thời nghĩa là: Đạo Càn biến hóa, khiến cho những vật gì
thảy chính được tính mệnh mà lại gìn giữ được nguyên khí thái hòa, như lúc đầu
trời đã phú cho. Thế mới là lị, trinh. Bây giờ lại thích riêng từng câu cho rõ ý
nghĩa:
Càn đạo biến hóa, nghĩa là: Đạo Càn là một giống rất hoạt động, không phải là
giống chết. Ví như, mùa Hạ dương rất nóng, bỗng chốc mà mùa Thu mát; mùa
Đông đương rất rét, bỗng chốc mà mùa Xuân ấm. Lại như, giống ở trong trứng
chẳng bao lâu mà thấy nó hay bay, giống ở dưới nước chẳng bao lâu mà thấy nó
hay nhảy, tất thảy những tình trạng biến hóa đó, rặt là lẽ tự nhiên của đạo trời,
đạo trời chính là đạo Càn. Vậy nên nhớ rằng: Càn đạo biến hóa, các chính tính
mệnh nghĩa là: Đạo Càn tuy hay biến hóa nhưng mà kết quả thời mỗi vật gì cứ
thành ra vật ấy, trời đã phú cho nó cái lí vô hình lại phú cho nó cái chất hữu
hình, nó cứ giữ được cái lí vô hình thời thành ra tính. Tỷ như: trâu bò thời hay
ăn cỏ, hùm beo thời hay ăn thịt, nó lại được cái chất hữu hình mà làm cái mệnh
của nó, tức là sinh mệnh, như tục ta gọi người bằng nhân mệnh. Bởi vì nhờ có
công dụng của đạo Càn biến hoá mà vật nào, vật nấy được thỏa thích cái tính, lại
hoàn toàn được cái mệnh. Tỷ như: Trâu không bao giờ biến ra cọp, cọp không
bao giờ biến ra trâu, v.v. Ấy là các chính tính mệnh.
Bảo hợp thái hòa nghĩa là: Càn đạo biến hóa, các chính tính mệnh, thế thời vật
nào, vật nấy, cũng được đến lúc hoàn thành, nhưng sở dĩ được hoàn thành thời
gốc nhờ ở lúc nguyên thỉ có hai khí âm, dương hòa hợp ngưng kết với nhau mới
sinh dục được vạn vật, nguyên khí ngưng kết đó, tức là thái hòa.
Thái hòa là cái nguyên thỉ tạo nhân, tạo nhân thế nào, thời kết quả y nhiên thế
ấy; tạo nhân của vạn vật, vì có Thái Hòa, thời kết quả của vạn vật cũng chỉ bảo
hợp lấy thái hòa mà thôi. Thí dụ như: Loài người lúc đầu sở dĩ kết thai thành
hình là vì có âm dương hòa hợp mà kết thành thai. Đương lúc đầu kết thai, tức
khắc có bộ tim con đỏ, bộ tim con đỏ đó tức là thái hòa ngưng kết mà nên. Tới
ngày sinh trưởng ra đời, chống chọi với hoàn cảnh, tạo thành nên sự nghiệp, kết
quả chỉ giữ cho trọn vẹn bộ tim con đỏ mà thời.
Thầy Mạnh có câu rằng: Đại nhân giả bất thất kỳ xích tử chi tâm 大人者, 不失
其赤子之心者也, nghĩa là: Làm một người lớn cũng chỉ vì không bỏ mất bộ tim
con đỏ mà thôi. Bởi vì xích tử chi tâm tức là nhân tâm, mà nhân tâm chính là kết
tinh của thái hòa.
Câu nói thầy Mạnh có thể phát minh được nghĩa câu Bảo hợp thái hòa đó vậy.
Trẽn kia đã thích lị, trinh về phần Càn, bây giờ lại nói lị, trinh về phần nhân sự.
Mà nói lị, trinh về phần nhân sự, tất phải chứng vào thánh nhân.
5. Tiết thứ năm
Thủ xuất thứ vật, vạn quốc hàm ninh, nghĩa là: Đấng thánh nhân có đức, có tài
hơn hết ức muôn vật, thời trong lúc ấy phong hành hưởng ứng, vạn quốc tất thảy
nghe theo mà nước nào cũng tương an vô sự. Thế thời vạn quốc hàm ninh là lị,
trinh của thánh nhân đó vậy.
Bây giờ có một câu hỏi: Cứ như lời Đức Khổng thích Soán Từ, thời té ra
Nguyên, Hanh, Lị, Trinh duy thánh nhân mới được hay sao?
Không phải thế, Nguyên, Hanh, Lị, Trinh là tứ đức của Càn, thuộc về loài người
tức là tứ đoan:
Nhân là đức Nguyên, Lễ là đức Hanh, Nghĩa là đức Lị, Trí là đức Trinh.
Bản thể lòng người, vẫn ai nấy cũng có tứ đoan, chính là ai nấy cũng có tứ đức.
Thầy Tử Tư có nói rằng: Thất phu thất phụ khả dĩ dữ tri yên, khả dĩ dữ năng yên
匹夫匹婦可以與知焉, 可以與能焉 là nghĩa như thế.
Nhưng Đức Khổng sở dĩ chuyên nói về thánh nhân là có hai lẽ:
Duy thánh nhân mới giữ được quán triệt thỉ chung, mà tứ đức của bản tâm ngày
càng viên mãn.
Hai là: Vì tất được thánh nhân có đức, có vị, thời Nguyên, Hanh, Lị, Trinh lại
đạt ở cực điểm. Lại có câu hỏi nữa:
Người có Nguyên, Hanh, Lị, Trinh, chứ như loài vật có hay không?
Câu hỏi đó theo như ý Soán Truyện, thời dễ trả lời lắm. Nguyên, Hanh, Lị,
Trinh ở loài người với Nguyên, Hanh, Lị, Trinh ở loài vật, lí vẫn đồng mà hình
tượng có khác nhau.
Tỷ như: Cây lúa khi gieo mộng là Nguyên, khi thành cây mạ là Hanh, khi ngậm
sữa thành bông là Lị, khi kết quả thành thục là Trinh.
Cứ lẽ ấy mà suy, thời giống gì cũng có Nguyên, Hanh, Lị, Trinh cả.
Trên đây là thích Soán Truyện xong rồi, bây giờ lại thích vào Tượng Truyện.
Tượng Truyện là ý Đức Khổng muốn cho người học Dịch gặp quẻ nào cũng thể
nhận được nghĩa quẻ ấy, cốt cho hữu ích với tấm thân, mà chẳng phải đọc suông
ở đầu miệng nên Ngài làm ra Tượng Truyện.
Tượng Truyện có Đại Tượng, Tiểu Tượng. Thích tượng riêng từng hào gọi bằng
Tiểu Tượng; thích tượng chung của một quẻ gọi bằng Đại Tượng.
ĐẠI TƯỢNG TRUYỆN
Tượng viết: Thiên hành kiện, quân tử dĩ tự cường bất tức.
象曰: 天行健, 君子以自強不息.
Đây là thích tượng quẻ Càn.
Lời Tượng Truyện của Đức Khổng nói rằng: Quẻ sáu hào dương này là quẻ Càn,
Nội Càn, Ngoại Càn là cương kiện rất mực.
Xem quẻ ấy thời biết được trời đi rất mạnh. Theo độ chu thiên, thời mỗi ngày
chạy giáp vòng trời một lần, không giây phút nào nghỉ.
Quân Tử học Dịch nên bắt chước trời, học như cách trời đi mà tự cường bất tức.
Tự cường nghĩa là mình tự đốc xúc lấy mình, dưỡng thành một sức mạnh ở giữa
mình mà chẳng chờ ai giúp đỡ, ấy là nghĩa chữ tự cường.
Chẳng những một thân nên như thế, mà một gia, một quốc, một xã hội, một thế
giới, cũng nên như thế. Bởi vì mình có tự cường, thời cường ấy mới là cường
của mình. Nếu nhờ ai mà cường, thời cường ấy là cường của ai, chứ chẳng phải
cường của mình.
Đức Khổng sở dĩ ở tượng đầu Kinh mà yết ra hai chữ tự cường dạy cho những
người học quẻ Càn, mà lại xem vào hai chữ bất tức, lại càng thâm thiết lắm.
Bất tức nghĩa là chẳng nghỉ, là bảo người đã tự cường tất phải từ trẻ tới già, già
tới chết, chẳng bao giờ gián đoạn. Nếu có gián đoạn là mất lực tự cường rồi. Đã
mất lực tự cường thành ra học quẻ Càn mà chỉ thấy có sáu nét ngang dài, thời có
ích gì. Đó là thâm ý của Đức Khổng làm Tượng Truyện vậy. Từ đây sắp xuống
là thích Hào từ của Thánh Chu Công.
Hào từ nghĩa là: Lời đoán mỗi hào. Mỗi một quẻ có sáu hào. Vạch quẻ thời vạch
từ dưới vạch lên, nên hào vạch đầu hết là hào Sơ, vạch chuyển lên thứ hai là hào
Nhị, thứ ba là hào Tam, thứ tư là hào Tứ, thứ năm là hào Ngũ, trên hết quẻ là
hào Thượng.
Thứ sáu thời đáng lẽ gọi bằng hào Lục, cớ sao lại gọi bằng Thượng?
Bởi vì Dịch lí đủ cả thuận, nghịch. Vạch quẻ thời theo lối nghịch, từ dưới vạch
lên. Xem quẻ thời theo lối thuận, từ trên xem xuống.
Vì ý thánh nhân bày cho ta xem quẻ nên vạch thứ sáu không gọi bằng Lục, mà
gọi bằng Thượng. Vạch xong sáu hào rồi, lại phải phân biệt Hào thể và Hào vị.
Nghĩa là: Hào vạch đơn là một nét ngang liền, là hào dương. Hào vạch sách là
một nét đứt đôi là hào âm. Dương hào thời gọi bằng Cửu, âm hào thời gọi bằng
Lục.
Bởi vì Dịch lí là một giống vô hình, vô thể, tất phải mượn số để minh lí.
Dương có ba số sanh (Nhất, Tam, Ngũ), hai số thành (Thất, Cửu).
Dương kể thuận thời Cửu là thành số chi chung. Vậy nên lấy số Cửu mà đặt tên
hào dương.
Âm có hai số sanh (Tứ, Nhị), ba số thành (Thập, Bát, Lục). Âm kể nghịch thời
Lục là thành số chi chung. Vậy nên lấy số Lục mà đặt tên hào âm.
Chúng ta đọc đến chữ Cửu thời biết là dương hào, đọc đến chữ Lục, thời biết là
âm hào. Đó là Hào thể đã giải rõ rồi. Còn Hào vị cũng theo như hai hào mà định
ra mỗi hào mỗi vị. Sơ, Tam, Ngũ thuộc về số cơ, là dương vị.
Nhị, Tứ, Thượng thuộc về số ngẫu, là âm vị.
Đại phàm, thể hào Cửu mà ở vào vị dương, thể hào Lục mà ở vào vị âm, thảy
đắc chính.
Nêu thể hào Cửu mà ở vào vị âm, thể hào Lục mà ở vào vị dương, thảy bất
chính.
Lại mỗi hào thảy có ứng đối với nhau: Sơ, Tứ ứng với nhau. Nhị, Ngũ ứng với
nhau, v.v.
Người này ứng với người kia, gọi bằng tương ứng, nhưng lại phải hào âm ứng
với hào dương, hào dương ứng với hào âm mới gọi bằng tương ứng được. Nếu
hào thể hai bên âm cả hay dương cả thời dầu hào vị đối với nhau mặc lòng, cũng
không thể tương ứng được. Đó là vô ứng.
Nhưng lại vì mỗi quẻ chia ba vạch dưới làm Hạ Quái, Nội Quái; ba vạch trên
làm Thượng Quái, Ngoại Quái nên lại có nghĩa Nội Quái tương ứng. Nội Quái
ba hào, Sơ là hào dưới hết, Tam là hào trên hết, duy Nhị là hào chính giữa là đắc
trung. Ngoại Quái ba hào, Tứ là hào dưới hết, Thượng là hào trên hết, duy Ngũ
là hào chính giữa là đắc trung.
Sở dĩ vô luận quẻ nào, hễ Nhị, Ngũ là đắc trung, ngoài ra các hào đều là bất
trung.
Như trên kia thuyết minh là nói đại khái về phép xem quẻ, xem hào toàn bộ
Kinh Dịch.
Bây giờ xin thích nghĩa hào Sơ quẻ Càn, thời bao nhiêu hào cũng có thể nhân đó
mà suy được.
HÀO TỪ VÀ TIỂU TƯỢNG TRUYỆN
Sơ Cửu: Tiềm long vật dụng.
初九: 潜龍勿用.
Sơ là hào vị ở dưới hết, Cửu là hào thể thuộc về hào dương. Quẻ Càn là quẻ thứ
nhất đầu Kinh Dịch, mà lại là quẻ Thuần Dương, hào này là vạch thứ nhất của
quẻ Càn, bản thể nó là dương, mà ở vào vị cũng là dương vị. Vậy nên đặt tên
bằng Sơ Cửu.
Tiềm long, nghĩa là con rồng còn nấp ngầm ở dưới thấp.
Bởi vì Dịch lí gốc vô hình nên thánh nhân phải mượn một giống hữu hình để
phát minh Dịch lí.
Long là một giống linh biến bất trắc mà lại thuộc về loài dương nên mượn chữ
long để phỏng tượng cái đạo biến hóa của Càn.
Vì sao mà nói rằng tiềm? [4]
Bởi vì hào này là bắt đầu vạch ra mà ở dưới hết quẻ, in như con long còn nấp
nép ở dưới vực sâu, sở dĩ gọi bằng Tiềm long.
Vì long đương lúc còn tiềm thời chưa có thể làm được những việc mây mưa
biến hóa, cũng như một bậc tiền nhân tại hạ, hoặc khi mới ra đời, sức mỏng thế
hèn, chỉ nên trầm tiềm hàm dưỡng, chờ đợi thì cơ, chớ nên vội vàng ra gánh việc
đời. Sơ dĩ Hào từ bảo rằng: Vật dụng.
Chữ vật dụng là bảo cho bản thân hào này chưa nên thí dụng và cũng bảo cho
những người dụng nhân, gập bậc tiềm long như hào này cũng chỉ nên bồi dưỡng
vun đắp, chờ thì mà dụng, chớ nên vội vàng gấp dụng người ta.
Nói tóm lại, bản thân hào Sơ, thời là khả năng tắc tàng, mà người tương ứng với
Sơ cũng chỉ nên tài giả bồi chi mà thôi. Nếu dụng ra làm việc đời cũng thất ư
quá vội. Lời hào này chính là thâm ý của thánh nhân, cốt răn cho những người
có tài mà cấp tiến chẳng chịu chờ thì vậy.
Trên đây là giải thích Hào từ của Chu Công, bây giờ lại giải thích Tượng từ của
Khổng Tử. Tượng từ này gọi bằng Tiểu Tượng.
Bởi vì, Khổng Tử sợ học giả đọc Hào từ Chu Công mà không hiểu thấu ý nghĩa
nên Ngài theo dưới mỗi hào, đặt vào mỗi bài Tiểu Tượng để thích ý nghĩa của
Hào từ.
Tượng viết: Tiềm long vật dụng, dương tại hạ dã.
象曰: 潜龍勿用, 陽在下也
Hào từ nói rằng: Tiềm long vật dụng là cớ vì sao?
Là vì, đức dương cương, càn kiện, tuy vẫn là long, nhưng vì địa vị hoàn cảnh
còn ở dưới hết, theo thì nghĩa thời chỉ nên tiềm, thì đương phải tiềm, tất không
thể bay nhảy được, sở dĩ răn rằng: Vật dụng.
Cửu Nhị: Hiện long tại điền, lị kiến đại nhân. [5]
九二: 見龍在田, 利見大人.
Hào Cửu Nhị này ở chính giữa Nội Càn, là dương cương mà lại đắc trung. Vả lại
dương hào ở vào dương quái, trông lên quẻ trên, có hào Cửu Ngũ là bạn dương
cương chính ứng với mình, thế là cương kiện đắc trung, mà lại đắc thì ngộ chủ,
tượng như long đã thoát li nơi tiềm ẩn, mà lại có cơ hội làm mây mưa, tỏ rõ ra
một vật thần linh ở trên mặt đất. Sở dĩ rằng: Hiện long tại điền.
Tuy nhiên, việc trong thiên hạ, không bao giờ chỉ một người mà làm nên, mà
cũng không bao giờ làm việc thiên hạ mà chỉ làm lị ích cho một mình.
Cửu Nhị cương kiện đắc trung, chính là một bậc đại nhân, mà lại tất phải có một
bậc cương kiện, trung chính, như Cửu Ngũ, cũng là đại nhân.
Hai bậc đại nhân đó, đồng tâm đồng đức với nhau, mới có thể làm nên việc lớn
trong thiên hạ, tới khi hai bậc đại nhân ấy đã đồng thời xuất hiện thời thiên hạ ai
nấy cũng trông mong vào, nên Hào từ nói rằng: Lị kiến đại nhân.
Nghĩa là một phương diện thời đại nhân là Cửu Nhị phải hội ngộ với đại nhân là
Cửu Ngũ, một phương diện thời thiên hạ mừng thấy được bậc đại nhân là Cửu
Nhị.
Tượng viết: Hiện long tại điền, đức thí phổ dã.
象曰: 見龍在田, 德施普也.
Lời Tiểu Tượng của Khổng Tử nói rằng: Hào từ sở dĩ có câu: Hiện long tại điền,
lị kiến đại nhân, nghĩa là đức long của Cửu Nhị đã phát triển khắp mọi nơi, thiên
hạ chẳng những lị kiến Cửu Ngũ mà thôi, lại [còn] lị kiến Cửu Nhị đó vậy.
PHỤ CHÚ: Chữ long ở Cửu Nhị chính là chữ long ở Sơ Cửu, vẫn một bậc thánh
nhân như nhau, nhưng vì thời đại hào Sơ là buổi còn phải tu dưỡng, đến thời đại
hào Nhị là buổi đã tiến hành nên tiềm, hiện có khác nhau mà long chỉ là một,
chẳng qua tùy địa vị với hoàn cảnh, thì đã bất đồng thời cách tu tiến cũng bất
đồng.
Chữ tiềm, chữ hiện khác nhau, chính là đúng nghĩa chữ thì ở trong Dịch bọc.
Cửu Tam: Quân tử chung nhật kiền kiền, tịch dịch nhược, lệ, vô cựu.
九三: 君子終日乾乾, 夕惕若, 厲, 无咎.
Hào này ở trên hết nội Càn, vạch đơn, thể dương là dương hào ở vào dương vị
nên gọi tên nó bằng Cửu Tam.
Theo như lệ sáu hào mà chia ra làm tam tài, thời Sơ, Nhị ở đoạn dưới là địa,
Ngũ, Thượng ở đoạn trên là thiên, Tam, Tứ ở giữa là nhân.
Lại theo về thể toàn quẻ mà chia ra làm quẻ trên, quẻ dưới, thời ba hào ở trong
là quẻ dưới. Hào này ở vị Tam, thời Tam là vị nhân. Theo về thể toàn quẻ thời
Tam ở trên hạ thể, nghĩa là ở vị chông chênh. Bảo rằng trên, thời nó vẫn ở hạ
thể, bảo rằng dưới thời nó lại ở trên Hạ Quái.
Người mà ở vào địa vị ấy là một cảnh rất khó xử. Nếu bản thân mình mà không
thiệt giỏi, thời e đến nỗi dưới kéo, trên giằng mà thành ra một người trụy lạc.
Hào này ở vào địa vị khó xử như thế, mà tính chất bản thân nó, đã Cửu là dương
cương, lại Tam cũng dương cương, mà lại ở không được trung vị như Nhị, Ngũ.
Thế là một người trùng cương bất trung, lấy một người quá cực cương như thế,
mà xử vào địa vị bán thượng lạc hạ, nguy hiểm biết chừng nào! Sở dĩ thánh
nhân đặt làm lời răn rằng: Quân tử chung nhật kiền kiền, tịch dịch nhược. Nghĩa
là: Quân tử xử vào địa vị hào Cửu Tam, lại xét trong mình cũng tính chất như
hào Cửu Tam, tất phải hết sức tu tĩnh cang trì, suốt ngày từ sáng tới tối, đã
thường thường kiền kiền [6] mà lại dịch nhược [7].
Nếu được như thế, thời tuy xử vào địa vị đáng nguy mà chắc cũng chuyển họa vi
phúc, hóa dữ ra lành, không đến nỗi có tội lỗi, sở dĩ Hào từ có ba chữ: Lệ, vô
cựu [8].
Hào này vẫn cũng một người tốt nên Hào từ có chữ quân tử.
Tuy nhiên, đã quân tử cớ sao kiền dịch tối ngày mà chỉ may được vô cựu? Bởi
vì địa vị hào này ở vào trung lưu. Tùng lai, quốc gia nào, xã hội nào, thế giới
nào, rất quan hệ ở hạng người trung lưu; người ở trên mình thời trách móc vào
mình, người ở dưới mình thời trông mong vào mình. Cơ quan thành hay bại đã
quan hệ rất lớn, mà xử trí lại rất khó. Nếu mảy may không cẩn thận, thời hung
họa tới nơi. Sở dĩ chung nhật kiền kiền, tịch dịch nhược mới may được vô cựu.
Đó là thâm ý thánh nhân dạy người xử thế vậy.
PHỤ CHÚ: Sáu hào quẻ Càn thảy có thể dụng chữ long được, bởi vì hào ở quẻ
Thuần Dương, là có tượng long. Cớ sao Hào từ Cửu Tam lại không dụng chữ
long mà lại dụng chữ quân tử? Đó là ý thánh nhân tỏ cho ta học Dịch phải biết
những chữ thủ tượng ở trong Dịch chỉ là mượn tượng cho sáng ý mả thôi, chứ
không phải thấy tượng nào là ấn định sự vật ấy.
Giả như: Chữ long quẻ Càn mà chỉ nhận nhất định là rồng thời còn gì là học
Dịch nữa đâu. Vậy xin học giả học Dịch xem ở hào Cửu Tam thời biết ý nghĩa
chữ long, ở các hào kia cũng chỉ thế chữ quân tử mà thôi. Đó là xem ý không
cần xem chữ. Thế mới là biết học Dịch.
Tượng viết: Chung nhật kiển kiền, phản phục đạo dã.
象曰: 終日乾乾, 反復道也.
Tượng của Đức Khổng Tử nói rằng:
Hào từ sở dĩ rằng chung nhật kiền kiền, là bảo người ta ai xử vào địa vị Cửu
Tam chính là [ở vào] địa vị làm người, tất phải ngày nào suốt một đời người, chỉ
là tráo đi trở lại, tự thỉ chí chung, bao nhiêu đường lối mình đi chỉ cốt cho đúng
đạo lí.
PHỤ CHÚ: Tượng từ của Khổng Tử suy rộng ý Hào từ của Chu Công, vì hào
Cửu Tam đứng vào vị nhân nên thống luận loài người ai nấy cũng phải lo cho
trọn đạo người, chẳng những một Cửu Tam mà thôi, vì vậy nên có câu phản
phục đạo dã. Đó là Đức Khổng suy rộng ý của Chu Công, chúng ta học Tiểu
Tượng thảy nên biết ý ấy.
Cửu Tứ: Hoặc dược tại uyên, vô cựu.
九四: 或躍在淵, 无咎.
Hào này vẫn thể Dương ở vào vị âm, kể thể sáu hào thời Cửu Tứ là hào thứ tư,
thuộc về số chẵn, là số âm, bản thân nó vạch đơn, là dương hào nên gọi tên nó
bằng Cửu Tứ. Nghĩa là dương hào mà ở âm vị, có hiềm nghi vì bất chính. Kể thể
toàn quẻ thời nó ở vào quẻ trên mà lại ở dưới quẻ trên, thế là xử vị lại bất trung.
Trông lên thời nó không được như Ngũ, ngó xuống thời nó lại không được như
Nhị. Thế là bản thân Tứ sở xử đã bất chính lại bất trung, nhưng mà ở vào quẻ
Càn, thời bản thân nó là chất cương kiện, vẫn cũng là một bậc quân tử, chỉ vì địa
vị với hoàn cảnh của nó, muốn tiến mà chưa chắc tiến đã hay, muốn thối mà lại
e thối cũng dở. Vậy nên thì gian của Tứ, chỉ nên châm chước thẩm thận, lựa
xem thì cơ mà tiến, thối cho đúng; thì nên tiến thời ta tiến, thì nên thối thời ta
thối. Nếu cơ hội đáng tiến thời tiến ngay, tượng như long dược. Long đã dược
thời chẳng bao lâu cũng đến phi. Nếu thì cơ chưa đến tiến, tất phải nằm im mà
chờ thì, tượng như long tại uyên. Vậy nên Hào từ nói rằng: Hoặc dược tại uyên
[9], biết tùy thì như thế, chắc không lầm lỗi, ấy là vô cựu.
PHỤ CHÚ: Địa vị hào Tứ cũng như địa vị hào Tam, cũng xử cảnh bán thượng
lạc hạ, rặt là ở vào cảnh tiến, thối lưỡng nan, chỉ duy khác hơn Cửu Tam chút
đỉnh là Cửu Tam thời chưa có thể tiến mà Tứ thời có thể tiến được. Bởi vì Tam
còn ở quẻ dưới, mà Tứ đã bước lên quẻ trên, sở dĩ tiến, thối, có khác nhau.
Thánh nhân dạy cho người nên thẩm thận xem thì mới khỏi mắc cái lỗi táo tiến
nên Hào từ có chữ hoặc, nghĩa là không nhất định.
Xem Tiểu Tượng của Khổng Tử dưới đây lại càng minh bạch.
Tượng viết: Hoặc dược tại uyên, tiến, vô cựu dã.
象曰: 或躍在淵, 无咎也.
Hào này đã li khỏi Hạ Quái mà lên gần Cửu Ngũ, thời thế nào cũng tiến mà thôi,
nhưng tất phải tiểu tâm cẩn thận và có trí biết xem thì mà tiến mới vô cựu.
Tượng từ nói rằng: Tiến vô cựu dã, là chỉ ngậm ý chữ dược, mà nuốt được chữ
tại uyên. Đó là phát minh ý Hào từ, nghĩa là tất có thì tiến nhưng không nên cấp
tiến, chính là nghĩa tùy thì ở trong Dịch học.
Cửu Ngũ: Phi long tại thiên, lị kiến đại nhân.
九五:飛龍在天, 利見大人.
Cửu là hào dương, Ngũ là vị dương, dương hào ở dương vị là đắc chính.
Ngũ là hào ở chính giữa Ngoại Quái là đắc trung, vả lại ở vào quẻ Càn là có tính
chất cương kiện. Đã cương kiện lại trung chính là tuyền đức của thánh nhân, mà
ở vị Ngũ lại là địa vị chí tôn ở trong quẻ, ấy là thánh đức ở thiên vị, tượng như
con long bay giữa trời, thiệt là một hào tốt nhất ở trong sáu hào nên Hào từ nói
rằng: Phi long tại thiên.
Tuy nhiên, việc trong thiên hạ, há chỉ một thánh nhân mà làm nên ư? Có bậc
thánh nhân ở vị trên tất phải có bậc thánh nhân ở vị dưới, giùm giúp với nhau,
trao đỡ cho nhau mới làm nên sự nghiệp to lớn mà thiên hạ mới tín ngưỡng vào
mình.
Nên Hào từ nói rằng: Lị kiến đại nhân, nghĩa là, Cửu Ngũ vẫn là đại nhân,
nhưng cũng phải lị kiến đại nhân ở dưới là Cửu Nhị nữa mới được, cũng như
Cửu Nhị phải lị kiến đại nhân ở trên là Cửu Ngũ đó vậy.
Hai bậc đại nhân ấy đồng tâm, đồng đức làm nên sự nghiệp của Càn mà thiên hạ
phải vọng phong chiêm ngưỡng, ấy là lị kiến đại nhân vậy.
PHỤ CHÚ: Chữ long ở Cửu Ngũ với chữ long ở Sơ Cửu, nguyên chỉ một long,
mượn mà thí dụ một bậc thánh nhân, khác nhau chỉ chữ tiềm và chữ hiện. Hiện
rồi dược, dược rồi phi, cũng chỉ là tu dưỡng tích lũy từ nhỏ tới lớn, từ thấp lên
cao, vẫn theo thì mà tiến lần, không phải trọn đời cứ tiến mãi, cũng không phải
bỗng chốc mà phi ngay. Chúng ta nếu kiên trì đức hạnh, tích lũy công phu, bắt
đầu tiềm dưỡng như Sơ, rồi bước lên hiện long như Nhị, lại còn kiền dịch như
Tam, hoặc dược như Tứ, thì giờ lâu dài, công phu thành thục, thời sự nghiệp phi
long như Cửu Ngũ cũng há phải việc rất khó đâu.
Xưa nay, thảnh hiền, hào kiệt chẳng ai tiềm mãi mà không phi, cũng chẳng ai
muốn phi mà không gốc ở tiềm. Thầy Mạnh có câu: Nhân hữu bất vi dã, nhi hậu
khả dĩ hữu vi, nghĩa là: Người ta tất trước có cái không chịu làm mà sau mới có
thể đến lúc làm. Lời nói đó rất hợp với nghĩa Kinh Dịch. Bất vi tức là tiềm, hữu
vi tức là phi, chỉ cốt cho đúng thì, nghĩa, là tác dụng của đại nhân đó vậy.
Tượng viết: Phi long tại thiên, đại nhân tạo dã.
象曰: 飛龍在天, 大人造也.
Nghĩa là: Đại nhân ở hào Ngũ này, cũng là đại nhân ở hào Nhị, nhưng trước kia
mới thấy được thịnh đức của đại nhân, bây giờ thời thấy được đại nghiệp của đại
nhân, chính là một bậc đại đức, đại tài, chuyển di được thời thế, tạo thành được
thế giới, sở dĩ rằng đại nhân tạo dã. Đại nhân là thay cho chữ long, tạo là thay
cho chữ phi.
PHỤ CHÚ: Đọc Hào từ này, nếu hạng người bình thường thời thế nào? Tất phải
xét trong mình, quả đã có công phu "tiềm, hiện" được như Sơ, Nhị hay chưa?
Nếu chưa, thời chưa nên đứng vào địa vị "phi long", mà phải tìm kiếm cho được
bậc đại nhân như Cửu Ngũ, còn mình chỉ là một người lị kiến người ấy mà thôi.
Thế mới là người biết học Dịch.
6. Thượng Cửu: Kháng long hữu hối.
上九: 亢龍有悔.
Hào này vạch đơn là hào dương, vạch thứ sáu quẻ Càn là ở trên hết quẻ nên gọi
tên nó bằng Thượng Cửu, hào dương ở quẻ Càn, vẫn có đức cương kiện, cũng là
một vị quân tử nên cũng tượng là long, nhưng địa vị hào ấy ở cuối cùng quẻ
Càn, là cao đến tột bực. Thế là: Thượng chi cực, sự chi chung
上之極, 事之終.
Hễ việc thiên hạ, cùng thời biến, đầy thời nghiêng. Nêu bậc quân tử xử vào địa
vị hào này, tất phải răn đường dinh mẫu, giữ lối khiếm nhường mới tránh khỏi
họa thái cương tắc chiết 太剛則折.
Nếu không thế, đầy quá mà chẳng biết dè, tiến hoài mà chẳng biết thối, ấy là
kháng long.
Kháng nghĩa là cao cực, cũng có nghĩa là cương cực; cương cực thời không thế
ôn hòa, cao cực thì không thể thối được; đầy tất phải tràn, cương quá thời gãy,
thế nào cũng có việc phải ăn năn; sở dĩ hữu hối.
Xem như đời xưa, vua Nghiêu nhường vị cho vua Thuấn, đời sau ông Hoa
Thịnh Đốn không chịu làm Đại Tổng Thống lần thứ hai, chính là tránh họa
"kháng long" vậy.
Nã Phá Luân bị đày ở hoang đảo, Viên Thế Khải bị đánh đổ vì đảng Quốc Dân,
chính là "Kháng long hữu hối"; đó chẳng qua chứng vào việc lớn mà thôi, bao
nhiêu việc trong thiên hạ, nhỏ từ một thân, một gia, lớn đến một quốc, một xã
hội, một thế giới, cũng lẽ như thế.
PHỤ CHÚ: Chữ long ở Thượng Cửu, cũng một long như năm hào kia; hào này
sở dĩ hữu hối, chẳng phải lỗi tại chữ long mà lỗi tại chữ kháng. Bởi vì địa vị hào
Thượng Cửu là dương cương đã đến lúc thái quá, mà lại tột mực cao, nếu không
hay biến thông, tất có họa hại. Đó là thâm ý thánh nhân dạy người xử thế.
Tượng viết: Kháng long hữu hối, dinh bất khả cửu dã.
象曰: 亢龍有悔, 盈不可久也.
Hào từ nói rằng: Kháng long hữu hối nghĩa là: Sáu hào quẻ Càn, hào nào cũng
có thể gọi bằng long, đáng lẽ là vô hối, nhưng vì hào Thượng Cửu này, Càn đạo
cũng đã đến lúc cùng cực rồi, địa vị đã đến lúc quá cao rồi, thế là đã đến hồi
mãn dinh, hễ vật lí đã đến hồi mãn dinh thời không thể lâu dài được.
Dụng Cửu: Kiến quần long vô thủ, cát.
用九: 見羣龍無首, 吉.
Dụng Cửu vẫn không phải là một hào, nhưng theo về Hào từ của Chu Công, thời
cũng giả thiết làm một hào. Bởi vì nguyên lí của Dịch, trọng yếu thứ nhất là biến
dịch, vả lại đầu tiên Phục Hy vạch quẻ, thời trong phép xem quẻ có biến động
mới vô cùng, hào dương có thể biến làm hào âm, hào âm có thể biến làm hào
dương. Sáu hào dương quẻ Càn, biến hết thảy thành ra quẻ Thuần Khôn, đó là
cơ vi diệu của tạo hóa, vẫn gì gì cũng có biến dịch. Chu Công muốn cho ta hiểu
lẽ ấy nên ở quẻ Càn, quẻ Khôn thêm vào hai hào đặt tên là "Dụng Cửu", "Dụng
Lục", nghĩa là: Hễ hào dương thời dụng số Cửu mà không dụng số Thất, hào âm
thời dụng số Lục mà không dụng số Bát, nên một cái thông lệ cho người là đọc
384 hào vậy.
Vì đã có hai hào ấy, nên Chu Công lại thêm vào hai Hào từ để cho rõ thâm ý của
thánh nhân thùy giáo.
Đó là thích nghĩa quẻ Càn, còn quẻ Khôn cũng y vậy.
Kiến quần long vô thủ nghĩa là sao? Long là dương hào, quần long là sáu hào
dương, vô thủ là sáu hào dương thảy biến cả.
Bởi vì, Dương là tượng long, mà long sở dĩ hoạt động khác thường, là cốt ở cái
đầu. Bây giờ dương hào đã biến hết cả, là tượng như long đã tiêu diệt hết cái
hình tích hoạt động, chính là vô thủ, nghĩa là không thấy đầu con long nào nữa
vậy.
Nhưng đó chẳng qua theo ở trên mặt chữ mà giải thích nghĩa đen đó thôi. Nếu
nhận cho ra ý thâm diệu của thánh nhân, thời sâu xa huyền bí quá.
Nguyên lai, thánh nhân tác Dịch, gộp cả thiên đạo, nhân sự mà kể suốt từ vô thỉ
đến vô chung.
Trên kia, trải qua sáu hào quẻ Càn, kể bằng sáu đại vận hội ở trong vũ trụ có thể
đặng, mà kể bằng sáu thời đại rất dài ở trong xã hội, sáu tuần tự tiến hóa ở trong
nhân loại, cũng có thể đặng.
Tỷ như Sơ tiềm long là thuộc về thời đại còn hỗn độn. Nhị hiện long là thuộc về
thời đại đã có văn tự, thi thư. Tam, Tứ là thuộc về thời đại trung cổ dĩ hậu. Ngũ
phi long là thuộc về thời đại có khoa học phát minh, nhân loại trải qua một trình
tự đại tiến hóa. Thượng kháng long là thuộc về thời đại cận kim dĩ hậu. Toàn thế
giới phát hiện ra chủng chủng đấu tranh, mà bao nhiêu thịnh cực phải suy, tiêu
cực phải trưởng, nhân loại trải qua một thì gian đại phá hoại, mà tiến vào cuộc
canh tân.
Trải qua sáu thời đại đó rồi thì bao nhiêu giai cấp cực cao ở trong thế giới hoàn
toàn tiêu diệt, mà tất thảy nhân loại mới phát hiện ra một cách chân chánh, bình
đẳng, chân chánh tự do. Thế là kiến quần long vô thủ, nghĩa là: trước con mắt
người ta thấy được tất thảy là long, mà không thấy đâu là thủ.
Nói cho kĩ, thời cũng như học thuyết mới nói rằng: đại đồng, vô chính phủ, v.v.
Đó là rất hoàn toàn mỹ mãn ở trong nhân đạo. Vậy nên Hào từ tán rộng: Cát.
Cát nghĩa là: tốt lành.
Trước kia sáu hào không chữ cát, mà cớ sao chữ cát chỉ đặt cho hào này?
Thế mới biết rằng: Lục dương giai biến, chính là chúng tôn giai biến. Bởi vì
thông lệ trong Dịch, dương là tôn, âm là ti, biến hết thảy dương tức là biến hết
thảy giai cấp tôn quý vậy.
Tượng viết: Dụng cửu, thiên đức bất khả vi thủ dã.
象曰: 用九, 天德不可爲首也.
Khổng Tử nói rằng: Nghĩa Hào từ Dụng Cửu đó là bảo: Long tuy là đức Càn
nhưng mà quần long hãy còn có thủ thời chưa đúng với đức trời, Nếu thật [là]
đức trời hoàn toàn, thời không thấy có ai làm thủ nữa vậy.
Sở dĩ rằng thiên đức bất khả vi thủ là vì còn có vi thủ, thời không phải thiên đức,
tất không thấy ai vi thủ mới là thấy thiên đức.
Phật Tổ có câu: Thị pháp bình đẳng, vô hữu cao hạ 是法平等, 旡有高下, cũng
là ý nghĩa ấy.
Từ đây sắp xuống là Văn Ngôn quẻ Càn. Văn Ngôn chỉ quẻ Càn với quẻ Khôn
có mà thôi, vì rằng hai quẻ ấy là làm cha mẹ cho toàn vạn vật, mà đứng đầu hết
Kinh. Khổng Tử nghiên cứu hai quẻ ấy, đạo lí quá chừng rộng, ý tứ quá chừng
sâu. Ngài sợ rằng chỉ Soán Truyện mà thôi thời e học giả chưa phát minh được
hết ý nghĩa, vậy nên làm thêm truyện Văn Ngôn như dưới này:
Văn Ngôn viết: Nguyên giả, thiện chi trưởng dã; hanh giả, gia chi hội dã; lị giả,
nghĩa chi hòa dã; trinh giả, sự chi cán dã.
文言曰: 元者善之張也; 亨者嘉之會也; 利者義之和也; 貞者事之乾也.
Nguyên Soán từ của Văn Vương chỉ có năm chữ Càn, Nguyên, Hanh, Lị, Trinh.
Khổng Tử nhận ra được đức Càn của trời, bao quát tự thỉ đến chung, nói tóm lại
thời chỉ một chữ Càn là đủ, mới chia ra thời có bốn chữ, mà cũng gọi bằng bốn
đức.
Nhất là đức Nguyên, Nguyên là đức lớn nhất ở trong bốn đức lành. Kể theo tứ
thì, thời Nguyên thuộc về mùa Xuân, đầu hết phát sinh ra vạn vật. Kể theo đạo
người, thời Nguyên thuộc về đức Nhân, là cội gốc của lòng người. Đạo trời sở dĩ
sinh sinh bất cùng, lòng người sở dĩ hợp được thiên lí, là chỉ vì có đức Nguyên
nên bảo rằng: Thiện chi trưởng dã.
Nhị là đức Hanh nghĩa là thông. Kể theo tứ thì, thời Hanh thuộc về mùa Hạ, bao
nhiêu sinh vật đến lúc ấy phát dục rõ ràng. Kể theo đạo người, thời Hanh thuộc
về đức Lễ. Lễ là hợp với lí, những việc gì người làm mà hợp với đạo lí mới là
tốt. Nhóm góp hết các chuyện tốt mới là thông nên bảo rằng: Gia chi hội dã.
Tam là đức Lị. Kể theo tứ thì, thời Lị thuộc về mùa Thu, bao nhiêu sinh vật đến
lúc ấy tất thảy thành thục, ấy là Lị. Kể theo đạo người, thời Lị thuộc về đức
Nghĩa. Nhân với nghĩa là một đạo lí nghiêm chính, mà trong nghiêm chính đó,
tất cũng làm cho ai nấy được vui vẻ sung sướng, mới điều hòa được nghĩa, chính
là nhờ có Lị, nên bảo rằng: Nghĩa chi hòa dã.
Tứ là đức Trinh.Trước kia đức Nguyên là tạo đoan khai thỉ cho vạn vật; đức
Hanh là trưởng dưỡng cho vạn vật; đức Lị là thành tựu cho vạn vật. Nhưng hễ
đạo lí gì, sự vật gì, cũng tất phải có kết thúc với kết quả, xem ở kết thúc và kết
quả mà được hoàn toàn viên mãn, mới là họp với đức trời. Vì vậy, Nguyên,
Hanh, Lị, rồi lại phải có đức Trinh, tức là đức Trí.
Kể theo tứ thì, thời Trinh thuộc về mùa Đông, bao nhiêu sinh vật đến lúc đó vật
nào thành vật nấy, mà cũng là kết quả của vật vậy. Kể theo đạo người, thời
Trinh cũng thuộc về đức Trí. Trí là một chất tri giác linh minh, soi xét được thị
phi rành rõi, nhất thiết sự gì hợp với lẽ phải mới làm, sự gì trái lẽ phải thời
không làm. Đức Trinh ấy là căn cán cho người ta làm mọi việc nên bảo rằng: Sự
chi cán dã. Cán nghĩa là thân cây, người làm muốn việc tất phải có đức Trinh,
thời việc mới có kết quả, tượng như một giống cây, tất phải có thân cây, cây
phải có ngành lá, hoa quả, cũng một lẽ in nhau.
PHỤ CHÚ: Trong bốn câu tiết đầu, rất thâm thúy, tinh diệu là câu: Lị giả nghĩa
chi hòa dã.
Xưa nay chữ Lị, chữ Nghĩa, các học giả thường chia nhau ra làm hai đường.
Đức Khổng Tử cũng có câu rằng: Quân tử dụ ở nghĩa, tiếu nhân dụ ư lị 君子喻
於義, 小人喻於利.
Thầy Mạnh càng biện biệt chữ Lị, chữ Nghĩa rất nghiêm. Duy đến Văn Ngôn
Kinh Dịch mới có cảu: Lị giả nghĩa chi hòa, là nhập cả nghĩa, lị làm một lẽ.
Bây giờ xin giải phẫu cho rõ rằng:
Nghĩa, nguyên là phải. Thí dụ: Như cha có nghĩa từ với con, con có nghĩa hiếu
với cha, nhưng hiếu, từ có phải chỉ nói suông đâu, tất phải làm sao cho cha nuôi
được con, con nuôi được cha. Thế tất phải có lị đó, mục đích cốt ở nuôi cha,
nuôi con để cho thành đức nghĩa mà thôi, suy rộng ra, lớn đến yêu nước thương
dân vẫn là nghĩa.
Nhưng đã yêu nước, tất phải làm cho phú quốc cường binh, thương dân tất phải
làm cho hậu sinh lị dụng. Thế là vì cái nghĩa thương nước, yêu dân mà trước cần
phải có kinh tế, kinh tế tức là Lị. Thế là Lị giả nghĩa chi hòa.
Xem như tiết dưới có câu: Lị vật túc dĩ hòa nghĩa lại càng rõ lắm.
Quân tử thể nhân, túc dĩ trưởng nhân, gia hội túc dĩ hợp lễ, lị vật túc dĩ hòa
nghĩa, trinh cố túc dĩ cán sự, quân tử hành thử tứ đức giả, cố viết: Càn, Nguyên,
Hanh, Lị, Trinh.
君子體仁 足以長人, 嘉會足以合禮, 利物足以和義, 貞固足以干事, 君子行此
四德也, 故曰: 乾元亨利貞.
Tiết này lại muốn cho đầy đủ ý nghĩa của tiết trên nên phải lấy một bậc thánh
nhân toàn bị tứ đức mà phối hợp với đức Càn. Nghĩa là: Đấng quân tử lấy đức
nhân làm bản thể, hay suy ra mà trưởng dưỡng được người. Tóm góp hết mọi sự
tốt, thời không việc gì mà không hợp với thiên lí. Làm lị ích cho vạn vật, thời
điều hòa được đức nghĩa, mà đức nghĩa không phải là giống chết khô.
Hằng tâm nghị lực 恆心毅力, bền giữ được Nguyên, thời làm được căn cán cho
mỗi việc, việc gì cũng chung thỉ như nhất, mà được có kết quả 足以幹事.
Quân tử làm đủ bốn đức ấy thế là phối hợp được đức Càn, cho nên nói rằng:
Càn, Nguyên, Hanh, Lị, Trinh.
Sơ Cửu, tiềm long vật dụng, hà vị dã?
Tử viết: Long đức nhi ẩn giả dã, bất dịch hồ thế, bất thành hồ danh, độn thế vô
muộn, bất kiến thị nhi vô muộn, lạc tắc hành chi, ưu tắc vi chi, xác hồ kỳ bất khả
bạt, tiềm long dã.
初九: 潜龍勿用, 何謂也?
子曰: 露德而隱者也, 不易乎世, 不成 乎名, 遯世無悶, 不見是而無悶, 樂則
行之, 憂則違之, 確乎其不可拔, 潜龍也.
Nghĩa Hào từ Sơ Cửu, là bảo làm sao?
Khổng Tử theo ý Tượng Truyện mà giải thích cho tường rằng: Hào từ này khen
đức một bậc thánh nhân tại hạ, tượng như long là một vật hay biến hóa mà còn
tiềm ẩn đó vậy. Thánh nhân đương lúc ấy chỉ lo tấn đức tu nghiệp ở trong mình,
không vì thế tục mà thay đổi ý chí mình, không lòe loẹt danh dự với người đời,
tránh đời mà không lấy làm buồn, tuy đời không cho mình là phải mà vẫn cứ
không buồn, giữ một chí hướng, thờ một chủ nghĩa, chờ có một thì cơ tốt thời ta
làm. Nếu thì còn hoạn nạn chưa có dịp làm cho được chí mình, thời dầu mình
tránh đời, cái chi tiết ấy, cái phương châm ấy, bền như đá, vững như đanh,
không thể lay động được.
Thế là gọi bằng tiềm long vậy.
Tiềm chi vi ngôn dã, ẩn nhi vị hiện, hành nhi vị thành, thị dĩ quân tử phất dụng
dã.
潜之爲言也, 隱而未見, 行而未成, 是以君子弗用也.
Đây là giải thích cho minh bạch ý nghĩa chữ Tiềm, nghĩa là: Đương thì giờ còn
ẩn núp, bao nhiêu sự nghiệp về ngày sau còn đương nấu nướng un đúc. Thế là
thân ta còn đương tiềm tàng mà chưa xuất hiện, việc ta còn đương lo sắp đặt mà
chưa kịp trình bày. Ví như: Mầm cây còn ở dưới đất, mũi sắt còn ủ trong lò nên
quân tử chưa đem ra dụng vậy. Vì thế, Hào từ mới có chữ vật dụng.
Cửu Nhị viết: Hiện long tại điền, lị kiến đại nhân, hà vị dã?
Tử viết: Long đức nhi chính trung giả dã. Dung ngôn chi tín, dung hạnh chi cẩn,
nhàn tà tồn kỳ thành, thiện thế nhi bất phạt, đức bác nhi hóa.
九二曰: 見龍在田, 利見大人, 何謂也?
子曰: 龍德而正中者也. 庸言之信, 庸行之謹, 閑邪存其誠, 善世而不伐, 德博
而化.
Nghĩa Hào từ Cửu Nhị là bảo làm sao?
Khổng Tử rằng: Một vị thánh nhân khi đã thành đức rồi, tượng như long đã tỏ rõ
ra một giống thần vật, vả lại Cửu Nhị là hào đắc trung là nó, đức thánh nhân sở
dĩ hợp được đức Càn, mà tốt nhất là chữ trung, nên nói rằng: Long đức nhi chính
trung giả dã.
Nghĩa hai chữ chính trung phải nhận cho kĩ, đạo lí trong thiên hạ, vẫn có nhiều
việc, kể rằng chính thời vẫn chính, nhưng hoặc thái quá, hoặc bất cập, thế là bất
trung, Vì bất trung, té ra mất cả chính.
Tỷ như: Hiếu với cha là chính, mà hiếu như Thân Sinh té ra làm thành cái tội
giết con cho cha, là vì bất trung mà mất cả hiếu.
Lại như: Phục thù cho cha là chính, mà làm thái quá như Ngũ Tử Tư, té ra đem
giặc về lấy nước. Thế là vì báo thù cho cha, mà hại đến dân một nước. Ấy cũng
là bất trung mà thành ra bất chính.
Khổng Tử nói hai chữ chính trung là cốt bảo cho người ta xử việc đời, phải cho
chính vào giữa đức trung. Nêu chính mà bất trung, là không phải long đức.
Chữ trung có hai lối: Một là cho đúng với thì, thì chưa đến mà làm gượng, tức là
thái quá; thì đã đến nơi mà chậm trễ không làm, tức là bất cập. Thế là không
đúng với thì là bất trung.
Hai là cho đúng với đạo lí, đạo lí không bao giờ thiên về một mặt, cũng không
bao giờ thái quá với bất cập. Nếu đạo lí chỉ mười phân là đúng, mà làm đến
mươi lăm phân là thái quá, thái quá thời việc cũng hư. Lại như đạo lí đáng mười
phân, mà chỉ làm năm phân, thời là bất cập, bất cập thời việc không kết quả. Lại
như nấu nồi cơm, công phu đốt lửa, đáng ba mươi phút đồng hồ, mà đốt ba mươi
lăm phút, tất nhiên cơm khê; hoặc chỉ đốt hai mươi phút mà thôi, tất nhiên cơm
sống.
Suy một việc rất nhỏ như thế, thời biết được việc thiên hạ dầu to lớn đến thế nào
mặc lòng, tất cũng phải đúng với thì là đắc trung.
Trung cũng có nghĩa là trúng, trúng là đúng với thì, lại trúng với đạo lí. Ví như
người bắn bia, tất phải nhắm vào trung tâm bia, mới gọi là chính, mà chính tức
là trung vậy.
Quân tử vì muốn làm cho được đức chính trung nên công phu tu dưỡng phải
thập phần kĩ càng, dầu một tiếng nói tầm thường mà đạo lí nên tin, thời bao giờ
cũng cứ tin, dầu một việc làm tầm thường mà đạo lí nên cẩn, thời bao giờ cũng
cứ cẩn. Hễ thấy những tư tưởng gì, mà hơi thuộc về tình dục, tất trước lo ngăn
ngừa, không cho tà tâm phát hiện ra được, cốt để giữ lấy nguyên tắc chí thành
của mình.
Công phu tu dưỡng đã như thế, thời đại đức tất đắc kỳ danh mà thiên hạ tất nhờ
mình cảm cách được rất nhiều; thịnh đức của thánh nhân đã ảnh hưởng khắp
trong một đời, mà thánh nhân không bao giờ lòe loẹt với đời, ấy là thiện thế nhi
bất phạt (phạt là khoe tỏ cho người biết). Tuy thánh nhân vẫn không lòe với đời,
mà đức Ngài ảnh hưởng quá xa, lưu hành quá rộng, tự nhiên thiên hạ bị hóa với
thánh nhân. Đó là đức của bậc đại nhân ở hào Cửu Nhị vậy.
Chữ đức bác, là thích chữ "đại nhân". Chữ hóa, là thích chữ "lị kiến".
Trên đây, là nói bậc thánh nhân đã thành đức rồi.
Còn học giả, muốn học cho đến thánh nhân, thời làm như tiết dưới này: Quân tử
học dĩ tụ chi, vấn dĩ biện chi, khoan dĩ cư chi, nhân dĩ hành chi 君子學以聚之,
問以辨之, 寬以居之, 仁以行之.
Dịch viết: Hiện long tại điền, lị kiến đại nhân, quân đức dã.
易曰: 見龍在田, 利見大人, 君德也.
Nghĩa là: Thịnh đức đại nghiệp [của] bậc thánh nhân đã nói như trên đây, chúng
ta làm thế nào mà đến được rư?
Trước cần thứ nhất là học. Học nghĩa là bắt chước, cũng có nghĩa là khảo
nghiệm.
Bởi vì đạo lí trong thiên hạ tán mạn mênh mông, nếu chỉ cậy óc riêng của mình,
thời lấy gì mà nhóm góp được hết nên phải học dĩ tụ chi.
Một phương diện thời so dọ với thánh hiền đời xưa, xem xét với nhân vật đời
nay, Khổng Tử có câu rằng: Tam nhân đồng hành, tất hữu ngã sư 三人同行必有
我師. Mạnh Tử có câu: Văn Vương ngã sư dã 文王我師也.
Theo ý Khổng Tử, thời ba người đồng đi với nhau, mà hai người ở cạnh mình,
có một người thiện, một người ác, người thiện là bảo cho ta theo điều hay, người
ác là bảo cho ta bỏ điều dở. Hai người thảy là thầy ta, thầy ta tức là ta học.
Theo như ý Mạnh Tử, thời Văn Vương là Thánh đời xưa, tuy không đồng thì với
ta, nhưng lời nói việc làm của Văn Vương, ta có thể bắt chước mà làm. Thế là
Văn Vương cũng là thầy ta, ta lấy ông Thánh làm thầy, tức là học.
Lại một phương diện, thời chăm về đường cách vật trí tri, bằng cư vào ở nơi
kinh nghiệm, để chứng minh cái điều hay điều dở của mình.
Người xưa có câu: Kinh nhất biến, trưởng nhất trí 經一變, 萬事一智. Lại có
câu: Tiền sự bất vong, hậu sự chi sư 前事不忘後事之師.
Nghĩa là: Những việc thành bại ở lúc dĩ vãng, mình cứ ghi nhớ mà không quên,
tức là làm thầy cho việc tương lai, như thế cũng là học.
Dù hai phương diện ấy, xét đời xưa, nghiệm đời nay, tai no nghe, mắt no thấy
mới tóm góp được đạo lí trong thiên hạ vào trong óc mình, chinh là cái lối nhập
môn của Thánh học.
Nhưng mà đạo lí quá phức tạp, sở văn sở kiến của một mình. Nêu chỉ học mà
thôi, tất không thể tinh thục xác đáng, nên phải cần tìm thầy kiếm bạn, mà chất
vấn với kẻ hơn mình. Bởi vì muốn biết đường tốt phải hỏi kẻ đi quen mới có thể
biết được đường phải, đường trái. Đó là công phu tầng thứ cho tiến đến Thánh
học, nên lại nói rằng: Vấn dĩ biện chi 問以辯之.
Học với vấn là công việc tự tư trong mình.
Nhưng mà học làm thánh nhân, há phải độc thiện kỳ thân mà thôi đâu nên phải
bàn đến kiêm thiện thiên hạ.
Xưa nay có một hạng người quân tử, nhưng mà độ lượng chật hẹp, quy mô bé
nhỏ, thời chỉ vừa làm tốt một mình mà thôi, mà không kiêm thiện được thiên hạ.
Nếu đã học làm thánh nhân, tất lại phải độ lượng cho rộng rãi, mà không mắc
vào tệ dục tốc; quy mô thiệt to lớn, mà không sụp vào bẫy tự tư, mới có thể chứa
chất được đạo lí, dung nạp được cả thảy loài người. Đó là cái bực thang làm sự
nghiệp thánh nhân, nên lại nói rằng: Khoan dĩ cư chi 寬居以居之.
Nghĩa chữ khoan này, không phản đối với chữ nghiêm mà phản đối với chữ
hiệp. (Cư nghĩa là thu trữ, dung nạp).
Lúc bây giờ có học đã tụ được rồi, có vấn đã biện được rồi, có khoan đã cư được
rồi, chính là bước lên được đường lối làm sự nghiệp thánh nhân rồi đó, ấy là
hành chi.
Hành, nghĩa là đi, cũng có nghĩa là làm, nhưng trước khi bước lên vũ đài Thánh
Nghiệp lại cần thứ nhất là chữ Nhân; Nhân, nghĩa là chí công vô tư, mà lại kiêm
cả bác ái.
Khổng Tử có câu: Thánh nhân dĩ thiên hạ vi nhất gia, dĩ trung quốc vi nhất nhân
聖人以天下爲一家, 以中國爲一人.
Nghĩa là: Tâm lí bậc thánh nhân xem người thiên hạ như người một nhà, xem
người một nước như thân của mình.
Xưa vua Nghiêu có câu: Nhất dân cơ viết ngã cơ chi, nhất dân hàn viết ngã hàn
chi 一民饑曰我之饑, 一民饑寒曰我之寒.
Nghĩa là: Thấy một người dân chịu đói, thời trách mình rằng: Chết thôi! Vì ta
làm đói đến nó; thấy một người dân chịu rét, cũng trách mình rằng: Chết thôi!
Vì ta làm rét đến nó. Như thế mới là đức Nhân của thánh nhân, mà cũng chính là
đức Nguyên của đức Càn.
Quân tử vì tu dưỡng thực hành được bốn câu trên đây, chính là hợp với đức của
đại nhân ở hào Cửu Nhị mà xứng đáng với địa vị một người thống ngự nhân
quần đó vậy. Vậy nên Khổng Tử tán rằng: Hiện long tại điền, lị kiến đại nhân,
quân đức dã.
Chữ quân này không phải hạn định quân là vua, chỉ là như chữ nguyên thủ làm
lãnh tụ trong một đảng, hoặc làm một vị sư trưởng trong đám học trò cũng là
quân vậy.
Học Dịch nên cần phải biến hóa, nghiệm ý chớ ăn chữ, mới là thông Dịch.
Cửu Tam: Quân tử chung nhật kiền kiền, tịch dịch nhược, lệ vô cựu, hà vị dã?
Tử viết: Quân tử tiến đức tu nghiệp, trung tín sở dĩ tiến đức dã; tu từ lập kỳ
thành, sở dĩ cư nghiệp dã; tri chí chí chi, khả dữ cơ dã, tri chung chung chi, khả
dữ tồn nghĩa dã. Thị cố, cư thượng vị nhi bất kiêu, tại hạ vị nhi bất ưu.
九三: 君子終日乾乾, 夕惕若, 厲 无咎, 何謂也?
子曰: 君子進德修業, 忠信所以進德也; 修辭立其誠, 所以居業也; 知至至之,
可與幾也; 知終終之, 可與存義也. 是故, 居上位而不驕, 在下位而不憂.
Hào Cửu Tam này vẫn cũng có đức Long như Sơ Cửu, Cửu Nhị, nhưng Cửu
Tam xử vào địa vị bất trung, mà hào Cửu, vị Tam lại là trùng cương, nên Hào từ
nói rằng: Quân tử chung nhật kiền kiền, tịch dịch nhược, lệ, vô cựu.
Nhưng Hào từ chỉ nói về mặt tinh thần. Bây giờ Văn Ngôn mới phát huy cho
đến sự thật.
Tiến đức tu nghiệp là do ở tinh thần kiền dịch mà ra; kiền dịch chẳng phải chỉ
tối ngày run sợ mà thôi, tất phải có sự thật.
Sự thật là gì? Chính là công phu học tập của thánh nhân.
Công phu học tập của thánh nhân tất phải có thể, có dụng, có trong, có ngoài.
Trong thời cốt ở tiến đức, phải làm sao cho đạo đức trong mình, ngày ngày càng
tiến lên mãi, in như lời trong Đại Học: Cẩu nhật tân, nhật nhật tân, hựu nhật tân
茍日新, 日新, 又日新. Ấy là tiến đức, nhưng tiến đức thời gốc ở cái gì? Tất gốc
ở trung tín. Hễ làm một việc gì hoặc nói một lời gì, tất thảy ngoài như trong,
trong như ngoài, như nghĩa Trung Dung: Chí thành bất tức 至誠不息, nghĩa là:
Rất thành thực, không bao giờ nghỉ.
Như nghĩa Đại Học: Vô tự khi 毋自欺,, nghĩa là: Chớ dối với lương tâm mình,
chẳng những không dối người mà cũng không dối lòng mình.
Như thế là trung tín. Trung tín ngày chồng tháng chứa, thời đức mình tiến đến
cực điểm cao. Đó là Thánh học ở phía trong.
Còn Thánh học ở phía ngoài, tất phải xem ở nơi công nghiệp. Vậy nên lại phải
tu nghiệp, mà xem ở nơi công nghiệp, tất phải lo ở nơi tu nghiệp.
Nhưng vì thì giờ với địa vị Cửu Tam, đương cần thiết về đường tu dưỡng, sự
nghiệp cũng chưa đến tế thế an bang, mà chỉ cốt ở lập ngôn lập đức. Vậy nên
phải tu từ lập kì thành. Tu từ tức là lập ngôn, hoặc làm ra sách vở, hoặc đứng ra
diễn thuyết, lấy văn chương cảm động người, lấy lời lẽ dạy dỗ người, rặt là tu từ.
Nghĩa là trau chuốt lời của mình, chính là dĩ ngôn vi sự nghiệp.
Nhưng mà sự nghiệp nói đó, há phải như phường lị khẩu xảo ngôn đâu. Tất căn
cứ vào đức trung tín của mình từ thuở xưa, viết một chữ, nhả một lời, chỉ là
mong mình lập mà người cũng lập, nói mà chính nhân tâm, nói mà phù thế đạo,
không một lời gì không căn cứ ở thực lí, thực sự, khiến cho đức thành của mình
càng ngày càng xác thực kiên cố, công hiệu càng ngày càng rõ rệt. Như thế là
lập kì thành. Đó là công phu tu nghiệp của Thánh học.
Nhưng mà công phu tiến đức, chỉ nói suông trung tín [thì] chưa hết đâu. Công
phu tu nghiệp chỉ nói suông tu từ lập thành, cũng chưa hết được đâu. Bởi vì
công phu Thánh học vừa tri vừa hành, vừa hành vừa tri, đã tri tất phải hành,
cũng có chân tri mới thực hành được, nên lại có câu: tri chí chí chi. Nghĩa là:
Biết được như thế mới là đến nơi, đã biết được đến nơi, thời tức khắc phải làm
cho đến nơi.
Lại cần cho biết đến nơi để làm cho đến nơi, như thế mới có thể thông thấu được
đạo lí vi diệu, ấy là khả dữ cơ. Cơ nghĩa là cơ vi, tỉ như một việc gì thị phi họa
phúc chưa hiện rõ ràng, mà đã có một tư cơ triệu rất nhỏ nhen, duy thánh nhân
mới biết trước được. Thí như: Thấy mũi sừng ở cách bên tường, mà biết bên ấy
hẳn có con trâu; thấy ngọn khói ở cách bên núi, mà biết bên ấy hẳn có đám thất
hỏa, ấy là cơ. Hễ những người giữ được cơ mới là người tri chí mà tiên đức mới
đến tột mực. Trên nói tri chí là thuộc về phần học trí tri, chỉ cầu một việc ấy biết
cho đến nơi, mà chỉ nghiên cứu dĩ vãng với hiện tại, còn chưa thấu triệt đến
tương lai.
Bây giờ phải nghiên cứu cho đến cùng là tương lai, đã biết rằng cuối cùng của
việc ấy, mới làm cho đến kết quả của việc ấy. Thế là tri chung chung chi. Vì có
tri chung chung chi, mới có thể bảo thủ được chủ nghĩa của mình.
Xưa nay, những người thờ một chủ nghĩa mà trung gian phải bỏ, là vì lúc đầu
thờ chủ nghĩa chưa nghiên cứu kĩ càng, chưa biết kết quả của chủ nghĩa ấy rồi ra
thế nào, lại chưa biết sức mình chống nổi phản diện của chủ nghĩa ấy [có] đến
cuối cùng hay không. Thế là bất tri chung, tất nhiên không chung chi được, tất
nhiên chủ nghĩa mình phải bỏ, nên nói rằng: Tri chung chung chi, khả dữ tồn
nghĩa dã. Chữ chung trên, nghĩa là cuối cùng, chữ chung dưới nghĩa là kết quả,
tồn nghĩa là giữ chặt.
Vì mình biết được đến cuối cùng nên mình mới làm được đến triệt để. Đã làm
được đến triệt để, thời kỳ chủ nghĩa mình mới viên mãn hoàn toàn.
Thí như: Đi một lối đường từ Huế đến Hà Nội thì mình biết trước đến cuối cùng
đường [ở] Hà Nội phải xuống ga nào? Nhà ga cuối cùng ấy là chung, tất phải
biết trung gian trải qua mấy ga, chạy mấy giờ, phải dùng đến bao nhiêu tổn phí,
phải dùng những đồ hành lí gì, phải dùng mấy người giúp đỡ với mình, hoặc
dùng những giống gì để phòng bị thẳng dọc dường, đến khi tới ga Hà Nội thời
trụt nghỉ ở chốn nào? Vả lại, từ lúc ra đi cho đến khi tới nơi, trung gian có điều
gì nguy hiểm hay không?
Những điều như trên kể, phải tính toán hoàn bị mới nhất định ra đi, đi tất đến
nơi, đến nơi tất như ý, thế là chung chi, mà chủ nghĩa mình đi Hà Nội không bao
giờ hỏng.
Nói tóm lại, tri chí chí chi thuộc về phần không gian; tri chung chung chi thuộc
về phần thời gian; khả dữ cơ là nhân lúc đã hình hiện, xét đến lúc chưa hình
hiện; khả dữ tồn nghĩa là chu mật ở bề ngoài để gìn giữ ở bề trong. Đạo lí của
Thánh học, tri hành tịnh tấn, thỉ chung nhất quán là như thế. Vì học của thánh
nhân như thế nên ứng sự tiếp vật tùy thì xử thế, chẳng chốn nào mà chẳng hay,
dầu khi đắc thì đắc thế ở địa vị trên người mà không bao giờ dâm nịch vì phú
quý. Dầu khi thất thế ở địa vị dưới người mà không bao giờ buồn bã vì bần tiện.
Trên đó là chuyên nói về học của thánh nhân. Nếu những người chưa được đức
như thánh nhân, mà xử vào địa vị Cửu Tam, thời lại nên xem tiết dưới này:
nghĩa là chỉ cầu cho khỏi tội lỗi là hay.
Cửu Tam, trùng cương nhi bất trung, thượng bất tại thiên, hạ bất tại điền, cố
kiền kiền, nhân kỳ thì nhi dịch, tuy nguy, vô cựu hĩ.
九三, 重剛而不中, 上不在天, 下不在田, 故乾乾因其時而惕雖危无咎矣.
nghĩa tiết này ở trong Hào từ đã thích kĩ, duy chúng ta nên chú ý nhất là ở câu:
Nhân kỳ thì nhi dịch. Bởi vì Cửu Tam theo về địa vị với hoàn cảnh, trên không
được như Cửu Ngũ mà tại thiên, dưới không được như Cửu Nhị mà tại điền.
Nếu tài đức mình chưa được như thánh nhân mà biết thập phần cẩn thận ở
đường đi nước bước, tất nhân thì mình như thế mà thì lo sự, thời tuy có nguy
hiếm, mà không tội lỗi.
PHỤ CHÚ: Văn Ngôn thích sáu Hào từ, ở các hào không có chữ thì, duy Cửu
Tam, Cửu Tứ lọt vào hai chữ thì là ý rất thâm thiết. Xưa nay, thánh hiền ở vào
địa vị nguy hiểm, thiệt không thể đại hữu vi được, nhưng không bao giờ táng tiết
trụy danh, chỉ vì biết nghĩa chữ thì mà thôi. Thì nên thối tàng thời thối tàng, thì
nên im lặng thời im lặng; nhưng mà cái công phu tiến đức tu nghiệp, thời không
bao giờ quên.
Xem như lời Văn Ngôn hai hào, thời học thì trung của thánh nhân chỉ là như thế.
Cửu Tứ viết: Hoặc dược tai uyên, vô cựu, hà vị dã?
Tử viết: Quân tử tiến đức tu nghiệp, dục cập thì dã.
九四: 或躍在淵, 無咎, 何謂也?
子曰:君子進德修業, 欲及時也.
Cửu Tứ này với Cửu Tam tính chất in như nhau, địa vị cũng tương tự nhau. Tam
ở Hạ Quái chi thượng, Tứ ở Thượng Quái chi hạ. Kể toàn quẻ thời hai hào ấy ở
địa vị chông chênh. Vậy nên xem Cửu Tam cũng có thể suy ra mà biết được
Cửu Tứ. Sở dĩ, Văn Ngôn Cửu Tứ nhắc lại bốn chữ tiến đức tu nghiệp như Cửu
Tam.
Nhưng khác nhau chút đỉnh là Cửu Tam thời chưa đến địa vị Thưọng Quái, mà
Cửu Tứ thời đã đứng vào địa vị Thượng Quái lại tiếp cận với Cửu Ngũ. Nếu
nhích lên một tí, thời có thể đại hữu vi, nên Hào từ có chữ dược mà Văn Ngôn
có chữ dục cập thì. Chữ dục có ý sắp sửa; cập thì nghĩa là may gặp được thì tiết
hữu vi.
Bày giờ lấy việc hai người đời xưa làm chứng. Cửu Tam thời như ông Khổng
Minh khi ông còn cày ở Nam Dương nên ông có câu: Cầu toàn tính mệnh ở loạn
thế. Cửu Tứ thời như ông Y Doãn, năm lần tới Kiệt, năm lần tới Thang, chỉ cân
lường thì hội mà tấn thối; hay, thời ta dược, nếu chưa hay, thời ta tại uyên. Vậy
nên Hào từ có chữ hoặc. Hoặc là có ý còn ngần nghĩ, mà cũng có ý nghi từ.
Công phu tấn đức tu nghiệp [của] Cửu Tứ vẫn y như Cửu Tam, mà ý tứ lựa thì
tiến hành thời có khác với Cửu Tam.
Xem như lời tiết dưới càng rõ lắm.
Cửu Tứ, trùng cương nhi bất trung, thượng bất tại thiên, hạ bất tại điền, trung bất
tại nhân, cố hoặc chi, hoặc chi giả, nghi chi dã, cố vô cựu.
九四, 重剛而不中, 上不在天, 下不在田, 中不在人, 故或之, 或之者, 疑之也,
故无咎.
Thiên chỉ Cửu Ngũ; điền chỉ Cửu Nhị; nhân chỉ Cửu Tam.
PHỤ CHÚ: Cửu Tam sở dĩ vô cựu là vì biết kiền kiền dịch nhược; Cửu Tứ sở dĩ
vô cựu, là vì nhờ có chữ hoặc, địa vị Cửu Tứ vẫn đã có thể được rồi, nhưng còn
phải ngần nghĩ đong lường nên tiến thời mới tiến. Vậy nên dùng chữ hoặc.
Cửu Ngũ viết: Phi long tại thiên, lị kiến đại nhân, hà vị dã?
Tử viết: Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu, thủy lưu thấp, hỏa tựu táo,
vân tòng long, phong tòng hổ, thánh nhân tác nhi vạn vật đổ. Bản hồ thiên giả
thân thượng, bản hồ địa giả thân hạ, tắc các tòng kỳ loại dã.
先五曰: 飛龍在天, 利見大人, 何謂也?
子曰: 同聲相應, 同氣相求, 水流濕, 火就燥, 會從龍, 風從虎, 聖人作而萬物
睹. 本乎天者親上,本乎地者親下, 則各從其類也.
Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu, thủy lưu thấp, hỏa tựu táo, vân tòng
long, phong tòng hổ, sáu câu ấy là khách, là bồi sấn.
Thánh nhân tác, nhi vạn vật đổ, câu ấy là chủ, là chính, thích nghĩa Hào từ.
Tác là thích nghĩa chữ phi; đổ là thích nghĩa chữ kiến; thánh nhân là thích nghĩa
chữ đại nhân. Chương này không thích nghĩa câu một được nên phải thích tóm
toàn văn, sẽ cho đầu đuôi quán triệt với nhau, tựu trung cũng phải xáo nguyên
văn để cho thông suốt được ý nghĩa của thánh kinh, xin học giả nhận kĩ.
Hào từ Cửu Ngũ sở dĩ rằng: Phi long tại thiên, lị kiến đại nhân, là ý nghĩa như
thế nào? Khổng Tử sợ người học Dịch chỉ y theo mặt chữ, không thể phát minh
được.
Vậy nên dùng cách thí dụ. Ngài nói rằng: Lẽ trong thiên hạ đã có cảm, tức có
ứng, nhưng tức phải đồng loại với nhau, quan hệ với nhau thời cảm ứng mới
mau chóng. Cửu Ngũ sở dĩ lị kiến Cửu Nhị, Cửu Nhị sở dĩ lị kiến Cửu Ngũ,
thiên hạ sở dĩ lị kiến đại nhân, cũng chỉ một lẽ cảm ứng tự nhiên mà nên thế.
Vẫn không ai bắt buộc ai, mà cái bắt buộc chỉ là dẫn dụ ở tâm đồng, đạo hợp mà
thôi.
Ví như: con hạc mẹ kêu thời con hạc con họa lại ngay; đêm khuya một con gà
gáy thời bao nhiêu con gà khác gáy theo ngay. Vì đồng một tiếng nên ứng nhau
như thế. Lại ví như: Đem gương lấy lửa để dưới bóng mặt trời, thời lửa bén
ngay, vì mặt trời là khí lửa nên gương lấy lửa dẫn được khí trời. Đem đá nam
châm đặt gần chốn có sắt, thời dẫn được đồ sắt ngay, vì đá nam châm là mẹ đẻ
ra sắt nên nó thường hút được kim khí. Hễ đồng khí thời cầu nhau như thế.
Chốn thấp là hợp với tính nước nên nước thường chảy xuống chốn thấp.
Chốn ráo là hợp với chất lửa nên lửa thường bén với chốn ráo. Hễ hợp tính thời
tìm nhau như thế. Long là vật thuộc về loài dương, mà vân cũng là khí dương un
nấu ra nên vân hay theo long, long hiện thời mây ùn lên. Hổ là vật thuộc về loài
âm, mà phong lại là âm khí phát động nên phong hay theo hổ, hổ tới đâu thời gió
hút theo.
Xem như sáu cái chứng ấy, thời cơ cảm ứng rất tự nhiên, cũng rất mau chóng.
Bây giờ thịnh đức chí thành của thánh nhân cảm động được lòng người trong
thiên hạ, người [trong] thiên hạ tất nhiên phải ưng ngay.
Tức như vua Thuấn là một tên dân cày ở Lịnh Sơn mà đến khi vua Nghiêu dắt
ra, thời những kẻ ngục tụng âu ca ở trong thiên hạ, bỏ con vua Nghiêu mà theo
vua Thuấn.
Lại như vua Lê Thái Tổ nước ta là một người dân cày ở Lam Sơn, đến khi khỏi
nghĩa đánh Ngô, thời [người] hưởng ứng khắp toàn quốc, thật là một vị thánh
quân xuất hiện, mà vạn vật đâu cũng nghểnh cổ trông vào.
Đó là cảm tự nhiên, mà ứng cũng tự nhiên, nên có thiên đức như Cửu Ngũ, thời
tất thảy người trong thiên hạ ai nấy cũng phải lị kiến.
Bởi vì nguyên lí của loài người, theo lành tránh dữ, nhân đồng thử tâm, tâm
đồng thử lí, mà thánh nhân là một người rất lành trong loài người nên thiên hạ
rất vui theo, chẳng phải thánh nhân hữu tâm cầu thiên hạ, mà thiên hạ tự nhiên
theo thánh nhân. Đó chỉ là tránh người bạo, theo người nhân, xa người dữ, gần
người lành, vẫn là tâm lí sẵn của loài người nên cảm ứng được mau như thế.
Thử xem bao nhiêu động vật tất nhiên đầu hướng về phía trên, không thấy động
vật nào chân ở trên cả? Bởi vì nó là một loài gốc ở trời, đắc dương khí mà phát
minh ra, vậy nên thân thượng. Lại xem Bao nhiêu thực vật, thời thường đầu
hướng xuống dưới, chẳng thấy cây cỏ nào đầu ở trên cả? Bởi vì nó là một loài
gốc ở đất, do âm khí mà phát sinh ra nên nó thân hạ.
Loài người gốc nguyên khí tạo hóa sinh ra vẫn là loài lành, được một người rất
lành như thánh nhân, tất nhiên thiên hạ phải theo, cũng là tùng kỳ loại vậy.
Phù đại nhân giả, dữ thiên địa hợp kỳ đức, dữ nhật nguyệt hợp kỳ minh, dữ tứ
thì hợp kỳ tự, dữ quỷ thần hợp kỳ cát hung, tiên thiên nhi thiên phất vi, hậu thiên
nhi phụng thiên thì, thiên thả phất vi, nhi huống ư nhân hồ, huống ư quỷ thần hồ.
夫大人者, 與天地合其德, 與日月合其明, 與四時合其序, 與鬼神合其吉凶,
先天而天弗違, 後天而奉天時, 天且弗違, 而况於人乎, 而况於鬼神乎,
Trên là mượn các loài cảm ứng để thí dụ thiên hạ tất phải lị kiến đại nhân. Bây
giờ lại hình dung cho tường tận đức của đại nhân. Hễ gọi một bậc đại nhân, tất
có đức lớn như trời đất, không chốn nào không che, không vật nào không chở.
Có đức sáng suốt như mặt trời, mặt trăng, không chốn nào, vật nào mà không soi
rọi đến nơi. Có trí khôn sắp xếp mỗi việc, tầng thứ trươc sau, đúng như thì tiết
bốn mùa. Có tính khôn thiêng biết được việc lành, việc dữ in như quỷ thần, gặp
việc gì ý trời muốn làm, đón trước được ý trời mà làm thì trời phải nghe theo;
thấy được việc gì ý trời đã rõ rệt mà làm theo sau trời, thì quả nhiên như trời
làm, thế là đại nhân. Đại nhân tức là thiên nên thiên phải nghe theo. Trời hãy
còn nghe theo, mà huống gì người nữa rư.
PHỤ CHÚ: Lời Văn Ngôn tán tụng bậc đại nhân Cửu Ngũ, thật là cùng cao cực
thâm, tận thiện tận mỹ, chúng ta muốn làm như bậc đại nhân ấy thật không dung
dị, nhưng chúng ta phải biết, đại nhân Cửu Ngũ, tức là đại nhân Cửu Nhị, chẳng
qua công phu tích lũy từ thấp tới cao.
Nếu chúng ta có học dĩ tụ chi, vấn dĩ biện chi, khoan dĩ cư chi, nhân dĩ hành chi,
thời tuần tự bước lên, do hiền mà bắt chước đến thánh, do thánh mà bắt chước
đến thiên, thời chúng ta cũng là một bậc đại nhân Cửu Ngũ mà thôi.
Nói tóm lại, công phu ở Cửu Nhị là tạo nhân, sự nghiệp đến Cửu Ngũ là kết quả.
Chúng ta học Dịch tất phải có một cái mục đích sẽ làm đại nhân. Tức như câu
nói của Mạnh Tử: Nhân giai khả dĩ vi Nghiêu Thuấn.
Thượng Cửu viết: Kháng long hữu hối, hà vị dã?
Tử viết: Quý nhi vô vị, cao nhi vô dân, hiền nhân tại hạ vị nhi vô phụ, thị dĩ
động nhi hữu hối dã.
上九: 亢龍有悔, 何謂也?
子日: 貴而无位, 高而无民, 賢人在下位而无輔, 是以動而有悔也.
Sáu hào quẻ Càn, tất thảy đều có đức long, đáng lẽ là hào nào cũng tốt. Cớ sao
Thượng Cửu lại nói rằng đức long đến lúc cùng cực thời hữu hối?
Thế mới biết, Dịch lí thiết yếu nhất là chữ thì.
Xử địa vị Thượng Cửu, là chỉ đã cùng cực, ở cao nhất quẻ Càn mà kỳ thực
không được vị tôn.
Bởi vì hào vị đến Cửu Ngũ là tôn tột mực, té ra Thượng Cửu là vô vị. Trên hết
cả mọi hào vẫn là cao, nhưng mà nhân dân chỉ lị kiến đến Cửu Ngũ mà thôi, té
ra Thượng Cửu là vô dân. Tất thảy hiền nhân ai nấy đều ở vị dưới mình mà
không ai lị kiến đến mình, té ra mình cô cao vô phụ (vô phụ là không ai giúp do
cho mình).
Hào tượng đã như thế, chính đúng với buổi chặp tối trong một ngày, ngày ba
mươi trong một tháng, mặt trời đã đến buổi gần lặn, mặt trăng đã đến buổi
khuyết, dầu đức long tốt đến thế nào cũng chỉ nên thôi, [thế] mới được vô hối.
Nếu động thời tất nhiên hữu hối. Thí dụ [cho] hào này như hai hạng người sau:
Một là: Ông Thái Thượng Hoàng đời Trần là ông Trần Thái Tôn.
Một là: Ông chồng bà Vực Đa Lợi A người nước Anh.
Thế là: Quý nhi vô vị, cao nhi vô dân, hiền nhân tại hạ vị, nhi vô phụ.
Kháng chi vi ngôn dã, tri tiến nhi bất tri thối, tri tồn nhi bất tri vong, tri đắc nhi
bất tri táng. Kì duy thánh nhân hồ: tri tiến, thối, tồn, vong nhi bất thất kì chính
dã giả, kì duy thánh nhân hồ.
亢之為言也, 知進而不知退, 知存而不知亡, 知得而不知喪. 其惟聖人乎: 乎
進, 退, 存, 亡而不失其正也者, 其惟聖人乎.
Trên đây là giải thích lí do sở dĩ hối là vì kháng nên tiết này lại giải thích nghĩa
chữ kháng cho rõ ràng.
Kháng là ý nghĩa thế nào?
Trong thiên hạ thường có một hạng người, chỉ biết lúc tiến được thì cứ tiến mà
không biết lúc nên lui mà lui. Chỉ biết lúc hiện tại là đương tồn mà không biết
tương lai e có lẽ vong. Chỉ biết phía được là đắc, mà không biết đến phía mất là
táng.
Vì chỉ biết tiến, biết tồn, biết đắc, mà không xét đến thối, đến vong, đến táng; cứ
tham tiến mà không thối, chắc rằng tồn mà không lo vong, tham đắc mà không
sợ táng, thế thời xử địa vị Thượng Cửu, tất phải như ai mới khỏi hữu hối rư! Tất
phải như bậc thánh nhân, biết được tiến, thối, tồn, vong, mà theo thì thuận xử,
vừa đúng được đạo lí. Đương lúc tiến mà sắp sẵn một cách thối, đương lúc tồn
mà đã phòng bị đến lúc vong, thấy cái đắc mà răn de đến cái táng, tác dụng vẫn
có cái biến thiên luôn mà không bao giờ sai đạo lí chính. Như thế thời làm gì có
kháng, mà cũng còn có việc gì hối nữa rư? Than ôi! Địa vị như Thượng Cửu mà
xử trí được hợp đạo như thế, e chỉ bậc thánh nhân mà thôi chăng.
Từ đây sắp xuống, Văn Ngôn dùng bằng cách vận văn.
Tiềm long vật dụng, dương khí tiềm tàng, hiện long tại điền, thiên hạ văn minh,
chung nhật kiền kiền, dữ thì giai hành.
潜龍勿用, 陽氣潜藏, 見龍在田, 天下文明, 終日乾乾, 與時皆行.
"Tàng, minh, hành, hiệp thành một vận".
Hoặc dược tại uyên, càn đạo nãi cách, phi long tại thiên, nãi vị hồ thiên đức,
kháng long hữu hối, dữ thì giai cực, Càn nguyên dụng cửu, nãi kiến thiên tắc.
或躍在淵, 乾道乃革, 飛龍在天, 乃位乎天德, 亢龍有悔, 與時皆極, 乾元用九,
乃見天則.
"Cách, đức, cực, tắc hiệp thành một vận".
Vì Văn Ngôn dùng vần nên dịch nguyên văn cũng phải dùng vần:
Rồng ngầm chở dụng, là tượng hào Sơ
Khí dương ở dưới, rồng chứa mây mưa
Rồng ra ở ruộng, hào Nhị bây giờ
Rõ ràng văn hóa, khắp cả gần xa
Nửa trên nửa dưới, buổi phải âu lo
Triều càn tịch dịch, thì nghĩa rất to
Qua hào Cửu Tứ, hoặc dược tại uyên
Đạo Càn sắp đổi, từ dưới lên trên
Hào Cửu Ngũ tượng rồng bay
Đức trời tròn vẹn, đứng ngay ngôi trời
Hào Thượng Cửu, long tột vời
Ngôi cao nhưng cũng theo thì nên lui
Sáu dương đã biến cả rồi
Quần long bình đẳng, đạo trời hiển nhiên.
Càn nguyên giả, thỉ nhi hanh giả dã; lị trinh giả, tính tình dã. Càn thỉ năng dĩ mỹ,
lị lị thiên hạ, bất ngôn sở lị, đại hỉ tai.
乾元者, 始而亨者也; 利貞者, 性情也. 乾始能以美, 利利天下, 不言所利, 大
矣哉.
Tiết này lại thích thêm ý nghĩa Soán từ ở đầu quẻ, Càn nguyên là đức nguyên
của Càn, tạo thỉ vạn vật, mà vạn vật được hanh thông.
Duy đương lúc nguyên, hanh, thời tính tình của Càn phú dữ cho vạn vật, còn
chưa phát triển được hết, đến khi lị, trinh, thời giống gì, giống gì cũng thành
công kết quả, thời tính tình của Càn mới phát triển đến cực điểm. Bởi vì nguyên,
hanh là Càn đạo chi thỉ, lị trinh là Càn đạo chi chung, có đến lúc cuối cùng thời
mới thấy được chân tính, chân tình. Vậy nên nói lị trinh giả tính tình dã.
Tuy nhiên, ở trong tứ đức, thời đức lị lại là quan kiện cho ba đức, tiếp tục đức
nguyên, đức hanh mà thành tựu cho đức trinh, ấy là nhờ có lị. Mà kể đức lị to
thứ nhất, thời không gì bằng đức lị của Càn. Càn đào chú ra vạn vật, chế tạo ra
vạn loại, lấy những thực lị rất tốt làm lị ích cho thiên hạ mà không bao giờ kể
công. Làm lị ích cho vật, chỉ là xuất ở tự nhiên, thiệt là lớn lắm vậy thay.
Đại tai Càn hồ, cương kiện, trung chính, thuần túy tinh dã.
大哉乾乎, 剛健, 中正, 純粹精也.
Tiết này là [do] Khổng Tử đã giải thích hết quái hào như trên nhưng Ngài vì tâm
túy với đạo Càn nên tán tụng thêm một tầng: To lớn thay, đạo Càn vậy ôi! Đã
cương kiện mà lại trung chính, mà đức cương kiện, trung chính đó, lại thuần túy
mà tinh, đủ được như thế, thiệt duy đạo Càn vậy.
PHỤ CHÚ: Bảy chữ cương, kiện, trung, chính, thuần, túy, tinh mỗi một chữ
hàm súc một ý nghĩa.
Cương là đức mạnh, tức là chữ dũng, nhưng mạnh mà không bền dai là không
phải kiện.
Kiện nghĩa là mạnh, mà lại bền dai, tức là nghị lực.
Người có tánh dũng quyết, quả cảm gọi bằng cương, có tính nhẫn nại gọi bằng
kiện, nhưng cương, kiện có lúc thái quá, có lúc bất cập, thời là bất trung. Hoặc
có lúc chếch mếch về một bên, thời là bất chính. Vậy nên có đức tốt cương, kiện
lại phải tất tu dưỡng cho được vô quá, vô bất cập, bất thiên, bất mới là cương,
kiện, trung, chính. Nhưng đức cương, kiện, trung, chính đó lại tất phải trong như
ngoài, ngoài như trong, thỉ như chung, chung như thỉ, mới là thuần túy. Đã thuần
túy như vậy, nhưng còn lại phải cho tinh. Nếu cương, kiện mà chỉ như cách thầy
Tử Lộ, mắc cái tệ bạo hổ bằng hà. Trung chính mà chỉ như ông Bá Di, ông Liễu
Hạ Huệ, thời mắc cái tệ ải với bất cung. Thế là bất tinh. Vậy nên Khổng Tử có
trách thầy Tử Lộ mà than rằng: Nhược Do dã bất đắc kỳ tử nhiên 若由也,不得
其 死然. Nghĩa là: Như anh Do kia, e đến nỗi kết quả cái chết [của] anh không
được chánh đáng với đạo lí.
Thầy Mạnh lại có câu rằng: Bá Di ải, Liễu Hạ Huệ bất cung, quân tử bất do dã
伯夷隘,柳下惠不 恭。隘與不恭,君子不 由也.
Ải nghĩa là chật hẹp, bất cung nghĩa là ngạo đời. Bá Di vẫn là bậc thánh chi
thanh, nhưng vì tật ải thái thậm, thành ra độ lượng chật hẹp, không dung nạp
được người. Ông Liễu Hạ Huệ vẫn là bậc thánh chi hòa, nhưng vì quá lờn lã với
người đời, thành ra một cách mục trung vô nhân. Những thái độ ấy quân tử
không chịu làm đó vậy.
Dũng cảm như thầy Từ Lộ là cương, kiện mà bất tinh. Thanh, hòa như ông Di,
ông Huệ, là trung chính mà bất tinh. Vậy nên, cương, kiện, trung, chính, thuần,
túy mà lại kết thúc bằng chữ tinh. Đó là thâm ý của Khổng Tử, học giả học Dịch
chớ bỏ lơ những ý ấy.
Lục hào phát huy, bàng thông tinh dã.
六爻發揮, 旁通情也.
Tiết này bảo cho học giả, muốn tu dưỡng được đức Càn thời cần trước phải có
học vấn. Nghĩa như: Đọc sáu hào quẻ Càn, phải nhận kĩ Hào từ mà biết được ý
nghĩa trong sáu hào, đã phát minh, khươi móc hết các lẽ mà suy rộng ra, thời
bao nhiêu nhân tình, vật tính, có thể tứ bề thông thấu hết cả.
Thì thừa lục long dĩ ngự thiên dã, vân hành vũ thí, thiên hạ bình dã.
時乘六龍, 以馭天也, 雲行雨施, 天下平也.
Tiết này là ý Khổng Tử muốn cho những người học Dịch nên nêu cái mục đích
cho rất cao, trông làm được như bậc thánh nhân Cửu Ngũ; lục long là sáu dương
hào, thì thừa lục long là chiếu theo sáu vị dương hào, xử vào thì hào nào thời
đúng như hào ấy.
Ngự nghĩa là thống trì; ngự thiên nghĩa là thống trì lấy những công việc trời giao
mình, câu ấy là thủ đoạn của thánh nhân.
Vân hành là mây đi; vũ thí là mưa rắc rưới khắp; thiên hạ bình là các vật các đắc
kỳ sở, người trong thiên hạ tất thảy cân bằng như nhau, không một người nào
chịu cái khổ bất bình.
Đó là công dụng của thánh nhân, mà cũng là công dụng của đức Càn, Càn thỉ
nhi hanh, đến lúc đó là lị, trinh vậy.
Quân tử dĩ thành đức vi hạnh, nhật khả kiến chi hạnh dã.
君子以誠德為行, 日可見之行也.
Nói tóm lại, người quân tử, muốn cho đúng với đạo Càn, tất phải tiến tu cho đến
thành đức, có thành đức sẵn ở trong, suy ra làm việc thiên hạ, ngày nào, ngày
nào cũng có thể biểu hiện được đức mình ra ở nơi thực hành vậy.
QUẺ SỐ 1 - KINH DỊCH DIỄN GIẢNG - KIỀU XUÂN DŨNG

BÁT THUẦN CÀN


* Tên khác: Bát Thuần Càn
* Càn tức là trời, chữ trời chỉ về hình thể của trời, chữ Càn chỉ về tính tình của
trời
1.1. Thoán từ: càn nguyên, hanh, lợi, trinh
1.2. Dịch nghĩa: quẻ Càn đầu cả, hanh thông, lợi tốt, chính bền.
1.3. Giảng: Văn Vương cho rằng, bói được quẻ này thì rất tốt. Hanh thông có lợi
và tất giữ cho được tới cùng nhưng cần phải đính chính bền vững. Quẻ Càn có
tượng của người quân tử có năm đức tính lớn. Đó là: Nhân - Lễ - Nghĩa - Trí -
Tín.
Theo Trình Di, chỉ có 2 quẻ Càn Khôn là có 5 đức tính này: Nguyên là muôn vật
bắt đầu
Hanh là muôn vật lớn lên Lợi là muôn vật được thoả Trinh là muôn vật đã thành
Theo Chu Hy: Càn là quẻ 6 nét dương, đó là dương tới thuần tuý, mãnh liệt tới
cùng tột, nên gọi là Càn, là trời, là con rồng.
1.4. Hào từ
1.4.1. Sơ cửu: tiềm long vật dụng
- Dịch nghĩa: rồng lặn chớ dùng
- Giảng: rồng được Càn lấy làm tượng, con rồng rất linh thiêng biến hoá khôn
lường để hình dung sự biến hoá của Càn (trời), đó là lúc thánh nhân trong thủa
hàn vi phải náu kín chờ thời, khi con rồng còn non nớt chưa đủ sức vÉy vùng
trước sóng to gió lớn thì phải lặn, phải giấu mình đi để chờ đợi và phát triển.
Lúc này cần phải kiên trì xây dựng lực lượng mà chờ thời. Giống như Lưu Bang
xuất hiện có chân mệnh thiên tử, Tần Thuỷ Hoàng nhìn thấy khí tượng rồng
vàng hiện lên bèn thân chinh tuần du để dùng chân mệnh thiên tử đương thời mà
ngăn chặn, trấn áp. Nếu lúc ấy Lưu Bang không giấu mình, lặn đi để tránh né thì
liệu có còn tồn tại được hay không? Hoặc như Lê Lợi khi khởi nghĩa còn phải
giấu mình trong rừng núi Lam Sơn để mai ngày chiến thắng. Hoặc khi lực lượng
địch đang mạnh, các lực lượng cách mạng chân chính phải rút lui vào hoạt động
bí mật. Đó chính là điềm quẻ Càn nói, ở hào đầu tiên, người quân tử còn long
đong, nên phải giấu mình, ẩn nhẫn chờ thời cơ, đừng có vong động. Theo Chu
Hy: lặn tức là nấp, chưa thi thố được và lời chiêm là chưa thể phát huy tác dụng.
1.4.2. Cửu nhị: hiện long tại điền, lợi kiến đại nhân
- Giải nghĩa: rồng hiện trên ruộng, có lợi gặp được quý nhân.
- Giảng: rồng đã hiện lên trên mặt ruộng thì đức đã rõ, nhưng chưa bay bổng cất
cánh được, hào cửu nhị trung mà chưa chính, quân tử chưa được ngôi nhưng có
lợi gặp được quý nhân. Lúc này thế lực người quân tử còn non yếu, đã xuất hiện
nhưng chưa mở rộng, giống như các cuộc khởi nghĩa, Lê Lợi xuất hiện tại Lam
Sơn, nhà Minh biết nhưng chưa thể tiêu diệt, nhưng nhân tài cả nước tìm thấy
minh chủ mà theo về như Trần Nguyên Hãn và Nguyễn Trãi. Đó là cái điềm lợi
kiến đại nhân. ở đây không chỉ
Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Hãn được gặp quý nhân là Lê Lợi mà Lê Lợi cũng
có điều may là tìm được người hiền tài theo về giúp nước.
1.4.3. Cửu tam: quân tử chung nhật kiền kiền, tịch tịch nhược! Lệ, vô cữu
- Giải nghĩa: đấng quân tử trọn ngày không nghỉ, tối dường rùng rợn, nguy,
không lỗi.
- Giảng: hào này thuộc ngôi 3 trong đó hào 1 và 2 thuộc ngôi đất, hào 5 và 6 là
ngôi trời, hào 3 và 4 là ngôi người, hào 3 là hào được ngôi nhưng ngôi còn nhỏ,
vừa lên ngôi nhỏ xong, được một chức nhỏ, tuy có cao nhưng vừa mới từ hào
dưới lên, trên chưa tin, dưới còn xét nét, chỗ đứng chưa vững nên cần phải làm
việc chăm chỉ suốt ngày, đêm ngủ cũng phải suy nghĩ, luôn biết lo sợ và có trách
nhiệm với công việc được giao, tránh làm những việc sai trái thì sẽ không mắc
phải những lỗi lớn.
1.4.4. Cửu tứ: hoặc dược tại uyên, vô cữu.
- Giải nghĩa: hoặc nhảy ở vực, không lỗi
- Giảng: vực là trên trống, dưới rỗng sâu thăm thẳm, trên cao tận trời xanh, nếu
sa xuống thì rơi tới vực sâu, nhảy lên thì tới trời . QuÎ này ở ngôi vị đại thần, có
thể lên ngôi cao mà cũng có thể gặp tai họa nên tuỳ thời mà tiến lui cho hợp với
đạo chính thì sẽ không có lỗi. Tiến thì như thập đạo tướng quân Lê Hoàn mà lui
thì nên như Trương Lương trong thời Hán Cao Tổ mới hợp lẽ, là những người
biết được cơ trời. Phạm Lãi nước Việt biết đường lui thì tồn tại và muôn đời ca
tụng còn Văn Chủng không biết đường lui nên gặp tai họa.
1.4.5. Cửu ngũ: long phi tại thiên, lợi kiến đại nhân.
- Giải nghĩa: rồng bay trên trời, có lợi gặp được quí nhân.
- Giảng: cửu ngũ là ngôi vua, còn gọi là ngôi trời, hào dương là quân tử mà ở
ngôi lẻ là quân tử được ngôi, mà ngôi 5 lại là ngôi lẻ cao nhất. Do vậy ngôi cửu
ngũ là ngôi người quân tử đạt được vị trí cao nhất trong xã hội, từ đây có thể thi
thố được tài năng như cá gặp nước, như rồng gặp mây, ở địa vị này nhà vua có
đủ điều kiện tuyển chọn nhân tài để giúp vua, giúp nước. Còn người hiền tài đã
có nơi để tìm về, nguyện đem sức lực và trí tuệ, tài năng ra phục vụ đất nước.
1.4.6. Thượng cửu: kháng long hữu hối.
- Nghĩa: rồng cực quá thì ăn năn
- Giảng: bao giờ cũng thế, thái quá thì bất cập, quá lời thì ăn năn, làm quá giới
hạn cho phép thì mắc lỗi. Khi ở vị trí cao, nhường ngôi cho con mà lên ngôi thái
thượng hoàng hoặc nguyên lão, nhiều khi không đúng thì sẽ có lỗi. Ngôi thượng
cửu là ngôi của các bậc nguyên lão, cố vấn, người ta có thể nghe hoặc không
nghe. Theo Chu Hy thì cực quá là lên quá mà không thể xuống, điều này cũng
chưa đúng lắm vì trong thực tế, Từ Hy Thái Hậu đã giao quyền cho vua Quang
Tự điều hành đất nước được một thời gian, sau đó đảo chính lại và trực tiếp nắm
quyền điều hành đất nước!
- Triệu "khốn long đắc thuỷ"
- Nghĩa "rồng bị nạn mà gặp nước"
Đây là quẻ tốt, nhất là về đường công danh, sự nghiệp.
QUẺ SỐ 1 - KINH DỊCH DIỄN GIẢI

Quẻ Thuần Càn


Quẻ Thuần Càn hay còn gọi là quẻ Càn, tức là Trời. Đây là quẻ số 1 trong Kinh
dịch. Trong đó:
Nội quái là Càn
Ngoại quái là Càn
Văn Vương cho rằng bói được quẻ này thì rất tốt, hanh thông, có lợi và tất giữ
vững được cho tới lúc cuối cùng. Trời có đức nguyên vì là nguồn gốc của vạn
vật. Đồng thời, trời có đức hanh vì làm ra mây, mưa để vạn vật sinh trưởng.
Cuối cùng, trời có đức lợi và trinh vì biến hóa, khiến cho vật gì cũng giữ được
bẩm tính.
Càn tượng trưng cho người quân tử. Người quân tử có bốn đức:
Nhân, đức lớn nhất, gốc của lòng người, tức như đức “nguyên” của trời.
Lễ, là hợp với đạo lý, hợp với đạo lý thì hanh thông, cho nên lễ tức như đức
“hanh” của trời.
Nghĩa, đức này làm cho mọi người được vui vẻ sung sướng, tức như đức “lợi”
của trời.
Trí, là sáng suốt, biết rõ thị phị, có biết thị phi mới làm được mọi việc cho nên
nó là đức cốt cán, cũng như đức “trinh” chính và bền – của trời.

QUẺ SỐ 1 - BỐC PHỆ CHÁNH TÔNG

Thuần Càn
Triệu: "Khốn long đắc Thủy" (rồng nơi khô gặp nước), thuộc Kim.
Quẻ Càn hay Mô hình TTKG Càn phản ánh sự cứng cáp, mạnh mẽ, khoẻ mạnh,
to lớn. Biểu tượng của quẻ còn có sách gọi là "Bát thuần tài". Đây là quẻ đầu
nhóm tượng Càn nên đầy đủ lục thân, nghĩa là không có Phi Thần, Phục Thần.
Các nhà Dịch Học xưa ví Càn là Thiên, là trời là khoảng không bao lao rộng
khắp, cao vọi vô cùng tận, mạnh mẽ không gì khuất phục được. Nhân loại chỉ có
thể tìm hiểu và lợi dụng thiên. Tính chất của Thiên là trung và chính nên gọi là
"khốn long đắc Thủy". Tình thế ví như một loài vật mà người xưa tương tượng
cho là mạnh nhất là Long, ở vào tình thế khốn khó trong đất bùn không thể vùng
vẫy, "cất cánh" lên được, nhưng bất ngờ có điều kiện thuận lợi có nhiều nước,
một môi trưòng lý tưởng của Long, thì nó có thể ngay lập tức vùng dậy, vút bay
lên không trung, lên thiên. Khi dự báo, gặp quẻ này, như điềm trên, báo hiệu
thời vận đã chuyển. Vấn đề là chủ thể, người trong cuộc có chuyển được hay
không.
Dịch lý có nói: "Càn: Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh", là nói quẻ Càn gặp được báo
hiệu vạn sự sẽ như ý nếu hành vi và mục đích chính trực, trong sáng. Ngoài ra
còn cho thông tin có thịnh vượng, danh lợi song toàn, địa vị thăng tiến, gia
nghiệp phồn thịnh.
Về quẻ này, trong Dịch lý có câu sau:
Khốn Long đắc vũ hảo vận giao,
Bất ức hỉ khí thượng ai tiêu
Nhất thiết mưu vọng đạt như ý,
Hướng hậu: thời vận tiệm tiến cao
Đản bất đắc ý, vong hình quá phân kiêu,
Tất tự như tâm sự
Tài bất hối chiêu chỉ thất bại,
Thượng cửu viết: "Củng Long hữu hối".
Dịch nghĩa:
Rồng khốn được mưa vận tốt vùng lên,
Bất thần sắc vui hiện trên mi,
Tất cả mọi việc đều như ý,
Từ đó về sau thời vận cao cao dần.
Nếu chẳng như ý, quên điều hại mà quá kiêu,
Lại vô tài nhưng ôm việc lớn
Thì chỉ chuốc thất bại.
Hào Lục cho biết: quá kiêu hối không kịp.
Về quẻ Càn, trong Dịch lý còn viết: "Tang Long hữu hối: Doanh bất khả cửu dã.
Kỷ ý tu thị thuyết: thăng liễu quá. Cao đích Long: chỉ hão hạ lai?". Nghĩa là: nếu
kiêu hãnh, hối hận không kịp, ví như đầy quá không còn sức chứa. Rồng bay cao
quá, tuy là rồng nhưng nếu quá cứng, lúc xuống từ nơi quá cao thì khó tránh bị
gãy, bị thọ thương, về quẻ Càn, trong Dịch Học còn lưu truyền câu chuyện sau:
Sài Thế Tôn, lúc chưa gặp thời, đẩy xe bán vải rong, có nhờ người xem hộ cho
mình tương lai ra sao, gặp quẻ này. Quả nhiên lời dự báo đúng, ông được Quách
Uy nhận làm con nuôi và nhường ngôi vua cho, vì vị vua này không có con.
Điều này đúng vào cái triệu "Khốn Long đắc Thủy".
QUẺ SỐ 1 - KINH DỊCH - DỊCH TỰ BẢN NGHĨA

THUẦN CÀN:
a) Cách:
"Khốn long đắc thuỷ" (Rồng nơi khô gặp nước)
Chỉ tốt cho bậc đại nhân, quân tử (tư duy cao, đức lớn)
b) Tượng:
"Thiên hành kiện" (Mặt trời đi rất mạnh)
Tượng của sự lớn mạnh. Dự trữ năng lương lớn (khi công việc đang dừng lại).
Cỗ máy sẽ chạy nhanh không có vật cản.
c) Nghĩa:
- Sức mạnh, cứng rắn.
- Thẳng thắn, tròn trĩnh (việc chân chính, trung chính mới tốt)
- Quân tử, trong sáng, đẹp đẽ.
- Sự chỉ huy, thống lĩnh, đứng đầu (Càn là Thiên khôi chủ người đứng đầu, nếu
tai nạn thì bị thương ở đầu ...)
- Thịnh vượng, danh lợi, địa vị (xem làm ăn tốt).
- Thời vận hanh thông (đại nhân hay đại sự).
- Gãy đổ, tán phát, thọ thương, thảm bại (khi xem tiểu sự (những việc nhỏ) như
mua xe máy chẳng hạn có khi còn gây tai nạn; xem những việc cạnh tranh đấu
đá (chỉ gặp Bĩ mới được việc).
- Càn còn là rồng, ngựa, vàng bạc, màu đỏ, vòng tròn, cái áo, kinh đô, cái đầu,
trái cây.
QUẺ SỐ 1 - KINH DỊCH - NGU YÊN NGUYỄN ĐẠI BẰNG

QUẺ CÀN / KIỀN


Càn tượng trưng cho Mặt Trời, Bầu trời, ... (Soạn giả chú: Tôi cố ý không dùng
chữ "Trời" đứng riêng vì thời càng xưa thì con người càng ít trừu tượng hóa, sự
phức tạp đến sau. Đó là điều văn bản học, văn hóa học thế giới đều chứng minh
và đồng ý cho mọi nền văn hóa. Chỉ tại TQ người ta trọng cổ nên luôn gán
những phát kiến mới cho người xưa để lấy uy tín).
Trời hun đúc mọi vật làm cho sinh khí nảy nở. Khí dương (trong quẻ Càn) lấy
con rồng làm biểu tượng để diễn tả cho sức mạnh, SỐNG, ĐỘNG; một khi đã
sinh nở thì tràn lan khắp vũ trụ. Thời của hào đầu thì khí lực còn tiềm ẩn và yếu
ớt, đến thời của hào 2 thì đã hiện rõ, đến thời của hào 3 và hào 4 thì trải qua
những khó khăn, đến thời của hào 5 thì hoàn hảo, sung mãn, còn đến thời của
hào 6 thì quá đà. Không hào nào được phê là cát, lợi vì tự sức dương đã rất
cương cường nên phải hết sức thận trọng để tránh sai lầm.
Lời quẻ: Kiền, nguyên hanh lợi trinh.
Dịch: Kiền, mở đầu lớn, tế hanh thông; lợi chính bền.
(Sgc: tế là tế lễ nhưng nên hiểu rộng là giao tiếp, là dịp để con người hòa đồng
với nhau, vượt qua cái tôi cá nhân (xem thêm quẻ số 45 Tụy).
Nguyên hanh: thuật ngữ nói về một thời ban đầu rộng mở, dương (nguyên) sinh,
âm (hanh) dưỡng.
Lợi trinh: thuật ngữ nói rằng để quá trình dẫn đến kết quả được thuận lợi thì cần
bền bĩ giữ cái đức thẳng (không lạc đường).
Xem thêm nguyên hanh lợi trinh ở phần dẫn / biểu tượng.
Hào 1: Tiềm long vật dụng.
Dịch: Rồng còn ẩn náu (dưới sông), chớ dùng.
Sức chưa đủ, chưa xuất đầu lộ diện được. Đây vẫn là lúc sửa soạn, dưỡng sức.
Hào 2: Hiện long tại điền. Lợi kiến đại nhân.
Dịch: Rồng hiện ra ở đồng. Nên đi gặp đại nhân.
Sức mạnh hiện hữu nhưng còn non, nên đi hỏi thêm ở người tài đức (xem thêm
đại nhân ở bài dẫn / biểu tượng). Hào này, vị thì trung nhưng bất chính, chưa đủ
sáng suốt, chưa nghĩ đủ xa.
Hào 3: Quân tử chung nhật càn càn. Tịch dịch nhược. Lệ, vô cữu.
Dịch: Quân tử cả ngày cương quyết, cứng rắn, đến đêm lo âu cẩn thận. nguy,
không lỗi.
Lúc này cần dũng mãnh vì thời nguy nhưng có lúc phải xét lại mình để tránh quá
nghiệt (thường là cách cư xử) gây hại.
Xem vô cữu phần thuật ngữ.
Hào 4: hoặc dược tại uyên, vô cữu.
Dịch: Có thể bay lên từ vực thẳm, không lỗi.
(Thời của) hào này vẫn còn nghi ngờ mà chưa quyết định dứt khoát, cảm thấy
chông chênh. Cẩn thận nên thường hay ngập ngừng.
Hào 5: Phi long tại thiên. Lợi kiến đại nhân.
Dịch: Rồng bay trên trời. Nên đi gặp đại nhân.
Vị sung mãn cùng cực nên không được phê tốt hay lợi mà khuyên nên đi gặp
người tài đức để hiểu lẽ thịnh suy (tránh quá cứng, sai lầm). Xem thêm biểu
tượng đại nhân / phần dẫn nhập.
Hào 6: Kháng long hữu hối.
Dịch: Rồng kiêu mãn. Có hối.
Lên cao quá, hay cương cường quá đà, chậm trở lại khiêm / thực tế (mắc phải
sai lầm thì) sẽ có hối hận.
Dụng cửu (6 hào dương cùng biến sang âm): Kiến quần long vô thủ, cát.
Dịch: Thấy bầy rồng, không con nào cầm đầu, mở.
Lời này không ai chắc hiểu, tôi theo ý của Javary để cho thấy một cái nhìn khác
cổ điển.
Nhưng ý riêng là nên hiểu Bầy rồng mất đầu, như nhà Ân vì đế Trụ tàn bạo mà
mất cơ nghiệp nếu ta so sánh với quẻ khôn và lời Dụng Lục. Cát ở đây là cho
nhà Chu có cơ hội đoạt nghiệp vì vậy mới "thấy" bầy rồng không đầu mà cát.
QUẺ SỐ 1 - BÍ ẨN QUẺ DỊCH

QUẺ THUẦN CÀN


"Khốn Long Đắc Thủy" – Thời vận đã đến.
"Càn" tượng trưng "Trời", mặt đối lập với "Đất".
"Quẻ Càn" là quẻ mở đầu mang ý nghĩa "Khốn Long Đắc Thủy" tức "Rồng bị
cùng khốn đang thiếu nước", ví như đại hạn gặp mưa rào, không gì tốt bằng.
"Càn" cũng có nghĩa khác là "cứng rắn, khỏe mạnh".
Cái gọi là "cứng rắn, khỏe mạnh", không quanh co, giữ thái độ công bằng chính
trực, vì thế được coi là biểu tượng của rồng bị khốn khó lấy được nước. Rồng
khốn được nước chỉ con rồng sống một thời gian dài trong vực, không được bay
nhảy bỗng trời mưa to, sấm chớp ầm ầm. Nhờ có mưa mà nó có thể mặc sức bay
nhảy.
* Hình tượng quẻ nói rằng: Giao long (rồng nước) ở trong vực đã lâu, nay gặp
cơn mưa liền bay lên trời. Rồng bay lượn trên trời ví như sự biến hóa, dù gặp tai
họa cũng không bị hại, thỏa chí vẫy vùng, không còn gì hơn.
Nếu gieo được quẻ này, đó là điềm "Thời vận đã đến", gặp thời đắc thế, thỏa chí
vẫy vùng, không sợ họa hung.
* Lời đoán giải: Quẻ Càn là quẻ Đại cát, đặc biệt vui sướng. Người xem thấy
quẻ này rất mừng, mọi việc như ý, không sợ họa hung.
Lời của quẻ Càn chỉ có 4 chữ: "Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh". "Nguyên" là cái đầu
tiên, sự mở đầu, cái căn bản; "Hanh" là thông suốt; "Lợi" là thuận lợi; "Trinh" là
chung thủy, không thay đổi. Nhưng 4 tính chất này ở đây thuộc đối tượng thiên
thời, dùng để giải thích một quy luật tự nhiên: 4 mùa thay đổi. "Nguyên" chỉ
mùa xuân vạn vật bắt đầu sinh sôi, nảy nở. "Hanh" chỉ mùa hạ vạn vật trưởng
thành phát triển phù hợp với quy luật. "Lợi" chỉ mùa thu đã kết quả. "Trinh" chỉ
mùa đông muôn vật đã thành. Người xưa cho rằng, sự vật hiện tượng phát triển
đúng quy luật phải đạt được 4 điều: Nguyên, Hạnh, Lợi, Trinh. Quẻ Càn tượng
trưng cho người quân tử có 4 đức tính: "Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí".
Luận đoán tài vận tốt xấu theo mùa:
- Nếu bạn gieo được quẻ này vào mùa xuân, tài vận của bạn bắt đầu sinh sôi.
- Nếu bạn gieo được quẻ này vào mùa hạ, tài vận của bạn đang tiến lên.
- Nếu bạn gieo được quẻ này vào mùa thu, càng phải chúc mừng bạn, vì bạn có
thu hoạch khá lớn.
- Nếu bạn gieo được quẻ này vào mùa đông, tài vận không tốt bằng 3 mùa trước.
Ngoài ra, bạn có thể chia một ngày thành 4 phần. Trước 12 giờ trưa, đại diện
cho mùa xuân, mùa hạ. Sau 12 giờ trưa, đại diện cho mùa thu, mùa đông. Nếu
trước 12 giờ trưa, bạn gieo được quẻ Càn, tài vận của bạn đang bắt đầu hoặc
đang phát triển. Nếu sau 12 giờ trưa bạn gieo được quẻ Càn, tài vận của bạn đã
ngừng phát triển.

You might also like