Professional Documents
Culture Documents
Quẻ 10 Thiên Trạch Lý
Quẻ 10 Thiên Trạch Lý
Contents
1. Giải nghĩa:.........................................................................................................2
2. Hào từ:...............................................................................................................3
QUẺ SỐ 10 - QUẺ KINH DỊCH CHO GIEO QUẺ.............................................5
QUẺ SỐ 10 - KINH DỊCH - NGÔ TẤT TỐ........................................................6
QUẺ SỐ 10 - QUỐC VĂN CHU DỊCH - PHAN BỘI CHÂU...........................12
QUẺ SỐ 10 - KINH DỊCH DIỄN GIẢNG - KIỀU XUÂN DŨNG...................18
QUẺ SỐ 10 - KINH DỊCH DIỄN GIẢI..............................................................19
QUẺ SỐ 10 - BỐC PHỆ CHÁNH TÔNG..........................................................20
QUẺ SỐ 10 - KINH DỊCH - DỊCH TỰ BẢN NGHĨA.......................................21
QUẺ SỐ 10 - KINH DỊCH - NGU YÊN NGUYỄN ĐẠI BẰNG......................22
QUẺ SỐ 10 - BÍ ẨN QUẺ DỊCH........................................................................24
1. Giải nghĩa:
Giải nghĩa: Lễ dã. Lộ hành. Nghi lễ, có chừng mực, khuôn phép, dẫm lên,
không cho đi sai, có ý chặn đường thái quá, hệ thống, pháp lý. Hổ lang đang đạo
chi tượng: tượng hổ lang đón đường.
Đầu quẻ Tiểu Súc đã nói súc còn có nghĩa là chứa, nhóm (như súc tích)
Tự quái truyện dùng nghĩa đó mà giảng: khi đã nhóm họp nhau thì phải có trật
tự, có trên có dưới, không thể hỗn tạp được, nghĩa là phải có lễ. Sống trong xã
hội phải theo lễ, dẫm lên cái lễ, không chệch ra ngoài (chúng ta thường nói dẫm
lên dấu chân của một người để diễn cái ý theo đúng đường lối người ấy); mà
dẫm lên, chữ Hán gọi là ☲, do đó sau quẻ Tiểu súc, tới quẻ Lí. Cách giải thích
đó có phần nào gượng ép.
Thoán từ:
履虎尾,不咥人,亨.
Dịch: Dẫm lên đuôi cọp, mà cọp không cắn, hanh thông.
Giảng: Trên là dương cương, là Càn, là trời: dưới là âm nhu, là Đoài, là chằm,
vậy là trên dưới phân minh lại hợp lẽ âm dương tức là lễ, là lý. Có tính âm nhu,
vui vẻ đi theo sau dương cương thì dù người đi trước mình dữ như cọp, cũng tỏ
ra hiền từ với mình, cho nên bảo rằng dẫm lên đuôi cọp mà cọp không cắn. Ba
chữ “lý hổ vĩ” chính nghĩa là dẫm lên đuôi cọp, chỉ nên hiểu là đi theo sau cọp,
lấy sự nhu thuận, vui vẻ mà ứng phó với sự cương cường.
Thoán truyện bàn thêm: Hào 5 quẻ này là dương mà trung, chính, xứng với ngôi
chí tôn, chẳng có tệ bệnh gì cả mà lại được quang minh.
Đại tượng truyện: bảo trên dưới phân minh (có tài đức ở trên, kém tài đức ở
dưới) như vậy lòng dân mới không hoang mang (định dân chí) không có sự
tranh giành.
2. Hào từ:
Hào từ:
1. 初 九 : 素 履, 往 , 无 咎 .
Dịch: hào 1, dương : giữ bản chất trong trắng mà ra với đời thì không có lỗi.
Giảng: hào 1 này như người mới ra đời, còn giữ được bản chất trong trắng (ý
nghĩa của chữ tố) chưa nhiễm thói đời, vì là hào dương, quân tử, có chí nguyện,
cứ giữ chí nguyện mình thì không có lỗi.
2. 九 二 : 履 道 坦 坦 , 幽 人 貞 吉 .
Dịch: Hào 2, dương: như đi trên đường bằng phẳng, cứ một mình giữ vững
đường chính thì tốt.
Giảng: Hào 2, dương : như đi trên đường bằng phẳng, cứ một mình giữ vững
đường chính thì tốt.
Giảng: Hào dương này đắc trung, vẫn là hiền nhân, quân tử, bình thản giữ đạo
trung không để cho lòng rối loạn thì tốt.
Tuy có hào 5 ở trên ứng với , nhưng 5 cũng là dương, không hợp, (phải một
dương một âm mới tìm nhau, hợp nhau, viện nhau) cho nên bảo hào này là cô
độc.
Chúng ta để ý: quẻ Càn, hào 2 và hào 5 cũng đều là dương cả, mà Hào từ bảo 2
và 5 nên tìm nhau mà làm việc; còn quẻ Lý này thì không , như vậy là phải tùy
theo ý nghĩa của quẻ (tùy thời) mà giảng.
3. 六 三 : 眇, 能 視 ; 跛, 能 履 . 履 虎 尾 , 咥 人, 凶 . 武 人 為 于 大 君 .
Lý hổ vĩ, diệt nhân, hung. Võ nhân vi vu đại quân.
Dịch: Hào 3, âm: chột (mà tự phụ là) thấy tỏ, thọt (mà tự phụ là) đi nhanh, như
vậy thì nguy như dẫm lên đuôi cọp mà bị nó cắn. Đó là kẻ vũ phu mà đòi làm
việc của một ông vua lớn.
Giảng: Hào này âm nhu mà ở ngôi dương cương, bất chính, bất trung, trên dưới
đều là hào dương cả, không lượng tài mình kém (âm) mà đua đòi theo các hào
dương, không khác người thọt tự khoe là đi nhanh; đó là hạng võ phu mà đòi
làm một ông vua lớn, sẽ gặp họa, như dẫm lên đuôi cọp, bị cọp cắn.
4. 九 四 : 履 虎 尾 . 愬 愬 終 吉 .
Cửu tứ: Lí hổ vĩ, sách sách (hoặc sóc sóc)chung cát.
Dịch: Hào 4, dương: Dẫm lên đuôi cọp, nhưng biết sợ hãi, nên quẻ sẽ tốt.
Giảng: Hào này, dương mà ở vị âm, cũng bất trung, bất chính như hào 3, cũng ở
sau một hào dương cương, cũng như dẫm lên đuôi cọp, nhưng hào 3 hung, hào 4
cát, chỉ do lẽ: 3 bản chất nhu, tài kém, u mê mà ở vị dương, chí hăng; còn 4 bản
chất cương, có tài, sáng suốt mà ở vị âm, biết sợ hãi, thận trọng.
5. 九 五 : 夬 履 貞 厲 .
Dịch: Hào 5, dương : Quyết tâm hành động quá thì tuy chính đáng cũng có thể
nguy.
Giảng: Hào 5 đắc chính, đắc trung ,rất tốt, nhưng ở địa vị chí tôn trong quẻ Lý
(nói về cách ở đời) thì e có lòng cương quyết quá mà tự thị, ỷ thế, mà hóa nguy.
6. 上 九: 視 履, 考 祥 . 其 旋, 元 吉 .
Thượng cửu: Thị lý, khảo tường, kỳ toàn, nguyên cát.
Dịch: Hào trên cùng, dương, xem cách ăn ở trong đời người, cho nên Hào từ
diễn ý nghĩa của toàn quẻ chứ không diễn ý nghĩa của riêng hào cuối. Cũng là
một lệ ngoại như hào cuối cùng quẻ Tiểu súc.
Quẻ này tên là Lí có nghĩa là lễ, là dẫm lên, nhưng cả 6 hào đều nói về cách ăn ở
trong suốt đời người : mới ra đời thì phải giữ tính chất phác trong trắng, rồi sau
giữ vững đường chính (hào 2); biết sức mình, đừng tự phụ (hào 3) để tránh
nguy, biết thận trọng, sợ hãi thì tốt (hào 4), và ở địa vị cao nhất, đừng ỷ thế mà
cương quyết quá (hào 5), cách ăn ở được như vậy cho tới cuối đời thì tốt không
gì bằng.
Chúng ta để ý: Quẻ này cũng chỉ có một hào âm mà không có nghĩa thống lĩnh
quần dương như quẻ tiểu súc. Như vậy là biến dịch.
QUẺ SỐ 10 - QUẺ KINH DỊCH CHO GIEO QUẺ
Quẻ Dịch số 10: Thiên Trạch Lý "Phượng Minh Kì Sơn" – Quốc gia cát tường
Quẻ Thiên Trạch Lý đứng số 10 trong số 64 quẻ Kinh dịch. Quẻ Thiên Trạch Lý
có điềm "Quốc gia cát tường", là quẻ rất tốt trong kinh dịch. Xuất hành có ích,
cầu tài được lợi, bệnh tật tiêu tan, mưu sự tất thành.
Ngũ hành quẻ: Thổ.
"Lý" có nghĩa là "đi rón rén", "rón rén mà không tiến", vì vậy nó có hình tượng
của chim phượng hoàng kêu ở núi Kỳ.
Kỳ Sơn (hay còn gọi là núi Kỳ) ở tỉnh Thiểm Tây Trung Quốc, nơi Chu Văn
Vương lập căn cứ, xây dựng lực lượng, lập ra nhà Chu. Phượng Minh là chim
Phượng hoàng kêu, hót. "Phượng kêu núi Kỳ" là chuyện phượng hoàng, loài
chim đại diện cho sự cát tường, rất ít khi nhìn thấy. Nay bỗng nhiên phượng
hoàng kêu ở Kỳ Sơn, sau đó Chu Văn Vương được gọi là "Thánh Đức" dựng
nhà Tây Chu. Nếu gieo được quẻ này chính là điềm "Quốc gia cát tường".
Hình tượng của quẻ Thiên Trạch Lý
Phượng hoàng đậu ở Kỳ Sơn, kêu 3 tiếng, đất nước xuất hiện thánh hiền. Trời
cho Chu Văn Vương tạo dựng nhà Chu, vinh hoa phú quý kéo dài 800 năm.
Ngày xưa, Hỷ Tịnh khi lên ngôi, mơ thấy Mặt Trời, tỉnh dậy gieo được quẻ này.
Quả nhiên, Hỷ Tịnh đến Bắc Lương, quốc thái dân an. Đúng là ứng với quẻ
"Phượng minh Kỳ Sơn", thật là "quốc gia cát tường".
Lời thơ của quẻ Lý
"Phượng kêu núi Kỳ báo cát xương,
Văn Vương xuất hiện, lập cơ đồ.
Người đi xa vắng, có tin về,
Kinh doanh góp vốn, đều được lợi."
Lời đoán: Xuất hành có ích, cầu tài được lợi, bệnh tật tiêu tan, mưu sự tất thành.
Lời bàn: Vua cuối cùng Thương là Đế Tân, hiệu Trụ bỏ bê chính sự, say mê Đát
Kỉ , chơi bời trác táng, dẫn tới quốc gia bị diệt vong. Hiền thần nhà Thương là
Chu Văn Vương, một bậc hiền minh dùng lễ đối đãi kẻ sỹ, cho nên thiên hạ theo
về nhà Chu. Sự ra đời của một thời đại mới bao giờ cũng có điềm báo.
QUẺ SỐ 10 - KINH DỊCH - NGÔ TẤT TỐ
QUẺ LÝ
Kiền trên; Đoái dưới
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Quẻ Lý [1]. Tự Quái nới rằng: Người ta chứa họp rồi
mới có lẽ, cho nên tiếp đến quẻ Lý. Ôi, người ta họp lại, thì có lớn nhỏ, cao thấp,
tốt xấu khác nhau, đó là người ta chứa họp, rồi mới có lễ, vì vậy quẻ Lý mới nối
quẻ Tiểu súc. Lý tức là lễ, lễ là cái cái mà người ta xéo lên [2]. Nó là quẻ trời
nên chằm dưới, trời mà ở trên, chằm mà ở dưới, đó là phận trên dưới, là nghĩa
tôn ty, lẽ phải như thế. Lễ là gốc của đạo làm người và là con đường người ta
thường thường xéo lên, cho nên mới là quẻ Lý. Lý nghĩa là giầy, là bị giầy…Là
kẻ mềm yếu mà giầy lên kẻ cứng mạnh cho nên là Lý. Không nói cứng giầy lên
mềm mà nói mềm giầy lên cứng, là vì kẻ cứng cưỡi lên kẻ mềm tức là lẽ thường,
không đáng nói. Cho nên trong Kinh Dịch chỉ nói kẻ mềm cưỡi kẻ cứng, không
nói kẻ cứng cưỡi kẻ mềm.
LỜI KINH
履虎尾, 不哇, 亨.
Dịch âm. - Lý hổ vĩ, bất chất nhân, hanh!
Dịch nghĩa. - Xéo đuôi cọp, không cắn người, hanh!
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Quẻ Lý là đường người ta vẫn xéo, trời ở trên mà chằm ở
dưới, lấy kẻ mềm bị gìầy xéo với kẻ cứng, trên dưới đều đúng nghĩa, là việc rất
thuận, lẽ rất đáng, người ta cứ thế mà đi, tuy xéo vào chỗ nguy hiểm cũng không
hại gì, cho nên xéo lên đuôi cọp mà không bị cắn, vì vậy mớihanh được.
Bản nghĩa của Chu Hy.- Đoái cũng là tên quẻ ba vạch, một vạch Âm hiện ở trên
hai vạch Dương, cho nên đức nó là đẹp lòng, Tượng nó là chằm. "Lý" nghĩa là
cố chỗ noi theo mà lên, Đoái mà gặp Kiền tức là hòa thuận đẹp lòng để theo sau
kẻ cứng mạnh, có Tượng "xéo lên đuôi cọp mà không bị cắn", cho nên quẻ Lý
nó là Lý mà Chiêm thì thế. Người ta có thể như thế thì tuy ở chỗ hiểm nghèo
cũng không hại gì.
LỜI KINH
象: 履, 柔履剛也.説 應乎乾, 是以履與尾,
不哇, 亨. 剛中正, 履奋位 疚, 光明也
Dịch âm. - Thoán viết: Lý, nhu lý cương dã; duyệt nhi ứng hồ Kiền, thị dĩ lý hổ
vĩ, bất chất nhân, hanh.Cương trung chính, lý đế vị bất khứu, quang minh dã.
Dịch nghĩa. - Lời Thoán nói rằng: Quẻ Lý là mềm xéo theo cứng. Đẹp lòng mà
ứng với trời, thế cho nên xéo đuôi cọp, không cắn người, hanh. Dương cương
trung chính, xéo ngôi vua mà không mỏi mệt, sáng láng vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Đoái là Âm mềm, xéo tựa Kiền là Dương cứng, đó là
mềm xéo theo cứng. Đoái lấy đức đẹp lòng xuôi thuận ứng với Kiền là Dương
cương mà xéo tựa nó, ấy là dưới thuận với trên, Âm vâng theo Dương, chính là
lý chí trong thiên hạ. Xéo mà như thế, rất thuận rất đáng, tuy xéo đuôi cọp cũng
không bị đau hại. Cứ thế xéo đi, sự hanh thông có thể biết chắc. Hào Chín Năm
lấy đi đức Dương Cương trung chính, cao xéo ngôi vua mà không mệt mỏi, ấy
sự rất khéo trong cách "xéo", tức là kẻ sáng láng vậy.
Bản nghĩa của Chu Hy.- Câu đầu dùng hai thể thích nghĩa tên quẻ, câu giữa
dùng đức quẻ thích lời Thoán [3] câu cuối lại lấy thể quẻ nói rõ cho ra, có ý chỉ
về hào Chín Năm.
LỜI KINH
象: 上天下澤, 履. 君 以辯上下, 定民志.
Dịch âm.- Tượng viết: Thượng thiên hạ trạch, Lý, quân tử dĩ biện thượng hạ,
định dân chí.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Trên trời dưới chằm, là quẻ Lý, đấng quân
vương coi đó mà phân biệt trên dưới, định chí dân.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Trời ở trên, chằm ở dưới, tức là chính lý trong thiên hạ.
Sự xéo đi của người ta cũng nên như thế, nên mới lấy tượng của nó mà làm quẻ
Lý.Đấng quân tử theo Tượng quẻ Lý mà phân biệt phận của trên dưới, để định
chí dân của mình.
LỜI KINH
初九: 素履, 往無咎.
Dịch âm.-Sơ Cửu: Tố lý, vãng vô cữu.
Dịch nghĩa.- Hào Chín Đầu: Xéo theo sự vốn có, đi, không lỗi.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Xéo chỗ thấp nghĩa là đi. Hào Đầu ở chỗ rất thấp, tức là
kẻ vốn ở dưới, mà tài Dương cứng có thể tiến lên. Nếu cứ yên phận thấp kém
của mình vốn có mà đi, thì không có lỗi. Người ta không biết tự yên cái phận
nghèo hèn của mình vốn có, thì sự tiến lên của họ, chỉ là tham bạo hành động,
cầu để ra khỏi cảnh nghèo hèn mà thôi, không phải kẻ muốn làm việc. Hễ đã
được tiến ắt phải kêu dật, cho nên đi thì có lỗi. Đấng quân tử thì yên lặng theo
phận vốn có, khi ở lại thì vui, khi tiến lên thì sẽ cố làm chuyện gì, cho nên hễ đã
được tiến thì phải làm việc, mà không việc gì không hay.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Hào này là Dương cương, ở dưới, nhằm đầu sự "xéo",
chưa bị vật khác làm cho dời đổi, mà còn noi theo sự vốn có của mình. Kẻ xem
như thế, thì không có lỗi.
LỜI KINH
象: 素履之往, 獨 願也.
Dịch âm.- Tượng viết: Tố lý chi vãng, độc hành nguyện dã.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Việc đi của kẻ xéo theo sự vốn có, tức là một
mình làm theo chí nguyện vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Yên lòng xéo theo sự vốn có của mình, không phải cẩu
thả cầu lợi, chỉ là riêng muốn thực hành chỉ mình mà thôi… Nếu lòng muốn
sanh và lòng hành đạo giao chiến ở trong bụng thì há có thể yên lòng xéo theo
sự vốn của mình?
LỜI KINH
九: 履道坦坦, 幽 員吉.
Dịch âm. - Cửu Nhị: Lý đạo thản thản, u nhân trinh cát.
Dịch nghĩa.- Hào Chín Hai: Xéo đường bằng phẳng, người uẩn chính bền thì tốt.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Hào Chín Hai ở ngôi mềm, rộng rãi được chỗ giữa, cái
đường của nó vẫn xéo là đường bằng phẳng dễ dãi, cũng phải là người trong
lòng u tĩnh yên lặng ở cảnh đó, thì mới có thể chính bền mà tốt. Hào Chín Hai là
Dương, chí muốn tiến lên, cho nên mới có lời răn "u nhân".
Bản nghĩa của Chu Hy. - Hào này cứng giữa, ở dưới, không có kẻ ứng với mình
ở trên, cho nên là tượng "xéo đường bằng phẳng, tối tăm trơ trọi, giữ lấy chính
bền". Kẻ u ẩn gặp lời chiêm này thì chính là tốt.
LỜI KINH
象: 幽 貞吉, 中不 亂也.
Dịch âm. - Tượng viết: U nhân trinh cốt, trung bất tự loạn dã.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Người u uẩn chính bền thì tốt, trong chẳng tự
rối vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Xéo đường cốt ở yên tính. Trong bụng yên lặng chính
đính thì đường mình xéo yên ổn rộng rãi. Nếu mà nóng nẩy động cựa, thì há có
thể yên với cái đường mình xéo? Cho nên ắt phải là người u uẩn thì mới có thể
vững bền mà tốt. Bởi vì trong lòng yên lặng, không vì sự lợi lộc và sự ham
muốn mà tự rối loạn.
LỜI KINH
六三: 眇能視, 跋辱履, 履虎尾, 哇, 凶. 武 為乎 君.
Dịch âm. - Lục Tam: Diểu năng thị, bí năng lý, lý hổ vĩ, chất nhân hung, vũ
nhân vi vu đại quân.
Dịch nghĩa. - Hào Sáu Ba: Chột biết trông, què biết xéo, xéo đuôi cọp, cắn
người, hung. Kẻ vũ nhân làm đấng đại quân.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Hào Ba là thể Âm, ở ngôi Dương, chỉ muốn cứng mà thể
vốn Âm nhu, không thể giữ bền con đường mình xéo, cho nên, như người mù
chột nhìn trông, sự thấy của họ không rõ, như người què quặt bước xéo, sự đi
của họ không xa, tài đã không đủ, lại ở không được giữa, bước xéo không phải
đường chính, mà chăm chăm muốn cứng, hễ mà bước xéo như thế, thì là xéo
vào chỗ hiểm nghèo, cho nên gọi là "xéo đuôi cọp". Vì không khéo xéo mà xéo
vào chỗ hiểm nghèo, thì ắt bị họa hoạn, cho nên nói là "cắn người, hung"."Kẻ vũ
nhân làm đấng đại quân như kẻ vũ tợn mà ở trên người ta, thì chỉ "dông" sự
nóng nẩy thô suất của họ mà thôi, chứ không thể bước xéo một cách xuôi thuận
mà tới nơi xa. Không trung chính mà chí cứng, bèn bị các hào Dương không
cùng với, vì thì mà nó nóng nảy xéo chỗ nguy hiểm, mà được sự hung.
Bản nghĩa của Chu Hy.- Hào Sáu Ba chẳng giữa chẳng chính, mà chí cứng,
dùng cách đó mà xéo theo Kiền ắt bị đau hại, cho nên Tượng nó như thế, mà kẻ
xem gặp thế thì hung. Nó là Tượng những kẻ cương vũ đắc chí dông tợn Tần
Chính [4], Hạng Tịch [5] há có thể lâu?
Lời bàn của Tiên Nho. - Phan Qua Sơn nói rằng: Là hào Sáu ở ngôi Ba, chất
mềm chí cứng, không lượng sức mình muốn làm việc liền, ứng với nhau hào
Chín Trên mà xéo theo các hào Dương, như kẻ chột muốn trông, kẻ què muốn
bước, kẻ vũ nhân muốn làm vua hung là nên lắm.
LỜI KINH
象: 眇能視, 不 以有明也. 陂能履, 不 以與 也.哇 之凶, 位不當也.
武 為于哭君, 志剛也.
Dịch âm. - Tượng viết: Diểu năng thị, bất túc dĩ hữu minh dã; bí năng lý, bất túc
dĩ dữ hành dã. Chất nhân chỉ hung, vị bất đáng dã; vũ nhân vi vu đại quân, chí
cương dã.
Dịch nghĩa.- Lời Tượng nói rằng: Chột biết trông, không đủ để có sáng vậy, què
biết xéo, không đủ để cùng đi vậy. Cái "hung" của sự cắn người, ngôi không
đáng vậy; kẻ vũ nhân muốn làm đấng đại quân, chí cứng vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Những người âm nhu, tài họ không đủ, trông không thể
rõ, đi không thể xa, mà cứ muốn chăm chăm muốn cứng, thì Tượng như thế, có
thể khỏi hại được chăng? - Là kẻ mềm ở ngôi Ba, không phải chỗ chính của nó,
sở dĩ phải đến vạ hại, bị cắn mà hung. Lấy kẻ vũ nhân làm thí dụ, là vì nó ở ngôi
Dương, tài yếu mà chí cứng. Chí cứng thì hay động càn, xéo không theo đường,
như kẻ vũ nhân mà làm đấng đại quân vậy.
LỜI KINH
九四: 履虎尾, 想想終吉
Dịch âm. - Cửu Tứ: Lý hổ vỹ, tố tố chung cát.
Dịch nghĩa.- Hào Chín Tư: Xéo đuôi cọp, nơm nớp, sau chót tốt.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di.- Hào Chín Tư là Dương cương mà thể Kiền, tuy ở ngôi Tư
mà phần cứng vẫn hơn. Ở chỗ gần vua, nhiều sự sợ, lại không có nghĩa tương
đắc, hào Năm lại là bậc cương thả quá, cho nên là dáng "xéo lên đuôi cọp, nơm
nớp sợ hãi". Nếu biết sợ hãi thì sau chót sẽ tốt. Bởi vì hào Chín tuy cứng mà chí
thì mềm ngôi Tư tuy gần vua mà nó không ở, hễ biết nơm nớp cẩn thận lo sợ, thì
sau chót khỏi nguy mà được tốt.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Hào Chín Tứ cũng là kẻ không trung chính, xéo theo
hào Chín Năm là kẻ cứng, nhưng vì lấy chất cứng ở ngôi mềm nên biết răn sợ
mà được trọn tốt.
LỜI KINH
象: 想想終吉, 志 也.
Dịch âm. - Tượng viết: Tố tốc chung cát, chí hành dã.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Nơm nớp, sau chót tốt, chí đi vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Có thể nơm nớp sợ hãi thì sau chót được tốt, là vì chí ở
sự đi mà không chịu ở, lìa bỏ chỗ nguy là tốt. Dương cương là kẻ đi được, ở chỗ
mềm là kẻ sự xuôi thuận tự xử.
LỜI KINH
九五: 夬履, 貞厲.
Dịch âm.-Cửu Ngủ: Quải lý, trinh lệ.
Dịch nghĩa. - Hào Chín Năm: Quyết xéo, chính bền nguy!
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Quải là cương quyết, hào Năm lấy đức Dương cương, thể
Kiền, ở ngôi chí tôn, là kẻ tự dùng sự cương quyết của mình mà đi. Như thế thì,
tuy được chỗ chính cũng nguy dữ. Thánh nhân đời xưa, ở ngôi tôn trong thiên
hạ, sự sáng đủ để soi xét, sự cứng đủ để quyết đoán, thế đủ để tự chuyên, nhưng
mà chưa từng không để cho hết lời bàn của thiên hạ, tuy kẻ cắt cỏ kiếm củi là
hạng nhỏ nhặt, cũng ắt theo, vì thế mới là ông thánh, xéo ngôi vua mà sáng suốt.
Nếu cứ vậy ta cương minh, quyết đi không ngoảnh lại, tuy là được chỗ chính
đính cũng là cách nguy, có thể giữ bền được chăng? Có tài cương minh mà nếu
cứ chuyên một bề tự nhiệm, còn là cách nguy, huống chi kẻ cương minh không
đủ. Trong Kinh Dịch nói chữ "trinh lệ" nghĩa là không giống nhau, tùy quẻ có
thể thấy được.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Hào Chín Năm lấy đức cương trung xéo chính ngôi
vua mà dưới là quẻ Đoái có tính vui đẹp ứng nhau với nó, phàm các việc tất
nhiên là làm, không còn nghi ngại, cho nên Tượng nó là quyết. Nhất quyết mà
xéo, gia cho được lẽ chính đính cũng là đạo nguy, cho nên lời chiêm của nó là
"tuy chính mà nguy". Răn bảo người ta sâu lắm.
LỜI KINH
象: 夬履貞厲, 位正當也.
Dịch âm. - Tượng viết: Quải lý trinh lệ, vị chính đáng dã.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Quyết xéo, chính bền, nguy ngôi chính đáng
vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di.- Răn kẻ quyết xéo, vì nó chính đáng ngôi tôn. Ở ngôi chí
tôn, giữ cái thế có thể tự chuyên mà tự mình dùng sự cương quyết, không còn sợ
hãi, thì dùng được chỗ chính đáng cũng là đạo nguy.
Bản nghĩa của Chu Hy.- Hại về tự thị.
LỜI KINH
上九: 視履考祥, 其旋元吉.
Dịch âm. - Thượng Cửu: Thị lý khảo tường, kỳ tuyền nguyên cát.
Dịch nghĩa. - Hào Chín Trên: Coi sự xéo, xét điềm lành thửa quanh cả tốt.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Hào Trên ở cuối cuộc "xéo", trong lúc cuối, coi lại đường
đã xéo đi, để xét về sự thiện các họa phúc của nó, nếu nó quanh lại thì thiện là
tốt. "Quanh" là quanh vòng đầy đủ, không cái gì không đến nơi. Người ta xéo
rồi, xét coi lúc sau chót, nếu như đầu chót chu toàn không thiếu thốn, thì là thiện
đến tột cùng, cho nên cả tốt. Người ta lành dữ, quan hệ ở sự xéo của mình, thiện
ác nhiều hay ít, ấy là lành dữ lớn hay nhỏ.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Coi chót cuộc "xéo" để xét điều hành của nó, chu toàn
không thiếu thì là cả tốt. Đó là vạ phúc của lẻ xem phải coi ở sự "xéo" của họ
mà chưa nhất định.
LỜI KINH
象: 元吉在上, 有慶也.
Dịch âm.-Tượng viết: Nguyên cát tại thượng, đại hữu khác dã.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Cả tốt ở trên, cả có phúc vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Hào Trên là chót cuộc "xéo". Sự "xéo" của người ta, hễ
thiện mà tốt, đến chót chu toàn không thiếu, tức là người cả có phúc. Sự hành
động của người ta quí ở có lúc sau chót.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Nếu được cả tốt thì là có cả phúc khánh.
Lời bàn của Tiên Nho. - Vương Phụ Tự nói rằng: Hào Dương mà ở ngôi Âm tức
là khiêm tốn, cho nên, trong một quẻ này đầu lấy Dương ở ngôi Âm làm thiện.
QUẺ SỐ 10 - QUỐC VĂN CHU DỊCH - PHAN BỘI CHÂU
THIÊN TRẠCH LÝ
10.1. Lý do tiếp nối: người ta chứa họp (quẻ Tiểu Súc) rồi mới có lễ. Lý nghĩa là
giầy lên, giẫm lên, xéo lên nhiều thì thành đường. Đường đi là nơi con người đi
nhiều mà thành. Ai cũng làm như vậy thì tạo nên lễ, lễ là quy củ, phép tắc, lễ là
trên cao, dưới thấp, là việc như vậy thì phải như vậy, xéo là theo đó mà đi, cứ
thế mà đi. Theo tượng quẻ, trời trên đầm dưới, đó là cái lễ trên dưới, là trên tôn
dưới ty. Lễ là gốc của đạo làm người "tiên học lễ, hậu học văn".
10.2. Thoán từ: lý hổ vĩ, bất chất (diệt) nhân, hanh
10.3. Dịch nghĩa: giẫm lên đuôi cọp mà cọp không cắn, hanh thông.
10.4. Giảng: quẻ Càn bên trên, bên dưới là quẻ Đoài (trời trên, đầm dưới), trên
dưới có tôn ty hợp lẽ trời đất nên gọi là hợp lẽ, hợp lý. Có tính âm nhu mà đi
theo dương cương thì dù người đi trước mình có dữ như cọp cũng tỏ ra hiền từ
víi mình. Cũng giống như người dưới hiền lành, nhu nhuận, làm việc hết mình
và có hiệu quả cũng có thể cảm hoá được người trên ví như giẫm lên đuôi cọp
mà cũng không bị cọp cắn. Đại Tượng Truyện nói: có tài ở trên, kém tài ở dưới
thì lòng dân mới yên mà không có sự tranh giành. Đoài có đức là đẹp lòng, Đoài
dưới Càn trên tức là làm đẹp lòng người trên. Người ta có thể như thế thì tuy ở
chỗ hiểm nghèo cũng không hại gì.
10.5. Triệu: "Phượng minh kỳ sơn"
- Nghĩa: chim Phượng hót ở núi Kỳ.
- Chỉ về sự: làm đúng phép tắc, vui vẻ ứng hợp thì tốt.
QUẺ SỐ 10 - KINH DỊCH DIỄN GIẢI
Thiên Trạch Lý
Triệu: "Phượng minh Kỳ Sơn" (sắp thanh bình), thuộc thổ.
Khái niệm "Lý", tiếng Hán nghĩa là "Lễ". Trong quẻ thiếu Thê Tài, so với quẻ
thuần Cấn, Thê Tài ở ngũ hào là Bính Tý Thủy, vậy đây là Phục Thần của Lý,
và Phi Thần là Nhâm Thần Tử Tôn Kim. Kim Sinh Thủy, do vậy ở đây Phi sinh
Phục. Theo quy luật của vòng trường sinh thì Thủy trường sinh tại Thân, đúng
vào vị tri của Phi Thần Lý, trong Dịch Lý, đây gọi là "Phi lai sinh Phục" đắc
trường sinh, nghĩa là Phục Thần xuất hiện kịp thời, đầy đủ.
Trong Dịch lý, khái niệm "Lý" được chỉ một trạng thái có trật tự, hài hoà, trong
quan hệ xã hội là sự ứng xử có thứ bậc, có tôn ti trật tự, người ta dùng lễ mà đối
xử với nhau, trên ra trên, dưới ra dưới. Khi ở trong trạng thái của "Lý" thì không
cơ sự hỗn độn, xáo trộn nữa, chính vì vậy mà Dịch Học lấy triệu: "Tương minh
Kỳ Sơn". Triệu này lấy quan niệm xưa của người Trung Hoa cổ là: khi nào có
"Kỳ lân, phương hoàng" (là hai con thú biểu tượng cho sự linh thiêng) xuất hiện
thì thiên hạ thái bình, vua anh minh xuất hiện, nghĩa là báo điềm lành. Kỳ Sơn là
đất phát tích của nhà Chu, một triều đại nối tiếp sau cuối đời Thượng có vua Trụ
độc ác tham tàn, nhiễu nhương, binh Hỏa liên miên. Sau khi Chu Văn Vương
xuất hiện, bắt đầu một triều đại thái bình, an thái.
Về quẻ Lý, Dịch Lý có câu sau:
"Lý" lý hô vĩ, bất thiện nhân: Hanh.
Dịch Nghĩa:
"Lý" có nghĩa là dẫm chân lên đuôi cọp, cọp không cắn người. Điềm hanh
thông. May lắm.
Câu này phản ánh một tình huổhg rất nguy hiểm (dẫm lên đuôi cọp!), muốn cứu
mình chỉ có thể làm cho "cọp thấy như không" có gì xảy ra! Vậy người dẫm
phải không hành động gì tiếp theo nữa. Hàm ý khi dự báo gặp quẻ này, phải lấy
bình tĩnh, thanh tâm mà ứng xử, ứng phó. Do vậy, trong Dịch lý còn đưa ra
tượng quẻ: "Lý" là "Nhu" (mềm) đặt lên cái "Cương" (cứng rắn). Điều này có
nghĩa là lấy cái mềm dẻo mà ứng phó với cái cương cứng kiên, ngược lại sẽ
chuốc lấy nguy hiểm khôn lường.
Khi dự báo gặp quẻ lý, Dịch học đã đưa ra câu chuyện sau:
Đời Gia Tĩnh triều Minh, Nghiêm Tung, một viên quan lúc đầu có chức vị bình
thường trong triều, khi rơi vào tình thế khó khăn trong công việc, dự báo được
quẻ này, đã khéo léo hướng về ý của nhà vua. Cuối cùng Nghiêm Tung được
thăng từ chức Hàn Lâm Biên Tu lên chức Thái Tử Thái Sư, cực kỳ vinh hoa phú
quý.
QUẺ SỐ 10 - KINH DỊCH - DỊCH TỰ BẢN NGHĨA
QUẺ LÝ:
Lý là giầy xéo, dẵm đạp, bước đi. Quẻ này bàn về cung cách ứng xử khi ở gần
một sức mạnh đáng gờm và nguy hiểm. Hình ảnh tượng trưng là dẵm lên đuôi
cọp; thực tế là phép tiểu quốc (Chu) cư xử với đại quốc (Ân). Quẻ này Javary
không giảng gì mới, tôi diễn qua lăng kính Ân / Chu.
Hai hào dưới giao dịch còn ít còn giản dị. Hai hào giữa thật là nguy hiểm vì Chu
đã phát triển nhưng chưa đương nổi con cọp Ân. Hai hào trên Chu cường thịnh
và có ý dòm ngó Ân.
Lời quẻ: Lý hổ vĩ, bất điệt nhân, hanh.
Dịch: Dẵm lên đuôi hổ, nó chẳng cắn người, hanh thông.
Cái quan trọng nhất khi sống bên cạnh một đế quốc là đừng cho nó cơ hội nuốt
mình.
Hào 1: Tố lý, vãng, vô cữu.
Dịch: Bước đi đầu, tiến lên, không lỗi.
Hào 2: Lý đạo thản thản. U nhân, trinh cát.
Dịch: Đi trên đường bằng phẳng. Người ẩn mình, đoán mở.
Chu còn bé nhỏ chưa vào tầm ngắm của Ân.
Hào 3: Miễu năng thị, bã năng lý. Lý hổ vĩ, điệt nhân, hung. Vũ nhân vi vu đại
quân.
Dịch: Chột nhìn được, què đi được. Đạp đuôi cọp, nó cắn người, xấu. Vũ phu
mà làm việc của đại quân.
Theo QNB thì có thể dịch "Miếu năng thị, bả năng lý" = Cái nhìn của kẻ chột,
cái bước đi của kẻ què.
Tức là nhấn mạnh vào cái khả năng đã bị khiếm khuyết. Nếu không tự lượng sức
thì sẽ gây ra họa xấu khi mà đòi làm cái việc quá khả năng của mình. Kẻ chột thì
thấy sao rõ được, kẻ què thì đi sao vững được, loạng quạng dẫm vào đuôi cọp nó
cắn cho thì khổ.
Cho nên, vế sau mới nói "Vũ nhân vi vu đại quân" = vũ phu mà làm cái việc của
bậc cai trị.
Tức là, cái khả năng của kẻ võ biền thì khiếm khuyết về trí tuệ cai trị, nên nếu
chẳng tự lượng sức mình thì hỏng bét.
Sức Chu đã khá nhưng so với Ân thì chưa là gì. Vọng động thì bị cọp cắn. Có
sức mạnh nhưng chưa có đức của minh chủ (đại quân qui tụ liên minh) thì chỉ
khiến kẻ kia muốn diệt mình ngay (lời hào lập lại lời quẻ nhưng ở đây bị cắn).
Có thể nói về chuyện Quý Lịch cha Cơ Xương sau khi 3 lần thắng giặc bị đế
Văn Đinh lo ngại triệu về triều rồi tìm lỗi nhỏ bắt giết.
Hào 4: Lý hổ vĩ, sóc sóc. Chung cát.
Dịch: Dẵm lên đuôi cọp, (biết) sợ sệt thì đến cuối tốt.
Làm cho người ngờ nhưng biết sợ, thận trọng, không khiêu khích, che cái sáng
thì có thể tránh được họa diệt vong.
Hào 5: Quyết lý, trinh lệ.
Dịch: Bước đi cương quyết. Điềm nguy.
(Lớn mạnh rồi) nhưng hăng quyết quá vẫn nguy. Quyết hay Quải là tên quẻ số
43, nên xem thêm. Đắc trung, đắc chính nhưng quẻ này có 5 hào dương nên ngôi
cửu ngũ có thể cương quá nên tuy vị đẹp vẫn bị phê nguy.
Hào 6: Thị lý, khảo tường. Kỳ toàn, nguyên cát.
Dịch: Nhìn kỹ bước đi, xét điềm lành. Hoàn hảo, tốt lớn.
Tính toán thận trọng, chờ cơ hội tốt. Thập toàn rồi (mới hành động / đánh Ân)
thì mới thật tốt. Hào này bất trung, bất chính vậy mà được phê tốt lớn đó chỉ vì
cuối thời Lý rồi, cọp đã về già.
Javary giảng rất lạ: kỳ toàn là đi hết một chu kỳ trở lại cái trong trắng của hào 1.
Nếu quên bối cảnh Ân / Chu thì hiểu theo cổ điển sát nghĩa hơn.
QUẺ SỐ 10 - BÍ ẨN QUẺ DỊCH