Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 112

GIẢI THÍCH SƠ ĐỒ Ý THỨC

BẢNG PHÂN CHIA MỨC ĐỘ NĂNG LƯỢNG ĐÃ ĐƯỢC CHỨNG MINH

David R.Hawkins, Giáo sư-Tiến sĩ- Bác sĩ

1
Lời ca tụng dành cho quyển sách

“Tôi muốn gợi ý quyển sách này cho tất cả những người khao khát tâm linh muốn leo lên những nấc thang chưa từng được thấy
về sự tiến bộ tâm linh thật sự.”

_Swami Chidatmananda, Sư thầy Hindu Giáo hội Chinmaya Bharat, Ấn Độ_

Tưởng nhớ Tiến sĩ David R.Hawkins (1927-2012)

Vinh danh Thiên Chúa trên trời!

2
NỘI DUNG

Sơ đồ ý thức

Lời nói đầu, được viết bởi Susan J.Hawkins

Lời giới thiệu, được biên tập bởi Tiến sĩ Fran Grace

PHẦN I: NỀN TẢNG

Chương 1: Khái Quát về Sơ Đồ Ý Thức

Xác định và Hiểu về Ý Thức

Cơ sở Dữ liệu của ý thức

Nền tảng khoa học của những Mẫu Thức Hấp Dẫn

Bảng Sơ đồ

Mục Hỏi Đáp

Chương 2: Các Cấp Độ của Ý Thức

Mức độ năng lượng 20: Tủi hổ, Xấu hổ

Mức độ năng lượng 30: Tội lỗi, mặc cảm

Mức độ năng lượng 50: Thờ ơ, Lãnh đạm, Khô khan

Mức độ năng lượng 75: Sầu khổ, Đau buồn

Mức độ năng lượng 100: Sợ hãi, Lo ngại

Mức độ năng lượng 125: Ham muốn, Khao khát

Mức độ năng lượng 150: Tức giận, Giận dữ

Mức độ năng lượng 175: Kiêu hãnh, Hãnh diện

Mức độ năng lượng 200: Can đảm, Dũng cảm

Mức độ năng lượng 250: Trung tính

Mức độ năng lượng 310: Sẵn lòng, Tự nguyện

Mức độ năng lượng 350: Chấp nhận

Mức độ năng lượng 400: Lý trí, Lẽ phải

Mức độ năng lượng 500: Tình yêu, Yêu thương

Mức độ năng lượng 540: Niềm vui, Vui vẻ

Mức độ năng lượng 600: An lạc, Yên bình

Mức độ năng lượng 700-1000: Giác ngộ, Khai sáng

Ví dụ hàng ngày về các cấp độ ý thức quyết định ra sao đến cách ứng xử của một người

Mục Hỏi Đáp

Chương 3: Sự Tiến Hoá của Ý Thức

Sở Hữu- Hiệu Suất- Hiện Hữu ( Having- Doing- Being)

Sự tiến hoá từ Sinh Tồn đến Yêu Thương

3
Xem xét qua 7 lĩnh vực cuộc sống

Ý định: Tiến hoá vượt lên quy luật Nhân- Quả và trường Vô Hạn

Mục Hỏi Đáp

PHẦN II: THỰC HÀNH ỨNG DỤNG

Chương 4: Sức Khoẻ và Hạnh Phúc

Cơ thể tuân theo Tâm trí

Những chương trình để vượt qua Tiêu cực

Quá trình tự Chữa lành

Trạng thái Tự do Nội tại

Chương 5: 10 Bước để Thành Công

Bước 1: Ý định

Bước 2: Niềm vui

Bước 3: Phụng sự

Bước 4: Thẩm mỹ học

Bước 5: Thu hút

Bước 6: Đáng tin cậy

Bước 7: Chân Thiện Mỹ

Bước 8: Phẩm chất

Bước 9: Chia sẻ

Bước 10: Tử tế

Thực hành Sự thành công mỗi ngày

Chương 6: Cách Thoát Khỏi Chứng Nghiện

Sự thật về Nghiện

Những trường năng lượng và Nghiện

Tại sao phải cai nghiện?

Quá trình của Ý thức trong Phục hồi

Mười hai bước để xoá bỏ Chướng ngại

Sức mạnh Chữa lành của tập thể Yêu thương

PHẦN III: Ý THỨC CẤP TIẾN

Chương 7: Vượt Qua Những Chướng Ngại Để Đạt Ý Thức Cao Hơn

Ý chí Tinh thần

4
Vai trò của Ân huệ

Bản thể trải nghiệm: Tiệm Cận với Bản Ngã

Tính hai mặt của Bản ngã: Thích và Ghét

Từ Xấu hổ đến Kiêu hãnh

Từ Dũng cảm đến Ngây ngất

Con đường Buông bỏ

Chương 8: Chân lý Tâm linh, những người Thầy và Sự Dẫn Dạy

40 đặc tính không thể thiếu của Thầy và Người Dẫn Dạy

Giáo dục Tâm Linh

Sự Tự nhận thức và Giác ngộ của một Nhà thần bí

Trạng thái Thần thánh

Mục Hỏi Đáp

Chương 9: Hướng Dẫn cho Người Đi Tìm Kiếm Tâm Linh

Hướng đi Tinh thần

Mục Hỏi Đáp

Những Phẩm tính và Thái độ giá trị nhất dành cho Người đi tìm kiếm Tâm linh

Tổng kết: Bản Chất của Con Đường

Cẩm nang dành cho Người đọc: Những câu thảo luận nhóm

Phụ lục A: Sự định tính Ý thức

Phụ lục B: Danh sách định tính cho Tinh thần

Những người khao khát

Bảng chú giải thuật ngữ

Tài nguyên tìm hiểu sâu hơn

Tiểu sử và Tự truyện

Chú giải cuối trang

Danh mục

Về tác giả

SƠ ĐỒ Ý THỨC

5
Quan Quan Cấp độ Tần số Cảm xúc Quá trình
điểm về điểm về lo-ga-rit
Thượng Cuộc
Đế sống
Bản thân Như Giác ngộ 700- Không Ý thức
chính nó 1000 thể diễn tinh khiết
tả
Chúng Hoàn hảo An lạc 600 Hoan hỉ Sáng
sinh suốt
Đấng Tối Trọn vẹn Niềm vui 540 Thanh Biến đổi
cao thản
Tình yêu Nhân từ Yêu 500 Tôn sùng Soi rạng
thương thương
Trí tuệ Có ý Lý trí 400 Thấu Trừu
nghĩa hiểu tượng
Nhân hậu Hài hoà Chấp 350 Tha thứ Siêu việt
nhận
Có cảm Hy vọng Sẵn lòng 310 Lạc quan Ý định
hứng
Có khả Vừa ý Trung 250 Tin Giải thoát
năng tính tưởng
Thừa Khả thi Dũng 200 Quả Trao
nhận cảm quyết quyền
Không Đòi hỏi Hãnh 175 Bất cần Thổi
quan tâm khắt khe diện phồng
Căm thù Phản Giận dữ 150 Ghét Gây hấn
kháng
Phủ nhận Thất Thèm 125 Thèm Nô lệ
vọng khát thuồng
Trừng Khiếp Sợ hãi 100 Lo âu Thu hồi
phạt đảm
Khinh bỉ Bi thảm Đau buồn 75 Hối hận Nản chí
Ép buộc Vô vọng Lãnh 50 Tuyệt Thoái lui
đạm, thờ vọng
ơ
Không Tàn nhẫn Tội lỗi, 30 Đổ lỗi Phá huỷ
khoan mặc cảm
dung
Miệt thị Đau Tủi hổ, 20 Nhục nhã Trừ khử
thương xấu hổ

Học Viện Nghiên Cứu Tinh Thần

6
LỜI NÓI ĐẦU

Lần đầu tiên tôi nhìn thấy Sơ Đồ Ý Thức mà chồng tôi tạo ra là lúc anh ấy vẽ nó trên chiếc bảng đen ở lối vào nhà của chúng
tôi. Tôi hỏi ngay, “Đó là gì thế?”

Anh ấy đáp, “À, đây được gọi là Sơ Đồ Ý Thức.” Anh giải thích cho tôi nghe anh làm việc đó để giúp mọi người hiểu hơn về thế
giới. “Mỗi một cấp bậc trong nhận thức sẽ có cách nhìn về cuộc sống, Đức Tin, bản thân, cảm xúc và có một quá trình khác biệt.
Chỉ bằng một sơ đồ như thế này, em có thể thấy được cả thế giới. Nó chỉ ra một con đường để thoát khỏi những hố đen tuyệt
vọng và tiến đến sự giác ngộ.”

Ngay lúc ấy, tôi cảm nhận đây có thể là một niềm hy vọng cho nhân loại. Anh ấy là một chuyên gia về tâm thần học nhiều chục
năm, và đã làm việc với không biết bao nhiêu bệnh nhân khổ sở, thậm chí là những trường hợp có bệnh lý tâm thần cực kỳ
nghiêm trọng. Nên anh ấy biết rõ tầm quan trọng trong lĩnh vực tâm thần học khi bạn có thể giúp người khác tìm ra cách để thoát
khỏi nỗi tuyệt vọng nhiều như thế nào. Và vì thế, anh ấy đã tạo ra sơ đồ này như một công cụ để học và truyền cảm hứng.

Tôi nói, “anh phải chia sẻ điều này với mọi người!”

Anh ấy trả lời anh ấy không có ý định sẽ công bố nó ra bên ngoài, tôi nói những lời mà anh ấy không thể bác lại: “David, Sơ Đồ
này có thể sẽ giúp được cho rất nhiều người!” Sau đó, David đã viết quyển sách đầu tiên, Trường Năng Lượng và Những Nhân
Tố Quyết Định Tinh Thần, Sức Khoẻ Con Người (tựa gốc: Power vs Force, the hidden Determinants of Human Behaviour). Điều
mà tôi không thể ngờ được là hai mươi năm tiếp theo, chúng tôi đã cùng nhau đi khắp thế giới để chia sẻ Sơ Đồ này với mọi
người.

Khi đứng chung trên sân khấu với anh ấy, tôi đã chứng kiến anh ấy nói một cách mạnh mẽ như thế nào, và gương mặt của
những người ở đó đột nhiên sáng bừng- họ đã tìm ra được chân lý! Thật hạnh phúc khi thấy điều này- vì biết rằng cuộc đời của
một ai đó sẽ thay đổi. Đối với Dave, anh ấy chưa bao giờ làm điều này vì bản thân, điều mà anh ấy quan tâm là thông điệp này
sẽ tác động đến người khác như thế nào. Anh ấy có một khiếu hài hước khiến ai nấy cũng đều dễ chịu, người ta không thể nhịn
cười mỗi lúc anh ấy pha trò. Anh cũng

chưa bao giờ để ý đến vẻ ngoài hay sự chấp thuận từ người khác, bởi anh ấy biết rõ mình là ai, và như thế nào.

LỢI ÍCH CỦA SƠ ĐỒ Ý THỨC

Sơ đồ của David là một bản đồ quy mô diễn tả ý thức từ những cấp độ dưới cùng lên đến những cấp độ cao nhất. Anh ấy đã
phát triển nó để chúng ta có thể hiểu được tại sao có cả năng lượng thấp lẫn năng lượng cao trên thế giới, tại sao một số người
có thể gây ra những chuyện khủng khiếp, trong khi một số khác lại sống hoàn toàn trong trạng thái của tình thương. Thang đo
đi từ mức 0 đến 1000 lo-ga-rit. Anh ấy đã thuê một chuyên gia thống kê để đảm bảo thước đo này là chính xác. Sau đó thêm
vào những cảm xúc kèm các yếu tố khác tương ứng với mỗi cấp độ của ý thức, để minh hoạ cho chúng ta hình dung cụ thể về
mức độ xấu hổ (20) so với tình yêu (500) có khác biệt ra sao. Một số người nhìn vào những con số, trong khi số khác có thể
thích bắt đầu bằng những tính từ miêu tả. Dave đã trình bày công trình của anh theo nhiều cách khác nhau, để khả dĩ tiếp cận
được đến những phong cách học tập khác nhau của chúng ta.

7
Anh ấy muốn đảm bảo với những người đang mắc kẹt trong đau khổ một điều: nhiều khả năng tốt đẹp vẫn còn ở phía trước.
Khi bạn đọc tiếp, bạn sẽ thấy, bản thân David cũng đã tự mình trải nghiệm toàn bộ sơ đồ này từ những mức dưới cùng đến
những mức cao nhất. Anh ấy là minh chứng cho công việc này và anh đã thể hiện điều đó qua chính cuộc đời của mình, qua
những bài giảng và sự khôi hài của anh ấy. Tôi chưa từng gặp được ai có nhiều sự thôi thúc để giúp đỡ người khác như anh.
Đó là lý do cho sự ra đời của sơ đồ này. Một công cụ mà anh ấy dùng để truyền cảm hứng cho mọi người biết sống yêu thương
và nhân ái hơn. Gần như mỗi ngày đều có người nói với tôi rằng, sơ đồ này đã làm thay đổi cuộc đời của họ. Một số người đã
từ bỏ được rượu, ma tuý và những chất gây nghiện khác. Số khác được chữa lành khỏi những đau đớn bệnh tật khác nhau. Dù
cho vấn đề của họ là gì đi nữa, sơ đồ này cũng đã cung cấp cho họ một con đường để vượt thoát khỏi khổ đau.

Lòng dũng cảm

Nếu đây là quyển sách đầu tiên mà bạn đọc về chủ đề này, không cần phải e ngại. Sơ đồ này là một công cụ hết sức đơn giản
và thông dụng, bạn không cần phải là một thiên tài mới có thể hiểu được nó. Những trang sách tiếp theo có tất cả mọi điều mà
bạn nên biết để tiến lên được trong cuộc sống, chúng sẽ giải thích với bạn cách thế giới vận hành, lý do tại sao có những điều
lại diễn ra theo cách như thế, và làm thế nào để phát huy được hết tiềm năng của bạn. Ngoài ra, sơ đồ còn giúp bạn giảng giải
một số vấn đề trong cuộc sống và nhắc nhở về mục đích sống cao cả nhất của chính bạn. Bạn chỉ việc đọc và tìm ra cách để áp
dụng cho mình.

Bất kì ai cũng có thể sử dụng sơ đồ này, dù cho bạn có hay không có tín ngưỡng. Khi tôi còn là một học sinh trung học, một
người bạn thân theo đạo Do Thái đã hỏi tôi, “Nếu Chúa Trời là thật, tại sao lại có chiến tranh?” Và sơ đồ này sẽ trả lời cho câu
hỏi đó. Một khi thế giới có quan điểm, thì chiến tranh là lý do để hàng triệu người cảm thấy sự hy sinh của họ là vì một điều gì
đó lớn hơn cả chính bản thân họ. Khoảnh khắc họ bước vào làn đạn, họ cũng đồng thời đã vượt qua cột mốc quan trọng của
lòng dũng cảm trên sơ đồ.

Dave cho rằng vấn đề lớn nhất của chúng ta về mặt tinh thần là cái ngã, và cần lòng can đảm cũng như sự cống hiến để vượt
qua. Lòng can đảm này có thể tìm thấy ở những người lính sẵn sàng bỏ mạng vì thứ gì đó cao hơn cái tôi của họ- là quốc gia,
là đức tin, hoặc là vì những đồng đội của họ. Các vận động viên cũng thể hiện điều đó theo cách của họ khi họ tìm kiếm chiến
thắng cho đội hoặc đất nước, tất cả những điều này không vì bản thân của họ. Hoặc cũng có thể khi ai đó nỗ lực hết mình để
cống hiến cho bệnh nhân ung thư hoặc những căn bệnh hiểm nghèo khác. Khi chúng ta phụng sự cho một điều gì đó lớn hơn
bản thân mình, thì chúng ta đang có hiện diện ở những vị trí cao trên sơ đồ. Sơ đồ còn cho chúng ta thấy những điều cực đoan
như chiến tranh, thật ra là vì phục vụ cho một mục đích. Đó là giúp tinh thần của chúng ta tiến bộ.

Hy vọng

Khi người ta suy sụp, họ cần hy vọng. Sơ đồ mang lại hy vọng. Nó cho thấy nếu chúng ta đang chán ghét bản thân hoặc tuyệt
vọng, chúng ta có thể xoay chuyển hiện trạng bằng cách hướng tới cấp độ cao hơn. Chúng ta thấy bước ngoặt này hàng ngày
trong những hội nhóm như Những Người Nghiện Rượu Ẩn Danh, gồm những thành viên đang hồi phục sau khi cai nghiện. Từ
chỗ hoàn toàn tuyệt vọng, cuộc sống của họ đã đổi khác. Khi họ đạt đến cấp độ dũng cảm (200) trên sơ đồ cũng chính là thời
điểm cuộc sống của họ xoay chuyển, bởi họ đã đủ dũng cảm để nói lên sự thật thay vì đổ lỗi cho người khác, từ đó có thể tiến
lên tiếp cấp độ sẵn lòng (310). Sẵn lòng học hỏi, sẵn lòng giúp đỡ người khác, sẵn lòng tiến bộ, sẵn lòng tử tế, sẵn lòng làm một
việc nào đó.

Luôn luôn có hy vọng, kể cả trong những ngày tồi tệ nhất. Trong những ngày không thuận lợi, tôi tự nói với bản thân mình, “Mong
sao một ngày như hôm nay không bao giờ lặp lại!” Sơ đồ nói cho chúng ta biết một ngày tồi tệ cũng không có nghĩa là cuộc sống
đã kết thúc. Như Scarlett O’Hara đã nói trong Cuốn Theo Chiều Gió, “Mai rồi tính!” Sơ đồ chỉ ra rằng cuộc đời chúng ta là một
hành trình, giả sử chúng ta không vừa ý với một phân đoạn nào đó trong hành trình ấy, thì toàn bộ hành trình cũng sẽ không tồi
tệ như chúng ta lầm tưởng, những phân đoạn thuận lợi tốt đẹp vẫn còn ở phía trước, một khi chúng ta sẵn lòng tin tưởng vào
quá trình.

Vượt qua khó khăn

8
Mọi người nói rằng sơ đồ đã giúp họ có lòng trắc ẩn nhiều hơn với người khác. Họ thấy trên thế giới vẫn còn nhiều người có
mức độ ý thức thấp hơn, như tội lỗi, sợ hãi, tức giận, cũng đồng nghĩa với việc họ có thể giết người, nói dối và trộm cướp. Mỗi
tầng ý thức sẽ có một hiện thực riêng của nó. Giả sử bạn sống trong tầng ý thức sợ hãi hoặc giận dữ, bạn sẽ hành động theo
cách đó. Khi đã biết sơ đồ này, chúng ta sẽ không phán xét những ai hành động theo những cách có vẻ khác thường với chúng
ta.

Ngay cả khi bạn ở cấp độ can đảm hoặc cao hơn, không phải lúc nào bạn cũng luôn duy trì được ở đó. Những bài kiểm tra sẽ
luôn đến để thử thách bạn. Tất cả mọi người đều phải trải qua bài tập của những cấp độ dưới cùng. Ví dụ như, một người thân
của chúng ta mất đi, hẳn chúng ta cần làm việc rất nhiều với sự đau khổ, hoặc có lẽ sợ hãi vì những điều chúng ta chưa biết rõ.
Trong trường hợp ly hôn, chúng ta có thể phải xử lý với cơn giận dữ của mình một thời gian, cho đến khi qua cơn mê muội và
nhận ra được rằng, cuộc đời sẽ tốt hơn nếu không có người kia!

Như Dave có viết trong quyển sách này: cuộc sống cung cấp cho chúng ta những thử thách, và chúng ta vượt qua nó là có lý
do. Khi đang ở giai đoạn khốc liệt của sự tranh đấu nội tại, thật khó mà nhận ra được ý nghĩa gì, vì thế hãy tin là nó đến vì một
mục đích cụ thể. David gợi ý chúng ta có thể hỏi: “Mục đích của việc này là gì?” Chúng ta biết chúng ta không đơn độc, vì có
một sức mạnh cao hơn đang dõi theo để giúp chúng ta phát triển. Chẳng hạn, khi chúng ta rất muốn một thứ gì đó nhưng không
có được, và sau đó chợt nhận ra rằng, “Mừng vì mình đã không có nó!”

Dave thường nói, “Tình yêu mang đến điều ngược ngạo với nó.” Có nghĩa là khi chúng ta muốn yêu thương nhiều hơn, cuộc
sống sẽ mang đến cho chúng ta những kẻ rất khó để yêu! Mọi hành động mang lại một phản ứng đối nghịch tương đương. Bản
thân tôi cũng bị thử thách bởi những người mà tôi gặp mỗi ngày, trong những hoàn cảnh thường thấy. Dave nói rằng tôi không
thể làm hài lòng tất cả mọi người, đó là một bài học khó, bởi đôi khi cần phải nói KHÔNG. Đôi lúc ai đó cáu kỉnh với bạn, tốt hơn
chỉ cần bỏ đi thay vì ở đó và tiếp tục tranh luận với một người tiêu cực. Nếu bạn bỏ đi, họ sẽ có cơ hội cảm nhận được sự tiêu
cực của họ đang gây ra tác động gì. Nó sẽ trở thành thời điểm mà họ nên suy xét, nếu họ sẵn lòng làm việc đó. Bài học xảy ra
xuyên suốt trong những khoảnh khắc của cuộc đời chúng ta, đôi khi chúng ta là giáo viên, và những lúc khác, chúng ta là học
sinh.

Hãy là chính bạn

Mục tiêu tuyệt vời là sống ở cấp độ tình yêu (500), nhưng chuyện này không dễ dàng. Nhiều người nói với tôi, “Tôi ở mức 500.”
Họ cho rằng họ sống ở cấp độ tình yêu, nhưng nó giống với tưởng tượng nhiều hơn thực tế. Một khi bạn đọc đến cấp độ của
tình yêu trong quyển sách này, bạn sẽ nhận ra hầu như không có ai ở được đó! Nếu bạn đang ở mức 400, lý trí, có mức hoạt
động cao và tìm kiếm sự thật cho lợi ích của riêng bạn, thì đã là cừ khôi. Bạn có thể trải nghiệm thoáng qua về cấp độ cao hơn,
nhưng duy trì ở những cấp độ cao đòi hỏi sự một sự tận tâm liên tục, và không ai có thể giúp bạn. Bạn có thể có trải nghiệm ở
đó, và bạn phải làm những công việc ở cấp độ nội hàm bên trong nó không ngừng để đạt được và ở lại đó. Bạn cũng không thể
buộc mình phải đạt đến cấp độ cao hơn, đó là bản ngã. Nó chỉ có thể đến từ sự tự nguyện, bản chất và trái tim của bạn.

Trong quyển sách này, David lập luận rằng, lòng tốt mà bạn có với người khác là một điều quan trọng trong cuộc sống hàng
ngày, cũng như trong sự tiến bộ về mặt tinh thần. Ví dụ, nếu bạn gặp một bà già đang vất vả với chiếc xe đẩy hàng, hãy nhường
đường cho bà ấy, có lẽ bà rất mệt. Hoặc bạn cũng có thể tử tế với một thai phụ đang đánh vật với đứa con mè nheo của cô ấy.
Thay vì tỏ thái độ khó chịu và phán xét cô ấy không biết cách quản con của mình, hãy nhường cho cô ấy được đi trước. Chờ
thêm mười phút có là gì? Nếu mục tiêu của bạn là tiến bộ, thì sự tử tế là một công cụ quan trọng. Một điểm khác mà Dave nhấn
mạnh, đó là không có cấp độ nào ưu việt hơn cấp độ nào, bởi vì mỗi cấp độ ý thức, chúng ta có riêng một loại trách nhiệm. Chỉ
cần là phiên bản tốt nhất của chính bạn, và sống trong không gian đó càng lâu càng tốt. Khi bạn đạt đến mức độ chấp nhận
(350), nghĩa là bạn đã chấp nhận bản thân và tính cách của mình. Chúng ta tham gia ở những cấp độ khác nhau và cần cam
kết hoàn toàn để phát triển lên cấp độ cao hơn. Mặc áo choàng trắng và nói những từ chuẩn mực không có nghĩa là bạn đã tiến
đến cấp độ cao: chỉ đơn giản là bản ngã của bạn đang tưởng rằng nó đã ở đó!

Nếu bạn có khả năng thành thật và không đánh giá bất cứ điều gì là “cao” hoặc “thấp”, thì bạn sẽ có sự hiểu biết sâu sắc hơn
về bản thân, và sẽ ý thức được rõ ràng hơn vị trí của bạn trên sơ đồ. Nếu bạn muốn tiến bộ, hãy nhìn vào nơi bạn có thể cải
thiện bản thân. Trung thực về điểm yếu của bạn. Có thể bạn đang thiếu kiên nhẫn và cần phải tử tế hơn. Có thể bạn đang phụ

9
thuộc và nghiện một điều gì đó và cần có đủ dũng khí để từ bỏ nó. Hoặc có thể bạn rất nhu nhược và cam tâm tình nguyện trở
thành chiếc thảm dẫm chân cho người khác. Tôi thích câu này, “Bị lừa lần một là lỗi của người khác, nhưng bị lừa lần hai là lỗi
của tôi!” Đừng vì ai đó là gia đình hay đồng nghiệp của bạn mà cho phép họ ngược đãi bạn. Có đôi lúc mọi người cảm thấy họ
tiến bộ khi họ đắm mình trong những trường năng lượng mức cao. Họ nói với tôi, “Tôi chỉ nghe những loại nhạc, đọc những
quyển sách ở mức trên cùng của sơ đồ!” Họ có sự đánh giá cao thấp. Đây là dạng bản ngã bậc cao. Nếu họ thật sự ở vào mức
năng lượng mà họ đang nghĩ, họ sẽ thấy khuyết điểm của họ rõ ràng hơn.

Bản ngã thích được trở nên đặc biệt, nó nói, “Tôi ở mức này, còn bạn ở mức kia.” Sơ đồ không được sáng tạo vì mục đích như
vậy. Nó là thứ để bạn học hỏi và phát triển. Nếu bạn thành thật với điểm yếu của mình, bạn sẽ nhìn ra được cách để vượt qua
nó và tự động di chuyển lên nấc cao hơn. Dave chưa bao giờ tự nhận mình là một người giác ngộ, nhưng tôi đã thấy anh ấy
sống ở cấp độ đó. Anh ấy vô cùng khiêm tốn và chan hoà với mọi người. Anh ấy không cho rằng bản thân giỏi hơn bất kỳ ai.
Anh ấy chỉ muốn chia sẻ những gì anh ấy biết và giúp đỡ mọi người bằng mọi cách. Khi bạn là chính mình, bạn không cần trình
bày bất cứ điều gì về bản thân bạn. Ở những cấp độ cao hơn, bạn sẽ không có hứng thú với việc đề cao bản thân. Tôi đã chứng
kiến Dave gặp gỡ những người cần sự giúp đỡ của anh ấy với tư cách là một bác sĩ, và tất cả những gì anh ấy nhận lại đơn
giản là một túi cà phê. Sau khi anh ấy qua đời, phải mất hai năm sau tôi mới dùng hết số cà phê đó. Cuốn sách này là dành để
tưởng nhớ anh ấy, bởi vì cuộc đời của anh ấy là một tấm gương tuyệt vời về sự phục vụ quên mình cho sự tốt đẹp hơn của
nhân loại. Tôi mong sao quyển sách này sẽ hữu ích dành cho bạn. Như Dave đã nhắn nhủ chúng ta, “Đường vốn dĩ đã chật
hẹp, đừng phí hoài thời gian thêm nữa.”

Susan J.Hawkins, Chủ tịch viện nghiên cứu tâm linh do Tiến sĩ David R.Hawkins thành lập.

PHẦN MỞ ĐẦU

Vài tháng trước khi Tiến sĩ Hawkins qua đời, tôi có dịp ngồi với ông ấy tại nhà riêng và chỉ vào hàng sách dài trên giá sách, đó
đều là những quyển ông ấy viết. “Ông có cảm giác như thế nào khi viết tất cả những quyển sách đó?” Ông ấy đáp, “Tôi không
xem chúng là của tôi, tôi không tự mình viết nó. Chúa Trời tìm kiếm những tâm trí không suy nghĩ. Và tôi chỉ là một kênh dẫn,
một không gian rỗng. Người ta thấy một cơ thể, một con người, và họ nghĩ rằng người đó viết sách. Nhưng không phải vậy.
Cũng như một cây vĩ cầm, nó không thể tự phát ra âm thanh, phải có người chơi nhạc.” Một sự im lặng kéo dài. Và rồi ông ấy
lại nói, cười khúc khích, “Tôi đã ngừng suy nghĩ từ nhiều năm trước. Tôi không cần suy nghĩ nữa, việc đó như có ai đang cưa
gỗ trong đầu tôi, rất ồn ào!”1

Tiến sĩ David R.Hawkins là sự kết hợp hiếm có giữa thiên tài và sự khiêm tốn. Ông có một cuộc sống thật bất thường. Ý tôi là,
ai mà tưởng tượng ra nổi một người có tâm trí trống rỗng, không hề có chút suy nghĩ gì. “điên khôn,” ông ấy thích tự gọi mình
như thế, với một tiếng cười sảng khoái. Đó là một cách chơi chữ. Chúng tôi đang nói về những điều thần bí, và ông ấy nói, “Đúng
thế, đó là những gì mà mọi người nói về tôi- một trong những người ‘điên khôn’!”2

Các chi tiết về cuộc sống cá nhân không còn quan trọng đối với ông sau khi ông trải qua một số trải nghiệm về tâm linh, nó đã
dập tắt cái tôi của ông ấy. “Hiện Tại tự nó đã là tất cả trong thời điểm này,” ông ấy đã nói như vậy để bắt đầu bài giảng kéo dài
suốt ngày hôm ấy tại Viện Khoa Học Tinh Thần vào năm 2003. Thật thế, ông ấy hiếm khi sử dụng đại từ nhân xưng, một phong
cách khiến các bài viết của ông trở nên khác biệt trong thời hiện đại, nhưng lại rất giống với sự thể hiện của những nhà thần bí
trong lịch sử. Vì đọc giả ngày nay đều muốn biết tác giả là ai, và điều gì đã dẫn đến những khám phá độc đáo trong một quyển
sách như thế, nên sau đây là phần tường thuật ngắn gọn về tác giả và thương hiệu Sơ Đồ Ý Thức ® của ông.

Về Tiến sĩ Hawkins

Tiến sĩ Hawkins sinh năm 1927 tại Wisconsin và lớn lên trong thời kỳ Đại suy thoái. Về mặt tôn giáo, gia đình ông theo đạo
Episcopalian, ông ấy phục vụ như một cậu bé lo phần thờ phượng trong nhà thờ và tham gia vào dàn hợp xướng. Tuy nhiên,
những trải nghiệm tâm linh sâu sắc của ông lại không có liên quan đến bất cứ bối cảnh nào dính líu đến tôn giáo.

10
Năm lên ba tuổi, khi ngồi trên một chiếc xe ngựa nhỏ, ông đã có một nhận thức tuyệt vời về sự tồn tại. Hồi tưởng lại khoảnh
khắc thơ ấu đó, ông ấy nói với chúng tôi, “Cứ như thể bóng tối đang bao trùm hoàn toàn không gian, không có bất cứ một ký ức
nào cả, và rồi đột nhiên những chiếc đèn khổng lồ bật sáng. Tôi thấy mình trở lại trong một cơ thể, và tôi không vui!” Ông ấy giải
thích rằng trong những kiếp trước, ông là một Phật tử sùng đạo dòng Tiểu thừa và đi theo con đường phủ định Hư không (hư
vô), tin rằng đó là mục tiêu tâm linh tối thượng. Nhưng không phải vậy, nếu không thì ông ấy đã không quay lại đây trong một
thân xác khác. Ngay lập tức, với nhận thức về sự tồn tại, xuất hiện một nỗi sợ hãi về không tồn tại. Đó là cuộc đối đầu bằng
ngôn ngữ trong nghịch lý của Hư Vô và Tất cả, một cánh cổng tâm linh cao cấp (“một câu hỏi hóc búa” là một từ khác mà ông
đã dùng để mô tả cuộc đối đầu với những điều dường như có tính đối lập nhau) mà ông đã không giải quyết được cho đến nhiều
thập kỷ sau đó, và lời dạy của ông về Hư không là một trong những đóng góp quan trọng nhất cho những người khao khát tâm
linh. (Xem chương 8.)

“Với một thời thơ ấu như thế, cuộc sống khác lạ của tôi đã bắt đầu!” Ông thường bông đùa về cuộc đời của mình như thế. “Thành
thật mà nói, chơi với những đứa trẻ khác có vẻ nhàm chán, vì thế tôi ngấu nghiến hết Plato đến Socrates. Trong khi các cậu bé
khác chơi bi lắc, tôi đã đọc Aristotle và nghe Opera hàng tuần!”3 Đến năm mười hai tuổi, lượng báo mà ông ấy sở hữu có thể
xếp lên đến 17 dặm, dài nhất vùng; đó là nơi không có điện ở đường cao tốc, mọi thứ tối đen như mực. Một lần, một cơn bão
mùa đông ập đến, thổi tạt chiếc xe đạp của ông ấy và làm đống báo bay tung toé. Như những gì ông mô tả trong chương 8, ông
ấy đã đấm vào đống tuyết bên đường cho đỡ lạnh, chẳng mấy chốc ông bị đám tuyết lấp dần, và sau đó ông đã tan vào Tình
Yêu Vô Hạn của Hiện Tại. Trải nghiệm ấy khó quên đến nỗi tận 70 năm sau, khi được đề nghị miêu tả lại cảm giác tình yêu vô
hạn đó, ông ấy vẫn hồi tưởng lại một cách sống động mới nguyên như hôm qua, “Tất cả cảm xúc tiêu cực, sợ hãi, thiếu kiên
nhẫn, thất vọng đều biến mất. Thay vào đó chỉ có sự rực rỡ của Tình Yêu Vô Hạn, vô tận, vĩnh cửu và bao trùm tất cả. Hiện thực
của ngày hôm đó và của tôi ngay giờ đây không chút khác biệt.”4 Nếu so với Tình Yêu Vô Hạn này, “Chúa Trời” của tôn giáo
bây giờ có vẻ không liên quan lắm đến David năm ấy. Ở tuổi 16, niềm tin tôn giáo của ông ấy hoàn toàn biến mất. Một ngày nọ,
khi đang đi dạo trong rừng, ý thức về sự đau khổ của con người qua nhiều thời đại bỗng làm cho ông ấy thấy choáng ngợp, như
một đám mây đen mù mịt khổng lồ. Khoảnh khắc ấy, ông đổ lỗi cho Chúa Trời về tất cả những đau khổ trên thế gian và trở thành
một người vô thần.

Tuy nhiên, bất chấp sự sụp đổ niềm tin vào Chúa Trời, ông ấy vẫn có một động lực không ngừng bên trong để đi đến chân lý
của sự tồn tại, “Có một sự cốt lõi bên trong ý thức đang khao khát một sự thật lớn hơn nào đó.” 5 Sinh ra với chỉ số IQ đặc biệt
cao, ông dễ dàng làm chủ thế giới khoa học, thần học, y học và tâm thần học. Sau khi phục vụ trên tàu dò mìn của Hải Quân
Hoa Kỳ trong chiến tranh thế giới thứ hai, ông đã tốt nghiệp trường Y trong khi làm cùng lúc ba công việc và nhanh chóng trở
thành Bác sĩ Trưởng Khoa tâm thần trong một bệnh viện lớn ở New York, đồng thời viết rất nhiều bài báo khoa học dựa trên
những nghiên cứu lâm sàng của ông. Ông đã trải qua nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực phân tâm học và là một trong những
người hàng đầu theo trường phái của Freud lúc bấy giờ. Ông là một thiền giả chuyên tâm theo đạo Phật, dành ra một giờ vào
buổi sáng và một giờ vào mỗi tối để thiền. Tuy thế, tất cả những cuộc đào sâu này chỉ mang lại sự tuyệt vọng sâu sắc hơn. Mặc
dù đã đạt đến đỉnh cao thành công trên thế giới, nhưng ông vẫn phải đối mặt với một bóng tối khổng lồ trong nội tâm không lối
thoát.

Cuộc khủng hoảng lên đến đỉnh điểm vào năm 1965, khi ông 38 tuổi và chuẩn bị đối mặt với cái chết vì khối u. Tất cả những nỗ
lực theo đuổi sự thật về tồn tại thông qua trí tuệ của ông ấy đã thất bại, ông cực kỳ đau khổ và tuyệt vọng. Thời khắc trước khi
chết, một ý nghĩ vụt qua trong đầu ông ấy, “nếu thật sự có Chúa Trời, thì sẽ như thế nào?” Và ông ấy đã lên tiếng cầu nguyện,
“Nếu thật sự có Chúa Trời, hãy giúp tôi”- và ông ấy đã hoàn toàn đầu hàng, “có Chúa Trời hay không cũng được,” ông không
còn mong đợi gì nhiều. Ngay tức khắc, ông ấy chìm vào “sự quên lãng”. Ông đã dùng 30 năm để tường thuật lại trải nghiệm ngỡ
ngàng trần thế ấy . “Sự lãng quên đột ngột biến mất, thay vào đó là vẻ đẹp lộng lẫy của ánh sáng thiêng liêng, một loại hào
quang và là bản chất của Tất Cả.6 Ý thức của ông ấy đã bị biến đổi hoàn toàn và đột ngột. Tâm thức và những khuôn mẫu tinh
thần của nó đã vĩnh viễn biến mất, thay vào đó là Hiện Tại, “một nhận thức vô hạn, bao trùm tất cả, rạng rỡ, hoàn chỉnh, toàn
bộ, im lặng và tĩnh tại.”7 Một sự tĩnh lặng nội tâm chiếm ưu thế, như thể không còn hình ảnh, khái niệm hay bất cứ sự suy nghĩ
nào. Thực ra, không còn “ai”khác ở đó để phải nghĩ nữa, tất cả sự tách biệt giữa ông ấy và những chúng sinh khác đều tan biến,
ông chỉ nhìn thấy cùng một sự hoàn hảo, đẹp đẽ, vượt thời gian trong tất cả những người ở xung quanh ông: “Nét rạng rỡ toả
ra từ khuôn mặt của mọi người, ai ai cũng đẹp như nhau.”8 Trong trạng thái vô- nhị nguyên này, mỗi chúng sinh nhận thức được
nhau, và vạn vật được kết nối với nhau, giao tiếp và hoà hợp bằng phương tiện nhận thức và bằng cách chia sẻ phẩm chất cơ
bản trong bản chất tồn tại của chính nó.”9 Không gì tốt hơn hay tệ hơn, cao hơn hay thấp hơn. “Mọi vật về bản chất đều thánh
thiện trong sự sáng tạo thần tính .”10 Trong quyển Power vs.Force, Tiến sĩ Hawkins nói rằng, công việc về sơ đồ ý thức bắt đầu
vào năm 1965, theo đó, ông đang đề cập đến sự biến đổi ý thức của chính mình. Ông ấy có thể là người đầu tiên được đào tạo
thành một nhà khoa học, bác sĩ lâm sàng để trải qua quá trình chuyển đổi được gọi là “Khai sáng” hoặc “Người truyền tin của
Đấng Thiêng Liêng (unio mystical)”- để từ đó ông có thể bối cảnh hoá những điều kiện trong các bài giảng và sách. Nhiều người
trong chúng ta có thể có những khoảnh khắc “tuôn trào” thoáng qua, sự vui sướng mãnh liệt hoặc tự vượt qua trong những trải
nghiệm đỉnh cao cụ thể, như sinh con, đạt kỳ tích trong thể thao, biểu diễn trên sân khấu, những công việc sáng tạo, leo núi, làm

11
tình, v.vv..) hoặc thậm chí là những biến đổi tinh thần làm thay đổi cuộc sống ( ví dụ như trải nghiệm cận tử, hoặc có những tầm
nhìn tuyệt đẹp), nhưng nếu là dạng ý thức của một người bị biến đổi đột ngột và vĩnh viễn sang trạng thái không tồn tại là cực
kỳ hiếm. Trong lịch sử, những trường hợp như vậy hoặc là rời khỏi cơ thể (chết) hoặc ở trong trạng thái “sốc”, nên không thể kể
hoặc nói lại về trạng thái bản ngã tan biến, một khi mọi ý thức về cái tôi cá nhân tiêu tan, nó giống như việc đường hoà tan vào
nước nóng. Như William James đã nói với chúng ta trong tác phẩm kinh điển The Varieties of Religiuos Experience, trải nghiệm
thần bí là “không gì có thể sánh được”- không thể mô tả.11

Sau sự thay đổi ý thức này, cuộc sống của Tiến sĩ Hawkins không bao giờ còn giống như trước nữa và phải mất nhiều năm để
điều chỉnh với những thay đổi. Hệ thống thần kinh cảm thấy căng thẳng, giống như “dây điện cao áp đang đốt cháy năng lượng.”
Trong các tương tác xã hội, ông cảm thấy hoang mang khi mọi người gọi cơ thể này của ông là “David”, bởi ông biết mình ở
khắp mọi nơi và với mọi thứ: “Khi ai đó hỏi tôi một câu hỏi, tôi tự nghĩ họ đang nói chuyện với ai thế nhỉ?” Khi ông nhìn vào mắt
người khác, ông chỉ nhìn thấy “cái Tôi Hợp Nhất… Không có bất kỳ sự phân biệt nào giữa bạn ở đó, và tôi ở đây.”12 Cảm giác
an lạc và hoàn thiện bản thân khiến sự quan tâm dành cho những hoạt động bình thường trở nên khó khăn. Các động lực cũ về
thu nhập và thành công không còn phù hợp. Ông nói, động lực duy nhất đủ mạnh để kéo ông trở lại với thể xác và thế giới của
hình thức là tình yêu: “Tình yêu trở thành động lực duy nhất cho sự liên tục trong kiểu tồn tại vật chất.”

Mỗi lần như vậy vô cùng khó khăn để vào lại một cơ thể…Bạn cảm thấy nhớ nhà…giống như một người đồng ý đi xa để thực
hiện một số nhiệm vụ họ đã cam kết. Bất cứ khi nào tôi về lại trạng thái đó, nó cũng không có hình thức. Chỉ như kiểu tôi tan vào
dạng tình yêu vô hạn quý báu. Nó tinh tế đến mức khiến người ta mỗi lần quay lại với thân xác, họ chỉ muốn khóc thét. Lý do
duy nhất mà bạn có thể rời bỏ nó là vì bạn biết nó ở đó mãi mãi, và bạn cũng có thể trở lại mãi mãi.13

Một lần, ông ấy kể với tôi, ông ấy ở một mình trong rừng và ngất ngây trong trạng thái hạnh phúc. Ông ý thức được những con
kền kền đang lượn xung quanh ông ấy, sẵn sàng lao xuống ngay khi hơi thở cuối cùng rời khỏi cơ thể của ông ấy. Nhưng ông
ấy nhận ra rằng ông ấy cũng có thể ở lại cơ thể này nếu nó giúp ích được cho người khác, bởi hạnh phúc luôn có mặt, và nó là
mãi mãi. Ông đã giao phó hoàn toàn cơ thể này để nó trở thành một công cụ phục vụ cho thế giới, cho phép nó được kích hoạt
trở lại. Ngay sau khi điều này xảy ra, lũ kền kền đã bay đi.

Khi dần thích nghi với trạng thái ý thức mới, ông quay trở lại làm việc ở phòng khám của mình, sau này trở thành cơ sở khám
tâm thần lớn nhất nước Mỹ. Trạng thái tinh thần được mở rộng đã giúp ông có cái nhìn vượt khỏi những giới hạn của các
phương pháp điều trị thông thường dành cho nội tâm của các bệnh nhân. Ông không thể cưỡng lại việc thử mọi phương pháp
điều trị cho những bệnh nhân của ông, dù cho những người đồng nghiệp “bình thường hơn” có nói ra nói vào như thế nào. Vì
khả năng chữa bệnh đáng kể dành cho những bệnh nhân vô vọng, bác sĩ Hawkins đã xuất hiện trên các chương trình truyền
hình lớn vào những năm 1970 và 1980. Công việc tiên phong của ông trong sứ mệnh cứu chữa những con người đau khổ đã
có được sự công nhận của cả trong nước lẫn quốc tế, được liệt kê trong phần giới thiệu tác giả ở cuối quyển sách.

Dù thành công là thế, nỗ lực “khám chữa cho từng bệnh nhân một” trong tư cách là một bác sĩ đối với ông ấy như giọt nước làm
tràn ly: “Có một sự thất vọng rất lớn ở chỗ, nỗi đau của nhân loại chỉ có thể giải quyết cho từng người tại từng thời điểm. Giống
như tát nước biển Đông.”14 Ông tận tâm muốn tìm kiếm một phương tiện giúp xoay chuyển nội tâm cho nhiều người. Ở đây
chúng ta nghĩ đến Đức Phật, sau khi thức tỉnh, Ngài đã đặt ra Bát Chánh Đạo. Hoặc Bill Wilson, người đã thoát khỏi chứng
nghiện rượu chết chóc và vô vọng của mình sau khi được đắm mình trong ánh sáng, và đã phát triển nguyên tắc Mười Hai Bước
Để Phục Hồi.

Khi bác sĩ Hawkins thăm dò quá trình chữa bệnh của các bệnh nhân trong bệnh viện, ông nhận thấy những gì ông đang làm và
thuốc men không giúp ích được gì, mà có vẻ liên quan đến ý thức bên trong, một phương pháp từ sự lan toả yêu thương. Ông
nhận ra một số bệnh nhân của một số bác sĩ có xu hướng cải thiện, nhưng số khác thì trầm trọng hơn hoặc giữ nguyên tình
trạng- ngay cả khi họ có cùng phác đồ điều trị.

Trong bài giảng Landberg của ông hàng năm tại Đại học California, Trung Tâm Khoa Học Y Tế San Francisco (UCFS), ngày 25
tháng 4 năm 1997, ông đã hồi tưởng lại những quan sát từ thời gian thực hành lâm sàng của ông ở New York khi các bác sĩ kê
đơn vi-ta-min cho những bệnh nhân tâm thần phân liệt: “Có một số tác dụng phụ mà bệnh nhân của những bác sĩ đó phải chịu
từ ý thức của bác sĩ hơn là từ thuốc.”15 Lấy ví dụ, các bệnh nhân của một bác sĩ ở New Jersey đã có biểu hiện đổi màu da sau

12
khi được kê đơn cho uống vi-ta-min B3. Mặc khác, có một số bệnh nhân lại không gặp những tác dụng phụ này và trên thực tế,
họ còn đáp ứng tốt với việc điều trị. Vậy bí quyết thành công của những bác sĩ đó là gì? Ông ta thấy rằng, hiệu quả chữa bệnh
liên quan đến mức độ ý thức của họ. Mức độ ý thức của bác sĩ càng cao, bệnh nhân càng có nhiều khả năng được chữa khỏi.
Điều này đặc biệt dễ hiểu đối với những người hướng về tinh thần. Nhưng làm cách nào để trình bày nó trước một xã hội với
đầy những tư duy tuyến tính và sự hợp lý? Làm thế nào để chứng minh rằng ý thức bên trong quyết định kết quả chứ không
phải các hành động bên ngoài?

Khám phá nội tâm bên trong

Ông tự chỉ vào mình và cười, “Đây luôn là một kẻ lạc loài và là một thực thể đặc biệt trên hành tinh này! Với một sự đột ngột
không hề được báo trước, mức độ ý thức tăng lên, còn tôi thì choáng váng đến mức không còn khả năng hoạt động. Đó là lý do
tại sao tôi đã rời khỏi bệnh viện tâm thần New York. Chỉ cần đi khỏi là xong. Bởi sự im lặng sâu sắc bên trong đó không thể chia
sẻ với bất kỳ ai. Thế rồi bạn chất những đồ đạc yêu thích của mình vào một chiếc xe tải cũ và lái đến một thị trấn nhỏ ở Arizona.
Bạn có một cái võng, một miếng pho mát, một cây nến và một con mèo- gì nữa không? Mọi người đều nghĩ bạn mất trí. Cho
nên, dù cho bạn bè của bạn nghĩ rằng bạn bị điên, biết đâu bạn lại đang ở trong một điều kiện tốt thì sao.”16

Ông ấy đã rời bỏ công việc thực hành lâm sàng đồ sộ và cuộc sống triệu đô ở New York để chuyển tới Sedona, một thị trấn nhỏ
ở Arizona. Trong nhiều năm, ông sống như một ẩn sĩ, tách biệt với thế giới. Thời kỳ này quan trọng ở chỗ nó cung cấp cho ông
ấy không gian để khám phá bản chất của ý thức từ trong ra ngoài. Từ những nhận thức chủ quan này đã xuất hiện những khám
phá nền tảng cho Sơ Đồ ý thức và tác phẩm tiếp theo của ông, được gọi là Sơ Đồ tâm huyết. Như ông ấy viết trong Power vs.
Force, “Mặc dù những sự thật được báo cáo trong quyển sách này có nguồn gốc khoa học và được nhìn nhận khách quan từ
các tổ chức, hiệp hội; song, giống như tất cả những sự thật khác, chúng lần đầu tiên là được trải nghiệm một cách cá nhân.”17

Điều này không phải cũng đúng với tất cả những người thầy vĩ đại và những người tiên phong về ý thức khác sao? Trong lịch
sử gần đây, chúng ta liên tưởng đến bác sĩ tâm thần nổi tiếng người Thuỵ Sĩ, C.G.Jung, người sau khi tách ra khỏi Sigmund
Freud đã dành nhiều năm tách biệt khỏi thế giới, đi khám phá chiều sâu nội tâm của mình, để từ đó tạo ra tác phẩm ban tặng
cho thế giới, với kiến thức về “bóng tối”, “nguyên mẫu”, “vô thức tập thể”, “phức cảm”, (ví dụ như tự ti) và giải thích giấc mơ. Ông
ấy nói rằng công việc cả đời của ông ấy bắt nguồn từ những năm đào xới nội tâm.

Tiến sĩ Hawkins, trong những năm ẩn dật, thường ở trong trạng thái vô hồn,thậm chí quên mất rằng ông có một cơ thể. Ông kể
một câu chuyện, ông đã bị sốc khi thấy linh hồn của ông đang đi tự do khắp nhà, đi xuyên qua các bức tường, và sau đó đột
nhiên ông thấy cơ thể của ông đập vào tường! Một lần khác, ông thoáng nhìn thấy “ai đó” trong gương, ông ngạc nhiên khi nghĩ
rằng có người khác ở trong nhà, nhưng sau đó ông nhận ra đó chính là mình! Mục tiêu của ông khi khám phá các trạng thái ý
thức là để tinh chỉnh các cơ chế chữa bệnh bên trong chính ý thức, nhằm “hoàn thiện” bản thân như một công cụ. Ví dụ, ông
phát hiện ra rằng cơ thể có xu hướng tuân theo tâm trí, và ông ấy có thể chữa khỏi nhiều bệnh hiểm nghèo cho cơ thể mình
thông qua phương pháp ý thức được mô tả trong chương 4. Ông ấy đã viết một bức thư cho một người bạn nổi tiếng và là đồng
tác giả trong những công trình khoa học, nhà hoá học, nhà kiến tạo hoà bình từng đoạt giải Nobel, Linus Pauling, người đã rất
hào hứng về những khám phá “ý thức não phải” và “khả năng chữa khỏi 15 căn bệnh khác nhau.”18

Tiến sĩ Hawkins bị thôi thúc bởi câu hỏi: Mối liên hệ còn thiếu giữa cơ thể và tâm trí, cái nhìn thấy và cái không nhìn thấy là gì?

Vỡ ra

Khám phá quan trọng được đưa ra vào những năm 1970, khi ông chứng kiến bác sĩ tâm thần John Diamond chứng minh động
năng học hành vi- tức là sử dụng phản ứng kiểm tra cơ để đánh giá những tác động khác nhau của các kích thích tích cực và
tiêu cực lên cơ thể. Trong một phương pháp được sử dụng rộng rãi, bệnh nhân đưa một cánh tay ngang ra, bác sĩ sẽ ấn nhẹ cổ
tay xuống. Cánh tay của bệnh nhân (cơ Delta) không nhúc nhích khi có tác động của sự thật và những điều tích cực, nhưng
cánh tay đó ngay lập tức rơi xuống khi có sự không trung thực và những kích thích tiêu cực. Ví dụ, trong nghiên cứu của Tiến sĩ
Diamond, nụ cười khiến mọi người trở nên mạnh mẽ, âm nhạc cổ điển và những lời nói trung thực cũng có khả năng tương tự,
nghĩa là, cơ Delta lúc ấy vẫn khoẻ mạnh và vẫn giữ được cánh tay nằm ngang. Với những kích thích tiêu cực, chẳng hạn như

13
“tôi ghét bạn,” hoặc các đoạn ghi âm về việc các chính trị gia thực hiện những hành vi lừa dối, sẽ khiến người thử nghiệm trở
nên yếu ớt, cơ Delta của họ ngay lập tức yếu đi, và cánh tay bị rớt xuống. Tiến sĩ Diamond kết luận, “Cơ thể không nói dối.”

Không giống như các bác sĩ khác xem phương pháp kinesiology (băng dán giảm đau không dùng thuốc) là một dạng của phương
pháp dân gian, bác sĩ Hawkins lại nhìn nhận nó qua lăng kính của ý thức mở rộng của ông, đó là phương pháp chữa trị liên kết
với ý thức. “Sơ đồ ý thức ra đời bởi vì tôi đang chứng kiến một lớp học về kinesiology và lời giải thích được đưa ra cho phản
ứng kinesiology là một trong những mối tương quan có tính nhân quả cục bộ. Thông qua những trải nghiệm bên trong của chính
mình, tôi đã quan sát bên ngoài quan hệ nhân quả cục bộ để có một lời giải thích cho các hiện tượng, và tôi thấy đó là phản ứng
của ý thức, nó phi địa phương và phi cá nhân.”19

Tiến sĩ Hawkins gọi “cơ sở dữ liệu của ý thức” là nguồn cung cấp kiến thức vượt thời gian và nơi chốn. Jung thì gọi nó là “vô
thức tập thể.” Ai mà chưa từng trải qua việc đột nhiên truy cập vào cơ sở dữ liệu này thông qua trực giác, sự đồng bộ, giấc mơ
và những điềm báo cơ chứ? Rõ ràng là có một kho kiến thức được chia sẻ, một phần ý thức được kết nối với nhau trong chúng
ta, nó khác với những thông tin mà chúng ta thu thập được qua nghiên cứu trí tuệ, qua học thuật. Tại sao một con chó biết được
chủ của nó tan sở? Đoạn ghi hình cho thấy con chó đi đến cửa ngay chính xác thời điểm người chủ của nó bắt đầu từ chỗ làm
về nhà, cách đó hàng dặm. Để đưa ra một ví dụ về kinh nghiệm gần đây: làm cách nào mà một người ông quá cố lại xuất hiện
trong giấc mơ của một người để thông báo một thành viên trong gia đình bị ung thư vòm họng, và sau đó hoá ra nó là thật, một
trường hợp chính xác về vị trí bệnh, giai đoạn tiến triển bệnh và cả mối quan hệ trong đó?

Tiến sĩ Hawkins ngay lập tức thấy rằng kinesiology là một cơ chế để truy cập vào cơ sở dữ liệu ý thức vô hình này, “nó tiết lộ
mối liên kết và là cầu nối còn thiếu giữa tâm trí và cơ thể,” nó là giao diện giữa chiều kích nhìn thấy được của thế giới vật chất
và chiều không gian không nhìn thấy được (nhưng rất thực) của tâm trí và tinh thần, trong đó cơ thể con người đóng vai trò là
công cụ phát hiện những sự thật này. Điều này hoạt động theo cách thức nào? Các chất nguyên sinh (trong huyết tương, huyết
thanh- lời người dịch) có khả năng phân biệt các yếu tố kích thích khẳng định sự sống và những yếu tố đe doạ tính mạng, đó là
cơ chế sinh tồn. Cơ thể sẽ hướng tới mạnh mẽ những thứ hỗ trợ sự sống (sự thật) và quay lưng lại với thứ phủ định sự sống
(không phải sự thật). Phản ứng cơ là một phản ứng không tự nguyện, không được xác định bởi niềm tin hoặc thành kiến của
một người.

Ví dụ, khi ý thức của chúng ta tập trung vào một chủ đề lành tính như Mẹ Teresa, đồng tử của chúng ta co lại, các cơ sẽ ngay
lập tức hoạt động mạnh mẽ trong trạng thái vô ý, chúng ta không kiểm soát được điều này, cũng như cảm giác cá nhân của
chúng ta về Mẹ Teresa không quan trọng. Một trong những đồng nghiệp của Tiến sĩ Hawkins, Tiến sĩ David McClelland đã thực
hiện một nghiên cứu hấp dẫn với các sinh viên y khoa của ông tại Harvard, chứng minh rằng ngay cả những người chế nhạo
Teresa cũng cho thấy có phản ứng sinh lý tăng cường miễn dịch, thậm chí là khi được cho xem thước phim về công việc hàng
ngày của bà ấy trong sự đói khổ. 20

Tiến sĩ Hawkins phát hiện ra rằng “mọi thứ trên thế giới, bao gồm suy nghĩ, khái niệm, chất và hình ảnh đều đưa ra một phản
ứng có thể được chứng minh là tích cực hoặc tiêu cực…Tất cả những gì đã từng xảy ra đều phát ra tần số và rung động như
dấu ấn vĩnh viễn trong trường vô ngã của ý thức và có thể được lấy lại bằng thử nghiệm thông qua chính ý thức.”21

Nhận thấy rằng sự đau khổ của thế giới bắt nguồn từ sự thiếu hiểu biết, do thiếu phương tiện để phân biệt sự thật và giả dối,
ông đã dồn hết tâm sức vào việc nghiên cứu ra một phương pháp động học lâm sàng và dùng nó để làm công cụ soi rọi sự thật.
Ông đã tiến hành quy trình kiểm tra cơ bắp trên hàng nghìn đối tượng, theo cá nhân và cả theo nhóm, trong mọi lứa tuổi và hoàn
cảnh. Các kết quả đều cho ra giống nhau. Một trong những thử nghiệm yêu thích trong các bài giảng của ông là trong 1000
người, sẽ phát 500 túi không dán nhãn có chứa chất làm ngọt nhân tạo, và 500 túi còn lại chứa vitamin C hữu cơ. Khoảnh khắc
chớp nhoáng khi mọi người cùng mở chiếc túi của họ ra, những người có vitamin C sẽ có phản ứng mạnh mẽ và những người
có chất làm ngọt nhân tạo phản ứng yếu ớt hơn.

Đó là một trải nghiệm thực tế từ một phương pháp hữu dụng. Bởi thử nghiệm là một cách phi tuyến tính có thể lướt qua tâm trí,
với một người bình thường, khi đứng ngoài chứng kiến, họ sẽ có chút nghi hoặc. Nhưng một khi họ trở thành đối tượng thử
nghiệm, cánh tay của họ sẽ yếu nếu họ giữ một phong bì bên trong có hình Hitler, và cánh tay của họ mạnh khoẻ khi họ giữ một
phong bì có hình Teresa, và thử nghiệm cứ thế tiếp tục được thực hiện với nhiều mặt hàng khác nhau bên trong chiếc túi đóng
kín, người thử nghiệm cũng có phản ứng tương đương ngay cả khi họ không hiểu về cơ chế của nó. Thật thế, có rất nhiều thứ
chúng ta sử dụng hàng ngày với niềm tin về sự hiệu quả mà nó mang lại, mà không cần có chút hiểu biết nào; chẳng hạn, ai

14
trong chúng ta cũng hoàn toàn biết về cách internet hoạt động, nhưng sao chúng ta lại không dựa vào nó như một nguồn hướng
dẫn?

Tiến sĩ Hawkins nhận thấy ông có thể dùng phương pháp này để hiệu chỉnh mức độ ý thức, như ông mô tả trong chương 1. Do
đó, ông đã trao cho chúng ta một “sơ đồ” thể hiện toàn bộ địa hình trải nghiệm của con người. Thông qua nhiều nỗ lực, với tư
cách là một bác sĩ tâm thần, bác sĩ lâm sàng, nhà nghiên cứu ý thức, người yêu động vật và giáo viên tâm linh, mục tiêu của
Tiến sĩ Hawkins luôn là giảm bớt khổ đau. Khi được yêu cầu xác định “chức năng của mình trên thế giới,” ông ấy trả lời, “Tôi trở
thành thế giới để có thể giải thích nó càng rõ ràng càng tốt nhằm tạo điều kiện cho nhận thức về tâm linh, từ đó góp phần giảm
thiểu đau khổ cho con người.”22 Sơ đồ ý thức nổi bật như một công cụ giảng dạy chính để hỗ trợ cho phần nhận thức về tâm
linh và từ đó giải thoát bớt phần nào sự đau khổ.

Ông nói, mục đích của công việc là để thấu hiểu trải nghiệm biến đổi đột ngột của ông, một cách gọi cổ điển là Giác Ngộ, sau
đó tích hợp nó vào trong những khám phá khoa học và biến thành một định dạng có thể hiểu được dành cho những độc giả não
trái phương Tây. “Đó là hiện thực thần bí đối với não trái.”23

Tóm lại, sơ đồ ý thức trình bày toàn bộ phạm vi của ý thức từ các cấp độ “bên dưới” của Xấu hổ, Tội lỗi, Thờ ơ, Đau buồn, Sợ
hãi, Ham muốn, Giận dữ, Kiêu hãnh (các cấp độ bị chi phối bởi tính toàn vẹn cá nhân), đến các cấp độ trung bình của Can đảm,
Sẵn lòng, Chấp nhận, Lý trí (các cấp độ bị chi phối bởi tính chính trực cá nhân), đến những cấp độ mở rộng hơn của Tình yêu,
Tình yêu vô điều kiện/ An lạc/ Chữa lành, Cực lạc, Hoà bình và Giác ngộ. Các trường năng lượng “bên trên” này là những tầng
sóng mang năng lượng sống vô cùng lớn. Họ trở nên không có những mục tiêu cá nhân, đó là lãnh địa của những vị thánh,
những nhà thần bí, các vị la hán và những hình tướng được thờ phụng. Lưu ý, “bên trên” và “bên dưới” là các thuật ngữ thuận
tiện cho suy nghĩ tuyến tính chứ không thể hiện cho hiện thực thực tế. Mà thật ra, không có cái gọi là cao hơn hay thấp hơn, ở
trên hay ở dưới, vì tất cả sự sống đều phục vụ toàn bộ bằng đặc tính của bản thân nó. Cây cao tốt hơn hay cây thấp tốt hơn?
Con mèo có ích hay con sóc có ích? Như Tiến sĩ Hawkins viết, “Vạn vật đều tiết lộ điều kỳ diệu của sự tồn tại và do đó tất cả
chúng sinh đều bình đẳng, không có sự ngoại lệ nào.”24

Kết hôn với Susan và chia sẻ Sơ đồ với Thế giới

Khi Tiến sĩ Hawkins phát triển xong Sơ đồ ý thức, ông không chắc phải làm gì với nó. Mới đầu, ông chia sẻ nó tại địa phương
với các cộng đồng cai nghiện. (Ở New York, ông ấy từng là bạn thân với Bill Wilson, người đồng sáng lập Những Người Nghiện
Rượu Giấu Tên.) Mặt khác, ông cũng có chút do dự khi thảo luận về nó, vì ông tin rằng bất cứ ai cũng có thể sử dụng phương
pháp kiểm tra cơ bắp để tìm ra, nói ra sự thật về bất cứ điều gì, và sẽ ra sao nếu sau cùng nó dẫn đến một ý định bất chính?
(Sau khi nghiên cứu sâu hơn trong nhiều năm, ông phát hiện ra rằng chỉ một người có tính chính trực mới được phép tiếp cận
sự thật. Xem phụ lục A để biết chi tiết về phương pháp.)

Lương duyên may mắn của ông và vợ, Susan J.Hawkins, đã giúp cho việc xuất bản các phát hiện của ông và chia sẻ về điều
kiện bên trong của ông thông qua các quyển sách và bài giảng. Ông thường nói, “Cô ấy là một điểm tựa, và tôi không bao giờ ở
trên sân khấu mà không có cô ấy.” Năng lực tổ chức của bà ấy, cùng với trực giác nhạy bén và biểu hiện chân thành, đã tạo
điều kiện thuận lợi cho việc giao tiếp kiến thức bên trong của ông ấy với thế giới bên ngoài. Tôi hỏi Susan cảm giác như thế nào
khi kết hôn và chia sẻ ông ấy cùng hàng nghìn người khác trên khắp thế giới, bà ấy nói: “Đơn giản là khi yêu ai đó, bạn sẽ ủng
hộ cho số phận của họ. Tôi yêu chồng tôi, điều đó có nghĩa là tôi phải chia sẻ anh ấy với thế giới.”25 Chủ yếu nhờ vào cam kết
và năng lực của bà mà chúng ta có được toàn bộ công việc của ông ấy. Bản thân tôi đã nhiều lần chứng kiến trong những lần
ngồi lại nhà của họ, sự động viên của bà ấy chính là nghị lực để ông viết một quyển sách khác, một bài giảng khác, chắp cánh
cho ông ấy bay ngày càng cao và xa hơn.

Theo thời gian, mọi người từ những nơi xa xôi đến để tham dự những bài giảng của ông ấy, có mặt cùng thực tại với ông ấy, họ
nói rằng hào quang của ông ấy có tác dụng xúc tác, chữa lành cho họ. Ông luôn nhấn mạnh những gì mà người khác chứng
kiến ở ông cũng chính là con người thật của họ được phản chiếu lại qua ông. “Cái ngã của giáo viên và học sinh là một.” Mọi
người ở mọi lứa tuổi, mọi tầng lớp xã hội, đến từ mọi châu lục. Bản chất và chân tính thật sự của mọi người đều được hoan
nghênh. Như cách một người miêu tả, “Sau một đời tìm kiếm, cuối cùng linh hồn của tôi cũng có cảm giác như đang ở nhà.”
Trong kinh nghiệm của tôi, đó có nghĩa là, sự hiện diện của ông ấy làm họ cảm thấy như “vịt con xấu xí cuối cùng cũng được
nhìn như chú thiên nga xinh đẹp.” Và sự phản chiếu tâm hồn này tạo nên sự khác biệt trong cuộc sống của một người- nhận ra
sự thật, rằng chúng ta là gì.

15
Ông nói, những gì ông chia sẻ không khác với những nguyên tắc cốt lõi của các tôn giáo lớn trên thế giới- đó là tình yêu thương,
sự từ bi, sự khiêm tốn và lòng nhân ái vô điều kiện dành cho tất thảy chúng sinh. “Hãy trao cho cuộc sống món quà của bạn và
nâng đỡ nhân loại bằng sự tử tế, chu đáo, tha thứ và có lòng trắc ẩn mọi lúc, mọi nơi, trong mọi điều kiện, với mọi người cũng
như với chính mình. Đó là món quà lớn nhất mà bất cứ ai cũng có thể trao đi.”26

Năm 1995, công ty xuất bản của Hawkins, nhà xuất bản Veritas (Sedona, Arizona), đã in những bản sao đầu tiên của Power vs.
Force. Quyển sách đột phá lần đầu giới thiệu đến công chúng Sơ đồ ý thức và tạo ra một tác động sâu sắc. Sau cùng được Hay
House xuất bản qua hơn 25 ngôn ngữ và tiếp cận hơn một triệu người trên thế giới. Tôi tự xem mình là một trong số những
người mà số phận đã hoàn toàn biến đổi bởi quyển sách và Sơ đồ đó.

Hiện tại, toàn bộ công trình của ông bao gồm 16 quyển sách, hơn 100 bài giảng được ghi âm cùng vô số bài báo và phỏng vấn.
Tất cả những điều này xuất hiện trong phần cuối của cuộc đời ông, khi hầu hết mọi người đã tận hưởng thời gian nghỉ hưu và
trở nên “sống chậm.” Từ 68 đến 84 tuổi, ông đã đi nhiều nơi và làm việc không ngừng nghỉ cho đến phút cuối. Vào năm cuối
cùng trong cuộc đời mình, tôi đã làm việc cùng ông ấy để hoàn thành bản hiệu chỉnh chính thức của Power vs.Force (2012, tái
bản 2013) và Letting Go (2012) Có những hôm qua nhà làm việc cùng ông ấy. ông không được khoẻ nhưng vẫn ngồi uống một
vài tách espresso, kể một câu chuyện vui nhộn cho chúng tôi cười và khích lệ chúng tôi làm việc hàng giờ liền. Tôi đã chứng
kiến sự cam kết không ngừng nghỉ của ông ấy trong việc hoàn thành số phận của mình và giúp đỡ các đồng nghiệp.

Khi giảng dạy, tôi thường giao sách của ông ấy cho các sinh viên làm bài tập. Có một thực tế thú vị là, các sinh viên quan sát
thấy một điều có trong các quyển sách của ông ấy, mà các quyển sách khác không có, “Ông ấy diễn đạt chính xác những gì
chúng em biết là đúng, nhưng không biết phải nói như thế nào,” Tiến sĩ Hawkins, trong lời nói đầu của Power vs.Force, đã khẳng
định rằng, ông chỉ đơn thuần nói những gì chúng ta đã biết tự sâu bên trong, “Quyển sách này sẽ thành công nếu đọc đến cuối
cùng và bạn thốt lên, ‘Tôi luôn biết là vậy mà!’ Những gì nó hàm chứa ở đây chỉ là sự phản ánh của điều mà bạn đã biết, chỉ là
bạn không biết bạn đã biết mà thôi. Tất cả những gì tôi hy vọng làm ra là kết nối các dấu chấm để bức tranh được hiện ra.”

Ông ấy chưa bao giờ tuyên bố đã khám phá ra một bí mật hoặc khai quật được những mật mã đặc biệt bất khả tri, như kiểu “mở
khoá được chiếc hộp pandora” (như cách ông ấy thường đùa). Khi đọc đến chương 8, bạn sẽ thấy ông ấy chỉ nhắc nhở chúng
ta về “tính phổ biến” của sự thật rằng nó “đúng ở mọi lúc và mọi nơi, không phụ thuộc vào văn hoá, tính cách, hoặc hoàn cảnh,”
và ông ấy đưa cho chúng ta Sơ đồ để tìm ra nó. Ngoài ánh sáng mà nó mang lại cho con người ở những mục đích bình thường
như sức khoẻ, nghệ thuật, sinh kế, các mối quan hệ và chính trị. Sơ đồ còn cung cấp một trong những ranh giới hiện đại đầu
tiên ở các cấp độ cao nhất trong ý thức con người (tự nhận thức, Hư không, Hư vô so với Tất cả, Giác ngộ hoàn toàn) cũng như
các hiện tượng vi phân của chúng. Bài luận cuối quyển sách này chứng minh ý thức nâng cao của tác giả. Tiến sĩ Hawkins mô
tả các phân cấp của Khai sáng trong một mức độ rõ ràng cho thấy kinh nghiệm của ông để nhận ra những điều đó. Rốt cục,
chúng ta làm sao vẽ một sơ đồ ở những cảnh giới mà chúng ta chưa từng đạt đến cơ chứ?

Swami Chidatmananda, một sư thầy Ấn Độ rất được tôn kính đã nói với tôi rằng, sách của Hawkins về cơ bản chứa đựng cùng
một sự thật lâu đời như kinh Upanishad cổ đại (Vệ Đà), khác ở chỗ viết bằng ngôn ngữ hiện đại ngày nay. “Không có sự khác
biệt giữa những gì ông ấy đã trải qua và thảo luận, với những gì được nói bởi các nhà hiền triết và thánh nhân vĩ đại nhất của
Ấn Độ.”27

VỀ QUYỂN SÁCH

Trước qua qua đời năm 2012, tôi đã đề nghị Tiến sĩ Hawkins và Susan rà lại danh sách các dự án trong tương lai, xem có nên
thực hiện hay không. Trong danh sách đó là “một phần sơ lược” về công việc của ông ấy, và câu trả lời là có. Quyển sách mà
bạn đang cầm trên tay là chính là một trong những ý định của ngày hôm ấy. Đây là một quyển sách độc nhất vô nhị trong số
những tác phẩm của ông, bởi lẽ nó mang đến cho đọc giả cảm nhận về những lời nhắn nhủ của ông qua nhiều chủ đề: sự giải
thích về Sơ đồ ý thức, mối liên hệ của chúng ta với động vật, sự tiến hoá của ý thức, sự phát triển cá nhân, khả năng lãnh đạo
khai sáng, chữa lành thể chất, thành công kinh doanh, phục hồi chứng nghiện, vượt qua rào cản bản ngã, những trạng thái tinh
thần cao, v.vv..

16
Không giống như những quyển sách khác, nó cho người đọc thấy nhiều phong cách giao tiếp khác nhau của ông: từ những tác
phẩm được xuất bản chính thức, những bài phỏng vấn, đến những bài giảng trực tiếp. Nội dung quyển sách là sự đúc rút từ tất
cả các quyển sách khác của ông, trong những bài dạy và những cuộc trò chuyện thân mật. Chúng tôi đã chỉnh sửa để tạo điều
kiện cho người đọc hiểu được và cô đọng thành một loại tài liệu. Quyển sách là lời giới thiệu vững vàng về toàn bộ những tác
phẩm của Hawkins dành cho những đọc giả mới, và là một bản tóm tắt hấp dẫn cho những sinh viên lâu năm. Tất cả sự định
chỉnh đưa ra trong quyển sách này đều được Tiến sĩ Hawkins và Susan thực hiện trước khi ông qua đời năm 2012. Định chỉnh
là một thuật ngữ mà Tiến sĩ Hawkins sử dụng để chỉ việc dùng phương pháp động học xác minh cho mức độ của ý thức (tức là
đo trường năng lượng) của một thứ cụ thể trên sơ đồ ý thức của ông ấy.

Các chương trong quyển sách cũng nhằm hoàn thiện cho việc biên soạn bài giảng cùng tên của Tiến sĩ Hawkins (Giải thích về
sơ đồ ý thức- Hay House năm 2019) bao gồm các biểu đồ để người nghe thấy được những gì ông đang muốn đề cập, nhưng
không bao gồm tài liệu tham khảo và thư mục. Thay vào đó, người đọc có thể tìm kiếm thêm thông tin cho mỗi chương trong
phần Nguồn ở cuối quyển sách. Các câu hỏi thảo luận trong các nhóm học tập và Bảng chú giải thuật ngữ được sử dụng cũng
có thể được tìm thấy phía sau quyển sách. Mỗi phần nhỏ trong ba phần chính gồm: “Nền tảng,” “Ứng dụng thực tế,” và “Nâng
cao nhận thức”- đều có một phần biên tập nhận xét ngắn gọn và tóm tắt từ kinh nghiệm lâm sàng của Tiến sĩ Hawkins ở phía
trước. Phần “Cơ sở” đưa ra ý nghĩa của Sơ đồ ý thức: cách sơ đồ được hình thành, nền tảng khoa học của nó, giải thích khái
niệm về các cấp độ ý thức và trường năng lượng tương ứng, cách để định chỉnh các mức độ của ý thức, cách ý thức phát triển
qua nhiều thiên niên kỷ. Phần đầu tiên của quyển sách sẽ đi giải đáp những vấn đề này.

Phần “Ứng dụng thực tế” trình bày cách áp dụng Sơ đồ ý thức vào cuộc sống hàng ngày. Tiến sĩ Hawkins đưa ra các bước khá
dễ hiểu để giải quyết các vấn đề cơ bản của con người như sức khoẻ thể chất, nỗ lực thành công trong cuộc sống và vượt qua
các chứng nghiện. Nghiện, về cốt lõi là một cách tìm kiếm hạnh phúc bên ngoài bản thân. Mặc dù chuơng 6 đề cập một cách rõ
ràng về chứng nghiện các chất kích thích, nhưng nguyên tắc này cũng có thể được áp dụng cho bất kỳ loại cưỡng bức hoặc
việc nghiện thứ gì đó khác. Phục hồi nghiện ngập đặc biệt đáng nói do sự một sự gia tăng gây kinh ngạc gần đây về các ca tử
vong do ma tuý và rượu. Tiến sĩ Hawkins đã liên hệ Sơ đồ ý thức với phương pháp Mười hai bước theo một cách hữu ích cho
chứng nghiện và các bối cảnh khác. Đáng chú ý, Tiến sĩ Hawkins khuyến khích các sinh viên tâm linh học tuân theo Mười hai
truyền thống của AA (nhóm giúp người nghiện rượu giấu tên) khi cùng nhau làm việc nhóm, vì các hướng dẫn trong các nhóm
“giấu tên” làm giảm xu hướng các nhóm tâm linh muốn xem một người nào đó là “thầy” của những người khác.

Trong phần thứ ba, “Nâng cao ý thức,” Tiến sĩ Hawkins đưa ra đặc điểm của những người thầy và những lời dạy chân chính
một cách rõ ràng. Cho đến nay, loài người vẫn thiếu một tiêu chuẩn vàng để kiểm tra độ tin cậy của các vị thầy tâm linh. Vô số
những người tha thiết đi tìm chân lý đã mất hoặc tuyệt vọng tự sát dưới bàn tay của những đạo sư hoặc đấng cứu thế sai lầm.
Phần này của quyển sách cung cấp hướng dẫn cụ thể về cách tránh những cái bẫy tâm linh, cũng như cách mở rộng mức độ
nhận thức của một người. Các bước rất đơn giản, nhưng Tiến sĩ Hawkins nói rằng không có nhiều người làm theo bởi lẽ bản
ngã lén lút tin rằng nó vốn đã “biết.” Bạn có thể tự hỏi mình, bạn đã sẵn sàng để buông bỏ những gì bạn nghĩ rằng bạn đã biết
chưa? Ông ấy chia sẻ từ kinh nghiệm của chính mình rằng niềm hạnh phúc không thể tưởng tượng nổi đang chờ đợi những
người chấp nhận buông bỏ. Nghịch lý ở chỗ, hành trình này hướng đến sự buông xuôi hơn là đạt được, “Khi những đám mây
được loại bỏ, ánh mặt trời mới ló dạng.” Nói cách khác, khi chúng ta buông bỏ những gì không phải là mình, chúng ta mới trở
thành con người thực sự của chúng ta. Có lần ông ấy nói với tôi, “Vốn dĩ con người ta là Phật tính, chỉ là chưa nhận ra được
điều đó.”

Hiểu về các cấp độ ý thức

Lần đầu tiên tôi đọc được Sơ đồ là năm 2003, lúc ấy tôi đã là một học giả về thần bí học và là giáo sư nghiên cứu tôn giáo trong
nhiều năm. Tôi đã ngay lập tức nhận ra “Các mức độ nhận thức” của Tiến sĩ Hawkins là các giai đoạn cổ điển của quá trình tiến
hoá bên trong con người được tìm thấy trong các kinh pháp thiêng liêng trên thế giới và được gợi ý bởi những nhà triết học, nhà
hiền triết và các nhà thần bí trong suốt nhiều thế kỷ. Ví dụ, trong Cơ Đốc giáo truyền thống có The Ladder of Divine Ascent của
tu sĩ sa mạc chính thống giáo Đông phương John Climacus (khoảng năm 579-649) ở núi Sinai, Ai Cập và Lâu Đài Nội Vụ (The
Mansion) của nhà thần bí Công giáo Thánh Teresa, Ávila (1515-1582 sau công nguyên), Tây Ban Nha.

Dù là leo lên nấc thang đức hạnh cao nhất là Tình yêu, hay đi vào công trình bên trong của Sự Hợp Nhất Thiêng Liêng, người
đi tìm kiếm cũng sẽ trải qua nhiều giai đoạn. Trong đạo Phật truyền thống, 10 bức tranh chăn trâu thể hiện các bước trên con
đường thức tỉnh từ vô minh để đi đến giác ngộ, đó đã là một pháp cụ quan trọng kể từ khi được bắt nguồn từ thế kỷ XII ở Trung
Quốc. Và trong giáo Sufi truyền thống, có rất nhiều mô tả về cuộc hành trình bên trong và “các trạm” của nó, từ câu chuyện ngụ

17
ngôn thơ mộng nổi tiếng The Conference of the Bird của nhà thần bí Ba Tư Farid al-Din Aar (khoảng 1142-1220), đến Mười Hai
Cấp Độ của Sự Khởi Đầu, được phác thảo bởi nhà thần bí Sufi hiện đại Llewellyn Vaughan-Lee.

Mặc dù có sự khác nhau về ngôn ngữ và ngữ cảnh, về bản chất, những lời dạy này từ các tôn giáo đều giống nhau: đó là những
người đi tìm kiếm chân lý sẽ phải trải qua nhiều giai đoạn. Theo kinh nghiệm, các giai đoạn không phải là một sự phát triển tuyến
tính, nhưng có một sự tiến hoá nhất định về ý thức của những người tìm kiếm này. Ví dụ, giai đoạn ban đầu xảy ra khi một người
nhận thấy cuộc sống còn nhiều điều khác để theo đuổi hơn là vật chất thế gian. Bằng cách về lại bên trong, họ bước vào nơi mà
thánh Teresa gọi là “lâu đài nội tâm.” Hoặc có lẽ họ giống như “người chăn trâu” trong các bức tranh chăn trâu, lần đầu tiên họ
sẽ nhận thấy các dấu vết của con trâu, một biểu tượng cho Phật tính bẩm sinh của chúng ta. Họ trở nên ý thức về đời sống tinh
thần của mình và quan tâm đến việc trau dồi những phẩm chất cần thiết như kỷ luật, kiên nhẫn, khiêm tốn, duy tâm, khả năng
dạy dỗ và phục vụ người khác. Trong suốt cuộc hành trình, nếu họ cứ tiếp tục đi trên một con đường đôi khi gian nan và phải tự
mở lối, những người tìm kiếm sẽ được trải nghiệm về tất cả những hiện thực quan trọng của Tình yêu thương. Nó luôn ở đó,
nhưng nó giống như “một kho báu ẩn sâu trong tim” (như giáo Sufi định nghĩa) Việc mở cửa trái tim là một bước ngoặt, vì giờ
đây những người tìm kiếm đã vượt ra khỏi giới hạn của lô-gic và bước vào lãnh địa của vô ngã vị tha, sự đồng nhịp và niềm an
vui.

Dù đã tiếp thu và giảng dạy qua tài liệu này, nhưng Sơ đồ ý thức là một kiểu mà lần đầu tiên tôi được chứng kiến, một công trình
khoa học xác nhận các cấp độ cổ điển của đời sống tinh thần, đó là các “mô hình thu hút” và “trường năng lượng” mang tính
thực tế, có thể đo lường. Một sự xác minh tuyệt vời về trực giác của não phải thông qua các phương tiện kiến thức của não trái.

Sơ đồ ý thức rực rỡ trong sự giản đơn của nó, chỉ một trang biểu đồ cho thấy toàn bộ hành trình. Hơn thế, nó mô tả những cảm
xúc lâm sàng theo một cách hết sức tinh tế, cái nhìn về Thượng Đế, về bản thân và cái nhìn về cuộc sống đúng với từng cấp độ
của ý thức. Nó không giáo điều hay đứng trên danh nghĩa tôn giáo, vì vậy ai cũng có thể tìm thấy con đường trong cuộc sống
của mình được chiếu sáng bằng cách nghiên cứu sơ đồ này, bất kể bạn có niềm tin gì. Có lẽ khía cạnh hấp dẫn nhất của Sơ đồ
để phân biệt nó với rất nhiều sơ đồ tâm linh khác được đưa ra bởi các nhà thần bí trong suốt chiều dài lịch sử, là sự xác minh
rằng với mỗi cấp độ tiến bộ về mặt ý thức, “tần số” hoặc “rung động” của năng lượng tăng lên một cách có thể đo lường được.
Nói cách khác, một người càng có ý thức và yêu thương càng nhiều, thì tác động của họ đối với thế giới nói chung càng lớn.

Toàn bộ tiền đề về công việc của Hawkins phù hợp với lẽ thường. Giải phóng tiêu cực, nâng cao sự tích cực. Các trường năng
lượng tích cực ( Dũng cảm, Sẵn sàng, Chấp nhận, Lý trí, Tình yêu) mạnh hơn các trường tiêu cực ( Xấu hổ, Lãnh đạm, Sợ hãi,
Giận dữ, Kiêu hãnh), vì chúng phù hợp hơn với năng lượng sống. Tình yêu chữa lành, Nỗi sợ thắt chặt lại, Lòng Can đảm thúc
đẩy. Đau buồn kìm hãm. Chẳng hạn, nhiều người trong chúng ta đều biết dũng cảm buông bỏ đau khổ và yêu lại sau khi mất đi
người bạn đời đã chết hoặc ly hôn.

Mỗi trường năng lượng thể hiện một quan điểm sống của người thuộc về cấp độ ý thức ở đó. Những cuộc tranh cãi không hồi
kết xảy ra giữa những người ở các cấp độ khác nhau (thậm chí trong cùng một gia đình hoặc nơi làm việc), bởi vì họ nhìn thấy
thế giới theo cách của riêng họ, và không giống với những người khác. Nếu một người đeo kính đỏ, mọi thứ sẽ có màu đỏ, bất
kể ý kiến của người đeo kính màu xanh có mạnh mẽ đến đâu. Rốt cục, thế giới là xanh hay đỏ? Nó phụ thuộc vào lớp kính mà
bạn đang nhìn qua. Ví dụ, một người mắc kẹt trong đau buồn và không thấy gì khác ngoài những chuyện quá khứ, họ thường
nói về những gì “đã từng.” Rất nhiều sự thất vọng được xoa dịu một khi bạn nhận ra rằng, mọi người không “xấu”, bọn họ chỉ
đơn giản là nhìn thế giới qua lớp kính mà họ có. Lớp kính đó chính là mức độ ý thức của mỗi người.

Một số người không thích thang đo tuyến tính của “các cấp độ”, và cho rằng ý tưởng về cấp độ có thể làm mồi cho bản ngã.
Chính Tiến sĩ Hawkins cũng đã than phiền về những gì bản ngã sẽ làm với Sơ đồ này, chẳng hạn như tự cho rằng nó đang ở
mức độ của Tình yêu trong khi thực tế người đó vẫn chưa đạt được khả năng tự giải quyết vốn có ở mức độ Chấp nhận.

Hãy nắm bắt theo cách này: Sơ đồ có thể được nhìn một cách tuyến tính, nhưng không phải vậy. Tiến sĩ Hawkins đã cung cấp
một thang đo số lo-ga-rit để hỗ trợ cho trí óc lĩnh hội được các trường ý thức, nhưng bản thân các trường năng lượng không
phải là một thước đo tuyến tính, mà chúng là những trường hấp dẫn.

18
Tôi đã từng hỏi ông ấy, “Sự tiến triển ý thức của ông trong cuộc đời là gì?” Một khoảng im lặng kéo dài. Khi ông ấy gục đầu trên
tay của ông ấy, tôi biết câu hỏi đó không thực tế! “Nó không thể diễn tả được,” sau một lúc ông ấy đáp lại. “Không phải ông sẽ
đi từ cấp độ này lên cấp độ khác như một nấc thang tuyến tính. Nói chính xác hơn nó giống như chuyển pha, một kiểu giống
thời tiết.”28

Những người chân thành muốn đi tìm chân lý sẽ thấy sơ đồ mở rộng tầm mắt của họ. Lần đầu biết đến nó, họ hẳn sẽ được an
ủi khi biết có một bản đồ chỉ đường cho hành trình bên trong của họ. Gần đây, một sinh viên đại học đã nói với tôi, “Nó giúp tôi
rất nhiều để biết ở đâu có sự Chấp Nhận, ở đó có Tha thứ. Đó là điều mà tôi đang hướng tới trong mối quan hệ của tôi với một
người. Tôi đã ở trong Giận dữ, Hận thù, nhưng Sơ đồ đã cho tôi một điểm để vượt qua.”

Những người tìm kiếm cũng được Sơ đồ xác nhận trong hành trình đi tìm Tình yêu, đó là nguồn gốc và là định mệnh của đời
sống tinh thần. Phần lớn lịch sử tôn giáo đã rao giảng một học thuyết xuyên tạc về tội lỗi, tự trừng phạt, luyện ngục và dùng nỗi
sợ làm con đường dẫn đến chân lý. Bạn sẽ thấy một sự điều chỉnh làm nhẹ nhõm khi biết được rằng, Tội lỗi và Sợ hãi là mức
dưới cùng trên thang điểm, và Tình yêu là mức trên cùng. Tiến sĩ Hawkins thường thích nói như vầy, “Tội lỗi ăn mòn bạn, chứ
không phải Chúa Trời.” Thượng Đế là Tình Yêu Thương, và do đó, con đường dẫn đến Sự Thật là Yêu thương và thông qua
Yêu thương.

Cũng có nhiều thông tin cho rằng Lý trí- một đức tính được ca tụng nhiều trong văn hoá phương Tây- thật sự là một loại năng
lượng tinh luyện, nhưng nó lại mờ nhạt so với năng lượng của trái tim. Kiến thức chân chính chính là kinh nghiệm, nó đến từ
những bài học cuộc sống mà chúng ta đã đúc kết vào trái tim và toàn bộ con người mình. Nếu không, mọi người chỉ là “những
cái đầu biết phát ra tiếng nói.” Tiến sĩ Hawkins nói rằng, “Con đường của trái tim bỏ qua trí tuệ và đặt niềm tin vào sự hoàn hảo
của tình yêu hơn là trí tuệ và lý trí. Đối với tình yêu, trí tuệ và lo-gic chỉ đơn thuần là công cụ, chúng không định nghĩa được “bạn
là ai.”29

Các nghiên cứu của Tiến sĩ Hawkins về động lực học phi tuyến tính, vật lý lượng tử và toán học cao cấp đã cho phép Sơ đồ
nhận thức của ông được kết hợp cùng các ý tưởng không có trong các sơ đồ của những nhà thần bí khác về các giai đoạn của
hành trình bên trong. Ví dụ năng lượng cuộc sống có thể được ví như mạch điện. Nói một cách khác, chúng ta có thể nói rằng,
Thần tính là trường quyền năng vô hạn được giảm xuống qua các cấp độ của ý thức, tương tự như máy biến áp giảm tải. Hệ
thống thần kinh và chất nguyên sinh của con người không thể xử lý năng lượng khổng lồ của Vô hạn, ngoại trừ nó đi vào chúng
ta ở mức độ mà mạch có thể xử lý được. Tương tự, 50.000 vôn không hữu ích bằng 110 vôn, vì đó là hệ thống mà nhà chúng
ta dùng được. Trong một hộ gia đình, chúng ta sẽ không đánh giá các thiết bị dựa trên công suất điện của chúng. Một chiếc tủ
lạnh không thể được xem là “tốt hơn” một cái đèn ngủ, đúng không? Chính vì vậy, các mức độ khác nhau của ý thức không chỉ
ra sự ưu việt hơn hay kém cỏi hơn, nó chỉ đơn giản là cho thấy các mức năng lượng khác nhau, và mỗi mức độ có riêng một
chức năng cụ thể.

Quá nhiều điện năng có thể “đốt cháy” vòng mạch điện, chỉ mạch điện có công suất điện áp lớn mới có thể tải nhiều điện năng
hơn. Ví dụ, Đức Đạt Lai Lạt Ma có một trường năng lượng và mức độ ý thức đủ lớn và đủ yêu thương để xử lý năng lượng sống
khổng lồ, vì vậy chúng ta có thể nói rằng, ở Ngài toả ra mức năng lượng chữa lành cao. Trạng thái nội tâm trong Niềm vui và
Tình yêu của ông ấy nổi bật với một sự hài hước, tiếng cười, lòng tốt và sự từ bi. Tuy nhiên, hầu hết mọi người không có khả
năng trở thành người mang năng lượng cao dẫn dắt người khác, bởi sự chú ý bên trong của họ thường tập trung vào nhu cầu,
suy nghĩ, cảm xúc và chương trình làm việc của riêng họ. “Mạch điện” của họ bị bó hẹp khi chỉ tập trung vào bản thân, và họ
không có khả năng yêu thương thế giới vô điều kiện. Trên thực tế, một số người gần như chỉ sống theo cách thu mình lại. Những
mức độ ý thức tiêu cực như vậy (ví dụ Xấu hổ, Tội lỗi, Sợ hãi, Ham muốn, Tức giận và Kiêu hãnh) sẽ lấy đi, thay vì đóng góp
thêm năng lượng. Quyển sách này là ánh sáng soi đường cho tất cả những người muốn trở nên hiệu quả hơn trong bất kỳ lĩnh
vực nào của cuộc sống.

Tiếp cận quyển sách

Phong cách nói và viết của Tiến sĩ Hawkins hướng tới việc tạo điều kiện thuận lợi cho cái gọi là sự nắm bắt của cả não trái và
não phải. Ông ấy đã giải thích như vậy trong phần lời nói đầu của quyển Power vs.Force.

19
Trên thực tế, chúng ta hiểu các vấn đề thông qua mẫu thức nhận diện tổng thể. Cách dễ nhất để nắm bắt hoàn toàn một khái
niệm mới đơn giản là tìm ra những phần quen thuộc với chúng ta. Cách hiểu này củng cố cho lối trình bày theo phong cách
“bao sân.” Một số tác giả chỉ sử dụng các tính từ và ví dụ rải rác, thay vì nên đưa ra càng nhiều ví dụ càng tốt và lặp đi lặp lại
cho đến hết để hoàn tất việc đưa ra khái niệm, và tâm trí sẽ được thư giãn. Lối tiếp cận này cũng thú vị, bởi tâm trí khi đọc
chương 3 sẽ không giống tâm trí khi đọc chương 1. Vấn đề là, ý tưởng thường bắt đầu đọc chương 1 và tiếp tục suốt cả hành
trình cho đến hết quyển sách thường cố định ở não trái. Đây là thói quen của những người bị chi phối bởi định luật Newton,
cách nhìn thế giới của họ được giới hạn, trong đó các chuỗi sự kiện được cho là xảy ra theo một cách tuyến tính. Dạng thiển
cận này phát sinh từ mô hình thực tế đã lỗi thời. Cái nhìn rộng lớn và sâu sắc hơn của chúng ta không chỉ dựa trên tính chất
của vật lý, toán học và những lý thuyết cao cấp phi tuyến tính, mà còn là trực giác để xác thực thông qua trải nghiệm.

…Vì thế tôi cố gắng hết sức có thể, để trình bày những chủ đề này theo một cách phi tuyến tính. Nó không đòi hỏi bạn phải có
năng lực trí tuệ uyên bác để tiêu hoá những chuyện này, chắn chắn là không. Mà chúng tôi sẽ nỗ lực để phản ánh nhuần
nhuyễn một khái niệm, và lặp đi lặp lại cho đến khi nó sáng tỏ. Mỗi lần chúng tôi quay trở lại để mổ xẻ một ví dụ, bạn sẽ hiểu
nhiều hơn một chút. Cũng giống như việc bạn ngồi máy bay để đi khảo sát một địa hình mới, lần đầu tiên, nó trông có vẻ lạ
lẫm, lần thứ hai, chúng ta lưu ý đến một số chi tiết, và lần thứ ba, trông có vẻ bắt đầu dễ hiểu…theo một cách phơi bày đơn
giản như thế, cuối cùng, chúng ta sẽ trở nên quen thuộc với nó. Việc còn lại là cơ chế nhận dạng mẫu thức bẩm sinh của tâm
trí.30

Dù cho bạn đọc nó ở khúc đầu hay khúc cuối, bạn sẽ thấy quyển sách chỉ xoay quanh một trọng tâm: Chúng ta thay đổi thế giới
không phải bằng lời nói hay hành động, mà bởi kết quả sau cùng của những gì chúng ta sẽ trở thành. Tiến sĩ Hawkins quả quyết
rằng kể cả khi ý thức của chúng ta chỉ tăng trưởng một phần rất rất nhỏ, thì điều đó cũng giúp ích cho thế giới. Quyền năng của
tình yêu là rất lớn, chỉ một ý niệm về tình thương trong ngày cũng xoá sạch hết những điều tiêu cực. “Nếu bắt gặp một con mèo
hoang trên đường và bạn thấy thương cảm cho nó, hy vọng nó được sinh tồn, đồng nghĩa với việc bạn thu hồi lại được những
lời cay nghiệt đã thốt ra với mẹ vợ hoặc mẹ chồng của bạn, hoặc với thầy giáo, hay bất cứ ai đã làm bạn phát điên vào sáng
hôm ấy.”31

Hành tinh này được lấp đầy bởi những người “muốn thay đổi thế giới”, chỉ là hành động của họ chỉ mới ở tính biểu hiện, chưa
phải gốc rễ. Loại sức mạnh này có tính chất đối kháng, nên chúng ta thường để ngỏ trong tình trạng bế tắc hơn là vĩ đại. Sự vĩ
đại xuất hiện từ bên trong. Đó là lòng can đảm tự thay đổi bản thân. Thông điệp của quyển sách này mang lại sự sống còn cho
xã hội của chúng ta: đời thay đổi khi chúng ta thay đổi.

Nếu được thúc đẩy bởi tình yêu, nếu tình yêu làm chúng ta có lòng trắc ẩn, thì mọi nơi chúng ta đến, mọi thứ chúng ta chạm
vào, mọi người mà chúng ta gặp đều là phiên bản tốt hơn của họ, bởi chính chúng ta đã trở thành một nhân tố yêu thương. Tình
yêu là loại quyền năng thầm lặng truyền cảm hứng, chữa lành, nâng đỡ, củng cố và cải thiện vạn điều. Và bởi tình yêu phát ra
năng lượng trong những kết nối trong vũ trụ, bất chấp không gian và sự tuyến tính, chúng ta tạo ra tác động từ bất cứ nơi nào
chúng ta ở, bất cứ công việc gì mà chúng ta đang làm. Yêu từng điều nhỏ chính là yêu tất cả, và mọi thứ sẽ được kết nối vào
với nhau.

Món quà mà Tiến sĩ Hawkins tạo tác cho sự tiến hoá của loài người vượt qua những điều mà từ ngữ có thể diễn đạt. Nếu không
có Sơ đồ, sẽ không thể tìm ra báu vật. Con đường này rộng mở cho bất cứ ai muốn đi. Mỗi người có xuất phát điểm không giống
nhau, nhưng chúng ta đều là tự mình điều khiển bánh lái của đời mình. Bỏ đao xuống lập tức thành Phật.

_ Tiến sĩ Fran Grace_

Giáo sư Grace là nhà nghiên cứu Tôn giáo và là người sáng lập Chương trình Thiền tại trường Đại học Redlands, California. Bà
là tác giả của một số quyển sách, trong đó có The Power of Love (2019), đặc biệt dành tặng Tiến sĩ Hawkins và được xuất bản
bởi Nhà xuất bản Inner Pathway, một tổ chức phi lợi nhuận mà bà sáng lập năm 2008 dưới sự dẫn dắt của Tiến sĩ Hawkins.

PHẦN I

NỀN TẢNG

Trong ba chương đầu tiên, Tiến sĩ Hawkins sẽ đưa ra nền tảng, khoa học và các thành phần chính của Sơ đồ Ý thức. Có hai
khái niệm trọng tâm mà bạn cần hướng vào, đó là trường hấp dẫn và trường chi phối. Đây là một câu chuyện trong những năm

20
thực hành chữa trị tâm lý lâm sàng của ông ấy, nó sẽ minh hoạ cho khái niệm trên bằng cách chỉ ra trường hấp dẫn của Tình
yêu mạnh hơn (chi phối được) năng lượng Sợ hãi:

Betty 34 tuổi, nhưng trông già cỗi vì gầy gò và âu sầu. Cô ấy bước vào phòng khám với một mớ túi giấy, mà sau này tôi mới
phát hiện ra tất cả chỗ đó gồm có 56 lọ thực phẩm chức năng, vi-ta-min và thực phẩm bổ sung. Cô ấy có một nỗi ám ảnh về vi
trùng, và chẳng mấy chốc, mọi thứ quanh cô ấy đều có khả năng bị nhiễm bẩn. Cô ấy rất sợ những chứng bệnh lây nhiễm, và
nó đã trở thành chứng sợ ung thư. Cô ấy tin vào tất cả những câu chuyện ghê rợn mà cô ấy đọc, vì thế cô bị ám ảnh với hầu
hết những loại thức ăn, ám ảnh với cả bầu không khí mà cô ấy hít thở, sợ gió sợ nắng, cô ấy chỉ mặc đồ màu trắng vì sợ vấy
màu nhuộm.

Trong phòng khám, cô ấy sẽ không bao giờ ngồi xuống bất kỳ chiếc ghế nào vì sợ bẩn. Nếu phải nhận một toa thuốc, cô ấy sẽ
yêu cầu được dùng trang giấy ở bên trong, vì như vậy sẽ “không bị chạm bẩn.” Hoặc hơn thế, cô ấy muốn bác sĩ kê toa trên một
tờ giấy mà cô ấy tự chuẩn bị, cô ấy không muốn tôi chạm vào nó, bởi cô ấy nghĩ tay tôi sẽ có vi khuẩn từ việc bắt tay với bệnh
nhân vừa nãy. Và cô ấy mang găng tay mọi lúc. Đỉnh điểm, cô ấy đề nghị được thăm khám qua điện thoại, bởi cô ấy thấy hãi
hùng với việc phải trực tiếp đến phòng khám lần nữa.

Những tuần tiếp theo trên điện thoại, cô ấy nói cô sợ việc phải thức dậy mỗi ngày, vì cô sợ phải ra đường. Cô ấy nói khi vẫn
đang ở trên giường. Cô ấy bắt đầu sợ hãi lan sang chủ đề trộm cướp, cưỡng hiếp, và ô nhiễm không khí. Nhưng cô ấy cũng
không muốn cứ ở mãi trên giường và cảm thấy ngày một tồi tệ hơn, và nếu cứ tiếp tục sợ hãi như thế, cô e rằng mình sẽ trở
nên mất trí. Cô cũng ngại thuốc men không giúp ích được gì cho cô, và nó cũng có tác dụng phụ, nhưng cô cứ phải chịu đựng
việc uống thuốc vì sợ rằng nếu không uống thì bệnh không cải thiện. Bây giờ cô ấy nói cô ấy sợ sẽ bị sặc khi uống thuốc, và cô
ấy cũng đã dừng uống cả thực phẩm chức năng, thứ mà cô cho rằng có số lượng còn ít hơn thuốc được kê toa.

Vì sợ hãi thái quá, nên mọi phương pháp điều trị cơ động đều bị cản trở. Cô ấy cũng không cho phép tôi nói chuyện này với gia
đình của cô ấy. Vì cô ấy sợ họ biết cô đã tìm đến sự trợ giúp của bác sĩ tâm lý và nghĩ rằng cô bị thần kinh. Tôi thật sự rối não
trong suốt nhiều tuần liền để nghĩ cách giúp cô ấy. Và sau cùng, tôi bỏ cuộc. Tôi cảm nhận mùi vị thanh thản vì đã buông bỏ,
bởi tôi hoàn toàn chấp nhận một sự thật: căn bản tôi không giúp được gì cho cô ấy. Điều duy nhất mà tôi có thể làm là yêu
thương cô ấy.

Và cứ như thế. Tôi nghĩ về cô ấy một cách yêu thương, và thường xuyên gởi những ý niệm yêu thương đến cho cô ấy. Mỗi lần
khám bệnh qua điện thoại, tôi cố gắng trao đi nhiều năng lượng tình thương nhất có thể, và sau một vài tháng “trị liệu yêu
thương”. Sự hiệu quả đã mang cô ấy đích thân quay lại phòng khám. Tưởng chừng như bệnh tình của cô không bao bao giờ
thuyên giảm, nhưng không, dần dần, cô ấy bắt đầu có sự cải thiện, những nỗi sợ cũng biến mất từ từ. Cô nói rằng trước đây cô
rất ngại đề cập đến những vấn đề tâm lý, nhưng sau cả năm trị liệu, điều duy nhất mà tôi giúp cô ấy là yêu thương cô.

Trường hợp này minh hoạ cho khái niệm tầng sóng cao- như Tình yêu có tác dụng chữa lành cho những tầng sóng thấp hơn-
như Nỗi sợ của bệnh nhân. Tình yêu thương là cơ chế củng cố vững chắc, và thường xuyên mang lại sự trấn an cho những
người có nỗi sợ trong hiện thực vật lý đơn thuần. Bằng cách kiến tạo năng lượng yêu thương bao bọc và gởi đến những người
đó, chúng ta đã tạo ra hiệu ứng chữa lành, không phải chỉ trên lý thuyết mà bằng chính sự có mặt của mình.

21
CHƯƠNG MỘT

KHÁI QUÁT VỀ SƠ ĐỒ Ý THỨC

Sơ đồ Ý thức là tài liệu đầu tiên có sự định chỉnh các cấp độ của ý thức. Từ sơ đồ này, chúng ta nhìn ra được toàn bộ sự phân
bố quang phổ trong các trải nghiệm của nhân loại và cách sắp xếp sao cho chúng ta có được hạnh phúc và tự do nhất. Biết
được sơ đồ này đã là một sự may mắn lớn, nếu có bất cứ mẩu thông tin nào xuất hiện đầu tiên trong ý thức của bạn, đừng bỏ
qua nó.

HIỂU VỀ CÁCH ĐỊNH CHỈNH Ý THỨC

Mỗi người được sinh ra với một mức độ định chỉnh của ý thức, một trường năng lượng bao gồm vô hạn ý thức. Quả thật, tất cả
mọi thứ trong vũ trụ đều liên tục cho ra những mẫu thức năng lượng với tầng sóng riêng biệt và ổn định bất biến, chúng ta có
một cách hiểu về định chỉnh trường năng lượng, đó là liên hệ đến cường độ của nó, tương tự như việc đo lường ánh sáng.

Sự phân tầng ý thức không còn là một khái niệm xa lạ, nó được thể hiện xuyên suốt lịch sử loài người trong những bảng sơ đồ
đa dạng (chẳng hạn như loạt tranh chăn trâu), tuy thế, đây vẫn là sơ đồ đầu tiên mà các cấp độ ý thức được chia độ tương ứng
với năng lượng trên thực tế, cũng như với khía cạnh trải nghiệm của con người. (Sự xuất hiện của loại khoa học chân lý lâm
sàng này đã được miêu tả trong quyển Power vs.Force)

Kỹ thuật được chúng tôi dùng để định chỉnh ý thức là khoa học lâm sàng sống động kiểm tra cơ bắp, nhằm tận dụng hệ thống
thần kinh và năng lượng sống con người để diễn đạt qua hệ thống mạch châm cứu, bằng cách dùng dụng cụ chuyên biệt để đo
độ nhạy cảm sinh học. (Kỹ thuật này không thể sao chép bởi những công cụ khoa học không có sự sống). Nói một cách dễ hiểu,
đối với sự thật, hệ cơ của chúng ta có xu hướng mạnh lên. Ngược lại, nó sẽ yếu đi khi phải đối mặt với sự giả dối (nghĩa là vắng
mặt sự thật, chứ không phải một cái gì đó đối lập) Đây là một dạng đáp ứng tức thời nhanh chóng, tiết lộ mức độ chân thật của
bất cứ điều gì. Do đó, căn cứ theo tính toàn vẹn của lực để tiến hành đối chiếu một cách chính xác.

Sơ đồ ý thức là một hướng dẫn tham khảo về quang phổ của ý thức, bằng cách lập bảng định chỉnh các mức độ năng lượng,
cũng tương tự như việc dùng nhiệt kế để đo nhiệt độ, dùng áp kế để đo áp suất khí quyển, và dùng máy đo độ cao để đo độ
cao. Sự đo lường không dựa trên một quan điểm chủ quan hay một nhận thức tương đối nào. Bởi vì nó có tính tĩnh, nên nó hình
thành một hệ thống phân chia tuyệt đối. Bất cứ điều gì đều có thể định chỉnh và sắp xếp trên bảng phân chia dưới biểu hiện của
một con số cụ thể. Các con số không mang ý nghĩa phán xét hay đóng vai lời răn đạo đức, nó đơn giản là chỉ ra xu hướng lên
xuống của những thứ mà nó đo lường. Một tuyên bố quan trọng về trường năng lượng vô hạn của ý thức đó là, nó đại diện cho
tính chất tuyệt đối của tất cả những điều có thể định chỉnh theo một mức độ tương ứng. Sự định chỉnh không tạo ra chân lý, nó
đơn thuần là đi xác nhận chân lý.

Ví dụ, không ngạc nhiên gì khi năng lượng của Mẹ Teresa (định chỉnh 710), khác xa với Adolf Hitler (định chỉnh 40), và phần
đông chúng ta ở mức định chỉnh trong khoảng giữa của họ. Về mặt trực giác, chúng ta biết như vậy, nhưng đến nay chúng ta
mới có thể làm công việc xác nhận mang tính quy mô. Âm nhạc, phim ảnh, địa điểm, tư tưởng, lập trường, thú vật, ý định- tất cả
mỗi phần trong cuộc sống đều phát ra năng lượng có thể được định chỉnh, qua đó phản ánh được bản chất và mức độ của tình
yêu và sự thật bên trong chúng.

Sơ đồ Ý thức bày ra các cấp độ ý thức được định chỉnh bằng số lo-ga-rit để phân chia năng lượng của sức mạnh ( với cơ số là
10, từ 1 đến 1000, trong đó 1 biểu thị cho sự có tồn tại), và 1000 là mức tối đa trên sơ đồ, biểu thị cho cấp độ ân sủng cao nhất
cho hành tinh này; đó có thể là năng lượng của Jesus Christ, của Đức Phật, của Krishna. Cấp độ Xấu hổ (20) nằm dưới cùng,
gần với không tồn tại, và cấp độ Dũng cảm (200) là điểm mốc quan trọng trong tính chính trực của sự thật. Tình yêu (500) là
cửa ngõ dẫn vào miền tâm linh.

22
Cấp độ Dũng cảm (200) đánh dấu bước chuyển từ năng lượng tiêu cực sang tích cực. Đó là loại năng lượng chính trực, tự trung
thực, và bắt đầu có thực lực. Những cấp độ ý thức dưới mức Dũng cảm là chống lại sự sống (lực cản), trong khi những cấp độ
ở trên là củng cố cho sự sống (sức mạnh). Chúng ta có xu hướng tìm kiếm những người ở trên dấu mốc quan trọng 200. Chúng
ta biết rằng họ “cao” và chúng ta biết ơn vì năng lượng tích cực từ họ. Môi trường của họ sạch sẽ và an toàn. Các loài động vật
bị họ hấp dẫn. Họ có tay nuôi trồng và ảnh hưởng năng lượng tích cực lên môi trường xung quanh. Tại cấp độ Dũng cảm, cảm
giác tiêu cực không hoàn toàn biến mất, nhưng những người này có đủ năng lượng để xử lý chúng, bởi vì họ thâu tóm được sự
toàn vẹn của bản thân. Cách nhanh nhất để dịch chuyển từ đáy lên đỉnh của Sơ đồ là sống phù hợp với tình yêu và sự thật.

Có 85% dân số dưới mức 200, đó là nguyên nhân dẫn đến phần lớn đau khổ trên hành tinh này. May thay, nhân loại được cứu
vớt khỏi sự huỷ diệt nhờ một tỉ lệ thiểu số những năng lượng định chỉnh ở mức tích cực, thực tế họ chính là đối trọng cân bằng
lại sức nặng của sự tiêu cực trên diện rộng. Lấy ví dụ, một cá nhân tại mức Tình yêu (500) cân bằng được cho 750,000 người
khác ở mức dưới 200. Cho nên sự tiến hoá nội tâm của mỗi người rõ ràng là rất quan trọng.

Một phát hiện đáng chú ý khác đó là, những thú cưng có gia đình nhận nuôi có mức định chỉnh 245-250, bản chất của chúng
nhìn chung là hiền hoà, nghĩa là nếu ở với chúng, chúng ta được an toàn hơn với số đông những người khác trên hành tinh!

(Phát hiện kiểu này có thể làm người đọc bị sốc, nên chúng ta sẽ quay lại các ý này thông qua những chương tiếp theo, bằng
cách liên hệ chúng trong những bối cảnh khác nhau của trải nghiệm con người. Khi đó việc học hiểu sẽ xảy ra như hệ quả của
một sự quen thuộc, cứ mỗi lần quay lại vấn đề, những thông tin đã bị bỏ lỡ hoặc chưa hiểu ở những lần trước sẽ được tích hợp
thêm.)

Dạng người trung bình (khi có mức định chỉnh hơn 200) có thể xác nhận các con số trên bảng phân chia bằng cách sử dụng
phương pháp kiểm tra cơ bắp đơn giản. Một người khác có thể kiểm tra bạn bằng cách ấn cánh tay của bạn xuống và nói, “Trong
độ phân chia từ 1 đến 1000, đại diện cho những hình mẫu vĩ đại là 1000, thế còn lòng dũng cảm là bao nhiêu? Trên 100? Trên
150? Trên 175? Hay trên 200?” Ở mức 200, cánh tay sẽ trở nên mạnh mẽ. Như chúng tôi đã đề cập trong những quyển sách
trước, những định chỉnh này đã được xác nhận rộng rãi trên toàn thế giới hàng thập kỷ ở nhiều quốc gia, trong bối cảnh lâm
sàng bao gồm các đối tượng ở đủ mọi lứa tuổi và nền văn hoá khác nhau. (Giải thích đầy đủ về kỹ thuật này nằm ở Phụ lục A.)

Ý chính khá dễ để trải nghiệm và hiểu được. Bất cứ thứ gì có năng lượng trên 200 đều làm cơ bắp của bạn mạnh lên, dưới 200
làm bạn yếu đi. Vì thế chúng ta dễ dàng có ngay các phương tiện phân biệt thật giả. Đó là cơ thể của chúng ta, một công cụ tối
ưu, sự khác biệt nằm ở những thứ giúp ích cho sự sống và những thứ chống lại sự sống.

Chúng ta không nên kinh ngạc về điều này. Bởi tất cả sự sống đều phản ứng tích cực với những gì bổ ích cho nó và tiêu cực
với những gì đe doạ nó; đây là cơ chế sinh tồn nền tảng. Một khả năng vốn có trong tất cả các dạng sống, đó là năng lực phát
hiện sự biến đổi và phản ứng để điều chỉnh lại. Do đó, cây cối trở nên ốm và cao hơn trong điều kiện ô-xy bắt đầu khan hiếm.
Chất nguyên sinh của con người còn nhạy cảm hơn thế nhiều. Nếu bạn dùng cơ thể như một con lắc, bạn sẽ nhận thấy bạn tự
động đổ về phía trước khi nghĩ về sự thật, và đổ về phía sau khi nghĩ về một điều gì đó không thật. “Tôi muốn chữa lành” là một
tuyên bố có thể kiểm tra khi một người trong quá trình trị liệu. Họ đổ về phía sau nếu thiếu sự sẵn sàng cho việc đó. Và hơi đổ
về trước nếu dự định của họ trung thực, và có sự tiên lượng tốt cho việc chữa lành.

DỮ LIỆU Ý THỨC

Và bây giờ, để xoá tan nỗi trăn trở của tôi, rằng dù cho tôi có cố gắng giải thích cách mấy thì người đọc cũng không nhận ra
được thông điệp chủ đạo của khái niệm này, tôi sẽ nói lại từng câu từng chữ một: tâm trí của mỗi cá nhân giống như một chiếc
máy tính kết nối vào bể chứa dữ liệu khổng lồ. Bản thân bể chứa dữ liệu đó không gì khác ngoài ý thức của con người, bao gồm
những ý thức cá nhân đơn thuần nhưng được cắm vào ý thức chung của cả nhân loại. Bể dữ liệu này vượt lên trên thời gian và
không gian, cũng như tất cả các loại giới hạn của ý thức cá nhân. Nó là hiện thực của trí thông minh siêu việt, đã là con người
thì chắc chắn có tham gia vào bể dữ liệu. Tất cả chúng ta, một khi được sinh ra đời là đã xâm nhập vào ý thức thiên tài này. Bể
dữ liệu chứa một lượng thông tin vô hạn sẵn có cho bất cứ ai trong vài khoảnh khắc, ở bất cứ đâu và bất cứ lúc nào. Đây thực

23
chất là một khám phá gây kinh ngạc, mang theo sức mạnh thay đổi cuộc sống, trên phương diện cá nhân lẫn tập thể xã hội, ở
một cấp độ chưa từng có ai nghĩ tới.

Nhà tâm lý học Thuỵ Sĩ vĩ đại C.G.Jung (mức định chỉnh 520) đã chú ý đến sự có mặt của các mẫu thức và biểu tượng, mà
chính từ đó tạo nên “vô thức tập thể”, một bể tiềm thức không đáy của tất cả những trải nghiệm, kinh nghiệm mà nhân loại cùng
chia sẻ chung. Chúng ta có thể nghĩ về nó như một cơ sở dữ liệu nhận thức khổng lồ của con người được ẩn giấu đâu đó bởi
những mô hình tổ chức quyền lực toàn cầu. Khả năng tuyệt vời của cơ sở dữ liệu là khai thác được tất cả những gì đã từng có
trong mọi thời gian, ở mọi nơi chốn. Bể chứa này “biết” hầu như bất cứ điều gì nếu được “hỏi”.

Bể chứa dữ liệu là nguồn gốc của tất cả mọi thông tin thu được từ cấp địa phương đến siêu quốc gia, thông qua trực giác hoặc
linh cảm, thông linh hoặc thông qua giấc mơ, hoặc “vô tình” đoán trúng. Đó là đài phun nước của trí tuệ thiên tài, giếng khơi của
nguồn cảm hứng, và là nguồn gốc của những kiến thức thần thông kì bí. Bạn chỉ có thể đặt câu hỏi cho những gì đã có sẵn. Lý
do là vì câu hỏi và đáp án được tạo ra từ cùng một mẫu thức, do đó, nó có sự ăn khớp chính xác. Sẽ không có sự “thăng lên”
nào nếu nó không có một sự tồn tại có sẵn “giáng xuống”. Quan hệ nhân quả xảy ra đồng thời chứ không phải là tính trình tự.
Tiến sĩ Jung đã sử dụng thuật ngữ đồng bộ hoá để giải thích về hiện tượng này trong trải nghiệm con người. Như cách chúng
ta đã hiểu về phương pháp kiểm tra vật lý nâng cao, một sự kiện “ở đây” trong vũ trụ không phải là căn nguyên của sự kiện “ở
kia” trong vũ trụ. Thay vào đó, cả hai đều đồng thời xuất hiện, nhưng cảm quan nhìn nhận đã gán cho nó chuỗi quan hệ nhân
quả.

Ta có thể suy ra từ một ví dụ tương tự như sau, chúng ta soi vào bầu trời đêm và sung sướng xác định ra một chòm sao ưa
thích nào đó. Nhưng trên thực tế, không có thứ gì gọi là chòm sao. Hình mẫu quen thuộc- cái mà chúng ta đang gọi là sao- vốn
là những điểm sáng vô thực có xuất xứ từ những nguồn gốc không hề liên quan- đâu đó cách xa nó cả triệu năm ánh sáng, một
số còn ở những ngân hà khác, một số thì không thuộc về những dải ngân hà, và có một số đã cháy hết hàng thiên niên kỷ trước
và không còn tồn tại. Những điểm sáng đó không liên can gì đến không gian hay thời gian, ngoại trừ việc chính chúng ta đang
định dạng cho chúng. Đó là hình chiếc gáo, hình con gấu, hình người, một hình gì đó rất đặc trưng về các “chòm sao”, tất cả là
do mắt của đối tượng quan sát kiến tạo nên các hình mẫu đó.

Vậy thì mối liên hệ của những sự kiện này là gì, nếu nó không phải là một chuỗi nhân quả tuyến tính theo cơ chế Newton? Rõ
ràng là, hai sự kiện có liên quan và kết nối với nhau theo một cách vô hình nào đó- nhưng không phải bởi lực hấp dẫn, từ tính,
gió vũ trụ hay tác động của vật chất ê-te; chúng được gói gọn trong một trường hấp dẫn có tầm mức tương đương bao gồm cả
hai sự kiện đó.

Cũng như vậy, khi đàn cá bơi chung cùng nhau hoặc một bầy chim bay theo đội hình chữ V trong đàn của bọn chúng, trong đó
mỗi con ở một vị trí, vị trí đó không phải là kết quả của một sự liên kết, mà bởi vì tất cả bọn chúng đều đang cùng hoà nhịp với
chính xác chỉ một trường hấp dẫn. Theo đó, một con cá bơi ở góc của đàn cá sẽ ngay lập tức đồng bộ hoá với các con khác
trong đàn nếu chúng cảm nhận thấy có kẻ săn mồi, thậm chí cách đó cả một phần tư dặm.

Khái niệm về một sự tồn tại phi tuyến tính và có sự liên kết về một bể dữ liệu ý thức như thế có thể sẽ khó nắm bắt lúc mới đầu,
nhưng chúng ta sẽ xoay quanh chủ đề này với nhiều cách khác nhau, để cuối cùng bạn không chỉ hiểu được hiện thực của ý
thức mà còn nhận ra vị trí sống còn của bạn bên trong nó.

NỀN TẢNG KHOA HỌC CỦA NHỮNG MẪU THỨC HẤP DẪN

Sự tiến triển của nghiên cứu này bắt đầu từ năm 1965, được thúc đẩy bởi sự phát triển trong nhiều lĩnh vực khoa học, trong đó
có ba lĩnh vực có tầm quan trọng đặc biệt:

. Nghiên cứu lâm sàng về sinh lý học của hệ thần kinh và hoạt động toàn diện của cơ thể đã dẫn đến sự phát triển của nền
khoa học mới về động học kinesiology những năm 1970.

24
. Trong khi đó, lĩnh vực công nghệ máy tính được thiết kế có khả năng xử lý hàng triệu phép tính trong mỗi phần triệu giây đã
biến những công cụ mới của trí tuệ nhân tạo trở nên khả thi. Việc đột ngột truy cập được vào khối dữ liệu khổng lồ không thể
hình dung ra nổi trước đây đã tạo ra quan điểm mang tính cách mạng về các hiện tượng tự nhiên: như thuyết hỗn loạn.

. Đồng thời, trong khoa học lý thuyết, cơ học lượng tử đến vật lý lý thuyết tiên tiến, thông qua sự liên kết với toán học, đã tạo
ra một nghiên cứu hoàn toàn mới về động lực học phi tuyến tính, một thứ xác minh rằng không có gì gọi là hỗn loạn thực sự
trong vũ trụ, sự xuất hiện của rối loạn chỉ đơn thuần là một hoạt động của những giới hạn trong nhận thức.

Hấp dẫn là cách đặt tên cho một mẫu thức có thể nhận dạng được khi nó xuất hiện từ một khối dữ liệu có vẻ vô nghĩa. Có một
sự liên kết tiềm ẩn trong tất cả những điều dường như không mạch lạc. Sự gắn kết bên trong này lần đầu tiên được chứng minh
trong tự nhiên cách đây nhiều thập kỷ bởi Edward Lorenz, nhà toán học và khí tượng học của MIT, người nghiên cứu ra đồ hoạ
máy tính có nguồn gốc từ những mẫu thức về thời tiết qua những quãng thời gian dài. Những gì xuất hiện trên lớp bề mặt được
cho là hỗn loạn, rời rạc hoá ra trên thực tế đều có những mẫu thức nhất định, ông đã xác định chúng và ghi nhận đó là mẫu thức
hấp dẫn, ngày nay, nó được biết đến như “Hiệu ứng cánh bướm” bởi Edward Lorenz.

25
Lorenz đã chứng minh sự liên quan lẫn nhau của các hiện tượng có vẻ không liên quan, chẳng hạn như một thay đổi nhỏ có thể
có tác động lớn đến như thế nào. Ông ấy đã minh hoạ, cái đập cánh của một con bướm sau cùng có thể trở thành một cơn lốc
xoáy. Đây là “hiệu ứng cánh bướm” nổi tiếng của ông, một khám phá thách thức “Vũ trụ đồng hồ” của Isaac Newton- quan điểm

26
xác định tự nhiên có tính quy ước tại thời điểm đó. Những phát hiện của Lorenz đã cách mạng hoá sự hiểu biết về các hiện
tượng, chúng nổi lên như hệ quả của việc tương tác có tính mẫu thức hấp dẫn, chứ không phải quan hệ nhân quả tuyến tính.

Điều quan trọng nhất trong nghiên cứu của chúng tôi là phát hiện ra rằng, một số mẫu thức hấp dẫn rất mạnh mẽ (ví dụ như Sẵn
lòng, hoặc Yêu thương), và một số mẫu thức khác yếu hơn nhiều (ví dụ như Tội lỗi, hoặc Giận dữ). Có một điểm mấu chốt phân
biệt hai lớp này, hiện tượng ý thức này có tính song song và là kết quả tất yếu của một sự liên kết năng lượng cao và thấp trong
tính chất toán học của liên kết hoá học.

Một lĩnh vực chi phối- thống trị được thể hiện bằng các mẫu năng lượng cao trong ảnh hưởng của nó với các trường năng lượng
yếu hơn. Điều này có thể được ví như sự cộng sinh của một trường nhỏ trong một trường lớn hơn, mạnh hơn- như một nam
châm điện khổng lồ. Hiện tượng này thuộc về vũ trụ và là biểu hiện của sự tương tác các mẫu thức hấp dẫn vô tận trong những
cường độ khác nhau.

Nguyên nhân, trong một thế giới có thể quan sát được, bị nhìn nhận trong mô hình Newton một cách quy ước và được gán cho
cách thức như sau:

ABC

Đây được gọi là chuỗi tuyến tính xác định- giống như các quả bóng bi-da đập vào nhau một cách tuần tự. Giả định ngầm của
mô hình Newton là, A là nguyên nhân gây ra B, B là nguyên nhân gây ra C; trong sơ đồ thuyết xác định vật chất này, không có
gì vốn là tự nhiên, mà chỉ là kết quả của một thứ khác. Nó tồn tại bởi giới hạn, cái mà hệ thống này thực sự định nghĩa là thế
giới của Lực. Kết quả của lực A là tạo ra lực B, sau đó truyền qua lực B tạo ra lực C, tiếp tục chuỗi đó là D. Đến lượt D, lại hình
thành sự bắt đầu của một loạt hệ thống phản ứng tiếp theo, cứ thế không bao giờ dứt. Đây là thế giới của não trái, thế tục và có
thể dự đoán được. Nó là giới hạn của mô hình Newton (mức định chỉnh 450), thuộc về hoạt động của khoa học quy ước: bao
gồm sự quen thuộc, có thể kiểm soát nhưng không sáng tạo- và có tính xác định, chính vì thế nó bị giới hạn bởi quá khứ. Đó
không phải là thế giới của thiên tài, nhưng với nhiều người, nó mang lại cảm giác an toàn. Thế giới đó có tính năng suất và thực
tiễn, nhưng đối với những người sáng tạo, nó có vẻ tẻ nhạt, tầm thường, không lôi cuốn và bị hạn chế.

Đáng chú ý, nghiên cứu của chúng tôi chỉ ra rằng quan hệ nhân quả thực ra hoạt động theo một phương thức hoàn toàn khác,
trong đó phức hợp mẫu thức hấp dẫn “ABC” phân tách thông qua các “hiệu lực” của nó và được biểu thị, thay vì có vẻ là hiển
hiện dưới dạng chuỗi; A rồi đến B, rồi đến C trong nhận thức.

( Attractor Pattern: Mẫu thức hấp dẫn, Operants: các Hiệu lực, Observable Event: những
Sự kiện có thể quan sát được)

Từ biểu đồ này, chúng ta thấy rằng nguồn ABC là hiện tượng không thể quan sát được trong một thế giới ba chiều có thể đo
lường được. Đó là những vấn đề điển hình mà thế giới đang giải quyết trong những phần có thể quan sát được của ABC.
Nhưng công việc của chúng tôi là tìm ra dạng mẫu thức hấp dẫn đã có, một dạng ABC của (có vẻ là) ABC. Mô tả này về
cách hoạt động của vũ trụ phù hợp với lý thuyết của nhà vật lý David Bohm (mức định chỉnh 505), ông đã miêu tả một vũ trụ ba
chiều với một trật tự xoắn lại vô hình (“gấp lại”) và một sự phát triển rõ ràng (“mở ra”).

Chúng ta thấy rằng khái niệm ABC- một vũ trụ xếp lại vô hình- sẽ kích hoạt sự xuất hiện của thế giới hữu hình để dẫn đến chuỗi
ABC. Như vậy, thế giới hữu hình được tạo ra từ thế giới vô hình, và do đó chịu ảnh hưởng của thì tương lai. Năng lực hiện
thực hoá của khái niệm vô hình dựa trên quyền năng của chính khái niệm ban đầu. ABC bên trong càng phù hợp với các nguyên
tắc chung của cuộc sống, thì ABC ở thế giới bên ngoài càng hiệu quả.

27
Trong sơ đồ đơn giản này, hoạt lực vượt qua cả phần có thể quan sát được và phần không thể quan sát được; chúng ta có thể
hình dung về chúng như một chiếc cầu vồng nối giữa miền có thể xác định và miền không thể xác định.

Do đó, không có gì xảy ra trên thế giới nếu nó không lần đầu tiên được hình thành “trong đây”. Ý tưởng xây dựng tòa nhà cao
nhất thế giới đã tạo ra một khái niệm vô hình, mà sau cùng nó đã trở thành toà nhà Empire State trong thế giới hữu hình. Tất cả
những biểu hiện “ngoài đó” đều phát sinh trước tiên từ “nội trong đây”. Hiểu biết khoa học này tương ứng với quan điểm về thực
tại được trải nghiệm xuyên suốt lịch sử bởi các nhà hiền triết giác ngộ, những cá nhân tiến hoá vượt ra ngoài ý thức đạt đến
trạng thái nhận thức tinh khiết. Bản thân ý thức chính là chìa khoá để tìm kiếm “trường lý thuyết thống nhất của mọi thứ” (tuyên
bố mức định chỉnh 1000).

Những khái niệm và giá trị có sức mạnh nhiều hơn những thứ khác. Một ABC có thể là một năng lượng cao-hấp dẫn hoặc một
năng lượng thấp- hẫn dẫn. Nói một cách đơn giản, những mẫu thức hấp dẫn mạnh mẽ làm cơ thể mạnh lên, và những mẫu
thức yếu làm cơ thể yếu đi. Nếu bạn có một ý nghĩ tha thứ trong tâm trí, cánh tay của bạn sẽ mạnh mẽ trong kiểm tra cơ học
lâm sàng. Nếu bạn có một ý nghĩ thù hận trong tâm trí, cánh tay của bạn sẽ yếu ớt.

Mục đích của chúng tôi là chỉ cần nhận thức được rằng sức mạnh là thứ khiến bạn trở nên mạnh mẽ, trong khi vũ lực khiến bạn
yếu đi. Tình yêu thương, lòng trắc ẩn và sự bao dung có thể bị một số người lầm tưởng là phục tùng, nhưng trên thực tế đó là
những sức mạnh thâm sâu. Mặt khác, chủ nghĩa báo thù, chủ nghĩa phán xét và sự lên án, kết tội chắc chắn sẽ khiến bạn yếu
đuối. Do đó, bất kể sự chính đáng về mặt đạo đức là thế nào đi chăng nữa, có một thực tế đơn giản là về lâu dài, cái yếu không
thể chiếm ưu thế so với cái mạnh, nghĩa là những gì yếu sẽ sụp đổ theo cách riêng của nó.

Tất cả những người thầy vĩ đại trong lịch sử của giống loài chúng ta đều chỉ dạy một điều đơn thuần, lặp đi lặp lại, và trong bất
cứ ngôn ngữ nào, thời đại nào cũng thế. Đó chính là: buông bỏ những điều thu hút sự yếu đuối để đạt được những điều thu hút
sự mạnh mẽ.

Thu hút, hấp dẫn là những tổ chức nòng cốt, các tổ chức nòng cốt khác nhau có các mức sức mạnh khác nhau. Đây là một trong
những bí quyết thành công của những người quyền lực. Toàn bộ cuộc sống của họ được tổ chức một cách tự động và dễ dàng
nhờ sự liên kết hoàn chỉnh và toàn diện với các nguyên tắc rất cao và mạnh mẽ.

ÁP DỤNG CÁC MẪU HẤP DẪN

Giờ đây chúng ta đã có thể hiểu cách mà Mahatma Gandhi, một người đàn ông trầm lặng nặng chưa đến 45 cân và chỉ vận một
chiếc áo dhoti đã đánh bại cả một đế chế Anh, nó rất đơn giản. Gandhi có một sự tổ chức toàn vẹn trong mọi điều mà ông ấy
nghĩ, làm, cảm thấy và bày tỏ, trong nguyên tắc phổ quát rằng mọi người đều bình đẳng về các quyền của con người, trong tính
Thiêng liêng của tạo hoá. So với đế chế Anh, họ xuất phát từ một nền tảng hạn chế của những điều chỉ làm lợi riêng cho các
mục tiêu chính trị của họ, do đó, mẫu hấp dẫn tự cho mình là trung tâm đã bị mẫu hấp dẫn có tính phổ quát của Gandhi chế ngự.
Những gì diễn ra trong lịch sử của Ấn Độ chỉ đơn thuần là biểu hiện ra bên ngoài của một mẫu hấp dẫn kém phải phù hợp theo
mẫu hấp dẫn mạnh hơn (phải phù hợp theo “trường chi phối”).

Một kiến trúc có sức mạnh to lớn có thể kể đến là Tình yêu thương. Chúng ta biết tính chân thật của điều này từ trong chính kinh
nghiệm của nhân loại- rằng vì Tình thương mà chúng ta sẽ lăn xả và dám mạo hiểm – một điều trông khá nực cười với những
người có quan điểm lô-gic. Chúng ta được trải nghiệm vấn đề kiểu này trong những mối truyền thù cá nhân, chúng ta oán giận
người khác suốt đời vì một cái gì đó mà chúng ta luôn cho rằng họ đã sai và bất công với chúng ta. Rồi một ngày nọ, trong khi
đang làm vườn chẳng hạn, chúng ta đột nhiên cảm thấy buồn chất ngất thay cho người kia vì đã lỡ thái quá với họ. Những người
này phải thoát ra khỏi nỗi sợ để có trạng thái đó. Đột nhiên, lòng trắc ẩn của sự thấu hiểu mở ra một trường hấp dẫn mạnh mẽ.
Trong tích tắc, một chuyện tưởng chừng nan giải lại được giải quyết ngay lập tức. Chúng ta không chỉ ân xá và xem nó như
chuyện chưa từng xảy ra, mà chúng ta còn nhận ra, thật ra vốn dĩ ngay từ đầu, nó chẳng có gì đáng để thái quá như thế cả,
không có thái quá, và cũng không cần phải thứ tha gì ở đây, hoạ chăng phần người của người đó gây ra lỗi. Nhưng một khi
chúng ta sở hữu được phần người của mình, nó lại rất đơn giản để tha thứ cho phần người của người khác. Chúng ta làm điều
này càng thường xuyên, nó sẽ càng trở nên dễ dàng hơn.

28
Rõ ràng là, một mẫu thức hấp dẫn có thể chi phối được tất cả chúng ta tự nó cũng chính là mẫu thức hấp dẫn cuộc sống. Cũng
như không có gì trong vũ trụ có thể thoát khỏi ảnh hưởng của luật hấp dẫn; hoặc các nguyên tắc mà chúng ta vận hành trùng
khớp với mẫu thức hấp dẫn của sự sống, hoặc là không. Sức mạnh đến từ việc phù hợp được với mẫu thức hấp dẫn có tính chi
phối, hay nói cách khác là những mẫu thức hấp dẫn củng cố cho cuộc sống.

Nghiệm lý về Sơ đồ Ý thức đảo ngược cách hiểu của thế giới về quy luật nhân quả. Về mặt này, Tuyên ngôn Độc lập có thể
cung cấp một tài liệu tham khảo đáng trân trọng, nó có mức định chỉnh rất cao, khoảng 700. Nếu xem qua nó từng câu một,
nguồn sức mạnh của nó sẽ bộc lộ: nó hàm chứa khái niệm tất cả đều bình đẳng nhờ vào sự thiêng liêng của Tạo hoá, và quyền
con người là bản chất của sự sáng tạo, do đó không thể chuyển nhượng. Thú vị thay, đây cũng chính là khái niệm của nguồn
gốc sức mạnh của Mahatma Ganhdi, ABC rất mạnh này giải thích cho sự thành công của Hoa Kỳ với tư cách là một nền Dân
chủ ở cấp độ có thể quan sát được ABC. Nếu tính thiêng liêng của phần tham chiếu bị xoá khỏi tài liệu này, mức định chỉnh
giảm xuống đáng kể.

CÁC CỘT CỦA SƠ ĐỒ

• Cột trung tâm của sơ đồ chứa các mức độ của ý thức trong từng trường năng lượng, cùng với các giá trị số lô-ga-
rit tương ứng. Chương kế tiếp sẽ đi mô tả cột trung tâm này và mổ xẻ chi tiết trong bản chất của mỗi cấp độ. Phần
giới thiệu là bốn cột ở hai bên của cột cấp độ ý thức trên sơ đồ. Chúng chỉ ra các khía cạnh chính trong trải nghiệm
của con người tương quan với từng cấp độ ý thức: quan điểm về Thượng Đế, quan điểm về bản thân, cảm xúc và
quá trình diễn ra bên trong ý thức. Phần sau của quyển sách cho thấy chức năng não bộ và tỷ lệ hạnh phúc cũng
tương quan với mức độ ý thức.
• Cột ngoài cùng bên trái Sơ đồ hiển thị quan điểm về Thượng Đế. Mỗi cấp độ có sự hiểu biết riêng của mình về Thượng
Đế, một hiện thực lý giải cho sự tồn tại của tâm linh thần học và những niềm tin tôn giáo khác nhau. Quan điểm của
một người về Thượng Đế không liên quan gì đến Thượng Đế, mà đúng hơn, cấp độ ý thức của họ mới là cái quyết
định.
Ở dưới cùng của Sơ đồ, chúng ta thấy những miêu tả quỷ ám về Thượng Đế, những cách xây dựng nhân cách hoá
về Thượng Đế- một đối tượng ưa trừng phạt, đồng bóng, độc ác và đáng sợ. Trong một số sách Kinh thánh và trong
các niềm tin nguyên thuỷ, thần thánh sẽ phù hộ nếu được hiến tế bằng động vật hoặc chính con người. Thậm chí đến
ngày nay vẫn tồn tại rất nhiều dự đoán về “Thời kỳ diệt vong”, trong đó mô tả các sự kiện tự nhiên như sóng thần là
bằng chứng về sự giận dữ của Thượng Đế và sự ứng nghiệm của một số dự đoán từ Kinh thánh. Đây là mặt trái của
tôn giáo, đó là lý do nhiều người trở nên tâm linh và không còn cần tôn giáo nữa. Những miêu tả về Thượng Đế như
vậy hiển nhiên là nguỵ biện, bởi như chúng ta đã biết, sóng thần, động đất, bão tố đã xảy ra cách đây rất lâu trước khi
có cả loài người! Những thảm hoạ tự nhiên đó có vẻ đã xoá sổ loài khủng long. Vậy Thượng Đế hẳn đã nổi giận với
khủng long mới đúng. Những quan điểm về Thượng Đế như thế rõ ràng là sự tiêu cực từ trong cái tôi của con người
tạo ra.
Ở những cấp độ ý thức cao, Thượng Đế được nhìn nhận là nhân từ, trí tuệ, có tình thương vô hạn và vô cùng khoan
dung. Từ những cấp độ này, Thượng Đế được cho là nguồn cội của tình yêu, sự hợp nhất và là chúng sanh. Sau hết,
Sự Thiêng Liêng về bản chất là soi rọi tất cả mọi điều tiến lên phía trước, như câu Vinh Danh Thiên Chúa Trên Trời
(Vinh Danh Thượng Đế Tối Cao) đã nói lên tất cả.
• Sơ đồ có một cột biểu thị cho quan điểm của một người về cuộc sống. Những ai ở mức độ ý thức thấp thấy ghét bản
thân của họ, và họ phóng chiếu sự hận thù đó vào thế giới, họ nhìn thấy cái ác, cái xấu ở khắp mọi nơi. Một khi tiến
lên mức độ cao hơn, quan điểm về bản thân và cuộc sống của bạn trở nên tích cực và tích cực hơn, để sau cùng bạn
có trạng thái thoải mái với bản thân. “Là chính mình” có mức định chỉnh 590 , đó là cấp độ ý thức của Joseph Merrick,
một người đàn ông được đặt cho cái tên Người Voi vì một chứng bệnh về xương khiến ông bị biến dạng. Bất chấp sự
chế nhạo và giễu cợt, bị xã hội ruồng rẫy, thái độ và cách cư xử của ông vẫn vô cùng thánh thiện. Ông luôn dịu dàng,
tha thứ, không phản ứng gay gắt và có sự từ bi. Ngay cả khi đối mặt với sự không biết điều ở những cấp độ sơ đẳng
nhất. Ông vẫn thể hiện được tính chất khác biệt của mình trong bối cảnh cuộc sống kỳ dị của ông, nó tượng trưng cho
khả năng tâm linh trong những điều kiện khắc nghiệt nhất. Đáng chú ý, ông phớt lờ được cám dỗ của sự tự thương
hại, chủ nghĩa nạn nhân, sự oán giận và lòng thù hằn đối với những kẻ đã hành hạ ông. Ở mức định chỉnh 590, ông
đứng bên ngưỡng của Sự Giác Ngộ và có một sự bình yên tự trong tâm và với thế giới bên ngoài.

Một cái nhìn ban đầu về bản thân là một bước quan trọng, vì nó khẳng định lại một sự thật rằng bạn đang nỗ lực muốn
sống tốt. Trên thực tế, mỗi con người từ những thời điểm này đến những thời điểm khác đều cần cố gắng làm những
điều tốt nhất có thể. Không giả thuyết nào chứng minh được điều ngoại lệ. Từ một trường năng lượng tiêu cực, những
người đó đặt ra giả thuyết về những lý tưởng bất khả thi cho bản thân họ, sau đó lao vào cảm giác tội lỗi và tự trừng
phạt khi họ không thể đạt đến được. Tính chất tự hài lòng ở cấp độ Trung tính (250) ghi nhận một sự giảm bớt đáng
kể về sự tiêu cực dành cho bản thân cũng như gắn chặt vào những trải nghiệm tự nghi ngờ bản thân trong những cấp

29
độ thấp hơn. Những người có sự tổ chức trên bình diện tổng thể có khả năng nhận thấy rằng, có một lĩnh vực nào đó
trong cuộc sống mà bạn phải chịu cái nhìn tiêu cực về bản thân, và sẽ rất tự do nếu bạn cởi bỏ được sự phản kháng
đó. Lấy ví dụ, một người phụ nữ rũ bỏ được sự tiêu cực về cơ thể của cô ấy và giải phóng thói quen hay so sánh mình
với những phụ nữ khác. Một người đàn ông vượt qua nỗi sợ khi nói trước đám đông và được giải phóng để tiến vào
những lĩnh vực tiến bộ và dám thể hiện bản thân.
• Cột bên phải là danh sách các cảm xúc cụ thể có tương quan với từng cấp độ riêng. Chúng là những trạng thái kinh
điển được thấy nhiều trong triết học cổ, phân tâm học và nhiều tôn giáo khác. Dưới mức 200, chúng tôi thấy phân tâm
học liệt chúng vào dạng cảm xúc “khẩn cấp”, trên 200 là cảm xúc “phúc lợi”. Tất cả những cảm xúc mức độ thấp đều
mang lại hạn chế và khiến chúng ta mù quáng với Chân ngã thực sự của chúng ta.
Việc kháng cự lại cảm xúc tiêu cực khiến chúng ta bị vướng trong trạng thái mắc kẹt. Nếu bạn sẵn sàng buông bỏ
những cảm xúc tiêu cực, bạn sẽ tự do hơn và tiến lên phía trên của sơ đồ, sau cùng, chủ yếu là trải nghiệm những
cảm giác tích cực. Ở phần trên cùng của thang đo, một người sẽ nhận ra Chân ngã của mình trong những mức độ
Soi sáng khác nhau. Cái chính là chúng ta cần lưu ý một điều, khi con người ngày càng cao hơn và tự do hơn, thì cái
mà thế giới gọi là nhận thức tâm linh, trực giác và sự tiến triển của ý thức sẽ xảy ra. Những điều mà các cấp độ ý thức
bên dưới không thể nhìn thấy hoặc có trải nghiệm. Nhưng chúng lại là chuyện rõ ràng và hiển nhiên đối với những
cấp độ bên trên. Chẳng hạn, khi một người ở cự ly của Khao khát ( mức định chỉnh 125), người ta không thể tưởng
tượng được Bình yên, thanh thản (mức định chỉnh 540) là có thật. Tuy nhiên, đối với những người nghiện phục hồi,
Thanh thản là một thực tại thường thấy.
Nên nhớ rằng, các mối tương quan của cảm xúc trong những trường năng lượng của ý thức hiếm khi được biểu hiện
ra thành một trạng thái thuần tuý, đơn lẻ của một cá nhân. Một người có thể thuộc về một cấp độ trong từng lĩnh vực
một của cuộc sống. Mức độ ý thức của một cá nhân là tổng hiệu quả của tất cả các mức độ cùng phát ra hoạt lực
trong cuộc sống của họ.
• Xa hơn về phía bên phải cho thấy quá trình của ý thức. Ví dụ, ở mức độ Tự hào, thổi phồng là một quá trình diễn ra
trong chính ý thức và đặc biệt nguy hiểm trong xã hội của chúng ta, với lòng tự ái “Tôi là người đúng” dễ ra gây tranh
cãi, (ở cả hai đỉnh của quang phổ chính trị) và thổi phồng bản ngã ở những người thích làm chuyện lớn lao, tự cao tự
đại- những người thường để lại đống lộn xộn sau khi chết. Hiện tượng này có thể được quan sát trong lịch sử, đó là
trường hợp của Napoleon, với mức độ ý thức ban đầu khá cao, 450, ông là một nhà chiến lược tài ba, một thiên tài
toán học và đạt được những thành tựu khác. Rồi đột nhiên, khi ông ấy tự đăng quang ngôi vị Hoàng đế, cấp độ của
ông ấy giảm xuống dưới 200. Trong khi Giáo hoàng mới là người đăng quang cho những người đứng đầu khác ở
Châu âu, thì Napoleon lại tự làm việc này- một kẻ vĩ cuồng! Với việc đó, mức định chỉnh của ông ấy rớt từ 450 xuống
còn 175. Khi đối mặt với Công tước Wellington (mức định chỉnh 420) trận Waterloo, mục đích của Napoleon có mức
định chỉnh 75, và tất nhiên ông ta đã bị đánh bại. Chuyện tương tự xảy ra với Hitler, một người rớt từ 430 xuống 40.
Khi kẻ siêu hoang tưởng tự đại này tấn công một nhà lãnh đạo, dân chúng vẫn chưa nhận ra chuyện gì. Ban đầu, các
chương trình của Hitler giúp thúc đẩy xã hội, autobahn và một số hoạt động khác. Nhưng đột nhiên ông ấy rớt cấp độ,
và con quái vật trỗi dậy. Những gì từng là một ân nhân vĩ đại đã trở thành kẻ sát nhân cộng đồng.
Do đó Sơ đồ ý thức còn có một khả năng là soi rọi tiến trình lịch sử. Một sự khác biệt quan trọng trong Ý định, Mục
đích giữa Lực (dưới 200) và Sức mạnh (trên 200). Chẳng hạn, chúng ta có thể xem xét một thời đại trong lịch sử, ví
dụ như sự kết thúc của Chủ nghĩa thực dân Anh ở Ấn Độ. Như đã đề cập trước đó, Đế quốc Anh thời điểm đó (mức
định chỉnh 175)- vốn là một trong những sự thổi phồng, tư lợi, bóc lột, và chúng tôi nhận thấy họ thuộc về mức dưới
Chuyển đổi 200 (Critical level 200) trên Sơ đồ Ý thức. Động lực của Mahatma Gandhi (mức định chỉnh 760) ở gần
đỉnh cao nhất của Sơ đồ. Gandhi đã chiến thắng trong cuộc đấu tranh này vì ông ở một vị thế có Sức mạnh hơn nhiều,
ông phù hợp hơn với nguyên tắc Chân lý phổ quát: rằng tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng. Đế chế Anh đại diện
cho Lực, bất cứ khi nào Lực gặp Sức mạnh, đến cuối cùng nó đều bị đánh bại.
Trong suốt chiều dài lịch sự, những tôn giáo và những nguyên tắc kỷ luật tâm linh đồ sộ trên thế giới đều quan tâm
đến những kỹ thuật giúp thăng tiến qua các cấp độ ý thức này. Hầu hết đều đã ngụ ý hoặc có những tuyên bố cụ thể,
rằng việc tiến bộ trên nấc thang này là một nhiệm vụ gian khó, việc thành công phụ thuộc vào việc có một giáo viên,
một người hướng dẫn (hoặc ít nhất là chỉ bảo) để chỉ dẫn cụ thể và truyền cảm hứng cho những người có khao khát,
nếu không bọn họ có thể tuyệt vọng vì không có khả năng đạt được mục nếu không có sự trợ giúp. Hy vọng rằng, Sơ
đồ sẽ giúp tạo điều kiện thuận lợi cho những nỗ lực vô hạn của con người.

MỤC HỎI ĐÁP

HỎI: Cái gì quyết định cấp độ ý thức của một người?

ĐÁP: Mức độ ý thức của một cá nhân được xác định bởi các nguyên tắc mà người đó cam kết. Để duy trì sự tiến bộ
trong ý thức, không thể có sự dao động về nguyên tắc, hoặc cá nhân đó sẽ bị rơi trở lại vào cấp độ thấp hơn. Tính
thiết thực của “kết quả sau cùng quyết định ý nghĩa” chưa bao giờ là một lời biện minh thích đáng. Nếu giết người là
một việc sai, thì nguyên tắc nào cũng không được phép có ngoại lệ, bất kể cảm xúc được sử dụng để biện minh cho
sự ngoại lệ đó có hấp dẫn đến thế nào đi nữa. Gandhi không dao động khỏi các nguyên tắc của ông, đối với ông, bất
bạo động hoà bình vừa là phương tiện vừa là cứu cánh, và ông giữ nguyên tắc bất bạo động trong toàn thể “suy nghĩ,
lời nói và hành động” (lời của Gandhi).

HỎI: Độ tuổi nào có thể được định chỉnh?

30
ĐÁP: Theo nghiên cứu của chúng tôi, mọi thực thể- tại thời điểm thụ thai ( linh hồn đi vào cơ thể ở tháng thứ ba của
thai kỳ)- đã có một mức độ ý thức có thể định chỉnh được.

HỎI: Sự định chỉnh của Sơ đồ ý thức không ngụ ý đánh giá giá trị hoặc sự xứng đáng, đúng không? Nếu thế,
mức độ Tình yêu (500) đâu tốt hơn mức độ Lý trí (400)?

ĐÁP: Sơ đồ không biểu thị tính “tốt hơn”, đó là một phóng chiếu của bản ngã. Thay vì vậy, nó đơn thuần là chỉ ra vị trí
hoặc nơi, chỗ và các đặc điểm có liên quan đến nơi đó, chỗ đó. Một cái cây to không “tốt hơn” một cái cây nhỏ, viên
gạch bên dưới bức tường không “tốt hơn” viên ở trên cùng, chúng đều cần thiết như nhau để giữ cho bức tường vững
chãi. Do đó, mức độ ý thức biểu thị một quỹ tích trên một đường cong học tập và một giai đoạn mà ý thức đã và đang
tiến triển đến. Niềm vui của cuộc sống đến từ việc hoàn thành tiềm năng trong mỗi con người ở bất kỳ mức độ nào.
Mỗi cấp độ đều có riêng một phần thưởng và ai ai cũng đều thật sự sẽ cảm thấy như vậy. Một cuộc đời phụng sự cho
Thượng Đế hoặc cho một mục đích cao cả nào đó chính là không ngừng thành toàn bản thân. Trong khi ngược lại,
một cuộc sống tư lợi lại chứa đầy những cạm bẫy và sẽ bóp nghẹt chúng ta.
Mỗi cấp độ có một sự phù hợp riêng cho những ai thuộc về nó. Những người mức 700 không thích hợp để làm thợ
mộc, không thích hợp để vận hành một nhà thờ, và không thích hợp để làm tổng thống. Hầu hết các nhà hiền triết
mức 700 không thể hoạt động theo những cách trên. Họ chỉ ngồi trong đạo tràng, mỉm cười vui vẻ đáp lại khi có ai đến
chào họ, và như thế. Những con người mức 200 và 300 là những người xây dựng nên thế giới, họ là những thợ xây,
những công nhân luyện thép, những người đi làm mỗi ngày, bọn họ là xương sống của xã hội chúng ta. 400 là thế
giới của trí tuệ, nó bao gồm lô-gic và các lý luận, và nó thống trị nước Mỹ. Cảnh giới của Tình thương là mức 500- rất
hiếm; tình yêu vô điều kiện là mức 540- cực kỳ hiếm, trên thực tế gần như không có ai. 500 không tốt hơn 200, chỉ là
hai không gian khác nhau, như kiểu hai địa điểm trên một bản đồ. Vấn đề là nếu bạn bắt đầu đi từ chỗ này, sẽ khác
với bạn bắt đầu đi từ chỗ kia, như kiểu khởi hành từ Albuquerque hay từ Denver. Chúng ta ở những nơi khác nhau,
do đó chúng ta xem xét các địa đồ khác nhau, và các bài tập khác nhau.
Mọi thứ đều tròn đầy như tự chính nó. Không có sự thiếu hụt ở bất cứ đâu. Khi bạn hiểu về vũ trụ, bạn sẽ thấy mọi
thứ đi từ sự “tròn đầy” này đến một sự “tròn đầy” khác. Tất cả mọi điều là hoàn chỉnh và hoàn hảo ngay tại đây, trong
lúc này. Tất cả chúng ta đều là biểu hiện hoàn hảo trong sự tiến hoá của toàn bộ nghiệp theo một cách tròn vẹn vừa
đủ, không thừa, không thiếu cho đến thời điểm ngay bây giờ. Tất cả chúng ta đều phụng sự hoàn toàn bất kể điều
kiện và mức độ của chúng ta có là thế nào đi nữa.

HỎI: Định chỉnh ý thức là gì?

ĐÁP: Sơ đồ ý thức cho phép chúng ta phân biệt bản chất nếu nó đối nghịch với nhận thức. Ví dụ, có ai đó nói với bạn
thế này “Tôi đến đây là vì tình bằng hữu”, nếu anh ta được định chỉnh ở mức 190, bạn có thể tin anh ta rồi! Anh ấy nói
một điều gì đó và trông có vẻ hiền lành, nhưng thật ra, anh ta đang có một ý định khác, và ý định đó không mang lại
điều tốt cho bạn. “Sói đội lốt cừu” là cách chúng tôi mô tả một người như vậy.
Khi định chỉnh một điều gì đó dựa trên Sơ đồ ý thức, chúng ta đang làm công việc phân biệt mức độ của sự thật, tình
yêu, tính chính trực và lòng tốt ở một thứ cụ thể cho một người cụ thể. Chúng ta hứng thú với tính chân thật và bản
chất của trường năng lượng, đó là động lực và mục đích. Chúng ta có một kết quả tích cực nếu câu hỏi có tính thật.
Sự định chỉnh ý thức tương đương với tính chân thật của câu hỏi và câu trả lời. Nếu nó giả, nó sẽ không có hiện thực
trong trường vô hạn của ý thức. Ý thức chỉ có thể ghi nhận những gì đúng đang tồn tại. Do đó, nếu chúng ta hỏi điều
gì đó không đúng, không có trong hiện thực, cánh tay sẽ yếu đi. Nếu chúng ta hỏi về một điều đúng, cánh tay vẫn khoẻ
mạnh. Ý kiến cá nhân hoặc nhận thức của người thử nghiệm không tham gia vào thử nghiệm. Khi chúng tôi sử dụng
khoa học sự sống để kiểm tra cơ bắp nhằm xác định tính chân thật của một điều gì đó trong trường vô hạn của ý thức,
nghĩa là chúng tôi đang sử dụng cơ học để thu gọn hàm sóng từ tiềm năng trở thành thực tế. Nếu câu hỏi khớp với
thực tế, chúng tôi nhận được phản hồi mạnh mẽ.
Thử thách và kết quả hoàn toàn tách rời nhau, hầu hết mọi người đều có sự gắn bó vô thức với một câu trả lời nào
đó, vì vậy việc kiểm tra của họ không chính xác. Khi tôi kiểm tra một điều gì đó, tôi không quan tâm đến câu trả lời,
mà tôi quan tâm đến tính chân thật hơn.

HỎI: Tôi có thể tự định chỉnh cho mình không?

ĐÁP: Tôi khuyên các bạn không nên tự định chỉnh ý thức cho mình, bởi vì chúng không thể có sự tách biệt và khách
quan. Bạn phải vượt lên trên cấp độ thánh nhân để không quan tâm đến việc biết mức độ ý thức của chính mình, vì
thế bạn không thể nhận được một kết quả chính xác. Nếu đi nghiên cứu Sơ đồ, bạn sẽ thấy cảm xúc thịnh hành và
quan điểm của bạn về Thượng Đế v..vv.., những điều này sẽ cho bạn biết bạn đang ở đâu. Nếu bạn thấy ghét tất cả
mọi người, bạn bị hoang tưởng, nghĩa là bạn vẫn chưa đủ thành thật lắm! Bạn cũng có thể đoán được mình đang ở
đâu bằng việc xem cách mọi người đối với bạn, nếu mọi người ghét bạn, nghĩa là bạn đang có vấn đề!

HỎI: Một người có cần phải tin vào Thượng Đế để tiến hành đo mức định chỉnh và phù hợp được với Sơ đồ
ý thức hay không?

31
ĐÁP: Không cần phải tin vào Thượng Đế. Như chúng ta đã thấy trên bản tin hàng ngày, những người được gọi là có
Đức tin vẫn có thể gây ra những điều khủng khiếp nhân danh Thượng Đế và có mức định chỉnh khá thấp trên Sơ đồ,
bởi vì mục đích của họ đến từ sự căm hận, tội lỗi, nỗi sợ, đòi hỏi và kiêu hãnh. Bản thân Đức Phật cũng tránh gắn
mình vào với Thượng Đế bởi những đạo lý có liên quan đến điều đó. Ông ấy nói thay cho tính Phật, cái mà chúng ta
cũng có thể xem như Sự Thật. Nào có ai không muốn cống hiến cho Sự Thật? Đó mới là vấn đề quan trọng trong sự
tiến hoá của ý thức.
Tôi đã từng là một người vô thần trong nhiều năm, nên tôi thông cảm cho những người vô thần. Là một người theo
chủ nghĩa vô thần, tôi đã tỉ mỉ tìm hiểu về tính cốt lõi của sự thật về sự tồn tại. Do đó, tôi hiểu những nghi hoặc về tính
xác thực của loại trí tuệ này. Thành thật mà nói, tôi không thể xác nhận về độ tin cậy của tính chất thần thánh, nhưng
ít nhất là tôi đang trung thực, và trung thực là điều tiên quyết cho tính chính trực trên Sơ đồ ý thức. Thế rồi tôi chuyển
từ người theo thuyết vô thần sang người theo chủ nghĩa bất khả tri- tức là không thể khẳng định có hay không. Chúng
ta có thể nói rằng nó phức tạp và khiêm tốn hơn chủ nghĩa vô thần, bởi nó thừa nhận những hạn chế của trí tuệ, đồng
thời công nhận khả năng vượt qua quan hệ nhân quả tuyến tính như một lời giải thích cho các hiện tượng.
Cơ học lượng tử là con đường thoát ra khỏi miền suy nghĩ tuyến tính hạn chế của Newton, thông qua nguyên lý
Heisenberg- cái mà chúng ta có được khám phá thú vị rằng chỉ quan sát một sự vật đã có thể làm thay đổi kết quả bởi
bạn có đưa ra tác động của ý thức. Mức độ ý thức của người quan sát có ảnh hưởng sâu sắc đến những gì đang
được quan sát. Và không cần phải tin vào Thượng Đế hay Chúa trời để đồng ý với nguyên tắc khoa học này.
Sự nghi hoặc và không tin tưởng thường dự báo cho bước nhảy vọt về ý thức từ những trường hợp phải gánh chịu
hệ quả của hối hận, thất vọng, tai hoạ trước đó, hoặc đơn thuần chỉ là một bước trưởng thành có sự xuất hiện của trí
tuệ. Điều này đã được ghi nhận trên nhiều trường hợp, ngay cả những bậc thánh cũng đã từng trải nghiệm những sự
cải tà quy chánh tương tự, bao gồm cả những điều có tính chất kỳ diệu. Đó là một trong những con đường để qua,
trong đó người ta đánh mất đức tin hoặc niềm tin tôn giáo từ rất sớm vì những sự kiện thảm khốc, và qua nhiều năm
tìm kiếm chân lý, họ tự mình xác định được. Một kiểu tự khám phá nội tâm như thế có con đường phát triển với tốc
độ khá nhanh thông qua thực hành thiền định mà không cần phải có một hệ thống đức tin nào. Phật giáo khá thực tế
và hấp dẫn, Ngài đã dạy về Bát chánh đạo- một con đường để đi mà không cần phải tin vào “thánh thần”.
Một con đường khác dành cho những người không có đức tin được cung cấp bởi kinh Vệ Đà và Upanishad cổ đại- đã
tiên liệu cho những khám phá của cơ học lượng tử. Họ cũng có nói về thực tại cuối cùng của nguyên lý tuyệt đối và
bản thân trường vô hạn của ý thức là một thực tại nguyên thuỷ nằm ngoài khu vực ảo tưởng của nhận thức và tinh
thần. Con đường của Advaita (nhất nguyên) là con đường nguyên sơ cho việc tìm kiếm chân lý toàn diện loại trừ hết
tất cả hệ thống niềm tin (điều này được mô tả chi tiết trong các tác phẩm trước đây, The Eye of I and I: reality and
subjectivity). Mặc dù nhất nguyên (bất nhị nguyên) dẫn đến Giác ngộ, song việc nghiên cứu Vedanta có thể dẫn đến
tham gia quá nhiều vào các trường phái triết học Ấn Độ khác nhau và sau đó hình thành nên một hệ thống niềm tin
mất tập trung.

HỎI: Việc tiến hoá từ một cấp độ này lên một cấp độ khác trong một cuộc đời có phổ biến không?

ĐÁP: Một vài cá nhân trong sự cô đơn, biệt lập có thể tạo ra những bước nhảy tích cực đột ngột, thậm chí cách biệt
hàng trăm điểm; tuy nhiên, trường năng lượng được định chỉnh cho một cá nhân khi vừa sinh ra chỉ tăng trung bình
khoảng năm điểm. Phần lớn mọi người sử dụng kinh nghiệm lúc sống của họ để xây dựng và thể hiện biến số của
trường năng lượng bản chất của họ: đó là những cá nhân hiếm hoi có động lực và quản lý tốt để vượt lên. Nếu không
có bài tập về sự chọn lựa, cân nhắc, sẽ không có sự tiến triển nào xảy ra. Thậm chí có thể “sụp” xuống mức thấp hơn,
như chúng ta đã thấy với trường hợp của Napoleon và Hitler. Điều này xảy ra trong cuộc sống của những vị thầy tâm
linh, những người cũng bị rơi từ những cấp độ ý thức cao xuống thấp do sai sót trong phán đoán. Họ đã không được
cảnh báo về những cám dỗ phải đối mặt khi ở cấp độ đó: tiền bạc, tình dục, danh vọng, và quyền lực lên những người
khác.
Có một yếu tố quan trọng trong Thuyết hỗn loạn, được xem là hữu ích để nắm bắt được sự tiến hoá của ý thức, đó là
quy luật sai một li đi một dặm. Điều này đề cập đến một thực tế là, chỉ một thay đổi nhỏ trong tiến trình có thể tạo ra
sự thay đổi lớn sâu sắc, giống như con tàu có một chiếc la bàn với vòng bi bị lệch, sau cùng nó có thể đi chệch hàng
trăm dặm. Hiện tượng này là một cơ chế thiết yếu của mọi quá trình tiến hoá. Nếu có cam kết thực hành dù là chỉ một
nguyên tắc tâm linh, cũng có thể dẫn đến một sự thay đổi sâu sắc theo thời gian. Tương tự, một lỗi đơn lẻ hoặc một
sự giả dối, nếu được lặp đi lặp lại đủ thường xuyên, có thể khiến một người, (hoặc một tổ chức, hoặc cả xã hội) đi
lệch theo chiều hướng đáng kể.

32
CHƯƠNG HAI

CÁC CẤP ĐỘ CỦA Ý THỨC

Trung tâm của Sơ đồ chính là các cấp độ của ý thức, với các giá trị số tương ứng trên thang ý thức, được định chỉnh từ 1 đến
1000, trong đó 1 biểu thị cho sự tồn tại và 1000 là cấp độ Chân lý cao nhất xảy ra trên hành tinh.

Điều cực kỳ quan trọng mà chúng ta cần ghi nhớ đó là, số liệu định chỉnh không đại diện cho một cấp số cộng, mà là một cấp
số nhân lô-ga-rit. Do đó, mức 300 không phải là hai lần của 150, mà là 10 luỹ thừa 300 (10³ºº). Chính vì thế, sự gia tăng dù chỉ
là một vài điểm khác biệt cũng thể hiện một bước tiến lớn về sức mạnh; tốc độ gia tăng sức mạnh khi chúng ta tiến triển về mặt
quy mô là vô cùng lớn.

Tất cả các cấp độ dưới 200 đều là vũ lực và huỷ hoại cuộc sống của cá nhân đó, cũng như xã hội nói chung; ngược lại, các mức
trên 200 là một yếu tố quan trọng, nó là điểm phân chia hai khu vực của Vũ lực (dối lừa) và Sức mạnh ( chân thật).

Mỗi cấp độ ở đây đều có mô hình thực tế và giá trị riêng xác định những gì có thể chấp nhận được trong phạm vi của nó. Ví dụ,
ở các trường năng lượng dưới 200, những việc như nuôi dưỡng lòng thù hận, trở thành một gian thương, hoặc giết chết kẻ
thù… trở nên có nghĩa và dễ hiểu. Trong một số nền văn hoá, nếu bạn không thực hiện được một cuộc giết chóc báo thù, nghĩa
là bạn đang gặp nguy hiểm với chính tính mạng của mình. Ngược lại, ở những khu vực trên 200, những hành động như vậy
thậm chí bạn còn không nghĩ tới. Ở trường năng lượng Lý trí (400 và hơn), tình yêu, những nguyện cầu hay những thực tại tâm
linh khác không thể được chứng minh bằng lô-gic, nhưng nếu ở trường năng lượng Tình yêu thương (500 và hơn), sự thật về
những điều đó lại có tính thuyết phục một cách chủ quan, vượt lên khỏi những hoài nghi, nghi hoặc.

MỨC ĐỘ NĂNG LƯỢNG 20: TỦI HỔ, XẤU HỔ

Mức độ Xấu hổ mang hiểm hoạ gần với cái chết, nó gần như là một lối thoát khi những người ở khu vực này thường chọn tự
sát có ý thức theo một cách tinh vi, vì họ không thể thực hiện các bước để kéo dài cuộc sống, nếu là “tự sát thụ động”, thì phổ
biến là những ca tử vong do tai nạn có thể tránh được. Nhận thức của những người này mang một nỗi đau khổ về việc bị “mất
mặt”, trở nên mất uy tín hoặc cảm thấy “không giống người ta”. Trong trường Xấu hổ, những người này cúi đầu, rúm ró và ước
gì họ có thể tàng hình, việc bị trục xuất truyền thống có thể tạo ra Xấu hổ, trong các xã hội nguyên thuỷ, trục xuất tương đương
với cái chết.

33
Những trải nghiệm sớm trong cuộc đời như bị lạm dụng tình dục có thể dẫn đến Xấu hổ, và có khả năng bóp méo nhân cách
trong suốt cuộc đời đó, trừ phi những vấn đề kiểu này được giải quyết bằng phương pháp trị liệu. Xấu hổ- như Frued định nghĩa-
có thể gây rối loạn chức năng thần kinh. Nó tàn phá cảm xúc, tâm lý, là hậu quả của việc bị giảm lòng tự trọng. Kéo theo việc
phát triển các căn bệnh về thể chất. Tính cách nền tảng của Xấu hổ là mắc cỡ, thu mình, và nội tâm.

Xấu hổ cũng được dùng như công cụ của tội ác, và thường nạn nhân của nó sau đó cũng đi hành hạ tiếp lên kẻ khác. Những
đứa trẻ xấu hổ hay đối xử tàn nhẫn với động vật và tàn nhẫn với những đứa trẻ khác. Hành vi của những người có mức độ ý
thức 20 được xem là nguy hiểm. Họ dễ bị ảo giác đi buộc tội kẻ khác, và hoang tưởng, hoặc trở nên loạn thần, phạm những tội
kỳ quái.

Một số cá nhân dựa trên Xấu hổ sẽ bù đắp bằng chủ nghĩa hoàn hảo và cứng nhắc, thường trở nên cố chấp và cứng đầu. Ví dụ
nổi tiếng về những người kiểu này là thường cực đoan về đạo đức, thành lập những nhóm cảnh báo, thể hiện sự xấu hổ vô thức
của chính họ lên những người khác, sau đó cảm thấy có lý khi tấn công những người đó, hoặc thậm chí là giết người và thấy
chính đáng. Những sát thủ liên hoàn thường hành động để chống lại chủ nghĩa luân lý tình dục, lấy lý do là trừng phạt những
người phụ nữ lăng loàn.

Và bởi nó kéo toàn bộ nhân cách của một cá nhân xuống, nên Xấu hổ dẫn đến việc dễ bị tổn thương trước những cảm xúc tiêu
cực khác, do đó nó tạo ra những kiểu Kiêu hãnh, Giận dữ và Tội lỗi lệch lạc.

MỨC ĐỘ NĂNG LƯỢNG 30: TỘI LỖI, MẶC CẢM

Cảm giác Tội lỗi thường được sử dụng trong xã hội của chúng ta để thao túng và trừng phạt, thể hiện bằng nhiều biểu hiện khác
nhau, chẳng hạn như hối hận, tự thu mình, khổ dâm và toàn bộ những biểu hiện của chủ nghĩa nạn nhân. Cảm giác tội lỗi vô
thức dẫn đến chứng tâm thần, dễ bị tai nạn và có hành vi tự sát. Nhiều người vật lộn với cảm giác Tội lỗi suốt cả đời, số khác
thì trốn tránh một cách tuyệt vọng bằng cách phủ nhận hoàn toàn Tội lỗi theo cách vô đạo đức.

Sự thống trị của cảm giác Tội lỗi dẫn đến mối bận tâm về “tội đồ”, một thái độ cảm xúc không thể tha thứ thường xuyên bị khai
thác bởi những kẻ nhân danh tôn giáo để phá bĩnh, họ sử dụng nó để ép buộc và kiểm soát. Cơ chế “tội đồ và sự cứu chuộc”
này được vận hành bởi nỗi ám ảnh sợ bị trừng phạt, áp dụng lên chính những người có cảm giác này hoặc quy nó lên những
người vô can khác.

Các nền văn hoá không phổ biến thường thể hiện sự lầm lạc bằng cách tự đánh mình bằng roi da, nó còn biểu hiện những tính
tàn ác đặc hữu khác như nghi thức giết người hoặc động vật nơi công cộng. Cảm giác Tội lỗi kích thích cơn thịnh nộ, và có biểu
hiện thường xuyên là giết người. Một người có cảm giác Tội lỗi sẽ thấy hài lòng khi chứng kiến cảnh người khác bị tử hình.

MỨC ĐỘ NĂNG LƯỢNG 50: THỜ Ơ, LÃNH ĐẠM, KHÔ KHAN

Mức độ này có sự đặc trưng là nghèo đói, tuyệt vọng và chán chường. Thế giới và tương lai là những viễn cảnh ảm đạm; bệnh
hoạn là chủ đề của cuộc sống, Thờ ơ biểu hiện cho trạng thái bất lực; những người ở cấp độ này thiếu thốn về mọi mặt, không
những thiếu tài nguyên mà còn thiếu cả năng lượng để tận dụng những tài nguyên nếu nó có sẵn. Trừ phi họ lấy được năng
lượng bên ngoài từ những người chăm sóc, nếu không có thể dẫn đến cái chết do tự sát thụ động. Họ không có ý chí sống, họ
là những người vô vọng với đôi mắt vô hồn, không phản ứng với các kích thích bên ngoài, họ cứ thế nhìn chằm chằm vào vô
định cho đến khi cạn hết năng lượng, thậm chí không nuốt nổi thức ăn.

Đây là cấp độ của những người vô gia cư, vô thừa nhận trong xã hội; đó cũng là số phận của nhiều người già và những người
bị cô lập bởi các chứng bệnh mãn tính hoặc giai đoạn cuối. Người Thờ ơ bị phụ thuộc vào người khác, họ “âm trì” và bị bỏ mặc
bởi những người xung quanh.

34
Một cách thường xuyên, xã hội không có đủ động lực để giúp đỡ cho những cộng đồng- hoặc những cá nhân này. Trong mức
độ Thờ ơ, những người này được xem là đã cạn kiệt sinh khí. Đó là hoàn cảnh của những con phố ở Kolkota, nơi chỉ những
người đủ thánh thiện như Mẹ Teresa và những môn đệ của bà mới dám bước vào. Thờ ơ là cấp độ đã từ bỏ hy vọng, rất ít
người có đủ can đảm để nhìn thẳng vào mắt họ.

MỨC ĐỘ NĂNG LƯỢNG 75: SẦU KHỔ, ĐAU BUỒN

Đây là cấp độ của sầu đau, mất mát và tuyệt vọng. Hầu hết ai cũng đã từng trải qua nó trong một quãng thời gian, nhưng những
người thường xuyên ở cấp độ này sẽ có một cuộc đời nhiều hối tiếc, chán nản. Đây là cấp độ của tang tóc, mất mát người thân,
hối tiếc quá khứ, và cũng là cấp độ của những người hay thất bại, những người mê cờ bạc mãn tính và chấp nhận thất bại như
một phần trong lối sống của họ. Đây cũng là cấp độ của mất việc, mất bạn bè, gia đình, cơ hội, mất tiền bạc, sức khoẻ.

Những người đã từng trải qua những mất mát lớn ở thời kỳ đầu của cuộc sống thường họ dễ chấp nhận đau buồn một cách thụ
động về sau, như thể đó là cái giá tất yếu của cuộc sống. Trong nỗi sầu khổ đó, người ta nhìn thấy đau thương ở khắp mọi nơi:
nỗi buồn của những đứa bé, nỗi buồn của những số phận không may trên thế giới, nỗi buồn của cuộc đời. Cấp độ này bao phủ
sự buồn đau lên toàn bộ tầm nhìn về sự tồn tại đối với cá nhân đó. Một phần của sự mất mát là khái niệm rằng, không gì có thể
thay thế cho những gì đã mất, hoặc ít nhất mang lại sự tượng trưng tương tự. Họ khái quát về sự mất mát của người thân từ
những cá thể riêng biến thành chính sinh mạng của họ. Ở mức độ này, những mất mát về tình cảm có thể gây nên trầm cảm
nghiêm trọng, dẫn đến tử vong. Mặc dù sự đau buồn chính là nghĩa trang của cuộc sống, nó vẫn có nhiều năng lượng hơn Thờ
ơ. Do đó, khi một người bị tổn thương, họ Thờ ơ, và nếu họ bắt đầu khóc, chúng tôi biết rằng họ đang tiến triển tốt lên. Một khi
họ khóc được, họ sẽ bắt đầu ăn uống trở lại.

MỨC ĐỘ NĂNG LƯỢNG 100: SỢ HÃI, LO NGẠI

Có nhiều năng lượng sống hơn ở cấp độ 100; sợ hãi về những mối nguy thật ra là tốt. Nỗi sợ vận hành phần lớn thế giới, khuyến
khích sự hoạt động bất tận. Sợ kẻ thù, sợ già, sợ chết, sợ bị từ bỏ, và hàng trăm nỗi sợ xã hội khác lại là động lực chính cho
cuộc sống của đa số người.

Quan điểm của những người từ cấp độ này là thế giới trông có vẻ nguy hiểm, đầy rẫy cạm bẫy và sự đe doạ. Nỗi sợ là một công
cụ chính mà các cơ quan độc tài ưa thích dùng để khống chế lên những người khác, sự bất an là nguồn cung cho những kẻ ưa
thao túng trên thị trường. Phương tiện truyền thông và quảng cáo cũng dùng nỗi sợ để giúp tăng thị phần.

Nỗi sợ sinh sôi một cách vô hạn trong trí tưởng tượng của con người, một khi nó trở thành tiêu điểm, những sự kiện sợ hãi vô
tận của thế giới sẽ nuôi sống nó, nỗi sợ trở thành nỗi ám ảnh và ẩn dưới mọi hình thức: sợ mất đi mối quan hệ dẫn đến ghen
tuông và thường xuyên rơi vào trạng thái căng thẳng kinh niên. Mặt khác, sợ hãi dẫn đến chứng hoang tưởng hoặc tạo ra các
cấu trúc thần kinh phòng thủ, và vì nó dễ lây lan, nên nó trở thành một xu hướng thống trị xã hội.

Sợ hãi gây ra ức chế và hạn chế sự phát triển của nhân cách. Bởi vì vượt lên Nỗi sợ cần phải có năng lượng, nên những người
bị thống trị bởi nỗi sợ không thể tiến lên cấp độ cao hơn nếu không có sự trợ giúp. Do đó, những người sợ hãi có xu hướng tìm
kiếm những nhà lãnh đạo mạnh mẽ- những cá nhân đã chiến thắng nỗi sợ của họ và có khả năng dẫn dắt những người kia thoát
ra khỏi sự nô lệ này.

MỨC ĐỘ NĂNG LƯỢNG 125: HAM MUỐN, KHAO KHÁT

Đây cũng là một cấp độ có nhiều năng lượng, nó là những mong muốn giúp thúc đẩy các lĩnh vực hoạt động rộng lớn của con
người, bao gồm cả nền kinh tế. Những người làm quảng cáo dựa trên mong muốn của chúng ta để lập trình các nhu cầu về
động lực mang tính bản năng. Khao khát thúc đẩy chúng ta bỏ ra nhiều nỗ lực để đạt mục tiêu hoặc phần thưởng. Khao khát về

35
tiền bạc, danh tiếng hoặc quyền lực điều khiển cuộc sống của nhiều người- một trong số đó là những người đã vượt lên Nỗi sợ-
một mô tuýp cuộc sống thường thấy.

Ham muốn cũng có chứa một mức độ nghiện nhất định, trong đó nó trở thành khao khát quan trọng hơn chính cuộc sống của
người đó. Các nạn nhân của những nỗi dục vọng này có thể thực sự không nhận thức được cơ sở cho động cơ của họ. Một số
người nghiện việc được chú ý và làm những người xung quanh thấy bất mãn vì những đòi hỏi liên tục của họ. Mong muốn được
chấp thuận trong tình dục đã sản sinh ra nền công nghiệp về mỹ phẩm, thời trang và điện ảnh.

Khao khát có liên hệ đến nhu cầu tích luỹ và bản tính tham lam, và nó vô độ, không có điểm dừng, bởi vì nó là một trường năng
lượng tiếp diễn liên tục, do đó, tính thoả mãn của một người khao khát cũng như thế. Nhiều triệu phú vẫn bị ám ảnh với việc
kiếm tiền dù cho họ đã có nhiều tiền như thế nào đi nữa.

Tuy vậy, Khao khát vẫn là một trạng thái cao hơn nhiều so với Thờ ơ và Đau buồn, rõ ràng là thế rồi. Để “đạt được”, trước tiên
bạn phải có năng lượng “muốn có”. Truyền hình có một sự ảnh hưởng lớn đến những người bị chi phối bởi sự Khao khát, chúng
khắc sâu mong muốn và tiếp thêm năng lượng cho mong muốn đó của họ, đến mức họ thoát khỏi được sự Thờ ơ và bắt đầu
tìm kiếm một cuộc sống tốt đẹp hơn. Khao khát- có thể hướng mọi người đi vào con đường mong muốn thành tựu. Do đó, ở cấp
độ Khao khát, nó có thể trở thành bàn đạp để nâng cao nhận thức.

MỨC ĐỘ NĂNG LƯỢNG 150: TỨC GIẬN, GIẬN DỮ

Mặc dù Giận dữ, Tức giận có thể dẫn đến án mạng, chiến tranh, nhưng năng lượng chứa đựng bên trong nó có thể giải phóng
người đó khỏi mức chết chóc nhiều hơn so với các cấp độ bên dưới. Tức giận có thể mang đến những hành động phá bỏ mang
tính tái thiết. Khi người ta thoát ra khỏi Thờ ơ và Đau buồn, sau đó họ sẽ vượt qua Nỗi sợ như một phương thức sống, họ bắt
đầu có Ham muốn, Khao khát, rồi có sự thất vọng, và dẫn đến Giận dữ, Bực tức. Do đó, Giận dữ là một điểm tựa mà những
người bị thống trị bởi trường năng lượng này sau cùng có thể đạt tới tự do. Tức giận về bất công trong xã hội, tức giận thay cho
những nạn nhân và sự bất bình đẳng làm thay đổi cấu trúc xã hội.

Nhưng biểu hiện thường xuyên nhất của Giận dữ là oán ghét và trả thù, một kiểu trút xả, và vì thế nó nguy hiểm. Giận dữ là một
lối sống của những người có biểu hiện hay cáu kỉnh, dễ bộc phát, nhạy cảm thái quá với những điều nhỏ nhặt và dễ trở thành
“người thu thập những sự bất công”, hay gây gỗ, hiếu chiến và kiện tụng.

Sự Giận dữ bắt nguồn từ những Khao khát bị làm cho thất vọng. Nó là kết quả của việc phóng đại tầm quan trọng của những
ham muốn. Những người này có thể trông giống như một đứa trẻ thất vọng, họ sẽ nổi cơn thịnh nộ, Giận dữ cũng dễ dẫn đến
hận thù, nó ăn mòn các lĩnh vực khác trong cuộc sống của một người.

MỨC ĐỘ NĂNG LƯỢNG 175: KIÊU HÃNH, HÃNH DIỆN

Kiêu hãnh, mức định chỉnh 175, đủ năng lượng để điều hành quân đoàn Thuỷ quân lục chiến Hoa Kỳ. Đó là cấp độ mà đa số
chúng ta ngày nay đều muốn. Mọi người cảm thấy tích cực khi họ ở vào trường năng lượng này, ngược lại với những trường
bên dưới. Sự gia tăng lòng tự trọng xoa dịu tất cả những nỗi đau một người phải trải qua trong các mức độ ý thức thấp. Những
người mức Kiêu hãnh trông sáng sủa, và họ biết điều đó; mức năng lượng này giúp người ta sắp xếp những điều trong cuộc
sống theo trình tự. Nó ở mức đủ cách xa Hổ thẹn, Mặc cảm, hoặc Sợ hãi, chẳng hạn một người vươn lên từ nỗi tuyệt vọng sống
trong khu ổ chuột và Hãnh diện khi trở thành một lính đánh Thuỷ quân, đó là một bước nhảy vọt. Như thế, Kiêu hãnh là điều tốt
và được xã hội khuyến khích. Tuy nhiên, như chúng ta thấy từ Sơ đồ ý thức, nó vẫn là mức tiêu cực dưới mốc quan trọng 200.
Đây là lý do tại sao Kiêu hãnh chỉ tốt nếu đem nó so sánh với các cấp thấp hơn.

Vấn đề là, như chúng ta đã rõ, “Kiêu hãnh chỉ nằm ngay trước mũi của sụp đổ”. Lòng Kiêu hãnh có tính phòng thủ và dễ bị tổn
thương bởi nó phụ thuộc vào các điều kiện bên ngoài, nếu thiếu những điều kiện đó, có khả năng nó sẽ đột ngột quay lại các
mức độ thấp hơn. Một cái tôi bị thổi phồng rất dễ bị tấn công. Kiêu hãnh vẫn còn yếu vì nó dễ bị đánh bật trở lại vào trường năng
lượng Xấu hổ. Đó là một mối lo làm bùng cháy sự sợ hãi nếu nó mất đi sự Kiêu hãnh.

36
Lòng Kiêu hãnh là sự chia rẽ và làm nảy sinh chủ nghĩa bè phái; có hậu quả rất đắt. Con người thường chết vì kiêu ngạo; các
quân đội vẫn thường xuyên tàn sát lẫn nhau vì khía cạnh Tự hào gọi là chủ nghĩa Dân tộc. Trong tôn giáo là sự khủng bố chính
trị và cuồng tín, lịch sử kinh hoàng của Trung Đông và Trung Âu đều là cái giá của niềm Kiêu hãnh, cả xã hội phải gánh chịu hậu
quả đó.

Do đó, khiếm khuyết của mức năng lượng này là sự kiêu ngạo và phủ nhận. Những đặc điểm này ngăn cản sự phát triển. Trong
Kiêu hãnh, việc phục hồi sau chứng nghiện là điều không thể, bởi những vấn đề về cảm xúc hoặc khuyết điểm về8 X`1
QD tính cách đều bị phủ nhận. Toàn bộ tính chất phủ nhận này chính là khía cạnh của Kiêu hãnh. Chính vì thế, Kiêu
hãnh có một chướng ngại rất lớn để đạt được Sức mạnh- thứ thật sự có thể thay thế Kiêu hãnh bằng tầm vóc và uy tín thật sự.

MỨC ĐỘ NĂNG LƯỢNG 200: CAN ĐẢM, DŨNG CẢM

Ở cấp độ 200, sức mạnh thực sự lần đầu tiên xuất hiện. Khi chúng tôi tiến hành kiểm tra các đối tượng cấp độ dưới 200, có thể
dễ dàng xác nhận rằng tất cả họ đều yếu đi. Ngược lại, mọi người có phản ứng mạnh mẽ với trường năng lượng hỗ trợ sự sống
ở cấp trên 200. Đây là cấp độ quan trọng phân định những ảnh hưởng tiêu cực và tích cực của cuộc sống. Ở mức Can đảm,
người ta thực sự đạt được Sức mạnh; do đó, nó cũng có tính chất trao quyền, có nội lực. Đây là khu vực của khám phá, thành
tựu, rèn luyện và quyết tâm. Ở các cấp độ thấp hơn, thế giới được nhìn dưới lăng kính của sự vô vọng, buồn bã, đáng sợ, mất
hy vọng; nhưng tại cấp độ Can đảm, cuộc sống được xem là thú vị, đầy thử thách và sự kích thích.

Lòng Can đảm ngụ ý về một sự sẵn sàng để thử những điều mới và đối phó với những thăng trầm của cuộc sống. Ở cấp độ có
nội lực này, một người có khả năng để đương phó và xử lý một cách hiệu quả các cơ hội trong cuộc sống. Ví dụ, mức 200, là
cấp độ mà người đó có đủ năng lượng để luyện các kỹ năng công việc mới, học những điều mới, đó là những mục tiêu tăng
trưởng mà họ có thể đạt được. Ngoài ra, họ cũng có khả năng đối mặt với nỗi sợ hãi hoặc khiếm khuyết về tính cách và phát
triển bất chấp những khiếm khuyết đó. Sự lo lắng dù có, nhưng không làm tê liệt các nỗ lực như ở các cấp độ bên dưới. Những
chướng ngại có khả năng đánh bại những người có ý thức dưới 200, thì lại đóng vai trò như chất kích thích đối với những người
ở mức 200, bởi họ đã tiến hoá vào cấp độ đầu tiên của Sức mạnh thật sự.

Người ở cấp độ này cung cấp cho thế giới bên ngoài mức năng lượng nhiều như họ đã lấy đi; ở những cấp thấp hơn, cộng
đồng- cũng như cá nhân- họ tiêu hao năng lượng của xã hội và không có sự đáp lại. Bởi những thành tích mà người ở cấp độ
này đạt được, họ nhận lại sự phản ánh tích cực, cũng như những phần thưởng tương đương, vì thế dần dần họ có sự tự củng
cố. Cấp độ này là nơi năng suất bắt đầu. Mức độ ý thức chung của con người ở mức 190 trong nhiều thế kỷ, nhưng thật kỳ lạ,
nó đã tăng lên 200 vào những năm 1980.

MỨC ĐỘ NĂNG LƯỢNG 250: TRUNG TÍNH

Năng lượng trở nên rất tích cực một khi chúng ta đạt đến cấp độ gọi là Trung tính, bởi nó biểu hiện cho một vị trí tiêu biểu của
việc đã giải phóng khỏi các mức thấp. Dưới 250, ý thức có xu hướng nhìn nhận sự phân đôi và thường đảm nhận vào một vị trí
cứng nhắc, một dạng trở ngại của một thế giới phức tạp và đa thừa hơn là chỉ có đen và trắng.

Những vị trí (điểm) như thế tạo ra sự phân cực, và sự phân cực lại tạo ra sự chia rẽ và đối lập. Như trong nghệ thuật vật chất,
một vị trí cứng nhắc trở thành một điểm dễ bị tổn thương; cái nào không uốn cong sẽ có khả năng bị gãy. Vượt lên trên các rào
cản hoặc sự đối nghịch làm tiêu hao năng lượng của một người, Trung lập cho phép sự linh hoạt và không phán xét hay đánh
giá thực tại của các sự vụ. Đối với người ở mức Trung lập, nó có nghĩa là tương đối, không gắn bó với kết quả; và không đi theo
cách của một người có trải nghiệm thất bại, sợ hãi hay thất vọng.

Ở mức Trung tính, một người có thể nói, “Ừ, nếu không làm việc này thì làm việc khác thôi.” Đây là khởi đầu của sự tự tin bên
trong; hiển lộ nội lực của người đó, vì thế họ không dễ bị đe doạ. Họ không có động lực để chứng minh bất cứ điều gì. Sự kỳ

37
vọng về cuộc sống, một thứ vốn dĩ có lên có xuống, cơ bản là ổn nếu họ ở vào trường năng lượng này, vì họ có khả năng cuộn
lên xuống một cách linh động, đó là đặc điểm của người ở trường Trung tính 250.

Những người ở mức Trung tính có cảm giác về sự lành mạnh; dấu hiệu của cấp độ này là khả năng tự tin trong cuộc sống. Do
vậy, nó có mức độ an toàn về mặt trải nghiệm. Những người ở cấp độ này hoà đồng và dễ kết giao, ở bên họ cũng mang lại sự
an toàn, bởi họ không quan tâm đến xung đột, cạnh tranh hay cảm giác tội lỗi. Họ thoải mái, và về cơ bản, họ không bị xáo trộn
về mặt cảm xúc. Người ở đây không có thái độ phán xét và cũng không có nhu cầu kiểm soát hành vi của người khác. Tương
tự như thế, bởi những người này coi trọng tự do, nên họ khó bị kiểm soát.

MỨC ĐỘ NĂNG LƯỢNG 310: SẴN LÒNG, TỰ NGUYỆN

Mức năng lượng rất tích cực ở đây được xem là cửa ngõ dẫn đến các cấp cao hơn. Ví dụ, trong khi ở mức độ Trung tính, các
công việc được thực hiện một cách đầy đủ, thì ở mức độ Sẵn lòng, công việc được hoàn thành tốt, và nỗ lực để có thành công
thường xảy ra. Sự phát triển ở cấp này rất nhanh chóng; những người ở khu vực Sẵn lòng được chọn để thăng tiến, ngụ ý là họ
đã vượt qua sự phản kháng với cuộc sống ở bên trong và có cam kết tham gia cùng với nó. Dưới mức định chỉnh 200, người ta
có xu hướng đóng cửa tâm trí, nhưng ở mức 310, có một sự mở rộng xảy ra. Ở cấp độ này, mọi người trở nên thực sự thân
thiện, thành công về kinh tế, xã hội dường như là điều tất yếu. Người Sẵn lòng không gặp vấn đề với thất nghiệp, vì họ sẽ nhận
bất kỳ công việc nào nếu cần thiết, hoặc tự tạo dựng sự nghiệp, hoặc tự kinh doanh cho bản thân họ. Họ không thấy bị hạ thấp
bởi loại công việc dịch vụ hay phải bắt đầu từ những vị trí thấp. Họ có ích một cách tự nhiên và đóng góp vào sự tốt đẹp của xã
hội. Họ cũng Sẵn lòng đối mặt với các vấn đề nội tâm và không có những khối chướng ngại lớn để phải học.

Trường năng lượng này có lòng tự trọng bẩm sinh đã cao và được củng cố thêm bởi phản hồi tích cực từ xã hội dưới các hình
thức ghi nhận, đánh giá cao và khen thưởng. Sẵn lòng có sự đồng cảm và đáp ứng lại nhu cầu của người khác. Những người
Sẵn lòng là những người xây dựng và đóng góp cho xã hội. Với khả năng vượt qua nghịch cảnh và học hỏi từ kinh nghiệm, họ
có xu hướng tự sửa chữa. Họ sẵn sàng từ bỏ sự kiêu hãnh để nhìn vào khuyết điểm của bản thân và học hỏi từ người khác. Trẻ
em ở mức Sẵn lòng là những học sinh xuất sắc và dễ dạy dỗ, chúng đại diện cho một nguồn Sức mạnh đáng kể trong xã hội.

MỨC ĐỘ NĂNG LƯỢNG 350: CHẤP NHẬN

Ở cấp độ nhận thức này, một sự chuyển đổi lớn sẽ diễn ra, một người sẽ hiểu biết rằng bản thân họ là nguồn gốc và tự họ tạo
ra trải nghiệm cho cuộc sống của chính họ. Tự thừa nhận trách nhiệm là đặc trưng của cấp độ tiến hoá này, họ có khả năng
sống hài hoà với các Lực của cuộc sống.

Tất cả những người thuộc cấp độ dưới 200 đều có xu hướng bất lực và coi mình là nạn nhân, nhận sự thương cảm từ cuộc
sống. Điều này bắt nguồn từ niềm tin rằng nguồn gốc của hạnh phúc, hoặc nguyên nhân cho các vấn đề của một người là “ở
ngoài kia”. Cấp độ Chấp nhận là một bước tiến khổng lồ- thâu đạt nội lực và Sức mạnh, với nhận thức rằng hạnh phúc có cội
nguồn từ trong chính bản thân mỗi người. Ở giai đoạn phát triển cao hơn này, không có thứ gì ngoài kia có khả năng làm cho
người ta hạnh phúc, và tình yêu thương không phải là do người khác cho hay lấy từ người khác, mà được tạo ra từ bên trong.

Chấp nhận không nên nhầm với Thụ động, đó là một triệu chứng của Thờ ơ. Hình thức của Chấp nhận cho phép người ta tham
gia vào cuộc sống theo những điều kiện riêng, mà không cần cố gắng làm cho nó phù hợp với một chương trình nào. Với Chấp
nhận, người ta có sự bình tĩnh về cảm xúc, và nhận thức được mở rộng khi sự khước từ được chuyển hoá. Lúc này người đó
nhìn thấy mọi thứ mà không bị hiểu sai hoặc bóp méo; bối cảnh của trải nghiệm được mở rộng để họ có khả năng “nhìn thấy
toàn cảnh”. Chấp nhận về cơ bản phải thực hiện trong sự cân đối, tỉ lệ và hợp lý.

Cá nhân ở mức độ Chấp nhận không quan tâm đến việc xác định đúng hay sai mà thay vào đó là chuyên tâm vào việc giải quyết
các vấn đề và tìm ra những việc cần phải làm. Những loại công việc gian nan không gây cho họ sự khó chịu hay mất tinh thần.
Các mục tiêu dài hạn được ưu tiên hơn các mục tiêu ngắn hạn; nổi bật với kỷ luật tự giác và tinh thần tự chủ. Ở mức độ Chấp
nhận, chúng ta không bị phân cực bởi xung đột hay đối lập, họ thấy sự tương đồng trong quyền lợi của những người khác và
của họ, họ tôn trọng sự bình đẳng. Trong khi ở những cấp độ thấp hơn có đặc trưng là sự cứng nhắc, thì ở cấp độ này, tính đa
nguyên của xã hội bắt đầu xuất hiện như một hình thức để giải quyết các vấn đề. Vì thế, ở cấp độ này không có sự phân biệt

38
đối xử, hoặc không khoan dung; họ có nhận thức rằng bình đẳng không loại trừ sự đa dạng. Họ bao gồm tính đa dạng hơn là từ
chối tính đa dạng.

MỨC ĐỘ NĂNG LƯỢNG 400: LÝ TRÍ, LẼ PHẢI

Trí thông minh và lý trí sẽ vượt lên tuyến đầu một khi vượt qua được chủ nghĩa cảm xúc của các cấp thấp hơn. Trường năng
lượng Lý trí là khả năng xử lý một lượng lớn dữ liệu phức tạp và đưa ra được quyết định nhanh chóng, đúng đắn- những người
ở đây hiểu được sự phức tạp của các mối quan hệ, năng lực phân cấp và phân biệt tốt- có sự thành thạo đối với các ký hiệu khi
khái niệm trừu tượng ngày càng trở nên quan trọng. Đây là cấp độ khoa học, y học, và nói chung là những khả năng nâng cao
năng lực hiểu và hình thành khái niệm. Kiến thức và sự giáo dục được coi là vốn có của những người thuộc về cấp độ này. Sự
hiểu biết và thông tin là công cụ của họ để hoàn thành công việc, đó là dấu hiệu của cấp độ 400. Mức này còn là nơi thuộc về
những người đoạt giải Nobel, những mệnh đề, định lý, các Thẩm phán Toà án tối cao. Einstein, Freud, và nhiều nhà tư tưởng
vĩ đại khác trong lịch sử thuộc cấp độ này. Các tác giả của những quyển sách vĩ đại phương Tây cũng ở đây.

Khiếm khuyết của cấp độ này là sự thất bại trong việc phân biệt rõ ràng sự khác nhau giữa các biểu tượng và những gì mà
chúng đại diện, và sự nhầm lẫn giữa thế giới khách quan và chủ quan làm hạn chế sự hiểu biết về thuyết nhân quả. Ở mức độ
này, người ta dễ sa đà vào chi tiết và bỏ qua tổng thể, họ say mê với các khái niệm và lý thuyết, thường đúc kết bằng trí tuệ và
bỏ qua những điều cốt yếu. Trong khi trí tuệ tự nó cũng có thể trở thành ngõ cụt. Người Lý trí bị hạn chế ở chỗ họ không đủ khả
năng để phân định bản chất và các điểm mấu chốt của một vấn đề phức tạp, và họ thường không quan tâm đến ngữ cảnh.

Lý trí tự nó không cung cấp hướng dẫn cho Chân lý. Nó tạo ra một lượng lớn thông tin và tài liệu, nhưng thiếu khả năng giải
quyết sự khác biệt về dữ liệu và kết luận. Tất cả các lập luận triết học đều có vẻ thuyết phục của riêng chúng. Mặc dù những
người ở trường Lý trí có hiệu quả cao trong một thế giới kỹ thuật nơi các phương pháp luận của lô-gic đang thống trị, nhưng
nghịch lý thay, chính Lý trí tự nó là khối chướng ngại để đạt đến các cấp độ cao hơn bên trên của ý thức. Vượt qua mức này
tương đối không phổ biến, chỉ khoảng 4% dân số của thế giới.

MỨC ĐỘ NĂNG LƯỢNG 500: TÌNH YÊU, YÊU THƯƠNG

Tình yêu như kiểu các phương tiện truyền thông đại chúng mô tả không phải là ngụ ý của trường năng lượng Tình yêu này.
Ngược lại, cái mà thế giới thường gọi là tình yêu, đó là một cảm xúc mãnh liệt, kết hợp sức hấp dẫn về thể xác, tính chiếm hữu,
kiểm soát, nghiện ngập, khêu gợi và mới lạ. Nó có tính phai nhạt và dao động, lúc thịnh lúc suy, lúc lên lúc xuống với các điều
kiện khác nhau. Khi thất vọng, loại tình yêu này thường bộc lộ sự tức giận và sự lệ thuộc tiềm ẩn mà nó đã che đậy. Từ yêu
thành ghét là một chuyện phổ biến. Với những mô tả trên, đó không phải là tình yêu, đó là một thứ tình cảm trong sự gắn bó gây
nghiện. Cảm giác ghét sinh ra bắt nguồn từ lòng Kiêu hãnh chứ không phải vì yêu. Có lẽ chưa bao giờ có tình yêu tồn tại trong
một mối quan hệ như vậy.

Mức độ 500 là sự đặc trưng của một Tình yêu vô điều kiện, không thay đổi và vĩnh viễn. Nó không dao động, bởi nguồn gốc nó
xuất phát từ người yêu thương đó, chứ không phụ thuộc vào các điều kiện bên ngoài. Yêu thương là một trạng thái của hiện
hữu. Đó là một cách liên quan với thế giới trong tha thứ, nuôi dưỡng, hỗ trợ. Tình yêu không phải trí tuệ và không xuất phát từ
tâm trí. Tình yêu xuất phát từ trái tim. Nó có khả năng nâng đỡ người khác và lập nên những chiến công lớn vì động cơ trong
sáng của nó.

Với mức độ phát triển này, năng lực nhận biết bản chất trở nên trội hơn; cốt lõi của một vấn đề trở nên nổi bật; bản chất một sự
việc trở thành tiêu điểm trung tâm. Khi lý trí được bỏ qua, sẽ nảy sinh khả năng nhận biết tức thời về tổng thể của một vấn đề
và sự mở rộng lớn hơn của bối cảnh, đặc biệt là theo phương thời gian và quá trình. Lý trí chỉ đề cập đến những chi tiết cụ thể,
trong khi Tình yêu đề cập đến những điều tốt đẹp. Khả năng này thường được gán cho trực giác, đó là khả năng hiểu ngay lập
tức mà không cần dùng đến quá trình xử lý biểu tượng tuần tự. Hiện tượng này nghe có vẻ trừu tượng nhưng trên thực tế, nó
khá cụ thể; nó đi kèm với sự giải phóng endorphin có thể đo lường được trong não.

Tình yêu không phụ thuộc vào vị trí, địa điểm, do đó nó có phạm vi toàn cầu, vượt lên trên sự tách biệt về nơi chốn. Sau đó, nó
có thể trở thành “vào với nhau”, vì không còn bất kỳ rào cản nào nữa. Vì vậy, Tình yêu bao hàm và mở rộng ý thức về bản thân

39
theo cách tiệm tiến. Tình yêu tập trung vào sự tốt đẹp của cuộc sống trong tất cả các biểu hiện của nó và làm tăng thêm điều
tích cực. Nó làm tan biến sự tiêu cực bằng cách tái xây dựng bối cảnh hơn là chống lại bối cảnh đó.

Đây là mức độ hạnh phúc thực sự, mặc dù thế giới bị mê hoặc bởi chủ đề tình yêu, và tất cả các tôn giáo khả thi được định
chỉnh ở mức 500 trở lên, nhưng điều thú vị là chỉ có 4% dân số thế giới đạt được mức độ tiến hoá này của ý thức, và chỉ 0,4%
từng đạt đến mức tình yêu vô điều kiện, 540.

MỨC ĐỘ NĂNG LƯỢNG 540: NIỀM VUI, VUI VẺ

Khi Tình yêu ngày càng trở nên vô điều kiện, nó bắt đầu được trải nghiệm như một Niềm vui bên trong. Đây không phải loại
niềm vui đột ngột đến từ một sự thay đổi đáng vui mừng; nó đồng hành liên tục trong tất cả các hoạt động. Niềm vui phát sinh
từ bên trong, trong mỗi khoảnh khắc tồn tại, hơn là từ bất kỳ nguồn nào bên ngoài; 540 cũng là mức độ chữa lành và được tìm
thấy trong các nhóm cùng nhau vượt khó, giúp đỡ nhau về mặt tinh thần.

Mức 540 trở lên là lãnh địa của những thánh nhân, những bậc tâm linh chữa lành và những học viên tâm linh cao cấp. Đặc điểm
của trường năng lượng này là khả năng nhẫn nại to lớn và thái độ tích cực bền bỉ khi đối mặt với nghịch cảnh kéo dài. Dấu hiệu
của trường năng lượng này là lòng trắc ẩn. Những người đã đạt được cấp độ này có sự ảnh hưởng đáng chú ý lên những người
khác. Họ có cái nhìn cao cả, liên tục tạo ra trạng thái yêu thương và hoà bình.

Mức trên 500, thế giới quan của những người trong đó được soi sáng bởi vẻ đẹp tinh tế và sự hoàn hảo của tạo hoá. Mọi thứ
xảy ra một cách dễ dàng bởi có sự đồng bộ, thế giới và mọi thứ trong đó đều là biểu hiện của tình yêu và sự thiêng liêng. Ý chí
cá nhân hợp vào với ý chí thần thánh. Bởi vì cơ sở Sức mạnh của những người ở trường năng lượng này, đối với những người
bình thường quan sát họ, sự hiện diện của họ vượt ra ngoài những trông đợi mang tính quy ước trong hiện thực của những
người quan sát đó, và những người quan sát cảm thấy họ thật kỳ diệu. Sức mạnh của họ đến từ trường năng lượng chứ không
phải từ cá nhân họ.

Quyền lợi của một người trong trách nhiệm đối với những người khác ở cấp độ này không giống với những cấp độ thấp hơn
bên dưới. Những người này có mong muốn sử dụng trạng thái ý thức của họ vì lợi ích cho cuộc sống hơn là cho cụ thể một cá
nhân nào. Khả năng yêu đồng thời được nhiều người này đi kèm với khả năng rằng, họ càng yêu sâu sắc thì họ càng yêu được
nhiều người cùng lúc.

Cấp độ trên 500 là cấp độ của sự Mặc khải, do đó, nó mở ra phương thức hoá thân và lòng từ bi dẫn đến sự nhập định, xuất
thần gần đến mức 600. Đây là những trạng thái của Niềm vui sướng và là bước khởi đầu của Soi sáng và Giác ngộ. Những
người này thường đồng hành cùng những cảm giác về Ánh sáng. Ví dụ, căn phòng trở nên bừng sáng khi Bill Wilson (hội người
nghiện rượu giấu tên) có trải nghiệm về tâm linh. Anh ấy nói căn phòng chói loà bởi có Hiện Thân Vô Hạn ( mức định chỉnh 575).
Đó là sự khởi đầu của việc tiến lên trường năng lượng 600. Ánh sáng toả ra thế giới trong 12 bước vĩ đại, qua đó, Hội nghiện
rượu giấu tên đã mang lại sự hồi phục cho hàng triệu người.

Trải nghiệm cận tử có đặc trưng biến đổi dựa trên hiệu ứng của nó, nó thường cho phép người đó lọt vào trường năng lượng
540 đến 600.

MỨC ĐỘ NĂNG LƯỢNG 600: AN LẠC, YÊN BÌNH

Trường năng lượng này được liên kết với những trải nghiệm được các thuật ngữ diễn tả như một sự siêu việt, họ có nhận thức
tự biết về bản thân và có ý thức thần thánh. Người ở cấp độ này cực kỳ hiếm. Khi đạt đến mức độ này, sự phân biệt giữa chủ
thể và khách thể không còn nữa, không có tiêu điểm cụ thể của nhận thức. Thường là, những cá nhân ở cấp độ này tự tách biệt
họ với thế giới, vì trạng thái An lạc đảm bảo họ tách khỏi những hoạt động bình thường. Một số trở thành những người thầy tâm
linh; số khác hoạt động ẩn mình vì sự tiến bộ của nhân loại. Có một ít trở thành thiên tài trong những lĩnh vực tương ứng và

40
đóng góp lớn cho xã hội. Họ được xem là thánh, và sau cùng có thể chính thức được chỉ định trở thành thánh, mặc dù cấp độ
này vượt qua tôn giáo và được thay thế bằng tâm linh thuần tuý, nó chính là nguồn gốc của tất cả các tôn giáo.

Nhận thức ở mức 600 trở lên đôi khi được báo cáo là xảy ra trong chuyển động chậm- treo lư lửng trong thời gian và không
gian- mặc dù không gì là đứng yên; tất cả đều sống động và rạng rỡ- mặc dù thế giới ở đây là cùng một thế giới với thế giới mà
những người khác nhìn thấy. Nó trở thành một dòng chảy và sự tiến hoá luôn trong trạng thái đang tiếp diễn, được phối hợp
theo một cách vi tế, trong đó bản chất và cội nguồn có tính áp đảo. Sự mặc khải tuyệt vời này diễn ra một cách phi lý trí, trong
đó tâm trí có một khoảng lặng vô hạn, nên nó dừng việc hình thành nên các khái niệm. Người quan sát và cái được quan sát có
cùng danh tính; người quan sát hoà vào cảnh quan và trở thành người được quan sát theo mức tương đương. Mọi thứ được
kết nối vào với nhau bằng một Thực tại có sức mạnh vô hạn, êm ái tinh vi nhưng vững như bàn thạch.

Tác phẩm nghệ thuật, âm nhạc và kiến trúc tuyệt vời được định chỉnh ở mức 600 đến 700 có thể đưa chúng ta đến những bến
bờ ý thức cao tạm thời, chúng được sự công nhận từ nhiều người và vượt qua thời gian.

MỨC ĐỘ NĂNG LƯỢNG 700-1000: GIÁC NGỘ, KHAI SÁNG

Đây là cấp độ của những bậc vĩ nhân trong lịch sử, những người khởi nguồn cho các hình mẫu tâm linh mà nhiều người đã đi
theo qua nhiều thời đại. Tất cả họ sau cùng đều có tính thần thánh, họ được xác định ở trong một cấp độ có khả năng truyền
cảm hứng mạnh mẽ; họ được xem là những cột sóng của trường năng lượng thu hút, hấp dẫn sự ảnh hưởng đến tất cả những
người xung quanh vượt qua thời gian. Ở cấp độ này, không còn trải nghiệm cá nhân tách biệt với những người khác nữa; đúng
hơn, nó có sự đồng nhất của Bản ngã và ý thức Thiêng liêng. Không tồn tại- được trải nghiệm như một bản ngã ngoài tâm trí.
Trong bãn ngã siêu việt đó, họ làm gương để dạy cho những người khác cách sau cùng để đạt đến sự thành toàn. Đây là đỉnh
cao nhất trong sự tiến hoá ý thức trong hiện thực của con người.

Sự truyền dạy vĩ đại từ những người ở cấp độ này đã nâng cao mức tinh thần cho đại chúng cũng như trình độ nhận thức cho
toàn thể nhân loại. Tầm nhìn ở mức này thực sự là một sự ân sủng, và món quà mà nó mang lại là sự bình an vô hạn, được mô
tả là “không thể diễn đạt bằng lời”. Tại cấp độ này, ý thức về sự tồn tại của người đó vượt lên thời gian và mọi cá thể. Không
còn bất kỳ sự đồng nhất nào với thân xác vật chất như là “Tôi”, do đó, họ không còn bận lòng về số phận. Cơ thể lúc này được
nhìn đơn thuần như một công cụ của ý thức thông qua sự can thiệp của tâm trí, giá trị hàng đầu là sự giao tiếp nội tại, Cái tôi
nhập vào Bản ngã bậc cao. Mức độ này là mức bất nhị nguyên, hay còn gọi là hợp nhất toàn vẹn. Ý thức của họ không có sự
bản địa hoá, nó như nhau ở khắp mọi nơi.

Những tác phẩm nghệ thuật tuyệt vời đã miêu tả những cá nhân từng đạt đến trình độ Giác ngộ, có sự đặc trưng trong hình
tượng của họ, họ được nhìn như những người Thầy của nhân loại, với dấu hiệu đặc biệt của bàn tay, gọi là mu-dra (tay bắt ấn).
Bàn tay đó toả ra Chân thần, một hành động để truyền năng lượng của họ đến loài người. Mức độ ân sủng ở đây có mức định
chỉnh lên đến 1000, một mức cao nhất mà lịch sử loài người từng ghi nhận được- nói một cách dí dỏm, những Hình tướng đại
diện vĩ đại được gọi là “Đấng” phù hợp với trường năng lượng này: Đấng Krishna, Đấng Phật, Đấng Giê-su.

VÍ DỤ HÀNG NGÀY VỀ CÁC CẤP ĐỘ Ý THỨC QUYẾT ĐỊNH RA SAO ĐẾN CÁCH ỨNG XỬ CỦA MỘT NGƯỜI

Trên Sơ đồ ý thức, có hai điểm quan trọng cho phép sự tiến bộ lớn xảy ra.

• Đầu tiên là mức 200, cấp độ lần đầu tiên có được Sức mạnh. Những người ở đây nảy sinh sự sẵn sàng, ngừng đổ lỗi
và nhận trách nhiệm cho những hành động, cảm xúc và niềm tin của chính họ. Chừng nào nguyên nhân và trách
nhiệm còn được phóng chiếu ra bên ngoài bản thân của một người, chừng đó người ta vẫn còn trong tình trạng bất
lực và có cảm giác nạn nhân. Rõ ràng, cách duy nhất để tăng trưởng hạnh phúc, sự thịnh vượng và năng lượng cho
tinh thần là chúng ta chuyển sang được một mức độ ý thức cao hơn. Những sự tìm kiếm không hồi kết cho hạnh phúc
“ngoài kia” (bao gồm tài sản, sự chấp nhận, giải thưởng, bằng cấp v.vv..) sẽ không bao giờ mang lại hạnh phúc lâu
dài. Hạnh phúc là một sản phẩm phụ tất yếu của sự tiến bộ về mặt ý thức.
• Hai là mức độ 500, mức độ này đạt được bằng cách có một lối sống chấp nhận, yêu thương, tha thứ, và không phán
xét, có lòng tốt vô điều kiện đối với tất cả mọi người, mọi sự vật, mọi sự kiện mà không có sự phân biệt hay ngoại lệ
(trong nhóm 12 bước hồi phục , người ta nói rằng không có cái gọi là sự nổi giận chính đáng. Ngay cả khi ai đó “đã
làm sai” với bạn, bạn vẫn có thể tự do lựa chọn cách phản ứng của mình và bỏ qua sự oán giận đó). Sau khi thực

41
hiện được cam kết này, bạn bắt đầu trải nghiệm một thế giới khác có tính chất an hoà hơn, một khi nhận thức của bạn
tiến triển.

Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy, mức độ ý thức là yếu tố quyết định trong nhiều biến số xã hội và hành vi cá nhân, như có
thể thấy trong biểu đồ dưới đây:

Mối tương quan giữa các mức độ Ý thức và những Vấn đề Xã hội

Mức độ Ý thức Tỉ lệ thất nghiệp Tỉ lệ nghèo đói Tỉ lệ Hạnh phúc Tỉ lệ phạm tội
(“Cuộc sống là
ổn”)
600+ 0% 0,0% 100% 0,0%
500-600 0% 0,0% 98% 0,5%
400-500 2% 0,5% 79% 2,0%
300-400 7% 1,0% 70% 5,0%
200-300 8% 1,5% 60% 9,0%
100-200 50% 22% 15% 50,0%
50-100 75% 40% 2% 91%
<50 97% 65,0% 0% 98%

Chúng ta hãy cố gắng hiểu rõ hơn về sự tác động và quyết định của mức độ Ý thức thông qua một ví dụ. Hãy tưởng tượng một
người được xem như ăn mày đang ngồi ở góc phố:

Trong một khu phố thời trang ở một thành phố lớn, đó là một ông già mặc bộ quần áo rách rưới, ngồi tựa vào một góc của toà
nhà sang trọng. Hãy nhìn ông ta từ góc độ của nhiều cấp độ ý thức khác nhau, và ghi nhận sự khác biệt về bộ dạng của ông ta.

Bắt đầu từ dưới lên, ở mức 20 (Xấu hổ), ông ấy là một kẻ ăn bám bẩn thỉu, kinh tởm và đáng hổ thẹn. Ở mức 30 (Tội lỗi), ông
ta sẽ bị đổ lỗi cho tình trạng của chính mình. Ông ta xứng đáng với những gì ông ta đang có; ông ta có lẽ là một kẻ gian lận phúc
lợi và lười biếng. Ở mức 50 (Thờ ơ), hoàn cảnh của ông ta có vẻ khá tuyệt vọng, đó là bằng chứng cho thấy xã hội không thể
làm gì với tình trạng vô gia cư. Ở mức 75 (Đau buồn), ông là một ông già thảm thương, không có bạn bè, cô độc.

Ở mức ý thức 100 (Sợ hãi), chúng ta có thể thấy người ăn mày là một mối đe doạ, một sự bất an của xã hội. Có lẽ chúng ta nên
gọi cảnh sát trước khi ông ấy phạm tội. Ở mức 125 (Khát khao), ông ta có thể đại diện cho một vấn đề khó chịu- tại sao không
có ai làm gì hết vậy? Ở mức 150 (Tức giận), ông ấy có khả năng gây ra tình huống bạo lực; hoặc là, người ta có khả năng tức
giận khi chứng kiến một tình trạng như thế xảy ra. Ở mức 175 (Kiêu hãnh), ông ấy có thể được xem như một sự xấu hổ, hoặc
ông ấy là một kẻ thiếu tự trọng khi không biết cố sống tốt hơn. Ở mức 200 (Can đảm), chúng ta bị thôi thúc để thắc mắc, liệu có
một nơi trú ẩn cho người vô gia cư tại địa phương hay không; tất cả những gì ông ta cần là một công việc và một chỗ ở.

Ở 250 (Trung tính), người ăn mày trông ổn, thậm chí có thể thú vị. “Sống như là sống”, chúng ta có thể nghĩ như vậy; sau hết,
ông ấy cũng chẳng tổn hại đến ai. Ở mức 310 (Sẵn lòng), chúng ta có thể quyết định tiến đến và xem có thể làm gì để cổ vũ ông
ấy hay không, hoặc thi thoảng làm một công việc tình nguyện xã hội tại địa phương. Ở mức 350 (Chấp nhận), người đàn ông ở
góc phố xuất hiện một cách khá lôi cuốn, có lẽ ông ấy có một câu chuyện rất thú vị; ông ta ở đây vì một lý do mà chúng ta không
thể nào hiểu được. Ở mức 400 (Lý trí), ông ấy là biểu hiện của tình trạng bất ổn về kinh tế và xã hội hiện nay, hoặc, ông ấy có
thể là đối tượng để thực hiện một cuộc nghiên cứu chuyên sâu, và xứng đáng nhận được tài trợ từ chính phủ. Ở cấp độ cao
hơn, ông già bắt đầu trông không chỉ thú vị mà còn thân thiện, và thậm chí đáng yêu. Có lẽ sau đó chúng ta sẽ thấy rằng, ông ta
là một người đã vượt qua giới hạn xã hội và sống một cách tự do, một ông già vui vẻ với sự khôn ngoan từ tuổi tác trên khuôn
mặt, ông ấy có sự thanh thản vì ông ấy không màng vật chất. Ở cấp độ 600 (An lạc), ông già chính là sự tiết lộ nội tâm của
chúng ta trong biểu hiện nhất thời của nó.

Khi được tiếp cận, ông già cũng sẽ có những phản ứng khác nhau với những người có mức độ ý thức khác nhau đó. Với một
số người, ông ta thấy an toàn; với những người khác, ông ta thấy sợ hãi hoặc chán nản. Một số sẽ làm cho ông ấy tức giận, và
số khác làm ông ta thích. Do đó, ông ta có hành động né tránh với một số người, và tiếp đón vui vẻ với những người khác. (nên
mới có câu chúng ta thường gặp những gì là phản chiếu của chính mình).

42
Có rất nhiều phương thức, mà trong đó mức độ ý thức của chúng ta quyết định những gì chúng ta nhìn thấy. Nó cũng đúng khi
chúng ta đặt cấu trúc này với thực tế trước mắt, chúng ta sẽ phản ứng lại theo cách dự đoán được theo mức độ mà chúng ta
quan sát được. Các sự kiện bên ngoài có thể làm thay đổi các điều kiện, nhưng chúng không xác định mức độ phản ứng ý thức
của con người. Chúng ta có thể lấy một bối cảnh thuần tuý hơn để làm minh hoạ, đó là hệ thống nhà tù hiện tại của chúng ta.

Khi được đặt trong một môi trường căng thẳng hệt nhau, các tù nhân phản ứng khác nhau theo những cách khác nhau tuỳ theo
mức độ ý thức của họ. Những tù nhân có ý thức ở mức thấp nhất trên thang đo đôi khi sẽ có ý định tự sát. Những tù nhân khác
trở nên loạn thần, hoặc ảo tưởng. Một số khác cùng hoàn cảnh thì rơi vào tình trạng chán nản, câm lặng và bỏ ăn. Còn những
người khác thì ôm đầu, cố giấu những giọt nước mắt tội lỗi. Một trải nghiệm mà họ thường xuyên có với những mức độ khác
nhau là nỗi sợ hãi, bao gồm cả sự hoang tưởng và phòng thủ. Trong cùng một phòng giam, chúng ta thấy những tù nhân khác
với mức năng lượng cao hơn sẽ nổi cơn thịnh nộ, bạo lực, hành hung và giết người. Lúc này kiêu hãnh có mặt ở khắp nơi, dưới
hình thức khoe khoang sức mạnh nam giới và tranh giành quyền thống trị.

Ngược lại, một số tù nhân tìm thấy lòng Can đảm để đối mặt với sự thật, tại sao họ lại ở đó và bắt đầu nhìn vào cuộc sống nội
tâm của chính họ một cách trung thực, luôn có một số người chỉ “ăn đấm như cái bao cát” và nỗ lực để đọc sách càng nhiều
càng tốt. Ở mức độ Chấp nhận, chúng tôi thấy những tù nhân tìm kiếm sự giúp đỡ và tham gia các nhóm hỗ trợ. Không có gì lạ
khi một tù nhân trước đây không thường xuyên nhưng giờ lại có hứng thú học tập, bắt đầu nghiên cứu trong thư viện nhà tù,
hoặc trở thành luật sư trong trại giam (một số quyển sách chính trị có ảnh hưởng nhất là được viết trong tù), vài tù nhân trải qua
quá trình chuyển đổi ý thức và trở thành những người chăm sóc, yêu thương và đầy hào phóng với những người bạn tù của họ.
Không gì lạ nếu một tù nhân phù hợp với trường năng lượng cao hơn trở nên tâm linh, sâu sắc hơn, thậm chí tích cực theo đuổi
con đường giác ngộ.

Đây là trọng điểm của những ví dụ trên: cách chúng ta phản ứng phụ thuộc vào – dường như là- cách thế giới đang bộc lộ nó
với chúng ta. Con người mà chúng ta sẽ trở thành và những gì chúng ta thấy đều được xác định bởi nhận thức, có thể nói như
thế, đơn giản là, đó là một thế giới của tri giác và trải nghiệm.

Nội dung Sơ đồ Ý thức có thể biến đổi hiểu biết của bạn về các lĩnh vực chính của cuộc sống nhân loại, bắt đầu từ niềm tin vào
hệ thống nhân quả, vốn là một rào cản lớn để thăng tiến được.

Vì nhận thức tự nó sẽ phát triển theo mức độ ý thức của bạn, nên rõ ràng, cái mà thế giới gọi là nguyên nhân thực chất là tác
động. Không có gì “ngoài kia” gây ra trải nghiệm cuộc sống của bạn mà chính là “bên trong đây”, nó là trường năng lượng vận
hành cuộc sống của bạn. Bằng cách chịu trách nhiệm về hậu quả của nhận thức bản thân, bạn có thể vượt lên vai trò nạn nhân
và hiểu rằng, “không có gì ngoài kia có sức mạnh đối với bạn”. Đó không phải là những sự kiện trong cuộc sống, mà là cách bạn
phản ứng với chúng, và thái độ của bạn về chúng sẽ quyết định những sự kiện đó có ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực đến cuộc
sống của bạn, cho dù chúng là cơ hội hay sự căng thẳng. Sức mạnh bên trong không tự nó “tạo ra” căng thẳng. Tiếng nhạc lớn
làm người này bị tăng huyết áp, nhưng làm người kia thấy vui. Một cuộc ly hôn là đau thương nếu người trong cuộc không muốn
điều đó, nhưng sẽ là sự giải phóng để có tự do nếu nó được trông đợi. Do đó, cách duy nhất để thay đổi trải nghiệm cuộc sống
của bạn là phát triển ý thức của bạn thông qua sự phù hợp với các mẫu thức năng lượng cao hấp dẫn.

MỤC HỎI ĐÁP

HỎI: Khả năng một người từ trạng thái cao bị rơi xuống trạng thái thấp tồi tệ ngay lập tức có xảy ra không?

ĐÁP: Đó được gọi là con người! Võ não trước trán, nơi tạo nên con người chúng ta, là một sự bổ sung cho não động vật cũ. Bộ
não của loài bò sát vẫn đang hoạt động, do đó, nếu bạn chọn, bạn có thể trở thành kẻ giết người ngay lập tức, kiểu như rồng
Komodo ấy. Bạn đã học cách không phản ứng lại với nó, nhưng xung động giết người vẫn còn đó, cũng như những xung động
nguyên thuỷ khác. Bạn chỉ cần để ý xung động muốn giết người của bạn mỗi lúc ai đó cắt đầu xe của bạn khi đang lưu thông
trên đường, là bạn sẽ hiểu!

43
Về mặt cảm xúc, hầu hết mọi người đều sẽ trải qua một phạm vi rộng. Mức độ ý thức của bạn có thể ở mức tốt, và sau đó đột
nhiên bạn rơi vào cảm giác Tội lỗi, Xấu hổ, Đau buồn, Sợ hãi, Ham muốn, Tức tối v..vv. và cứ thế. Mức độ ý thức tổng thể của
bạn là mức có tính chi phối, nhưng nó không loại trừ một phạm vi rộng các cảm xúc đến từ vô thức cá nhân. Một số trong những
cảm xúc đó là thứ mà bạn đã phóng chiếu vào thế giới. Giả sử hiện tại bạn đang bàn về trách nhiệm thiêng liêng, nhưng đột
nhiên bạn cảm thấy tội lỗi, ray rứt. Thì đó là quá trình xử lý nhất thời của năng lượng cảm giác Tội lỗi; nó không có nghĩa là năng
lượng của bạn bị rớt xuống mức Tội lỗi!

Còn một cách xem xét nữa, đó là cần có thời gian để hoà nhập và phát triển theo mẫu thức mới. Thay vì cố gắng thay đổi rất
nhiều và rất nhanh, một điều có thể gây xáo trộn, tốt hơn là nên phát triển cùng với nó và để nó có tính ổn định. Mỗi người sẽ
tăng trưởng với tốc độ riêng theo năng lực của họ, và ý định của họ, sự sẵn sàng của họ, sự chín muồi trong nghiệp lực riêng
của họ. Và bạn khó mà biết được tỉ lệ đó là bao nhiêu.

HỎI: Nếu một người cảm thấy họ cứ lên lên xuống xuống từ đầu đến cuối sơ đồ thì có bình thường không?

ĐÁP: Hầu hết những người đi theo con đường tâm linh đều trải qua nhiều giai đoạn khác nhau, có thể từ Tuyệt vọng đến Vui
sướng hoặc thậm chí là Ngây ngất. Cũng có những khoảng thời gian dài không có gì xảy ra, và bạn có thể cảm thấy mình chẳng
đi đến đâu. Những giai đoạn này xen kẽ cảm giác trì trệ, thất vọng, tự trách, và thậm chí là vô vọng. Tất cả các giai đoạn như
vậy nếu nhìn trên tổng thể là bình thường. Sự kiên trì và sự cống hiến sẽ giúp bạn vượt qua. Con đường này sẽ dễ dàng hơn
nếu có một giáo viên thực thụ hoặc một nhóm cùng mục đích.

Bạn cũng sẽ khám phá ra rằng, “Tình yêu thường mang đến những gì trái ngược”, chính ý định muốn yêu thương vô điều kiện
lại dẫn tới những trở ngại, nó giúp bạn phải vượt qua được (đó là ghen tuông, oán giận, thiếu kiên nhẫn .v..vv) Tình yêu và An
lạc là sự đe doạ lớn nhất đối với “bản ngã”, vốn hay tự bảo vệ mình bằng cách dùng đến những tâm thế cố thủ ẩn giấu trong vô
thức. Những thái độ như kiểu bất cần này nảy sinh trong thời thơ ấu từ bộ não động vật sinh học, nó định hướng cho sự sinh
tồn và bị dồn ép bởi áp lực từ cha mẹ và xã hội, thông qua các cơ chế tâm lý quen thuộc là đàn áp và, phủ nhận, quân phiệt,
chuẩn mực phản ứng, hệ thống dự kiến, và sự hợp lý hoá. C.G. Jung đã chỉ ra “bóng ma thế giới”, đó là phần nhân cách đã bị
loại bỏ cần được thừa nhận lại và làm việc cùng với nó để phát triển tâm lý.

Có lẽ sẽ là đáng lo ngại nếu sự tiêu cực này bùng phát từ vô thức trong giây phút bạn đang khao khát muốn yêu đời hơn! Bạn
sẽ phải gặp chúng trong cam kết muốn phát triển bản thân, đó là điều tất yếu.

Một điều không được biết đối với những người theo tâm linh là nghiệp quá khứ, đó cũng là một yếu tố gây ra ảnh hưởng. Do
đó, bạn không thể so sánh bản thân mình với người khác về mặt thời gian và chi tiết của trải nghiệm. Khi bạn vươn lên cao trên
Sơ đồ và có khả năng tiếp cận với nguồn năng lượng lớn hơn, bạn có thể kiếm được quyền tạo phước và xoá bỏ nghiệp tiêu
cực. Vì lẽ này, nó có thể sẽ xuất hiện những giai đoạn khó khăn về tài chính, bệnh tật và những thách thức không thể lường
trước. Những điều trông có vẻ như là thụt lùi, tuy nhiên, nó thật ra lại là một cơ hội để phát triển.

HỎI: Cách tốt nhất để ý thức của một người được tiến triển là gì?

ĐÁP: Sự kiên định. Nỗ lực về tinh thần nếu bắt đầu đạt được hiệu quả thì đó là hệ quả của sự kiên định và bền bỉ, hơn là phù
hợp và nhiệt tình. Mỗi trạng thái tiến hoá tâm linh đều là tự khen thưởng, có sự hài lòng và hoàn thiện. Những khoảnh khắc đau
khổ trước đó đều được xem như xứng đáng, cùng với sự nỗ lực.

Tiếp theo là sự khiêm tốn. Những bước nhảy về mức độ ý thức luôn theo sau sự từ bỏ của ảo tưởng về bản thân, từ “Tôi biết”,
thành “Tôi không biết” một cách thường xuyên hơn, cách duy nhất để một người sẵn sàng có được sự thay đổi này là khi họ
“chạm đáy” – nghĩa là, bằng cách phải đi hết một lộ trình cho đến tận cùng để đánh bại một hệ thống niềm tin vô ích. Ánh sáng
không thể đi vào một chiếc hộp đóng; mặt trái của thảm hoạ có thể mở ra mức độ nhận thức cao hơn. Nếu cuộc sống được xem
là một người thầy, thì nó đúng là như thế. Trừ phi những bài học đau đớn của cuộc sống biến đổi một người trở nên khiêm tốn,
nó sẽ trở thành cánh cổng dẫn vào sự trưởng thành và phát triển. Nếu không, nó sẽ bị lãng phí.

HỎI: Ông nói chỉ có hành động từ một ý thức có hiệu lực mới làm thay đổi mức định chỉnh của thứ khác bởi ý định?
Khả năng đó là như thế nào?

44
ĐÁP: Chúng tôi phát hiện ra rằng, khi những người trên 200 quan sát điều gì đó với tình yêu thương, họ đã nâng cao mức độ ý
thức được định chỉnh của điều đó, trong một cách có thể đo lường được. Ví dụ: khi chúng ta thấy một vật gì đó, hoặc một ai đó
đáng yêu, định chỉnh từ 204 sẽ chuyển lên đâu đó 310. Bạn cho nó có nghĩa là gì? Nghĩa là, bạn không cần phải lăn xả và làm
những việc cầu kỳ. Chỉ cần nhìn mọi thứ trong sự thiêng liêng của tồn tại, tiếp cận mọi sự sống với sự tôn trọng và thiện ý, chỉ
với điều đó, bạn đã giúp thay đổi thế giới, đây là nguyên tắc của Heisenberg, trong đó tuyên bố rằng chỉ quan sát một sự vật
cũng sẽ khiến nó thay đổi. Trước đây chúng tôi không chắc, nhưng giờ tôi đã có thể biết, tiếng kêu của mèo con có mức định
chỉnh lên tới 500.

Mức độ ý thức của người quan sát càng cao thì tác động đến đối tượng được quan sát càng lớn. Chúng ta thật sự đã và đang
thay đổi mức độ ý thức được định chỉnh và phần lớn xã hội chỉ bằng việc quan sát trực diện. Mọi thứ nếu nhận được ánh mắt
trìu mến từ chúng ta đều có thể nâng cao hơn mức định chỉnh, thậm chí cả rồng Komodo. Nó được nhìn như là chính nó, một
con rồng tốt đẹp, có thể tổn hại người khác và ngoạm đầu của họ trong chớp nhoáng! Một sự ấn tượng và đáng yêu của rồng
Komodo, đó là biểu hiện thần tính của tạo hoá trong nó, và nó phụng sự sự Vô hạn bằng sự tồn tại của nó.

Thế giới trở nên là những gì mà chúng ta giữ trong tâm trí, nếu nó được phóng chiếu một cách yêu thương, nó sẽ trở nên rất
mạnh mẽ. Hãy tưởng tượng tất cả mọi thứ quanh bạn đều có sức mạnh, kể cả những cái bạn còn không biết đến nó! Mọi thứ
chúng ta quan sát, nếu chúng ta yêu thích và say mê nó- nếu chúng ta ghi nhận sự linh thiêng của nó, nếu chúng ta xem nó là
biểu hiện của sự tiến hoá, và nó phục vụ cho một điều tối thượng nào đó- thì sự quan sát đó của chúng ta sẽ ảnh hưởng đến
nó.

Hãy quan sát một con cá sấu ngoài tự nhiên. Nếu bạn muốn tìm hiểu nhiều hơn về tâm linh, quan sát thiên nhiên là đủ, bởi vì
trong tự nhiên, bạn sẽ bắt gặp một thế giới không có định kiến. Có một con hà mã và một con cá sâu trên bãi biển, và con hà
mã có bản năng làm mẹ con cá sấu. Bạn hiểu ý tôi không, ai yêu nổi một con cá sấu nếu không phải là hà mã? Mọi người đều
sợ cá sấu, ngoại trừ hà mã. Mỗi năm, hà mã giết chết người nhiều hơn hết thảy các động vật khác, vậy nhưng ngay cả hà mã
cũng có khả năng quan tâm, và nó quan tâm đến cá sấu. Hà mã tiến lại và huých vào con cá sấu, thậm chí liếm nó, để chắc rằng
con cá sấu được thoải mái. Làm sao mà hà mã lại có bản năng làm mẹ dành cho cá sấu? Chúng đã đồng hành cùng nhau nhiều
thiên niên kỷ. Con cá sấu đang run rẩy, và con hà mã đẩy nó qua lại cho đến lúc con cá sấu thấy vui vẻ trở lại. Bạn tưởng tượng
được không, cưng nựng một con cá sấu? Đó là Tình yêu và sự Chấp nhận! Chúng ta nên học hà mã, nên nuôi dưỡng những
thứ mà thế giới vốn xem thường, đừng là chủng loài khủng bố! (Homo horribilis)

Một số định chỉnh mà chúng tôi đã thực hiện vào năm 2004 cho quyển sách Truth vs.Falsehood đã thay đổi chỉ đơn thuần là
hệ quả của việc chúng tôi đã định chỉnh chúng. Bạn có nhận thấy ý thức tiến triển ra sao chỉ đơn giản bằng việc chúng ta nhận
thức về sự phát triển của nó? Mong muốn biết sự thật có xu hướng kéo sự thật đến với chúng ta. Mức độ ý thức của bạn càng
cao, tình yêu thương của bạn càng lớn, thì tác động của sự quan sát và ý định của bạn càng lớn.

CHƯƠNG BA

SỰ TIẾN HOÁ CỦA Ý THỨC

Bởi vì ý thức phát triển khi chúng ta đơn giản là có nhận thức về nó, nên chúng ta đóng góp quan trọng vào cuộc sống bằng
cách ghi nhận chi tiết về sự tiến hoá của ý thức.

SỞ HỮU- HIỆU SUẤT- HIỆN HỮU

Nhìn tổng thể, Sơ đồ ý thức cho thấy có ba giai đoạn của sự tiến hoá: từ Sở Hữu đến Hiệu Suất đến Hiện Hữu.

• Ở những cấp độ ý thức thấp, Có cái gì là việc quan trọng đối với một người. Chính những gì họ Sở hữu mới được
đánh giá cao. Chính những gì họ Có mới giúp họ hình dung về giá trị và vị thế của họ trong thế giới. Họ mặc một bộ

45
quần áo có nhãn hiệu nhất định, lái chiếc xe của một hãng xe nhất định, những điều đó chứng tỏ tầm quan trọng của
họ đối với nhóm xã hội của họ. Ngay cả những cộng sự thân thiết cũng cốt là để biểu trưng cho địa vị của họ, vì thế
họ sẽ muốn khoác tay với một người tình khiến họ trông ngầu hơn trong mắt người khác, họ muốn được mọi người
nhìn họ trong một nhóm người cá tính. Ở một số hoàn cảnh, họ có thể giết người, trộm cắp để có một đôi giày hiệu,
hoặc tranh giành quyền kiểm soát lãnh địa riêng, hoặc chiếm đoạt bất cứ thứ gì mà họ xem là đáng sở hữu.
• Sở hữu tương đương với tồn tại, khả năng cạnh tranh, tính sở hữu và sự ganh đua có mức định chỉnh 190, “gói” này
có bổ sung thêm tính chất trung thành với nhóm của họ, “cộng đồng của tôi”, “vùng đất của tôi”.
• Một khi những người này chứng minh được với bản thân họ rằng họ có thể đạt được những gì họ muốn, họ thoả mãn
với những nhu cầu cơ bản của mình, họ thấy mình có đủ năng lực để tự cung cấp cho những nhu cầu cơ bản cho
riêng họ, cũng như cho những người phụ thuộc vào họ, tâm trí họ sẽ dần hứng thú với những gì họ làm, và rồi họ
chuyển sang một tập thể xã hội khác, nơi phản ánh những gì họ làm với thế giới, nó trở thành một thước đo và giá trị
cơ bản của họ. Vị trí và chức năng của một người là gì? Trình độ của cái tên đó là gì? Anh ta đã có những thành tích
gì? Họ liên kết thành tựu với sự tồn tại thông qua cảm giác an toàn khi có được sự công nhận và tôn trọng sâu rộng.
Họ thấy hợp tác nhóm rất hữu ích để cùng nhau chia sẻ chung những thành tựu về mục tiêu, tính chất thú vị trong sự
tồn tại của họ là thông qua những hoạt động của họ trong cộng đồng.
• Khi người ta biết yêu thương nhiều hơn, họ sẽ bớt bận tâm hơn về việc họ làm gì, với một sự tăng trưởng nội tại, họ
sẽ trở nên định hướng hơn để phục vụ cho những người khác. Cùng với ý thức phát triển, họ sẽ khởi tâm muốn phục
vụ, và có sự yêu thương đối với những người khác trong sự phục vụ đó, như một điều hiển nhiên đáp ứng cho nhu
cầu của chính họ, (điều này không có nghĩa là hy sinh. Phục vụ không phải là hy sinh. Đó là sự chia sẻ xuất phát từ
cái tâm trọn vẹn và niềm vui của một người). Hành động của họ là một sự yêu thương và nuôi dưỡng tự nhiên cho
cuộc sống xung quanh họ.
Tại thời điểm đó, họ làm gì trong thế giới không còn quan trọng nữa. Bởi họ đã chứng minh được với bản thân họ
rằng, họ có thể có những gì họ cần, họ có thể làm hầu hết những gì họ muốn, với một sự sẵn lòng. Và giờ đây, họ chỉ
việc sống, như chính họ và cho những người khác, đó mới là điều quan trọng nhất. Người ta bắt đầu tìm kiếm cộng
sự, không phải vì những gì người kia sở hữu, không phải vì những gì người kia đang làm và nhãn mác mà xã hội gán
cho họ, mà là bởi từ những gì họ đã trưởng thành. Do có chất lượng trong sự hiện hữu và tình yêu thương từ những
người này, mọi người muốn được ở gần họ. Những mô tả mà xã hội dành cho họ sẽ thay đổi, không phải là người có
một ngôi nhà sang trọng, hay lái một chiếc siêu xe, cũng không phải là chủ tịch tập đoàn hay được gắn với chức danh
gì cả. Bọn họ đơn giản là những người tuyệt vời, một người “bạn nhất định phải gặp”.
Mức độ hiện hữu này là điển hình của các nhóm tự lực giấu tên, không ai quan tâm nghề nghiệp của người khác,
những gì họ có, thậm chí họ tên gọi là gì. Họ chỉ quan tâm đến việc họ có đạt được những mục tiêu bên trong hay
không, như trung thực, cởi mở, yêu thương, sẵn lòng giúp đỡ, khiêm tốn, nhận thức. Họ quan tâm đến chất lượng của
sự hiện hữu.
Do đó, chúng ta thấy, ý thức tiến hoá từ sinh tồn sang yêu thương- nghĩa là, từ sự tập trung cao độ vào sự sống còn
của bản thân, chuyển sang quan tâm và hỗ trợ vì hạnh phúc của người khác, với một phạm vi hoạt động rộng lớn hơn,
đó mới là điều quan trọng trong sự tồn tại của họ, để sau cùng, họ vượt thoát khỏi niềm tin rằng, sự sống của một
người phụ thuộc vào “nhân quả”. Tại cột mốc này, người ta thuộc về chính cuộc sống, thoải mái trao đi yêu thương
mà không mong cầu được đáp lại.

SỰ TIẾN HOÁ TỪ SINH TỒN SANG YÊU THƯƠNG

Để hiểu các cấp độ đã được định chỉnh của ý thức, sẽ hữu ích hơn nếu tóm lược lại sự xuất hiện của ý thức trên hành
tinh và sự phát triển của nó thông qua thế giới động vật, cho đến biểu hiện của nó trên loài người. Trọng điểm trong
mối quan tâm của chúng ta ở đây là sự phát triển của Bản Ngã, với những hạn chế bẩm sinh của nó, điều này đòi hỏi
một sự hiểu biết từ bi.

Cái chính là: Bản ngã không phải kẻ thù của chúng ta; nó là một sự kế thừa sinh học. Nếu không có nó, không một ai
còn có thể đứng đây để than thở về sự hạn chế của nó! Bằng cách hiểu ngọn nguồn và tầm quan trọng nội tại của nó
đối với sự tồn tại, bản ngã có thể được xem là mang lại lợi ích to lớn nhưng dễ trở nên ngỗ ngược và gây ra các vấn
đề cảm xúc, các vấn đề về tâm lý và tinh thần còn lở dở chưa được chuyển hoá.

Sự sống phát sinh trên hành tinh này bằng cách nào? Từ không biểu hiện đến có biểu hiện, năng lượng của ý thức tự
nó đã tương tác với vật chất, và như một khía cạnh thiêng liêng, từ sự tương tác đó, sự sống được nảy sinh. Ở những
dạng sơ khai nhất, các biểu hiện của sự sống rất đơn sơ và không có nguồn năng lượng bẩm sinh bên trong. Do vậy,
sự tồn tại của chúng phụ thuộc vào việc thu nhận năng lượng từ bên ngoài. Trong thế giới thực vật, đây không phải
vấn đề, chẳng hạn như chất diệp lục có khả năng tự biến đổi năng lượng mặt trời thành các quá trình hoá học cần
thiết. Còn động vật thì phải kiếm được thứ nó cần từ môi trường sống của nó, từ đó nguyên tắc sinh tồn được thiết
lập như cốt lõi chính của bản ngã, vốn chủ yếu vẫn liên quan đến tư lợi, thâu đạt, chinh phục và cạnh tranh với các
sinh vật khác để tồn tại. Tuy thế, quan trọng nó còn có thêm các đặc tính về tò mò, tìm tòi, và vì thế, nó có khả năng
học hỏi.

Mức định chỉnh dưới 200

46
Cuộc sống mới đầu chỉ là tồn tại, không có nhu cầu tự cho mình là trung tâm. Bản ngã, cái cốt lõi của động lực sinh
tồn chỉ đơn thuần là làm những gì cần thiết khi sự sống tiến triển từ vi khuẩn (mức định chỉnh 1) sang côn trùng (mức
định chỉnh 6), đến sự xuất hiện của loài bò sát và khủng long. Rồng Komodo, có mức định chỉnh 40, là một ví dụ sống
động về thời đại khủng long. Ý định duy nhất của nó là “tôi”, và để “tôi” tồn tại, “tôi” cần ăn “bạn”. Thực ra, có một số
người được định chỉnh ở cùng mức đó và được vận hành bởi các mẫu thức trong trường năng lượng đó. Một quy
trình hoàn thiện của rồng Komodo là: cắn một nhát, chờ cho đến khi bạn bất động và thưởng thức một bữa tối nóng
hổi! Ý định của nó về mặt tâm linh không có gì đồi bại. Nó ăn bạn chỉ để tồn tại.

Trong quá trình tiến hoá, các cơ chế sinh tồn trở nên phức tạp hơn vì trí thông minh trở nên chất lượng hơn, nó bao
gồm thu thập thông tin, lưu trữ, xử lý, so sánh, tích hợp, tương quan và phân cấp. Sự sống tự nó có trí thông minh
bẩm sinh. Quan sát này là cơ sở cho lý thuyết “thiết kế thông minh” ( mức định chỉnh 480), nó không đòi hỏi phải có
điều kiện về thần thánh hay đấng sáng tạo.

Sự sống sau đó tiến hoá thành các dạng sống bậc cao dần, khi lập biểu đồ tiến hoá qua các kỷ nguyên, sự biểu hiện
trở nên rõ ràng hơn trong vương quốc động vật. Điều đáng chú ý là ở mức ý thức dưới 200 (ngoại trừ hầu hết các loài
chim), cuộc sống có thể được mô tả là tàn bạo. Hổ có vẻ ngoài tuyệt đẹp, nhưng hung dữ khi săn mồi và giết chết con
mồi. Mức độ ý thức dưới 200 thu nhận năng lượng từ sự phóng thích năng lượng của những người khác, và bởi sự
sống của họ còn phụ thuộc vào sự thu nhận đó, họ xem những người khác là đối thủ, đối thủ cạnh tranh và là kẻ thù.
Trong ngôn ngữ hiện đại, đó là những người ưa sở hữu, săn mồi, thích cạnh tranh, hay thù địch, có biểu hiện cực
đoan, hung hãn, thậm chí dã man. Chúng tôi quan sát thấy rằng dưới mức 200, con người không quá khác biệt với
các loài động vật, họ làm những gì họ cho là cần thiết để tồn tại. Tất cả cái tôi của con người đều có thể được nhìn
thấy trong sự tiến hoá của thế giới động vật theo thời gian, nơi có sự lừa dối, cạnh tranh, nguỵ trang, vũ lực để thúc
đẩy sự tồn tại. Với sói ( mức định chỉnh 190), chúng ta thấy có sự hình thành tập tính bầy đàn, con đực và con cái
alpha chiếm ưu thế, chúng có tính chất xây dựng lãnh thổ riêng, và sử dụng cách thức nguỵ trang để tấn công những
con mồi lơ đễnh. Mô hình này của sói đặc trưng cho toàn bộ xã hội trong thế giới ngày nay.

Mức định chỉnh trên 200

Ở cấp độ ý thức 200, có một sự thay đổi trong vương quốc động vật mang tính thiện hơn; nghĩa là, ngoài động vật ăn
thịt, xuất hiện động vật ăn cỏ. Một sự thay đổi đáng kể về ý thức là sự xuất hiện của các loài động vật ăn cỏ ở các
vùng đồng bằng rộng lớn của Châu Phi và Bắc Mỹ. Cấp độ 200 còn có hươu cao cổ và ngựa vằn, chúng không săn
mồi và giết chóc, chúng gặm cỏ. Những động vật ăn cỏ không chỉ trả lại lượng phân bón giàu ni-tơ cho đất để duy trì
nhiều hơn sự sống; chúng còn rải hạt giống trong phân của chúng, do đó hỗ trợ thảm thực vật phát triển. Hươu, nai,
nai sừng tấm, bò, voi, cừu và ngựa đều được định chỉnh mức trên 200.

Từ 200 trở lên, sự sống trở nên hài hoà hơn khi lần đầu tiên có tình mẫu tử, cùng với sự quan tâm dành cho những
kẻ khác. Đó là khởi đầu của những gì sau đó được biểu hiện trong bản chất con người, như quan hệ kết giao, giao
tiếp xã hội, cùng nhau vui chơi, gắn kết gia đình, cặp đôi, hợp tác nhóm, có các mục tiêu chung, chẳng hạn cùng tồn
tại qua hoạt động chung của cộng đồng. Ở chim mẹ, chúng ta thấy có sự quan tâm chăm sóc đối với con con. Còn bò
sát thì không, chúng đẻ trứng và sau đó để mặc con chúng đi lang thang. Chim mẹ có sự quan tâm đến sự sống còn
của trứng và chim non. Cùng với sự tiến hoá của động vật có vú, ta thấy sự xuất hiện lần đầu của một sự quan tâm
chăm sóc lâu dài thật sự dành cho những cá thể khác, dưới hình thức tình mẫu tử. Do đó, tình yêu lần đầu tiên xuất
hiện trên hành tinh này là thông qua tính nữ, được thể hiện bằng sự quan tâm, chăm sóc.

Cùng với sự phát triển của quá trình tiến hoá, người hai chân đứng thẳng xuất hiện, họ có hai chi không cần vận động.
Do đó, hai chi tự do này đã phát triển sự khéo léo, và nó chính là hai tay. Cộng thêm sự phát triển của ngón cái, nó đã
cho phép các nghề thủ công và chế tạo công cụ phát triển. Sự phức tạp được gia tăng là bởi sự phát triển ở não trước
và vỏ não trước trong giải phẫu học, đó là nơi chứa đựng trí thông minh của con người. Tuy nhiên, vì bản năng động
vật chiếm ưu thế. Do đó, vỏ não trước trán vẫn phụ thuộc vào động cơ sinh tồn của động vật.

Sự tiến hoá của loài người

Loài người nguyên thuỷ xuất hiện như mầm sống trên cây tiến hoá, có lẽ là bắt đầu với “Lucy” cách đây ba triệu năm,
và sau đó là người Neanderthal, Cro-magnon, Homo Erectus, và những giống người khác, tất cả đều định chỉnh ở
mức 80 đến 85. Mỗi chi mới của Homo không hoà tan với các chi khác. Thay vào đó, các nhánh mới liên tục phát sinh
như đặc tính tự biểu hiện. Gần đây nhất, có lẽ là hàng trăm nghìn năm trước, ở Châu Phi, khả năng đã xuất hiện tiền
thân của loài người hiện đại, Homo Sapiens Idaltu, với mức độ ý thức cũng đâu đó 80-85.

Vì thế, ở mức ý thức dưới 200, vỏ não trước vẫn chịu sự chi phối của bản năng động vật và tất cả các chiến thuật sinh
tồn của động vật, chỉ là nó tinh vi hơn. Người ta không tấn công nhau bằng răng mà bằng lời nói và các loại vũ khí
khác. Chiến tranh và sự cạnh tranh vẫn diễn ra khốc liệt như thuở nào, các trang nhất của báo chí tường thuật những
sự kiện tương tự như những gì có thể quan sát được trên các hòn đảo khỉ. Bộ tộc khỉ này đang khiến cho bộ tộc khỉ

47
kia “xấu”, và bộ tộc khỉ nọ “tốt”; cái này đang cố chiếm ưu thế hơn cái kia; những con đực đang lén lút thâu tóm hết
những con cái sau lưng nó; mọi người cố gắng làm cho đống phân của mình cao hơn đối thủ và họ sẽ ném nó vào
bất kỳ ai họ cảm nhận thấy có sự đe doạ! Nghe quen không?

Khi ý thức tiến hoá bên trong một người, và vượt qua mức 200, các loại động lực nguyên thuỷ của động vật bắt đầu
xung đột với năng lượng của sức mạnh tâm linh, là sự thật và tình yêu. Sự lừa dối của bản ngã thông minh ở chỗ, nó
lừa nạn nhân của nó tin rằng: kẻ thù của họ chỉ ngay “ngoài kia”, trong khi thực ra, nó là bản chất bẩm sinh của quá
trình sinh tồn sinh học, và nó ở “ngay đây”.

Sự hiểu biết (mức định chỉnh 400) về bản ngã và chấp nhận nó như một con thú cưng sẽ cho phép nó sau cùng được
giải phóng. Nó có thể được xem như một con thú cưng, dễ thương, nhỏ nhắn, cần được giám sát, không khéo nó sẽ
làm tổn thương người khác hoặc chính nó. Cuối cùng, khi một người nhận thức được các loại hoạt động của nó, người
ta sẽ có thể ghi đè lên.

Những người ở mức 400 bắt đầu thoát khỏi tính hợp lý ở mức độ đó, bằng cách tiến hoá lên trường phi tuyến tính để
tiến vào mức Tình yêu thương (định chỉnh 500), tỉ lệ này cũng không nhiều, khá hiếm. Ở các mức 500, ý thức được
chuyển đổi. Người ta sẽ ít quan tâm hơn đến thế giới khách quan và thay vào đó là sống bằng trạng thái nhận thức
chủ quan, một khi nhận ra rằng trải nghiệm sống là bắt nguồn từ bên trong, sự ân sủng vô hạn đến từ nội tại này sẽ
có khả năng phân biệt cực kỳ sâu sắc.

Sự cố chấp trong cái tôi nguyên thuỷ của con người có tính cốt lõi là “chủ nghĩa vị kỷ”, mức định chỉnh dưới 200, nó
biểu đạt lì lợm trong vấn đề tư lợi, xem thường quyền lợi của người khác, xem người khác là đối thủ, là kẻ địch hơn
là đồng minh. Vì an toàn, con người tập hợp thành nhóm và phát hiện ra lợi ích của sự tương hỗ và hợp tác, điều này
một lần nữa lại là hệ quả của nhóm động vật, tập tính bầy đàn và sự hình thành gia đình trong loài động vật có vú và
các loài chim.

Mức độ ý thức được định chỉnh của con người phát triển nhìn chung là chậm. Thời điểm Đức Phật đản sanh, ý thức
tập thể có mức 90. Sau đó đến thời điểm Chúa Giê-su ra đời, nó được nâng lên thành 100, phát triển một cách chậm
rãi qua hai thiên niên kỷ và đạt mức 190, và dừng ở đó suốt nhiều thế kỷ. Đến cuối những năm 1980, có những làn
sóng hội tụ hoà vào khiến mức độ ý thức xã hội đột ngột tăng vọt từ 190 đến 204-205. Thời điểm giao hoà này dường
như báo hiệu cho một kỷ nguyên tiến hoá mới được mở ra của loài người: tức là sự xuất hiện của nhận thức toàn vẹn
về tinh thần (xem I: Reality and Subjectivity).
Khoảng 85 phần trăm dân số thế giới vẫn ở mức dưới 200, do đó họ vẫn bị chi phối bởi bản năng, động cơ và hành
vi của động vật (như được phản ánh trong mục thời sự 7 giờ mỗi tối). Các mức dưới 200 cho thấy sự lệ thuộc vào Vũ
lực, dù là tình cảm, thể chất hay xã hội, hay vũ lực dưới bất kỳ biểu hiện nào. Các cấp độ trên mức 200 thể hiện sự
tăng trưởng bởi thông số lô-ga-rit, chỉ ra các cấp độ của Sức mạnh.

Sự khác nhau giữa “dưới 200” và “trên 200”

Ở mức ý thức 200, có một ý nghĩa quan trọng trong sự thay đổi sinh lý của não. Nó tác động đến cả chất lượng cuộc
sống, không chỉ ở người, kể cả động vật cũng thế, một dạng chuyển đổi từ săn mồi sang ăn thực vật lành tính. Ở
người, nó được thể hiện bằng sự xuất hiện của lòng quan tâm đến phúc lợi, sự sống và hạnh phúc của người khác,
hơn là chỉ cho bản thân. Những lợi ích từ sự tiến hoá, biết chăm sóc và tăng trưởng tinh thần được thể hiện rõ ràng
trong biểu đồ sau. Trên mức 200, bộ não dĩ thái (một loại vật chất tinh khiết có trong vũ trụ- LND) xuất hiện, nó không
thuộc về chất nguyên sinh hoặc chất về mặt giải phẫu học, mà nó ám chỉ năng lượng, não ê-te không chỉ cho phép xử
lý hiệu quả hơn các loại kích thích, mà còn ghi nhận được các tần số năng lượng bậc cao, điều mà bộ não thuộc hợp
chất nguyên sinh không có khả năng đáp ứng. Điều này tương tự như thế giới vật chất, chúng ta cần có nhiều dụng
cụ tinh vi hơn để phân biệt các trường năng lượng ở tần số cao hơn khả năng ghi nhận của các giác quan
(chẳng hạn tai không thể nghe được sóng vô tuyến). Bộ não dĩ thái (năng lượng) có khả năng ghi nhận phi ngôn ngữ,
phi tuyến tính, và chỉ biết. Những người thuận tay phải sẽ có não trái chiếm ưu thế. Nhưng đối với những người không
bị thống trị bởi não trái, nhân cách của họ được kích thích bởi thiên hướng nghệ thuật, âm nhạc, lòng vị tha và tính
thẩm mỹ.

CHỨC NĂNG VÀ SINH LÝ HỌC CỦA NÃO BỘ

Tâm trí thấp (Dưới 200)

((
48
chậm chậm
Vỏ não
Đồi thị (điều khiển nhanh
Đầu vào Hạch hạnh nhân Đồi Hải Mã
thân nhiệt, đói
khát…)
Lặp lại Cảm
Ký ức
xúc

Tâm trí cao (Trên 200)

nhanh Bộ não Dĩ thái Rất


nhanh
Hạch hạnh Đồi Hải Mã
Đầu vào Vỏ não
nhân

Đồi thị ( điều


Cảm Ký ức
khiển thân
xúc
nhiệt, đói,
khát…)

Dưới 200 Trên 200


Người thuận tay phải có não trái chiếm ưu Não phải chiếm ưu thế
thế
Người thuận tay trái có não phải chiếm ưu Não trái chiếm ưu thế
thế
Tuyến tính Phi tuyến tính
Căng thẳng- hoocmon adrenaline Bình an- hoocmon endophins
Tranh đấu hoặc Viễn vông (cảnh giác/ Cảm xúc tích cực
kháng cự/ kiệt sức)
Căng thẳng Tuyến ức Hỗ trợ Tuyến ức
Các tế bào sát thủ Đ và hệ miễn dịch Các tế bào sát thủ Đ và hệ miễn dịch
Hệ thống kinh mạch châm cứu bị tắc, gián Hệ thống kinh mạch châm cứu cân bằng
đoạn
Bệnh tật Chữa lành
Phản ứng động học tiêu cực Phản ứng động học tích cực
Chất truyền dẫn thần kinh Đ (serotonin) 1
Đồng tử giãn ra Đồng tử co lại
Bắt cảm xúc nhanh gấp đôi thông qua vỏ Bắt cảm xúc chậm hơn từ vỏ não trước trán
não trước trán và não dĩ thái
Những thái độ tinh thần thấp Những thái độ tinh thần cao

49
Những điều trên là sự khác biệt chủ đạo từ hai nhóm, biểu đồ là minh chứng để phân biệt giữa thái độ của tâm trí thấp với thái
độ của tâm trí cao.

Tâm trí thấp (mức 155) Tâm trí cao (mức 275)
Tích luỹ Phát triển
Thâu đạt Phảng phất
Nhớ Phản chiếu
Duy trì Tiến hoá
Suy nghĩ Quá trình
Được quy định bởi cảm xúc, ham muốn Được quy định bởi lý trí, cảm hứng
Đổ lỗi Nhận trách nhiệm
Cẩu thả Kỷ luật
Cụ thể, nghĩa đen Trừu tượng, tưởng tượng
Đạo đức Đạo lý
Định nghĩa Bản chất, ý nghĩa
Chai sạn Trắc ẩn
Chỉ trích Chấp nhận
Hoài nghi Lĩnh hội
Nghĩa đen Trực giác
Kiểm soát Buông bỏ
Cạnh tranh Hợp tác
Thiết kế Nghệ thuật
Tội lỗi Hối hận
Vũ lực Sức mạnh
Ngây thơ, dễ gây ấn tượng Tinh tường, am hiểu
Quá mức Cân bằng
Giai đoạn tuyệt Giai đoạn nảy mầm
Định giá Đánh giá
Tránh né Đối mặt và chấp nhận
Đồng tình Đồng cảm
Muốn Chọn lựa
Khát khao Giá trị
Trẻ con Chín chắn
Tấn công Tránh đi
Kết tội Tha thứ
Keo kiệt Hào phóng
Yếm thế Tối ưu, hy vọng
Nghi ngờ Tin tưởng
Thiếu hụt tiền bạc Đủ cho các nhu cầu
Khăng khăng Đề nghị
Hấp tấp, vội vàng “tiến bước”
Dâm tính Khao khát
Bạc bẽo Biết ơn
Thô tục, thô thiển Tinh tế, trong trẻo
Ác nghiệt, nặng nề Khôi hài, ngây thơ

XEM XÉT QUA 7 LĨNH VỰC CUỘC SỐNG

Một số loại thông tin có thể làm cho ý thức của một người nhảy vọt chỉ để nhận thức được chúng. Đây là khám phá từ nghiên
cứu định chỉnh ý thức giúp tăng cường hiểu biết về các lĩnh vực khác nhau trong cuộc sống. Trên thực tế, tất cả sự sống đều có
hy vọng tiến hoá. Ngay cả trong những giai đoạn khó khăn lớn cũng có thể được xem như là một phần của quá trình tăng trưởng.

1. Động vật

Các mức độ định chỉnh của động vật đại diện cho mức trung bình của cả quần thể, trong đó có sự khác biệt giữa các cá thể,
cũng như sự khác biệt về mức độ của các hành vi. Ví dụ, “vui chơi” có điểm định chỉnh cao hơn so với mức trung bình của các
chức năng khác, điều này đúng với cả động vật và con người. Một điểm khác đáng lưu ý là khi được một gia đình con người
nhận nuôi, mức độ ý thức của động vật sẽ tăng lên 5 hoặc 10 điểm; đặc biệt, với một số loài chim và những loài động vật cụ thể
khác, khi chúng trải nghiệm sự tương tác hiệu quả trong một thời gian dài với người chăm sóc, mức định chỉnh của chúng có
thể lên đến 400. Koko, một con khỉ được huấn luyện đã chứng tỏ được khả năng ngôn ngữ đáng kinh ngạc cũng như tình mẫu

50
tử của nó (nó đã nuôi và còn đặt tên cho một chú mèo con), và có mức định chỉnh 405. Một cấp độ chỉ ra năng lực về tư duy và
lý trí; do đó, mức định chỉnh giúp giải quyết tranh cãi giữa các nhà khoa học thực nghiệm về việc, liệu rằng một số hành vi nhất
định của động vật có thực sự phản ánh được năng lực đối với Lý trí hay không. Hơn nữa, một khám phá độc đáo khác là tiếng
gừ gừ của mèo, tiếng chim hót, tiếng vẫy đuôi của chó đều đạt mức cực cao (500)- trên thực tế, nó còn cao hơn phần lớn dân
số loài người. 500 là mức năng lượng của tim. Nó cho thấy động vật có khả năng tương tác với nhau và có thể phát ra Tình yêu
thương, đây là một lĩnh vực cần nghiên cứu thêm để khám phá lý do tại sao những con vật cưng này lại có khả năng yêu thương-
nghĩa là, chúng thể hiện sự phát triển vượt trội của “luân xa tim”, thứ được biết là có khả năng chữa lành nhiều loại bệnh của
người.

2. Tác động của Tình yêu thương

Tình yêu thương chỉ mới xuất hiện gần đây trên hành tinh của chúng ta, bắt nguồn từ chim và động vật có vú thông qua tình
mẫu tử. Có một thông tin hữu ích là, chúng ta trở nên ít quan tâm đến điều kiện bên ngoài hay chất lượng cuộc sống, thay vào
đó là biết quan tâm nhiều hơn đến người khác dạo gần đây, đó là kết quả của sự phát triển về ý thức qua hàng thiên niên kỷ.
Thực tế này cho phép chúng ta đánh giá cao về sự hiện diện của Tình thương trong thời đại hiện nay, và vì chúng ta đánh giá
cao nó, sẽ giúp nó tiếp tục được tăng trưởng thêm.

Quả thật, bất cứ điều gì có tình thương đều làm tăng mức định chỉnh, chẳng hạn có thể quan sát thấy điều này trong thực phẩm
mà chúng ta ăn hàng ngày. Thực phẩm chế biến tự động tại nhà máy có mức định chỉnh 188-200, thực phẩm chế biến tại nhà
tăng lên đến 209 và nếu có ý niệm về tình thương, nó sẽ đạt mức 215. Bánh mì làm bằng máy tại siêu thị có mức 187, nhưng
nếu làm thủ công- cũng trong siêu thị đó thì có mức 203, và sẽ cao hơn nếu tiếp tục có ý niệm về tình thương trong đó. Bánh
quy được làm cho gia đình có mức 520. Sự khác biệt về mức định chỉnh này lần nữa là một minh chứng độc đáo tương tự cho
nguyên tắc Heisenberg, ở chỗ một khi có ý thức xuất hiện- cùng với sự tác động về ý định của con người- sự vật sẽ được thay
đổi. Đây cũng là một bằng chứng nói rằng, bản thân những lời cầu nguyện không chỉ là mơ tưởng, qua đó, chúng chuyên chở
nhiều tình yêu thương hơn vào cuộc sống của chúng ta, chỉ đơn giản bằng cách tập trung một cách có ý thức vào sự hiện diện
của một điều cụ thể và đặt nó như động lực mỗi ngày. Chẳng hạn, điều này có thể được nhận ra trong hoạt động chuẩn bị cơm
cho gia đình, dọn dẹp hộp xí cho mèo, đi làm để trang trải các hoá đơn…các nỗ lực bình thường thường nhật, nếu được thực
hiện một cách xuất sắc, chúng vẫn mang lại một sức mạnh đáng kể. Sự điều chỉnh về mức độ ý thức khẳng định lại một câu nói
của Mẹ Teresa: “làm những điều nhỏ với tình yêu lớn”.

3. Lãnh đạo xã hội

Các trường năng lượng cao trong lĩnh vực lãnh đạo xã hội là rất hiếm, các ví dụ lịch sử gần đây cho thấy bằng chứng về sức
mạnh của họ trong việc vượt lên trên sự chia rẽ bất khả trong xã hội để mở ra những đột phá lớn bằng biện pháp hoà bình, hơn
là vũ lực. Vũ lực luôn khăng khăng rằng “kết quả biện minh cho cách thức” và bán rẻ tự do để đạt được hiệu quả. Đối với Sức
mạnh, phương thức và kết quả là như nhau, nhưng “kết quả” của nó đòi hỏi sự trưởng thành, kỷ luật và kiên nhẫn hơn mới có
thể đạt được.

Các nhà lãnh đạo tuyệt vời truyền cảm hứng cho người khác có niềm hy vọng và sự tự tin nhờ vào sức mạnh của sự chính trực
tuyệt đối, cũng như những nguyên tắc bất di bất dịch của họ. Những con số định chỉnh của họ nói rằng, họ không thoả hiệp các
nguyên tắc và vẫn giữ được sức mạnh của họ. Winston Churchill (định chỉnh 510) không bao giờ cần sử dụng vũ lực với người
dân Anh; Gandhi ( định chỉnh 760) đã đánh bại đế quốc Anh mà không cần bày tỏ sự tức giận; Nelson Mandela (hiệu chuẩn 505)
đã trải qua một sự biến đổi nội tâm sâu sắc suốt 27 năm sống trong tù dưới chế độ phân biệt chủng tộc, ông từ một chiến binh
bộ lạc đã trở thành người có tầm nhìn nhân văn thống nhất, mở ra nền Dân chủ đầu tiên ở Nam Phi; Mikhali Gorbachev ( định
chỉnh 500) đã mang lại cuộc cách mạng toàn diện trong khối chính trị lớn nhất thế giới chỉ trong vài năm ngắn ngủi mà không
cần phải nổ súng, nhờ vào nguồn cảm hứng và tầm nhìn của ông.

Một trong những đặc điểm của Vũ lực là kiêu ngạo; trong khi Sức mạnh có đặc trưng bởi sự khiêm tốn, thì Vũ lực có tính chất
phô trương, nó thể hiện nó biết tất cả các câu trả lời. Sức mạnh có tính khiêm cung. Stalin, một người nắm uy quyền về quân
sự, đã đi vào lịch sử như tên tội đồ. Ngược lại, Mikhali Gorbachev, một con người khiêm tốn với cách ăn vận đơn sơ luôn sẵn
sàng nhận lỗi, đã nhận được giải Nobel Hoà Bình.

51
Mặc dù vẫn có khuyết điểm, thế giới vẫn công nhận những “sự vĩ đại” thực sự, họ là những nhà lãnh đạo đại diện cho đặc tính
của Sức mạnh, Nội lực với các phẩm tính tượng trưng trong tính cách của họ. Những nỗ lực đóng góp cho nhân loại của họ
được ghi nhận thông qua nhiều lĩnh vực khác nhau ( có mức định chỉnh từ 460- 760):

• Abraham Lincoln
• Mẹ Teresa
• Eleanor và Franklin D.Roosevelt
• Benjamin Franklin
• Helen Keller
• Winston Churchill
• Ronald Reagan
• Mahatma Gandhi
• Parks Reece
• Michelangelo
• Beethoven
• Mozart
• Nijinsky
• Các phi hành gia
• Susan B.Anthony
• Martin Luther King con
• Nelson Mandela
• Oprah Winfrey
• C.G. Jung
• Joe DiMaggio
• Rachel Carson
• Louis Armstrong
• Lily Tomlin
• Mary Oliver

…và nhiều người khác nữa. Tất cả họ đều thể hiện một tầm vóc lớn và liên đới đến sự chính trực, xuất sắc, vẻ đẹp và lòng dũng
cảm.

Các mức độ ý thức thấp thường tấn công các nhà lãnh đạo vĩ đại. Trong lịch sử, tất cả các tổng thống, đặc biệt là trong thời kỳ
chiến tranh ( ví dụ như Abraham Lincoln), đã phải chịu sự tấn công nghiêm trọng, những lời phỉ báng cực đoan, thậm chí bị ám
sát, hay trải qua những thập tự giá luân lý đau đớn. Ví dụ như quyết định đau khổ của Truman, liệu có nên dùng đến quả bom
nguyên tử để kết thúc chiến tranh Thế Giới thứ hai hay không. Ý định đó của ông có mức định chỉnh 475; đó là một hoàn cảnh
khó khăn của cuộc chiến, phải cân nhắc tác động về mặt đạo đức của việc đánh đổi tính mạng 180,000 thường dân để ngăn
chặn cái chết cho sáu đến bảy triệu người khác.

4. Chủ nghĩa hiện thực

Sự tiến hoá của ý thức cho thấy, thật là sai lầm khi cho rằng người khác có cùng hệ giá trị với mình. Từ Biểu đồ sinh lý não,
chúng ta nhận ra những người có mức định chỉnh dưới 200 và những người có mức định chỉnh trên 200 thực sự là hai kiểu
người khác nhau về cách nhận thức, xử lý thông tin và phản ứng lại với thế giới. Như đã đề cập trước đó, có 85 phần trăm dân
số thế giới dưới mức 200, họ được thúc đẩy bởi lòng tham, sự ghét bỏ, lòng kiêu hãnh và các mục tiêu tự tôn khác, họ không
đáng tin và khó đào tạo. Do đó, sẽ rất ngây ngô khi nghĩ rằng nếu mình có tính chính trực thì người khác cũng như thế.

Trong lịch sử, chúng ta đã chứng kiến những cái giá mà sự ngây ngô phải trả. Mười triệu sinh mạng bị mất đi bởi những người
đàng hoàng thể hiện sự tử tế của họ lên những người không tử tế, và từ đó không thể phân biệt được ai là “sói đội lốt cừu”.
Những con sói có mức định chỉnh dưới 200 đủ thông minh và có sự tự tin lẫn hung hãn trong đàn của chúng để săn và giết
những con mồi lớn hơn chúng gấp vài lần. Sói thường sử dụng phương thức nguỵ trang (lừa dối) để đến gần những con mồi
thơ ngây của chúng. Cừu, trái lại, có mức định chỉnh 210, lại là một trường năng lượng rất khác, nó là loài động vật ăn cỏ hiền
hoà, không săn bắt và giết hại. Con người và một số sinh vật khác có mức định chỉnh 190 có khả năng nguỵ trang bằng cách
che đậy ý định thật sự của mình, dưới lớp bọc “cừu non” về khả năng đồng thuận, thiện chí, thậm chí là “hoà bình”. Định chỉnh
ngay lập tức phản ánh được bản chất sói dưới lớp áo cừu non của những người này.

Mức định chỉnh của những người là sói nhưng thích đội lốt cừu là 120, tệ hại hơn chúng ta nghĩ, và hầu hết các biện pháp chính
trị có mức định chỉnh 190 (chủ nghĩa tự cao tự đại). Mức định chỉnh 120 có nghĩa là, điều cực kỳ quan trọng là trở nên tinh tế để

52
nhận ra rằng, bản chất và nhận thức là hai thứ hoàn toàn khác nhau. Sẽ là một sai lầm nghiêm trọng nếu hiểu sai điều này, thật
sự rất sai lầm. Bạn cho rằng rồng Komodo an toàn bởi bạn là một người “yêu động vật” và “nhân đạo”, cũng không có nghĩa là
bạn có thể lê dép vào hang động của nó. Mặt trái của văn minh phương Tây là hành động dựa trên một niềm tin, rằng “nếu
chúng ta đối xử tốt với các loại rồng Komodo và chào đón chúng, thì chúng sẽ trở thành những con vật tốt”. Đây là một nhận
thức sai nghiêm trọng.

Chẳng hạn như sai lầm của Thủ tướng Anh Neville Chamberlain, ông đã gặp Hitler trong Thế chiến 2 để ký Hiệp Ước Hoà Bình
chung và trở về Luân Đôn tự hào tuyên bố “đã lập được hoà bình cho thời đại”. Hitler đã chế giễu ông là “đồ ngu ngốc”. Trong
thoả thuận Munich, Hitler hứa với Chamberlain rằng, nếu được giao một số lãnh thổ nhất định, ông ấy sẽ dừng xâm lược. Cũng
trong năm đó, mưa bom dội xuống nước Anh, Chamberlain trở thành một kẻ ngốc vì thiếu kinh nghiệm thực tế. Và đương nhiên,
Hitler là đang vào vai một con sói đội lốt cừu, ông vốn chưa bao giờ có ý định tôn trọng thoả thuận giữa họ. Vì thiếu tính thực tế
( mức định chỉnh 185), Chamberlain thất bại trong việc bảo vệ đất nước của ông. Ý định của ông có phẩm tính đức hạnh (500),
nhưng khả năng của ông ta còn yếu kém.

Những động thái tương tự xảy ra trong thời gian gần đây khi các nhà lãnh đạo chính trị ngây thơ tin tưởng vào thiện chí của các
quốc gia có vũ khí hạt nhân, họ thật sự có ý định sử dụng nó để tiêu diệt chúng ta. Sự xoa dịu chủ nghĩa khủng bố định chỉnh ở
mức “tâm trí thấp” (155) và bị những kẻ khủng bố xem là nhu nhược, hèn nhát. Đối với những kẻ đi săn, những con vịt béo ú
lười biếng nên nhận lấy kết cục “xứng đáng” cho chúng, tương tự như những chủ xe ô-tô bỏ lại chìa khoá của họ trên xe và đi
đâu đó. Khẩu hiệu “khoan dung” được định chỉnh ở mức 190, là một lời biện bạch sai lầm của những người rơi vào hoàn cảnh
“ôi thôi xong rồi”, họ vô tình vẽ đường cho hươu chạy bởi hành động đánh giá các yếu tố có nguy cơ rủi ro cao theo một cách
hết sức thật thà. Cũng giống như một con mồi yếu ớt khiến cho bầy sói bị thu hút, và những kẻ hung hăng thì lợi dụng lý tưởng
ngây thơ của nước Mỹ.

Định chỉnh ý thức tiết lộ sự thật của bất kỳ kiểu xung đột chính chị hoặc ngoại giao nào, vì ý định cơ bản của mỗi bên có thể
được phát hiện ngay lập tức. Như đã nói về các quốc gia trong quyển Truth vs Falsehood, các quốc gia nhất định và / hoặc các
nhà lãnh đạo của quốc gia đó định chỉnh ở mức có sự khác biệt rõ ràng, đặc biệt khi họ sở hữu hoặc đang tăng cường năng
lượng hạt nhân. Hoa Kỳ có mức định chỉnh 421- nên tiếp cận năng lượng hạt nhân với sự hợp lý và tiết chế. Những giá trị cao
cấp bị các mức độ ý thức thấp chế giễu là “yếu nhược”. Ngược lại, các quốc gia hoặc các phong trào chính trị dưới mức 200
được thúc đẩy bởi các giá trị như lòng thù hận, trong khi mốt bây giờ là “chính trị khoan dung”. Có thể nói rằng, tốt hơn hết là
nên sống theo chủ nghĩa hiện thực, còn hơn là chết trong chủ nghĩa tương đối.

Các phương tiện truyền thông cũng có đóng góp vào chủ nghĩa “thiếu” hiện thực, nó là hệ quả của việc ảo tưởng được tạo ra
từ sự hô hào “công bằng và cân bằng”. Và đương nhiên, nó ngụ ý theo thuyết tương đối, sự giả dối có giá trị ngang bằng với sự
thật, một giả định khá vô lý khi chỉ dựa trên những giá trị bên ngoài. Lấy ví dụ, chúng ta cũng có thể nghĩ rằng trái đất là hình
phẳng, như khẩu hiệu “công bằng và cân bằng” với những ai khác có quan điểm trái đất là hình tròn. Nó rõ ràng hơn với sự nguỵ
biện, rằng “bất cứ vấn đề nào cũng có tính hai mặt”. ( trong phương pháp định chỉnh, điều này là sai). Nó thật sự là câu phát
ngôn của một quan chức công khi ông ta bị bắt quả tang biển thủ tiền và cất giấu nó dưới hầm nhà của ông ấy.

Xã hội Mỹ có mức định chỉnh 421 ( tính đến tháng 11 năm 2007). Ngược lại, những người chỉ trích xã hội Mỹ ở mức 190. Cầu
nguyện cho hoà bình có mức 305, biểu tình cho hoà bình là 170. Tự do ngôn luận trong khái niệm là 340, tự do ngôn luận thực
hành như ở Hoa Kỳ là 187- đó là cấp độ của ái kỷ. Thái độ phản đối chính phủ Mỹ công khai và cứng rắn như hiện nay- chủ
nghĩa Holywood- có mức định chỉnh từ 170 đến 190- thu lợi ích từ sự chú ý của giới truyền thông. Trong khi nhãn mác về “quyền
chất vấn” là một hình thức thù địch ngầm và có mức định chỉnh 160, nếu là sự bất đồng chân thật thì định chỉnh là 495.

5. Các biện pháp an toàn

Một nghiên cứu về nền văn minh phương Tây chỉ ra rằng mức độ ý thức tổng thể của họ hiện đang suy giảm, đến mức ngay cả
giáo dục chính quy cũng không còn là biện pháp bảo vệ chống lại sự vi phạm trắng trợn và sự giả dối tràn lan trên các phương
tiện truyền thông, học thuật.

Các biện pháp đối phó thiết thực nhất là:

1. Luôn liên kết tinh thần với sự thật ( tạo điều kiện cho sự thay đổi thuận lợi trong cơ chế hoá học của não).

53
2. Làm cho trí tuệ trở nên tinh tế hơn thông qua sự quen thuộc với những quyển sách vĩ đại của thế giới phương Tây.
3. Có nhận thức về Sơ đồ Ý thức.
4. Nâng cao mức độ ý thức của bản thân bằng cách tuân theo và thực hành các nguyên lý tinh thần đã được xác minh
cũng như các nguyên tắc cụ thể (xem Chương 8 và 9 trong quyển sách này).

6.Lòng từ bi

Nhờ có bản ngã mà chúng ta thậm chí mới còn ngồi được ở đây để đọc quyển sách này. Khi nhìn nó từ quan điểm của một sự
tiến hoá qua hàng thiên niên kỷ, sự hiểu biết giúp nảy sinh lòng độ lượng. Bản ngã không phải “kẻ thù” của chúng ta, mà nó là
“thú cưng”, và chúng ta cần chăm sóc nó, để mắt đến nó. Thay vì lên án, hận thù, mặc cảm về nó, hãy loại bỏ những năng lượng
xấu bằng cách nhìn nhận về nó trong sự khách quan, về bản chất thực sự của bản ngã- đó là vết tích trong nguồn gốc tiến hoá
của chúng ta. Nghịch lý thay, bản ngã lại khó bảo hơn khi bị lên án, bị gán là “tội đồ”, được nuôi bằng sự ăn năn tang tóc đau
thương, và ngập chìm trong tội lỗi. Những cách tiếp cận như vậy là sử dụng bản ngã để tấn công chính nó, do đó làm củng cố
nó thêm.

Freud đã khám phá ra rằng, vì cảm giác tội lỗi, chúng ta sẽ kìm nén bản chất động vật của mình, sau đó phóng chiếu nó lên
người khác, giả như một vị thần cố tình có những khiếm khuyết tính cách tồi tệ. Bản ngã được giải phóng không phải bởi sự tố
cáo hay tự thù hận- vốn là những biểu hiện của chính nó- mà bởi sự chấp nhận và từ bi hiền hoà, vượt lên trên những đạo lý
răn dạy bởi có sự hiểu biết về bản chất và nguồn gốc nội tại về nó. Mặc dù cảm giác Ăn năn, Tội lỗi có tính thực dụng trong
những giai đoạn ngắn trong quá trình tiến hoá tinh thần, thế nhưng cần lưu ý khi xem xét Sơ đồ Ý thức, vì Tội lỗi, Căm ghét (tự
thù hận), Hối hận, Chán nản và tất cả những vị trí tiêu cực như vậy đều nằm bên dưới thang đo. Trong khi Tha thứ, Tình thương,
Chấp nhận và Niềm vui nằm bên trên và dẫn đến Giác ngộ.

Sơ đồ Ý thức tiết lộ rằng, thế giới cung cấp một bức tranh toàn cảnh vô hạn, bằng cách mỗi người tự thể hiện bản thân của mình
là ai trong đó. Mỗi người trong chúng ta cống hiến cho người khác chỉ bằng việc tồn tại ở đây. Những người thuộc về các mức
độ ý thức thấp không “xấu” vì bản chất của chính họ, họ phục vụ chúng ta theo cách buộc chúng ta phải bối cảnh hoá lại cho
hiện thực và giá trị của họ. Sau hết, tất cả chúng ta đều tôn trọng nhau, và chúng ta tôn trọng họ, tôn trọng cho sự nhầm lẫn của
họ. Như cách chúng ta trân trọng một ai đó sẵn sàng bỏ mạng cho quốc gia, cho tôn giáo, hoặc bất cứ điều gì mà họ tin tưởng
là xứng đáng.

Bản thân chiến tranh cũng phục vụ cho sự tiến hoá của ý thức bằng cách cung cấp một động lực để hàng triệu người từ hèn
nhát vượt lên nấc thang của lòng Dũng cảm, một khi họ bước qua làn mưa bom lửa đạn để nhân danh cho những nguyên tắc
cao cả hơn, như đức tin, đất nước, lãnh đạo hoặc gia đình. Chiến tranh là cách nam giới- với vai trò người lính trận- đã vượt
qua mốc quan trọng 200. Phụ nữ làm điều đó với những vai trò truyền thống, chẳng hạn như sinh con, họ mạo hiểm mạng sống-
và thường là thế thật- trong quá trình sinh nở. Vì thế, không có gì trong quá trình tiến hoá ý thức cần phải lên án hay chế giễu,
vì mỗi biểu hiện chính là sự phục vụ cho tổng thể dựa trên những gì nó có ngay thời điểm đó.

7.Đối trọng

Nghiên cứu về định chỉnh ý thức cho thấy rằng khoảng 92% các vấn đề của xã hội phát sinh từ những người có mức định chỉnh
dưới 200, và gánh nặng tài chính tổng thể của họ lên toàn xã hội là quá lớn để tính toán được. Do đó, một xã hội quá dễ dãi
hoặc ủng hộ sự không chính đáng sẽ phải trả một cái giá rất đắt không chỉ về chất lượng cuộc sống mà còn là trong những lĩnh
vực khác của xã hội, có thể kéo xuống đến mức độ chỉ đơn giản là vấn đề an toàn về mặt thân thể mỗi ngày.

Các cá nhân toàn vẹn thường không tự nắm bắt được rằng họ thuộc về nhóm thiểu số, cần nhắc lại rằng chỉ có 15% dân số thế
giới trên mức quan trọng 200. Tuy nhiên, sức mạnh của tập thể 15% này có thể đối trọng cho sự tiêu cực của 85% dân số còn
lại của thế giới. Bởi vì quy mô sức mạnh là tăng trưởng theo số lô-ga-rit, chỉ một hình mẫu có mức định chỉnh 1000 là có thể cân
bằng cho toàn nhân loại. Kiểm tra cơ động học đã cho thấy:

• Một cá nhân mức 700 có thể cân bằng cho 70 triệu cá nhân khác dưới mức 200.
• Một cá nhân mức 600 có thể cân bằng cho 10 triệu cá nhân khác dưới mức 200.
• Một cá nhân mức 500 có thể cân bằng cho 750 nghìn cá nhân khác dưới mức 200.
• Một cá nhân mức 400 có thể cân bằng cho 400 nghìn cá nhân khác dưới mức 200.
• Một cá nhân mức 300 có thể cân bằng cho 90 nghìn cá nhân khác dưới mức 200.
• 12 người có mức 700 bằng với một người có mức định chỉnh 1000.

54
Nếu không có những sự đối trọng này, loài người đã sớm bị huỷ diệt bởi khối lượng tiêu cực tuyệt đối của nó. Tuy nhiên, sự
khác biệt về sức mạnh giữa một ý nghĩ yêu thương và một ý nghĩ sợ hãi là rất lớn, lớn đến mức vượt qua khả năng tưởng tượng
của con người để có thể hiểu được. Chúng ta có thể thấy từ những phân tích trên, thậm chí chỉ một vài suy nghĩ yêu thương
cũng có tác dụng cân bằng tất cả những suy nghĩ tiêu cực của chúng ta trong một ngày, bởi sức mạnh tuyệt đối của nó.

Cách duy nhất để nâng cao sức mạnh của một người là tăng cường tính chính trực, sự hiểu biết và khả năng từ bi của người
đó. Nếu dân số dàn trải trên thế giới có thể đạt đến mức nhận thức này, thì sự tồn tại của xã hội và hạnh phúc của mỗi người
sống trong đó sẽ được đảm bảo hơn. Đơn giản chỉ cần biết rằng, sự gia tăng mức độ ý thức của một người có thể làm giảm sự
tiêu cực trên thế giới, và thúc đẩy ý định phát triển hơn về mặt quy mô.

Ý ĐỊNH: TIẾN HOÁ VƯỢT LÊN QUY LUẬT NHÂN QUẢ

Những người chân thành đi tìm kiếm con đường tâm linh chỉ cần nắm bắt một vài chi tiết, mà một khi nghe hay đọc qua là họ đã
có thể khởi động quá trình đó của họ. Điều quan trọng là cần nhớ rằng, mọi thứ diễn ra theo cách riêng của nó. Không có gì là
“nguyên nhân” gây ra điều gì khác. Mọi hiện tượng đều là hệ quả tự nhiên của một trường vô hạn. Trường vô hạn này là một
lĩnh vực sức mạnh toàn năng vô hình, bao trùm tất cả, giống như một trường điện từ khổng lồ, không có khởi đầu, không có kết
thúc trong không gian hay thời gian, nó mãi mãi và luôn hiện hữu. Sự hiện diện của nó nhẹ nhàng, nhưng mạnh mẽ. Mạnh đến
nỗi có thể biến bất cứ tiềm năng nào thành hiện thực.

Từ trạng thái của ý thức tinh khiết, một người có thể chứng kiến được rằng mọi sự đang xảy ra một cách tự nhiên nhờ sức mạnh
vô hạn của lĩnh vực thiêng liêng đó. Mọi thứ xảy ra trong bản chất và vì bản chất của chính nó, bởi vì đó là nó, chứ không phải
bởi hệ quả của những gì nó làm, không phải bởi đặc tính nhị nguyên trong hành động của một đối tượng.

Cái mà thế giới đang nhìn nhận là tiến hoá- thực ra là chứng kiến một sự sáng tạo liên tục. Tính không biểu hiện trở thành tính
biểu hiện như một ý mệnh Thiêng Liêng, đó là tổng thể của sáng tạo, thậm chí nó không cần phải cố gắng để như vậy. Trong
trường sáng tạo đó, tiềm năng được tạo tác từ ý định. Vì thế, sự hiện hữu của mỗi sự vật chính là biểu hiện nghiệp kế thừa tự
nó- mà nghiệp đó lại là tiềm năng bẩm sinh của nó. Khi các điều kiện trở nên thích hợp, tiềm năng sẽ thành hiện thực, hiện thực
đó là hệ quả trong nó và của chính nó, và xảy ra bên trong sức mạnh của trường vô hạn.

Trường năng lượng đó mạnh đến mức nếu người ta liên tục giữ một ý nghĩ nào đó trong tâm trí, nó thực sự sẽ xuất hiện; nếu
không sẽ không ai trở nên giác ngộ. Do đó, ý định là toàn năng. Bản ngã rất gian xảo, khi một tiềm năng bắt đầu bộc lộ, nó sẽ
ghi nhận. Nếu một người lấy kéo và cắt cuống táo, bản ngã sẽ cho rằng chính nó đã làm rơi quả táo! Nó bỏ qua lực hấp dẫn,
nhưng đó mới chính là cách mà mọi thứ đang vận hành- tự động, tự nhiên- như lực hấp dẫn. Không có “bản ngã cá nhân” riêng
lẻ nào khiến bất cứ điều gì xảy ra. Kiểu như con người đang không nhận thức được lực hấp dẫn, nếu không có lực hấp dẫn, tất
cả chúng ta đã văng ra khỏi địa cầu. Tương tự, con người cũng không nhận thức được trường Thiêng Liêng vô hạn, mà nếu
không có điều đó, chúng ta không thể tồn tại.

Ý định xuất phát từ cơ thể dĩ thái, không phải bởi tâm trí của bản ngã- mà nếu người theo cơ chế Newton sẽ khiến bạn nhìn
nhận và tin rằng đó là quan hệ nhân quả. Chuyển động ĐÃ xảy ra tại thời điểm bạn có quyết định sẽ làm điều đó. Tôi khám phá
ra hiện thực này vào năm 16 tuổi, lúc đó có một chú thỏ chạy phía trước đầu xe. Chân tôi lập tức đạp phanh, và tôi bắt gặp cái
tôi của mình đang khẳng định công lao cho chuyện ấy. Bản ngã suy nghĩ thế này: tôi đã phanh gấp để cứu sống con thỏ đó.
Nhưng không, phanh đã được tác động trước khi tâm trí bắt đầu quá trình xử lý chuyện đó. Mất 0,0001 giây ( một phần mười
nghìn giây) để “trải nghiệm” cốt lõi của bản ngã chuyển từ hiện tượng sang xử lý thông tin một cách chủ quan. Bản ngã là một
cuộn phim, nó ghi hình 0,0001 giây sau khi thực tế đã xảy ra, vì thế, nhận thức của nó cũng chậm hơn 0,0001 giây so với bản
chất. Nó sẽ là một cú sốc khi sự giám sát của bản ngã dừng lại, vì nhận thức và trải nghiệm cũng sẽ đồng thời dừng lại. Do đó,
nhận thức là được thúc đẩy bởi cá nhân, và có chọn lọc. Ngược lại, bản chất lại được cái vô ngôi (bao hàm, không phân biệt)
chứng kiến trong sự toàn thể. Cái vô ngôi này truy cập vào tất cả mọi thứ- trong sự thụ động, không phải nó cố tìm kiếm.

Vì lợi ích của não phải- nơi học hỏi bằng cách làm quen dần và lặp đi lặp lại, nó nhắc nhở người ta chỉ cần nhớ một điều: tất cả
mọi thứ là tự nó xảy ra trong một trật tự thiêng liêng, từ không biểu hiện trở thành có biểu hiện, trong nó và tự nó, từ sức mạnh
của trường vô hạn, và không vì bất cứ lý do nào cả. Cái chính là tâm trí, khi có gì đó xảy ra, 1 phần mười nghìn giây sau, nó sẽ
nhanh nhảu cho rằng nó là tác nhân của hành động đó. Nếu một người trung thực một cách nghiêm túc và triệt để- một chuyện
vượt qua khả năng của hầu hết mọi người- thì bằng cách nào đó, người ta sẽ có thể đánh bại một phần mười nghìn giây này và
hoàn toàn đầu hàng trước một hiện thực rằng: tất cả mọi thứ xảy ra là bởi ý mệnh Thiêng Liêng, bởi ý chí của Thượng Đế, và
không có lý do gì cho điều đó cả. Đối thủ duy nhất để dẫn đến hiểu biết đó chính là bản ngã; công việc của bản ngã là tự tuyên
bố mình là Thượng Đế, và nó đã làm rất tốt điều đó qua hàng thiên niên kỷ tiến hoá về mặt sinh học.

SỰ THẬT VÀ TRƯỜNG VÔ HẠN

55
Tiền đề cơ bản của trường vô hạn này là nó ngay lập tức nhận ra sự thật. Trường vô hạn của ý thức ghi nhận tất cả những gì
đã từng xảy ra trong thời gian. Mọi suy nghĩ, mọi cảm giác, mọi hành động đều được ghi lại và ở đó vĩnh viễn. Không có gì gọi
là quyền bí mật. Mọi thứ đều toả ra một năng lượng mà đến hàng nghìn năm sau vẫn có thể đọc ra được. Chúng ta có thể truy
cập vào tất cả các thông tin này trong vòng một giây! Nó chỉ mất bấy nhiêu thời gian để khám ra bất cứ loại bí mật nào trên vũ
trụ này.

Ngay lập tức phân biệt được sự thật và giả dối là một khả năng đáng kinh ngạc. Vì sự vô tri trong việc phân biệt chúng đã kéo
nhân loại vào những cuộc chiến tranh không hồi kết, nghèo đói, man rợ, bệnh tật, đau khổ, đau đớn và chết chóc. Đau khổ của
con người là một trong những sự vô minh. Tất cả những hình tượng vĩ đại, Krishna, Giê-su, Đức Phật đã nói rằng chỉ có một “tội
lỗi” duy nhất, đó là sự vô minh. Chúng ta không cách nào phân biệt được sự thật và giả dối ngoại trừ từ những lời răn dạy của
những vị thầy tâm linh vĩ đại này. Và giờ đây chúng ta có trong tay một món quà, nó là đại diện cho hệ quả của sự tiến hoá về
mặt ý thức của con người theo thời gian.

Sự tiến bộ của sự thật không nhất thiết là những mặt hồ yên tĩnh. Trên thực tế, nó có thể làm xáo trộn mọi thứ trong một khoảng
thời gian. Những người tâm linh dự báo về một tương lai của sự đơm hoa kết quả và kết cục hoà bình, thì đó là kết quả của các
cuộc tuần hành và nhiều hoạt động khác để đạt được điều đó. Chúng ta sẽ có hoà bình, nhưng đó là chuyện của nhiều nghìn
năm! Nếu không kiên nhẫn với sự tiến hoá của ý thức thì chúng ta cũng không còn cách nào khác. Cách duy nhất để đóng góp
là siêng năng làm việc, tinh tấn để trở thành một người biết yêu thương, tốt bụng và có trách nhiệm với bản thân hơn từ bên
trong.

Đơn thuần chỉ cần biết rằng, mọi việc xảy ra theo cách của riêng chúng, không có nguyên nhân nào bên ngoài, và tháo gỡ từ từ
ảo tưởng về thuyết nhị nguyên, vốn cho rằng có một sự tác động từ ai đó khác. Điều khó khăn với hầu hết các môn đồ tâm linh
là họ bị mắc kẹt trong mô hình của Newton về hiện thực, trong đó nói “cái này” gây ra “cái kia”. Hệ thống niềm tin nhị nguyên
này là trọng tâm của bản ngã, và chúng là nguồn gốc của suy nghĩ có một cái “Tôi” riêng biệt.

Không có cái “Tôi” cá nhân nào đang nói chuyện ở đây. Chỉ là khán giả, hoặc đọc giả nhận thấy như thế. Chính là từ trường
Hiện Diện đang nói và trả lời lại với các bạn, và một “Tôi” đang nói hay đang viết này thật ra không có liên quan gì. Nhiều năm
trước, “Tôi” đã không còn cái tôi cá nhân nào nữa, nó đã biến mất, và tâm trí trở nên im lặng. Trạng thái đó vẫn tiếp tục cho đến
nay. Sự hiện diện Vô hạn mạnh mẽ đến mức nó dập tắt bất cứ thứ gì không phải là chính nó.

MỤC HỎI ĐÁP

HỎI: Làm sao tôi hiểu được cuộc sống của tôi nếu không có “Tôi”?

ĐÁP: Đừng cố gắng! Bạn sẽ bị kẹt trong khái niệm “bất nhị nguyên”. Sự thật không phải là một khái niệm mà là nhận thức. Nó
đơn thuần là nghe rằng mọi thứ xuất hiện một cách tự nhiên từ những gì đang có, bạn không cần làm gì khác ngoài việc có sự
để ý đến nó. Không cần phải suy nghĩ hay tìm ra ý nghĩa của nó. Chỉ đơn giản là mang theo một hiểu biết, mọi thứ đang xảy ra
một cách tự nhiên theo đúng nghĩa và không có thứ gì gây ra thứ gì.

Trong trạng thái ý thức tinh khiết, mọi dự đoán đều bị dập tắt, và mọi thứ tự nó tiết lộ với bạn theo một cách hoàn hảo- rằng nó
là chính nó. Trong thực tế, ý nghĩa của bất cứ thứ gì cũng chỉ đơn giản là chính nó thôi. Đó là nội hàm của nó. Nó có nghĩa là
chính nó. Hươu cao cổ có ý nghĩa gì? Là trở thành một con hươu cao cổ thôi.

HỎI: Ông nói sáng tạo và tiến hoá là một thứ. Nghĩa là sao?

ĐÁP: Cái mà người ta đang chứng kiến là tiềm năng liên tục mở ra của sự sáng tạo. Tiến hoá chính là sáng tạo. Tôn giáo truyền
thống đã tách biệt nó ra làm hai, ngụ ý rằng Thượng Đế đã hoàn tất việc sáng tạo chỉ trong một tuần rồi nói “Tạm biệt nhé, hẹn
gặp lại vào Ngày Phán Xét!”, đó là một khái niệm cho rằng có một vị thần thánh tạo ra vũ trụ này, như kiểu ném ra một khối cầu,
và nói “Chúc may mắn. Chúc thành công!”. Thực tế, sự sáng tạo là liên tục , và tiềm năng bên trong sự sáng tạo đó liên tục trở
thành hiện thực, cái mà các bạn đang chứng kiến là sự xuất hiện. Các bạn thậm chí còn không nhìn thấy “sự thay đổi”. Đó lại là
một sự ảo tưởng khác, bởi “thay đổi” đòi hỏi thời gian, mà hiện thực thì không có thời gian. Đó chỉ là một trạng thái của tinh thần.
Giả sử tôi hỏi một con thỏ, “Ê, mấy giờ rồi?” Nó sẽ không biết tôi đang nói gì. Thời gian là một trạng thái về tinh thần do bản ngã
phóng chiếu vào trải nghiệm. Sự tiến hoá xuất hiện như một chuỗi tuyến tính trong đại lượng thời gian là vì đó là trạng thái tinh
thần. Đó không phải vấn đề thời gian, hay trình tự, hay sự thay đổi mà bạn thấy trong hiện thực, đó là sự xuất hiện liên tục của
những tiềm năng trở thành hiện thực.

Rào cản lớn đối với những người đã ở khắp mọi nơi, làm đủ mọi việc và nghe đủ mọi người nhưng vẫn chưa Giác ngộ đó là
thuyết nhân quả, một lời giải thích rằng mọi việc đều có tính nguyên nhân và một trình tự tuyến tính, rằng cái này “là nguyên
nhân” của cái kia. Chừng nào bạn còn tin cái này “là nguyên nhân” của cái kia, chừng đó bạn còn tin rằng có thủ phạm, có nạn
nhân, có bản ngã cao bản ngã thấp, và bạn bị kẹt. Nguyên lý của quan hệ nhân quả định chỉnh ở mức 460, thuyết tiến hoá của
Darwin cũng thế. Những khán giả điển hình tại các lớp Veritas có mức định chỉnh 420, vì vậy 460 nghe có vẻ uyên bác, nhưng
đối với mức độ 550 trở lên, nó lại trở nên nực cười! Chân lý cao nhất là tất cả đều tồn tại nhờ phẩm chất của Hiện thực Thiêng
liêng. Không có gì khác bên trong nó để tạo ra sự tồn tại của chính nó ngoài Trường Năng lượng Sức mạnh. Genesis ( định

56
chỉnh 600) nói rằng từ thần thánh đã toả ra ánh sáng, và tự đó sự sống đã khởi nguồn, hình thành nên vũ trụ. Sự sống bắt nguồn
từ sự tiến hoá tự phát của thần thánh. Mọi thứ xuất hiện một cách tự nhiên, đi từ tiềm năng biến thành thực tế nhờ vào Sức
mạnh vô hạn của Hiện thực Thiêng liêng, những gì mà tâm trí nhìn nhận là tuần tự và theo nhân quả về bản chất là phi tuyến
tính và không nhân quả chút nào. Bạn và Tôi trong thời điểm này là sự tồn tại tự phát từ những gì chúng ta đã là ở bên trong
Trường Vô hạn.

HỎI: Nếu thế giới xuất hiện nhờ vào phẩm chất của trường Hiện thực, những gì được cho là có bản chất Yêu Thương,
thì tại sao người tốt lại gặp chuyện xui rủi?

ĐÁP: “Tốt” hay “xấu” trước hết là do nhận thức của bạn. Tính đa dạng thật ra là một món quà. Nhiều bệnh nhân chữa khỏi ung
thư có thể nói với bạn, “Đó là điều tuyệt vời nhất từng xảy ra trong đời tôi”. Thượng Đế toàn tri, biết hết, còn bạn thì không. Nhận
thức của bạn không phải Hiện Thực. Những gì bạn cho là “bất công” có lẽ là cách để đạt được tự do. Điều bạn muốn biết là liệu
có công lý nội tại trên thế giới hay không, liệu việc xảy ra trên thế giới này có chính đáng hay không, có công bằng hay không.
Có, có đấy. Cuộc sống của con người là công bằng nghiệp, toàn bộ và hoàn toàn. Mỗi người tự mình lái con tàu của chính mình.
Vì tình thương là quy luật tối thượng của vũ trụ (mức định chỉnh 750), mỗi người đều được sinh ra trong một hoàn cảnh mang
lại lợi ích tối đa về mặt tinh thần.

Nếu có gì đó “bất công”, trừ phi vũ trụ này có sự ngẫu nhiên hoặc thất thường. Mà vũ trụ thì không có tính ngẫu nhiên và thần
thánh thì không thể thất thường. Trường phi tuyến tính của Sức mạnh Vô hạn xuyên suốt trong mọi thời đại, giống như một
trường điện từ có chiều và sức mạnh vô hạn, trong đó các mạt sắt tự động xếp theo trật tự bởi “điện tích” của chúng. Mọi thứ
tồn tại theo nghiệp có cực từ tính, và điện tích. Trong phạm vi thần thánh đó, mọi thứ đều đi theo trật tự sắp xếp kiểu này và
theo nghiệp kế thừa của chính nó; do đó, công lý của Thượng Đế là tức thì, mạt sắt không thể trôi lạc bất cứ nơi đâu ngoại trừ
ở ngay chỗ của nó.

Sự hiện diện của Thần thành là một Sức mạnh Vô hạn không cát cứ, không phân bổ, hay có sự chuyển động; không phóng
chiếu nhân cách hoá; không có cảm xúc; không trừng trị; không cần phải dùng đến phân tâm học hay được trị liệu! Sự Thiêng
Liêng đó là một lĩnh vực quyền năng vô hạn và do vậy, tất nhiên không có sự phân chia; giống như lực hấp dẫn- một trường
không thể phân chia, trong đó, mỗi chúng ta sắp xếp theo sự thừa kế nghiệp của chính mình- ở một cấp độ bằng tổng tất cả
những gì chúng ta đã từng tham gia vào, dù cho chúng ta có nhớ hay không. Luôn luôn có quyền tự do để lựa chọn, vì vậy,
chúng ta có thể đưa ra quyết định của mình tại từng thời điểm. Chúng ta có thể mô tả thế giới này là cơ hội cần thiết tối đa hoá
sự phát triển cho ý thức của một người. Một chiều không gian mà trong đó, các lựa chọn là không giới hạn, từ khủng khiếp nhất,
ghê rợn nhất, khắc khổ nhất…tất cả đều có thể.

“Nghiệp chính là cơ hội trong thế giới này”, điều này có mức định chỉnh 600, và cũng là lời dạy của Đức Phật, Ngài tiết lộ mọi
trải nghiệm trong thế giới này chính là cơ hội cho sự tiến hoá về mặt tinh thần: “tỉ lệ sinh ra làm người là đã hiếm, làm người mà
được nghe nói về Giác ngộ còn hiếm hơn”.

HỎI: Tôi có thể thấy rằng tâm trí phóng chiếu cho nguyên nhân tại một điểm không có thực, rồi sau đó nó có khuynh
hướng bỏ qua tất cả các dữ liệu đối lập trong vô thức. Để thực sự phân biệt được nguyên nhân của một điều gì đó, tôi
sẽ phải biết tất cả những gì đã từng xảy ra trong thời gian, bởi vì tất cả mọi thứ đều được kết nối với nhau. Có đúng
thế không?

ĐÁP: Bạn nhận thức được giới hạn của trí tuệ. Cơ chế bảo vệ khỏi rào cản của trí tuệ chính là sự khiêm tốn. Trí tuệ chỉ có khả
năng thực hiện một số nhiệm vụ trong một phạm vi nhất định, xa hơn thế nữa, nó trở thành chướng ngại. Trí tuệ phục vụ cho
cách hiểu tuyến tính, không phải phi tuyến tính. Bạn không thể dùng búa để mở lon súp. Bạn không thể dùng trí tuệ để hiểu về
thực tại tâm linh.
Trong thế giới tuyến tính của vật lý và y học, chúng ta thấy giá trị to lớn của trí tuệ đối với thế giới. Khi tôi bắt đầu làm bác sĩ, tôi
công tác ở một bệnh viện lớn, nơi người ta thường chết vì những căn bệnh mà thậm chí hiện nay không còn tồn tại! Bệnh bại
liệt gần như không còn nữa. Những lợi ích của cấp độ 400 mang lại là rất lớn, và chúng ta tôn trọng trí tuệ. Những người đó là
ân nhân của xã hội. Khi mức độ ý thức của một người tăng lên, họ ngày càng trở nên có ích hơn cho thế giới, và những con
người cấp độ 400 tạo ra tác động rất lớn trong xã hội. Thế giới khoa học đã thay đổi cuộc sống của chúng ta, giúp chúng ta thoát
khỏi bệnh tật , đau đớn trong phẫu thuật, trong sinh đẻ, và phục hồi sau bệnh tật. Trí tuệ và khoa học là những công cụ mà
chúng ta phải hàm ơn. Chúng ta không đánh giá thấp trí tuệ. Chúng ta tự hào về nó, bởi nếu không có nó, chúng ta khó lòng
sống được đến hôm nay! Đơn giản là vấn đề chấp nhận rằng, trí tuệ có giới hạn; nó không phải thần thánh.

HỎI: Thế giới là gì? Và nó phục vụ cho sự tiến hoá của nhận thức như thế nào?

ĐÁP: Có vô số quan điểm về thế giới, và nó có thể được định chỉnh theo mức độ sự thật trong đó:
• Quan điểm thế giới của một người theo trình độ ý thức của người quan sát đó: mức định chỉnh 485.
• Thế giới là nơi thực sự có cơ hội để cứu chuộc và cứu rỗi: 575.
• “Tôi phát minh ra thế giới mà tôi thấy”: 350.
• Thế giới và vũ trụ đơn thuần là vượt qua ảo giác được sáng tạo bởi bản ngã trong đó Thượng Đế là tách biệt: 220.

57
• Cuộc sống của con người là sự thể hiện của ý chí tự do của Thượng Đế, trong đó, tính chất thần thánh chính là khả
năng thành toàn những tiềm năng trở thành hiện thực: 560.
• Nhân tính là đến từ các vì sao và thiên đàng: 160.
• Nhân tính có nguồn gốc từ khỉ: 160.
• Thế giới và cả nhân tính là được tạo ra từ Thượng Đế, chính vì thế nó được truyền cho cảm hứng thiêng liêng và có
tính chất thần thánh: 545.
• Thế giới đơn thuần là một sản phẩm vật lý của vũ trụ vật lý: 190.
• Cuộc sống, và dĩ nhiên là cả nhân tính, là một sản phẩm từ sự cố đơn thuần, như chủ nghĩa tiến hoá sinh học của
Darwin (cơ chế giản hoá luận): 190.
• Sự tồn tại là dựa theo chọn lọc tự nhiên bởi những sự sống có tính thích nghi cao nhất: 440.
• Thế giới và cuộc sống con người là hậu quả của việc Adam và Eva đã sa ngã, họ đã không vâng lời và không chịu nổi
cám dỗ của sự tò mò. Do đó, cuộc sống có nguồn gốc là một sự đền tội: 190.
• Thế giới là một vở hài kịch, một vở bi kịch, một trò chơi chính trị, và kiểu thế: 240.
• Thế giới là nơi thanh trừng khó khăn và những đau khổ; do đó, tìm kiếm thiên đường: 350.
• Thế giới là cơ hội hiếm có để tối đa hoá sự trưởng thành về tinh thần, và, tiến hoá là thông qua không gây nghiệp và
tạo ra công đức về tâm linh: 510.
• Thế giới là nguồn khai thác: 180.
• Thế giới bất công: 200.
• Thế giới là nơi thể hiện nghiệp: 575.
• Thế giới là nơi tạo nghiệp: 600.

HỎI: Sự tiến hoá của một cá nhân có liên quan đến thế giới như thế nào nói chung?

ĐÁP: Vì lợi ích của nỗ lực tinh thần và sự tiến hoá có ảnh hưởng tích cực một cách vô hình đến mức độ ý thức chung của con
người. Mỗi cá nhân có sự tiến hoá về mặt tâm linh, tinh thần có thể đối trọng cho tác động tiêu cực của rất nhiều người khác ở
các mức độ thấp hơn. Mặc dù là một thông số phản ánh bên ngoài, nhưng nghiên cứu định chỉnh ý thức cho thấy, mức độ ý
thức chung của nhân loại vẫn là theo xu hướng tăng. Nó đảm bảo cho một tầm nhìn lạc quan. Một người có thể cảm thấy biết
ơn vì được sinh ra với tiềm năng vô hạn vì lợi ích của nghiệp. Người khác cũng có thể thấy biết ơn vì được nghe về Khai sáng
và muốn đi tìm kiếm nó, những cá nhân như thế rất rất hiếm. Như đã nói trong các quyển sách trước, theo thống kê, một người
có khả năng chọn giác ngộ là mục đích chính của cuộc đời có tỉ lệ một phần mười triệu.
Chỉ đơn giản là mong muốn trở thành một người biết yêu thương hơn, và phối hợp ý của họ với các trường năng lượng bên trên
Sơ đồ, nhìn chung là đã phục vụ cho thế giới. Cách để bù đắp sự tiêu cực cho thế giới không phải là tấn công sự giả dối mà là
thân thiện và yêu thương nhất có thể trong phạm vi cuộc sống của mỗi người. Một người thân thiện mức 255 có sức mạnh hơn
năm người thù địch mức 125.

HỎI: Giá trị đích thực nào có thể thu nhận được từ cuộc sống trần thế?

ĐÁP: Thế gian được xem là kích thích tối ưu nhất cho sự phát triển nội tâm, vì nó chỉ đơn thuần là sự phóng chiếu của bản ngã
trong một biểu hiện kịch tính phát lộ. Tốt nhất là học hỏi từ nó, hơn là bị những ảo ảnh của nó cám dỗ hoặc lôi kéo qua các định
danh hoặc mối ràng buộc. Bức tranh toàn cảnh thế gian phản ánh toàn bộ quy mô của các cấp độ ý thức trong sự hiển thị rõ
ràng nhất của nó. Ở đó có các thái cực rất riêng biệt với những nền tảng bên ngoài và phần bản chất bên trong. Tất cả các sự
kiện đều mang lại cơ hội để học tập.

HỎI: Vậy làm thế nào để một người có thể liên hệ tốt nhất với thế giới?

ĐÁP: “Kết hợp” với nó chứ đừng “hoà tan” vào nó. Thế giới là phương tiện, không phải đích đến.

1 Một vài người ở cấp độ ý thức 200+ vẫn cần có hooc-mon serotonin hỗ trợ ( xem Chương 4)

PHẦN HAI

THỰC HÀNH ỨNG DỤNG

58
Trong phần này, Tiến sĩ Hawkins áp dụng Sơ đồ ý thức cho ba lĩnh vực quan trọng của con người: Sức khoẻ thể chất, Thành
công và Phục hồi sau nghiện. Một điểm quan trọng là: “những gì chúng ta thường nghĩ đến có xu hướng trở thành sự thật”. Một
lời dạy khác là thực hành phép lịch sự đối với những người khác, và ông ấy nhắc chúng ta hãy thường thực hiện nó. “Khi lưu
thông trên đường, hãy luôn nhường những chiếc xe khác”. Và ông ấy cam đoan, đó chính là lối dẫn đến thành công!

Trong chương 6, về chủ đề Phục hồi sau nghiện, chúng ta sẽ được hưởng lợi từ những thập kỷ trong kinh nghiệm khám chữa
bệnh lâm sàng của Bác sĩ-Tiến sĩ Hawkins, và phương pháp Mười Hai Bước với người bạn thân thiết của ông là Bill Wilson, nhà
đồng sáng lập Hội giúp đỡ những người nghiện rượu ẩn danh. Trong đó, các nguyên tắc truyền thống như “sự ẩn danh làm chỗ
dựa tinh thần”, “nguyên tắc cao hơn tính cách”, “không quảng cáo” đã định hướng đúng đắn cho các hoạt động của nhóm. Ông
cũng gợi ý rằng phương pháp Mười Hai Bước có thể được áp dụng cho bất kỳ vấn đề nào của con người, bao gồm những chứng
nghiện có liên quan đến vấn đề bản ngã của chúng ta.

Tựu chung, hành trình chữa lành chính là cởi bỏ những năng lượng tiêu cực gây trở ngại cho việc thể hiện niềm vui và hạnh
phúc nội tại của chúng ta. “Khi lớp mây mù được xua tan, ánh dương sẽ ló dạng” là một trong những câu nói ưa thích của Tiến
sĩ Hawkins. Đây là một câu chuyện được ông lấy làm ví dụ cho quá trình này:

Chúng ta càng cởi bỏ, chúng ta càng trở nên biết yêu thương hơn. Và cuộc sống của chúng ta sẽ ngày càng gắn vào những
việc mà chúng ta thích làm, với những người mà chúng ta thấy dễ thương. Khi điều này xảy ra, cuộc sống của chúng ta sẽ biến
đổi. Tình yêu thương là loại cảm xúc có năng lượng rung động mạnh mẽ nhất. Vì tình thương, người ta có thể bước qua mọi
giới hạn, làm mọi chuyện mà không vì chút vụ lợi nào. Khi những “khối chướng ngại” và “Tôi không thể” được tháo gỡ, một cuộc
sống rất khác sẽ mở ra với chúng ta.

Thử lấy ví dụ về một người phụ nữ trẻ với rất nhiều tài năng thiên bẩm về âm nhạc, cô ta dành phần lớn thời gian cho một công
việc nhàm chán, vì cảm giác an toàn về tài chính mà cô phải gắn với nó. Nhưng điều cô thật sự yêu thích là được chơi nhạc mỗi
khi ở nhà một mình. Đó hoàn toàn là vì sở thích của bản thân. Và bởi không được tự tin lắm, nên cô hiếm khi chơi nhạc khi có
người khác ở đó, thậm chí là những người bạn thân của cô.

Sau khi cô vượt qua được giới hạn của nội tâm- cởi bỏ tất cả những cảm giác năng lượng thấp cản trở cô thể hiện bản thân-
khả năng và sự tự tin của cô ấy phát triển rõ rệt, đến nỗi cô ấy có thể tự tin chơi nhạc trước đám đông. Tài năng của cô ấy được
công nhận, và một sự nghiệp âm nhạc bận rộn đã mở ra. Cô ấy thu âm một bản nhạc chuyên nghiệp và nó đã rất thành công,
sau đó cô quyết định chỉ làm việc nửa buổi, để có thêm nhiều thời gian và năng lượng cho một sự nghiệp âm nhạc triển vọng,
một điều mang lại niềm vui và sự thoả mãn to lớn cho cô ấy. Dù không phải là một người làm kinh doanh chuyên nghiệp, giờ
đây, cô ấy cũng đã mở một công ty âm nhạc riêng và chỉ trong vòng một năm, mạng lưới công ty đã phát triển xuyên suốt các
thành phố trong nước, sau đó an ra cả Châu Âu.

Trong niềm vui đó, cô ấy nhận ra cô ấy thành công khi được cố gắng làm những việc mà cô yêu thích. Sự tăng trưởng về hạnh
phúc và sinh khí khiến cho ai nấy đều cảm nhận được, thành công đó còn lan toả đến những khía cạnh khác trong cuộc sống
của cô ấy.

Thành công bắt nguồn từ làm những việc mà chúng ta ưa thích và muốn làm tốt nhất cho nó, nhưng đa số mọi người thường bị
cột với những gì họ tưởng là họ phải làm. Một khi giới hạn này được từ bỏ, một đại lộ mới rộng mở và trở nên trong tầm với của
chúng ta, con đường của tự do sáng tạo và thể hiện bản thân. Với ví dụ về cô gái đã vượt lên được sự sợ sệt và tự nghi ngờ
bản thân mình, để trở thành một nghệ sĩ thành công, các bạn có thể thấy sự chuyển dịch đơn thuần bên trong này đã chắp cánh
như thế nào cho cuộc đời của một người, theo một cách mà chúng ta khó có thể tưởng tượng ra được.

CHƯƠNG BỐN

SỨC KHOẺ VÀ HẠNH PHÚC

59
Rõ ràng, từ những nguyên tắc đã được thảo luận, sự thay đổi thực sự trước hết là xảy ra bên trong, một khi chúng ta sở hữu
được sức mạnh nội tại, thông qua việc liên kết được với các trường hấp dẫn mạnh mẽ như Dũng cảm, Chấp nhận, Tình yêu
thương, Sự hào phóng. Điều này giải quyết “ABC” của cuộc sống bề ngoài- thực ra là các nguyên tắc tổ chức, ý định tổng quát-
mà theo đó trải nghiệm của chúng ta hình thành. Do đó, chỉ có một cách để tăng cường sức khoẻ, hạnh phúc, và thành công,
đó là nâng cao mức độ ý thức của chúng ta. Nếu chúng ta cố gắng làm cho cuộc sống của chúng ta tốt hơn bằng cách thay đổi
các yếu tố bên ngoài, A>B>C, cái mà chúng ta có chỉ là thất vọng. Cách tiếp cận này là vô ích, thường thấy trong một câu nói:
“đổi chỗ ngồi trên tàu Titanic”, mà đây chính xác lại là chiến lược của hầu hết mọi người. Họ nỗ lực để thay đổi các yếu tố bên
ngoài mà không buồn nhìn vào các khía cạnh rõ rệt bên trong.

Tin tốt là chỉ cần cân chỉnh được bản thân các bạn với một loại sức mạnh chân lý, sự thay đổi lớn cũng sẽ xảy ra trong cuộc
sống của các bạn.

Về mặt sức khoẻ, sức mạnh chân lý là một sự chuyển dịch từ Tôi là một cơ thể sang Tôi có một cơ thể. Người bình thường hay
bận tâm với cơ thể, chức năng của nó, hiệu quả, vẻ ngoài, sự sống. Đặc trưng của một người với sức khoẻ là họ thường mặc
định cơ thể này là “tôi”, và vì vậy họ đổ vào rất nhiều ý cho cơ thể của họ, chuyển động ra sao, nó trông như thế nào, số đo, cân
nặng. Đây là một cấp độ ý thức rất giới hạn. Một cách định danh sai bởi nhận thức hạn hẹp, giống như bạn có một cái mụn trên
mũi, và bạn nghĩ rằng cả thế giới đang nhìn chằm chằm vào cái mụn đó của bạn, thế là tâm trí của bạn cả ngày chỉ quanh đi
quẩn lại với cái mụn đó.

CƠ THỂ TUÂN THEO TÂM TRÍ

Trong tuyên bố này, chỉ đơn giản là cần hiểu Cơ thể tuân theo Tâm trí; do đó, cơ thể có xu hướng biểu hiện những gì tâm trí tin
theo. Niềm tin có thể được nắm giữ trong ý thức hoặc vô thức. Mệnh lệnh này tuân theo quy luật của ý thức, rằng: chúng ta là
những gì chúng ta nghĩ. Nếu có bất cứ loại sức mạnh nào ảnh hưởng lên được chúng ta, thì đó chính là sức mạnh của niềm tin,
mà chúng ta đã cấp phép cho nó. Mà trong đó, “sức mạnh” là năng lượng, và điều mà chúng ta tin theo.

Nếu nhìn vào Sơ đồ ý thức, chúng ta sẽ dễ dàng thấy tại sao tâm trí lại mạnh hơn cơ thể. Trường năng lượng của Lý trí ( mức
định chỉnh 400), chứa niềm tin và các khái niệm thuộc về tâm trí, nó mạnh mẽ hơn trường năng lượng của cơ thể vật chất ( mức
định chỉnh 205). Do đó, cơ thể sẽ biểu hiện ra niềm tin mà tâm trí đang lưu giữ, dù là có ý thức hay vô thức. Một trong những
nhiệm vụ của ý thức là nắm bắt vẻ ngoài của cá nhân bạn (bất kể đó là gì), và nó cũng không có ý định buông lỏng việc này.

Việc chúng ta có dễ dàng chấp nhận một niềm tin tiêu cực hay không là phụ thuộc vào mức độ tiêu cực mà chúng ta có sẵn
trong tâm trí ngay lúc đầu. Ví dụ, một người có tâm trí tích cực sẽ từ chối chấp nhận những ý nghĩ tiêu cực, việc từ chối đó đơn
giản có nghĩa là, họ thấy nó không đúng, không phù hợp với bản thân họ. Và tâm trí họ có sự tổ chức từ chối tiếp nhận những ý
nghĩ tiêu cực đó. Ai cũng biết, rất dễ để một người có sự mặc cảm, tội lỗi chuốc vào ý nghĩ lên án bản thân họ, hoặc một người
sợ hãi có ý nghĩ về bệnh tật.

Ví dụ, đang có dịch cảm cúm. Một người có đủ cảm giác tội lỗi, sợ hãi, ngây ngô trong ý thức, thì theo quy luật của nó, người
này sẽ cảm thấy mọi người đều có khả năng bị lây bệnh cảm này. Bởi sự vô thức về tội lỗi, mặc cảm đó, người này- cũng trong
vô thức, cảm thấy họ “xứng đáng” bị cảm lạnh. Cơ thể tuân theo niềm tin đó của tâm trí, rằng cảm cúm là do vi-rút gây ra, những
con vi-rút này ở khắp nơi và dễ “lây lan”, và vì thế cơ thể của người này sẽ biểu hiện ra triệu chứng của “cảm lạnh”. Trong khi
đó, một người bỏ được các năng lượng tiêu cực tiềm ẩn của sợ hãi, tội lỗi sẽ không có cảm giác lo sợ trong tâm trí và những ý
nghĩ đại loại như: Bởi vì đang có dịch cảm cúm nên tôi chắn chắn cũng không ngoại lệ, trong ví dụ này, sự thật là có những
người mặc dù cùng sống chung trong một môi trường, nhưng họ lại không hề bị “lây nhiễm”.

Trường suy nghĩ ( mức định chỉnh 400) mạnh hơn vì có độ rung động cao hơn trường vật chất, vật lý ( mức định chỉnh 205). Một
ý nghĩ thật ra là một sự việc, vì nó có mẫu thức năng lượng. Chúng ta cung cấp cho ý nghĩ càng nhiều năng lượng, thì nó càng
có nhiều sức mạnh để tự biểu hiện. Đây là nghịch lý của cái gọi là giáo dục sức khoẻ. Sự nghịch lý là ở chỗ, những suy nghĩ sợ
hãi được củng cố bởi các phương tiện truyền thông, đến nỗi chúng có đủ sức mạnh để tạo ra dịch bệnh, (chẳng hạn như dịch
tả lợn). “Sự cảnh báo” dựa trên nỗi sợ về các mối nguy hiểm đối với sức khoẻ đã thật sự thiết lập ra một môi trường trong tinh
thần, mà ở đó, nỗi sợ có điều kiện biểu hiện ra thực tế. Nó đã xảy ra như thế nào? Lồng vào cơ thể vật chất là một cơ thể năng

60
lượng, nó có hình thức rất giống với cơ thể vật chất, nó bao gồm những hình mẫu điều khiển được cơ thể vật chất. Ý định và
suy nghĩ có ảnh hưởng lên những hình mẫu đó. Vật lý lượng tử đã chỉ ra rằng, việc quan sát đơn thuần cũng ảnh hưởng đến
các hạt năng lượng cao hạ nguyên tử.

Sức mạnh của tâm trí đối với cơ thể đã được chứng minh bằng nghiên cứu lâm sàng. Ví dụ, trong một thí nghiệm, một nhóm
phụ nữ được thông báo chúng tôi sẽ tiêm cho họ một loại hooc-mon để có kinh nguyệt sớm hơn hai tuần. Thực ra, họ chỉ được
tiêm giả dược, đó là nước muối. Tuy nhiên, có hơn 70% phụ nữ đã tiến triển thành biểu hiện kinh nguyệt sớm với các triệu chứng
về cả tâm lý và thể chất.

Một minh chứng rõ ràng khác về quy luật ý thức này được tìm thấy ở những người bị rối loạn nhân cách: những nhân cách khác
nhau và những sự khác biệt về thể chất tương ứng trong cùng một cơ thể. Ví dụ, có những thay đổi trong sóng điện não, hoặc
khả năng viết lách, ngưỡng chịu đau, phản ứng tích điện trên da, chỉ số IQ, kinh nguyệt, ưu thế bán cầu não, khả năng ngôn
ngữ, giọng nói, thị lực. Vì vậy, khi có một nhân cách tin vào sự dị ứng, thì người đó dễ bị dị ứng, nhưng nếu nhân cách khác
xuất hiện, người đó sẽ hết chứng dị ứng này. Một nhân cách khác nữa thích đeo kính, nhân cách kia thì không. Những nhân
cách khác nhau này thật sự có sự khác biệt về thị lực và các chỉ số về sinh lý.

Những hiện tượng vật lý này cũng thay đổi dưới ảnh hưởng của thôi miên ở những người bình thường, không bị rối loạn đa
nhân cách. Triệu chứng dị ứng có thể xuất hiện hoặc biến mất chỉ với những tiếp cận đơn giản. Những đối tượng này được gợi
ý rằng họ có chứng dị ứng với hoa hồng trong lúc thôi miên, vậy là họ sẽ hắt hơi lúc thoát ra khỏi trạng thái thôi miên ngay khi
họ nhìn thấy có một bình hoa hồng trên bàn làm việc của bác sĩ, kể cả khi nó chỉ là hoa giả.

Sau cả đời nghiên cứu, Ngài John Eccles, người đoạt giải Nobel đã tuyên bố rằng, bộ não rõ ràng không phải nguồn gốc của
tâm trí, như cái mà khoa học và y học đã luôn tin, mà đúng hơn, nó là ngược lại. Tâm trí điều khiển não bộ, và hoạt động như
một trạm thu sóng (giống đài phát thanh), những suy nghĩ là sóng vô tuyến, còn bộ não là thiết bị thu.

Bộ não giống như bộ công cụ tiếp nhận, nó là tổng đài thu nhận các hình thức của suy nghĩ, rồi sau đó chuyển chúng thành
chức năng hoạt động của tế bào thần kinh và lưu trữ vào bộ nhớ. Ví dụ, cho đến gần đây người ta vẫn tin rằng, các chuyển động
cơ tự nguyện là bắt nguồn từ vùng điều khiển vận động ở vỏ não. Nhưng giờ đây, theo những gì Eccles báo cáo, ý định vận
động được ghi lại bởi vùng điều khiển vận động phụ trong não, nó nằm bên cạnh vùng điều khiển vận động ở vỏ não. Chính vì
thế, não bộ được kích hoạt bởi ý định của tâm trí, chứ không phải ngược lại.

Chúng ta thấy điều này trên những hình ảnh não của những người thực hành thiền. Ví dụ, nghiên cứu của Tiến sĩ Richard
Davidson tại trường đại học Wisconsin, Madison đã chứng minh rằng, thực hành thiền từ bi và lòng nhân từ kích thích tăng
cường hoạt động ở vỏ não trước bên trái ( nơi chứa đựng những cảm xúc tích cực như hạnh phúc) và sản xuất ra được biên độ
sóng cao, đồng bộ với sóng Gamma (một dấu hiệu của sự mở rộng nhận thức, tỉnh táo và sáng suốt). Những gì được ghi nhớ
trong tâm trí có khả năng đánh thức hoạt động của não và hệ thống thần kinh giải phẫu học.

Hệ thống cơ thể của chúng ta phải chịu mọi loại tác động của niềm tin vô thức và có ý thức mà tâm trí nắm giữ. Bao gồm cả
những niềm tin mà chúng ta có về những tác động của những loại thực phẩm, chất gây dị ứng, rối loạn kinh nguyệt, nhiễm trùng,
và tất cả các bệnh khác…chúng đều có liên quan đến hệ thống niềm tin cụ thể của tâm trí. Cùng với đó là khả năng dễ bị căng
thẳng tiềm ẩn do có sự hiện diện của cảm giác tiêu cực bị đè nén.

Anh họ Norman- tổng biên tập của tạp chí Saturday Review trong ba thập kỷ, đã chứng minh nguyên tắc này khi ông tự chữa
khỏi một căn bệnh nghiêm trọng bằng phương pháp cười. Ông đã viết Anatomy of an Illness (giải phẫu của căn bệnh – LND),
một quyển sách nói về kinh nghiệm của ông trong việc phục hồi sau chứng bệnh khớp gây tàn tật, nhờ rất nhiều vi-ta-min C và
những bộ phim cười đau cả bụng của Anh em nhà Marx. Ông đã phát hiện ra tiếng cười có tác dụng an thần, nó giúp giảm đau
trong khoảng hai giờ. Cười là một phương pháp loại bỏ các năng lượng tiêu cực. Thông qua tiếng cười, nó giúp loại bỏ những
áp lực tiềm ẩn và những cảm xúc tiêu cực. Từ đó tạo ra những thay đổi tích cực và có lợi cho cơ thể, cuối cùng đã giúp ông ấy
có thể hồi phục khỏi bệnh tật.

61
VƯỢT QUA NHỮNG THIẾT LẬP TIÊU CỰC

Cách để thay đổi cơ thể của chúng ta là đi thay đổi suy nghĩ và cảm xúc của chúng ta, bằng việc buông bỏ những ý tưởng, cảm
xúc và hệ thống niềm tin tiêu cực. Huỷ bỏ cả những thiết lập tiêu cực từ thế giới bên ngoài lên chúng ta, cũng như là những thiết
lập từ chính chúng ta. Càng sợ hãi, những thiết lập càng nhanh chóng hoàn thành, và phản ứng theo sau những thiết lập đó
cũng nhanh hơn. Nỗi sợ về hoá chất, thực phẩm, không khí, năng lượng và những kích thích khác gây ra một sự hoang tưởng
về môi trường của chúng ta. Ngày nào cũng có ít nhất một loại hoá chất hoặc thực phẩm nào đó được công bố là có chất gây
độc hại!

Chúng ta có thể thấy những tác động có hại của những lập trình tiêu cực về nỗi sợ của những người sợ thực phẩm độc hại, sợ
hoá chất, sợ bụi bặm trong môi trường. Trên Sơ đồ ý thức, Sợ hãi là một trường năng lượng ứng với Rút lui do có sự lo lắng,
và những người này tin rằng cuộc sống hàng ngày thực sự đáng sợ. Một số người trở nên quá kinh hãi về môi trường, về thức
ăn và mọi thứ trong thế giới này, khiến cho môi trường sống của họ ngày càng nhỏ và nhỏ hơn. Những người này sợ hãi đến
mức trốn chạy khỏi cuộc sống bình thường, trốn chạy với thế giới, họ là nạn nhân của tâm trí của chính họ. Đối với họ, chỉ có
một vài thứ trên hành tinh này là còn đủ an toàn để ăn được, và họ xách theo chúng đi khắp nơi trong một chiếc túi nâu. Những
người này nhìn người khác ăn uống và cảm thấy không khác gì họ đang ăn chất độc. Với ý nghĩ rằng, Ồ, bọn họ đang tự giết
mình bằng miếng bít-tết với thuốc trừ sâu trên đậu Hà lan, trái cây và rau diếp. Trong khi vừa suy nghĩ như vậy, họ vừa ăn những
gì họ mang theo trong chiếc túi nâu đó, ở một cái bàn trong góc, cùng với những người có vẻ cũng có một chiếc túi nâu như thế
(đây là một cảnh tượng có thực trong một bữa tiệc). Những người này nhịn ăn, tiết thực, thanh lọc, chạy bộ, làm rất nhiều việc
“lành mạnh”; và đương nhiên, họ cũng chết. Tại sao họ vẫn chết cơ chứ, những người chạy bộ mỗi ngày và tiết thực để được
khoẻ mạnh? Họ chết vì chính sự hoang tưởng về thế giới, một sự hoang tưởng đã nhốt họ trong một cái bong bóng tách biệt.
Họ không thể hít thở trong niềm tin tưởng. Họ sợ những tấm thảm vì họ thấy nó có khả năng làm họ dị ứng với vật liệu sợi tổng
hợp, biết đâu khiến họ ngưng thở đột ngột cũng không chừng. Mùi sơn từ tranh vẽ, mùi của những vật liệu cách nhiệt, mùi khói
thuốc cũng có khả năng khiến họ mắc bệnh ung thư- và cứ thế, thế giới của họ cứ hẹp lại và nhỏ bé dần.

Những gì đang xảy ra trong hoàn cảnh như thế này là một sự từ chối sự thật đang tiến triển, sự thật về bản thân của chúng ta,
cùng với đó là sự tiến triển về mặt phát ra những năng lượng ảo tưởng về những nguyên nhân trong đời sống hằng ngày, mà
thật ra những thứ đó hoàn toàn không có tác dụng gì với chúng ta cả. Đây là điều đối nghịch với sự thật, và với niềm tin phản
sự thật đó về bản thân, chúng ta sẽ biến thành nạn nhân, chúng ta sẽ trở nên yếu đi, dễ bị tấn công, dễ bị tổn thương. Họ đặt
dấu chấm hết cho cuộc sống của họ bằng chứng hoang tưởng “ghét gió, kỵ mưa, ra đường sợ xe cộ”, những người này chỉ có
thể sống trong cái bong bóng an toàn, hít không khí sạch, ăn thức ăn sạch từ chiếc túi nâu.

Điều này cũng có thể xảy ra với những người lý trí, thậm chí là bác sĩ. Bắt đầu là phấn hoa, phấn hương, lông ngựa, lông chó,
lông mèo, bụi bặm, lông vũ, len, sô-cô-la, phô mai, , các loại hạt ( những gì họ tin rằng nó gây dị ứng). Tiếp tới là đường ( gây
tăng đường huyết), phụ gia thực phẩm ( gây ung thư), trứng gà và các thực phẩm khác ( tăng cho-les-te-rol), thịt hữu cơ ( gây
bệnh gút). Tiếp theo trong danh sách “thực phẩm độc hại” đó là phẩm màu, đường hoá học, cà phê, màu thực phẩm, nhôm, sợi
tổng hợp, tiếng ồn, ánh sáng huỳnh quang, thuốc xịt côn trùng, xịt khử mùi, thức ăn nấu chín ở nhiệt độ cao, khoáng có trong
nước, clo trong nước, ni-cô-tin, khói thuốc lá, xăng dầu, khói xe, i-ôn dương, sóng điện thấp, thực phẩm a-xit, thuốc trừ sâu và
các loại thực phẩm có hạt.

Thế giới của những người này co nhỏ lại đến mức gần như không có gì an toàn để ăn hay để mặc. Không khí cũng không đáng
để hít thở nữa. Cả cơ thể của họ bị dị ứng, phản ứng, và phát bệnh để chứng minh cho lý lẽ đó. Đi ăn tối là niềm vui thuộc về dĩ
vãng, bởi không có gì trong thực đơn ăn được, ngoại trừ rau diếp ( đương nhiên là phải được rửa rất kĩ), và nhất thiết là phải
chọn những nhà hàng có dùng găng tay khi chế biến thức ăn thì mới được!

Vậy thì, chúng ta chỉ cần nhớ một chân lý cốt lõi, thì cả hình mẫu sẽ được vỡ ra. Đó là, chúng ta cứ nghĩ về điều gì suốt, thì điều
đó có khuynh hướng biểu hiện ra thực tế - bao gồm cả những niềm tin trong vô thức. Thủ phạm không phải từ thế giới bên ngoài
mà chính là tâm trí bên trong. Tất cả những thiết lập tiêu cực và các điều kiện sợ hãi là diễn ra trong tâm trí, và cơ thể tuân theo
tâm trí. Quy luật ý thức này đảo ngược lại vòng xoáy của sự hoang tưởng. Khi mỗi niềm tin bên trong được buông bỏ, những
phản ứng tiêu cực của cơ thể như bệnh tật, triệu chứng sẽ biến mất. Nói cách khác, lá thường xuân không gây dị ứng, mà niềm
tin của tâm trí về điều đó mới chính là thứ gây ra dị ứng. Một khi tâm trí bỏ được cơ chế này của nó, phản ứng dị ứng với lá
thường xuân sẽ biến mất.

62
QUÁ TRÌNH TỰ CHỮA LÀNH

Quá trình tự chữa lành là gì? Những kỹ thuật nào mà chúng ta có thể áp dụng với ý thức để đảo ngược tình trạng bệnh-hoạn?
Hãy bắt đầu bằng cách từ bỏ việc chống lại những cảm giác mà chúng ta đang trải qua, cũng như ngừng đặt tên cho những cảm
giác đó. Ví dụ, chúng ta không thể trải nghiệm “loét tá tràng”, hoặc “hen suyễn”. Đó là những cách gọi tên, cách tâm trí xây dựng
cấu trúc cho nó, cách thiết lập công phu và là những hệ thống niềm tin. Chúng ta tiến sâu vào những cảm giác chính xác hơn
của những trải nghiệm bên trong và buông bỏ việc kháng cự lại chúng. Mà thật ra, sau cùng chúng ta sẽ “xoá sổ” chúng, bằng
cách mở lòng với những cảm giác bên trong, đó là cách sắp xếp để phù hợp với chúng, và xoá bỏ những kiểu gọi tên. Hãy
ngừng gọi đó là “loét tá tràng”, thay vào đó nhìn sâu vào bên trong, cảm giác đó có thể rất đau, hoặc bỏng rát. Kể cả những từ
ngữ như đau hay bỏng rát cũng chỉ là một cách đặt tên cho hiện tượng. Huỷ bỏ những cách đặt tên ấy, và lần nữa tiến vào ngay
nỗi đau ấy, cảm giác ấy, những gì mà chúng ta đang trải qua.

Các bước tự chữa lành

Để hiểu một cách đơn giản, kỹ thuật thực hành ý thức của chân lý triệt để gồm năm bước, năm bước này cũng có tác dụng trên
một căn bệnh cụ thể:

1. Từ bỏ sự kháng cự về cảm giác của trải nghiệm đó.


2. Không được đặt tên, gọi tên hay dán nhãn cho nó.
3. Bằng cách cảm thụ và hướng vào bên trong trực tiếp với trải nghiệm đó, cảm giác đó, không cần dùng lời nói.
4. Xoá bỏ tên gọi của trải nghiệm đó trong tâm trí, những dạng thức suy nghĩ, những niềm tin bạn đã có về trải nghiệm
đó, cảm giác đó, và thay thế bằng sự thật này: Mình là một thực thể vô hạn, mình không phải đối tượng của trải nghiệm
này. Mà mình là đối tượng của những gì tâm trí mình nghĩ.
5. Gắn với trường năng lượng của Yêu thương, vì nó có tác dụng chữa lành.

Nếu chúng ta nhìn vào khía cạnh vật lý cơ bản của các năng lượng tương ứng và nhớ lại rằng, Sơ đồ ý thức là một thang đo số
lô-ga-rit, chúng ta có thể thấy tại sao Sợ hãi ( mức định chỉnh 100) bị chế ngự hoàn toàn bởi Tình thương (mức định chỉnh 500),
bởi đây là cấp độ số mũ. Sức mạnh của Tình thương là sự hiện diện của 10500, trong khi Sợ hãi là 10100, một sự khác biệt rất
lớn. Nếu bản thân một người trong trường năng lượng của Tình yêu vô điều kiện, mức 540, thì người đó tự khắc được chữa
lành ở cấp độ triệt để nhất. Một người nếu chọn trở nên sống yêu thương hơn thì kết quả là não của người đó tiết ra nhiều hooc-
mon endorphins hơn, hooc-mon này có tác động sâu sắc đến sức khoẻ vật lý và sự hạnh phúc ( xem Chức năng Não và biểu
đồ Sinh lý học ở chương trước).

Sự liên kết của tôn giáo, hoặc tâm linh với đức tin có khả năng làm giảm mức độ sợ hãi trên tổng thể. Bởi năng lượng tâm linh
chuyển sự thống trị của não bộ sang một phương thức xử lý lành tính hơn, qua đó, các hooc-mon căng thẳng được thay thế
bằng endorphin, đồng thời mức serotonin và các chất dẫn truyền thần kinh khác được tối ưu hoá.

Tuy vậy, liên kết với tâm linh không có nghĩa là kim bài miễn tử với các đoạn thời gian có sự đau khổ về mặt cảm xúc hoặc
nghiệp. Chẳng hạn, trầm cảm gây ra ảnh hưởng về mặt sinh hoá đối với phần lớn dân số. Ước tính có một phần ba số người
trưởng thành bị trầm cảm ở mức độ nghiêm trọng hoặc trung bình vào một thời điểm nào đó trong đời. Điều đó có thể nhẹ, dưới
dạng tiếc nuối, hoặc nặng hơn, dưới dạng mất người thân, phá sản, ly hôn v..vv..Trầm cảm đi kèm với những thay đổi lớn trong
sinh lý não và làm giảm các chất dẫn truyền thần kinh quan trọng, chẳng hạn như nor-epinephrine và serotonin. Xu hướng trầm
cảm có liên quan đến yếu tố di truyền, yếu tố nghiệp, và thường xảy ra trong bối cảnh liên hệ với gia đình.

Về mặt lâm sàng, trầm cảm thường cần đến sự trợ giúp của chuyên gia. Các trường hợp nghiêm trọng hơn có thể cần được
điều trị trong những điều kiện riêng, nó thực sự cho thấy sự cần thiết của một bác sĩ tâm thần hoặc những chuyên gia về tâm lý,
vừa điều trị vừa bảo vệ họ. Mất đi hy vọng và ý chí sống, cùng với triệu chứng trầm cảm đi kèm, thường xảy ra ở những người
sống cô đơn, sống một mình; người già; những người trải qua sự suy kiệt về mặt tâm lý do căng thẳng kéo dài, mất việc làm,
hậu ly hôn, mất người thân, hoặc quá trình tự đau khổ. Nguyên nhân gây tử vong đứng đầu ở những trường hợp này là tự tử,
xảy ra nhiều ở thanh thiếu niên.

Tất cả mọi thứ là gồm thể chất, tinh thần và tâm linh. Về mặt thể chất, một số người hồi phục được, đơn giản bằng cách kiêng
ăn đường. Đa số đáp ứng tốt với thuốc chống trầm cảm. Khi bị trầm cảm, một số chất dẫn truyền thần kinh ở những vùng nhất
định trong não bị mất, thuốc chống trầm cảm là để cải thiện biểu hiện của triệu chứng này.

Nói chung, việc điều trị trầm cảm của đa số bệnh nhân bằng thuốc chống trầm cảm là an toàn, miễn là có sự giám sát chặt chẽ
về mặt lâm sàng, đặc biệt là trẻ em và thanh thiếu niên. Về mặt dược lý, những loại thuốc này đưa bệnh nhân từ mức độ cuối
Sơ đồ ý thức vượt lên những mức độ cao hơn, để từ đó bệnh nhân có thể đáp ứng với liệu pháp tâm lý, hoặc sự tư vấn về tinh
thần, tâm linh, nhằm cố gắng giảm bớt các điều kiện gây ra tình trạng dễ bị tổn thương. Rủi ro về tâm thần học là cân nhắc khả

63
năng tự sát, đặc biệt khi chứng trầm cảm ở mức thờ ơ trở thành trầm cảm kích động (tức là khi họ có đủ năng lượng để thực
hiện hành vi tự sát).

Hạnh phúc nảy sinh từ việc sẵn lòng từ bỏ sự tiêu cực và cho phép năng lượng của yêu thương được thế chỗ. Bởi vì bản chất
cốt yếu của ý thức là tình yêu thương, trừ phi nó đã bị suy yếu. Chúng ta thấy trẻ thơ mới sinh ra có sự hồn nhiên, và có tình
yêu thương tự nhiên, đó là biểu hiện của bản chất con người, theo cách khi chúng ta chưa được lập trình để đi vào nỗi sợ hãi,
nghi ngờ, hoặc những rào cản mang tính giới hạn.

Khi nhìn vào những cơ chế cơ học có tính chính xác, chúng ta thấy những gì chúng ta nghĩ đến sẽ có tính biểu hiện trên bình
diện vật lý. Ngay cả khi đó chỉ là một suy nghĩ tương đối trung lập, nó cũng có thể gây ra những hệ quả lớn. Ví dụ, ý nghĩ Tôi sẽ
đi Hawaii ngay lập tức khiến họ tăng cường nguồn tài chính cho việc đó, và động thái lên kế hoạch cho sáu tháng tới- những
điều sẵn sàng cho chuyến đi.

Những gì chúng ta nghĩ trong tâm trí có xu hướng biểu hiện ra thực tế. Một trong những điều khó khăn để vượt qua trong quá
trình tự chữa lành, đó là việc có sẵn lòng chấp nhận chân lý của câu nói trên hay không. Vì có những người trung thành với
niềm tin rằng họ là nạn nhân của bệnh tật, họ thích những ý nghĩ đó, họ không muốn tin vào sức mạnh của tâm trí, họ không
muốn nhận trách nhiệm cho chuyện này. Nhưng nếu chúng ta thật lòng muốn chữa lành, chúng ta không thể để sổng mất những
ý nghĩ tiêu cực. Chúng ta không thể nghe chính mình nói “Tôi bị tiểu đường”, và rồi lờ đi. Hệ thống niềm tin bên trong tâm trí
mạnh mẽ đến mức chỉ cần tin rằng Tôi mắc bệnh tiểu đường là đủ có nguy cơ tiềm ẩn của căn bệnh này. Thay vì vậy, chúng ta
phải huỷ bỏ ý nghĩ đó và nghĩ thế này, Tôi đã từng có ý nghĩ đó, nhưng tôi chỉ tuân theo những gì mà tâm trí tôi có hiện nay. Tôi
là một thực thể vô hạn, và tôi không phải đối tượng của bệnh tiểu đường. Khi nghĩ về sự thật đó, chúng ta sẽ vượt lên trên mức
độ 200, một mức độ có sự cam kết với chính trực, một cột mốc quan trọng đối với trạng thái bệnh tật.

Sự từ bi dành cho chính bản thân

Vậy thái độ của chúng ta với toàn bộ các trải nghiệm là gì? Khi chúng ta quyết định dùng đến sự từ bi và lòng bao dung, cuộc
sống sẽ trở thành sự hỗ trợ và nuôi dưỡng, thay vì là lên án và chuỗi “phạm sai lầm” về mặt đạo đức, và ngừng việc tự tấn công
bản thân vì bệnh tật. Một số người tham gia vào lĩnh vực tâm linh hoặc nghiên cứu siêu hình sẽ phức tạp hoá vấn đề bằng cách
tự cho mình là “đã mắc lỗi” khi có vấn đề về thể chất. Sẽ thiết thực hơn nếu chúng ta sẵn lòng chấp nhận bất cứ điều gì được
biểu hiện ra ở cấp độ thể chất, vật lý. Lúc này, hãy quan sát bên trong ý thức của chúng ta và xem có điều gì đang xảy ra trong
cuộc sống, vì mục đích chữa lành.

Thay vì thấy xấu hổ và luôn đau đáu, tại sao một người thực hành tâm linh như mình lại gặp phải các vấn đề về bệnh tật, hãy
thấy vui và biết ơn, tự nhủ rằng: “À há, lại có cơ hội để được chữa lành rồi”. Hãy nhìn đó như một dấu hiệu của tiến triển, và thấy
vui vì chúng ta có cơ hội để thực hành việc chữa lành, nghịch lý thay, những biểu hiện đó phần lớn lại chính là sự thúc đẩy của
quá trình tiến bộ về mặt tâm linh nhanh hơn (nghĩa là nghiệp lực). Một khi chúng ta cam kết với chân lý cao cả, chẳng hạn như
Tình yêu vô điều kiện, thì chính ý định đó sẽ thu hút những gì trái ngược lại với nó – những thứ có tính chất phải dùng tình yêu
để đón nhận, và dùng tình yêu để chữa lành. Cũng như chúng ta đã biết, một cam kết yêu thương “mang đến những gì đối lập
với nó”. Hầu hết những nhà tâm linh trong lịch sử đều có ghi chép về những loại bệnh tật thể chất ( xem mục các nhà thần bí nổi
tiếng, mục thánh nữ Avila và thánh Hildegard thành Bigen trong Bách Khoa Toàn Thư của Anh).

Một căn bệnh cụ thể chỉ đơn thuần là ý thức của chúng ta kêu gọi sự chú ý vào một cái gì đó cần được xem xét, nó có thể là cái
mà chúng ta đang cảm thấy tội lỗi, sợ hãi, hoặc một số cảm xúc tiêu cực khác, một hệ thống niềm tin nào đó mà chúng ta đang
giữ phải được buông bỏ và xoá đi; hoặc một chuyện gì đó cần được sự tha thứ, hoặc một điều gì đó cần được yêu thương. Vì
vậy, thay vì tự phán xét vì bệnh tật, hãy cảm ơn nó vì đã mang lại cho chúng ta một đối tượng để chúng ta tập nhận thức. Và
chúng ta nói, “ Cảm ơn nhé, vết thương. Tôi đã hiểu, bạn buộc tôi nhìn lại cách mà tôi đang tự phán xét bản thân mình, tôi đã
không yêu thương chính mình. Cảm ơn nhé, chứng bệnh hạ đường huyết, đã cho tôi biết tôi sống trong sợ hãi nhiều đến nhường
nào”. Hãy cảm ơn những bệnh tật này của chúng ta, vì chúng đưa chúng ta đến ngưỡng của sự sẵn lòng và chấp nhận, để từ
đó có thể có tình yêu thương, và khu vực của niềm vui khi nhận ra, lòng trắc ẩn chính là cách mà cơ thể tự chữa lành cho nó.

Chúng ta bắt đầu từ việc loại bỏ tất cả những nỗi sợ có liên quan đến cơ thể, huỷ bỏ hệ thống niềm tin cũ và tái khẳng định rằng
con người thật của chúng ta là vô hạn và không bị giới hạn, chúng ta chuyển sang trạng thái cao hơn của sức khoẻ, an vui, năng
lượng. Một phương pháp hữu ích đó là chúng ta cố gắng tự diễn đạt điều đó với bản thân mình, “Tôi là một thực thể vô hạn, tôi
không chịu sự chi phối của ….” . Chúng ta điền vào chỗ ba chấm bất kỳ căn bệnh gì, hoặc chướng ngại gì của tâm trí, bất cứ
điều gì mà tâm trí đã lập trình ra để chúng ta cảm thấy có “ khả năng nguy hiểm” xảy ra với chúng ta.

TRẠNG THÁI TỰ DO NỘI TẠI

Khi một người từ bỏ hệ thống niềm tin hạn chế, họ có thể ăn bất cứ gì họ muốn; đi bất cứ nơi đâu; không còn sợ ô nhiễm, bụi
bặm, gió máy, vi trùng, tần số điện từ, thảm dệt, khói bụi, lông động vật, cây thường xuân, phấn hoa, thuốc nhuộm, phẩm màu
v..vv… Từ bỏ nỗi sợ hãi, cảm giác tội lỗi, kiêu hãnh và tất cả những gì là giới hạn của sự tin tưởng sai lầm, từ bỏ trường năng

64
lượng tiêu cực, thì nhận thức của họ sẽ thay đổi, bản ngã chỉ còn là một con thú cưng. Lúc đó, họ chuyển từ Tôi là cơ thể này,
sang trạng thái Tôi có một cơ thể.

Rõ ràng là, cơ thể không thể tự nó trải nghiệm chính nó. Mà là tâm trí có trải nghiệm về cơ thể. Nếu không có tâm trí, cơ thể
không thể nhận thức được gì. Cánh tay làm sao có trải nghiệm về cánh tay. Chỉ có tâm trí mới trải nghiệm được cảm nhận của
cánh tay. Và đương nhiên, đó chính là nền tảng cho cơ chế gây mê. Khi tâm trí ngủ, cơ thể không có cảm giác gì. Nó từ từ đã
cho chúng ta thấy được rằng, trên thực tế, cơ thể không hề có bất kỳ cảm giác nào; chỉ có tâm trí mới có khả năng thực hiện
các chức năng đó.

Đây là một sự chuyển đổi ý thức rất quan trọng, bởi vì giờ đây, mối quan tâm không phải là đặt ở cơ thể này và chăm chăm vào
nó. Chúng ta bắt đầu nhận thấy rằng, mọi người không thực sự phản ứng với cơ thể của chúng ta, mà là đối với trạng thái bên
trong, tức là trạng thái năng lượng và mức độ nhận thức bên trong của chúng ta. Hãy loại bỏ mối băn khoăn về ngoại hình của
mình, vì cho đến một ngày nào đó, chúng ta sẽ nhận ra, mọi người- mọi điều trên thế giới là đang phản ứng với mức độ ý thức
và ý định bên trong của chúng ta, cũng như cảm giác chúng ta có về họ. Chúng tôi ghi nhận từ trường thiện lành của những
người như Mẹ Teresa, Mahatma Gandhi, và chúng tôi thấy họ được yêu mến không phải bởi vẻ ngoài của họ- vốn dĩ không có
gì ấn tượng, mà chính bởi sự rạng rỡ bên trong của họ được toát lên từ tình yêu và nguyên tắc hoà bình của họ. Sự chuyển đổi
trọng tâm từ cấp độ vật chất sang cấp độ ý thức thường mang lại kết quả nhanh chóng. Hãy dồn năng lượng vào sức khoẻ nội
tâm của bạn.

Duy trì sự liên tục trong việc buông bỏ những cảm giác và thái độ tiêu cực cũng sẽ giải phóng những trạng thái tội lỗi, mặc cảm.
Một ý thức không mang theo sự mặc cảm hay tội lỗi có xu hướng không thu hút bệnh tật. Vì trong vô thức, cảm giác tội lỗi, mặc
cảm đòi hỏi sự trừng phạt và bệnh tật, và sự có mặt của nhức nhối, đau khổ, nó là phương tiện tự hành xác thường xuyên của
tâm trí. Sự tự hành xác này có thể có hình thức của một loại tai nạn, cảm cúm, viêm khớp, hoặc bất kỳ căn bệnh nào mà trí óc
có thể phát minh hay dính mắc đến. Những hình thức mắc bệnh này có thể là dạng một cơn dịch do truyền thông đưa tin. Khi
một nhân vật nổi tiếng chia sẻ với công chúng về một căn bệnh nghiêm trọng nào đó, thì tỉ lệ mắc bệnh đó đột ngột tăng vọt và
ngày càng trở nên phổ biến hơn. Những người này vô thức nắm bắt lấy căn bệnh đó và tận dụng nó để tự “thanh lý môn hộ”.
Sự buông bỏ liên tục về cảm giác mặc cảm sẽ giúp bản thân người đó giải phóng được dần dần cảm giác tự trừng phạt. Do đó,
một người không có sự tiêu cực và mặc cảm tội lỗi, thì tâm trí sẽ không có xu hướng bị bệnh tật hay đau đớn.

Vì thế, sức khoẻ, và hạnh phúc nói chung là hệ quả tự động của quá trình buông bỏ mặc cảm tội lỗi và những cảm giác tiêu cực
khác, sự buông bỏ này cũng là buông bỏ việc phản kháng của chúng ta đối với những trải nghiệm tích cực về sức khoẻ và hạnh
phúc. Có những trường hợp không phổ biến, trong đó tình trạng ốm yếu hoặc bệnh tật vẫn tiếp tục không suy giảm, đó là do các
yếu tố chưa biết, chẳng hạn như nghiệp. Quá trình thực hành buông bỏ liên tục mang lại sự chữa lành ở cấp độ nội tâm, do vậy,
ngay cả khi cơ thể dường như bị giới hạn và những người khác có thể xem đó là “ bi kịch”, người đó vẫn có thể có sự bình an
và toả ra năng lượng hạnh phúc đến những người khác. Thông qua sự buông bỏ ở cấp độ sâu sắc, những cá nhân như vậy sẽ
trút bỏ được cảm giác tủi thân, mặc cảm, cũng như thái độ phản kháng lại hoàn cảnh cuộc sống. Họ vượt lên được quan điểm
rằng, bệnh tật của họ là rào cản để họ có được hạnh phúc, họ thấy trạng thái bệnh tật là phương tiện để giúp những người khác
sống biết ơn và tích cực. Trong những năm gần đây, chúng ta thấy có những ví dụ nổi tiếng về hiện tượng này, đó là cố Giáo
Hoàng John Paul II, ông xem căn bệnh parkinson mãn tính của mình như một cơ hội để đón nhận hoặc ở bên cạnh những đau
khổ của người khác.

Quá trình buông bỏ này có thể giúp một người vượt lên những nấc trên cùng của Sơ đồ ý thức. Đầu tiên, xác định rằng: Tôi là
cơ thể này. Khi có sự thức tỉnh bên trong, hãy tiếp tục, Tôi biết rõ tôi là tâm trí trải nghiệm cơ thể này, chứ tôi không phải cơ thể.
Khi nhiều cảm giác, khuôn mẫu suy nghĩ và hệ thống niềm tin được buông bỏ, cuối cùng chúng ta sẽ có nhận thức rằng, Tôi
cũng chẳng phải tâm trí này, mà tôi là cái chứng kiến tâm trí này và trải nghiệm những tâm trí này, trải nghiệm cơ thể này,trải
nghiệm những cảm xúc này. Tôi là ý thức. Thông qua quan sát bên trong, chúng ta sẽ có nhận thức về Một- Cái- Gì- Đó luôn
hằng định liên tục, bất kể điều gì xảy ra ở thế giới bên ngoài hoặc với cơ thể, cảm xúc, hay tâm trí. Với nhận thức này, chúng ta
sẽ có trạng thái tự do hoàn toàn. Bản ngã bên trong sẽ được khám phá. Trạng thái im lặng của nhận thức là nền tảng cho mọi
chuyển động, hoạt động, âm thanh, cảm xúc và suy nghĩ trong chiều không thời gian của hoà bình. Một khi xác định được nhận
thức này, chúng ta không còn dễ bị ảnh hưởng bởi các tác động của thế giới, bởi cơ thể hay tâm trí. Và với nhận thức này, nội
tâm sẽ tĩnh lặng, có cảm giác bình an sâu sắc bên trong. Chúng ta sẽ nhận thấy, đây là điều mà chúng ta luôn tìm kiếm nhưng
không biết về nó, bởi chúng ta bị u mê. Bởi chúng ta nghĩ rằng chúng ta là tất cả các hiện tượng của cuộc sống bận rộn, của cơ
thể này, của những trải nghiệm của cơ thể này, của nghĩa vụ, công việc, chức danh, hoạt động, vấn đề, cảm xúc v..vv.. Nhưng
giờ đây, chúng ta sẽ nhận ra rằng, chúng ta là không thời gian- một nơi chứa đựng các hiện tượng đó. Chúng ta không phải
những hình ảnh chập chờn của một bộ phim đang chiếu, mà chúng ta chính là cái màn hình, và không có sự phán xét về bộ
phim mở ra này, một bộ phim không có khởi đầu, không có kết thúc và có tiềm năng vô hạn. Những nhận thức tiến bộ về bản
chất thực sự của chúng ta là nền tảng để chuẩn bị cho nhận thức sau cùng về sự đồng nhất của ý thức với Thần tính ở cấp độ
cao nhất trên Sơ đồ ý thức.

Chúng ta sẽ thấy rằng, các nguyên tắc để thành công về cơ bản là giống nhau, dù cho đó là nỗ lực mang tính tâm linh tự nhiên
( tự nhận thức) hay một con đường chuyên nghiệp.

65
CHƯƠNG NĂM

10 BƯỚC ĐẾN THÀNH CÔNG “ABC”

Cấp độ mà chúng ta không cho phép mình trải nghiệm thực tại về Chân ngã của chúng ta được thể hiện bằng sự tức giận lên
những con người đã có được điều đó. Chúng ta hằn học với sự tồn tại của họ trong môi trường mà chúng ta thấy mình bất lực.
Khi chúng ta ngự trong các cấp độ năng lượng dưới 200 trên Sơ đồ ý thức, chúng ta không thích, chúng ta chỉ trích, và chúng
ta đánh giá thấp những gì có mức định chỉnh cao hơn. Cái tôi thấp bé tìm kiếm danh tiếng và tài sản bằng cách đi phá hoại
người khác. Dưới đây là một ví dụ minh chứng cho sự tiêu cực này:

Một người đàn ông đang đi dạo bên bờ biển và gặp một người đánh cá với cái sô đầy ắp cua. Anh ta bảo người đánh cá, “ Tốt
hơn anh hãy đậy lại nếu không cua sẽ bò ra mất”. Người đàn ông khôn ngoan kia đáp lại, “Ồ, không đâu, khi một con cố bò ra
thì mấy con khác sẽ đu bám theo, và chúng tự kéo nhau xuống. Vì thế không cần đậy kín làm gì.”

Một khi trở nên hạnh phúc và tự do hơn, chúng ta sẽ nhận ra rằng, bản chất thế giới cũng như cái sô cua đó, chúng ta tìm kiếm
phương thức để vượt qua sự lôi kéo tiêu cực, bằng cách đón nhận lối sống nội tâm và một thái độ thừa nhận sự vĩ đại của bản
thân mình và những người khác. Thành công thực sự không đến từ cái gọi là tấn công kẻ thù, mà bằng cách nuôi dưỡng ý định
thành công trong chính chúng ta và mọi người xung quanh. Sự nghiệp bi thảm của những con người thiên tài sau khi được công
chúng biết đến và tôn vinh đã chỉ ra rằng, muốn đi nhanh thì đi một mình, muốn đi xa thì đi cùng nhau. Và cái trước thường gây
nguy hiểm, trong khi cái sau có tính củng cố nhiều hơn. Sự thành công đích thực có sức sống và giúp nâng đỡ tinh thần; đó
không phải là những thành tựu mang tính cô lập, nó mang tính toàn diện, một lối sống không chỉ mang lại lợi ích cho bản thân
bạn mà còn cho tất cả những người xung quanh. Cái tôi thấp bé phù hợp với những mẫu thức thu hút yếu ( đó là kiểu tinh thần
của mấy con cua như câu chuyện ở trên); cái tôi bậc cao phù hợp với những trường năng lượng có sức mạnh ( chẳng hạn như
Tình thương).

Thay vì ghen tị, hoặc có thái độ phản bác sự thành công, muốn thực sự thành công, chúng ta hãy bắt chước nó, sao chép nó,
xác định nó và phát triển thành các mô hình. Tự chịu trách nhiệm về hành động của bản thân và hậu quả của chúng, một cách
hiệu quả, nếu chúng ta làm thế, mức ý thức của chúng ta lập tức tăng lên 200. Tất cả các cá nhân tiến hoá về mặt tinh thần
trong quá trình phát triển của họ là họ đều học hỏi được một cái nhìn quý giá, đó là sự thấy biết rằng chính ý thức cá nhân của
họ mới là thứ ảnh hưởng và quyết định tất cả những gì xảy ra trong cuộc sống của họ. Một cách xác định thành công thực sự
của ABC. Họ nhận ra rằng, họ là một kênh hoạt động, thông qua kênh đó để tạo ra thành công cho thế giới bên ngoài. Khi họ
xác định được nguồn gốc thực sự của sự thành công không chỉ đơn thuần là tính hiệu quả, họ sẽ không lo lắng về tính thất
thường của nó. Họ có thể bị mất tài sản, địa vị, nhưng họ có thể tái tạo lại nó rất nhanh sau đó, bởi tất cả đến từ ABC của riêng
họ- nó là sự tác động của chính họ. Chúng ta gọi những con người đó là “Chạm vào thứ gì cũng có thể biến nó thành vàng”.
Còn đối với những người xem thành công của họ là được tác động bởi những ABC bên ngoài, sự thành công đó không mang
tính an toàn. Thành công thực sự là kết quả tự động của việc gắn kết cuộc sống của chúng ta với các mẫu thức năng lượng có
sức mạnh và tuân theo các nguyên tắc nhất quán. Thành công thực sự không chỉ đơn thuần là một công việc, một doanh nghiệp,
hoặc một khoản tiết kiệm. Nó phản ánh mức độ toàn diện của bản thân bạn, trường năng lượng truyền cảm hứng mà bạn lan
toả ra, nó nâng cao tinh thần và tô điểm cho bất cứ thứ gì mà bạn làm. Thành công thực sự chính là phù hợp được với năng
lượng của cuộc sống.

BƯỚC 1: Ý ĐỊNH

Tự kiểm tra ABC của bạn trước khi bạn làm bất cứ thứ gì ABC.

Nguyên tắc sáng lập ban đầu mà bạn thiết lập có mẫu thức hấp dẫn trong vũ trụ không? Mọi người có thể hết lòng quan tâm nó
nếu họ biết đến nó không? Nếu câu trả lời là không cho hai câu trên, nó đã bị giới hạn ngay từ đầu. Chúng ta có thể xem xét ví
dụ ở cấp độ quốc tế về Đức Quốc Xã, trong một thời gian, họ chắc chắn đã có tất cả các dấu hiệu của chiến thắng. Họ tập hợp
được một lực lượng quân sự ấn tượng nhất trong lịch sử thế giới. Tuy nhiên, họ đã tiêu tùng. Bởi lời hiệu triệu của họ là gì?
Deutschland uber Alles. “Đức là trên hết” không có mẫu thức hấp dẫn phổ quát, đúng không? Và nó khó mà chiếm được trái tim
của những người Bỉ, người Pháp, người Anh, hay bất kỳ người dân tộc nào khác, đó chính là vấn đề. Nó là một lời tuyên bố
Hơn-Thua: Bọn tôi thắng! Bọn anh thua!

Tương tự, nếu động cơ khởi nghiệp là giành giải thưởng, bán được nhiều xe hơn các đại lý ô-tô khác trong vùng, hoặc vì để
giàu có hơn, nổi danh hơn, thì những nỗ lực kiểu đó không thể đi đến thành công thực sự. Việc bạn trở thành người giỏi nhất
trong một lĩnh vực nào đó, hoặc giàu có và nổi tiếng có thể hấp dẫn bạn, nhưng người khác có quan tâm không? Không! Nếu
bạn có một loại dịch vụ, một thái độ nhằm giúp người khác đạt được mục tiêu của họ, thì nghĩa là doanh nghiệp của bạn có
sức hấp dẫn phổ quát.

Nếu chỉ là tham vọng không thôi thì không mang lại thành công. Nhưng nếu là mục đích làm cho thế giới này trở thành một nơi
tốt đẹp hơn cho tất cả mọi người sống trong đó, hoặc tăng sự an toàn, tăng cường niềm vui, tăng cường vẻ đẹp của cuộc sống,

66
thì mọi người mới có thể tham gia cùng với bạn. Xuất phát từ một nguyên tắc mang tính phổ quát là xuất phát từ nơi có sức
mạnh. Xuất phát từ tính tư lợi và hứng thú cá nhân là xuất phát từ lực, mà lực thì sẽ có lực cản.

Xét theo một khía cạnh khác, Sơ đồ ý thức cũng có thể được nhìn như thang đo của bản ngã, với mức 200 là một cột mốc, mà
tại đó, ích kỷ bắt đầu chuyển sang vị tha, và mức 500 là một cột mốc nữa, tại đó sự vị tha của một người trở thành vô ngã, và
sự vị tha vô ngã đó là nội tâm của họ. Sự chứng thực về thành công đích thực là động cơ của một ABC bắt đầu từ 200 trở lên,
càng cao thì càng mạnh mẽ, do sức hấp dẫn đã vượt ngoài chủ nghĩa cá nhân ích kỷ. Chúng ta thấy sự khác biệt giữa các cấp
độ như thế này trên bình diện của cuộc thi Olympic. Những hệ quả tai hại, cả cuộc sống riêng tư lẫn công chúng đều đến từ
những động cơ dưới mức 200, và được minh hoạ một cách rõ ràng thông qua những vụ bê bối. Khi họ quá nóng lòng để giành
được huy chương và đánh bại đối thủ bằng mọi cách có thể, sẽ dẫn đến việc từ bỏ Sức mạnh của những nguyên tắc đạo đức
và bị rơi xuống cấp độ của Lực theo một cách thô thiển nhất.

Về bản chất, không có gì sai nếu chúng ta có những biểu hiện của lòng kiêu hãnh. Chúng ta có quyền tự hào khi các vận động
viên của chúng ta giành được huy chương, nhưng nó khác với chủ nghĩa vị kỷ; sự tự hào đó là đến từ cái tâm. Nó là thái độ tôn
vinh thành tựu của một người đã vượt lên sự hãnh tiến về cá nhân họ. Thế vận hội là một trong những chương trình truyền hình
vĩ đại nhất về những tấm gương phấn đấu của con người, nó truyền cảm hứng cho các vận động viên chuyển từ niềm kiêu hãnh
cá nhân sang lòng tự trọng, một biểu hiện của tình yêu vô điều kiện, bởi nó cũng đồng thời tôn vinh những đối thủ của họ, vì tất
cả họ đã cùng nhau cống hiến cho những nguyên tắc cao hơn.

Thành công thực sự, cũng như sức mạnh thể thao thực sự, có đặc trưng là sự duyên dáng, nhạy cảm, trầm tĩnh bên trong, và
nghịch lý thay, đó lại là một sự ôn tồn của cuộc sống không có tính hơn thua, ngay cả trong những hoàn cảnh tưởng chừng là
cuộc cạnh tranh khốc liệt nhất. ABC đó là một sự hoàn thiện bởi sự cống hiến cho một điều cao hơn bản thân mình ( cho đồng
đội, cho Thượng Đế, cho quốc gia v.vv..), nó là một loại năng lượng siêu việt được đánh giá cao trên Sơ đồ ý thức từ bản thân
chúng ta. Chúng ta tôn vinh những nhà vô địch này vì chúng ta nhận ra, họ đã vượt qua tham vọng cá nhân để hy sinh và cống
hiến cho một nguyên tắc cao cả hơn. Những người vĩ đại sẽ biến thành huyền thoại khi họ trở nên như những tấm gương cho
những người khác. Không phải họ đã đạt được những gì, hay họ đã làm những gì, mà họ trở thành nguồn cảm hứng cho những
người khác như thế nào. ABC của họ có sức hấp dẫn phổ quát trong vũ trụ, vì nó gợi lên lòng tôn kính đối với sự cống hiến quên
mình có sẵn trong mỗi chúng ta.

BƯỚC 2: NIỀM VUI

Suy ngẫm: Đây có phải là điều mà bạn thích làm không?

Một khi bạn đã chắc chắn rằng dự định của bạn có sức mạnh thu hút phổ quát, hãy tự hỏi bản thân, liệu nỗ lực này có phải là
điều mà bạn thích làm không? Chúng ta đã thấy mọi người ép buộc bản thân đến công ty vào mỗi sáng, bởi họ tự thuyết phục
chính mình rằng, họ nhất định phải làm một cái gì đó, thế nhưng, họ có để tâm vào công việc đó không? Cách để thành công là
hãy làm những gì mà bạn thích làm, tận hưởng công việc ấy, nếu như vậy, bạn đang làm việc một cách tự nhiên trong khả năng
tốt nhất của mình, cũng như có trải nghiệm vui vẻ đến tự việc bạn đã cống hiến hết sức cho công việc đó. Tôi có một ví dụ về
một bệnh nhân, anh ấy tìm đến phòng khám vì anh ta đã có mọi thứ, nhưng vẫn cảm thấy khổ sở.

Anh ấy than thở, “Tôi mất hứng thú với cuộc sống của mình. Tôi ghét đi làm vào mỗi sáng. Tôi có tất cả những điều tôi muốn,
xe Cadillac, nhà sang, chức vụ, hàng triệu đô trong tài khoản, và một gia đình tuyệt vời- thế nhưng tôi lại cảm thấy rất chán nản
thay vì hạnh phúc. Tôi thấy cuộc sống thật vô nghĩa. Tôi không có sự đồng cảm từ bạn bè. Tất cả họ đều ghen tị với tôi.”

“Thế anh thích làm gì? Anh có thích làm công việc nào không?”

Anh ấy đáp, “Bác sĩ, điều này nghe có vẻ điên rồ, nhưng tôi thích làm nhà mô hình cho búp bê. Tôi có một cái xưởng nhỏ ở nhà,
tôi cũng thích làm nhà búp bê cho các con và mấy đứa cháu của tôi”.

“Anh có từng bán được ngôi nhà búp bê nào chưa?”

Anh trả lời, “Ồ, tôi chưa từng nghĩ đến việc này. Tôi đã bỏ rất nhiều thời gian và công sức vào chúng, đến nỗi tôi chưa từng nghĩ
đến việc sẽ bán chúng”.

Tôi gợi ý nhẹ, “Chà, đùa chứ, sao anh không thử tìm một mức giá hợp lý và ký gửi ở bất kỳ cửa hàng nào- nhưng đừng để ở
cửa hàng đồ chơi, vì nó có thể bị lấn át bởi những thứ đồ chơi khác”.

Và đó là những gì anh ấy đã làm. Thật ngạc nhiên, anh ta biết một người trong ngành kinh doanh phần cứng, người này vui vẻ
đồng ý cho anh ấy đặt một ngôi nhà búp bê trên cửa sổ ở cửa hàng, và trên thực tế, người này đã dùng nó quảng cáo để bán
các cầu thang tí hon. Ngôi nhà búp bê được bán đi chỉ trong một thời gian ngắn. Và một ngôi nhà búp bê khác được trưng bày
với tấm biển “ hàng trưng bày, không bán”, và tiếp tục có người muốn mua nó. Chẳng bao lâu sau, người bệnh nhân đã từng
khốn khổ này của tôi đã kinh doanh nhà búp bê và buôn bán đắt như tôm tươi, đến độ phải thuê thêm nhân công.

67
Đó là những ngôi nhà búp bê thủ công vô cùng dễ thương, chúng mang lại niềm vui cho trẻ nhỏ. Và đó cũng chính là ABC của
anh ấy, khi anh ấy đến và nói với tôi, “Tôi muốn mang lại niềm vui cho trẻ em”. Đó là một nguyên tắc phổ quát mà khó ai có thể
tranh luận được. Một trong những bài kiểm tra về nguyên tắc phổ quát là liệu nó có hấp dẫn được trái tim của người khác hay
không. Nếu sản phẩm hoặc dịch vụ của bạn chỉ hấp dẫn những cái đầu, nó sẽ có một tỉ lệ thành công hạn chế. Có thể nó mang
lại nhiều lợi nhuận, nhưng những thành công lớn trên thế giới đều là những thứ mà bản thân người tạo ra nó có sự yêu thích và
tin tưởng, những thứ làm thay đổi cuộc sống của người khác.

BƯỚC 3: PHỤNG SỰ

Cân nhắc: Điều bạn muốn làm có ai cần không? Nó có phục vụ được cho ai không?

Bạn sẽ muốn chắc chắn rằng những gì bạn sắp đổ tâm vào không chỉ là một dự án dành cho thú cưng hay phục vụ cho sở thích
cá nhân. Nước sốt dầu giấm quả mâm xôi có thể là ý tưởng của một số đầu bếp cao cấp, nhưng sở thích cá nhân về hương vị
đó không nhất thiết cần phải được chia sẻ bởi nhiều người trong cộng đồng, nhiều người chỉ đến nhà hàng một hai lần vì tò mò
và không bao giờ quay lại nữa, bởi họ chỉ muốn một loại sốt thuần tuý, thậm chí gì cũng được. Chúng ta nhận thấy có rất nhiều
doanh nghiệp kiểu như vậy, và thường nó chủ yếu chỉ phục vụ khách du lịch chứ không thu hút người dân địa phương, bởi nhu
cầu về nó là có hạn. Nó không phải một loại nhu cầu thật sự, ngoài việc đó là một ý tưởng dễ thương, độc đáo, khác biệt. Chúng
ta có thể áp dụng bước này cho bất kỳ lĩnh vực nào của cuộc sống bằng cách tự hỏi mình, “Liệu tôi có đang áp đặt sở thích thú
cưng của mình hay nó thực sự đáp ứng nhu cầu của những người có liên quan đến tôi?”

BƯỚC 4: THẨM MỸ HỌC

Kiểm tra tất cả các hệ thống cảm nhận về giác quan, và tham vấn ý kiến của một chuyên gia trong lĩnh vực đó để cân bằng
những khía cạnh không phải sở trường của bạn.

Tức là gì? Nghiên cứu về Lập trình Ngôn ngữ Tư duy (NLP) đã chứng minh rằng, con người xử lý các trải nghiệm cuộc sống
của họ chủ yếu thông qua phương thức của giác quan này hoặc giác quan kia. Một số người chủ yếu xử lý qua thính giác, một
số là thị giác, số khác thông qua cảm nhận về người khác. Tất nhiên, khứu giác và xúc giác cũng rất quan trọng.

Hãy lấy ví dụ về một nhà hàng trông rất bắt mắt. Vậy thì người quản lý ở đó rõ ràng là một người dùng thị giác, trực quan để
cảm nhận. Và khi nhìn vào, mọi người thấy rằng nhà hàng được trang trí rất đẹp. Người quản lý nhà hàng cũng đảm nhiệm tốt
về mặt thức ăn và giá cả. Nhưng âm lượng ở đó thì lại thật khủng khiếp, thực khách khó lòng mà nghe thấy suy nghĩ của chính
họ, chứ đừng nói là nghe được tiếng người khác trò chuyện. Bởi nhạc ở đó mở quá to, to một cách bất hợp lý, và được phát
liên tục. Rõ ràng, đó là những gì vị quản lý nhà hàng thích; tuy nhiên, nó khiến những người khác không muốn đến đây.

Giả sử ngược lại, bạn không quá quan tâm đến việc mọi thứ trông như thế nào, miễn bạn thấy phù hợp, bạn có thể gọi cho vài
người quen, những người thuộc thị giác đến và hỏi họ có cảm nhận gì. Chúng ta có thể nắm được thông tin từ những quan điểm
khác nhau. Những người nói, “Tôi biết nó quan trọng như thế nào với anh, anh thấy nó ra sao?”, họ có lẽ thuộc về những bộ não
xử lý thị giác. Và những người nói, “Tôi cảm thấy không ổn lắm”, thì họ rõ ràng là những người xử lý qua cảm giác. Những người
thuộc về hệ xử lý thính giác sẽ nói, “Cái này nghe có vẻ không hợp với tôi lắm”. Chỉ cần nhận thức được các dấu hiệu này, bạn
sẽ phân biệt được rõ các chế độ xử lý.

Bạn sẽ muốn đảm bảo rằng bạn che đậy tốt những chế độ cảm nhận không phải sở trường của bạn. Sẽ không mất nhiều thời
gian, cùng lắm là một giờ đồng hồ ngồi với một chuyên gia để họ cho bạn biết ý tưởng của họ. Một nhà hàng đi từ thất bại đến
thành công nhiều khi chỉ cần thay đổi nhạc, chuyển từ âm nhạc phương Tây ồn ào, sôi động sang baroque nhẹ nhàng, cũng
giúp mang lại những vị khách sộp trung thành.

Người ta muốn được thư giãn khi ăn tối, với khăn trải bàn bằng vải thanh lịch, và được chuẩn bị khăn ăn, âm nhạc hợp lý, ánh
sáng vừa phải. Độ sáng nổi bật có lẽ hợp với nhà hàng điểm tâm hơn là nhà hàng bán ăn tối. Mặc dù các nhà hàng thức ăn
nhanh dường như tin vào sự thật hiển nhiên này, nhưng ai cũng muốn thể hiện giá trị riêng trong cuộc sống của họ. Họ sẽ xông
xênh và đánh giá cao bạn nếu bạn cung cấp cho họ phương tiện để họ có trạng thái đó. Bất cứ điều gì mà doanh nghiệp của
bạn biểu hiện ra, hãy đảm bảo nó được nổi bật theo một cách tốt nhất, và có liên quan đến tất cả các phương thức xử lý của
giác quan, cũng như nó có thể làm hài lòng nhiều người nhất có thể. Dù cho nó có tốn gấp đôi chi phí.

Ngoài các phương thức giác quan nói trên, có một tỉ lệ cao những khách hàng đặt sự thoải mái của họ lên hàng đầu. Những
khách hàng tiềm năng ra đi đơn giản chỉ vì họ không tìm thấy chiếc ghế nào để ngồi. Nhiều người suy đi nghĩ lại và quyết định
bỏ tiền chỉ khi nào họ đã ngồi yên vị một chỗ. Có những khách hàng thấy thích những kiểu doanh nghiệp có tâm như vậy.

BƯỚC 5: THU HÚT

Hãy dựa vào sự thu hút hơn là khuyến mãi.

68
Hãy nhớ rằng, quảng cáo với các chiêu trò tiếp thị, bán hàng rầm rộ là những phương thức bên ngoài và tiêu tốn nhiều thời gian,
tiền bạc, năng lượng. Nhưng sự thu hút thì khác, nó không mất nhiều thời gian, công sức hay chi phí. Khuyến mãi, quảng cáo
là Lực. Mà quy luật của vũ trụ là Lực thì sẽ có Lực cản. Càng cố thuyết phục khách hàng, doanh số bán hàng càng đòi hỏi cao
hơn. Bởi bạn bỏ nhiều chi phí cho quảng cáo, thì bạn phải tăng giá thị trường. Do đó, sau cùng, bạn tạo ra một mức, mà ở đó
đòi hỏi doanh nghiệp của bạn phải chịu sự kháng cự về giá trần và thu hẹp khoảng cách của bạn với đối thủ cạnh tranh.

Điều gì thu hút và xây dựng nên thành công mà lại không tốn thời gian, năng lượng và công sức? Danh tiếng của bạn sẽ làm
điều đó. Đó không phải là một hình tượng giả tạo mà bạn thuê một công ty tiếp thị nào đó nguỵ tạo ra, mà nó đến từ sự chân
thành trong nỗ lực thật sự của bạn, vì thế nó trở nên rõ ràng và hiển nhiên đối với mọi người khi bạn làm việc. Một số cái tên
hoặc nhãn hiệu gợi cho chúng ta cảm giác ấm áp bởi họ đã chứng tỏ được mình qua thời gian, rằng họ có thể cung cấp một sản
phẩm hoặc một dịch vụ tốt, đáng tin cậy và độc đáo, cũng như chế độ chăm sóc khách hàng ân cần và hiệu quả. Danh tiếng của
những công ty đó là hiệu quả của một ABC có năng lượng tích cực. Trong khi hầu hết các công ty có mức định chỉnh khoảng
200 ( giống với bộ máy của những Chính phủ quan liêu), thì những công ty danh tiếng này có mức 300, nó cho thấy sự cộng
hưởng của nó với cảm xúc của con người ( không chỉ dừng lại ở các chức năng đơn thuần của một công ty).

ABC cần lưu ý ở đây chính là một nam châm có sức hút và không tốn kém. Nếu bạn làm tốt công việc của bạn, mọi người sẽ
tìm kiếm bạn. Tôi không nói bạn không cần cho mọi người biết doanh nghiệp của bạn đang ở đó, có những dịch vụ nào, có
những chương trình đặc biệt trong tuần là gì, cũng như giờ hoạt động của nó. Nhưng nếu chỉ dừng lại như vậy, thì nó là một
tiên đề cũ rích trong kinh doanh, quảng cáo làm hài lòng khách hàng. Và mọi người nói, “Ồ, tôi biết rồi”, sau đó họ vẫn bỏ qua
nó.

Một nguyên tắc nhỏ cần tuân thủ là hãy tự hỏi bản thân xem liệu sự cám dỗ để đi theo một con đường tắt nào đó có đáng để
bạn phải chịu rủi ro huỷ hoại công việc kinh doanh của mình hay không. Hãy xem xét về một ví dụ “ bánh do-nut cũ”, một hành
động “trà trộn” dường như không mấy quan trọng. Vào cuối ngày, bạn vẫn còn cả tá bánh do-nut ế. Và bạn quyết định giữ lại,
hôm sau, bạn đặt chúng chung với đám bánh do-nut mới. Thay vì làm vậy, nếu bánh của bạn không bị hỏng, bạn có thể ghi một
tấm biển nhỏ “DO-NUT HÔM QUA” và bán rẻ hơn giá bình thường, có lẽ bạn sẽ bán được hết và không cần mạo hiểm cả cửa
hàng của bạn. Khách hàng sẽ không có bất cứ phàn nàn nào, bởi họ đã biết rõ đó là “DO-NUT HÔM QUA”. Nếu bạn đặt chúng
chung với bánh của hôm nay và làm như không có gì xảy ra, bạn có thể kiếm nhiều hơn một đô la đấy. Nhưng nếu vị khách mua
nó nói với gia đình của họ, “Không hiểu sao, bánh hôm nay có gì đó không ổn”. Và gia đình đó thất vọng, vì chiếc bánh bất
thường đó. Thế là bạn đã mất uy tín với một gia đình- cho một chiếc bánh. Và đương nhiên, gia đình đó còn có bạn bè, họ hàng.

Đừng bao giờ đi bất cứ con đường tắt nào có thể hạ thấp uy tín của bạn. Bạn chỉ cần giả định rằng nếu khách hàng biết những
gì đang xảy ra, bạn sẽ biết cách phải làm đúng. Trên thực tế, thường thì khách hàng chỉ “nghi”, chứ họ không thể nói chính xác
đó là gì. Bạn hợp lý hoá cho hành động coi thường chất lượng sản phẩm bán ra bằng câu “không biết không ảnh hưởng”. Điều
đó đúng. “Không biết không ảnh hưởng”. Nhưng còn bạn, bạn chắc chắn sẽ bị ảnh hưởng! Còn đối với những người khách kia,
họ không biết nó một cách có ý thức, nhưng trong vô thức thì có. Và đó là sự thật, bất kể trong khía cạnh nào của cuộc sống
cũng thế.

BƯỚC 6: ĐÁNG TIN CẬY

Hãy trang bị độ tin cậy và tính nhất quán.

Một trong những yếu tố quan trọng nhất của thành công là mọi người biết rằng họ có thể tin tưởng vào bạn theo nhiều cách khác
nhau. Một điều đơn giản như thay đổi giờ hoạt động- ví dụ như đóng cửa sớm cũng có thể đánh mất khách hàng. Họ xem trọng
sự tiện lợi, và nếu được, hãy tôn trọng thời gian của họ. Khi bạn ở vào một cấp độ có sự Chính trực trên Sơ đồ ý thức, bạn sẽ
muốn quan tâm đến hạnh phúc của người khác. Chẳng hạn, cấp độ Sẵn lòng ( 310), mục đích của bạn sẽ là trở nên đáng tin
cậy và thân thiện trong cách dịch vụ khách hàng. Bạn đặt mình vào vị trí của họ và làm tất cả những gì có thể để khiến trải
nghiệm của họ tuyệt vời hơn, thuận tiện hơn.

Điều quan trọng là nên tránh bớt các sự cố vặt vãnh: máy trả lời tự động không hoạt động, nhân viên không lịch sự, chỉ có một
nhân viên thu ngân tính tiền cho một hàng dài khách đang xếp hàng, tấm biển bẩn ở quầy ăn, hoặc những tín hiệu ĐUỔI KHÁCH.
Hỏi bản thân của bạn, doanh nghiệp của tôi có sẵn lòng cung cấp những dịch vụ cần thiết cho thế giới không? Nhiều doanh
nghiệp đóng cửa chỉ vì họ hoạt động vào những ngày làm việc và nghỉ lúc 5 giờ chiều. Khi tư vấn cho các bác sĩ mới ra hành
nghề ở phòng khám riêng, tôi luôn nói với họ, “Hãy tính một mức phí hợp lý và làm việc cả buổi tối và thứ bảy”. Sự tiện lợi đáng
giá bao nhiêu đối với một người? Câu trả lời là: rất nhiều.

BƯỚC 7: CHÂN THIỆN MỸ

Hãy nhớ rằng chỉ có một khách hàng duy nhất, đó là thiện tính tự nhiên của con người.

Bạn sẽ không mắc sai lầm nếu bạn ghi nhớ một quy tắc cơ bản, rằng bạn chỉ có một khách hàng để phục vụ, một khách hàng
bạn cần làm hài lòng, và tên của vị khách ấy là bản chất tự nhiên của con người. Bất kể họ có lớp da màu gì đi nữa, chỉ có một
vị khách duy nhất bên trong tất cả mọi người. Rất dễ để hiểu khách hàng của bạn. Chỉ cần tự hỏi bản thân, bạn muốn tìm kiếm

69
phẩm chất gì trong một sản phẩm, trong một dịch vụ. Chú ý từ phẩm chất. Bạn sẽ không thể bán được xu nào cho họ nếu sản
phẩm đó không có phẩm chất mà họ tìm kiếm.

Trong lĩnh vực này, bạn phải quan sát xu hướng thích đi lang thang của tâm trí, và yếu điểm trong tính cách của con người. Nếu
bạn phục vụ cho những gì thuộc về tiêu cực, bạn có thể kiếm lời, doanh nghiệp của bạn có thể sinh tồn; nhưng bạn sẽ không
thể thành công. Đừng thông đồng với những gì sai lầm, lệch lạc và tự cho mình là “kẻ khôn lỏi”, thực tế là bạn không bao giờ có
thể đánh lừa được vũ trụ. Không bao giờ. Vì theo khoa học động lực học, kể cả khi mọi người không có kiến thức về các sự
kiện, thì bài kiểm tra của chúng tôi vẫn chứng minh được rằng, khi một người tập trung vào một điều không có tính chân thật, họ
sẽ bị yếu đi. Mọi thứ trong vũ trụ này đều được kết nối với nhau, lần đầu tiên nghe được sự thật này, chúng ta sẽ hơi hoang
mang một chút, nhưng đó là một sự hoang mang có tính trị liệu. Nếu ai đó có ý tưởng sản xuất một món đồ chơi mổ bụng búp
bê chẳng hạn, những người quái lạ sẽ mua nó, có thể là rất nhiều người, nó được bán kèm cùng dao mổ hari- kari, nó có ruột
như thật, có cả tiếng la hét, và có thể rỉ máu.

Bạn có thể thu lợi từ việc kinh doanh này. Tuy nhiên, cái giá phải trả cho những thị hiếu ngông cuồng như thế này là rất lớn. Bản
thân bạn có thể không nhận thức được, nhưng những người khác thì biết rất rõ. Những gì chúng ta vừa ví dụ không thuộc về
bản chất con người, nó là phi nhân tính. Chúng ta tự huyễn hoặc bản thân rằng, mặc dù chúng ta đang làm và có những dịch vụ
mang trường năng lượng yếu, tiêu cực, nhưng bản thân chúng ta sẽ không như thế. Không đâu, nó có đấy. Vì nó lây nhiễm.

Những người vi phạm lễ giáo của con người và có vẻ đang thu lợi từ đó có thể trông ổn trong một thời gian ngắn. Tuy nhiên, khi
chúng tôi nghiên cứu chi tiết cuộc sống của họ theo chiều dọc, có một sự tàn phá khủng khiếp, điều này cũng dễ hiểu. Chúng ta
sẽ chinh phục một thứ bằng cách chống lại nó chứ? Không đâu. Cách chúng ta chinh phục nó là phát triển và rời xa nó. Nếu có
điều gì đó trong cuộc sống của chúng ta rõ ràng là phản-sự sống, chưa trưởng thành, hời hợt, thì đó là những sự phù phiếm trá
hình. Khi phát hiện ra những gì chúng ta làm không có tình yêu, tính thiện trong đó, có phải chúng ta nên cảm thấy tội lỗi, hoặc
trừng phạt bản thân, hoặc trở thành người cải tạo không? Không! Giải pháp là sự trưởng thành và khôn ngoan. Ý thức của
chúng ta phát triển vượt lên khi chúng ta không còn là nô lệ cho nó, hoặc tìm cách chống lại nó nữa. Khi loài người bắt đầu có
nhiều nhận thức hơn, họ thấy săn vịt không còn hấp dẫn nữa, họ chuyển sang săn chim trời. Họ bắt đầu có hứng thú với những
con chim bay theo đội hình chữ V và những con ngỗng đang cố di cư về phía nam để sinh tồn và phát triển thành một bầy mới
vào năm tới.

Có một lần, tôi đến thăm một thị trấn nhỏ, và trò chuyện cùng một người bán hàng ở địa phương. “Mọi người đi đâu cả rồi?”

“À, hôm nay là ngày khai mạc cho mùa sóc mà”. Rõ ràng là tất cả những người đàn ông của thị trấn đã hết động vật hoang dã
để săn giết: nào là gấu, sư tử núi, nai sừng tấm, cừu, hươu, nai javelina, nhím, hải ly, cáo, trâu, thiên nga, vịt, bồ câu, chim, và
bất kỳ con động vật nào. Và giờ thì họ nhắm đến cả sóc. Tôi không thể hiểu nổi, đem một khẩu súng trường hoặc súng ngắn vô
cùng lợi hại để gây ra nỗi đe doạ khủng khiếp với một chú sóc nhỏ bé thì có ý nghĩa gì? Hoạt động săn bắn chim bồ câu, sóc có
mức định chỉnh 65. Cái giá phải trả cho những kẻ thích đoạt mạng sống của những loài khác để kiếm tiền hoặc thoả mãn cảm
giác hồi hộp nhất thời là bao nhiêu? Và cái giá phải trả cho những người mang đến những dịch vụ tiêu cực là bao nhiêu? Theo
sự nghiên cứu của chúng tôi, về mặt dài hạn, cái giá phải trả của những người này là khổng lồ. Họ không có sức mạnh cá nhân
và từ trường năng lượng thực sự. Họ không có khả năng để thay đổi hoàn cảnh, ngoại trừ việc buộc phải sống trong những gì
mà họ có.

Những người có sức mạnh nội tại riêng mới có khả năng thay đổi hoàn cảnh của họ, chỉ bằng sự hiện diện của họ. Chỉ riêng
việc đó đã tạo nên sự khác biệt. Khi bạn đã sở hữu sức mạnh bên trong, nó không phải vấn đề bạn có gì hay bạn làm gì, mà là
Bạn là ai. Bạn trở thành người như thế nào. Sức mạnh là sự vĩ đại. Sự vĩ đại là tầm vóc. Tầm vóc là sự hiện diện. Sự hiện diện
đó chính là ABC mà bạn sở hữu nội tại. Nó không thể mua, không thể kiếm tìm. Nó truyền cảm hứng cho những người khác,
những người đến với bạn để trải nghiệm những gì tốt nhất bên trong bản thân họ dựa vào sự hiện diện này của bạn, bởi nó
chứng nhận cho sự cao quý bên trong của họ, và nuôi dưỡng tiềm năng ẩn chứa của họ. Thế giới thừa nhận sự hiện diện của
sức mạnh nội tại này chỉ vì “nó là nó”.

Nelson Mandela là một ví dụ tuyệt vời. Ông xuất phát từ một ABC quan tâm đến tất cả người dân Nam Phi chứ không riêng gì
một nhóm chủng tộc của ông ấy, điều đó đã mang lại một tinh thần đoàn kết đủ mạnh để tháo gỡ, chống lại một hệ thống phân
biệt chủng tộc bất công, vô nhân đạo kéo dài nhiều năm.

BƯỚC 8: PHẨM CHẤT

Chọn ra phẩm tính mà bạn dự định sẽ lấy đó để phục vụ cho người khác, lưu ý rằng những gì bạn phục vụ cho người khác cũng
chính xác là những gì bạn thể hiện ra từ bên trong bản thân.

Bạn phục vụ bằng thứ bạn có từ bên trong. Một chân không thể đạp hai thuyền, bạn không thể trở nên mạnh mẽ nếu bạn phục
vụ cho phẩm chất yếu đuối ở con người, bạn chỉ có sức mạnh khi bạn đi hỗ trợ cho sức mạnh. Bạn năng động lên khi bạn phục
vụ cho sự năng động của người khác. Bạn vĩ đại hơn khi bạn ủng hộ sự vĩ đại của người khác. Bạn xinh đẹp hơn khi bạn khiến
cuộc sống này tươi đẹp. Nếu những gì bạn làm xuất phát từ tấm lòng, bạn không phải lo lắng về chuyện nó có thành công hay
không. Thế giới này luôn yêu thương bạn, trung thành, ủng hộ và tha thứ cho tất cả mọi lỗi lầm của con người.

70
Chúng ta có thể nhìn vào một ví dụ về sự vĩ đại để chứng minh điều này, Mẹ Teresa ( mức định chỉnh 710) là một trong những
câu chuyện thành công lớn trong thời đại của chúng ta. Bà là một người phụ nữ nhỏ bé chỉ nặng có 45 cân, bà không chi tiền
để quảng cáo, không có chiến lược thị trường, không khuyến mãi, không đội ngũ bán hàng, cũng không có nhân viên quảng bá
hình ảnh ở Đại lộ Madison, không có người viết kịch bản. Tuy vậy, tất cả những gì bà làm là vẫy vẫy bàn tay nhỏ bé của bà, và
huy động được hàng triệu đô la. Những đám đông dõi theo bà, những người vượt hàng nghìn dặm đường, đội nắng đội mưa và
đứng chờ trên những đôi chân đau nhức rã rời chỉ để thoáng thấy bà ấy.

Bà ta có phép thuật gì chăng? Bà có phải là một người nổi tiếng không? Hay là người trong lĩnh vực giải trí? Không. Đơn giản
đó là ABC của bà ấy. Mọi người tìm đến bà ấy với hy vọng được nhìn bà ấy, dù là thoáng qua, dù là trong khoảnh khắc, chỉ để
trải nghiệm ABC của bà. Đó là “sự hiện diện của bà”. Không quảng cáo không tiếp thị không quảng bá hình tượng- nhưng có rất
nhiều quyển sách chỉ để viết về bà ấy. Bà có lượng người hâm mộ đông đảo trên toàn thế giới, bà đoạt giải Nobel và được ca
ngợi là một trong những con người vĩ đại nhất của thời đại.

Sự vĩ đại và sức mạnh của Mẹ Teresa nảy sinh bởi bà đề cập đến những phẩm chất cao quý nhất bên trong một người- bà có
tình yêu thương vô điều kiện và một lòng từ bi không phán xét. Bà có một trái tim nhân hậu bao la, dưới một thân hình gầy gò,
nhăn nhó, khom gù và không giàu có hay xa hoa gì. Thế nhưng, những người muốn tham gia cùng hoạt động với bà là một danh
sách rất dài. Trên thực tế, một người phải trải qua tám năm thử thách để kiểm tra xem họ làm việc có đủ chăm chỉ và đủ tiêu
chuẩn để gia nhập tổ chức của bà ấy hay không.

Rõ ràng, đẳng cấp của bà ấy là một thủ lĩnh tinh thần. Bởi bà vượt trội hơn hết thảy mọi người. Bà ấy làm điều này như thế nào?
Từ thiện nhiều? Trên thế giới có rất nhiều người làm từ thiện. Theo chủ nghĩa cao đẹp chăng? Rất nhiều người làm điều đó
chuyên nghiệp hơn bà ấy nhiều. Bởi những người đi theo bà ấy rất giỏi à? Không, những người đó đâu có đoạt giải Nobel. Hay
là bởi bà ấy vô cùng tử tế? Thế giới cũng có nhiều người tử tế mà. Thế tại sao bà ấy lại nổi bật hơn tất cả những người khác?
Đó là bởi sự liên kết, cam kết, cống hiến, hy sinh cá nhân, tất cả những điều đó của bà ấy chỉ có thể được gói gọn trong hai chữ
tận lực. Khi ai đó cống hiến cuộc đời của họ để thực hiện nguyên tắc của chân lý phổ quát, họ sẽ trở nên có lực hút. Họ phát
triển được sức mạnh của trường hấp dẫn. Những gì họ có và những gì họ làm chỉ là thứ yếu so với việc họ là ai. Đó là phẩm
chất mà thế giới công nhận và mang lại thứ chúng ta hay gọi là “sự thành công của họ”.

Có phải vì Mẹ Teresa đã thừa nhận những phẩm tính tốt của người khác nên thông qua đó, chúng ta nhận ra được những phẩm
tính tốt này từ chính bản thân bà? Khi bà giúp đỡ cho những người nghèo khổ, những người bị bệnh và hấp hối trên phố Kolkata,
bà ấy có cố cứu họ thoát chết không? Bà ấy có cố gây quỹ cho người nghèo không? Không. Những gì bà ấy phục vụ và thừa
nhận là chân lý nội tại về phẩm hạnh, giá trị, sự cao quý, tình thương và sự vĩ đại. Những phẩm chất đó đều là bản tính tự nhiên
của mỗi người, dù cho hoàn cảnh hay cuộc sống bên ngoài của họ có khó khăn đến đâu.

Bà sở hữu và thừa nhận cho họ những gì họ không sở hữu. Và vì thế, bà trở thành tấm gương cho họ. Nhìn thấy bà là họ nhìn
thấy được sự phản chiếu của những gì họ phủ nhận chính họ- sự vĩ đại của việc được tồn tại. Ngay cả những người thấp kém
nhất trong số những người thấp kém cũng xứng đáng nhận được sự tôn trọng trong việc công nhận phẩm hạnh nội tại của con
người. Việc chia sẻ những trải nghiệm sẽ giúp con người biến đổi. Họ nhìn được những điều này bên trong mình, họ chứng kiến
được nó, họ biết ra được chân lý về nó, bởi họ nhìn thấy hình ảnh phản chiếu của nó trong đôi mắt của Mẹ Teresa, họ chết với
một nụ cười trên khuôn mặt, trong trạng thái hạnh phúc. Đó là sức mạnh thực sự.

BƯỚC 9: CHIA SẺ

Nhận ra được rằng cách để thành công là cùng chia sẻ nó với những người khác.

Nếu bạn không chia sẻ sự thành công của bạn với người khác, bạn đã tước đi động cơ của họ trong việc hỗ trợ cho sự thành
công của bạn. Bằng việc thừa nhận, bạn đã công nhận tầm quan trọng cho những đóng góp của người khác trong sự thành
công của bạn, tất cả họ sẽ cùng bạn ủng hộ nó và ăn mừng cho điều đó. Cách để tạo ra một kẻ thù truyền kiếp là nhờ ai đó giúp
đỡ cuộc sống của bạn và sau đó chối bỏ điều đó. Có nhiều người làm điều này với vợ hoặc chồng của họ, họ không thừa nhận
phần cảm hứng và những nỗ lực của người kia trong thành tựu của họ.

Nhiều doanh nghiệp gặp vấn đề, chỉ bởi chủ sở hữu từ chối chia sẻ thành công với nhân viên của họ, và càng ít hơn với các
khách hàng của họ theo bất kỳ cách nào. Các nhân viên được trả lương theo giờ, được thuê bởi một công ty tuyển người xa
xăm chẳng ai biết. Hẳn ai trong số chúng ta cũng đều có cảm nhận này. Họ không thể nào ít quan tâm chúng ta hơn được nữa,
bởi dù họ có khiến chúng ta bất ngờ đến té ngửa như thế nào đi nữa, số tiền họ kiếm được là như nhau, và họ biết như vậy.
Chẳng có gì gọi là động lực hay nỗ lực. Thế mạnh, phẩm chất cá nhân của người lao động bị bỏ qua. Và thế là những người
này biến thành những nhân viên máy móc, đơ đơ, làm việc trong sự cơ học. Những công ty thực phẩm máy móc có những nhân
viên máy móc làm ra những sản phẩm máy móc mờ nhạt. Những sản phẩm như vậy tuy có rẻ, nhưng thực ra là đắt so với tiền
mà chúng ta bỏ ra để nhận về giá trị không tương xứng.

71
Các chuyên gia năng suất và máy móc đã thực sự thành công trong việc khử đi nhân tính của một người trong một ngày cho
toàn bộ các trải nghiệm.

Ngược lại, khi tôi đi vào một siêu thị địa phương, tôi thấy những nhân viên tươi cười từ năm này qua năm khác. Khách hàng
đứng nói chuyện vui vẻ với thu ngân trong lúc tính tiền. Những người lớn tuổi đang ngồi ở mấy chiếc bàn đằng trước tán gẫu và
tụ tập vào buổi chiều. Trên quầy của người quản lý là tấm biển treo thưởng. Thật bất ngờ về nội dung treo thưởng. Phần thưởng
hàng năm dành cho “Gia đình thân thiện”. Nó không chỉ công nhận cá nhân, nó công nhận một gia đình. Nó xác nhận có nhiều
người cùng tham gia vào một sự thể hiện. Không có giải thưởng dành cho nhân viên có doanh số bán hàng cao nhất, mà là
dành cho những con người thân thiện nhất. Thật tuyệt vời, phải không?

Mất bao lâu để có thành công? Câu trả lời là: chỉ một giây. Giây phút bạn quyết định “đi theo” nguyên tắc cụ thể, bạn đã có sự
thành công. Thành công là của bạn và thuộc về bên trong bạn, nó không phải việc nhận được từ đâu đó “ngoài kia”. Nó không
phải những gì bạn có. Thậm chí cũng không phải những gì bạn làm. Hoạt động làm việc thật ra là một sự cộng thêm. Đó là chính
bạn, bạn là thành công. Tất cả là việc bạn quyết định đi theo một con đường nhất định. Bạn không cần phải là thạc sĩ, kỹ sư,
tham dự diễn đàn, hội thảo, hội nghị.

Chỉ cần bạn quyết định đi theo một nguyên tắc nhất định, bạn trở thành một ý nghĩa mới và quan trọng đối với những người
khác. Những gì bạn làm hay những gì bạn nói không giúp mang lại sự thu hút, mà chính là “sự hiện diện” của bạn. Cho dù bạn
có ở trong cuộc sống của người khác hay không, bạn cũng đã tạo ra sự khác biệt đối với họ. Cho dù bạn có đến tham dự buổi
tiệc đó hay không, bạn cũng tạo ra sự khác biệt mà họ tự cảm nhận được. Mọi người bắt đầu hành động như thể quen biết bạn
là một vinh dự. Những phẩm chất tích cực của con người rất dễ lây lan. Điều tạo nên thành công chính là vận hành một nguyên
tắc liên tục suốt 24 giờ, ngay cả khi bạn không thể hiện ra, hay có ý thức về nó. Tại những thời điểm đó, không phải là bạn đang
cố tiến lên những cấp độ cao hơn trên Sơ đồ ý thức, mà là bạn đang sống trong trường năng lượng đó.

BƯỚC 10: TỬ TẾ

Nhận ra được rằng cuộc sống là một vòng phản hồi.

Cuộc sống là vòng phản hồi của bạn. Bạn sẽ củng cố cho mình điều giống hệt với cái mà bạn đang củng cố ở người khác. Thực
tế lâm sàng này có ý nghĩa rất to lớn. Do đó, có thể đúc kết chắc nịch là bạn sẽ làm tốt việc của mình khi không ngừng ủng hộ
điều tích cực từ người khác.

Chúng ta hay nói ai đó tiêu cực, hoặc tích cực, như thể đó là những chuyện tình cờ. Nhưng không, nó không phải chuyện tình
cờ. Đó là minh chứng dễ dàng quan sát được của thực tế lâm sàng mà tôi vừa đề cập. Nếu lắng nghe cuộc trò chuyện của một
số người, chúng ta sẽ thấy, có những người thích tham gia vào những câu chuyện phiếm tiêu cực, họ mô tả tất cả những sự
thật tiêu cực mà họ có thể biết về cuộc sống của người khác, hoặc về các sự kiện trên thế giới. Nhưng những gì họ không nhận
ra là họ đang củng cố những điều tương tự trong chính họ.

Khi tôi còn rất nhỏ, bà của tôi, một người thường được mọi người xung quanh miêu tả là thánh thiện, thường nói, “Nếu không
nói được điều gì tốt về người khác, thì đừng nói”. Tôi đã suy ngẫm về câu này trong nhiều năm. Chỉ sau khi trở thành một bác
sĩ tâm lý và có kinh nghiệm khám chữa bệnh, tôi mới nhìn thấy được hệ quả của nguyên tắc này trong quá trình làm việc và bắt
đầu hiểu ý của bà.

Và đây là nguyên tắc tiếp theo: Hỗ trợ thành công của người khác bằng những cách bạn có thể làm dù là nhỏ nhất. Nó có nghĩa
là bạn công nhận, thừa nhận sự thành công của họ, bởi nó có xu hướng củng cố những gì tích cực, không chỉ cho họ mà còn
cho cả bạn. Đó không phải là việc tâng bốc một cách lôi cuốn, mà là sự đánh giá thật sự đối với những khía cạnh tích cực của
những người mà bạn gặp, bao gồm những nhân viên, người quản lý, đồng nghiệp, gia đình, bạn bè, khách hàng, những người
quen thân hay quen sơ. Hành động này là một cách đào tạo dạy bạn biết tìm kiếm những điều tích cực.

Phương pháp này đưa bạn đến thái độ “cho đi” hơn là “nhận vào”. Những người xung quanh chúng ta phản ứng vô thức trong
những thái độ đa dạng. Họ biết, có thể là vô thức hoặc có ý thức khi có ai đó bên ngoài “lấy đi” thứ gì từ họ. Họ đề phòng, cảnh
giác, và cưỡng lại. Bởi đến động vật còn có khả năng này, thì không lý nào con người, loài tiến hoá hơn rất nhiều lại không thể.

Nhiều người chống lại thái độ cho đi, bởi họ có một phương trình, “cho đi nghĩa là mất luôn”. Họ không hiểu về cơ chế phản hồi;
do đó, họ không cố gắng đủ lâu để phát hiện ra rằng chúng ta luôn nhận lại nhiều hơn những gì chúng ta cho đi. Thành công có
xu hướng tự khuếch đại chính nó. Giống như một quả cầu tuyết theo động lượng học tự thu thập và tăng kích thước khi nó trơn
tru lao xuống dốc. Mỗi lần bạn tạo được sự thiện cảm với người khác, họ sẽ thấy biết ơn và phát triển thái độ tích cực dành cho
bạn, và nó sẽ làm thay đổi hoàn toàn cuộc sống tự nhiên của bạn.

Chúng ta thường nói cuộc sống của một số người sao mà hấp dẫn đến vậy, mà quên một chuyện là họ đã gặp trở ngại gì để có
được sự quyến rũ đó. Nó là thái độ từ bên trong. Không phải việc sống cơ hội, lôi kéo, hoặc tư lợi. Họ không cố thu hút chúng
ta để lấy đi từ chúng ta thứ gì. Thay vào đó, nó là bản chất của họ.

72
Để hiểu được phẩm chất này, đừng bao giờ có thái độ “làm ơn làm phúc” cho người khác. Vì sao ư? Bởi “làm ơn” là một sự
thao túng. Một giao kèo hời hòng đổi lại thứ gì đó khác. Nếu sau khi làm điều gì đó cho ai, bạn thấy người đó bị gánh nặng về
nghĩa vụ, nghĩa là toàn bộ chuyện này đã sai. Cho đi, là không mong nhận lại.

Tuyên bố thứ hai này cũng có tầm quan trọng không kém. Chúng ta sẽ dễ dàng nhận thấy rằng, điều mà hầu hết mọi người
đang thật sự cố gắng làm là mua chuộc sự chấp thuận của người khác hoặc thao túng họ biến thành một con nợ. “Tôi đã làm
điều này cho bạn; bây giờ bạn làm điều đó cho tôi đi”. Vị thế thao túng, đánh đổi, thương lượng này kết thúc bằng một sự phẫn
uất đến mức chúng ta thường nghe rằng “Sau tất cả những gì tôi đã làm cho anh…” Có ai muốn được làm răng miễn phí nếu
biết rằng bạn phải chăm cho chú cún của vị nha sĩ đó khi ông ta đi vắng hay không?

Khi thực sự làm gì đó cho người khác, đừng mong đợi nhận lại dưới bất kỳ hình thức nào, kể cả việc công nhận nó. Bạn làm
điều đó, vì bạn quan tâm họ, vì bạn muốn đóng góp cho chất lượng cuộc sống của họ. Đây là một bí mật mà chúng ta chỉ đạt
được thông qua sự hiểu biết sâu sắc bên trong rằng, khi chúng ta hỗ trợ cuộc sống, cuộc sống sẽ hỗ trợ lại chúng ta. Đúng là
điều này nghe có vẻ triết lý, nhưng nó là sự thật, một sự thật mà chúng ta sẽ đạt được thông qua quan sát và trải nghiệm nội
tâm.

THỰC HÀNH SỰ THÀNH CÔNG MỖI NGÀY

Phép thực hành đơn giản để có được những nhận thức này dành cho bất kỳ ai quan tâm đến sự thành công đó là: khi tham gia
giao thông, hãy nhường đường cho bất kỳ chiếc xe nào muốn cắt ngang đầu xe của bạn. Có phải nghe có chút điên rồ không?
Nhưng phép thực hành này mang lại loại sức mạnh tiềm ẩn từ bên trong, một bí mật để trở thành người thành công. Khi thực
hành kỹ thuật này, sau cùng, bạn sẽ khám phá ra niềm vui khi trở thành một người lịch sự. Có nghĩa là gì? Đơn giản là hỗ trợ
cho cuộc sống và hạnh phúc của người khác. Bạn sẽ chuyển từ sự hài lòng ngắn ngủi của việc ngăn được người khác cắt ngang
đầu xe của bạn, sang một loại nhận thức nội tâm, mang tính dài hạn của việc hỗ trợ được cho người khác.

Nhường đường cho người khác khiến bạn thấy bản thân mình hào hiệp hơn, sẽ có những người vẫy tay để cảm ơn bạn. Cuộc
sống của bạn được lấp đầy bởi những lời cảm ơn, bằng lòng tốt, sự tử tế và một kết quả đôi bên cùng có lợi, đó là những nguyên
tắc giúp cuộc sống của bạn vững vàng.

Phép thực hành tiếp theo là, Hãy luôn trồng một cây gì đó trong nhà, khu vườn, văn phòng hoặc căn hộ của bạn. Nó có thể là
chậu cà chua bên cửa sổ, những chậu cảnh, xương rồng, hoặc bất cứ thứ gì mà người ta hay thích. Nó là thứ mà bạn có trách
nhiệm cá nhân, ngay cả khi chỉ đơn giản là việc tưới những cái cây phong lữ bên khung cửa.

Bạn biết Nelson Mandela, thậm chí khi ở trong tù, ông cũng trồng cà chua trong những cái thùng bỏ đi và trao thành quả lao
động của mình cho những người quản ngục và gia đình của họ.

LIÊN KẾT VỚI ĐỊNH HƯỚNG CỦA BẠN

Năng lực thành công có trong tất cả mọi người. Ai trong số chúng ta cũng có thể khiến người khác thấy hài lòng về bản thân họ.
Khi khiến người khác thấy hài lòng về bản thân họ, chúng ta cũng bắt đầu hài lòng về bản thân chúng ta. Điều đó giúp dịch
chuyển và hướng chiếc la bàn của chúng ta đi theo hướng ngày càng tích cực, trong đó, thành công chỉ là sản phẩm phụ hiển
nhiên của việc chúng ta đã trở thành người như thế nào.

Nghiên cứu cao cấp đã chứng minh rằng, tất cả diễn biến trong vũ trụ đều có một mô hình và nguyên tắc tổ chức rõ ràng. Trên
thực tế, nếu không nhờ các nguyên tắc tổ chức, thì không một vũ trụ nào có thể tồn tại được. Các hình mẫu nguyên tắc tổ chức
khác nhau có các mức độ sức mạnh khác nhau. Và đó chính là một trong những bí quyết thành công của những người quyền
lực. Toàn bộ cuộc sống của họ được tổ chức một cách tự động và dễ dàng bởi sự liên kết vừa vặn và toàn diện, cũng như sự
cam kết với những nguyên tắc cao và mạnh mẽ. Đây là cách mà Mahatma Gandhi đã đánh bại Đế quốc Anh.

Sức mạnh đến từ việc phù hợp được với những mẫu thức hấp dẫn chủ đạo có tính chất hỗ trợ sự sống. Chúng tôi nhìn thấy
định hướng này trong sự duyên dáng, lịch thiệp của những người thành công thật sự. Họ mong muốn làm cho người khác thấy
thoải mái, và hỗ trợ sự thoải mái, hạnh phúc đó. Ngay cả sự vụng về, ngây thơ của họ cũng là được thực hiện trong một bối
cảnh có tính tổng thể của sự duyên dáng. Trong vô thức, họ vẫn biết lúng túng theo một cách duyên dáng nhất. Sự lúng túng có
tính tuyệt đối đó là điều khiến người khác thấy thoải mái. Chúng ta thử nhớ lại, đã bao lâu rồi kể từ lần cuối cùng chúng ta đột
nhiên giả vờ quên điều gì đó, hoặc vờ bối rối, và mục đích là để khiến người khác thấy thoải mái? Đó là một bối cảnh tốt để
chúng ta muốn làm như vậy, bởi mục đích là mang lại một sự ân sủng phù hợp cho nhu cầu của người khác một cách đúng chỗ,
đúng thời điểm.

Thành công không phải là chúng ta có gì, hay làm được gì. Nó là hệ quả tự động của việc chúng ta đã trở thành người như thế
nào. Cuộc sống của chúng ta và những thành tựu mà chúng ta có trong thế giới này đơn thuần là kết quả của con người thật sự
bên trong của chúng ta và những nguyên tắc mà chúng ta quyết định phụng sự cho nó. Chân lý này giúp cho công việc của
chúng ta được vận hành suôn sẻ hơn. Khi lái một con tàu, nếu chúng ta chỉ chệch một độ trên la bàn, thì sau vài ngày, chúng ta

73
sẽ cách xa nơi chúng ta dự định đến hàng trăm dặm; do đó, chỉ một chút thay đổi thái độ trong nội tâm cũng có thể gây ra một
hệ quả to lớn trong cuộc sống. Có lẽ không ai hiểu rõ điều này hơn những người sau cai nghiện, chẳng hạn nghiện rượu.

CHƯƠNG SÁU

CÁCH THOÁT KHỎI CHỨNG NGHIỆN

Khi chúng ta nghiện, không phải vì nghiện chất đó, mà vì cảm giác về Chân ngã của chúng ta mà thứ đó mang lại được, đó là
trạng thái bình an nội tâm và yêu cuộc sống.

Bộ phim kinh điển Lost Horizon đã cho thấy hành trình thức tỉnh này, nhằm đạt đến một mức độ ý thức cao hơn và có động lực
thúc đẩy đi tiếp mặc cho hoàn cảnh có thế nào đi nữa. Ronald Coleman vào vai người anh hùng Robert Conway, nhân vật sống
sót sau một vụ tai nạn máy bay ở dãy Himalaya và đã ở lại thung lũng xinh đẹp Shangri La (trong trạng thái vượt lên thời gian
và có tình yêu vô điều kiện mức 600). Khi quay trở lại cuộc sống thường nhật ở Anh (khoảng mức 200), Conway trải nghiệm sự
thành công, nhưng không thể tìm thấy bất kỳ sự hài lòng nào như kiểu bình yên sâu sắc mà anh ấy đã có ở Shangri La. Điều đó
tạo ra mong muốn được quay trở lại trạng thái ý thức đó bằng bất cứ giá nào. Anh ta mạo hiểm cả mạng sống để tìm ra cánh
cổng quay trở lại Shangri La (bộ phim miêu tả nó là một nơi, nhưng chúng ta biết nó thực ra là một trạng thái ý thức nằm bên
trong).

Đây là lý do tại sao bia rượu, ma tuý, hoặc bất cứ thứ gì mà ai trong số chúng ta tìm ra chúng như một cách để “cảm thấy tốt
hơn”. Bởi chúng ta đang cố chuyển mức độ ý thức của mình từ thấp lên cao. Khi chúng ta bị tê liệt bởi trường Sợ hãi ( mức
100), đó là một khám phá tuyệt vời rằng chúng ta có thể uống một viên thuốc hoặc một ly rượu và ngay lập tức có được trải
nghiệm Vui vẻ bên trong (mức 540), có được hạnh phúc, sự tự do nội tại, thậm chí cảm thấy cuộc sống này như một bữa tiệc
vui vẻ. Khi làm bất cứ điều gì nhằm “vươn lên”, chúng ta chỉ đơn giản là đang đi tìm cánh cổng để dẫn đến Shangri La bên trong.

SỰ THẬT VỀ NGHIỆN

Nếu chúng ta thành thật về những gì chúng ta muốn trải nghiệm, thì đó sẽ là gì? Nó không phải chất đó, hay bất cứ thứ gì bên
ngoài. Mà là những cơ chế tạm thời ngăn chặn những cảm xúc thấp để cho phép chúng ta trải nghiệm Bản ngã bậc cao tự nhiên
của chính mình, đó mới là cái chúng ta thực sự theo đuổi. Trên thực tế, ai cũng trải qua cả ngày chỉ để đi tìm kiếm niềm vui,
hoặc ít nhất là cách để thay đổi trạng thái ý thức bên trong của họ. Ma tuý, rượu, là những cách nhanh chóng. Chỉ vài giây,
chúng ta đã có thể ở trong trạng thái êm dịu và hạnh phúc. Thời gian đầu, cách này hiệu quả. Chứ nếu không, sẽ chẳng có ai bị
nghiện. Nhưng, sự nhẹ nhõm đó chỉ trong chốc lát, hoặc lâu hơn chốc lát một chút. Chúng ta hoạt động là dựa vào bộ nhớ, vì
thế phải mất một lúc để nhận ra việc đó “không phải cánh cổng thật sự”. Nhưng theo thời gian, bởi vì đó là một trải nghiệm hạnh
phúc, dù được tạo ra một cách giả tạo, nó tạo ra một kiểu mắc nợ công bằng và phản tác dụng. Vũ trụ biết rõ những kiểu bịp
bợm. Những cơn vã thuốc, đau đớn, khó chịu, bồn chồn chỉ đơn thuần là được trì hoãn bằng chất gây nghiện, chứ không được
giải quyết triệt để. Sự lo lắng, đau buồn, hay oán giận chỉ được giải toả- trong giây lát, và rồi nó lại đến tính sổ với chúng ta rất
mau sau đó. Sử dụng các phương thức nhân tạo để vượt lên trên Sơ đồ ý thức không phải cách. Chỉ có can đảm đối mặt với
những cảm giác khó chịu đó và vượt qua nó. Khi đã vượt qua được, trường năng lượng đó của chúng ta có tầng sóng giúp cho
những người khác cũng có khao khát muốn thoát ra.

Và đây là điều cốt yếu: Đừng bao giờ xấu hổ vì mong muốn tìm kiếm trạng thái ý thức cao hơn đó, và cũng đừng xấu hổ vì những
phương thức đã được sử dụng để trải nghiệm nó. Mục tiêu mà chúng ta đang tìm kiếm thông qua rượu hay ma tuý không có gì
đáng xấu hổ. Toàn bộ thế giới tâm linh đều đang đi tìm trạng thái ý thức cao hơn. Đó là khát vọng lớn nhất mà chúng ta có thể
đạt được- để trải nghiệm bản ngã cao hơn trong những cấp độ cao nhất của ý thức- và theo một số tôn giáo- thậm chí chúng ta
phải mất nhiều kiếp để đạt được điều này, đó là sự thức tỉnh tinh thần để vượt thắng thế giới vật chất.

Nghiện, là một con đường tìm kiếm sự thức tỉnh về mặt tinh thần. Đối với những người khác, nó có những biểu hiện bất lực kiểu
khác, khi một người bị mất con, mất người thân, hoặc được chẩn đoán ở vào giai đoạn cuối của một căn bệnh, họ sẽ bị chìm
vào hố sâu tuyệt vọng. Bản ngã bậc cao rất thông minh, nó sẽ ném chúng ta vào một vách đá phù hợp một cách chính xác để
vực chúng ta dậy, cho chúng ta được thức tỉnh. Từ tuyệt vọng, chúng ta sẽ đến đầu hàng, buông bỏ, rồi sau đó mới có sự khiêm
tốn. Lúc đó chúng ta mới có thể quay trở lại trạng thái cao- một trạng thái mà chúng ta tưởng mình đã đánh mất vĩnh viễn. Chỉ
là bây giờ không còn sự tham gia của ma tuý, của rượu nữa, vì thế nó có sự ổn định, và giải thoát. Bản ngã sẽ suy yếu khi chúng
ta chịu ngồi xuống thiền, hoặc cầu nguyện ( dù bạn là người vô thần, điều đó không có gì khác biệt), và hãy nguyện cho một sự
thay đổi sáng lạn hơn, nó thật sự sẽ xảy ra. Khi chúng ta chạm đáy, bản ngã bị lung lay, nó sẽ có trạng thái giống như chúng ta
phải nhờ đến rượu, hay ma tuý, nhưng nó tốt hơn nhiều, vì chúng ta không tìm đến những chất đó nữa, vì thế nó không có tác
dụng phụ. Và chúng ta biết ra, cái mà chúng ta nhờ có rượu, hoặc ma tuý để đi tìm kiếm, thật ra là nằm bên trong. Chỉ cần đừng
vật vã nữa, nó sẽ tự động được hé lộ. Bằng cách loại bỏ những sự tiêu cực, vẻ đẹp của mọi thứ phút chốc đột nhiên sáng rõ.

NHỮNG TRƯỜNG NĂNG LƯỢNG VÀ NGHIỆN

74
Giờ thì chúng ta đã hiểu trải nghiệm của ma tuý và rượu là gì. Trường năng lượng thuộc về sức mạnh có tính hấp dẫn, hạnh
phúc, nó là năng lượng của sự sống, nó giống như ánh mặt trời. Ở những trường năng lượng thấp, nó là trải nghiệm kiểu những
đám mây che lấp đi ánh nắng mặt trời đó. Ma tuý, rượu, ngăn chặn trải nghiệm của những trường năng lượng thấp và cho phép
trải nghiệm ở các trường năng lượng cao. Một khi ngăn được tất cả các trường năng lượng dưới mức 560, chúng ta có thể trải
nghiệm tất cả những gì phía bên trên, gọi là trường năng lượng của Ecstacy- đê mê. Thậm chí, có một loại thuốc kích thích thật
sự có tên là Ecstacy được tạo ra để ngăn lại các trải nghiệm của các trường năng lượng dưới 560. Trong trải nghiệm dùng thuốc
đó, một dược chất đã ngăn chặn các trường thấp và cho phép trải nghiệm nhảy lên trường năng lượng cao mà không bị cản trở.
Vì thế, vào cuối ngày, một người đầy sợ sệt, đau buồn, hối hận và lo lắng dừng lại bên hai ly martini , và anh ấy đột nhiên nhảy
qua khỏi các trường năng lượng thấp, di chuyển lên mức 500, đó chính là cảm giác “lâng lâng êm dịu”.

Êm dịu là một trường năng lượng nơi chúng ta thấy yêu thương mọi người và sẵn sàng tha thứ cho họ. Ở đó, chúng ta hào
phóng và dễ tính, bọn trẻ yêu thích chúng ta khi chúng ta ở trong trường năng lượng đó; chúng ta mua đồ chơi cho con, mua
hoa mua quà cho vợ, cho chồng của chúng ta. Trạng thái năng lượng cao được thấy trong các cơn phê thuốc và rượu, vì chúng
ngăn cản các trải nghiệm sóng thấp. Như tôi đã nói ở trên, đây mới là trải nghiệm gây nghiện, bởi vì một khi đã trải qua, tâm trí
lại muốn quay về tìm kiếm nó.

Khi hỏi một người nghiện rượu hoặc nghiện ma tuý rằng họ đang tìm kiếm điều gì, chúng tôi thấy trước tiên họ đã quen với các
trải nghiệm khi dùng các chất đó, và họ muốn quay trở lại trạng thái đó nhiều lần, bất kể cái giá mà họ phải trả là gì. Và chúng
tôi nhận ra rằng, họ đang tìm kiếm một loại ý thức bên trong. Thực tế họ còn chẳng quan tâm đến loại thuốc đó. Nó chỉ là một
phương tiện cơ học, một cách duy nhất mà họ biết để có thể truy cập vào trạng thái đó, tại thời điểm đó. Nó là cách duy nhất để
họ trải nghiệm được chân ngã của họ, và bởi trạng thái đó lại còn rất vui vẻ và tràn đầy sinh khí. Nếu một loại tân dược nào đó
không giúp họ ngăn chặn các trải nghiệm sóng thấp để họ được hạnh phúc, nó sẽ không còn giá trị đối với họ nữa. Do đó, chúng
ta thấy, thứ họ nghiện không phải ma tuý, thuốc phê pha, hay rượu, mà là trạng thái ý thức cao hơn của chính họ.

Một số lời giải thích về tâm lý của những người mắc hội chứng nghiện đã trình bày rằng, họ nghiện vì họ đang trốn chạy khỏi
trải nghiệm sợ hãi hay trầm cảm, hoặc những cảm xúc tiêu cực khác. Có những loại thuốc tuyệt vời giúp loại bỏ lo lắng hoặc
trầm cảm nhưng không gây nghiện, vì nó không giúp đưa đến trạng thái “nhảy vọt lên cao”. Do vậy, những loại thuốc truyền
thống chính quy này không bị xem là chất gây nghiện, vì chúng ko chặn hết các trường năng lượng thấp để đưa người đó vào
trạng thái trải nghiệm tầng sóng cao.

Chúng ta thấy người nghiện nghiện trường năng lượng bên trong họ, một trạng thái ý thức cao hơn, và có mong muốn quay lại
đó. Người đó sẵn sàng trả giá, bởi tâm trí thúc giục họ tìm kiếm lại trải nghiệm đó. Sự trả giá đó tăng dần theo thời gian, đến sau
cùng, tâm trí ra lệnh cho chính cơ thể của nó, “Nếu cứ uống rượu như thế, bạn sẽ chết chỉ trong vài tuần hay vài tháng nữa”.
Đoán xem người này lúc đó sẽ phản ứng như thế nào? Anh ta đi ra đường, tìm đến hàng rượu, nói với người pha chế, một
người bạn tên Joe của anh ấy, “Biết hôm nay bác sĩ nói gì với tôi không?” Tại thời điểm đó, người pha chế đưa cho anh ấy ly
rượu ưa thích như mọi khi, và anh ta đón lấy nó, không quên nói tạm biệt với cơ thể của anh ta trước khi uống. Đó là cái giá mà
chúng ta phải trả một khi thông qua nghiện để tìm kiếm trạng thái ý thức cao hơn.

Những người nghiện ma tuý hoặc nghiện rượu nào nói rằng chưa có trải nghiệm này là chuyện không thể có. Những người
nghiện- họ sẵn sàng hy sinh mọi thứ để quay trở lại trường năng lượng mà chúng ta gọi là Bình yên, Hạnh phúc- một Shangri la
bên trong. Lost Horizon đã kể cho chúng ta nghe về động cơ của chứng nghiện ngập, nó miêu tả sự bất chấp đánh đổi- kể cả
cuộc sống của họ cho một trạng thái ý thức cao hơn.

TẠI SAO PHẢI CAI NGHIỆN

Nghiện chỉ là một khởi đầu sai lầm để trải nghiệm Sự thật, nhưng nó không thật sự hiệu quả. Vì vậy, lý do để bỏ rượu, ma tuý,
hoặc các chất gây nghiện khác không phải vì nó “sai”, mà vì nó không còn tác dụng với chúng ta nữa. Nó không thật sự hiệu
quả, bởi thông qua ma tuý, rượu, nó làm mất dần lòng tự tôn bên trong, và những bất lợi, những tiêu cực của trường năng lượng
thấp sẽ xuất hiện. Bắt đầu là việc trải qua những nghịch cảnh, như mất đi các mối quan hệ, địa vị, tài chính, sức khoẻ, thể chất,
tiềm năng phát triển và hoạt động của các cơ quan nội tạng bên trong…tất cả đều biểu hiện ra theo một đồ thị dốc có hướng đi
xuống, đến từ việc chúng ta đang sống phản lại với Chân lý. Việc sống phản chân lý có mức độ dưới 200 là do chúng ta đặt sức
mạnh ra bên ngoài bản thân. Trong cơn nghiện, người đó đã mang nguồn hạnh phúc và ý nghĩa của cuộc sống của họ giao phó
cho thế giới bên ngoài và trao nguồn sức mạnh đó cho những chất gây nghiện.

Chất gây nghiện- tự chúng không có sức mạnh để tạo ra những trải nghiệm cao cấp hơn. Trải qua nhiều thập kỷ làm việc trong
lĩnh vực cai nghiện và phục hồi, chúng tôi đã thử nghiệm lâm sàng các câu hỏi nghiên cứu với hàng trăm người trong mỗi buổi
thuyết trình, cũng như trong các lớp dành cho những người đang cố nỗ lực cai nghiện. Bằng cách sử dụng phương pháp chẩn
đoán phân biệt sự thật và giả dối thông qua kiểm tra cơ học, chúng tôi phát biểu một đề xuất, “Chất gây nghiện như thuốc, rượu
có khả năng tạo ra những trải nghiệm cao cấp”. Nói chung, 100% đối tượng đều có biểu hiện yếu ớt với tuyên bố đó, chứng tỏ
điều này không thật. Chất gây nghiện thực ra không có tác dụng như chúng ta nghĩ. Sau đó, chúng tôi đề xuất một mệnh đề
ngược lại, “Các chất này ngăn chặn các trường năng lượng đến từ bản ngã bậc thấp và cho phép tôi trải nghiệm niềm vui của
Chân ngã của tôi”. Ngay lập tức, tất cả mọi người đều phản ứng mạnh mẽ, chứng tỏ đây là một câu đúng. ( Nghiên cứu này
được báo cáo trong phần Chữa lành và Phục hồi, cũng như trong bài phát biểu “Ý thức và chứng nghiện).

75
Sự thật mà chúng tôi đã xác minh được là các chất đó không có bất kỳ sức mạnh nào để tạo ra các trải nghiệm này, nhưng
dược tính của chúng thì có khả năng ngăn chặn các trường năng lượng tiêu cực, ít nhất là cho phép một người tìm lại được sự
hứng thú. Các trải nghiệm được tạo ra từ các chất gây nghiện không phải là trải nghiệm thực, chỉ có con đường tăng trưởng tâm
linh của chính chúng ta mới đạt được sự An lạc vui vẻ thật sự, một trường năng lượng gần đến chân lý về sự tồn tại. Giờ, chúng
ta sẽ áp dụng hiểu biết này như thế nào để cai nghiện đây?

QUÁ TRÌNH CỦA Ý THỨC TRONG PHỤC HỒI

Thật trớ trêu, bởi những bước đầu của quá trình phục hồi sau nghiện có vẻ giống với sự thất bại. Những nỗ lực phá bỏ thói quen
cũ một khi không thể vượt qua được sẽ khiến cho người trong cuộc thấy chán nản, một sự ám ảnh không thể gọi tên, đôi khi có
những người phải nhập viện vì mắc thêm chứng hoang tưởng. Nếu không có thuốc an thần, họ sẽ phát điên trong sợ hãi. Việc
cai nghiện lúc mới đầu dễ gây ra trầm cảm, bởi không có các chất đó, họ lúc nào cũng rơi vào trạng thái thờ ơ, hoặc đau buồn,
họ vô vọng vì họ nghĩ mình không bao giờ còn có thể trải qua trạng thái hứng khởi cao như trước được nữa. Một khi việc cai
nghiện thất bại, lượng rượu và ma tuý được tái sử dụng còn nhiều hơn lúc trước, nhằm che đậy sự phụ thuộc vào chúng, và vì
sự xấu hổ và mặc cảm, tính tiêu cực tăng lên và lan rộng đến mọi góc độ trong cuộc sống của người đó- công việc, danh tiếng,
tài chính, các mối quan hệ, và việc tự chăm sóc cá nhân họ. Dù có những buổi họp cai nghiện, “theo dõi tiến trình” hay lệnh kêu
gọi của toà án, hoàn cảnh của họ cũng không mang lại chút hy vọng gì (với lý do muôn thuở: “Tôi khác họ, có hiệu quả với họ
nhưng tôi thì không phù hợp) hoặc biện minh trong sự tự tôn (“Tôi không giống những kẻ yếu đuối đó!”).

Họ sẽ không bao giờ sẵn sàng một khi chạm đến ngưỡng “đáy” của chính họ, ngưỡng này khác nhau ở mỗi người, nhưng nhìn
chung, tất cả họ đều trải qua một quá trình ý thức giống nhau. Một bi kịch bên ngoài cuộc sống và một sự thống khổ bên trong
sau cùng sẽ khiến họ chịu đi bước đầu tiên, mà Quy trình Mười Hai Bước có mô tả, nó nói lên một sự thật, rằng họ “đã bất lực
trước bản chất cuộc sống” và họ không “còn cách nào khác để quản lý được” cuộc đời của chính họ.

Khi một sự thật nào đó được phơi bày, nó là dấu hiệu để chuyển biến từ tiêu cực sang tích cực. Ở cấp độ Dũng cảm (200), một
người khởi động quá trình tự nhận thức và bắt đầu được trao quyền. Bất ngờ là, khi đối mặt và dám nói ra sự thật, tất cả sự trợ
giúp sẽ tìm đến chúng ta. Đây là điều mà những người sợ phải đối mặt với sự thật không hề biết. Ngay khi họ có đủ can đảm để
nhìn trực diện vào nỗi sợ đó, họ đã nói đồng ý với tính nghị lực trong cuộc sống, cuộc sống sẽ nói có lại với họ và mở đường
cho họ. Thế nhưng, truy tìm chân lý đòi hòi sự khiêm tốn, buông bỏ việc phủ nhận, sự thật là có nhiều người nghiện thà chết
chứ không chịu làm như vậy.

Có một số thứ mà chúng tôi đã xác định là động lực để những người nghiện ma tuý hoặc nghiện rượu đạt đến trạng thái sau
cùng là chịu từ bỏ. Những người nghiện này nghiện trạng thái ý thức cao hơn bên trong của họ, và họ chứng tỏ họ có động lực
to lớn để đạt đến trạng thái cao nhất đó, thậm chí đặt cuộc sống của họ bên bờ vực nguy hiểm và sẵn sàng đánh đổi mọi thứ
cho nó. Mục tiêu đó hợp lý và đáng quý. Đơn giản chỉ là vấn đề về phương pháp và nhận ra được rằng, trạng thái bình an bên
trong không phải là một sự sục sạo tìm kiếm đâu đó bên ngoài: nó vốn dĩ là ở bên trong, trạng thái đó là mặt trời, và bản ngã
chính là những đám mây. Khi loại bỏ được những đám mây này, ánh dương sẽ ló dạng. Phục hồi, là quá trình loại bỏ những
đám mây của tuyệt vọng, tội lỗi, xấu hổ, sợ hãi, tức giận, kiêu hãnh- đó là quá trình vượt lên các trường năng lượng thấp hơn
bằng cách đối mặt với chúng và buông bỏ chúng.

Khi một người tìm cách cai nghiện, thường là họ đang ở dưới cùng trên Sơ đồ Ý thức, với một sự hận thù, hối hận và tuyệt vọng
(mức 50) đó là nơi mà con người không thể tự giúp mình. Tuyệt vọng, có nghĩa là chỉ có vậy, phải chịu như vậy. Ví dụ, chủ tịch
hội Luật sư Thành phố đã chết đói khi sống một mình trong một căn nhà trọ chung, theo đúng nghĩa đen. Ông ấy nghiện rượu
và Valium. Ông ấy không bao giờ nhấc điện thoại để gọi cho bất kỳ ai đến giúp đỡ. Một người tầm cỡ như ông ta với rất nhiều
bạn bè, họ sẵn lòng giúp đỡ ông ta, nhưng ông ấy lại không thấy vậy, ông ấy thấy có gọi giúp đỡ cũng không ích gì. Tình trạng
vô vọng này của một người thường được biện minh với lý do “Ai hồi phục được chứ tôi thì không rồi đấy”.

Ở cấp độ Thờ ơ, Chúa phải chịu chết thay cho người đó, tất cả những gì chúng ta có thể làm là đổ năng lượng vào họ. Quá trình
diễn ra trong ý thức của họ lúc này là quá trình thoát hơi của năng lượng. Họ bị mất năng lượng, trống rỗng, hoàn toàn mất tinh
thần. Giải pháp chỉ có thể là truyền năng lượng cho họ thông qua sự quan tâm, yêu thương, sự hiện diện của chúng ta về mặt
vật lý, sự truyền dinh dưỡng, và những cách khác nữa để có thể vực họ đến cấp độ tiếp theo của ý thức- Đau buồn.

Đau buồn (75) có sự liên hệ tới quá khứ, khi người đó thoát ra khỏi trạng thái trống rỗng, bàng hoàng, họ bắt đầu khóc được, và
thấy hối tiếc về sự mất mát, vì cái giá mà họ đã trả cho sự nghiện ngập. Lúc này, có sự có mặt của trạng thái Tiếc nuối, tủi thân,
đau buồn, khi họ đang ở trong một cơ sở phục hồi chức năng, hoặc bất cứ nơi nào mà cơn nghiện quay lại ghé thăm họ. Họ
buồn bã cho cuộc đời của chính họ, họ cảm thấy bị Thượng Đế bỏ rơi.

Cấp độ này là sự hối tiếc về quá khứ, chúng ta nỗ lực để chuyển họ lên trường tiếp theo, đó là Sợ hãi (mức 100). Tại thời điểm
này, người đó bắt đầu có nỗi sợ mỗi khi lên cơn nghiện, cộng với cảm giác lo lắng, hồi hộp. Nỗi sợ là cảm giác có dính líu đến
tương lai. Họ đã không còn trong trạng thái bị từ chối thổi phồng; ngược lại, trạng thái đó bắt đầu xì hơi dần như bong bóng. Thế
giới bắt đầu có sự đáng sợ, họ có thể cảm thấy Chúa sẽ trừng phạt họ vì những lỗi lầm của quá khứ. Họ hiểu sai việc nghiện
ngập là một loại tội lỗi, và họ sợ bị trừng phạt, họ sợ mất mát nhiều hơn trong tương lai. Chúng ta đã thấy đó là cách diễn đạt

76
năng lượng ở mỗi cấp độ, nên nếu chúng ta hoạt động cùng với nó, chúng ta có thể chuyển lên những cấp độ tiếp theo. Thế là,
người đó sẽ vượt qua nỗi Sợ hãi của việc nghiện ngập bằng cách mong muốn điều gì đó tốt đẹp hơn (Mong muốn, mức 125).
Sau đó họ sẽ thấy mệt mỏi vì trở thành nạn nhân của sự ham muốn và khao khát đó, họ chuyển lên Giận dữ.

Giận dữ (150) có nhiều năng lượng hơn Sợ hãi, Ham muốn, năng lượng của Giận dữ có sự hữu ích- không phải bản thân sự
Tức giận, mà là năng lượng của nó có tính xây dựng. Vì cảm giác về tình trạng khó khăn và nạn nhân của những người này,
đây là bước ngoặt để vượt ra chủ nghĩa phòng thủ. Kiêu hãnh (175) đưa họ thoát khỏi sự vô vọng là làm gì đó “đáng để tự hào”,
họ sẽ hành động và bắt đầu quan tâm đến vị thế của họ, từ đây tiến tới trường năng lượng liền bên trên, Dũng cảm (200).

Dũng cảm nói ra sự thật là một bước quan trọng để phục hồi. Chúng tôi nhận thấy tác động mạnh mẽ của bước đầu trong liệu
pháp Mười hai bước của Hội người nghiện giấu tên- việc một người thừa nhận họ bất lực trước rượu hay ma tuý mở ra khả
năng giúp họ đối mặt và giải quyết thích hợp cho chuyện đó. Nó đại diện cho nội lực. Thế giới đối với họ lúc này có tích hợp cơ
hội, và lần đầu tiên, tâm trí họ mở rộng theo hướng có lợi, lúc này Sự thật mới có đường để tiếp cận với họ. Mức Kiêu hãnh
(175) là bước đệm để đưa người đó tiến lên Dũng cảm (200) và tiến vào Chân lý. Nó là một chuỗi khuyến khích để ngày càng
tiến xa hơn. Sự Trung tính (250) là nơi từ bỏ việc chống lại Sự thật, thoát ra khỏi sự phản kháng đó và bắt đầu nghiệm lý thấy
thế giới là một nơi “cũng được”.

Sự giải phóng nội tâm này cho phép bản thể đó trải nghiệm tính tự do để có sự khám phá, mở rộng và sau đó là tiến đến mức
Sẵn lòng (310) để nói đồng ý với các cơ hội của cuộc sống, tham gia hành trình và có sự sẵn sàng phù hợp. Tại mức Sẵn lòng,
người đó phát triển khả năng nhìn nhận toàn bộ quá trình phục hồi của họ trong một hiện thực có tính thân thiện, họ nhìn cơ hội
phục hồi của những người khác là triển vọng và đầy hứa hẹn. Họ có sự lạc quan, vì thế họ có khả năng hồi phục.

Chấp nhận (350) là một trường năng lượng có sức mạnh lớn, vì thế họ nhận ra sức mạnh nội tại của họ để tự có quyết định. Họ
tự tin, họ có cảm giác toàn vẹn và sự chuyển đổi xảy ra trong một hiện thực có sự hài hoà. Một mặt, cuộc sống đưa ra bài toán,
mặt khác, nó cung cấp cho chúng ta lời giải. Thượng Đế nhân từ bởi luôn cung cấp các giải pháp cho con người, vì vậy, dù họ
có thể bị nghiện, nhưng hàng trăm nghìn người khác đã tìm ra câu trả lời và chỉ ở đó để sẵn lòng hỗ trợ họ. Họ sau đó có thể
tiến tới Lý trí (400), lúc này năng lượng của họ đổ vào lĩnh vực giáo dục để hiểu chứng nghiện một cách khoa học và tác động
của nó đối với sức khoẻ tinh thần, họ biết kết hợp những tài nguyên y tế và những triết lý hữu ích vào trong sự hiểu biết của bản
thân họ.

Sau đó, với việc buông bỏ sự tập trung vào trí tuệ và thâu nhận kiến thức, người đó bắt đầu xem trọng bản thể của họ, trường
năng lượng của Tình yêu (500) sẽ xuất hiện, trong một mẫu thức tâm linh hoàn toàn khác, ở đó có sự biết ơn và nhận thức đến
từ trái tim. Người đó có sự cam kết với trường năng lượng chữa lành bằng cách trở thành thành viên của những hội nhóm đi
giúp đỡ người khác, lúc này, năng lượng của họ có khả năng giúp người khác được hồi phục một cách tự nhiên. ( Những hội
nhóm này có mức định chỉnh 540). Sự sẵn lòng của một người để phù hợp với những hội nhóm này và chấp nhận đi chữa lành
cho người khác là những tính chất cần có. Thông qua sự sẵn lòng đó, người này chấp nhận một sự thật là họ phải ở trong môi
trường lan toả được năng lượng chữa lành, hỗ trợ, thấu hiểu và yêu thương vô điều kiện. Một người như vậy biết rằng họ đang
ở trong một không gian an toàn, những việc họ làm có sự sáng suốt, và sự tồn tại của họ cũng vậy. Trong trải nghiệm đó, có sự
xuất hiện của Niềm vui và bắt đầu có sự thanh thản bên trong, cũng như nhìn thấy được sự hoàn hảo và hợp nhất của trường
năng lượng mà bản thân họ có sự đồng nhất với nó.

MƯỜI HAI BƯỚC ĐỂ XOÁ BỎ CHƯỚNG NGẠI

Như đã nói ở trên, các trường năng lượng thấp như những đám mây che lấp đi ánh mặt trời- “ánh sáng của tinh thần”, như cách
Hội Nghiện giấu tên đã gọi. Mặt trời thì luôn luôn sáng; chỉ cần loại bỏ được những đám mây che phủ nó, và quy trình Mười hai
bước chính là phương pháp giúp loại bỏ những đám mây đó. Nó được áp dụng cho tất cả các vấn đề của con người và mang
lại một hiệu quả kì diệu. Sẽ rất có lợi để áp dụng phương pháp Mười hai bước này cho bất kỳ chứng nghiện nào. Ví dụ, có thể
thay thế từ “cái Tôi” cho “Rượu” ở bước 1. Trong phần này, chúng tôi dùng phương pháp Mười hai bước kết hợp với Sơ đồ ý
thức để đưa ra một quá trình phục hồi điển hình.

Phương pháp Mười hai bước của Hội nghiện rượu giấu tên

• Bước 1: “Chúng ta có sự thừa nhận rằng chúng ta đã bất lực trước Rượu- và cuộc sống của chúng ta đã trở nên mất
kiểm soát”.
• Bước 2: “Đạt được sự tin tưởng rằng có một Sức mạnh lớn hơn có thể giúp chúng ta khôi phục lại sự tỉnh táo”.
• Bước 3: “Quyết định chuyển giao ý chí và cuộc sống của chúng ta dưới sự chăm sóc của Thượng Đế- và chúng ta
cũng hiểu Ngài”.
• Bước 4: “Thực hiện một cuộc đào sâu đạo đức không sợ hãi về chính bản thân chúng ta”.
• Bước 5: “Thừa nhận với Thượng Đế, với một người khác, và với chính chúng ta một cách chính xác về bản chất của
những điều sai trái của chúng ta”.
• Bước 6: “Hoàn toàn sẵn sàng để Thượng Đế giúp bạn loại bỏ những khuyết điểm này trong tính cách”.
• Bước 7: “Khiêm tốn cầu nguyện Ngài hãy loại bỏ những thiếu sót của chúng ta”.

77
• Bước 8: “Viết ra danh sách những người mà chúng ta đã gây tổn thương cho họ và sẵn sàng sửa đổi tất cả những
chuyện đó”.
• Bước 9: “Trực tiếp sửa lỗi với những người đó bất cứ khi nào có thể, trừ phi việc đó tiếp tục gây tổn thương cho họ
hoặc những người có liên quan”.
• Bước 10: “Liên tục tự xét hạnh kiểm cá nhân, và bất cứ khi nào chúng ta sai, hãy thừa nhận”.
• Bước 11: “Cầu nguyện và Thiền định để cải thiện ý thức cá nhân của chúng ta khi tiếp xúc với Thượng Đế trong sự
hiểu được Ngài, chúng ta cầu nguyện để biết được ý muốn của Ngài đối với chúng ta và sức mạnh để thực hiện ý
muốn đó”.
• Bước 12: “Sau khi thực hiện hết những bước này, chúng ta cố gắng truyền tải thông điệp này đến những người nghiện
khác và thực hành những nguyên tắc này trong mọi công việc của mình”.

 Bước đầu tiên trong phương pháp Mười hai bước là sẵn lòng thừa nhận một sự thật, rằng một người đã bất lực với
Rượu, hoặc Ma tuý. Rằng rượu, ma tuý đang khiến họ bị mất kiểm soát trong cuộc sống.
 Bước thứ hai là việc rất quan trọng tiếp theo, đó là “khôi phục lại sự tỉnh táo của chúng ta” bởi một sức mạnh lớn hơn
bản thân chúng ta. Qua đó, bản ngã đầu hàng trước Thượng Đế (thực ra là bản ngã bậc thấp đầu hàng quyền năng
của bản ngã bậc cao). Khi quan sát Sơ đồ ý thức, chúng ta thấy rằng các trường năng lượng cao hơn gồm Tình yêu
thương, Niềm vui, An lạc bắt đầu từ mốc 500 và kéo dài lên đến 600. Những trường năng lượng đó là những nam
châm điện cực mạnh, chúng có thể khiến một người quay lại được những trạng thái của trải nghiệm ý thức cao mà
ma tuý hay rượu đã tạm thời cung cấp cho họ. Vì vậy, muốn xử lý được, ta cần có những sức mạnh ngang ngửa ma
tuý, hoặc rượu để thay thế. Nhóm Giúp người nghiện rượu (540) và các nhóm khác tương đương cung cấp một trường
năng lượng giữ cho một người trong lực từ tính để trải nghiệm về bản ngã bậc cao của họ ở dạng chân thực nhất.
Thực tế rằng, có một số người trong quá trình phục hồi đã gọi nhóm trợ giúp họ là “Bản ngã bậc cao của tôi”, (ví dụ
như God là viết tắt của Hội những người say xỉn). Bước thứ hai là trực giác thực sự đã biết ra cần phải có thứ gì đó
lớn hơn bản ngã hoặc cái tôi nhỏ bé có giới hạn của nó để thu hút được một trường năng lượng mạnh hơn.
 Bước thứ ba là quyết định lấy nền tảng từ việc buông bỏ và sẵn sàng chuyển giao cuộc đời của một người cho
Thượng Đế, “như một người hiểu được Ngài”. Ngoài tính chất sẵn lòng, Thượng Đế trong sự hiểu biết của một người
là một người bạn, một người đồng hành- một bản thể đầy hứa hẹn, nhân từ và luôn hồi đáp lại. Tin tưởng là một yếu
tố của đức tin, vì thế, bước thứ ba là một sự buông bỏ sâu sắc, thực sự, phù hợp để chuyển vào trường năng lượng
540 và cao hơn. Phần còn lại của phương pháp Mười hai bước làm dễ hiểu hơn cho Sơ đồ cấp độ ý thức. Khi một
người phù hợp với trường hấp dẫn 540, A〆B〆C của tình yêu vô điều kiện, thì khả năng chữa lành bên ngoài của A

〆B〆C là hệ quả đương nhiên theo thời gian.


 Bước thứ tư nói rằng hãy trung thực nhìn vào bản thân để thấy được những khuyết điểm trong tính cách của một
người, và nắm bắt tiêu chuẩn đạo đức một cách không e sợ, điều này đòi hỏi người đó sẵn sàng đối mặt và chấp nhận
sở hữu tất cả những gì thậm chí tiêu cực và tác động của nó trong cuộc sống của họ.
 Tiếp theo là bước năm, một bước chữa lành lớn, thông qua việc thừa nhận với Thượng Đế, với bản thân, và với một
người khác về bản chất của những điều sai trái mà một người đã gây ra. Thực hiện hành động này nhằm giảm sự tác
động của nỗi đau lên bản thân người đó, bằng việc tin tưởng người khác để nói ra những bí mật sâu kín nhất của họ
, chẳng hạn như những người hỗ trợ của các hội nhóm. Những gì đã từng làm họ mặc cảm, xấu hổ sẽ giảm áp lực
một khi nó được nói ra thành tiếng. Một sự cố nào đó có thể khiến một người bị dằn vặt suốt 20 năm, nó phá huỷ lòng
tự trọng, một khi được nói ra, đơn giản kiểu như “ừ, rồi sao nữa?” Chia sẻ sẽ làm giảm bớt năng lượng tiêu cực và
âm tính từ câu chuyện đó. Loại bỏ tiêu cực và âm tính không thay làm thay đổi những gì đã xảy ra, nhưng làm thay
đổi cách thức tổ chức của việc đó, xoá đi tác dụng ăn mòn và phá huỷ trước đó của nó. Bill Wilson, người đồng sáng
lập Hội nghiện rượu giấu tên đã từng nói rằng, thái độ đúng về quá khứ nên là “một sự tiếc nuối chừng mực”, chứ
không phải giận bản thân, xấu hổ, hoặc chìm trong cảm giác tội lỗi. Một người nên có nhiều hơn những cảm giác đến
từ trái tim. Hội nghiện rượu giấu tên nói ngôn ngữ của trái tim, chữa lành bằng sự hài hước, chấp nhận, nhẹ nhàng,
và sẵn sàng hàn gắn những gì trong quá khứ.
 Việc chữa lành được bắt đầu từ bước thứ năm, và có sự phục hồi thông qua bước sáu đến bước chín, đây thực sự
là những bước có tính bù đắp. Ở những bước này, một người thực sự có trách nhiệm làm bất cứ điều gì đó để sửa
chữa cho những thiệt hại trong quá khứ và đi khắc phục hậu quả của nó, để việc này không chỉ dừng lại ở tính chất
thực hành tinh thần. Bằng khả năng tốt nhất, một người quay lại cộng đồng để cải tạo những gì có thể cải tạo được.
Từ đó, sự chữa lành mới đến, họ sẽ bớt đi cảm giác tội lỗi về hành động của họ trong quá khứ.
 Bước thứ mười nói rằng một người đã sẵn sàng chịu trách nhiệm cho những gì từ ý thức của họ và có sự tinh tấn
thực hành mỗi ngày. Họ có một sự tự kiểm cho những gì thiếu sự chính trực, những chỗ họ lý ra có thể làm tốt hơn,
những chỗ họ có thể yêu thương nhiều hơn. Bước mười là tự chịu trách nhiệm về quá trình tiến bộ tinh thần và có sự
cam kết với nó, sống cùng nó.
 Bước 11 rất thú vị vì nó cho biết một người có thực hiện tốt từ bước 1 đến bước 10 hay không, bởi họ sẽ kết nối lại
với điều mà họ thông qua rượu và ma tuý đã tìm được. Bước nay chỉ ra rằng, cầu nguyện và thiền định sẽ “tăng cường
sự tiếp xúc có ý thức” với hiểu biết của chính người đó, nó yêu cầu họ “biết về ý muốn của Thượng Đế và có sức
mạnh để thực hiện ý muốn đó”.

78
Cần chú ý, bước 11 không nói “bắt đầu”, mà là “tăng lên”, nghĩa là sự tiếp xúc có ý thức đã xảy ra. Nó xảy ra thông
qua sự buông bỏ từ bên trong và cam kết với tình yêu thương như một cách sống. Người ta kết nối với Thượng Đế
bằng trái tim, bởi điều đó thiêng liêng, nó là thần tính, và tất cả Tình yêu thương thật ra đều giống nhau. Khi họ cam
kết với Tình yêu thương và thực hành như một cách sống mỗi ngày trong sự nỗ lực tối đa, họ sẽ kết nối lại với những
trải nghiệm nội tâm vui vẻ, giống với những trải nghiệm họ đã có khi vay mượn ma tuý và rượu.
 Bước 12 tiết lộ sự thật về quá trình gây ra nghiện, cũng như bản chất của nó trong lĩnh vực ý thức. Nó thông báo đã
có một sự “thức tỉnh tinh thần từ kết quả của những bước trên”, điều đó khẳng định rằng, trở nên tỉnh táo là kết quả
của toàn bộ quá trình gây nghiện. Những người đã tuân theo quy trình Mười hai bước một cách chính trực và tận tâm
giờ đây có khả năng “mang thông điệp này” đến những người khác và thể hiện nó trong mọi lĩnh vực cuộc sống của
họ.
Bước 12 chỉ ra rằng, toàn bộ mục đích của quá trình nghiện là thức tỉnh họ và chuyển họ từ mức độ ý thức này sang
mức độ ý thức khác; đi từ trạng thái ngủ mê, không nhận biết, vô thức, vô trách nhiệm, là nạn nhân, bất lực, chuyển
sang trạng thái làm chủ bản thân với tư cách là người có trách nhiệm về mặt tinh thần đối với hạnh phúc và thành
công của riêng cá nhân họ. Nó phủ định việc đặt để hạnh phúc ra bên ngoài bản thân họ. Thay vào đó, họ nhận ra
được rằng, nguồn hạnh phúc cũng giống như nguồn sống, nó đến từ việc làm chủ bản thân một cách có trách nhiệm,
với tư cách là một người có ý thức về mặt tinh thần. Nghiện có khả năng gây tử vong dần dần, và cách duy nhất để
hồi phục là trở nên ngày càng có nhận thức về mặt tinh thần, sống có ý thức hơn. Bản thân cuộc sống phụ thuộc vào
việc trở nên có ý thức thông qua sự đối mặt với điều gì đó mà bản ngã bậc cao hơn của một người đã chọn nó làm
chướng ngại để buộc họ phải phát triển hơn từ chướng ngại đó, đơn giản vì họ không có đường lui. Lựa chọn duy
nhất của họ là buông bỏ, giao phó ý chí cho Thượng Đế ( Thượng Đế chính là bản ngã bậc cao của một người), hoặc
là họ trở nên điên loạn rồi chết. Không có sự lập trình lại các tế bào não một khi chúng đã được lập trình. Khi ai đó
dính dáng tới vấn đề nghiện ngập, họ đang trong một tình trạng ngặt nghèo và không thể lùi lại. Chỉ có cách đối mặt
với việc sở hữu sự thật về bản ngã của họ. Quá trình phục hồi phụ thuộc vào việc chấp nhận điều này, hãy cứ vui vẻ
tiến vào và biết ơn cho quá trình này.

SỨC MẠNH CHỮA LÀNH CỦA TẬP THỂ YÊU THƯƠNG

Trường năng lượng của nhóm 12 bước là Tình yêu vô điều kiện (540). Cách để thoát khỏi hố sâu là biết quan tâm đến
người khác. Chúng ta cao cấp hơn nếu mọi hành động của chúng ta gắn với tình yêu thương, bao dung cho bản thân,
và cho người khác. Tình yêu vô điều kiện không phải loại cảm xúc thăng trầm phụ thuộc vào người khác, những gì
người khác làm hay không làm với chúng ta. Tình yêu thương không đến từ một ai khác ngoài chính bản thân chúng
ta. Nó là một quyết định từ bên trong của chúng ta trong một trạng thái ý thức mà chúng ta muốn duy trì mọi lúc. Từ
cấp độ đó, mọi người không thể tác động đến tình yêu thương mà chúng ta dành cho họ.

Những người nghiện trong giai đoạn phục hồi đã khám phá ra rằng, Tình yêu thương có khả năng truyền tải, lây lan,
và họ đã trải nghiệm nó thông qua sự thẩm thấu- kiểu như ở gần những người đang yêu. Xung quanh và xuyên qua
cơ thể vật chất là một cơ thể dĩ thái, nó dao động theo tần số năng lượng. Độ dao động càng lớn có nghĩa là công
suất càng cao. Những rung động ở cấp độ cao trên Sơ đồ ý thức có sức mạnh lớn hơn rất nhiều so với những rung
động cấp dưới 200. Không nhất thiết phải có niềm tin vào Chúa. Những gì bạn cần là ngồi chung một căn phòng với
những người phát ra năng lượng chữa lành, và bạn sẽ nhận được năng lượng của Tình yêu. Ví như ngồi dưới ánh
mặt trời, những gì mà chúng ta sẽ cảm thấy đó là sự ấm áp!

Có một kinh nghiệm phổ biến khi mới bước vào quy trình 12 bước, đó là cảm giác chán nản, hoặc “thất vọng” về vô
số vấn đề, nhưng sau đó khi hoàn tất nó chúng ta sẽ đạt đến cấp độ cao hơn, và không còn vấn đề gì nữa. Trường
năng lượng yêu thương vô điều kiện của nhóm đưa chúng ta vào một không gian “Tôi không tìm ra được lý do gì để
buồn”. Chúng ta sẽ phát hiện ra một chân lý rằng, cuộc sống vốn dĩ không có nghĩa gì, ngoài cách thức chúng ta có
cảm nhận về nó, điều đó mang lại trải nghiệm cho chúng ta, và được xác định bởi mức độ ý thức của chúng ta. Do
đó, vấn đề nào cũng sẽ được loại bỏ chỉ bằng cách thay đổi quan điểm- tức là chuyển sang mức độ ý thức cao hơn.
Không phải là đi sửa vấn đề, mà là phát triển cao hơn nó.

“NHẬN VÀO BẰNG CÁCH THẨM THẤU”

Lợi thế của việc tham gia các nhóm hỗ trợ là chúng ta có cơ hội ở gần những người có tư tưởng cao cấp. Phương
pháp để thoát khỏi sự thờ ơ, trầm cảm, và những biểu hiện tiêu cực khác là ở bên những người đã giải quyết được
những vấn đề mà chúng ta đang mắc phải. Đây là một trong những nguồn lực tuyệt vời của các nhóm hỗ trợ. Khi ở
trong trạng thái tiêu cực, chúng ta đã mất rất nhiều năng lượng cho các ý nghĩ tiêu cực, vì thế những suy nghĩ tích cực
bị suy yếu. Những người ở trong trường rung động cao không truyền năng lượng cho các suy nghĩ tiêu cực của họ,
và các hình thức trải nghiệm tích cực luôn tràn đầy năng lượng. Sự hiện diện của họ đã là một loại lợi lạc cho người
khác. Trong một nhóm hỗ trợ kiểu như nhóm 12 bước, điều này có thể được gọi là “cặp kè với những người chiến
thắng”. Lợi ích được ghi nhận là ở cấp độ tinh thần, có một sự chuyển giao năng lượng tích cực và làm giảm bớt các
mẫu thức tiêu cực tiềm ẩn của chúng ta. Nó còn được gọi là “nhận vào bằng cách thẩm thấu”.

79
Suy nghĩ có năng lượng từ tính. Khi chúng ta ngồi trong tầm mắt của những người đã giải quyết được các vấn đề
trong cuộc sống mà chúng ta đang gặp rắc rối với nó, thành tựu bên trong của họ sẽ ảnh hưởng không ngừng đến
chúng ta, từ đó năng lượng cấp thấp của chúng ta được thay thế bằng một mẫu thức suy nghĩ cao hơn. Mẫu thức suy
nghĩ cao hơn đó nhìn vấn đề là những cơ hội. Những gì trước cuộc gặp gỡ với họ chúng ta cảm thấy là mất mát, thì
sau cuộc gặp chúng ta lại cảm thấy là lợi lạc, nhờ vào năng lượng truyền tải phi ngôn ngữ. Sự thật vốn dĩ không hề
thay đổi, mà là cách chúng ta nhìn nhận tình hình đã thay đổi. Sự chuyển biến này xảy ra không phải vì những lời mà
họ nói ra, mà chính bởi sự hiện diện của họ, hào quang của họ, những người đã có tình yêu thương và đã ở trong
trường năng lượng mang tính trí tuệ cao hơn. Nói một cách đơn giản, chúng ta sẽ bị ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu
cực bởi những người mà chúng ta đồng hành. Không chắc lắm chúng ta sẽ vượt qua được nếu chúng ta chọn ở cạnh
những người cũng có vấn đề như chúng ta.

Tình yêu thương là một nguồn năng lượng dồi dào mà chúng ta có thể chia sẻ với những người khác. Khi những tiêu
cực bên trong của chúng ta đã được giải quyết, chúng ta bắt đầu có tình yêu thương, và chúng ta có thể chia sẻ nó.
Một khi năng lượng của chúng ta bị trói buộc bởi những cảm xúc tiêu cực, chúng ta không thể chia sẻ được nhiều với
người khác. Trên thực tế, tình yêu còn không đủ cho chính chúng ta. Chỉ khi nào đầy đủ và dư dả, chúng ta mới có
thể chia sẻ nó với người khác. Cách để cảm thấy dễ chịu nhanh chóng là hoà mình vào ánh hào quang của một người
đang yêu thương. Ngồi gần, ôm họ, ngủ cạnh, nắm tay…Chỉ cần ở trong vùng hào quang của một bản thể có sự yêu
thương, là chúng ta tự động đã được nâng lên, mọi thứ sẽ thấy rất khác. Sau cùng, chúng ta rồi cũng trở thành một
kênh dẫn đi ban ân huệ này đến cho những người khác.

BIẾT ƠN, ÂN ĐIỂN VÀ THANH THẢN

Giờ thì chúng ta đã hiểu, tại sao các diễn giả của hội nhóm 12 bước lại phát biểu rằng, họ thấy biết ơn vì họ đã từng
là những con nghiện. Đối với những người mới gia nhập, hẳn là nghe nó rất điên rồ. Biết ơn ư? Được trở nên nghiện
ngập và thấy biết ơn ư? Bởi lẽ, những tác dụng tàn phá, sự nghiện ngập đó đã buộc họ phải trưởng thành, phải biết
sống có ý thức. Và do đó, họ biết ơn về quá trình này. Mới đầu, họ phẫn nộ, họ có sự phản kháng, nhưng sau đó, họ
chấp nhận nó, làm việc để cải thiện nó. Họ bắt đầu muốn sống có tình yêu thương, và trải nghiệm được niềm vui, cuối
cùng, họ có sự thanh thản, đó là lời cầu nguyện của họ trong những lần họp mặt :

Xin Chúa ban cho chúng con sự thanh thản để chấp nhận những điều mà chúng con không thể thay đổi, sự Dũng
cảm để thay đổi những điều mà chúng con có thể thay đổi, và Trí tuệ để nhận ra sự khác biệt.
Trong sự biết ơn đó, có một hiểu biết nội tâm rằng đây là số phận của họ- một phương thức, một con đường đã
được chọn- để dẫn đến một nhận thức rằng: họ không bao giờ có thể đạt đến sự hiểu biết tuyệt vời theo một cách
nào khác. Có những người buộc phải trải nghiệm nó theo cách này. Ở trong đó, bản ngã của họ chạm đáy, và họ
nương vào Thượng Đế. Khi có sự buông bỏ, lòng biết ơn sẽ xuất hiện, và có sự hiểu biết sâu sắc hơn về bản chất
của ý thức. Chúng tôi đã đi qua toàn bộ Sơ đồ ý thức, từ Xấu hổ đến An lạc, và chúng tôi có thể xác nhận từ kinh
nghiệm của chính mình: những ai từ bỏ và nương vào Thượng Đế sẽ nhận lại những ân điển từ Thượng Đế.

PHẦN BA

Ý THỨC CẤP TIẾN

Trong phần này, Tiến sĩ Hawkins sử dụng Sơ đồ Ý thức để chỉ ra cách mà ý thức tiến triển. Từ những trải nghiệm phi
thường của riêng ông, với tư cách là người đã trải qua toàn bộ các cấp độ trên Sơ đồ, Tiến sĩ Hawkins cung cấp cho
chúng ta một danh sách những nguyên tắc mà chúng ta cần tuân theo, các phương pháp thực hành, cũng như các
cạm bẫy cần tránh. Có không ít người bị lạc giữa chừng trên tiến trình này. Nếu không có sự hướng dẫn của một thuỷ
thủ đã thành công vượt biên dày dạn kinh nghiệm, những người chân ướt chân ráo như chúng ta biết phải làm sao?
Hawkins không chỉ là trao cho chúng ta một tấm Sơ đồ. Trong phần này, ông ấy sẽ viết ra một cách chi tiết những điều
cần chú ý ở mỗi cột mốc trong hành trình, và cách vượt qua những chướng ngại trên những cột mốc cụ thể đó.

Ông ấy nói rằng, khó mà không ngạc nhiên khi biết ra, bản ngã thích bám vào những gì “quen thuộc” và chống lại sự
thay đổi, ngay cả khi sự thay đổi đó có tuyệt vời như thế nào đi nữa. Vì thế, ông hướng dẫn chúng ta các bước để
thoát khỏi sự hèn mọn đó của bản ngã, và nói rằng, điều cốt yếu là biết được giới hạn của bản ngã và có lòng trắc ẩn
với nó. Nếu chúng ta lên án bản ngã của chính mình, hoặc của một ai đó khác, nghĩa là chúng ta chỉ đang gia cố thêm
cho nó mà thôi.

Những rào cản thuộc về bản ngã, có khi bạn phải mất cả đời để vượt lên, cũng có thể chỉ là trong khoảnh khắc, miễn
là bạn có đủ sức mạnh tinh thần của ý chí để buông bỏ. Đây là một ví dụ trong quyển Letting Go của Tiến sĩ Hawkins,
trong đó minh hoạ một trường hợp đột phá đã vượt qua toàn bộ Sơ đồ. Có một người đàn ông, anh ấy bị mắc kẹt ở
mức Thờ ơ. Khi anh ấy nói, “Tôi không nhảy đâu!”, nó thực sự là một lời từ chối, rằng anh ấy thậm chí không có ý định

80
cho việc đó, bởi vì ý thức của bản ngã quá cao. Trong đoạn này, anh ấy sẽ dùng đến kỹ thuật “buông bỏ” đối với Thờ
Ơ và Sợ Hãi, chấp nhận từ bỏ để mở ra cánh cửa dẫn đến trạng thái “ngây ngất”.

Đây là sự minh hoạ về việc tiến bộ trong trải nghiệm của một người đàn ông trung niên thông minh, thành công, một
người cả đời không hề biết nhảy là gì. Anh ấy muốn nhảy, dù là theo cách khó coi nhất, và vài lần trong đời, anh ấy
đã đi học nhảy. Nhưng mỗi lúc như thế, anh lại trở nên đờ đẫn, lúng ta lúng túng như gà mắc tóc. Anh ấy đã vận dụng
đến sức mạnh ý chí tinh thần thép của mình để cố gắng kiểm soát cử động của cơ thể trên sàn nhảy, nhưng nó không
hiệu quả, anh chưa bao giờ thấy thoải mái. Động tác của anh ấy luôn cứng nhắc và không có sự phiêu du theo nhạc,
toàn bộ những gì anh ấy trải nghiệm chỉ là cảm giác không vừa ý.

Sau khoảng một năm thực hành theo phương pháp “buông bỏ”, anh ấy tham gia vào một buổi tiệc, và một người bạn
cứ khăng khăng rằng anh phải đứng lên và nhảy đi nào. Anh ấy trả lời, “Tôi không biết nhảy, cô biết mà.”

Cô bạn nài nỉ, “Cứ thử đi. Đừng để ý đến đôi chân của anh mà hãy nhìn tôi đây này, chỉ cần nhìn tôi và nhảy theo là
được”.

Anh ấy miễn cưỡng đồng ý, và từ bỏ cảm giác hồi hộp, kháng cự trong lòng.

Anh bắt đầu thả lỏng hoàn toàn trên sàn nhảy. Trong khoảnh khắc, cảm xúc bên trong của anh ấy đi từ Thơ ơ, đến
Tình yêu, anh ngạc nhiên với chính mình, và đột nhiên bắt đầu nhảy múa như một người mà anh ấy luôn ghen tị và
ao ước trở thành. Anh ta nhận ra mình đã làm được! Như một cú sét, anh ấy di chuyển từ Tình yêu, đi qua Niềm vui,
và thậm chí đạt đến mức Ngây ngất. Niềm vui của anh ấy còn lan toả đến cả những người khác. Những người bạn
bước đến xem anh ấy. Từ trạng thái sung sướng tột độ, anh ấy đột nhiên có trải nghiệm hoà nhập với các bạn nhảy
khác của mình. Anh ấy thấy Bản ngã của chính mình đang nhìn chằm chằm vào mắt cô bạn nhảy, và anh ấy nhận ra
chỉ có một Bản ngã thực sự đằng sau tất cả những cá thể này. Anh thấy mình có thần giao cách cảm kết nối với cô
bạn ấy. Anh đoán biết được mỗi bước nhảy kế tiếp của cô trong tích tắc. Họ có sự hoà hợp hoàn hảo, họ nhảy như
thể đã nhảy cùng nhau trong nhiều năm. Thật khó mà kiềm chế cảm giác vui sướng này. Việc nhảy múa bắt đầu tự
diễn ra và trở nên dễ dàng, anh đã không còn phải suy tính gì về nó. Càng nhảy lâu hơn, anh lại càng cảm thấy nhiều
năng lượng hơn.

Trải nghiệm xuất thần này đã làm thay đổi cuộc đời của anh ấy. Anh còn nhảy thêm chút nữa sau khi về nhà vào tối
hôm ấy. Phong cách nhảy nhạc dis-co tự do luôn khiến anh thấy sợ hãi, vì nó không có bài, nó đòi hỏi một sự tự nhiên,
một kiểu nhảy tự biên, và là điều mà trước đây anh đặc biệt không muốn thử chút nào. Nhưng giờ đây, anh đã nhảy
theo phong cách tự do đó ở nhà, hàng giờ liền. Anh tự ngắm mình trong gương, tận hưởng một cơ thể thả lỏng và
mềm dẻo, tự do uốn lượn theo nhịp nhạc.

Rồi đột nhiên, anh nhớ lại từng chi tiết sống động về một tiền kiếp. Ở đó anh là một vũ công tuyệt vời, anh nhớ lại lời
chỉ dạy của những người thầy ở kiếp sống đó, anh thực hiện theo, và kết quả thật đáng kinh ngạc! Anh phát hiện ra
có một cái tâm cân bằng của lực hấp dẫn thẳng đứng bên trong mình, và anh bắt đầu xoay quanh nó theo một cách
thức cân bằng hoàn hảo. Các động tác trở nên dễ như ăn gỏi, và anh trở thành một người đơn thuần chỉ là quan sát
màn khiêu vũ đó. Không còn cảm giác của “cái tôi”. Chỉ có niềm vui và sự khiêu vũ của “tôi” đó. Anh ngay lập tức hiểu
được cơ sở của điệu Sufi trong những bản Dervishes quay cuồng. Những người vũ công cứ xoay và xoay mà không
hề thấy chóng mặt hay mệt mỏi- đó là bởi trạng thái ý thức nhất tâm- có khởi điểm là sự buông xuôi khỏi bản ngã cá
nhân.

Cú đột phá trong việc khiêu vũ của người đàn ông này sau đó lan sang cả những lĩnh vực khác trong cuộc sống của
anh ấy, mà vốn dĩ trước đây, những lĩnh vực đó đã bị bế tắc. Sự mở rộng xảy ra ở những nơi trước đây đã từng là
giới hạn, thay đổi này tác động rõ ràng, và có thể quan sát được từ bạn bè, gia đình của anh ấy, họ đã có những phản
hồi tích cực khiến lòng tự trọng của anh ấy được gia tăng, đồng thời củng cố thêm sự buông bỏ những ý nghĩ và cảm
xúc tiêu cực, thứ đã cản trở anh trải nghiệm những niềm vui trong cuộc sống.

Câu chuyện về sự trải nghiệm của người đàn ông ở trên được kể lại một cách chi tiết vì một số lý do sau đây. Trước
hết, nó minh hoạ cho Sơ đồ ý thức. Trong 50 năm đầu, người đàn ông này đã ở mức gần như thấp nhất trên sơ đồ
trong cuộc đời anh ấy, anh ấy đã sống với một niềm tin đi kèm “Tôi không thể, tôi không làm được”. Nó gây ức chế,
làm giảm lòng tự trọng và khiến anh ấy thường xuyên có hành động né tránh. Trong nhiều năm, anh đã cố tránh các
công việc xã hội, nơi có những buổi tiệc khiêu vũ. Anh ấy giận bản thân vì sự ức chế đó, cũng như nổi giận với bất
cứ ai bắt anh ấy nhảy. Chỉ trong vài giây phút, anh ấy đã đi qua toàn bộ Sơ đồ và có trải nghiệm ở những nấc trên
cùng của nó. Thời điểm đó, có sự xuất hiện của một loại ý thức cao hơn, nó nhận thức trong sự đột ngột về một trật
tự tâm linh rất cao. Với ý thức tiến bộ của sự hiểu biết và khả năng giải phóng tinh thần ấy (cụ thể là có sự giao tiếp
thần giao cách cảm, nhớ lại tiền kiếp và sự đồng bộ). Kết quả đã thay đổi cuộc sống của anh ấy trong khía cạnh
hành vi, đồng thời đem lại tác động loại bỏ các rào cản và các giới hạn vô tận. Những phản ứng tích cực từ xã hội
bắt đầu xuất hiện, nó giúp củng cố cho anh có thêm động lực tăng trưởng và thúc đẩy anh cam kết trong sự liên tục.

81
CHƯƠNG BẢY

VƯỢT QUA NHỮNG CHƯỚNG NGẠI ĐỂ ĐẠT Ý THỨC CAO HƠN

“Kiến thức” về Sơ đồ ý thức là một chuyện, nhận thức trong trải nghiệm lại là một chuyện hoàn toàn khác. Những
người đi trên con đường tâm linh thường cảm thấy bị “mắc kẹt” vào một chướng ngại trong một thời gian dài, điều này
có thể dẫn đến sự tuyệt vọng về mặt tinh thần; họ gần như “đọc hết mọi thứ, đi khắp mọi nơi và thử hết mọi điều”,
nhưng vẫn thức dậy mỗi ngày với cùng một sự dậm chân tại chỗ bên trong họ. “Tâm trí của tôi như miếng bọt biển:
đã hấp thụ hết tất cả thông tin rồi nhưng vẫn bị mắc kẹt ở chỗ cũ!”.

Ý CHÍ TÂM LINH

Làm thế nào để thoát ra khỏi khuôn mẫu sợ hãi mãn tính để bước vào trạng thái tinh thần cao hơn? Làm thế nào để
vượt qua những chướng ngại dường như bất khả? Cơ hội để giác ngộ hiện nay nhiều hơn gấp 1000 lần trước đây,
nhờ vào lượng thông tin hỗ trợ cho sự tiến hoá của ý thức, nhưng chỉ thông tin thôi là chưa đủ. Mà đúng hơn, chính ý
chí tâm linh mới là yếu tố quyết định trong những công việc thuộc về tâm linh. Sự tập trung vào ý chí tâm linh tỉ lệ
nghịch với tầm quan trọng tột độ của nó, đó là lời gọi mời đến sự can thiệp có tính Thần thánh. Để làm sáng tỏ điểm
này, tôi sẽ nêu ra một ví dụ có sự minh chứng mạnh mẽ. Ví dụ nổi bật nhất có lẽ là của các cựu chiến binh trong Thế
chiến hai, trải nghiệm tập thể cũng như cá nhân của bọn họ là vô cùng khủng khiếp. Sau khi chiến tranh kết thúc, phần
lớn các cựu chiến binh của các bên tham chiến đã nhanh chóng tha thứ cho nhau, thậm chí chào nhau và cùng ăn
mừng sự kết thúc của xung đột. Họ đã bắt tay nhau trong sự tôn trọng. Có những phi công Kamikaze oanh tạc cả một
con tàu của đối phương, cướp đi sinh mạng nhiều đồng đội của một người lính nào đó, để lại rất nhiều thương vong
và tàn tật. Bên kia chiến tuyến, những người lính Mỹ đã thả những quả bom nguyên tử giết chết hàng ngàn thường
dân. Như thế, nhưng khi chiến tranh qua đi, có một sự chấp nhận lẫn nhau kì lạ, và trong sự kín đáo, rằng xung đột
đẫm máu đã đi qua, “chiến tranh là vậy”, và nó đã kết thúc. Các cựu chiến binh phe đối đầu thậm chí còn trở thành
bạn bè thân thiết, thường xuyên lui tới thăm nhau. Người ta hiểu rằng, những người lính của các phe đều chỉ làm
những việc mà họ nghĩ họ cần phải làm để hoàn thành vai trò của họ, cho nghĩa vụ của họ với xã hội, với Tổ quốc,
với Chúa, với gia đình, hoặc bất cứ mục đích nào cho sự chiến đấu đó.

Tha thứ trong sự miễn cưỡng chẳng qua là hệ quả của việc chưa sẵn sàng loại bỏ “sự cứng đầu” của bản ngã trong
quan niệm về bất công, nó là sự ảo tưởng rằng những người khác không “xứng đáng”. Thực tế, người được lợi lạc
nhiều nhất là người tha thứ, chứ không phải người được tha thứ. Mục đích của ví dụ này là để chứng minh rằng, ngay
cả trong những điều kiện khắc nghiệt nhất vẫn có thể vượt qua được, chỉ bằng một hành động của ý chí với sự sẵn
sàng từ bỏ việc nuôi dưỡng hận thù và báo thù. Người ta có thể hỏi, làm sao mà một sự thay đổi thánh thiện như thế
lại có thể xảy ra được, trong một bối cảnh khủng khiếp bao gồm việc bị giam cầm trong những trại tù binh, bị tra tấn
dã man, bị bỏ đói cho đến chết, nơi đầy rẫy những sự tàn ác, thô bạo như thế. Kỳ thực, về mặt tâm lý, nó không thể
được thành toàn bởi bản ngã bậc thấp, hoặc là tâm trí, bởi vì hai điều đó không đủ sức mạnh cần thiết để tự giải phóng
một khi chúng đã bị cuốn vào trường năng lượng của Tội Lỗi, Thù Hận, những cấp độ có mức định chỉnh chỉ từ 30.

Do đó, nguồn gốc có quyền năng biến đổi không thể bắt nguồn từ tâm trí, hoặc bản ngã, những thứ được gọi là “Tôi”.
Sức mạnh cần viện đến là ý thức phi tuyến tính chất lượng được gọi là “Ý chí”, chỉ mình nó thôi là có thể mở ra cánh
cổng để sức mạnh đi qua và giải phóng sự thống trị của bản ngã.

VAI TRÒ CỦA ÂN HUỆ

Một khi bắt đầu được gọi mời, linh hồn thiêng liêng sẽ kết nối với chúng ta thông qua nhịp cầu ân sủng của Trường
Hiện Thực có quyền năng chữa lành. Những gì bản ngã cố hết sức cũng không thể nhấc nổi chỉ là một chiếc lông vũ
trong sự ân sủng đối với Thượng Đế. Một hệ quả tất yếu của quá trình biến đổi là, cái nhìn thù hận của chúng ta dành
cho người khác trở nên lành lặn hơn, và cách chúng ta nhìn chính mình cũng thay đổi. Như tôi đã đề cập ở chương
trước, đây cũng là những gì xảy ra đối với những người bị nghiện, một khi họ chấp nhận buông bỏ để có được sức
mạnh lớn hơn chính bản thân họ.

Những biến đổi chớp nhoáng kiểu như vậy xác nhận lại chân lý của pháp Thiền: “Thiên đường và địa ngục chỉ cách
nhau có một lằn ranh”. Chúng ta có thể ở dưới cùng của Sơ đồ, trong cơn đau đớn tột cùng kéo dài dường như vô
tận, và theo lời thúc giục của ý chí tâm linh, nếu có Thượng Đế, xin Ngài hãy giúp tôi, một sự biến đổi kinh ngạc sẽ
xảy ra, trong đó Vinh quang vô hạn của Đấng Thiêng Liêng toả sáng ở tất cả mọi tồn tại. Đối với một số người, chỉ khi
chìm trong hố sâu địa ngục và nỗi tuyệt vọng cùng cực thì bản ngã mới chịu đầu hàng, thậm chí là phải đến lúc gần
kề với cái chết.

82
Ân huệ của Thượng Đế luôn chờ đợi những ai thành tâm mời gọi đến. Thượng Đế không ép buộc bất cứ ai phải tiến
hoá, mà mỗi người tự nhận ra trách nhiệm của mình với vũ trụ và tồn tại trong quy luật công bình thiêng liêng, bởi đó
là động lực chung của cả vũ trụ. Giống như một cái nút chai giữa biển khơi, mỗi linh hồn tự bay bổng theo mức độ trôi
nổi của cái nút chai đó, nó không phải là một tính chất tuỳ tiện của đại dương. Cũng không có một bàn tay vô hình nào
khuấy động nó ngoại trừ chính mỗi người, toàn bộ điều đó là sự tự do mà Thượng Đế đã dành cho sự sống. Không
một ai bị ngã vì người nào “khác”. Thậm chí là những sự kiện được nhận thức gán cho cái mác “tai nạn”. Không có
“tai nạn” trong vũ trụ, kể cả khả năng cho việc đó cũng là không. “Tai nạn” – đơn giản có nghĩa là- một điều không thể
đoán trước hoặc không thể hiểu được bởi bản ngã tư duy tuyến tính và giới hạn của nó đối với mẫu thức nhân quả
Newton, mức định chỉnh 450.

Mỗi nhóm người được nhóm lại với nhau theo trường hấp dẫn. “Vật hợp theo loài” là cách diễn đạt thường thức. Từng
cá nhân, vật việc riêng lẻ bị cuốn vào một trường nam châm điện mạnh mẽ, và đến lượt trường nam châm đó lại bị
cuốn vào một trường khác mạnh hơn, và cứ như thế, cho đến tận cùng là Trường Thiêng Liêng.

Mặc dù, xung đột dường như không có cách giải quyết, ấy vậy mà, lối thoát thực ra lại vô cùng đơn giản, đến mức
kinh ngạc, đó là thông qua việc tuân thủ nghiêm ngặt các công cụ đã được chứng minh của diễn trình xử lý tâm linh-
nghĩa là- sẵn sàng đầu hàng và hướng về Thượng Đế, từ bỏ sự phản kháng bằng cách cầu nguyện, mời gọi đến sức
mạnh của ý chí tâm linh (mức 850), nói một cách dễ hiểu, đó là kêu gọi sự trợ giúp từ Thượng Đế. Một người có thể
yêu cầu sự giúp đỡ từ Chúa Trời, Thánh thần, cùng với việc thừa nhận sự thật rằng: cái tôi này, bản ngã này, không
thể tự nó đi qua bước này. Về mặt hoạt động, đây thực sự là một điều kiện cần để hiểu được và có sự bối cảnh hoá
lại những tình huống khác nhau để làm tan biến những tình cảnh trái ngang hiển hiện. “Xung đột”, hoặc “rào cản” sẽ
tan biến một khi chúng ta quan sát được nó từ một góc nhìn rộng hơn, cao hơn, và chính trong sự Ân sủng đó đã giúp
chúng ta thấy được huyền cơ và tái xây dựng lại bối cảnh trước đó của từng sự kiện cụ thể.

Ý chí cá nhân của một người chỉ hoạt động ở mức độ ý thức đã được định chuẩn tại một thời điểm nhất định trong
diễn trình phát triển của nó, do đó, thường là nó sẽ rất yếu để có thể tạo ra một sự thay đổi về bối cảnh mà chủ thể
mong muốn. Những nỗ lực thay đổi trong quá khứ thông qua cơ chế của bản ngã nhiều khi dẫn đến sự nghi hoặc,
ngờ vực, thiếu tự tin, và từ chối đối mặt với các vấn đề vì tính chủ quan. Điều này thường được thể hiện qua câu nói
“Tôi đã cố gắng rồi”, câu nói đó là thật, cái tôi nhỏ bé đó đã cố gắng, nhưng nó thường là mong muốn hơn là hành
động.

Những ý định đẹp đẽ của con cá bơn khi nằm dựa trên tảng đá của “sức mạnh bản ngã”, thứ vốn chẳng qua là tập
hợp của những đạo lý, lý lẽ chỉ để khơi móc thêm cảm giác tội lỗi và tự trách bản thân nó. Chỉ có cách buông bỏ thực
sự, và tìm về với quyền năng của Bề Trên, hoặc bất kỳ một Đấng thiêng liêng nào. Bạn không thể hiệu triệu đến sức
mạnh này ngày nào bạn còn chưa thực sự từ bỏ ảo tưởng về sức mạnh của bản ngã và thay thế nó bằng một quyết
định sâu sắc, như một lời tuyên bố chính thức. Bản ngã bậc thấp sẽ chống lại việc buông xuôi và từ bỏ quyền kiểm
soát của nó, bởi nó thấy vui khi chủ thể của nó bị mắc kẹt từ bất kỳ vị trí nào. Nhưng niềm vui này là đại diện cho niềm
kiêu hãnh của tâm trí, một thứ mà chúng ta cần từ bỏ.

Do đó, để vượt qua rào cản, việc hữu ích là chính thức tuyên bố bản thân chúng ta là bề tôi của Thượng Đế và muốn
cống hiến cho những công việc thuộc linh của Sự Thiêng Liêng. Từ đó, ý định của chúng ta sẽ được xếp đặt trong
những trường năng lượng mạnh mẽ vô tận, điều giúp chúng ta thoát khỏi những ràng buộc của sự dính mắc, chấp
trước, hay cái tôi… tuỳ thuộc vào từng mức độ mà chúng ta mắc kẹt.

BẢN THỂ TRẢI NGHIỆM: TIỆM CẬN VỚI BẢN NGÃ

Mọi người hỏi: “Tại sao tôi không thể vượt qua điều này? Tôi thấy bế tắc lắm”. Sự bế tắc đó là vì mỗi cấp độ đều có
“miếng mồi” đi kèm với thái độ dính mắc đó, nó có nguồn gốc từ bản chất động vật của chúng ta. Nếu không nhử mồi
thì không dẫn dụ được. Để tiến lên cao hơn, bạn chỉ cần biết một điều: thứ kiềm hãm bạn chính là “miếng mồi” đó, nó
là phần thưởng, và sự hài lòng mà vị trí đó mang lại cho bạn. Có câu, “Mật ngọt chết ruồi”. Nếu bạn sẵn sàng bỏ qua
miếng mồi mà bản ngã nhận được khi ở vào vị trí mà nó hài lòng, rào cản tự khắc sẽ được dỡ bỏ.

Để có được bất kỳ vị trí nào đã vượt lên bản ngã, điểm khởi đầu là “bản thể trải nghiệm”, nó tiệm cận với bản ngã. Ở
đó, nó giống như máy thăm dò thông tin, nó luôn tìm kiếm trải nghiệm, luôn tìm kiếm thành quả, luôn tìm kiếm lợi ích.
Để duy trì sự tồn tại, bản thể trải nghiệm đó phải liên tục thu thập dữ liệu , chẳng hạn như ăn được, không ăn được,
ai là bạn, ai là thù. Thay vì đi lo lắng về cấu trúc toàn bộ của bản ngã, hãy tập trung vào lợi thế hàng đầu của nó, đó
là trở thành bản thể trải nghiệm.

Bản thể trải nghiệm là chủ thể xử lý liên tục để xác định đâu là tốt, đâu là xấu, ai là bạn, ai là thù- một cách nhanh
chóng. Trong một phần mười nghìn giây, bản thể đó đi xử lý các ngân hàng thông tin khổng lồ mà không một chiếc
máy tính nào xử lý nổi, bởi nó quá phức tạp. Nó bao gồm hệ giá trị, ý nghĩa, tầm quan trọng, mức độ ưu tiên. Một
chiếc máy tính không thể làm được điều đó, bởi nó không có sự xem trọng thứ này hơn thứ kia. Máy tính không đánh
giá cao bit thông tin này hơn bit thông tin kia, nhưng bộ xử lý bản ngã của chúng ta thì có.

83
Bản thể trải nghiệm là cái một phần mười nghìn giây bị tách khỏi hiện thực. Do đó, bản ngã không bao giờ trải nghiệm
những gì đang xảy ra, mà nó đi trải nghiệm cái trải nghiệm của những gì đang xảy ra. Bằng phương pháp loại suy,
bản ngã không trải nghiệm trực tiếp hiện thực đang xảy ra, mà nó chỉ đang trải nghiệm bản ghi lại. Tức là, nó đang trải
nghiệm những gì mà một phần mười nghìn giây trước được ghi lại. Nghe thì có vẻ không nhiều, ngoại trừ việc chất
lượng của hiện thực đó chỉ thay đổi hoàn toàn mà thôi. Ở bên đầu này của một phần mười nghìn giây, hoa nhìn như
hoa, cây nhìn như cây. Nhưng phía đầu kia của một phần mười nghìn giây, chúng toả ra thần tính! Giác ngộ chính là
lướt qua bản thể trải nghiệm đó. Bản thể trải nghiệm đột nhiên biến mất, nó không mờ đi từ từ, đơn giản là tiêu biến,
chỉ còn lại một tâm trí im lặng, vì nó kinh ngạc.

Nói cho cùng, con người là nghiện trải nghiệm. Đó là lý do chúng ta chuyển kênh Ti-vi, bật nhạc, chơi game, ăn món
này, ăn món kia. Tại sao chúng ta bị cuốn vào trải nghiệm? Bởi vì trong quá trình tiến hoá, bản ngã đã trải qua phần
kinh nghiệm sống sót. Do đó, nó nhận thức rằng trải nghiệm là thứ giữ cho nó tồn tại, vì nó không có nguồn năng
lượng tâm linh bên trong. Bản ngã chỉ có năng lượng động vật. Vì vậy, từ tất cả trải nghiệm, cái “cốt” của nó, nguồn
gốc của nó chỉ là nhu cầu muốn tồn tại của động vật. Ví dụ, bản ngã có được “phần thưởng” bắt nguồn từ việc vui vì
thấy người khác đau khổ, nó thấy nó đúng, nó thấy nó thắng: “Thằng kia, ăn *** rồi chứ gì, mày xứng đáng bị như vậy!”

Bản thể trải nghiệm có sự hài lòng với tính ái kỷ, nó tự nguỵ trang điều đó là “công lý và báo thù”, “sự nổi giận chính
đáng”, chủ nghĩa thiện nguyện, quyền tự do ngôn luận, những nạn nhân chính đáng, và những thứ tương tự. Nhưng
nếu chúng ta soi xét mình một cách không sợ hãi và tự trung thực, chúng ta sẽ thấy rằng, bất kỳ loại tiêu cực nào
đang quấy nhiễu chúng ta cũng là vì chúng ta dính mắc vào miếng mồi của nó. Bạn cũng có thể nói: “không có ai thích
làm người tội nghiệp”. Ấy vậy nhưng trên thực tế, có không ít người lại thích thú cảm giác bị đoạ, bị hành, bị dày vò.
Chuyện này không có gì mới mẻ với những nhà trị liệu, các bác sĩ khoa tâm thần, hoặc các nhân viên xã hội, họ đã
lắng nghe lời kể của nhiều nạn nhân từ năm này qua năm khác. Thế giới này có nên thay đổi để cá nhân nào đó thấy
thoải mái hơn không? Bản ngã là một, tính ái kỷ là hai, là những điều hiển nhiên.”Cách của thế giới này đang khiến tôi
không thoải mái”. Những con người ái kỷ như thế thường thấy vấn đề là của thế giới, và họ tìm cách thay đổi thế giới
chứ không phải là bản thân họ. Nếu vũ trụ cho bạn một đêm thức trắng, vậy có cần phải thay đổi cả lịch sử vũ trụ để
biến thành một tối ngon giấc cho bạn không? Chìa khoá để thay đổi mức độ ý thức là bạn sẵn lòng thay đổi bản thân
mình, chứ không phải đi thay đổi người khác, hay thay đổi cả xã hội. Một khi bạn chấp nhận thay đổi bản thân mình,
trải nghiệm của bạn về những người khác sẽ thay đổi theo một cách khác.

Điều duy nhất bạn cần nhận ra trong bất cứ loại chướng ngại nào, cũng như nguyên tắc treo thưởng của bản ngã, đó
là miếng mồi mà bản thể trải nghiệm đang muốn thoát ra khỏi vị trí đó là gì? Của sự tiêu cực đó là gì? Của cái hố chôn
đó là gì?

TÍNH HAI MẶT CỦA BẢN NGÃ: THÍCH VÀ GHÉT

Sự vượt tiến lên trên các cấp độ ý thức: nấc thang giác ngộ dẫn bạn đi sâu vào từng cấp độ, và vượt qua nó bằng
cách đầu hàng các tính chất nhị nguyên cụ thể ở mỗi giai đoạn. Ở đây chúng tôi sẽ trình bày khái quát những điểm
thích và ghét của bản ngã để người đọc có thể bắt đầu tìm hiểu quá trình diễn ra như thế nào bên trong nội tâm. Các
cặp thích và ghét dưới đây có thể được áp dụng cho tất cả các thiết lập của bản ngã và cho tất cả các cấp độ ý thức.

Thích Ghét
Thân quen, an toàn Thay đổi, không chắc chắn
Bám dính Sợ cái mới
Dễ dàng Nỗ lực

Điểm thu hút được bản thể trải nghiệm luôn là những thứ quen thuộc. Điều đầu tiên chúng ta làm khi đứng trong một
đám đông là nhìn xung quanh để tìm kiếm một gương mặt quen thuộc. Nó ghét cảm giác không chắc chắn. Chúng ta
băn khoăn, sẽ ra sao nếu chúng ta ở một nơi mà chúng ta không biết bất kỳ ai. Do đó, chúng ta bám vào những gì đã
biết và sợ hãi về tương lai. Quá khứ chắc chắn, nhưng tương lai thì không chắc chắn, mà bản ngã thì thích những gì
chắc chắn, vì thế nó bám vào những gì nó đã biết. Chúng ta vẫn thấy thoải mái kể cả khi chúng ta chọn sai. Bạn có
bao giờ thử về nhà từ chỗ làm bằng một con đường lạ chưa? Không được mấy ngày bạn cũng sẽ quay lại với tuyến
đường quen thuộc. Chúng ta thích sự quen thuộc, chúng ta thích những thói quen, chúng ta không thích thay đổi trừ
phi sự thay đổi đó mới lạ và những gì hiện tại không thuộc về cái mà bản thể trải nghiệm đang thích (xem bảng dưới).

Bản ngã muốn bám vào một sự cân bằng ảo tưởng nội môi hơn là tạo ra thay đổi và trải nghiệm sự mất cân bằng tạm
thời. Vì vậy, thường người ta hay ở trong môi trường tiêu cực, thậm chí có tính phá hoại trong các mối quan hệ hoặc
công việc chỉ vì sự thay đổi đòi hỏi ở họ một vài sự nỗ lực.

84
Bản thể trải nghiệm bị thu hút bởi những gì dễ dàng và ghét nỗ lực. Sẽ tiện hơn nếu chỉ làm theo cách cũ thay vì nỗ
lực để thay đổi mục tiêu. Vậy, làm thế nào để chúng ta có thể vượt qua ác cảm để nỗ lực tạo ra những thay đổi tích
cực? Trước hết, nó không cần nhiều nỗ lực như bạn tưởng, bởi sự chú ý một mình nó đã có thể tự khắc giảm bớt
cường độ của thói quen.

Lấy ví dụ, bạn muốn cắt giảm lượng bánh quy nạp vào mỗi ngày, lý do là vì bạn đã ăn quá nhiều trong suốt 20 năm
qua. Bạn nói rằng, “Ngày nào đó tôi sẽ bỏ ăn bánh quy”. Nhưng bạn là đang tự dối mình. Bạn đã ăn tầm 50 chiếc bánh
quy mỗi ngày trong khoảng 20 năm, vậy làm sao bạn có thể đột ngột ngừng ăn được? Sức mạnh ý chí lúc này không
làm gì khác ngoài việc mang lại cảm giác tội lỗi và thất bại. Bí mật không nằm ở nỗ lực, mà nằm ở sự chú ý của bạn.
Chỉ bằng cách đếm số lượng bánh quy mà bạn đang nạp mỗi ngày, và đừng cố làm bất cứ điều gì. Để một hộp bánh
quy ra đó, và vào cuối ngày, hãy đếm số lượng bánh mà bạn đã ăn. “Thứ hai, 68 chiếc bánh quy. Thứ ba, 64 chiếc
bánh quy. Thứ tư, 72 chiếc bánh quy.” Bây giờ, vấn đề là không phải cố làm gì đó với đống bánh quy, mà chỉ cần chú
ý đến nó. Hãy ghi nhớ số lượng bánh quy bạn ăn mỗi ngày và viết nó lên tấm lịch. “Thứ hai, 63 chiếc. Thứ ba, 18
chiếc, ôi, tuyệt quá đi mất. Thứ tư, trở lại như bình thường, 58 chiếc”.

Những gì sắp được xảy ra, trước hết bởi ý định, nguyên tắc của Heisenberg bắt đầu được áp dụng một cách dễ dàng,
nghĩa là, một khi quan sát việc gì, bạn bắt đầu thay đổi nó. Do đó, bản thân nhận thức sẽ bắt đầu giảm sự thu hút đối
với bánh quy. Đến cuối tháng, bạn còn ăn 14 chiếc bánh quy mỗi ngày. Một hoặc hai tháng sau, bạn chỉ ăn 6 chiếc
bánh quy mỗi ngày. Đột nhiên bạn sẽ thốt lên, “Gì vậy trời, mình đâu cần ăn bánh quy nữa”. Mọi thứ hoá ra không hề
khó! Không nhất thiết phải đấu tranh hay bắt bản thân kiêng khem, hoặc tự thao túng với cảm giác tội lỗi. Chỉ đơn giản
là nhận biết nó, dễ dàng thay, bạn đã có nguyên tắc Heisenberg để áp dụng theo, cùng với ý định của bạn, bạn khai
thác sức mạnh từ trường lớn hơn, thay vì của bản ngã của bạn.

Thay đổi và buông bỏ những điều quen thuộc không khó, nhưng chúng ta luôn tránh né, vì đó là nỗ lực của bản ngã.
Nhớ rằng, nó chỉ là nỗ lực khi nào bạn thực hiện nó theo một cách cưỡng chế, áp bức bản thân, cố kéo bản thân bằng
chiến lợi phẩm cá nhân. Bất cứ điều gì bạn không thích ở bản thân- sự khó chịu với mọi người, hay chửi tục, hoặc
những khiếm khuyết khác- đều có thể được giải quyết bằng cách ghi lại số lần bạn đã làm điều đó trong ngày. Hãy
chú ý và theo dõi nó. Bất cứ ai cũng có thể nhận thấy; nó không đòi hỏi bạn phải gắng sức, nó chỉ cần sự chú ý của
bạn.

Thích Ghét

Tự hào Khiêm tốn


Nổi giận/ “Sức mạnh” Thụ động/ “Yếu đuối”
Chiến thắng Thua cuộc

Điểm thu hút của Tự hào là ở chỗ, bạn giỏi hơn những người khác, một con đầu đàn, và bất khả chiến bại. Khiêm tốn
được nhìn nhận là mất đi vị thế, vì thế bạn không thể “lùi lại” hoặc đánh mất vị trí đó của mình. Chúng ta tự hào về vị
trí của mình, và có ác cảm với sự khiêm tốn, nhầm lẫn điều đó với bị sỉ nhục. Người khiêm tốn không phải là người bị
sỉ nhục. Một người khiêm nhường và trung thực đã tự thừa nhận và sở hữu những điểm yếu của họ, vì vậy họ không
thể bị tổn thương, cảm thấy bị xúc phạm hay bị khinh thường. Họ sẽ không có cảm giác bị rẻ mạt chỉ vì người khác
không đồng ý với họ.

Nếu bạn có cảm xúc dễ bị tổn thương, hãy ngồi xuống và lập ra một danh sách tất cả những điểm yếu của bản thân
mà bạn có thể nhớ được, sau đó hình dung ra những diễn viên hài nổi tiếng mọi thời đại đang thảo luận về các nhược
điểm đó của bạn. Các diễn viên hài là những nhà trị liệu tuyệt vời của nhân loại, bởi họ khiến chúng ta tự cười chính
mình. Nơi mà tôi lớn lên, Wisconsin, những người đàn ông gọi nhau bằng biệt danh. Họ gọi tôi là Lùn Beo trong quân
đội Hải quân, nhưng nếu là ngày nay, một người nhạy cảm sẽ cho rằng biệt danh này là vi phạm quyền của họ và
phân biệt đối xử dựa trên chiều cao của họ! “Đừng quá xem trọng bản thân” là một trong những phương châm tuyệt
vời của Nhóm 12 bước, nó nói rằng chúng ta nên vui vẻ và dễ tính.

Chúng ta đã thấy cái tôi đánh đồng sự tức giận với sức mạnh và sự thụ động với yếu đuối. Sự tức giận mang lại cho
bạn một cái giá giả tạo, kiểu như bạn có vẻ mạnh hơn bạn thực sự. Trên thực tế, người tức giận là người yếu hơn-
rất nhiều, như một điều quen thuộc trong môn Karate và các môn võ thuật khác. Một khi đối phương nổi khùng, anh
ta tức giận và bạn biết bạn sẽ có thể hạ gục anh ta một cách dễ dàng chỉ bằng một ngón võ.

Con vật nổi cơn giận dữ để đe doạ kẻ khác, bởi nếu nó sợ, đó sẽ được xem là yếu nhược, thụ động. Trong một số
nền văn hoá nhất định, việc bị xem là thụ động hay yếu đuối nhiều khi phải bị trả giá bằng cái chết. Hoặc ở những
vùng khác, người ta chỉ nhớ rằng bản thân đã bị công kích nhiều như thế nào nếu thụ động.

Do vậy, hiện thực của người trong trường năng lượng trên 200 hoàn toàn khác so với hiện thực của người trong
trường năng lượng dưới 200. Có chút ngây ngô nếu nghĩ rằng ai cũng giống như mình. Không đâu, thực ra là còn

85
ngược lại. Bạn nghĩ rằng việc giành thanh toán hoá đơn là một ý tưởng hay, trong khi người khác chỉ thấy bạn thật
ngốc nghếch. Bạn nghĩ rằng nên nói sự thật và xin lỗi, nhưng cái mà người khác thấy là bạn quá khù khờ. Với người
dưới 200, những gì cần thiết là đáp trả một cơn giận bằng một cơn giận khác, trả đũa và giành lấy phần thắng. Trong
một thế giới nhị nguyên, có người thắng thì người còn lại là kẻ thua cuộc (và tốt nhất người đó đừng là “Tôi”). Đó là
loại tâm lý “thắng- thua”, họ không có ý thức “cùng thắng”.

Trên 200, một chế độ quan sát khác sẽ mở ra. Bạn thấy rằng cái tôi mất đi thường là cái được của tinh thần, và ngược
lại. Về mặt nghiệp, mất mát đôi khi lại là lợi ích lớn nhất trong cuộc đời của bạn, bởi vì thế giới là hiện thực tối ưu nhất
để xoá bỏ nghiệp và gia tăng công đức. Thế nên là ước mơ thay đổi thế giới không có mấy ý nghĩa. Tất cả chủ nghĩa
anh hùng tốt đẹp có thể khuyến khích người khác dính dáng vào việc tạo nghiệp xấu. Mà những gì gọi là mất mát, bi
kịch nhiều khi lại thực sự là lợi lạc ở chỗ nó mở ra cánh cổng của ân điển và sự tự do tối thượng.

Thích Ghét

Làm người quan trọng Vô danh, ẩn mình

Được Mất

Tiền Thanh bần

Sự thú vị Tẻ nhạt

Bản ngã muốn trở nên quan trọng và sợ nếu nó không là ai cả. Cái tôi cần sự chú ý và muốn được quyến rũ trong mắt
công chúng. Ở cấp độ cao hơn, bạn thấy nhẹ nhõm khi trở thành một người -không-là-ai-cả, bạn thấy biết ơn vì được
làm một người bình thường và được cứu rỗi khỏi sự phô trương.

Tính chất nắm giữ chặt chẽ này của bản ngã là bởi nó muốn kiểm soát. Ngay khi bản ngã có ý nghĩ về thứ gì đó là
“của tôi”, nó sẽ thấy đặc biệt hơn. Đó chỉ là một chiếc đồng hồ, cho đến khi nó trở thành “chiếc đồng hồ của tôi”, nó sẽ
đặc biệt và có nhiều cảm xúc hơn, như kiểu kỷ vật của ông cha để lại. Giây phút bạn thêm vào chữ “của tôi”, bản ngã
đã bị thổi phồng, và bạn bị mắc kẹt. Sự thật là chẳng có gì thuộc về bạn. Tất cả mọi thứ đều là từ Thượng Đế. Chúng
ta chỉ có quyền tạm giữ với tư cách là người quản lý những thứ đó, bao gồm luôn cả cơ thể này. Đó là một “cơ thể”,
đó là một “khối óc”, ngay khi bạn ngừng đặt cho chúng là “của tôi”, chúng sẽ mất đi tính hấp dẫn, vốn là điều mà bản
ngã thích đầu tư vào.

Bạn thường nói, “Chắc chắn là suy nghĩ trong đầu tôi thì là của tôi”, nhưng thực ra không phải như thế. Chúng ta chỉ
bị tâm trí thôi miên để tin rằng những ý nghĩ đó là “suy nghĩ của tôi”. Đúng hơn, những ý nghĩ xuất phát từ một trường
ý thức không thuộc về nơi đâu cả. Mỗi cấp độ ý thức có trường ý nghĩ vượng địa riêng của nó. Ngay khi bạn kết nối
với một mức độ ý thức nhất định, nghĩa là bạn đang kết nối với một trường hấp dẫn cụ thể. Trường hấp dẫn đó chứa
những suy nghĩ tương đồng qua hàng nghìn năm. Vì thế không có gì mới mẻ trong nội dung của những suy nghĩ này
từ bạn. Tôi muốn là người tiên phong- có phải bạn nghĩ bạn là người đã phát minh ra suy nghĩ đó không?

Cùng với tính tự tôn, bản ngã được thiết kế để ham muốn đạt được lợi ích, và nó chất chứa rất nhiều suy nghĩ về lợi
ích tiền bạc cũng như cách mà điều đó sau cùng sẽ mang lại hạnh phúc cho nó. Thú vị thay, nghiên cứu của chúng
tôi đã phát hiện ra rằng, hạnh phúc tương quan với mức độ ý thức, không phải với sự giàu có, hay sức mạnh. Một
người có thể được vui vẻ mà không cần đạt được thứ gì. Trên thực tế, có một mức độ nhất định của việc càng có ít
lại càng tốt! Bạn có thể sống chỉ với một cái cũi, một cái chăn mà bạn mua được giảm giá, một hộp nến, một quả táo,
một miếng pho-mát và một lốc pepsi. Và để thêm phần hưởng thụ, bạn sẽ có thêm một chú mèo. Bạn có cần phải có
gì để đọc không? Không. Bạn có cần Ti-vi không? Không. Bạn có cần xem tin tức không? Không.

Bản ngã trải nghiệm sợ buồn, sợ chán, và nó sống bằng năng lượng rút ra được từ sự phấn khích. Có cách nào để
vượt qua nỗi sợ buồn chán không? Đơn giản chỉ cần để bản thân cảm nhận sự buồn chán đó và điều tra lý do tại sao
bạn thấy buồn chán, cảm xúc cho sự buồn chán đó là gì. Nếu bạn muốn khám phá những gì bản thể trải nghiệm đang
trải qua, hãy cho phép bản thân sống cùng với nó thay vì đắm chìm trong chủ nghĩa thoát ly, chỉ cần suy ngẫm: tôi
đang chán nản điều gì? Tôi đang trải qua điều gì? Tại sao tôi lại có ác cảm với nó? Đó là một cách nhanh chóng để
tìm ra chính xác bản thể trải nghiệm, nó đang làm gì và nó đang cảm thấy như thế nào? Rồi bạn sẽ hỏi, “Nó đang chán
ghét điều gì? Bản thân tôi đang chán nản và khó chịu ở khía cạnh nào? Nó đang phàn nàn điều gì? “Chả có gì thú vị
hết”. Thế tôi sẽ được gì từ sự thú vị? “Cảm giác sống động và phấn khích”. Sự sống động đó là của tinh thần hay của
bản ngã? Hoá ra là, con thú cưng trong bạn muốn giải trí liên tục. Nó sợ buồn, nó sợ chán, vì buồn chán có cảm giác
giống như cái chết.

Thích Ghét

Ước muốn Không có được

86
Địa vị Không là ai cả
Được chú ý Bị ngó lơ
Có quan điểm Bình thường
Thèm khát Vỡ mộng
Kiểm soát Chấp nhận
Cứu thế giới Từ bỏ

Bản ngã phát triển mạnh nhờ ham muốn. Nó lo sợ nó sẽ không “nhận được”. Nó trở nên bị thôi thúc đạt được những
gì nó muốn. Như tôi đã từng mô tả trong quyển Letting Go, nghịch lý ở chỗ chính sự ham muốn này lại đẩy lùi điều
được ham muốn. Ví dụ, khi chúng ta gây áp lực lên người khác để đạt được điều chúng ta muốn, họ sẽ tự động chống
lại, bởi chúng ta đang cố gây áp lực với họ bằng những yêu cầu hoặc kỳ vọng vô thức của chúng ta. Tất cả chúng ta
đều trải qua hiện tượng này, khi ai đó đến trước cửa nhà chúng ta và muốn bán cho chúng ta thứ gì đó. Họ càng thúc
ép, chúng ta càng chống lại. Doanh nhân người Mỹ Robert Ringer gọi nó là “Lý thuyết nam nữ”. (Nếu một chàng trai
gặp một cô gái, một khi cô ấy nhận ra anh ta muốn có được cô ấy, thì việc anh ấy muốn có cô ấy sẽ trở nên rất khó.
Nếu sau đó chàng trai quyết định rút lui, cô ấy sẽ muốn anh ta trở lại, và lúc này anh ta lại hành động một cách xa
cách).

Chìa khoá để buông bỏ ham muốn là hiểu rằng, tất cả các loại hấp dẫn đều là sự phóng chiếu của trường năng lượng
“quyến rũ”, như Alice Bailey đã miêu tả trong Glamour, một trong những quyển sách rất hữu ích. Bản ngã kiến tạo sự
đặc biệt và quyến rũ lên đối tượng, và tự nó thấm nhuần sự hấp dẫn đó. Người ta thường nghĩ rằng sức hút tồn tại
bên trong vật thể, lấy ví dụ như một chiếc bánh mì kẹp thịt. Rõ ràng điểm hấp dẫn không nằm ở bản thân chiếc bánh
mì, vì có nhiều người dù rất đói cũng sẽ không ăn. Thậm chí họ có thể thấy ghê tởm nó, “Đó là bánh mì thịt, nó rất có
hại. Thịt gây ra khí mê-tan và sự nóng lên toàn cầu. Chúng tôi phải ăn chay để giữ sự cân bằng cho trái đất!” Thế nên,
cách để thoát khỏi ham muốn là buông bỏ sự phóng chiếu của hào nhoáng vào bất cứ thứ gì mà bản thể trải nghiệm
đang khao khát. Điều này cũng là một lời dạy của Đức Phật, bước đầu tiên là chấm dứt sự ràng buộc của bản ngã với
những thú vui giác quan.

Bản thể trải nghiệm tìm kiếm địa vì và sợ hãi nếu bị vô danh. Nó muốn được chú ý, sợ bị bỏ qua. Nó muốn bày tỏ ý
kiến của mình về mọi thứ và sợ hãi chỉ là một người bình thường. Tự do ngôn luận chính là gánh tạp kĩ cho bản ngã
trong thời đại ngày nay. Một ngày nọ, một người bạn đến và nói rằng, “Tôi vừa phát hiện ra một chuyện hết sức thú vị.
Đối với tất cả mọi điều, tôi chẳng có quan điểm gì hết. Tôi thấy được giải thoát khỏi việc phải trình bày ý tưởng, thể
hiện quan điểm, kiếm một chỗ đứng và giương cao biểu ngữ. Tôi chưa từng thấy được tự do như thế này trước đây”.

Đây là vấn đề nhận ra giá trị của việc chỉ làm một người bình thường và không đưa ra ý kiến của bạn về mọi thứ. Là
một người bình thường sẽ khiến cuộc sống của bạn an toàn hơn. Nếu có một tay súng tìm ai đó để bắn trong một đám
đông xa lạ. Thì “ Này! Tên có bộ ria mép màu hồng và mái tóc đỏ quạch kia!” Đoàng! Bản ngã xem thường sự bình dị,
nhưng bạn có thấy ai đó có vẻ bình dị và bị ám sát đâu đây không? Cách để tồn tại là trở nên bình thường, bình dị, và
sống an hoà. Nếu bạn thích gây hấn, bạn sẽ hay gặp chuyện phải gây gỗ. Một khi nhận được sự an lạc của việc sống
bình dị và trở thành một người bình thường, bạn sẽ buông bỏ ham muốn “chơi nổi” của bản ngã.

Bản ngã muốn được chú ý, muốn ý kiến ý cò, nó khao khát mọi thứ và muốn kiểm soát. Kiểm soát người khác, kiểm
soát thế giới, thay vì quán chiếu bên trong bản thân nó. Nó muốn thay đổi thế giới thay vì thay đổi chính nó. Nếu chúng
ta không thích thế giới theo cách của thế giới, hãy làm cho thế giới lợi lạc hơn bằng cách quán chiếu nội tâm và tự
thay đổi bản thân. Tất cả những ai làm điều tốt đẹp, kì diệu, những vị vua chúa vĩ đại đều đã chết. Họ cố lập ra những
triều đại hùng mạnh nhất trên trái đất, và họ cũng chết. Nếu từ Thượng Đế trên toà án làm chúng ta thấy khó chịu, vậy
chúng ta nên hỏi Vì sao như thế?

Sự buông bỏ lớn nhất là buông bỏ ham muốn kiểm soát mọi thứ. Vấn đề của thế giới không phải là việc nó như thế
nào, chỉ đơn giản là tầm nhìn hạn hẹp và sự mù quáng của chính chúng ta. Nếu chúng ta mở rộng tầm nhìn về nó,
chúng ta sẽ thấy thế giới đang phát triển theo một sự thiết kế không phải từ chúng ta. Chúng ta chỉ lãng mạn hoá nó,
nên thế nào, phải như thế nào, và chỉ trích những người không cùng quan điểm với mình. Hãy thoát khỏi việc chỉ trích
này bằng một câu nói đơn giản: “Bạn thích va-ni không có nghĩa bạn phải ghét sô-cô-la, và bạn thích sô-cô-la không
có nghĩa là bạn phải ghét va-ni”. Chúng ta hãy tận hưởng sở thích của riêng mình và không cần phỉ báng sở thích của
người khác. Làm như vậy là chấp nhận cách mà ý thức đang phát triển, chứ không cố kiểm soát mọi thứ như thể ai
đó biết rõ thế giới này hơn Thượng Đế. Người trí tuệ là người buông bỏ thế sự này lại cho Thượng Đế (mức định
chỉnh 535).

Bản ngã tinh thần muốn cứu thế giới. Cứu thế giới khỏi điều gì? Tất cả những vị chân sư đều cùng chỉ nói về một điều:
vấn đề duy nhất của nhân loại là vô minh. Vậy nên nếu muốn làm gì đó cho thế giới, tốt nhất là chúng ta cố gắng vượt
qua sự vô minh đó của chính mình, bắt đầu bằng giáo dục, bên trong chính mỗi người, để thấy những điều mà bạn

87
tưởng thật ra còn không tồn tại. Sự vô minh là cái giả định của bản ngã về một thế giới mà nó cho rằng là sự thật. Bản
ngã thấy cuộc sống bất công, nhưng đó là bởi từ cái kiến nhị nguyên của nó mà ra. Nếu quan sát từ một vị trí khác,
cũng đồng thời là một sự việc, đối với người khác lại là công lý hoàn hảo.

Thích Ghét
Lạ thường Tẻ nhạt, lặp lại
Giật gân Không hào hứng
Hùng hổ Bị động
Bàn tán Ngoài lề
Thời thượng Đơn điệu

Bản ngã thích những gì mới lạ; ghét nhàm chán và thói quen; chúng ta luôn sợ bỏ lỡ điều gì đó; nghiện cảm giác
mạnh, mạo hiểm và nguy hiểm. Âm thanh của chiếc mô-tô đua – rùmmm rùmmm – như đang mời mọc “Nào, chàng
trai trẻ, muốn phấn khích một chút không, thử một chút rủi ro đi!” Trong tâm trí con người luôn có những thái cực gây
bứt rứt, giống như một gã người Pháp có sở thích leo lên những toà nhà chọc trời ở khắp nơi trên thế giới. Gã như
kiểu người bay. Gã trèo từ toà nhà này qua toà nhà khác, cheo meo trên những vách tường dựng đứng cẩm thạch ,
cảnh sát phải tháp tùng gã quay lại mặt đất và bắt giữ gã, nhưng cứ hễ được phóng thích, gã nhất định sẽ quay lại
với việc leo trèo này. Đây thật ra là hội chứng nghiện cảm giác mạnh.

Bản ngã thích sự hiếu chiến, và ghét những gì thụ động. Nó muốn được “hùa” theo và nói chuyện phiếm về “những
người khác” để không phải bị “ra rìa”. Nó tham gia vào những gì nguy hiểm chỉ để được là thành viên của một nhóm.
Nó muốn trong đội thay vì một mình, muốn nhìn trông thời thượng thay vì đơn điệu. Nó muốn là một phần của “đám
đông”, bất kể nhóm đó là nhóm gì.

Thích Ghét
Được đúng Bị sai
Nổi trội Bình thường
Phát biểu Im lặng
Cứng đầu Dễ bảo
Nổi danh Ẩn danh

Và dĩ nhiên, cái tôi cần được là đúng! Thực tế là, được đúng đối với nó còn quan trọng hơn là được sống. Thà hy sinh
cả chục triệu sinh mạng vì danh nghĩa quốc gia chứ không muốn nhận sai. Bản ngã là thứ giết chết chúng ta! “Chết
vinh hơn sống nhục”, nó nói như vậy. Và giờ thì chúng ta thấy ai mới là hung thủ thực sự rồi đấy. Không kẻ nào khác
“ngoài kia” cả, mà chính là “trong đây” này.
Khi được là đúng, cái tôi cảm thấy nó ưu thế hơn, vì nó sợ sự bình thường. Nếu chúng ta có thể gạt qua nỗi sợ của
việc làm một người bình thường, hoặc bị bỏ qua, không có gì đặc biệt, thì chúng ta sẽ tránh được rất nhiều cú té đau
điếng vì cái tôi. Hãy tự cho mình là một người vô danh, bình thường, “chẳng là ai cả”, bạn sẽ thấy mình tránh xa được
cả mớ rắc rối ra sao.

Cái tôi trải nghiệm muốn lên tiếng, muốn la lối và được lắng nghe thay vì im lìm. Loại chủ nghĩa duy kỷ này hạ thấp
khái niệm tự do ngôn luận ở Hoa Kỳ, trong một bối cảnh mà đa số các bài phát biểu đều không cần thiết bởi nó đơn
giản là xuất phát từ lòng tự ái. Nếu định chỉnh tự do ngôn luận ở dạng khái niệm, nó khoảng 340. Nhưng theo cái cách
mà nó đang được thực hành ở Hoa Kỳ, thì chỉ đâu đó 187. Người ta bàn về tự do ngôn luận và ngỡ đó là biểu hiện
văn minh, nhưng đúng hơn quyền tự do ngôn luận là biểu hiện của sự văn minh khi ai đó có thể xuất hiện trên truyền
hình hoặc thoả sức làm anh hùng bàn phím. Có cần phải sống chết với điều đó không? Im lặng là nỗi ám ảnh của bản
ngã- một tên cứng đầu, cố chấp và chỉ ham muốn được nổi trội.

Chúng ta đã đảo lộn các giá trị tinh thần trong xã hội này,với quyền tự do ngôn luận được tôn sùng như một lý tưởng
đỉnh cao của loài người, thực chất đó chỉ là chủ nghĩa vị kỷ trá hình. Tại sao? Trước hết nó mang lại cái mác tiếng nói
bình đẳng cho sự nguỵ biện. Như tôi đã đề cập từ trước, các phương tiện truyền thông hô hào “Công bằng và Cân
bằng”, nghĩa là sẽ có một ai đó thuộc phe Trái Đất phẳng đến để đưa ra ý kiến trái chiều với phe Trái Đất tròn. Sự phi
lý lập tức được phơi bày nếu chúng ta cũng áp dụng nguyên tắc tương tự cho các đấu trường khác. Chẳng hạn, giờ
phẫu thuật não đã đến, có phải bác sĩ phẫu thuật sẽ phải thăm dò ý kiến của những người cộng sự với ông ấy, “Mọi
người thấy tôi có nên kẹp động mạch não trái không?” Cái này gọi là ai cũng có lợi đây sao?

Mặt trái của xã hội này là khi chúng ta nói chúng ta có thể bỏ phiếu cho chân lý. Nếu sai lầm này không được sửa
chữa, nó sẽ là sự huỷ diệt nền văn minh này của chúng ta, như So-crat đã dự đoán vào khoảng năm 350 trước công
nguyên. Ông ấy nói, nếu bạn cho mọi người có một lá phiếu bình đằng để xác định sự thật, những kẻ ác sẽ phá huỷ
cả xã hội. Một ví dụ khác là Wikipedia , định chỉnh ở mức 280, khác biệt rõ rệt so với Bách Khoa Toàn Thư Anh Quốc-
mức định chỉnh 460- cho thấy nó có tiêu chuẩn cao hơn về sự thật.

88
Theo dòng lịch sử, cái mà chúng ta đang bàn ở đây là sự thoái hoá của nền văn minh một khi pháp lý xác định một
hành động nào đó là chủ nghĩa hành động thể hiện biểu tượng. Nếu chủ nghĩa hành động thể hiện biểu tượng này
xảy ra ở một đất nước tự do, bạn có thể thể hiện bất cứ điều gì bạn muốn và không hề có sự ràng buộc nào cả. Cái
gì cũng có thể được xem là chủ nghĩa hành động thể hiện biểu tượng- đốt quốc kỳ công khai, nghi lễ Ku Klux Klan, ấu
dâm. Lúc này, hành động thể hiện biểu tượng không có bất cứ giới hạn nào. Không thể đáp trả, vô trách nhiệm, vô
pháp vô thiên. “Tôi được quyền làm bất cứ gì tôi muốn vì đó là quyền tự do ngôn luận mang tính biểu tượng”. Vậy chân
lý có nghĩa lý gì, nếu nó ngang hàng với nguỵ biện?

Làm sao để có được sự thanh thản với một viễn cảnh như trên? Hãy chấp nhận rằng đây là nghiệp khả dĩ của loài
người. Chúng ta không ở đây để đặt câu hỏi về mục đích của Thượng Đế trong việc tạo ra cuộc sống cho con người
trên thế gian này. Những mặt khó khăn trong thế giới này là hệ quả của việc tất cả các cấp độ phát triển, tiến hoá khác
nhau được kết hợp và sống đồng thời cùng với nhau, dẫn đến một sự hỗn loạn, và sự có sẵn của một loạt các lựa
chọn như thế đã cho phép tạo ra cơ hội phát triển lớn nhất. Thay vì phẫn nộ, chúng ta có thể thấy biết ơn vì thế giới
này là một trong những nơi tối đa hoá cơ hội cho sự tăng trưởng tinh thần, nhận thức của mỗi người.

Thích Ghét
Kháng cự Chấp nhận, từ bỏ
Tự vệ Nhượng bộ
Thành công Thất bại
Sở Đặc biệt Bình thường thích
của Thêm Bớt bản
ngã “Sở hữu riêng” Chỉ quản lý là bảo
vệ Hấp dẫn Mộc mạc lập
Độc đáo Bình thường trường
của Thay đổi thế giới Thay đổi bản thân nó hơn
là nhượng bộ, bởi nhượng bộ là từ bỏ quyền được đúng, thành công đối với bản ngã là được đúng và đạt được điều
nó muốn. Bất cứ thứ gì, đó có thể là nhiều tiền hơn, nhiều tình dục hơn, nhiều sự chú ý hơn – những điều nó cho là
“thành công”. Bản ngã muốn nhiều thêm, sợ ít đi. Cách thoát khỏi tình trạng này là thử xem nếu chúng ta thật sự có ít
đi, nó sẽ tuyệt vời đến như thế nào. Bạn sẽ thấy nhẹ nhõm hơn nếu có ít tài sản hơn, ít khoản bảo hiểm cho những
tài sản đó hơn, và cũng không có hệ thống báo động để bảo vệ “những bảo vật” đó. Chúng ta chưa từng thực sự sở
hữu bất cứ thứ gì; những gì chúng ta đang có chỉ là một sự quản lý tạm thời.

Điều này cũng được áp dụng cho Say mê (mức 145) và Tình yêu (mức 500). Khi say mê, bạn “phải có được” và sở
hữu người ấy bởi sức hấp dẫn rất mãnh liệt, sự đặc biệt, độc đáo mà bạn đã phóng chiếu lên họ trong niềm phấn
khích của quá trình tự tiên đoán “ bạn đi chinh phục”. Cuộc sống của bạn tạm thời gián đoạn bởi sự đam mê, thèm
muốn, có thể dẫn đến mất ngủ, ám ảnh. Có khi là ghen tuông, điên tiết và thậm chí muốn giết người nếu có ai khác
cũng đang tán tỉnh đối tượng mà bạn đang thèm muốn. Hoặc xuất hiện trạng thái chán nản, có thể muốn tự tử nếu họ
không đếm xỉa đến bạn. Cảm xúc mê đắm giải phóng a-dre-na-lin và hóc-môn giới tính, cho thấy nguồn gốc phần lớn
là đến từ bản năng giao phối của động vật. Sự cuồng mê này phản ánh cách mà tự nhiên nhân giống, và một cách
thường xuyên, sau sự giao phối tạm thời đó, các cặp đôi lại tách ra. Dù vậy cũng có một số giống loài đặc biệt hơn,
như thiên nga, chỉ giao phối với một bạn tình suốt đời. Xã hội công nhận hiện tượng cuồng si này là một biểu hiện “say
nắng” tạm thời, trong đó đặc tính xác thực thông tin bị mất đi.

Trái với đó là mức độ ý thức của Tình yêu, nó đi kèm với việc giải phóng endorphin. Nó không có tính sở hữu, nó chịu
được sự đổi dời và khó khăn, nâng đỡ hơn là phá hoại cuộc sống của bạn. Nó hàm chứa các đặc tính của lòng biết
ơn, sự kiên định, nâng cấp, biết tận hưởng, hạnh phúc, tương hỗ và sự viên mãn, đó là sự liên kết và mang đặc tính
đối tác trong trường năng lượng Tình yêu. Có sự đồng nhất với Bản ngã bậc cao, những người yêu nhau sẽ cùng có
chung ý định phụng sự cho mối quan hệ đó hơn là đi thoả mãn những thèm muốn cá nhân cho cái tôi riêng.

Thích Ghét
Bóp méo sự thật Sự thật
Lên án Tha thứ
Nhận trách nhiệm Tội lỗi/ Đổ lỗi
Nắm giữ Buông bỏ
Thống trị Buông xuôi
Nội dung Bối cảnh/ Cả lĩnh vực
Thừa mứa Tiết kiệm
Tử đạo Chấp nhận
Nạn nhân Chịu trách nhiệm
Báo thù Tha thứ

89
Ghét Từ bi
Đổ lỗi Chấp nhận/ Tha thứ

Cái tôi thích bóp méo sự thật và không thích sự thật, như những gì chúng ta được chứng kiến mỗi tối trên sóng truyền
hình. Người phỏng vấn đặt một câu hỏi, còn người trả lời thì không bao giờ trả lời câu hỏi đó, họ chỉ lươn lẹo sang
một chủ đề ất ơ nào đó khác dưới dạng quan điểm. Khi định chỉnh nó dưới dạng mức độ ý thức, chúng tôi nhận ra
rằng, hầu hết thời gian trong ngày, mọi người thường nói dối.

Đối với bản ngã, lên án người khác thú vị hơn bao dung với người khác. Dân chúng cảm thấy bất an đến độ ám ảnh,
họ sợ “lỡ như bỏ sót” một kẻ tội đồ nào đó. Ấy là câu chuyện của thế giới tri giác, bởi chưa có ai có tội mà thoát được
nghiệp báo của họ, dù là hành động hay lời nói; chính vì vậy, chúng ta nên vị tha và buông tay, bởi ai cũng có nghiệp
quả của riêng mình.

Vậy làm sao để tha thứ cho những hành động vi phạm chân lý một cách trắng trợn? Hãy biết rằng bản ngã không thể
bị làm cho yếu đi, nó nghiện việc được đúng, được thắng, nó không có cách nào khác ngoài việc thao túng sự thật.
So- crat đã nói, mỗi người chỉ chọn điều mà họ cho là tốt nhất tại thời điểm đó, và điều tốt nhất đó là được thắng. Thế
nên, chúng ta hãy tha thứ cho những chính trị gia vì lời nói gió bay của họ, ngay cả khi họ nói những điều ấy với một
bàn tay đặt trên quyển kinh thánh. Chẹt nát sự thật là những gì mà chính trị làm, và khôn ngoan là nên có một cái nhìn
thực tế về nó, không phải cứ cái gì được nói trên bản tin vô tuyến và báo chí thì đều đáng tin. Theo số liệu định chỉnh
ý thức, có đến 50% những điều trên mạng đều là giả dối.

Bản ngã muốn cái gì đó quá mức, hơn là tiết chế. Nếu nó không thể giành chiến thắng, thì nó tiếp tục say mồi với tình
hình bằng cách trở thành kẻ tử đạo, hoặc tư tưởng thắng làm vua, thua làm giặc gì đó, nhưng tốt nhất là một vị trí nổi
bật trên một danh sách phổ biến, kể cả ở vị thế nạn nhân. Chúng ta thà chọn trở thành nạn nhân hơn là chịu trách
nhiệm cho tất cả các kết cục. “Ai sẽ là người đứng ra nhận trách nhiệm?” Đây là câu cửa miệng của những người phát
ngôn về một sự kiện thảm khốc nào đó. Cầu Brooklyn bị đổ, và họ hỏi “Ai sẽ là người đứng ra nhận trách nhiệm?”
Lòng thù hận của bản ngã ngay lập tức tìm kiếm hung thủ để trỏ vào, báo thù, trừng phạt. Đổ lỗi là trò chơi mà bản
ngã ưa thích. Khi nó kiếm được người để đổ lỗi, nó có thể thản nhiên căm ghét người đó, trả thù hoặc thậm chí giết
chết người đó một cách vô tội vạ, dù cho bản án tử hình chưa bao giờ chứng minh được rằng nó làm giảm bớt tình
trạng phạm tội.

Thích Ghét
Xung đột Hoà bình
Quá khứ Hiện tại
Nỗi sợ Chấp nhận cái chết
Thoái thác Chịu trách nhiệm
Từ chối Thừa nhận
Trở nên mất kiên nhẫn Chờ đợi

Xung đột là những gì bản ngã thích, nó không thích hoà bình. Cái tôi trải nghiệm phát triển mạnh về xung đột. Nếu có
một khoảnh khắc bình yên, mọi người sẽ nói hoặc làm gì đó để khuấy động lại kịch tính. Vùng miền nào cũng nghiện
xung đột. Ở Trung Đông, nếu có một thời kỳ hoà bình, những kẻ điên cuồng sẽ ngay lập tức xoay sở một cuộc bạo
động để kết thúc sự hoà bình đó. Lý do ư? Vì hoà bình là dấu chấm hết cho sự tồn tại của những người này. Trái với
đó là sự tồn tại của những nhóm như Bác sĩ không biên giới (mức định chỉnh 500), họ là những người trung lập. Nếu
có người bị thương họ sẽ băng bó chân cho anh ấy, không quan trọng anh ấy là lính của phe nào.

Bản ngã thích bám vào quá khứ, trốn tránh hiện tại. Nó thực sự muốn bám vào nỗi sợ, bởi nó xem Sợ hãi là cơ sở
của sống còn. Nó không thấy được chỉ việc lập kế hoạch cho tương lai là đủ, hoặc chỉ cần thận trọng là đã đủ để xử
lý hầu hết các tình huống, chẳng hạn như băng qua đường. Sao phải đứng trên lề đường sợ này sợ kia để làm gì?

Bản ngã luôn tìm cách bào chữa cho bản thân và trách nhiệm, nó ghét chịu trách nhiệm. Vì thế nó thích phủ nhận hơn
là thừa nhận cho sai lầm của nó. Bản ngã cũng thiếu kiên nhẫn, ghét chờ đợi. Nó muốn cho bằng được những gì nó
thích- ngay lập tức.

Với lòng tự trung thực, chúng ta nhận thức được từng cái chúng ta thích hay có ác cảm trong cuộc sống thường nhật.
Từ đó chúng ta sẽ tự động vượt qua được những rào cản này, một khi chúng ta bằng lòng từ bỏ những mồi câu mà
chúng ta đang nhận được từ những vị trí đó.

TỪ XẤU HỔ ĐẾN KIÊU HÃNH

90
Ngoài những điểm thích và ghét giữ cho bản ngã tồn tại, còn có những yếu tố riêng biệt khác ở mỗi cấp độ để giữ bản
ngã tại vị trí đó. Mỗi lần chúng ta thôi không còn thích và từ bỏ những ác cảm với những điều cụ thể tại cấp độ đó,
chúng ta tự động vượt lên mức độ bên trên.

• Xấu hổ là hệ quả của việc phủ định thực tại của cả cái tôi bậc thấp và cái tôi bậc cao. Thích tự trừng phạt
bản thân, thích đánh giá bản thân, thích hành xác bản thân, thích tiêu cực, thích trầm cảm, thích được phục
vụ và không linh hoạt, thích làm rùa rút đầu. Ghét vị tha với chính bản thân, ghét là chính mình, ghét công
nhận những lợi thế trong cuộc sống của chính mình, ghét ưu tiên giá trị bản thân, ghét tôn trọng bản thân,
ghét chăm sóc cơ thể và không nhận tình yêu thương từ tự nhiên.
• Tội lỗi và Căm ghét là niềm vui thầm kín của bản ngã bắt nguồn từ sự tiêu cực. Từ bỏ được mặc cảm và
thù ghét mang lại lợi lạc cho tất cả các cấp độ trong cuộc sống, vì bản ngã từ những vị trí này ăn mòn chính
người đó và cả những người xung quanh. Họ thích tìm ra một thủ phạm và đổ lỗi cho người đó (có thể là
bản thân họ, có thể ai khác, có thể là xã hội), một sự sám hối khoa trương (“mặc áo tang rồi rắc tro lên đầu”)
cùng với niềm tự hào quái đản “Tôi trông thật là một kẻ tội đồ!”- Tất cả những điều đó chỉ khiến bạn luôn bị
mắc kẹt trong cảm giác tội lỗi và hận bản thân, sám hối có xu hướng diễn ra theo từng đợt, tâm linh chựng
lại. Họ không thích dành sự thương xót cho bản thân hay cho người khác, cũng không thích nhận sự thương
xót từ Thượng Đế, không chịu từ bỏ việc “được đúng” cũng như không sẵn sàng chịu trách nhiệm và thay
đổi.
• Thờ ơ là sự đối đầu kinh điển với “Niềm tin, hy vọng và lòng bác ái”. Lợi ích của việc giúp người trong xã
hội là quá rõ ràng, cho dù nó có hình thức là một sự cân nhắc, một niềm cảm hứng hay bị ép buộc đi nữa
(phục vụ cộng đồng theo lệnh của toà án). Những người mức này thích tự thương hại, chìm trong tuyệt
vọng, bất lực. “Lười” là một loại “trọng tội” trong Cơ Đốc giáo, bởi nó phủ nhận ân điển thiêng liêng là cuộc
sống của bạn. Bản ngã đáp lại bằng cách xem bản thân nó không đáng để nỗ lực, thụ động chứ không chủ
động, từ chối giúp đỡ và nói “Tôi không thể. Tôi không có khả năng”. Nó ghét hành động, nó ghét yêu cầu
sự giúp đỡ, không thể hiện niềm quan tâm với cuộc sống, không tham gia và tự cô lập.

Nhiều khi chỉ cần chăm sóc cho động vật cũng đã là một khởi đầu rất tốt. Chúng ta có thể bắt gặp điều này
trong những khoá huấn luyện thành công dành cho những tù nhân tái phạm kinh niên, bằng cách nhìn vào
đôi mắt của những chú chó, một số người trong số đó thậm chí đã chọn ở lại sau khi được mãn hạn để tiếp
tục công việc với những chú chó được phân cho họ. Những bệnh nhân thờ ơ ở khoa Lão khoa sẽ vui mừng
trở lại nếu viện đưa đến những chú chó. Nghiên cứu hiện tại chỉ ra, chỉ bằng việc nuôi thú cưng cũng sẽ làm
giảm mức độ trầm cảm, giúp tăng sự tuần hoàn máu và tác động tích cực đến sức khoẻ trên bình diện tổng
thể. Cho nên, chăm sóc những sự sống khác được xem là một liệu pháp điều trị, như đối với những người
nghiện rượu vô vọng khi họ bắt đầu giúp đỡ cho những người mới khác, hay những vận động viên chán
nản, sau đó cũng vực lại được tinh thần của họ bằng cách khuyến khích các thành viên khác trong đội.
• Sợ hãi là sự ham thích trạng thái rối loạn; kịch tính hoá, cảm xúc hoá khi đối mặt với nguy cơ thật sự; trạng
thái lo lắng thái quá về những việc xảy ra hàng ngày, chẳng hạn như cuộc hẹn với nha sĩ, gặp gỡ những
người mới, vân vân. Những điều đủ khiến họ đờ đẫn và tạo ra đủ loại ám ảnh. Họ thích quá khích trước
những mối nguy, xúc động thái quá, nhuốm lên màu thảm hoạ, tự vào vai nạn nhân, thu mình lại và ẩn nấp
sau niềm tin rằng nhỏ như thế này thì không ai thấy được, không bị thấy thì sẽ được an toàn. Họ không
thích giữ bình tĩnh, không thích cầu nguyện, không muốn buông bỏ cảm giác sợ hãi và nhu cầu kiểm soát,
không chấp nhận và không muốn sở hữu sự thật rằng chẳng có gì “ngoài kia” khống chế và tác động được
họ. Thận trọng thì không giống sợ hãi, thận trọng là suy nghĩ thấu đáo, có dự tính và không bị cuốn theo
cảm xúc.

Bởi nỗi sợ nhìn cuộc sống hoàn toàn thiên về thể chất, hiện hữu, với nỗi ám ảnh tột cùng là cái chết của
thân xác, nên việc sử dụng kỹ thuật “Rồi sao nữa?” sẽ hữu ích cho bất kỳ nỗi sợ nào. Hãy thử hình dung
chúng ta hay lo lắng việc sẽ bị mất xe. Được, rồi sao nữa? Thì tôi sẽ không có xe đi làm? Ừm, rồi sao nữa?
Thì tôi sẽ bị mất việc làm? Thế rồi sao nữa? Thì tôi không kiếm ra được công việc nào khác? Rồi sao nữa
nào? Rồi tôi sẽ không có tiền? Không có tiền rồi sao nữa? Thì tôi sẽ nghèo. Nghèo rồi sao nữa? Thì tôi sẽ
đói chết. Rốt cục, quá trình này là dẫn đến “cái chết trước thời hạn” như nhiều tôn giáo truyền thống đã đề
cập. Tức là một khi bạn dám đối mặt với cái chết của mình, nỗi sợ hãi về cái chết bị kiềm nén đó sẽ không
còn làm bạn sợ được nữa. Nó chẳng qua là một sự chất chứa, và sau cùng lộ ra lớp dưới cùng là cái chết
về mặt thân xác. Nếu bạn chấp nhận được cái chết vật lý của mình, hầu như mọi nỗi sợ đều sẽ biến mất.
• Ham muốn là trường năng lượng làm phiền nhiều người trong số chúng ta hầu hết thời gian vì sự hấp dẫn
của chiến thắng, tiền bạc, quyền kiểm soát, “nhận được”, sự công nhận, thành công, danh tiếng, giành
được, chinh phục được, và đương nhiên là được đúng. Họ thà chết để được thừa nhận là đúng còn hơn
khiêm tốn tự thừa nhận sai lầm. Động lực kiểu này là một loại nghiện sẽ đẩy bạn xuống mồ, hãy cho phép
bản thân bản từ bỏ điều mà bản ngã tin rằng đó là nguồn gốc cho sự trải nghiệm của nó. Lịch sử gần đây
đã cho thấy, hàng triệu sinh mệnh đã mất đi chỉ vì những sự ảo tưởng, họ vẫn không chịu thừa nhận đó là
sai lầm. Kế hoạch kinh tế nông nghiệp của Chủ tịch Mao đã dẫn đến nạn đói lớn nhất trong lịch sử và gây
ra hàng triệu cái chết. Niềm tin vào Mao chủ tịch (mức 185) đã dẫn đến một thảm hoạ trong lịch sử. Sau đó,
có vẻ chủ nghĩa Marx cũng là một kiểu tư tưởng được cho là có vấn đề. Tuy vậy, nó lại được chấp nhận và

91
lan rộng trên thế giới, chúng ta thấy bản ngã không có khả năng học hỏi, vì tự lòng kiêu hãnh của nó đã
ngăn việc đó. Điều nó thích là giành phần đúng, thích kiểm soát, thích đạt được sự chấp thuận- tất cả đều
hiển nhiên và là một phần trong cuộc sống thường nhật của nó. Chúng ta sợ thất bại, sợ bị nhìn thấy là thụ
động, yếu đuối, bình thường và nhàm chán. Sự hấp dẫn đối với bản ngã là ai nhìn vào nó cũng sẽ thấy hài
lòng ngay lập tức, trở nên đặc biệt và được chú ý. Chúng ta đã thấy các thái cực mà để gây được sự chú ý,
mọi người đã cố thể hiện ra; họ dám nói bất cứ điều gì, dù là nói vống, miễn là họ được lên đài, được ghi
hình. Bản ngã ghét phải chờ đợi, ghét phải trở thành “một người không là ai cả”.
• Sự tức giận là lẽ hiển nhiên mỗi khi tự vệ trong thế giới động vật. Điểm hấp dẫn của nó là có cảm giác
được phóng đại và trở nên mạnh mẽ hơn bản thân thực sự của chúng ta. Phần con trong bạn sợ lộ vẻ yếu
đuối, vì thế nó gầm gừ, nhe nanh và cố giành chiến thắng bằng cách đe doạ. Nó không thích trở nên bình
tĩnh, hoà bình, nhượng bộ hoặc đầu hàng. Nó không muốn thấy “kẻ xấu” được tự do. Nó muốn đòi lại công
bằng và nhạo báng lời dạy của Đức Phật, rằng đừng bận tâm về việc báo thù, mỗi người sẽ tự thua cuộc
với nghiệp của chính họ. Trong công việc định chỉnh ý thức, chúng tôi đã liên tục xác nhận được tính chân
lý qua lời dạy này của Ngài.
• Niềm kiêu hãnh của tinh thần không giống với lòng tự trọng, đó là sự phấn đấu và vì thế nó không bị bản
ngã thổi phồng. Kiêu hãnh là sự phóng chiếu bản thân khiến bạn nghĩ bạn có địa vị, bạn được chú ý, cho
bạn cảm giác bạn vượt trội hơn. Đó là sự hư vô của suy nghĩ, của trạng thái tâm lý, của khái niệm, niềm tin,
hệ tư tưởng và quan điểm. Điểm thu hút bạn ở đây là “Tôi biết”, là bạn vượt trội, đặc biệt hơn người, bạn là
người được chọn và thuộc về tầng lớp tinh hoa. Một nền tảng đạo đức cao có sự nhỉnh hơn về mặt luân lý
và được định chỉnh ở mức 190, cho dù nó phát sinh từ hệ thống niềm tin “trái” hay “phải”. Nếu bạn “là một
công dân tốt” về mặt chính trị, bạn vẫn hơn những người “không phải công dân tốt” khác. Kiểu tự hào này
là một sự nghịch lý phản phé lại chủ nghĩa bình quân (ai ai cũng có giá trị như nhau), khi nó nói rằng “Chúng
tôi tốt hơn những người khác vì chúng tôi quân bình hơn những người khác”. Điểm mà bản ngã ghét ở đây
là “Tôi không biết”, sự khiêm tốn và sự bình thường. Điều nó có ác cảm lớn nhất là “nó bị sai”.

Thay vì kiêu ngạo và không chịu nhận lỗi, chúng ta có thể chấp nhận với ý tưởng rằng cuộc đời con người
là một quá trình khám phá. Nếu những gì chúng ta đang chứng kiến là sự tiến hoá của ý thức, và một sự
sáng tạo tự nhiên đang diễn ra bên trong nó, thì những thứ mà chúng ta cho là sai lầm thực ra có thể được
xem như thành công, bởi nó chứng tỏ cho kết quả của một sự nguỵ biện có thể sửa chữa được. Nếu có
hàng triệu người đã đói chết vì hệ thống niềm tin chủ nghĩa Mác, thì đây là minh chứng tự động cho sự giả
dối, nó phục vụ cho mục đích nhận thức và hiểu hơn về chân lý.

Đó là lý do chúng ta không thể đoán trước tương lai, bởi nó vẫn chưa được tạo ra, và bởi tất cả chúng ta
đều có đóng góp thông qua sự tiến hoá của ý thức, trong từng khoảnh khắc, trong mỗi lần chúng ta nói có
với một số lựa chọn và không với những lựa chọn khác. Tương lai là không thể dự đoán được, bởi nó chưa
có hiện thực. Đó thực ra là một khả năng chờ đợi tiềm ẩn bởi ý định cộng với chọn lựa. Nếu đoán được
tương lai, thì tiền định sẽ là quy luật của vũ trụ. Lúc đó cuộc sống này của chúng ta sẽ không có giá trị gì, vì
chúng ta chỉ là những cỗ máy.

TỪ DŨNG CẢM ĐẾN NGÂY NGẤT

Mức độ Cám dỗ
Dũng cảm Hiên ngang, Vẻ nam tính, làm liều
Trung lập Bất phân biệt, Rút đi
Sẵn lòng Bao đồng, Can thiệp
Chấp nhận Thất bại trong việc đưa ra hành động thích hợp
Lý trí Chủ nghĩa uyên bác, mắc kẹt trong nhân- quả
Tình yêu Dễ dụ, bị bóc lột, nhằm sai đối tượng
An lạc/ Ngây ngất Không đủ suy xét

• Lòng dũng cảm có động lực, sức mạnh và tinh thần để vượt khó, họ đối mặt, thử thách và bước qua
chướng ngại với sự kiên định và quyết tâm. Kinh nghiệm cho thấy thử thách phổ biến nhất dành cho
lòng can đảm là hay âu lo, nghi ngờ bản thân và sợ thất bại. Nỗi sợ thất bại đó sẽ giảm đi một khi bạn
nhận ra rằng bạn chịu trách nhiệm cho ý định và nỗ lực của mình, chứ không phải cho kết quả, bởi nó
còn phụ thuộc vào nhiều điều kiện và yếu tố khác nữa, nó không chỉ là câu chuyện của cá nhân bạn.
Những cám dỗ mà lòng can đảm phải dụng đến là sự hùng hổ khi đối mặt với nỗi sợ, và tinh thần nam
nhi chi chí mạo hiểm của giai đoạn mới bắt đầu có nội lực và sự tự tin vào bản thân.
• Trung lập cho phép linh hoạt và tính thẩm định thực tế mà không có phán xét. Trung lập tương đối
không dính mắc vào kết quả. Cám dỗ của nó là sự lạnh lùng và chống lại việc trở thành một người
đóng góp tích cực, thân thiện cho cuộc sống xung quanh; bởi thân thiện chứa đựng sự ấm áp, kết nối,
và mở ra cánh cổng yêu thương.
• Sẵn lòng có tính chất vui vẻ, hữu ích và tự nguyện trong sự nhiệt tình đáp ứng nhu cầu của người
khác theo cách nhân từ, cùng có lợi và tử tế, phù hợp với nguyên tắc vàng: “Mình muốn người ta làm

92
cho mình thế nào thì mình làm cho họ như thế ấy”. Điểm hạn chế ở cấp độ này là bạn ghi nhận những
nỗ lực và cá tính của bản thân, trong khi thực tế, sự tăng trưởng và thành công lại nằm ở hào quang
đến từ bản ngã Bậc cao. Vì thế dẫn đến cám dỗ là bạn chấp nhận quá nhiều sự tham gia của bản ngã
trong việc giúp đỡ người khác, bởi bạn tin cá nhân bạn mới là nguồn gốc của xu hướng cải thiện này.
• Chấp nhận sống hài hoà với các lực cản của cuộc sống và cho phép những người ở đây tham gia vào
cuộc sống dưới những điều kiện riêng trong khi không cố bắt nó phải phù hợp với một chương trình
nghị sự nào cả. Năng lượng kiểu đó vô hại, vì nó không phán xét, không kiểm soát, không làm thay
đổi, và không cố thống trị kẻ khác, nó cũng không phải “cứu thế” hoặc lên án các biểu hiện đa dạng
xung quanh nó. Sự cám dỗ ở đây là họ không có hành động thích hợp khi hoàn cảnh yêu cầu cần phải
có- ví dụ- không có tính chính trực ở nơi làm việc, một tính cách đòi hỏi có sự phân biệt và lên tiếng
cho sự thật.
• Lý trí là cấp độ thuộc về khoa học, y dược, thần học, và nói chung là gia tăng khả năng hợp lý hoá,
khái niệm hoá và lĩnh hội. Do đó, họ rất xem trọng tri thức và giáo dục. Mức độ này dễ vì một cây mà
bỏ cả khu rừng; họ trở nên say mê với các khái niệm, ý tưởng, kiến thức và lý thuyết; để rồi sau cùng
bỏ lỡ mấu chốt bản chất. Cám dỗ ở đây là đánh đồng bản thân với tâm trí, và trí tuệ hoá tự nó trở thành
mục đích. Để biết về một điều không phải là việc để “trở thành” điều đó.
• Tình yêu không bắt nguồn từ tâm trí, nó xuất phát từ trái tim. Nó là một kiểu vị tha, nuôi dưỡng và hỗ
trợ ta trong thế giới này, tình yêu thương mở rộng ý thức về bản thân và toả ra tác động nâng đỡ tinh
thần cho người khác. Cám dỗ ở cấp độ này là họ xem năng lượng của tình yêu là đến từ bản thân họ
hơn là từ Thần tính, đồng thời thông qua sự cá nhân hoá đó, họ nhận trách nhiệm cho tác động của
trường năng lượng ở đây. Mối nguy ở cấp độ này là họ bị quyến rũ một cách vô thức với những ngợi
khen và phóng chiếu hiện thực đó lên những người khác.
• An lạc, Ngây ngất là những trạng thái dao động từ mức 500 trở lên, trong đó sự hoàn hảo là bẩm sinh
và tất cả những gì tồn tại đều mang một vẻ đẹp lộng lẫy, toả sáng như vầng hào quang chói lọi. Xét về
mặt chủ quan, dòng chảy của năng lượng tâm linh có cảm nhận như vị ngọt tinh tế xuyên suốt khắp
cơ thể của người đó, loại năng lượng này có khả năng chữa lành kì diệu cho người khác nếu có sự
phù hợp về mặt nghiệp. Bởi mọi người đều soi chiếu lại được sự hoàn hảo và đáng yêu bẩm sinh bên
trong họ, nhược điểm của người ở đây là khả năng phán đoán không sắc bén, vì họ chỉ thấy những
mặt tốt nhất của người khác cũng như những khía cạnh tích cực trong đề xuất, kế hoạch của những
người đó; do vậy vì sự hữu ích, họ sẽ cần một người bạn đồng hành đáng tin cậy để trông chừng họ
như một người gác cổng.

CON ĐƯỜNG BUÔNG BỎ

Sau rốt, việc vượt qua các cấp độ của ý thức sẽ xảy ra khi ta chịu buông bỏ. Thay vì cố gắng ép buộc bản thân phải
thay đổi, hãy để Thần tính làm việc đó bằng cách buông xuôi triệt để mọi sự kiểm soát, kháng cự và ảo tưởng về được
mất. Không cần phải phá huỷ hay tấn công những sự mê ảo đó, đơn giản là để chúng tự đến, tự đi, tự tan biến ngay
khi “sự đền đáp” của chúng ta dành cho những u mê đó đã được buông xuống. Không cần và cũng không hiệu quả
khi cố sử dụng cản lực bằng các cơ chế Ăn năn, Tội đồ, và cũng không nhất thiết phải chăm chăm vào quá trình thúc
đẩy tiến hoá tâm linh, tự nó sẽ đi theo một cách riêng khi những trở ngại và sự phản kháng của ảo tưởng đã tan biến.

Sức mạnh Chân lý tự nó đã là phẩm chất của Tình Yêu Thương thiêng liêng, trong sự thương xót vô hạn đó, nó đồng
nhất tất cả các dòng thời gian trở lại với Hiện thực của Bản ngã bậc cao. Chúng ta phải chấp nhận rằng sự điều hoà
thời gian là công việc của Bản ngã bậc cao chứ không phải điều mà tự ngã có thể đảm nhiệm. Bởi chỉ có Bản ngã bậc
cao mới có khả năng kết hợp những đặc tính của nghiệp ẩn giấu. Thế nên hãy từ bỏ ý kiến của chúng ta về việc thế
giới này “nên như thế nào”. Chúa Giê-su, Đức Phật, hay bất cứ một bậc thầy vĩ đại nào cũng đều nói rằng, thế giới
vốn luôn hoàn hảo theo cách của nó- với sự đa dạng và phong phú của những lựa chọn, bao gồm từ những kẻ tàn
bạo nhất cho đến những thiên thần, nó tạo ra cơ hội tối đa cho sự tiến bộ tâm linh dành cho tất cả mọi người.

Trường ý thức vô hạn phi tuyến tính không chỉ ở mọi nơi, mà nó còn là sự toàn trí, toàn năng. Sự tăng trưởng tinh
thần là hệ quả của phẩm tính được ý chí tự do của chúng ta chấp thuận. Sự từ bi dành cho cái ngã là một thuộc tính
của Bản ngã bậc cao. Vì thế, sự buông bỏ lớn nhất cho cái kháng cự sau cùng là buông bỏ vì Tình Thương trong mọi
thực tại.

CHƯƠNG TÁM

CHÂN LÝ TÂM LINH, NHỮNG NGƯỜI THẦY VÀ SỰ DẪN DẠY

Sẽ có nhiều khả năng của sự buông bỏ hơn khi tính toàn vẹn của một người thầy hoặc một con đường dẫn dạy được
thực chứng. Định chỉnh ý thức làm công việc chắt lọc và xác minh bản chất của Chân lý Tâm linh từ những người

93
mang đặc tính là người Dẫn dắt, và tính liêm chính trong pháp đạo của họ. Bất cứ điều gì bạn giao phó linh hồn của
mình đều phải đáng tin cậy. Danh sách bên dưới đóng vai trò là một tiêu chuẩn về sự chính trực trong đường lối tâm
linh của một người.

40 ĐẶC ĐIỂM CỦA MỘT NGƯỜI THẦY VÀ LỜI DẠY LIÊM CHÍNH CỦA HỌ

1. Tính phổ quát: Chân lý đúng ở mọi lúc, mọi nơi mà không phụ thuộc vào văn hoá, tính cách hay hoàn cảnh.
2. Không loại suy: Chân lý bao hàm tất cả những gì đặc biệt, không có bí mật, không có bè phái.
3. Tính khả dụng: nó rộng mở với tất cả mọi người, không có độc quyền. Không phải kiểu tiết lộ bí mật, không
che giấu, không mua bán, không có công thức “ma thuật”, và cũng không có “sự bí ẩn”.
4. Tính chính trực của mục đích: không có được mất.
5. Không bè phái: Chân lý không phải là một sự triễn lãm của giới hạn.
6. Quan điểm độc lập: Chân lý là phi tuyến tính và không chịu sự giới hạn của trí tuệ hay hình thức.
7. Không có vị thế: Chân lý không “chống lại” bất cứ điều gì.
8. Không có yêu cầu hay đòi hỏi: không bắt buộc có tư cách thành viên, không thâu phí, không có quy định,
lời thề, không có quy tắc và điều kiện.
9. Không kiểm soát: tâm linh thuần khiết không quan tâm đến cuộc sống cá nhân của những người khao khát
nó, không quan tâm đến cách họ ăn mặc, đời sống tình dục của họ, kinh tế, khuôn mẫu gia đình, lối sống
hay thói quen ăn uống của họ.
10.Không bị ép buộc hoặc đe doạ: không tẩy não, không có sự ép buộc tôn thờ nhà lãnh đạo nào, không có các
nghi lễ đào tạo, không giáo điều và xâm phạm vào đời sống riêng tư của người khác.

11. Không ràng buộc: không có quy định, luật lệ, sắc lệnh, hợp đồng, không có các cam kết.

12. Tính tự do: người tham gia tự do đến, tự do đi, không bị thuyết phục, ép buộc hay đe doạ hoặc gánh chịu hậu
quả. Không có hệ thống phân cấp; thay vào đó, có sự tự nguyện hoàn thành những nhu cầu hoặc nghĩa vụ thiết
thực.

13. Tính phổ biến: sự công nhận là hệ quả của những gì mà một người đã trở thành, chứ không phải từ kết quả
của chức danh, mỹ từ, hoặc những cái bẫy ám thị.

14. Tính truyền cảm hứng: Chân lý kiêng cữ sự hào nhoáng, dẫn dụ và trình diễn.

15. Không vật chất: Chân lý không cần phải giàu sang, thanh thế, hào hoa, hay sự phù phiếm của thế gian.

16. Tự thoả mãn: Chân lý đã là toàn vẹn, đủ đầy, không cần phải quảng bá, không cần thu hút người theo dõi,
thành viên.

17. Tách rời: không tham vấn vào các vấn đề thế giới.

18. Lành tính: Chân lý được chứng thực theo chiều hướng tăng dần. Không có “đối thủ”, không có “kẻ thù” để
chế tài hay chống đối.

19. Không âm mưu: Chân lý không can thiệp, không xây dựng một chương trình nghị sự để đề xuất, giáng đòn,
hoặc ban hành.

20. Không nhị nguyên: tất cả đều xảy ra từ nội tại (nghiệp) và theo khuynh hướng của trường mà nó thuộc về,
theo đó, tiềm năng thể hiện ra thành hiện thực và không phải chuỗi nguyên nhân kết quả.

21. Tĩnh tại và Hoà bình: không có “vấn đề” với điều gì và cũng chẳng thiên vị ai. Không có mong muốn thay đổi
người khác hoặc điều chỉnh xã hội. Ảnh hưởng của mức năng lượng cao là thiên bẩm, nó không phụ thuộc vào
sự lan truyền hay một nỗ lực nào. Có Thượng Đế nào lại phải tìm sự trợ giúp? Chẳng nhẽ trọng lực lại phải nhờ
quả táo giúp nó rơi xuống đất hộ hay sao?

22. Bình đẳng: được thể hiện bằng sự tôn kính dành cho tất cả các sự sống trong mọi biểu hiện và chỉ tránh
những gì có hại hơn là chống lại nó.

23. Phi thời gian: cuộc sống là vĩnh cửu, vật chất mới hữu hạn. Cuộc sống không phải đối tượng của cái chết.

24. Vượt qua bằng chứng: cái “có thể chứng minh được” là cái tuyến tính, có giới hạn, là sản phẩm của trí tuệ và
sự cố vấn. Hiện thực không cần bất cứ sự thương lượng nào. Hiện thực không thể được tiếp thu, nó là một nhận
thức hoàn toàn tự phát, chủ quan khi vị thế của bản ngã nhị nguyên bị khuất phục.

25. Huyền bí: nguồn gốc của Chân lý là sự tự phát, rạng rỡ, chiếu sáng đột ngột; nó là sự mặc khải thay thế cho
sự ảo tưởng của bản ngã cá nhân riêng lẻ, phân biệt và có sự cố vấn của tâm trí.

94
26. Không thể miêu tả: không thể được định nghĩa. Chỉ có trải nghiệm chủ quan mang tính cấp tiến, nó thay thế
điều kiện tập trung vào bản ngã trước đây. Trong sự kiện này, bối cảnh sẽ thay thế nội dung và vượt qua khái
niệm thời gian. Hiện thực không bị bó buộc trong thời gian mà bao hàm luôn thời gian hoặc tồn tại bên ngoài thời
gian, nó không có bất cứ mối liên hệ nào với cái mà tâm trí dùng kỹ xảo để cố vấn. Do đó, nó vượt lên tất cả các
danh từ, tính từ, động từ, vượt qua mọi sự bắc cầu, chuyển đổi, chuyển giao hoặc không chuyển giao.

27. Tính đơn thuần: người ta sẽ thấy vẻ đẹp nội tại và sự hoàn hảo của tất cả những gì tồn tại ngoài hình thức
bề ngoài.

28. Xác quyết: Chân lý vượt lên quan điểm hay xác suất. Sự xác quyết hoàn toàn đến từ nhận thức chủ quan,
tuy nhiên, nó có thể được xác định bằng biện pháp định chỉnh ý thức.

29. Phi hoạt tính: Chân lý không “làm” bất cứ chuyện gì và cũng không “gây” ra bất cứ điều gì. Nó là mọi thứ.

30. Mời gọi: trái ngược với quảng cáo hay thuyết phục.

31. Không gây nghi hoặc: bởi Chân lý là phi tuyến tính, nó không thể được bản địa hoá, hoặc mã hoá trong các
hình thức có giới hạn như thông điệp mật, mã số, chữ số, hình khắc, dấu hiệu, ẩn trong đá, trong trầm tích hay
được gói trong kích thước của Kim tự tháp, DNA, hay lông mũi của lạc đà. Chân lý không bí ẩn. Hiện thực của
Thượng Đế có ở khắp mọi nơi và vượt ra ngoài sự mã hoá hay độc quyền. Mật mã, mã hoá là biểu hiện của trí
tưởng tượng của con người chứ không phải sự ứng linh thất thường của thần thánh.

32. Phi cảm tính: cảm xúc dựa trên nhận thức. Từ bi là kết quả của việc thấu suốt Chân lý.

33. Không độc đoán: không có nguyên tắc hoặc mệnh lệnh nào cần tuân theo.

34. Không vị kỷ: người thầy được tôn trọng nhưng họ từ chối sự tôn sùng hoặc bị làm cho trở thành một cá nhân
đặc biệt.

35. Có tính giáo dục: cung cấp thông tin trên nhiều định dạng và luôn đảm bảo có sẵn.

36. Tự hỗ trợ: không hám danh lợi, vật chất.

37. Không có sự nâng đỡ: hoàn toàn không phụ thuộc vào những gì bên ngoài hay đế chế quyền lực nào trong
lịch sử.

38. Tự nhiên: không có trạng thái ý thức kích thích, biến đổi hoặc thao túng năng lượng bằng các bài tập, tư thế,
cách thở hoặc các loại thực phẩm chuyên biệt (nghĩa là không phụ thuộc vào hình thức, vào vật chất, không cầu
“hồn”)

39. Thành toàn: không bóc lột, không thu lợi.

40. Không bạo lực: không ép buộc, không đe doạ.

Chân lý tâm linh là phổ quát. Những sự thật cốt lõi tương tự đã được truyền đạt bởi các thánh nhân, những nhà hiền
triết, những nhà thần bí, những hình tượng người thầy cổ xưa xuyên suốt lịch sử, trong nhiều tôn giáo và nền văn hoá
khác nhau, từ những vùng đất cách biệt trên thế giới qua nhiều thế kỷ. Không có người nào cũng như không một tôn
giáo nào là chủ sở hữu hoặc là nguồn phát minh ra Chân lý duy nhất này. Chân lý luôn đúng ở mọi nơi, không phụ
thuộc vào văn hoá, phong tục, quan điểm, tính cách hay hoàn cảnh.

Một người thầy chân chính chỉ là đi xác nhận lại Sự thật, ông ta không phải người tìm kiếm ra sự đặc biệt, ông ta là
người chỉ dẫn cho những người khao khát tâm linh nhận ra được Sự thật từ bên trong họ. Lúc ấy, bản ngã của trò
đồng nhất với bản ngã của thầy, đó là trạng thái tự biết để kích hoạt sự thức tỉnh bên trong của người trò đó. Một
người thầy chân chính sẽ khiêm tốn thừa nhận những trạng thái tỉnh thức là món quà của sự Ban phước, và vì thế họ
không dùng con đường truyền đạo đó để kiếm nhiều hơn mức cần thiết cho việc lan toả.

Những tổ chức và những người thầy chân chính cũng không quan tâm đến việc kiểm soát cuộc sống cá nhân của học
trò, họ không có chủ nghĩa quảng bá, thu hút người theo dõi hoặc mua vui bằng cách trình diễn những bài thuyết trình.
Tính chính trực của họ đòi hỏi họ phải chia sẻ món quà nhận thức mà họ đã có được với những người khác, cũng
như những năng lực độc đáo mà họ có được, nhưng họ không gắn mình với sự đền đáp, việc đó tuỳ thuộc vào những
người khác. Mọi người có thể đến và đi tuỳ thích.

95
Cần chú ý một điều, tâm linh đơn thuần sẽ không có yêu cầu, không đòi hỏi nghĩa vụ, sự phụ thuộc, ràng buộc, hoặc
yêu cầu bằng chứng về sự đặc biệt; cũng như áp đặt quyền kiểm soát, chẳng hạn như lời thề, cam kết tài chính, hoặc
đăng ký hội viên cho các khoá học, “khoá đào tạo”. Sự cam kết ở đây là cam kết cho Chân lý, không phải cam kết với
người thầy đó, tâm linh thuần khiết sẽ không đi dụ dỗ và truyền giáo, ra vẻ bí ẩn, mật truyền. Tất cả những gì cần thiết
là sự hấp dẫn và tò mò đối với Chân lý- một Chân lý toàn vẹn, tích hợp và nâng cấp bản thể.

Chúng tôi nhận thấy những người thầy, các phương pháp dẫn dạy và các nhóm tâm linh sẽ hấp dẫn và trở nên có ý
nghĩa với một người đang đi tìm kiếm tâm linh phù hợp với nghiệp và sự tiến bộ của người học viên đó tại bất kỳ thời
điểm nào. Những người thầy khác nhau, những lời dạy khác nhau sẽ hấp dẫn được những học viên khác nhau, cũng
như thích hợp với những nhiệm vụ cuộc sống khác nhau. Những gì là tốt nhất dành cho người này và tình huống này
chưa chắc tốt nhất cho người kia và tình huống kia. Chỉ vì một đạo pháp nào đấy có mức định chỉnh 600 hoặc cao
hơn cũng không có nghĩa là nó phù hợp và hữu ích cho tất cả các học viên; trọng tâm là người thầy đó, pháp đó phải
trên 200- một mức độ ít nhất đảm bảo được tính toàn vẹn.

GIÁO DỤC TÂM LINH

May thay, người đi tìm kiếm tâm linh sẽ không bị dẫn đi xa khỏi con đường thẳng và hẹp của Chân lý Tâm linh đúng
đắn, vì những điều đa dạng và mời mọc đầy rẫy ngoài kia. Con người dành cả đời để đi tìm kiếm những giáo lý đích
thực và dễ bị dối lừa bởi sự mê hoặc, quyến rũ của những điều hào nhoáng nhưng xa rời Chân lý. Đó chẳng qua chỉ
là giả tưởng hư cấu, lãng mạn hoá để thu hút đứa trẻ bên trong của những con người ngây thơ khù khờ. Một lô một
lốc những câu chuyện cổ tích tâm linh gây ấn tượng với một hình tượng đáng tin cậy nào đó, bởi đối với một số người,
bất cứ thứ gì được dán cho cái nhãn “tâm linh” thì đều trở thành ma thuật hấp dẫn được họ. Vượt qua giai đoạn này
là một bước khởi đầu trong quá trình hăng hái, nhiệt tình tìm tòi lúc mới chớm.

Cơ bản, vấn đề lúc ban đầu là thiếu nhận thức để phân biệt giữa Hiện thực Tâm linh thực sự và các lĩnh vực thông
thiên, huyền bí hoặc siêu nhiên khác. Đối với những người ngây thơ hồn nhiên, những cái ở vế sau lại có vẻ tuyệt vời
và ấn tượng hơn. Đọc một quyển sách tâm lý “trùng hợp” dễ gây xúc động hơn với một người mới làm quen với con
đường này. Phần lớn những quyển sách tâm linh bán chạy nhất thực ra phần nhiều là hư cấu và mức độ chân thực
trung bình của chúng được định chỉnh đâu đó chỉ tầm 190, nó cũng như các tạp chí tâm linh bóng bẩy được xuất bản
gây mê hoặc củng cố cho những tưởng tượng về “những chiều không gian khác”. Buồn cười thay chỉ có chúng mới
thu hút được những con người ngây thơ đang đi tìm kiếm con đường tâm linh này, những người ngay cả chiều không
gian ở đây vốn dĩ vẫn còn chưa làm chủ được, nói gì đến các chiều không gian huyền ảo khác.

Những “sức mạnh” thần bí chính hiệu thì lại không được phô trương, quảng bá, hoặc chúng được làm thương mại với
mức giá rẻ mạt. Hàng nhái thì lại đa dạng và lấn lướt, với số lượng nhiều đến mức đánh lừa được các học viên tâm
linh ngây ngô, thậm chí là một số tông phái của các tôn giáo lớn (như yoga tình dục trong Ấn giáo và Phật giáo). Các
phương tiện giả tạo chỉ đơn giản là làm công việc thổi phồng cái tôi lên và thu hút người ta bằng vẻ đặc biệt, khác lạ,
hào nhoáng của chúng. Ngay cả khi rèn luyện và trau dồi những kỹ thuật này, nó cũng chỉ là những kỹ năng được
thực hành vì lợi ích riêng của bản thân họ, nó phản ánh sự phù phiếm về mặt tâm linh, bằng chứng là nó rất bắt mắt
và hay được quảng cáo.

Mặc dù những món quà của Thượng Đế có thể bị sao chép, làm giả, nhưng chúng mãi mãi không phải hàng thật chất
lượng. Bởi điều này có thể được xác định bằng biện pháp định chỉnh ý thức. Các bậc Thành tựu giả (Thành tựu pháp
sa, siddha) chính hiệu- là những vị có khả năng thấu thị, thiên thông nhĩ, khả năng bắt tâm lý, thần giao cách cảm hay
những điều tương đương- họ sẽ xuất hiện với mức định chỉnh từ 540 trở lên và chiếm phần nhiều trong phạm vi 570.
Hàng nhái được quảng bá rầm rộ có mức định chỉnh từ 155 đến dưới 400. Đáng chú ý là chưa từng có một bậc chân
sư nào khuyến khích người ta đi tìm kiếm những điều siêu nhiên, siêu thực, vì những điều này thường chỉ xuất hiện
theo ý chí tự do của thần thánh.

Kỳ tích chữa lành và các hiện tượng siêu thực khác sẽ xuất hiện theo cách bất chợt trong trường năng lượng từ 540
trở lên. Cốt yếu là cần nhớ một điều, không có “nhà chữa lành”, cũng không có “người làm phép”; bởi những điều này
xuất hiện một cách rất tự phát từ những trường năng lượng vô ngã, đó là hệ quả của xu hướng nghiệp và các điều

96
kiện bản địa. Nếu đó là một kỳ tích bị sao chép, làm giả, nó rất dễ bị chỉ điểm, vì nó nhấn mạnh vào thân phận của
người tạo ra nó, những người được nhìn như nhà chữa lành thực thụ.

Những người đi trên con đường tâm linh dễ bị mê hoặc bởi những kỳ tích nhái như thế này, nhớ rằng, đó chỉ là bản
bắt chước của hiện thực chân chính. Cần khôn ngoan và cẩn thận với các phương pháp tuyến tính nhưng lại hứa hẹn
những khả năng tiếp cận với các trạng thái phi tuyến tính, và đánh tráo khái niệm, ví dụ như trạng thái ý thức thay đổi
theo cách nhân tạo, ăn mặc phục sức dị biệt, chế độ ăn uống khác thường, kiêng khem và các kiểu thực hành kỳ lạ
khác, những kỹ thuật thao tác năng lượng, các chương trình hội thảo để trải nghiệm giác ngộ tức thì hoặc siêu năng
lực (thường là đắt đỏ); tập những tư thế lạ và giữ trong khoảng thời gian lâu, hoặc những kiểu dùng máu và các
phương thức được gọi là thanh tẩy cơ thể, tẩy độc, hoặc các bài tập thở, vân vân. Trạng thái thay đổi không phải là
trạng thái thần thánh. Ví dụ, dùng sóng An-pha để luyện tập là một phương thức trị liệu, không phải trạng thái tâm linh.

Số lượng của những vũ trụ khác, những cõi trung giới khác là rất nhiều. Mỗi cõi đều có những vị hướng dẫn, những
bậc thầy, những hệ thống phân cấp tâm linh khác nhau, và những niềm tin riêng. Có một số cõi thực sự rất hấp dẫn.
Nếu chúng ta không thận trọng, chúng ta sẽ dễ dàng bị cuốn đi bởi những học thuyết hấp dẫn và bí truyền như thế;
tuy nhiên, những người đi tìm kiếm giác ngộ phải nhớ rằng, trạng thái sau cùng không thể đạt được nếu nó vẫn phải
thông qua các cấp độ của hình thức. Chân lý cuối cùng đều được tìm thấy từ bên trong và luôn có sẵn khi tiếp cận chỉ
với các phương tiện thông thường, không cần phải cầu tới một nhà chữa lành, những phương thức ngoại cảm, thần
số học hay người dẫn kênh.

SỰ TỰ NHẬN THỨC VÀ GIÁC NGỘ CỦA MỘT NHÀ THẦN BÍ

Những người thầy tuyệt vời thực sự và pháp đích thực sẽ có trạng thái ý thức từ 600 trở lên. Trong lịch sử tôn giáo,
những nhà thần bí vừa được tôn kính vừa hay bị bức hại. Quyền năng của một nhà thần bí trước hết nằm ở sự hiện
diện của họ, đó là cái “Tôi” của Bản ngã bậc cao thiêng liêng. Nhiều lúc họ đã trở thành vật tế cho niềm tin sai trái của
những tôn giáo độc tài, nơi chỉ dung chứa cho duy nhất một vị thần siêu việt; các nhà thần bí vì thế bị đưa ra phán
quyết như những kẻ dị giáo, họ bị cầm tù, bêu rếu giữa đám đông, hoặc bị thiêu sống, bị bêu đầu, thậm chí bị đóng
đinh bởi những nhà cầm quyền tôn giáo độc tài. Hầu hết những nhà thần bí đều chọn từ giã xã hội. Số khác nỗ lực rất
nhiều để quay lại thế giới nhưng lại im lặng về trạng thái bên trong mà họ đã có được. Có vài người trong số họ được
ban cho khả năng viết hoặc giảng dạy về trạng thái hiếm hoi tồn tại bên ngoài tính chất nhị nguyên của bản ngã hay
sự đồng nhất với hình thức.

Trạng thái của một nhà thần bí không phải một “thành tựu”. Họ thậm chí không nên được nhìn dưới một định danh cá
nhân, dù là người ta thường thích nhìn nhận như vậy. Ở trạng thái ý thức đó, họ vượt ra ngoài tư cách của một người,
vì họ không còn cái “Tôi” nữa. Những nhà thần bí hiếm hoi sử dụng đại từ nhân xưng cho bản thân họ, trừ phi người
nói chuyện với họ không thể nắm bắt nội dung nếu thiếu đi đại từ nhân xưng. Người bình thường thì nói, “Hôm qua
mưa ướt tôi”. Một nhà thần bí nói, “Hôm qua mưa”.

Có một sự tách bạch, một chân sư sẽ đi mô tả các hiện tượng từ quan điểm và góc nhìn của một nhân chứng. Nhân
chứng quan sát và sau đó báo cáo lại sự quan sát đó mà không đưa ra phán đoán hay đánh giá về những gì mà họ
quan sát thấy. Cũng như khi nhìn vào một căn phòng, họ cũng sẽ không có quan điểm cá nhân về việc đồ đạc được
bố trí như thế nào, sự bố trí đó ra làm sao. Họ đóng vai trò nhân chứng và chỉ lặng lẽ quan sát mọi sự vật trong trạng
thái tĩnh tâm và bằng an.

Ở trạng thái đó, nếu họ đi dạo trong một khu rừng, họ có thể nhận thức được sự nhận biết của cây cối xung quanh.
Tất cả sự sống hiển hiện một cách lung linh, tôn lên sự hiện diện thiêng liêng, rất ý thức và biết về nó. Vũ trụ này có ý
thức. Một cái cây sẽ rạng rỡ nhận biết nó đang tồn tại trong Hiện thực Thiêng liêng vì bản chất của nó, vì nguồn gốc
sự sáng tạo ra nó- một sự sáng tạo chung bao gồm sự sáng tạo của mỗi chúng sinh, cây cối có tính tự biết, như những
sinh mệnh biết trân quý sự sống này.

97
Về mặt kỹ thuật, trạng thái này bắt đầu từ cấp độ 600, một trạng thái an lạc vô hạn. Tiếng Phạn gọi đó Ý thức phúc
lạc- một trải nghiệm chủ quan về thực tại bất biến cuối cùng. Các trạng thái trước là Tình yêu, Niềm vui, Ngây ngất.
Một khi buông bỏ được sự chấp trước vào những trạng thái tinh tế đó, thì sẽ đến lượt trạng thái bình an vô hạn xuất
hiện, đó là một sự soi sáng, tĩnh lặng, thành toàn. An lạc (mức định chỉnh 600) là một trạng thái của mặc khải, bắt
nguồn từ bên trong, bao gồm Trọn vẹn và Thành toàn nội tại. Nó bất động, như bản chất thiêng liêng, nó mở ra vòm
trời của hiện thực thần thánh. Nó tĩng lặng, vô âm, làm biến đổi, một vị chân sư sẽ nhận ra rằng, sự tĩnh lặng trong
trường An lạc này chính là danh tính của một người, nó là bản chất phi tuyến tính và hài hoà với mọi chúng sinh. Nó
không cát cứ mà tổng hoà. Một sự hợp nhất vượt lên mọi từ ngữ diễn đạt, không có “tôi” nào tách biệt với “bạn”, trong
hiện thực đó, sự phân biệt bị biến mất, chỉ còn hào quang mặc khải của sự Hợp Nhất.

Cái gọi là “Giác ngộ”của người đời hiện nay thật ra là một trạng thái, mà trong đó- danh tính cá nhân trước đây và tất
cả những niềm tin cũ đã bị xoá bỏ, mất đi, chuyển hoá, và tan biến. Cái riêng được thay thế bằng cái phổ quát, phẩm
tính được thay thế bằng bản chất, tuyến tính được thay thế bằng phi tuyến tính, và những cái rời rạc được thay thế
bằng trường không giới hạn. Thời gian trở nên vô tận và vĩnh cửu. Chủ ý được thay thế bằng tính tự phát, nhận thức
hạn chế về tính hai mặt bị loại bỏ bởi hào quang của tính Nhất thể chiếu sáng vào hiện thực và chân lý nhất nguyên
đó. Bản chất thiêng liêng thể hiện ở sự tự mặc khải của nó. Ở đó không còn trạng thái tâm lý nữa, chỉ còn lại Sự im
lặng, tĩnh tại, và một sự toàn tri không cần bàn cãi. Cảm xúc được thay thế bằng sự Bình an.

Một tâm trí bình thường sẽ hay suy nghĩ, nó suy nghĩ trong nhận thức, phán đoán, và định nghĩa. Nó bao gồm các đại
từ nhân xưng, của ta, của tôi, phần của tôi, phía của tôi, những quan điểm tách biệt mang tính nhị nguyên của tâm trí.
Tôn giáo đào tạo người ta phát triển tư duy thông qua việc học hỏi và làm chủ thông tin. Rồi lại tích hợp những thông
tin đó và dành cả đời sau này để đi nghiên cứu tôn giáo và thần học. Trong trạng thái thần bí, sự hiểu biết diễn ra theo
một cách khác hoàn toàn, trước hết, nó phi tuyến tính. Nó không phải kết quả của lý trí. Mà đúng ra, nó là một sự hiểu
biết đến theo một cách bộc phát, một sự mặc khải không đòi hỏi bất cứ suy nghĩ gì, thậm chí cũng không cần bất kỳ
kiến thức nào về tôn giáo.

TRẢI NGHIỆM THẦN BÍ

Trong quyển: I, reality and subjectivity, the eye of I, tôi đã mô tả trạng thái ý thức bất thường mà tôi từng trải qua trong
đời mình. Một số sự kiện được tôi ghi nhận lại vì chúng phản ánh những đặc điểm thần bí. Sự kiện trọng đại đối với
tôi là hiển thị sống động trong một đống tuyết khi tôi chỉ mới là một cậu bé. Lúc bấy giờ, tôi là một thiếu niên sùng đạo,
thế nhưng tôn giáo lại không đóng vai trò gì trong trải nghiệm thần bí đó của tôi. Một người có thể ghi nhớ hết những
thông tin tâm linh có trên thế giới, và khi trải nghiệm thần bí đến, họ phát hiện ra rằng nó chẳng liên quan gì đến mớ
nào trong những mớ kiến thức mà họ đã từng dành cả đời để học và nghiên cứu.

Trải nghiệm đó của tôi đến trong một trận bão tuyết ở phía bắc Wisconsin khi tôi đang đi giao báo bằng xe đạp cách
nhà hơn 25 cây số. Lúc đó gió bắt đầu thổi thốc và lạnh khủng khiếp, những tảng tuyết to tướng chất thành từng đống
cao phải đến ba mét ở hai bên đường. Để tránh gió, tôi vội vàng tấp vào một cái bờ tuyết như thế và đào một cái hốc
nhỏ, tôi rất khoẻ và không có cảm giác mệt mỏi gì cả, nhưng tôi mong một điều ước xảy ra và tôi có thể thoát khỏi cơn
bão tuyết ấy. Tôi tựa lưng vào một bên thành của cái hốc nhỏ đó và cố gắng thư giãn.

Rồi bỗng từ đâu xuất hiện một tình yêu rạng rỡ sâu sắc, vô hạn ngoài sức tưởng tượng, cao cả hơn tình yêu của con
người, vượt lên thời gian và có tính chất vĩnh cửu, không có bắt đầu, cũng không có kết thúc. Nó gần với tôi hơn chính
bản thân tôi- một bản thân mà tôi luôn nghĩ rằng đó chính là tôi hoặc bản sắc cá nhân của riêng tôi. Hoá ra tình yêu
thương vô bờ kia mới chính là cốt lõi của tôi, và nó luôn như thế. Một sự vĩnh viễn, bất diệt và vô tận.

Trong trạng thái đó, bạn nhận ra bạn là Sự vĩnh cửu, một Tình yêu vô hạn. Một hiện thực mà bạn chính là Tình yêu
bất diệt và hoàn hảo tuyệt đối, không có khởi đầu, cũng không có sau cùng. Đó là một tiết lộ cho Chân lý về sự tồn tại
của bạn. Bạn là một hiện thực của Tình yêu vô thời hạn, từ rất lâu rất lâu về trước, và cho đến rất lâu rất lâu về sau.
Tất cả những gì quan trọng nhất ngay lúc này chính là bạn nhận ra được sự thật này!

98
Đó là một trạng thái tự phát, không dự tính, không có suy nghĩ, không có bản ngã, và không được báo trước. Ở thời
này, có lẽ sau khi đọc xong, mọi người sẽ hớt hải đi tìm một đống tuyết để tìm kiếm trải nghiệm đó, như thể đống tuyết
là nơi “dành cho việc này”. Hoặc họ sẽ phong cho nơi đó là một đống tuyết thần thánh. (May thay, tuyết rồi cũng sẽ
tan, sẽ không ai có cơ hội để làm như vậy!) Nhận thức đó rất sâu sắc và không thuộc về học thuật, không liên quan
đến tôn giáo, cũng chẳng dính dáng đến thần học. Không có mối liên hệ nào giữa lĩnh vực tuyến tính của tôn giáo với
lĩnh vực phi tuyến tính thần bí. Bởi một cái liên hệ đến sự suy nghĩ, còn một cái vượt ra ngoài sự suy nghĩ.

Trạng thái thần bí là trạng thái bạn đã từ bỏ cái tôi và đầu hàng trước một khả năng thần thánh tự nó bộc lộ ra từ bên
trong bạn. Khi đủ duyên, nó tự khắc đến, nó không đến vì bạn muốn nó đến. Và nó hoàn toàn có thể xảy ra vào những
lúc không thuận tiện. Bạn thấy mình tê liệt, sung sướng bất động trên một tảng đá mà không thể đứng dậy di chuyển.
Cảnh sát có thể sẽ đến áp giải bạn đi, hoặc dẫn bạn đến bệnh viện, nhưng dù là vậy, bạn cũng không có ý kiến gì về
việc này trong trạng thái đó. Những vị chân sư nhận ra Bản ngã bậc cao này, và rồi chọn ở lại để truyền đạo, phụng
sự cho thế giới và được người đời gọi là nhà hiền triết. Mức độ tự nhận thức bao gồm những bậc từ 700 trở lên, chẳng
hạn như Ramana Mahashi, hay Nisagardatta Maharaj, họ là những bậc Guru đã đạt đến trạng thái nhìn thế giới bằng
bản chất bên trong của thế giới.

Những nhà hiền triết nói với bạn rằng, “Thế giới mà bạn thấy không tồn tại”. Một nói câu gây bối rối cho những tâm trí
bình thường, những cái đầu vốn nghĩ thế giới mà nó nhận thức là chính xác nhất. Nhưng đối với những vị chân sư,
cái thấy biết của họ vượt lên cả những nhận thức bình thường đó, những nhận thức có sự ảo tưởng vì còn phân biệt;
cái thấy biết của họ là cái thấy thể thống nhất của mọi hiện tượng. Một cơn mưa đối với người khác có thể là sự phân
tách của những hạt mưa, nhưng đối với họ, nó là dòng chảy của nước.

Ở mức độ nhận thức nhị nguyên, luôn cần phải có “cái này” để gây ra “cái kia”. Phải có nạn nhân và thủ phạm. Chính
trị sẽ là gì một khi không có ai là nạn nhân và thủ phạm? Câu chuyện đời tôi của hầu hết mọi người sau cùng đều nổi
bật lên một vở kịch, vở kịch của “chính họ đã gây ra điều đó với tôi”. Lúc nào cũng có sự tồn tại của những kẻ áp bức,
và những người vô tội bị áp bức. Ngược lại, một nhà thần bí nhìn mọi thứ như nhau, sự thật không thuộc về quan hệ
nhân quả, và bên trên tầng nhận thức bình thường. Tất cả là sự xuất hiện. Sự xuất hiện nghĩa là không có xung đột
giữa tiến hoá và sáng tạo, bởi vì sáng tạo tự nó thể hiện nó là tiến hoá. Bản thân Trường Vô hạn, nơi phát sinh ra tất
cả các sự xuất hiện- là một trường ý thức của sự Từ bi và Công chính, vì “Tình yêu là quy luật tối thượng của Vũ trụ”
(phát biểu này có mức định chỉnh 750). Trường năng lượng và hiện tượng là một chỉnh thể năng động, là sự đồng thời
của sáng tạo và tiến hoá. Nói theo một cách khác, lĩnh vực ý thức này chính là Phật tính.

Trường Phật tính là trường năng lượng của Từ bi, luôn hiện hữu, và chờ bạn chứng ngộ. Một trường năng lượng toàn
vẹn luôn trong hiện tại, đó không phải là một sự tăng tiến từ không hoàn thành đến hoàn thành. Khi tôi ở trong hốc
tuyết, trạng thái đó là trạng thái toàn vẹn, vốn dĩ toàn vẹn và luôn như vậy, ngay lập tức và mãi mãi. Nó không có sự
khởi đầu, rồi dần dần tăng lên và bao bọc tôi. Nó đột ngột, không có khởi đầu, không có điểm xuất phát, chỉ là đột
nhiên tôi ở trong một hiện thực khác, một hiện thực nhiệm màu. Lý do duy nhất tôi rời khỏi trạng thái đó là vì tôi muốn
tránh sự đau khổ cho cha tôi. Ông ấy đang cuống cuồng đi tìm tôi trong một chiếc Ford đời cũ, ông đang lần theo tôi
qua từng tờ báo rơi vương vãi trên đường. Tôi đang ở trong trạng thái hạnh phúc này, và điều tiếp theo mà tôi biết là
cha tôi đang run rẫy ngồi bên cạnh chân tôi, “Dave, Dave!” Tôi có thể thấy được ông sẽ đau đớn nhiều như thế nào
nếu tôi không còn thở nữa. Hẳn là ông sẽ tự trách mình về cái chết của tôi. Cho nên, vì tình yêu mà tôi dành cho ông
ấy, tôi quyết định trở lại, tôi quyết định thở lại. Vậy thì, sự thay thế duy nhất cho trạng thái Từ bi vô hạn đó là một trạng
thái khác của Tình thương, một loại tình yêu cá nhân, và chỉ ở ngay trước với Tình yêu thiêng liêng.

Rốt cục thì, trạng thái nội tại của một nhà thần bí là bất khả để miêu tả hay thuật lại. Nó làm biến đổi sự sống, như một
ánh sáng khổng lồ chiếu sáng mọi sự tồn tại, khó mà đặc tả được loại hào quang đó. Người ta học cách sống chung
cùng nó như một người nửa bình thường. Trong sự tập trung, họ có thể ẩn đi trạng thái đó với tất cả mọi người, nhìn
mọi người một cách tôn trọng và chỉ nói, “Ừ, À, Vậy à, Ra là thế à. Đúng rồi”. Hầu hết mọi người không bao giờ biết
được thực tại của những người đó là gì, cũng như nội tâm của họ.

Trái ngược với cách tiếp cận trí tuệ theo con đường giáo dục của các tôn giáo, những gì chúng tôi đang miêu tả ở đây
là một con đường từ bên trong. Có thể nói một nền giáo dục tôn giáo tạo được tiền đề cho nó, nhưng không phải là
“nguyên nhân” hoặc “tạo” ra trạng thái đó. Một người có thể nghiên cứu thần học từ năm này qua tháng khác, nhưng
con đường nghiên cứu đó không nhất định sẽ kết thúc trong một trạng thái tâm linh bên trong.

99
Tuy nhiên, giả sử bạn có hứng thú với tôn giáo, cộng với một động lực nào đó, thì nó sẽ kích hoạt con đường bên
trong này. Các vị thánh vĩ đại của Cơ đốc giáo đã chứng minh rằng, việc nghiên cứu kinh Thánh, thờ phụng và sùng
kính tôn giáo có thể biến thành nhận thức thần bí bên trong. Một trạng thái tự nhận thức về sự thật của Chân ngã vô
sắc vô thanh. Họ gọi đó là Hợp nhất thần bí- Unio Mystical, một sự kết hợp thiêng liêng của bản ngã vào Trường Từ
bi thần thánh.

TRẠNG THÁI THẦN THÁNH

Trạng thái chủ quan tuyệt đối này có thể tự bộc lộ nó như kiểu Tình yêu Agape (một loại tình yêu vô lượng vô song
được miêu tả trong Kinh thánh), Tình yêu dành cho muôn vạn chúng sinh. Tuy nhiên, trước khi bạn đến được trạng
thái Agape, bạn sẽ trải qua Tình yêu vô điều kiện mức 540. Đó là kiểu tình yêu với thiên nhiên, với tất cả mọi người,
nhạy cảm với vẻ đẹp của mọi tồn tại và tình thương dành cho muôn thú. Con vật nào bạn cũng thương, con nào cũng
như con nào. Tình yêu này là tình yêu dành cho sự sống và các biểu hiện của sự sống. Thượng Đế là nguồn gốc của
tất cả mọi sự tồn tại, không có điều ngoại lệ (được định chỉnh là “sự thật”). Muôn thú muôn loài đều là từ Thượng Đế
mà ra. Khi ý thức phát triển, các trạng thái thần thánh được định chỉnh sẽ lần lượt như sau:

Thượng Đế Vô hạn
Đấng sáng tạo Vô hạn
Thần thánh Vô hạn
Thiên sứ 50,000+
“Tôi” như Bản chất của Sự sáng tạo 1,250
“Tôi” như Hiện thực cuối cùng 1,000+
Giê-su, Chứng đặng thành Phật, Krishna, 1,000+
Brahman
Đấng hiện thân 985
Vô ngã 855
Đạo (Thượng Đế- Bản ngã bậc cao) 850
Tính không 850
Hư vô 850
Tổng hoà 850
Toàn tri, Biết hết 850
Toàn hiện 850
Quyền năng 850
Hiện thực là ý thức 850
Hiện thực là nhận thức 850
Bản ngã vượt lên sự tồn tại hoặc không tồn 840
tại
Chân sư 800
La hán, Bậc đắc đạo 800
“Tôi”/Bản ngã thần thánh thành cái Vô ngã 750
(có tầm nhìn phúc lạc)
Nhà hiền triết- có Bản ngã là biểu hiện của 700
Thượng Đế
Bản ngã là Sự tồn tại 680
“Tôi là” 650
Giác ngộ, Khai sáng 600
Người quan sát hiện thực, Chứng kiến hiện 600
thực
Bậc thánh 575

Khi đọc các trạng thái kiểu này có thể kích thích sự quan tâm thể hiện chúng. Sơ đồ ý thức có thể được xem như bản
đồ của một hành trình dẫn đến số phận sau cùng của một người, một con đường cuối cùng dẫn vào bên trong. Đa số
mọi người đều có khả năng nghiệm lý những gì có mức định chỉnh dưới 600, và pháp đạo nào có phạm vi định chỉnh
trong khoảng 500 (Tình thương, Tình yêu) thì đều có ảnh hưởng lớn. Mặc dù tính chất hoàn hảo của Tình yêu vô điều
kiện mức 540 chỉ được định chỉnh cho 0,4% dân số thế giới, nhưng nó vẫn được xem là một khả năng có thực , có
tính kinh nghiệm, và những cá nhân đặc biệt tiếp tục phát triển trong trường ý thức từ 500 này được xếp vào bậc
Thánh, họ đóng vai trò là hình mẫu, là mục tiêu thiết thực của nhân loại. Sự xuất thần tâm linh của mức từ 500 trở lên
cao có thể được ghi lại, (ví dụ tài liệu về trải nghiệm của Ramakrishna, Baal Shem Tov, Thánh Phan-xi-cô và những
người khác), vì thế nó mang lại sự tin cậy và chấp nhận như một thực tế khả dĩ đối với những người có động cơ đặc
biệt cao cả, hoặc thiên bẩm.

100
Ở cấp độ ý thức 500, có một sự thay đổi lớn về mô hình. Sự chú tâm nhường chỗ cho trực giác, quan hệ nhân quả
tuyến tính nhường chỗ cho tính đồng bộ phi tuyến tính và nỗ lực ngoại cảnh nhường chỗ cho nhận thức chủ quan. Từ
cấp độ 600 trở lên, hiện thực tâm linh được cho là không thể miêu tả được hoặc có tính chất thần bí. Thuộc tính bất
nhị phân của nó (chẳng hạn như “có tâm trí” và “không tâm trí”) khiến cho một điều kiện trở nên không dễ dàng để
ngôn ngữ hoá hoặc khái niệm hoá, vì thế bị giới hạn trong tiêu chuẩn khả năng trải nghiệm thực tế. Những người trò
tâm linh lâu năm đã quen thuộc với kinh thư của những nhà hiền triết vĩ đại, trong đó các tác phẩm của họ được đặc
trưng bởi các thuật ngữ tiếng Phạn Advaita và Vedanta. Có rất nhiều thông tin sẵn có về các ghi chép này, thông qua
các bài viết nổi tiếng của những vị thầy gần đây, như Ramana Marhashi, hay Nisargadatta Maharaj. Cũng cùng cấp
độ đó, còn có các pháp của những nhà thần bí vĩ đại và nổi tiếng của nhiều tôn giáo khác, chẳng hạn như giáo Sufis,
Kabbalists, hay Zohar. Trong đó, chiếm tầm quan trọng không nhỏ và được biết đến nhiều nhất có lẽ là pháp của Đức
Phật, các nhà hiền triết Ấn Độ giáo và Thiền tông. Niềm tin về hiện thực và thực tại của sự Khai sáng được hỗ trợ bởi
những tài liệu phổ biến, trong đó đi diễn đạt các trạng thái này, chúng là của những học giả nổi tiếng như William
James, và các thiền giả như D.T Suzuki, hoặc Alan Watts.

Những khó khăn trong việc đi mô tả các trạng thái này đơn giản là vì sự giới hạn trong mức độ ý thức của trí tuệ, mức
400, bao gồm giả định về tính nguyên nhân kết quả. Dù rằng các mô tả này là tuyến tính, nhưng bản thân các trạng
thái đó là phi tuyến tính, do đó, chúng có thể được ám chỉ nhưng sẽ không được diễn đạt một cách chính xác bằng từ
ngữ quen thuộc. Bất chấp những hạn chế của việc miêu tả không chính xác, hiện thực của các trạng thái này vẫn
được công nhận một cách rộng rãi, và gần đây nhất, chúng tôi đã xác nhận hiện thực của các trạng thái này bằng
phương pháp định chỉnh ý thức. Có thể về mặt thống kê, chúng hơi bị hiếm hoi, nhưng những trạng thái tiên tiến này
vẫn có sức truyền cảm hứng và công nhận cho tiềm năng phát triển ý thức của con người.

Trên thực tế, trạng thái Giác ngộ không thể hiểu hay được lý giải, hoặc “thâu nhận” bằng tâm trí, trí tuệ- điều này làm
lung lay tinh thần của các học trò tâm linh; dường như các trạng thái này là không thể tiếp cận được, do vậy, nếu lấy
đó làm mục tiêu sẽ là một điều không thực tế. Tuy nhiên, đúng hơn, những trạng thái tiên tiến này thật ra lại là những
trải nghiệm vô cùng mãnh liệt, bởi hiện thực mà các trạng thái này đi xác nhận và phản ánh lại hết sức minh thấu,
trong hiện thực minh triết và sáng rõ đó, bạn thấy được sự đã tồn tại của mình. Và thế là, mỗi người trong số những
người đi nghiên cứu tâm linh này đã đáp ứng được yêu cầu đầu tiên, họ chỉ cần có thêm động lực và sự cam kết. Bởi
yêu cầu tiên quyết chính là có tồn tại, và sau đó là có nghe nói về Giác ngộ, rồi sau cùng là đi theo con đường đó như
một mục tiêu khả thi. Nó có vẻ khó khăn vì nó có rất ít những thông tin đơn giản để làm rõ ngay từ đầu; theo kinh
nghiệm thì con đường này căn bản là rất đơn thuần, mặc dù trông thì có vẻ khó nhằn. Vì lẽ này, quyển sách chứa
đựng những thông tin để đi làm rõ các bước cần thiết.

Một lý do khác khiến việc tìm kiếm trạng thái Giác ngộ thiếu đi tính thiết thực là vì tâm trí khái niệm hoá theo hướng
nguyên nhân và kết quả, những người đi tìm kiếm tâm linh cũng nên giữ một quan niệm rằng bản thân họ được thôi
thúc và dẫn dắt vào một hiện thực mà ở đó, nó lôi cuốn họ vào số phận của tương lai- giống như nam châm hút các
mạt sắt, hơn là chỉ tập trung vào nội tại của họ.

Sự thoải mái và tự tin đó bắt nguồn từ một thực tế có thể được kiểm chứng, rằng những cá nhân hiếm hoi bị hấp dẫn
bởi mục tiêu sống Giác ngộ vì đó là định mệnh của họ (được định chỉnh là sự thật). Tương tự như bạn học chơi đánh
gôn vì số phận đã định bạn sẽ là một gôn thủ trong tương lai.

MỤC HỎI ĐÁP

HỎI: Một người bắt đầu đi tìm chân lý tâm linh, tự nhận thức và giác ngộ từ đâu?

ĐÁP: Đơn giản. Hãy bắt đầu với bạn đang là ai, bạn đang là gì. Tất cả sự thật được tìm thấy từ bên trong. Hãy dùng
phương pháp xác minh một người thầy chân chính để làm hướng dẫn cho bản thân.

HỎI: Con đường bên trong khác với việc giữ giới luật của tôn giáo truyền thống ở điểm nào?

101
ĐÁP: Nó nhấn mạnh vào nhận thức chủ quan mang tính trải nghiệm nội tại và đi xác nhận sự thật tâm linh. Ngược lại,
các tôn giáo thường yêu cầu bạn phải ghi nhớ hết các học thuyết của giáo hội, tìm hiểu về nguồn gốc và lịch sử hoặc
yếu tố thần thoại của họ, song song với đó là việc trích dẫn những nhân vật và những người đóng góp có thẩm quyền,
những tiền nhân nổi bật. Họ có xu hướng chứa nhiều quy định, chẳng hạn như quy định về lối sống, trang phục, kiểu
tóc, các quy tắc ứng xử trong hôn nhân, sinh sản, các hoạt động xã hội và tình dục dựa trên học thuyết của giáo hội
tương quan với các nền văn hoá dân tộc bản địa giới hạn bởi niên đại, địa hạt. Bên cạnh đó cũng có những nguyên
tắc rõ ràng hoặc được ngụ ý, chẳng hạn như cách tham gia, trở thành thành viên và có cam kết với hội. Những điều
này dẫn đến sự bao gồm và loại trừ xã hội/ nhóm người (ví dụ, người tin theo và người không tin theo). Trong lĩnh vực
tôn giáo, chính nhà thần bí là người có mức định chỉnh cao nhất nhờ vào nhận thức chân lý trực tiếp và nội tâm của
họ.

HỎI: Những đặc điểm hoặc tính cách như thế nào được xem là có lợi?

ĐÁP: Về đặc điểm, những người sùng đạo có khuynh hướng nội tâm, suy niệm, phản ánh, tò mò, có trách nhiệm và
chú tâm. Họ thường không thích bạo lực, nhẫn tâm, không chính trực, sự phô trương và kịch tính của những gì hào
nhoáng, thô tục. Họ ham mê học tập vì lợi ích của chính việc đó cộng thêm niềm vui khám phá ra những tiền đề cơ
bản, họ có khả năng trung thực nghiêm khắc với bản thân.

HỎI: Cuộc sống thường nhật sẽ ra sao?

ĐÁP: Sống đời tâm linh là một cuộc sống nội tâm liên tục kết hợp với quan sát nhận thức liên tục. Quá trình này là tự
thưởng cho bản thân, nực cười thay, điều này mang đến nhiều lợi lạc và sự thích thú hơn là họ chính thức tham gia
và thực hành cùng tôn giáo. Sự phản ánh chân lý là toàn hiện, vì thế nó có thể được thấy biết và nhận ra thông qua
muôn vàn cách. Bằng sự quan sát nội tâm, bạn sẽ phát triển một loại trí tuệ bên trong, nó tạo điều kiện thuận lợi để
nuôi dưỡng lòng từ bi và sự thấu hiểu tâm linh, hơn là một chế độ “kỷ luật” phải tuân theo. Với nhận thức bên trong
này, cảm giác tội lỗi và sự ăn năn về tội lỗi sẽ giảm bớt, thay vào đó, bạn được chọn sự tích cực, chứ không phải là
những phương thức dùng sự tiêu cực để rồi dẫn bạn đến nơi của Xấu hổ, Sợ hãi, Tội lỗi. (Cần nhớ rằng mức độ Tội
lỗi là thấp nhất trên Sơ đồ, trong khi Niềm vui, An lạc là những cái trên cùng). Việc bạn phát huy được tiềm năng đã
là một phần thưởng và mang lại sự hài lòng, từ đó củng cố cho động lực của bạn. Sự tự trung thực với bản thân mang
lại nhiều tự do hơn cũng như khả năng thích nghi với chuyên môn kết hợp với linh hoạt. Không nhất thiết phải ở ẩn,
hãy bối cảnh hoá nó. Sự tiến bộ về mặt tâm linh sẽ mở ra một khả năng lớn hơn vì ý thức đã dần tăng trưởng. Đây là
câu chuyện của động lực. Không cần xuất gia, không cần nhập thất, đi tu, dù rằng làm như vậy sẽ có lợi trong một số
lúc.

HỎI: Công việc tâm linh bên trong có vẻ đòi hỏi kỷ luật và nỗ lực.

ĐÁP: Những yêu cầu này được kích hoạt bởi chủ ý. Công việc nội tâm trở nên mạnh mẽ bất ngờ từ một cái đà không
được trông đợi trước. Và dần dần từ cái đà ấy, nó sẽ tăng khả năng và sự dễ dàng để xảy ra hơn, kiểu như một quả
cầu tuyết lăn xuống dốc. Chẳng hạn như bạn tha thứ được cho người thứ nhất, thì từ đó về sau bạn sẽ tha thứ cho
người thứ hai, thứ ba, thứ tư càng ngày càng dễ dàng hơn.

HỎI: Làm sao để vượt qua bản ngã?

ĐÁP: Hãy bắt đầu bằng cách buông bỏ sự kiểm soát đối với ham muốn và ác cảm. Bạn buông bỏ hết ham muốn.
Bằng cách này, sau cùng bạn sẽ vượt qua bản thể trải nghiệm, nó là cốt lõi của bản ngã. Vạn vật diễn ra một cách tự
phát bởi sức mạnh của Trường vô hạn, đó là thần tính, thế nhưng bạn sẽ thấy rằng, trong một phần mười nghìn giây,
bản ngã nhảy bổ vào, và tự xưng nó là tác giả của trải nghiệm đó. Nếu bạn vượt qua được một phần mười nghìn giây
đó, thì điều cuối cùng xảy ra là bạn vượt qua những giới hạn và sự đồng nhất với bản ngã cá nhân. Sau đó, bạn nhận
ra không có gì xảy ra theo trình tự tuyến tính hay nhân quả. Không có cái gì “gây ra” cái gì; mọi thứ nảy sinh một cách
tự nhiên, tự phát theo cái gọi là tiềm năng trở thành hiện thực nhờ vào sức mạnh của trường vô hạn. Không có “này”
sinh ra “kia”. Mà chẳng qua, đó đơn thuần là cái tôi, cái nhận thức, sự phóng chiếu.

Lúc này, bạn trở thành nhân chứng, chứng kiến sự xuất hiện của cuộc sống này trong từng khoảnh khắc. Bạn không
phải là nguyên nhân. Bạn cũng không phải thủ phạm, cũng không là nạn nhân. Bạn xoá bỏ được hết những khái niệm.
Bạn không phải là điều gì trong tất cả số đó. Bạn dễ dàng để trở nên ý thức được rằng bạn là nhân chứng của các
hiện tượng, đơn giản là người chứng kiến. Từ trạng thái này, bạn có thể đi vào trường Ánh sáng, Tình yêu, và sự
Rạng rỡ của bản thân, trong đó vạn vật đang diễn ra một cách tự nhiên. Đây là những trạng thái chiếu sáng. Bởi tất
cả những gì tồn tại đều toả sáng và có hào quang thần tính. Tại đây, tâm trí rơi vào im lặng vì kinh ngạc.

102
HỎI: Ông nói có rất ít người từng vượt qua được cấp độ của Lý trí, và tâm trí là chướng ngại lớn nhất để tiến đến Giác
ngộ. Ông sẽ đề xuất cách nào để vượt qua nó?

ĐÁP: Tin tốt là tâm trí đã im lặng đến 99%. Nếu 99% này của tâm trí không im lặng, bạn thậm chí không thể nghe thấy
suy nghĩ của mình. Giống như một khu rừng im lặng, nên bạn nghe được tiếng chim hót. Khu rừng đó im lặng 99%,
và tiếng chim hót là 1%. Chỉ vì bạn lắng nghe 1% đó, khu rừng trở nên có vẻ ồn ào. Bạn đang bị cái 1% đó thôi miên.
Đó là trạng thái mà ta bị tâm trí thôi miên bằng nội dung của nó, vì vậy những gì bạn cần làm là chuyển sang bối cảnh
tĩnh lặng mà từ đó nội dung 1% kia mới xuất hiện. Bản ngã đồng nhất với nội dung, nhưng tâm linh là bối cảnh, và bối
cảnh đó là sự im lặng.

Tâm trí giống như một sân vận động khổng lồ, ở đó mọi người đã đi về nhà hết, chỉ còn mỗi bạn là người duy nhất ở
lại. Ở một góc nhỏ của cái sân đó có một chiếc ra-đi-ô đang phát, và bạn chú tâm vào cái đài ra-đi-ô đó, rồi bạn nói
“Chỗ này quá ồn”. Bạn đinh ninh là tâm trí của bạn ồn ào, nhưng là bởi bạn đang tập trung vào chiếc ra-đi-ô đó, 1%
đó. Cái 1% mà bạn nghĩ là “Tôi”. Tâm trí không phải là chướng ngại của sự Giác ngộ, mà là sự đồng nhất của bạn với
hoạt động tâm trí của cái “Tôi” đó. Bạn nghĩ đó là con người của bạn. 1% đó có nhiều thiết bị khác nhau để thôi miên
bạn. Nó thích nói chuyện chính trị, chuyện đạo đức, nó thích phân tích, thích lãng mạn hoá, thích phê bình, hay lý
tưởng, hay nói chuyện tình cảm, hay bàn chuyện kịch tính, thích giả thuyết, thích thần học hoá, hay tưởng tượng, hay
nói chuyện thảm hoạ, vân vân. Đó là tất cả nội dung của tâm trí. Nhưng sự im lặng là bối cảnh. Mối quan hệ giữa nội
dung và bối cảnh là tất cả công việc mà tâm linh hướng đến. Trong sự thiền định, hoặc chiêm nghiệm, bạn sẽ liên tục
buông xuôi hết nội dung này đến nội dung khác mỗi lần nó xuất hiện. Chúng ta buông bỏ mọi thứ cho Thượng Đế,
chúng ta làm thế vì lợi lạc mà bối cảnh mang lại.

HỎI: Ngoài những trạng thái Giác ngộ, Tự biết, ông còn mô tả về “Hư vô”, nói theo cách cổ điển là Tính không. Có
bước chuẩn bị nào cho trạng thái này không?

ĐÁP: Việc giải thích sai lời dạy của Đức Phật đã mang lại một ý nghĩa không chính xác về “Hư vô” và nhầm lẫn trong
việc xác định nó như trạng thái cuối cùng, mà thực ra là không phải. Điều này được xác nhận qua phương pháp định
chỉnh ý thức lẫn kinh nghiệm chủ quan của tôi.

Trong ngôn ngữ tâm linh truyền thống, mỗi cấp độ cao đều được “canh giữ” bởi những con rồng nhị nguyên. Điều này
đặc biệt đúng đối với cấp độ 850, trong đó sự chuyển biến về giới hạn hiện tại là một câu đố hóc búa hàm chứa sự
đối lập/ hoặc thay thế về việc, liệu Thực tại sau cùng có phải là Tất cả so với Hư vô, hay Tồn tại so với Không tồn tại.

Tính không của Hư vô được định chỉnh ở mức 850 và là điểm cuối của con đường phủ nhận thực tại của mọi thứ hoặc
bất cứ thứ gì (nghĩa là, dính mắc vào hình thức tuyến tính, hoặc “tính có”). Lỗi tiếp theo là sự giả định rằng tính siêu
việt của tất cả mọi hình thức là điều kiện độc nhất của tính Phật. Sai lầm này khá dễ mắc, bởi theo kinh nghiệm, trạng
thái của Hư vô rất ấn tượng. Một khi mở được ra, nó là không thể biến đổi. Nó vô hạn, vô tận, vĩnh cửu, nó là Một, nó
bao trùm tất cả, nó tĩnh lặng, im lặng, bất di bất dịch, và một sự bao hàm kỳ lạ của “nhận thức cái không nhận thức”
mà không bao gồm hiện hữu hay tồn tại. Đây là trạng thái của thực chứng, không nghi ngờ, không có tính hai mặt. Nó
không có chủ thể, cũng không phải là đối tượng; không còn gì để buông bỏ cũng không có ai để buông bỏ; do đó, nó
dường như thực sự là trạng thái sau cùng. Một khó khăn nữa ở cấp độ này là không có người hướng dẫn để tham
khảo, xin ý kiến, chia sẻ, phản ánh hay xác nhận; nó có rất ít sự chỉ dẫn, vì tự nó đã rất kỳ diệu, thế nên nhu cầu được
dẫn và trình bày để được xác nhận có lẽ là không còn cần thiết nữa.

Nếu trạng thái Hư vô là Thực tại cuối cùng, nó sẽ là một trạng thái vĩnh viễn, và không có thực thể nào báo cáo về nó
nữa. Tuy nhiên, vì nó không phải, do đó, sớm hay muộn, người ta cũng sẽ rời bỏ Tính không này và quay lại với sự
tồn tại có ý thức. Tiếp theo là sự xảy ra của hiện tượng kinh nghiệm chủ quan, nó đột nhiên xuất hiện từ sự lãng quên
về Tính không, về Hư vô. (Trải nghiệm đó đã xảy ra với tôi vào năm tôi ba tuổi, như được mô tả trong phần “Về tác
giả”. Nó đột ngột, từ hư vô và vô thức, một cú sốc không chỉ về sự tồn tại mà với cả việc khám phá ra sự hữu hình về
cơ thể này, một sự đi ra từ Tính không và trở lại với Tính có. Do đó, trong cuộc đời này, tình trạng trái khoáy ở thời kỳ
đầu có mức định chỉnh 850 được đưa ra khá sớm và tiếp tục tái diễn sau đó, có những lúc nó bị từ chối và bỏ qua.
Tôi phải mất đến 38 năm để giải quyết vấn đề này).

Cái hiểu biết cần thiết để vượt qua cấp độ này là Tình yêu thiêng liêng, nó cũng là cái phi tuyến tính và không có chủ
thể, không có đối tượng, không có hình thức, không có điều kiện và vị trí. Chứng đặng được trạng thái Hư vô là hệ
quả của sự cống hiến mãnh liệt cho con đường phủ định; tuy nhiên, giới hạn (tính không đầy đủ) của nó là sự thiếu
vắng nhận thức rằng Tình yêu là phẩm tính chính yếu của Thần tính và là phi tuyến tính, nó cũng không phải là sự
ràng buộc. Lỗi của con đường phủ định là sự xác định sai và từ chối Tình yêu bởi vì theo kinh nghiệm thông thường
của con người, đó là một kiểu giới hạn, một sự ràng buộc (giữa “tôi”, và “bạn”, hoặc là “nó”).

Trái lại, Tình yêu thiêng liêng là ưu thế, nó mạnh mẽ và có tính chất áp đảo, nó là phẩm chất, và là bản chất của Hiện
Tại. Nó vô điều kiện, sâu sắc, không dính mắc vào chủ thể hay đối tượng. Nó không phải cảm xúc, nó là một điều kiện

103
hoặc trạng thái đang được giải phóng, chứ nó không phải giới hạn. Hư vô (mức 850) có thể so sánh với không gian
vô hạn, trống rỗng, có ý thức. Còn Hiện tại Thiêng liêng được ví như trái tim của mặt trời. Không có sự nhầm lẫn, bởi
vì Tình yêu được nhận thức là cốt lõi và là nguồn gốc của Chân ngã cơ bản của một người.

HỎI: Con đường sau cùng trông như thế nào?

ĐÁP: Sau hết, bạn rồi sẽ buông bỏ mọi điều cho Thượng Đế, bạn bước vào một không gian vượt lên tất cả những
không gian trước đây. Mỗi lần lên một trạng thái mới, hãy chuẩn bị cho một chiều không gian lớn hơn. Có một trạng
thái vượt lên trên tất thảy những trạng thái trước đó. Một trạng thái khổ hạnh thuần khiết. Tôi đã từng đề cập đến nó
như trạng thái Vượt Lên, và sẽ nói chi tiết hơn trong quyển sách này vì những độc giả có lẽ sẽ đối diện với nó. Một khi
bạn đã phó thác mọi thứ cho Thượng Đế trong sự thiền định và chiêm nghiệm, buông bỏ hết chấp trước và sự không
bằng lòng, bạn sẽ đạt đến trạng thái Vượt Lên rất cao, một nơi không có ai. Ở trạng thái đỉnh cao đó, bạn đã buông
bỏ hết mọi ràng buộc của đời sống, như tiền bạc, quyền lực, danh vọng, vui thích, và những cảm giác kích thích.
Không còn lại gì ngoại trừ cuộc sống đơn thuần của bạn. Bạn từ bỏ hết mọi thú vui thế gian, giao nó lại cho Thượng
Đế.

Trong trạng thái đó, bạn không còn gì để phải buông bỏ nữa. Chỉ còn sự sống của bản thân bạn, khoảnh khắc đó bạn
nhận ra bạn không có gì cả. Bạn đã giao cuộc đời mình vào tay Thượng Đế, và bạn đối mặt với cái chết, bạn sợ cái
chết khủng khiếp. Khi bạn đang ở trong sự đau khổ của một cái chết cận kề, bạn tự biết bạn đang ở đúng nơi. Đó là
sự đau khổ mà bạn đã đồng ý từ trước, một điều mà bạn tin rằng đó là bản thân mình, và đã như thế trong nhiều cuộc
đời, nó có trong hành trình quay về cõi vĩnh hằng, thấu tận tế bào, đến từng con vi khuẩn bên trong bạn, tất cả chúng
đều phải buông bỏ. Tất cả chuyện này là để ý thức tiến hoá, thứ mà bạn thấy là cốt lõi trong sự tồn tại của bạn, và
bạn được yêu cầu phải buông bỏ nó.

Nỗi sợ về sự không tồn tại xuất hiện. Và sau đó bạn đến với sự minh triết, biết rằng mình nên phó thác cuộc đời mình
cho Thượng Đế, bởi khi đó bạn mới có sự hiểu biết bên trong, “Tất cả nỗi sợ đều là hư ảo, hãy bước đi dù cho có
chuyện gì xảy đến đi nữa”. Một sự thấu biết vốn dĩ đã tồn tại từ lâu. Một sự thấu biết mà người ta phải tự mình kinh
qua trong sự chắc chắn tuyệt đối. Vì thế tôi chỉ muốn nhắc các bạn một điều, “Mọi nỗi sợ đều là giả tưởng”. Bạn đã
phó mặc cuộc đời của mình cho Thượng Đế. Thì từ đó ánh hào quang thiêng liêng này sẽ chiếu sáng cho tất cả sự
tồn tại, ngay bây giờ và mãi mãi. Đó là cánh cửa sau cùng phản ánh sự Bất toàn tri và dẫn bạn vào sự Toàn vẹn Thần
thánh. Tại đó, bạn bắt đầu sở hữu tính thiêng liêng của mình.

Tại đó, bạn không còn quyền kiểm soát cuộc sống của bạn nữa. Bạn phụng sự cho Thượng Đế bằng cách phụng sự
cho đồng loại và tất cả sự sống. Bằng cách yêu thương và phụng sự cho kẻ khác, bạn đã phụng sự cho Thượng Đế.
Thượng Đế có trong mọi chúng sinh.

HỎI: Lợi ích của việc học những Pháp không thể hiểu ngay được là gì?

ĐÁP: Dường như chúng chỉ có nhiệm vụ là che khuất trí tuệ. Chúng sẽ đi gieo mầm và kết hợp khí chất của người trò
đi tìm kiếm tâm linh với trường năng lượng truyền dẫn của người thầy. Một số thông tin tự nó sau đó có tính chất biến
đổi. Khi được tiếp xúc với sự thật cao, thì sẽ khơi dậy khao khát nhiều hơn của linh hồn. Đức Phật đã nhận định điều
này rằng, khi một người được nghe về Chân lý Giác ngộ, họ sẽ không bao giờ còn hài lòng với thứ gì ít hơn như thế
nữa, dù cho mất vô lượng kiếp để chứng đặng được.

Quan trọng là phải hiểu được rằng, bất kỳ một người trò tâm linh tận tuỵ nào cũng có thể đột nhiên trở thành một
người ở cấp độ cực cao mà không cần tín hiệu dự báo trước. Vì thế, tất cả những người trò nên được hướng dẫn
trước về cách xử lý khi đạt được trạng thái ý thức tiên tiến. Nó không phải là một câu triết lý rằng, thiên đường địa
ngục chỉ cách nhau có một gang tay. Thực tế là, bạn có thể đi từ những tầng đáy sâu nhất dưới địa ngục cho đến
những trạng thái cao cấp nhất. Một lý do trì hoãn có thể kéo dài dến vô tận trên con đường tìm kiếm Giác ngộ là sự
nghi ngờ, thứ cần phải buông bỏ, nó là một loại phản kháng. Cần lưu ý rằng, hiếm có người nào đạt được Giác ngộ
thông qua sự cam kết nghiêm túc với Chân lý Tâm linh, những người Giác ngộ là những người được định sẵn sẽ như
vậy, họ chỉ cần có thêm sự cam kết.

Vào thời điểm này, quá trình tiến hoá tâm linh diễn ra với một tốc độ phấn khích và lượng thông tin ào ạt chảy một
cách dễ dàng, như chưa từng bao giờ xảy ra trước đó. Sự tăng trưởng tâm linh của một người ở thời hiện nay đã
nhanh hơn và thuận lợi hơn, nhờ vào khả năng tiếp cận thông tin tâm linh mà trước đây có rất ít và lẻ tẻ.

Sự tăng trưởng tâm linh không phải là một sự tiến bộ có tính xuôi thuận, và có thể được xác định kiểu như khi bạn
nhìn vào Sơ đồ ý thức. Lộ trình này không phải một con đường tuyến tính. Bất ngờ là những bước tiến bộ nhảy vọt
có thể xảy ra bất cứ lúc nào, và những người trò tâm linh sẽ có lợi thế nếu biết được những thông tin cần thiết tại
những thời điểm nhất định trên lộ trình này. Kiến thức “về đích” được cần khá nhiều ngay từ khi bắt đầu.

104
Vì biết được những thông tin của các trạng thái cao cấp thần thánh này sẽ giúp thúc đẩy quá trình tiến bộ; nếu không,
sẽ có sự phản kháng vô thức xuất hiện, một nỗi sợ đến từ sự thiếu hiểu biết. Và vì thế chúng ta khắc phục bằng cách
có được hiểu biết này ngay từ đầu, biết được rằng không có gì để sợ, tất cả nỗi sợ chỉ là giả tưởng- ngay cả ở những
trạng thái cao, cũng cần có hiểu biết để tránh đi những nỗi sợ ảo tưởng. Bất cứ một người trò tâm linh nào có sự
nghiêm túc về tính liên kết tâm linh và lòng sùng kính dành cho Thượng Đế, có tình yêu, có sự công chính với đồng
loại, có sự thấu cảm với nỗi đau của người khác, hoặc với chúng sinh thì đều đã ở vào cấp độ khá cao.

Áp dụng nhất quán bất cứ một nguyên tắc tâm linh nào ở trên cũng có thể tạo ra một bước tiến nhảy vọt và đột ngột,
không lường trước được. Thời điểm này, có thể trí nhớ tạm thời không hoạt động, thay vào đó, sự hiểu biết về Chân
lý xuất hiện một cách âm thầm. Những người trò tâm linh cần chấp nhận một thực tế về khả năng thiên bẩm của họ.
Nếu bạn là một độc giả nghiêm túc của quyển sách này, bạn khó có thể là điều gì khác. Thần tính tự biết nó, do đó,
chấp nhận tự nó đã là một loại an lạc. Nếu sự an lạc đó không được trải nghiệm, nghĩa là đang có sự phản kháng.
Nhận thức này được củng cố bằng cách hiểu rằng, trái với mô hình Newton về thực tại nhị nguyên, chúng ta không
chỉ là hệ quả của quá khứ. Vị trí của chúng ta hiện nay còn là bởi sức hút của tiềm năng, bởi cả quá khứ và tương lai
đều là giả định. Do đó, sự cam kết với Khai sáng ngay trong hiện tại trở thành một nam châm kéo chúng ta về phía
của nó, tốc độ tiến hoá phụ thuộc vào sự sẵn sàng buông bỏ của mỗi cá nhân.

Giác ngộ không phải điều kiện để đi chứng đặng; nó là một sự chắn chắc để buông bỏ, vì Bản ngã bậc cao đã là thực
tại của một người. Chính Bãn ngã này là cái thu hút người đó đến với kiến thức tâm linh.

CHƯƠNG CHÍN

HƯỚNG DẪN CHO NHỮNG NGƯỜI ĐI TÌM KIẾM TÂM LINH

Con đường Giác ngộ là con đường đi tìm những mẫu thức hấp dẫn mạnh mẽ nhất. Sự cuốn hút vào một trường nhất
định trên Sơ đồ chỉ đơn giản nghĩa là ta đang chịu sự ảnh hưởng của trường năng lượng đó, tương tự như lực hấp
dẫn. Ở những trường dưới 200, sự cuốn hút này có tác dụng phá huỷ. Có thể quan sát lâm sàng điều này trên những
người nghiện cô-ca-in không có ý định cai nghiện, họ không ngừng nghe nhạc rap bạo lực hoặc rock nặng. Sự cuốn
hút của những trường năng lượng có tính tiêu cực chỉ có thể thoát ra bằng cách tiếp xúc liên tục với một trường năng
lượng cao hơn nó, giống như câu: “Bạn sẽ thấm nhuần thứ gì đó khi quay đi quay lại với nó”. Những người đang cai
nghiện mà rời bỏ các tổ chức trợ giúp xã hội thì dễ dàng tiên lượng được họ sẽ tái nghiện trở lại, vì khi đó không có
sự cân bằng nào đối với sức kéo trì xuống trong những thói quen tiêu cực của họ. Việc họ tự khẳng định họ có thể “tự
đi được” là một dấu hiệu rõ rành rành của sự ngạo mạn bản ngã- mức định chỉnh 175- nó vẫn thấp hơn năng lượng
của trường có tác dụng chữa lành.

Bên cạnh đó, những người khao khát đang đi trên con đường tâm linh chính là tìm cách liên kết bản thân họ với những
trường năng lượng bậc cao mạnh mẽ đủ mạnh để đưa họ thoát ra khỏi những thói quen xấu cố hủ. Ngoài sự sẵn sàng
chính là chìa khoá ra, còn có sự lặp lại liên tục của một hành động cụ thể. Ở đây, nguyên tắc của Thuyết Hỗn Loạn
vào một sự phụ thuộc nhạy cảm trong những điều kiện ban đầu (một thay đổi nhỏ nhưng liên tục theo thời gian có thể
mang lại tác động lớn), nó đưa ra lời giải thích khoa học về một sự tiến bộ tinh thần truyền thống. Trong tất cả các quy
tắc tâm linh, phần mở đầu dự báo là tiền đề nâng cao nhận thức của một người luôn là “sự sẵn lòng”. Lịch sử đã phản
ánh tất cả điều này về mặt lâm sàng: sự sẵn lòng bền bỉ là một yếu tố kích hoạt một trường hấp dẫn mới và cho phép
một người từ từ rời bỏ khỏi cái cũ. Chúng ta có thể mường tượng điều này như kiểu một người đi từ trường nhỏ hơn
để tiến tới một trường lớn hơn, tại đây, sự ra đời của yếu tố thứ ba (chẳng hạn như ý chí tự do) sẽ đột nhiên tạo ra
một điểm giao nhau (mô hình yên ngựa), và sự thay đổi sẽ xảy ra.

Khi một người đột nhiên chuyển từ ảnh hưởng của trường năng lượng thấp sang một trường năng lượng cao hơn, họ
thường hay xem nó như phép lạ. Đáng tiếc là, nhận định về trải nghiệm kiểu này của con người trong sự mới thoát ra
của họ lại dần dần mang đến sự chi phối khác trong hành vi của họ. Một chương trình tâm linh phổ biến thời nay được
thiết kế để tạo điều kiện cho việc thoát ra này là sách Thực hành (mức định chỉnh 600) về một khoá học Phép Màu (A
course of Miracle). Mục đích của quá trình tâm lý học tinh thần này là tạo ra cơ sở cần thiết để có được một bước
nhảy trong ý thức thông qua việc khuyến khích một sự chuyển đổi hoàn toàn về nhận thức. Trong kiểu truyền thống,
cầu nguyện và thiền định cũng cung cấp một điểm xuất phát để vượt lên từ ảnh hưởng của một trường thấp lên một
trường cao hơn.

105
Trong các môn pháp tâm linh phương Đông, có sự chấp nhận về tính tự tìm đạo của một người, không có đạo sư hay
một người thầy để trợ giúp, điều này có vẻ khó tiến bộ hơn. Sự hướng dẫn là bắt buộc, kinh nghiệm từ những nhóm
kiểu như Hội Nghiện Rượu Ẩn Danh là, một người nghiện sẽ không thể phục hồi nếu không có sự trợ giúp của bên
bảo trợ cho họ. Trong lĩnh vực thể thao, những huấn luyện viên tài ba được săn đón vì ảnh hưởng truyền cảm hứng
tối đa của họ lên các vận động viên. Những người đi trên con đường tâm linh có thể tự hỗ trợ sự tiến bộ của mình
bằng cách chỉ tập trung vào một giáo viên tiên tiến và cũng đồng thời có sự phù hợp, liên kết với trường năng lượng
của giáo viên đó; chúng tôi đá thử nghiệm được rằng, có nhiều phần trăm cho thấy hình dung về một vị thầy tâm linh
tiên tiến khiến cho các chủ đề trở nên mạnh mẽ hơn, bất kể niềm tin cá nhân của người học trò đó là gì.

PHƯƠNG HƯỚNG TÂM LINH

Sẽ hữu ích hơn khi ghi nhớ rằng Chân lý và sự Giác ngộ không phải là thứ để đi tìm, có được, thâu được hay để sở
hữu. Đó là sự hiện diện vô hạn luôn luôn hiện hữu, và sự nhận biết về chính nó sẽ xảy ra khi nào những chướng ngại
đối với sự nhận biết đó bị loại bỏ. Do đó, không cần thiết đi nghiên cứu Chân lý, và cũng không vì thế mà nguỵ biện
rằng không cần để tâm về nó.

Khi những đám mây tan đi, ánh mặt trời mới ló dạng. Việc bạn di chuyển những đám mây không phải để mặt trời chiếu
sáng mà đơn thuần là tiết lộ cái bị che khuất bấy lâu nay. Vì thế, công việc tâm linh chủ yếu là sự buông bỏ những gì
bạn nghĩ bạn biết để củng cố cho những gì bạn chưa biết, với một sự hứa hẹn rằng những người đã làm được điều
này sau cùng đều được đền đáp một cách xứng đáng. Ở cấp độ thế gian, vàng không được tạo ra mà chỉ đơn giản là
cắt bỏ những thứ bên ngoài che khuất để có được nó.

Một công cụ tinh thần là ý định của bạn, hãy thiết lập những điều ưu tiên và thứ bậc cho các giá trị giúp thúc đẩy cho
nỗ lực của bạn. Công việc tâm linh vừa là một sự cam kết, vừa là một sự khám phá. Những người đi trước đã mở ra
con đường này và tạo ra khả năng trong ý thức cho những người theo sau. Nhà sinh vật học Rupert Sheldrake đã
chứng minh ảnh hưởng của sự di truyền hình thái (trường M); nghĩa là, khi có ai đó tiến bộ trong một lĩnh vực cụ thể,
thành công này sẽ làm tăng khả năng cho những cá thể còn lại trong loài cũng có thể làm được như vậy. Cũng giống
như Roger Bannister đã phá vỡ “Trường M”, hoàn thành một dặm trong 4 phút chạy, thì từ đó, những con người tiên
tiến kiểu này sẽ tạo ra một khả năng để cho những cá thể khác làm theo.

Mỗi sự tiến bộ mà chúng ta đạt được trong nhận thức của mình đều mang lại lợi ích vô hình và củng cố cho bước
chuyển giao với những người khác. Mọi hành động tử tế đều được Vũ trụ chú ý và lưu giữ mãi mãi. Khi được nhìn
như chính nó là, thì đó là sự thay thế của lòng biết ơn cho tham vọng. Phật giáo truyền thống đi theo con đường Giác
ngộ vì lợi ích của nhân loại; và sau đó những món quà lại quay về với nơi xuất phát.

Vào một lúc thích hợp, ý định và sự tập trung tinh thần của một người sẽ thay thế cho những tham vọng và ước muốn
trần tục của họ. Như thể người đó dang dần được cuốn vào Bản ngã bậc cao, một lực hấp dẫn tâm linh được tác động
bởi sự thu hút. Một kiểu hiểu biết thay thế cho lý trí và lô-gic, nhận thức trực quan tập trung vào bản chất cuộc sống
và các hoạt động của nó hơn là vào các mục tiêu và chi tiết của hình thức. Tại đó, nhận thức bắt đầu thay đổi, vẻ đẹp
của tạo hoá trên mọi người và mọi vật mới bắt đầu được hiển lộ và toả sáng. Một cảnh tượng đơn thuần có thể bỗng
trở nên đẹp đẽ một cách choáng ngợp, như một ý nghĩ bộc lộ chính nó qua kỹ thuật hình chiếu ba chiều.

MỤC HỎI ĐÁP

HỎI: Ông có nói “Sống đời như nguyện”. Điều này có khác với việc chỉ tập trung vào những hoạt động tâm linh nhất
định không?

ĐÁP: Bạn có tận tuỵ hết mình cho cuộc sống hay không là nhờ ý định. Khi bản thân bạn trở thành một lời nguyện, bạn
kêu gọi được thần thánh, thông qua cái tâm và lòng thành ấy của bạn, bạn có được sự liên kết với tính thần thánh, tất
cả con người đều được trao quyền. Cố ghi điểm cho riêng mình là một điều vô nghĩa: Tôi đã đi được bao xa rồi? Người
khác thấy tôi đã tiến được bao nhiêu? Người duy nhất mà bạn cần trả lời chỉ có bản thân bạn. Khi bạn làm hết những
điều để phát huy tận cùng tiềm năng của bạn, bạn biết bạn có thể đối diện với bản thân mình và trả lời cho nó, bạn
biết bạn đã làm được những gì, và trân trọng cả những sai lầm. Có một sự đoan chắc rằng động lực để quay về sự

106
thiêng liêng chính là tính thiêng. Nhờ ân điển của Thượng Đế mà bạn quan tâm đến phần linh thiêng. Không có ai đi
tìm kiếm thần thánh ngoại trừ họ bị tác động bởi thần thánh, bởi nếu không bị ảnh hưởng và chỉ tự mình xoay sở, con
người thậm chí còn không buồn nghĩ đến đó là gì.

HỎI: Sự “tiến bộ” tâm linh là gì?

ĐÁP: Cách tiếp cận để hiểu tiến bộ tâm linh đó là không phải “một nơi nào đó” cần phải đến, vì chẳng có “một nơi”
như vậy. Thay vào đó, tâm linh là những giáo lý đích thực hướng dẫn bạn cách vượt lên bản ngã và gạt bỏ những ảo
tưởng để Chân lý có thể hiển lộ. Đó là công việc khắc phục và vượt qua những thất bại thông thường của con người-
vốn có bởi cấu trúc của bản ngã. Bất cứ khuyết điểm nào bạn đang có đều không phải của riêng cá nhân bạn; chúng
không chỉ là của bạn, trên thực tế, đó là vấn đề của bản ngã loài người, mà bản ngã thì không phải vấn đề của riêng
cá nhân ai. Bạn thích nghĩ rằng, Ồ, Tôi và sự tiến bộ của tôi, hoặc Tôi và tội lỗi của tôi, hoặc Tôi và những khó khăn
của tôi, nhưng cái mà bạn nói đến không phải của riêng con người bạn. Vấn đề ở đây chính là bản ngã, cái mà bạn
phải thừa hưởng theo một khi làm người. Bản ngã là sản phẩm của bộ não và chức năng não; nó thể hiện bản thân
nó như thế nào, cho tiết ra sao, điều này là dựa trên nghiệp quá khứ.

HỎI: Ông nói bản ngã không “xấu”- tốt nhất hãy nhìn nó như một con thú cưng, nghe có vẻ hài hước. Ông có thể giải
thích thêm không?

ĐÁP: Hài hước là một công cụ tinh thần có giá trị, ít nhất về mặt lịch sử mà nó hiếm khi được đề cập đến. Khi chúng
ta cười vào sự quá lố của cái tôi, chúng ta lớn hơn sự bày trò của nó. Hài hước được, tức là đã có sự so sánh giữa
nhận thức và bản chất. Ví dụ một diễn viên hài nói rằng, “Thành viên New Age là gì?” Có một sự im lặng. “Là một
người đi đến cửa hàng và mua hết những chậu cây ăn thịt, sau đó lại muốn trở thành người thuần chay!” Chúng ta
nhận ra sự bất hợp lý khi cố thuyết phục một người có thói quen nuôi những cái cây ăn thịt trở nên sống thuần chay:
“Bạn có thích ăn dưa chuột không? Đây, ăn cà chua đi!” Những câu đùa giúp chúng ta bật cười trước sự ngô nghê và
non xanh của cái tôi khi nó muốn người khác tuân theo lý tưởng và hệ giá trị đạo đức của nó.

Hài hước không phải lố lăng, hay lố bịch. Nó là một kiểu trắc ẩn khi nhìn những mặt hạn chế và những niềm tin sai
trái, một bản chất của loài người. Vì thế, nó hỗ trợ trong việc “chuyện gì cũng nhìn theo cách nhẹ nhàng”, giống như
cây sậy uốn rạp mình trong gió, bạn sống trong sự dễ chịu, vui vẻ, thay vì bị suy sụp vì tính cứng nhắc. Khả năng tự
cười bản thân là điều cần thiết để có được lòng tự trọng trong sự tích cực. Phản ứng nghiêm trọng là một kết quả lỗi
đến từ sự tự ái của bản ngã (ví dụ “nhạy cảm” hoặc có cảm giác “bị xúc phạm”). Một người khôn ngoan thì đừng nên
quá tự tôn.

Hài hước là biểu hiện của tự do và vui vẻ, tiếng cười có tác dụng chữa lành sinh học. Trong khi tội lỗi và ăn năn là
“đống tro tàn bên cạnh nấm mồ chôn”, chúng được viện đến nhiều ở những thế kỷ trước, nhưng nếu nhìn trên Sơ đồ
ý thức, mức định chỉnh của chúng khá thấp. Thượng Đế có mặt ở những cấp độ trên cùng của Sơ đồ, không phải bên
dưới. Đức tin, Tình yêu và sự An lạc là tầng sóng cao; rầu rĩ và ảm đạm chỉ có thể dẫn đến sự u ám và tuyệt vọng.
Chán ghét bản thân làm mù quáng nhận thức về Bản ngã bậc cao và lấp lối tìm về tính Thiêng của Sự sáng tạo.

HỎI: Còn đối với chế độ ăn uống, nghi thức, bài tập, kỹ thuật thở, thần chú và biểu tượng thì thế nào?

ĐÁP: Không cái nào trong số này là cần thiết. Nếu bạn nhận ra được rằng tôn giáo nào cũng bao gồm các chương
trình đặc trưng và giới hạn riêng của họ, thì nhận thức này của bạn sẽ hữu ích hơn. Con đường tâm linh dẫn đến Giác
ngộ chỉ có một. Và nó nhất định không phải là việc “thực hành tôn giáo”. Các tôn giáo có xu hướng nhấn mạnh vào
những sự kiện lịch sử, vị trí địa lý và những văn hoá trong quá khứ với các liên minh chính trị. Còn Giác ngộ là hiện
tại và không liên quan đến thời gian, lịch sử hay địa điểm. Lý thuyết có liên quan đến mức độ ý thức ngưỡng 400; Giác
ngộ liên quan đến các ngưỡng từ 600.

HỎI: Âm nhạc, mùi hương và vẻ đẹp kiến trúc thì sao?

ĐÁP: Đây là những thứ truyền cảm hứng và hỗ trợ tâm trạng và tinh thần, nó giúp loại bỏ sự chú ý vào nội dung của
suy nghĩ. Vẻ đẹp được nâng cao và cân chỉnh ở những cấp 500, nó gần như hoàn hảo.

HỎI: Rủi ro của kiến thức tâm linh là gì?

ĐÁP: Mặt trái của giáo dục tâm linh là một định hình phù phiếm của “Tôi biết” cộng với sự xem thường “Những kẻ
không tâm linh”. Bản ngã xem trọng sự hiểu biết tâm linh của nó thay vì nhận ra khả năng hiểu biết đó là một món quà

107
tinh thần từ Thượng Đế. Biết ơn là thuốc giải độc cho sự Kiêu hãnh. Nếu một người biết được một thông tin nào đó
và thấy biết ơn về điều đó, thì lòng kiêu hãnh của tinh thần sẽ không có chỗ đứng.

Lòng kiêu hãnh về tinh thần có thể tác động theo hai hướng, hoặc tăng cường tính phù phiếm hoặc, nực cười hơn, là
bạn tự ti, luôn thấy mình kém hơn người khác. Từ vị trí này, vị trí của Tôi chỉ là một con rệp vô dụng, nó chỉ khác với
cái trên ở chỗ bạn thấy mình như chiếc nùi giẻ thay vì chiếc áo lông vũ.

HỎI: Có điểm đà nào trong quá trình tâm linh này không?

ĐÁP: Một khi bạn vượt qua cột mốc quan trọng của Dũng cảm (200), bạn sẽ có khả năng truy cập vào những phần
còn lại. Càng tăng trưởng, bạn càng có nhiều hơn khả năng để tăng trưởng, và bạn càng có nhiều mong muốn tiến
bộ, bạn sẽ càng có nhiều khả năng tiến bộ hơn! Một khi có sự quan tâm đến các vấn đề của công việc tâm linh, tức là
bạn đã đúng hướng và không cần lo lắng nữa. Chẳng có ai quan tâm đến một quyển sách như thế này trừ phi họ vốn
đã có một định mệnh đi tìm Chân lý, tương tự như nếu bạn không định sẵn làm thợ lặn biển thì bạn sẽ không trải qua
khoá học lặn nào cả. Đức Phật có nói, nếu một người đã có nghe về Giác ngộ, họ sẽ chẳng còn hứng thú với điều gì
ít hơn thế nữa. Nội việc nghe về một điều gì đó cũng đã tạo ra dấu ấn bên trong ý thức của bạn.

NHỮNG PHẨM CHẤT VÀ THÁI ĐỘ ĐÁNG QUÝ NHẤT CỦA MỘT NGƯỜI HỌC TRÒ TÂM LINH

Mọi người thường hỏi, “Những phẩm chất và thái độ nào là cần thiết để thăng tiến ý thức?”

Hãy bắt đầu với sự chắc chắn và cảm giác an toàn thay vì nghi ngờ bản thân và rụt rè. Có thái độ chấp nhận thay vì
do dự, rằng bạn xứng đáng với con đường truy cầu Chân lý, cùng với một sự quyết tâm buông bỏ cho Thượng đế vì
Sự thật. Những sự thật đơn thuần và quyền năng trước hết cần thông qua một sự chấp nhận không chút e dè. Buông
bỏ mang lại sự tiến bộ to lớn về mặt tinh thần.

12 SỰ THẬT TÂM LINH

1. Bằng chứng sống động về Tình thương và Ý chí của Thượng Đế dành cho bạn chính là món quà cho sự
tồn tại của bạn.
2. Không cần so sánh bản thân với người khác về “tính thiêng”, công đức, tốt đời đẹp đạo, xứng đáng hay vô
tội, vân vân. Đây đều là những quan niệm của con người, thần thánh không bị giới hạn bởi quan niệm của
con người.
3. Khái niệm “Thượng Đế đáng sợ” là thiếu hiểu biết. Thượng Đế an hoà và là Tình yêu, không có gì khác.
4. Việc miêu tả thần thánh như “quan toà công tội” là một ảo tưởng của bản ngã nảy sinh từ phép phóng chiếu
của tội lỗi khi thời thơ ấu chúng ta bị phạt, bị răn đe. Hãy biết rằng Thượng Đế không phải cha mẹ của
những ngày đó.
5. Sự giáo dục của Chúa Christ đơn giản là để tránh tiêu cực (những gì định chỉnh dưới mức 200), và mục tiêu
giảng dạy của Ngài là để những môn đồ của ông đạt đến Tình yêu vô điều kiện (540). Ông biết rõ một khi
đạt đến mức độ của Tình yêu vô điều kiện thì số phận của linh hồn sau khi rời bỏ thân xác sẽ có sự chắc
chắn và an yên hơn. Về cơ bản, đây là một kết luận tương tự như các pháp được giảng trong những tôn
giáo lớn trên thế giới, chẳng hạn như Phật giáo tịnh độ.
6. Cứu rỗi và Giác ngộ là hai mục tiêu không giống nhau. Cứu rỗi đòi hỏi thanh lọc bản ngã, trong khi Giác ngộ
đòi hỏi bản ngã tiêu biến hoàn toàn. Mục tiêu của Giác ngộ có sự đòi hỏi khắt khe và triệt để hơn.
7. Không phải một “cá nhân bạn” đang tìm kiếm sự Giác ngộ mà là một phẩm tính trong ý thức của bản thể vô
ngã mới là động cơ thúc đẩy nó. Cảm hứng tâm linh và phụng sự mới là điều thực thi công việc tâm linh của
bạn.
8. Thoải mái sẽ thay thế cho bất an khi bạn nhận ra được rằng những mục tiêu quan trọng nhất đã được hoàn
thành. Và mục tiêu đó là đi trên con đường cống hiến cho tâm linh. Sự thăng tiến về tâm linh không phải
một dạng thành tựu mà là cách sống. Định hướng đó tự nó đã là một phần thưởng, và điều quan trọng là
phương hướng cho những động lực của bạn.
9. Mỗi bước tiến đều mang lại lợi lạc chung cho mọi người. Sự cống hiến tinh thần và công việc của bạn là
món quà dành cho cuộc sống và tình yêu đối với nhân loại.
10. Không có thời gian biểu hay lộ trình để tìm được đến Thượng Đế. Dù rằng tuyến đường của mỗi người là
độc nhất, nhưng những chướng ngại bao phủ trên địa hình nhìn chung là tương đối phổ biến với tất cả mọi
người. Chi tiết về những khác biệt là dựa trên nghiệp của mỗi người.
11. Tích cực cầu nguyện sẽ truyền thêm cảm hứng và làm tăng thêm tính phụng sự, nó tạo điều kiện để tiến bộ.
12. Ân điển của Thượng Đế là dành cho tất cả. Bản ngã có sức mạnh đáng gờm, nếu không có sự trợ giúp của
những thực thể tâm linh cao hơn, bản ngã sẽ ngăn cản tính siêu việt ở mỗi người. Phúc thay, sức mạnh ý
thức của tất cả những vị chân sư hoặc hình tượng vĩ đại vẫn còn. Từ góc độ lịch sử, “ân điển của những

108
bậc hiền nhân” đi trước luôn dành cho những người đi trên con đường tâm linh có sự cam kết chắc chắn
theo sau. Bằng cách tập trung vào một vị chân sư và pháp của họ, thông qua thiền định, nó sẽ kích hoạt sự
sẵn có của năng lượng và sức mạnh của vị chân sư đó đến ta. Ý chí của những bậc đã chứng đắc hỗ trợ
cho thành tựu của những người học trò noi theo họ, chứ không chỉ là việc chúng ta thuộc về một nhóm tâm
linh nào đấy. Cũng giống như một người tìm ra con đường Giác ngộ mang lại lợi lạc cho cả nhân loại, thì
một bậc thành tựu giả cũng mang lại lợi lạc cho những người cùng đi trên con đường đó ở phía sau. Ở đây
không hề có bất cứ yêu cầu hay nghĩa vụ gì để đòi hỏi.

NHỮNG NGUYÊN TẮC TÂM LINH

Tăng trưởng trên Sơ đồ ý thức sẽ được hỗ trợ bởi việc tuân theo một số nguyên tắc tâm linh mà theo thời gian, nó sẽ
làm cho nhận thức của bản ngã sáng rõ: Cách tôi nhìn thế giới này chính xác như nó là. Và “cách” này trong sự tăng
trưởng tâm linh là thông qua ý thức, nó thực ra không phức tạp mà khá đơn giản.
1. Hãy nhìn cuộc sống là nơi không phải để thâu đạt lợi ích mà là cơ hội để học tập, nó lẫn trong cả những chi
tiết nhỏ nhất của cuộc sống. Phẩm chất tinh thần cơ bản thực sự là một trong những thái độ tổng thể. Một
thái độ tốt đẹp khiến một người trở nên tốt đẹp, thân thiện, và điều này mang lại ý nghĩa cho toàn bộ cuộc
đời của người đó. Nếu ta thấy mình cẩn thận thậm chí với một chú kiến nhỏ trên đường để không giẫm chết
nó, nghĩa là ta có nhận thức rõ hơn về giá trị của tất cả sự sống, đó không phải là một nguyên tắc tôn giáo
bắt buộc, mà là vì ta có ý thức cao hơn. Những con vật được chú ý đến sẽ đáp lại sự tôn trọng và chú ý đó
của ta. Ngay cả thực vật cũng nhận biết được một khi bạn có sự yêu thích và ngưỡng mộ chúng.
2. Phát triển đặc tính khiêm tốn, có ý thức về những hạn chế của tâm trí và ngoại hình. Bạn ngày càng nhận
ra rằng cuộc sống được chắt lọc qua nhận thức và những gì mà bạn chứng kiến hàng ngày, chúng chủ yếu
là xuất phát từ thái độ và nhận thức hơn là bản thân của những sự tồn tại đó, những thực tại nằm ngoài
những điều đó. Tất cả những gì “xảy ra” đều là hệ quả của vô số điều kiện, không thể nhìn thấy hay nắm
bắt nổi, vì “cái nguyên nhân” của bất cứ điều gì cũng là tổng thể của cả vũ trụ cho đến thời điểm đó. Chỉ
những ai toàn tri mới có thể xác định được tầm quan trọng của nó, vì thế trong sự khiêm tốn, bạn thừa nhận
sự bất toàn tri của mình. “Tôi không biết” thay thế cho “Tôi biết”.
3. Sẵn sàng bỏ qua và tha thứ. Sự sẵn lòng này cho phép một người trò tâm linh nghiêm túc từ bỏ những gì
họ tự cho là nhiệm vụ của họ, như đánh giá, khắc phục, kiểm soát, chỉ đạo, thay đổi thế giới và bày tỏ ý kiến
về mọi thứ. Một người trò tâm linh nghiêm túc không bị buộc vào những nghĩa vụ này; thay vào đó, họ
chuyển sang một dạng công lý thiêng liêng. Vì tâm trí thậm chí không biết hiện thực là như thế nào, việc bớt
ôm đồm những nghĩa vụ như trên sẽ giúp làm nhẹ nhõm và cũng chấm dứt những điều kiện gây tội lỗi. Sẽ
rất hữu ích nếu buông bỏ được những “nguyên nhân” và sự bức xúc thay cho những người bị áp bức, bức
hại, các nạn nhân và những gì thương cảm. Mỗi người đơn thuần là đi hoàn thành số phận của chính mình
và tập trung vào khía cạnh này. Có thể thấy hầu hết những người thích ôm đồm đều thích những gì cường
điệu hoá trong cuộc sống của họ.
4. Quan sát mọi người với sự từ bi. Sự quan sát sẽ phản ánh những gì bề ngoài thực chất là một chuyên gia
lừa dối. Hầu hết mọi người đều trông có vẻ là người lớn, nhưng thực ra không phải. Trong khía cạnh tình
cảm, bọn họ đều là trẻ em. Những cảm xúc và thái độ phổ biến ở trường mầm non và sân chơi mẫu giáo
tiếp tục đi vào cuộc sống của những người lớn trẻ con, chỉ là chúng được ẩn trong những thuật ngữ nghe
có vẻ nghiêm nghị hơn. Phần lớn chúng ta chỉ là những đứa trẻ bắt chước người lớn. “Đứa trẻ bên trong”
mà chúng ta đã nghe qua rất nhiều thực ra chẳng bên trong chút nào, nó khá là “lộ liễu”.

Khi lớn lên, mọi người với nhiều đặc điểm nhận dạng khác nhau chỉ là đang cố sao chép những hành vi mà họ
quan niệm đó là phong cách của người lớn; tuy thế, người lớn không như vậy, trẻ em mới thể hiện những điều
như thế. Vì thế, hàng ngày, cái mà chúng ta đang chứng kiến là những chương trình mà người ta đã thiết lập từ
khi còn bé. Như những loài động vật khác, trẻ em cũng có những biểu hiện của tò mò, tự thương hại, ghen tị, đố
kỵ, cạnh tranh, nóng nảy, bộc phát cảm xúc, phẫn nộ, hận thù, ganh đua, cạnh tranh, cố ý, và thích cưng chiều.
Mọi người tìm kiếm sự chú ý và sự ngưỡng mộ, từ chối trách nhiệm và đổ lỗi cho người khác, buộc tội người
khác, tìm kiếm sự ưu ái, thích “sưu tập” đồ đạc, khoe khoang, và những cái kiểu kiểu như thế đều là biểu hiện
của trẻ con.

Khi quan sát những hoạt động thường nhật của hầu hết người lớn, chúng tôi nhận ra không có gì đổi khác. Nhận
thức này là để có sự từ bi chứ không phải để lên án. Sự ương bướng và chống đối- hai thứ vốn dĩ là đặc điểm
của trẻ con- sẽ tiếp tục được chúng ta mang theo cho đến già. Có đôi lúc con người ta cũng xoay sở để đi từ thời
thơ ấu đến tuổi thiếu niên, để rồi trở thành những kẻ nghiện cảm giác hồi hộp đến bất tận, những thử thách của
đường đời; họ bận tâm nhiều đến cơ bắp, hình thể, sự tán tỉnh, sự nổi tiếng, và những cuộc chinh phục tình dục
lãng mạn. Một số có xu hướng tỏ ra dễ thương, nhút nhát, quyến rũ, anh hùng, bi kịch, trình diễn, kịch tích và
hoài niệm. Một lần nữa, đây là những người lớn trẻ trâu, những người lớn thiếu niên. Những thiếu niên sống nội
tâm và ngây thơ, dễ bị gây ấn tượng, dễ bị lập trình, dụ dỗ và lôi kéo.

109
5. Nuôi dưỡng sự tò mò và quen thuộc đối với bản chất thiên bẩm của ý thức. Một sự nghi ngờ dễ dàng khiến
bạn ngừng phản ứng với mọi người từ bên trong cũng như bên ngoài. Sống đời con người thật sự không
dễ, ngay cả trong những hoàn cảnh tốt nhất. Sự thất vọng, trì hoãn, mất trí nhớ, thôi thúc và căng thẳng ở
mọi định dạng và hình thức bao vây lấy bất cứ một con người nào. Những nhu cầu nhiều lúc vượt quá khả
năng, và yếu tố thời gian lắm khi cũng gây áp lực lên cuộc sống. Bạn sẽ thấy rằng, cái tôi của bạn cũng
chẳng khác gì cái tôi của những người khác.
Trí óc là được di truyền, và một bộ não là được vận hành bởi gien và sự kế thừa. Nghiên cứu cho thấy có
nhiều tính cách chủ chốt đã có ngay từ lúc mới sinh. Rất ít người có sự thay đổi từ những gì mà họ đã có
ngay từ đầu. Chỉ một số rất ít tìm cách cải thiện bản thân họ hoặc nỗ lực phát triển tinh thần thì sẽ có sự cải
biến. Điều này là bởi hệ thống tự phê bình của mỗi người, hầu hết chúng ta đều nghĩ tính cách mà chúng ta
đang dùng để sống mỗi ngày là đúng và là duy nhất. Họ tin rằng cứ như hiện tại thì luôn luôn ổn, nếu có vấn
đề gì thì đó là do sự ích kỷ và bất công từ người khác, từ bên ngoài thế giới mang đến.
6. Trao đi tình yêu hơn là tìm cách nhận lại. Đại bộ phận chúng ta đều tin tình yêu là thứ mà chúng ta nhận
được, nó là cảm xúc, và cần xứng đáng để có được nó, càng yêu nhiều thì càng nhận lại ít. Nhưng sự thật
đều ngược lại. Yêu thương thực chất là một loại thái độ làm thay đổi trải nghiệm của chúng ta về thế giới.
Chúng ta sẽ có lòng biết ơn thay vì kiêu hãnh về những gì chúng ta có. Chúng ta bày tỏ tình yêu thương
của mình trong sự ghi nhận dành cho những người khác, ghi nhận cho những đóng góp của họ trong cuộc
sống giúp chúng ta có được sự thuận tiện. Yêu thương không phải là một kiểu cảm xúc mà là một cách để
tồn tại và liên kết đến thế giới mà chúng ta đang sống.
7. Tránh tạo ra “kẻ thù”. Mọi người thường rơi vào một cái bẫy của việc liên tục sai lầm. Trong đó, họ thường
xuyên tạo ra kẻ thù và sự thù hận. Điều này cản trở một cuộc sống yên bình. Không ai cần thiết phải có kẻ
thù. Những người thù nhau có thể trả đũa nhau theo những cách ám muội và rồi mang lại những hậu quả
đáng tiếc. Không có cái gọi là chiến thắng trong một cuộc xung đột; sau cùng nó chỉ dẫn đến sự căm hận
của bên thua cuộc. Sự tiến bộ tinh thần nằm ở chỗ biết nhận trách nhiệm về tất cả những gì xảy ra với bạn
và tránh việc thích trở thành nạn nhân. Từ một góc nhìn cao cả hơn, bạn sẽ thấy không có ai là nạn nhân.
Không gì trong thế giới biểu hiện có sức mạnh để gây ra bất cứ điều gì.
8. Chọn một vài trò và quan điểm sống nhân hậu. Tính cách khắc nghiệt không thể giúp tiến bộ tâm linh. Kể
cả khi người đó “đúng” hay “chính đáng”, một người đi trên con đường tâm linh đừng nên rước thêm những
cá tính này vào mình. Cần từ bỏ sự phù phiếm của việc báo thù hoặc tự đắc rằng “công lý đã được thực thi”
khi ai đó bị hành quyết hay bị xử tử. Một người không thể nào vi phạm nguyên tắc tâm linh cơ bản mà không
phải trả giá. Trên con đường này, chúng ta nhìn ra thấu được những ảo tưởng mù quáng và từ bỏ việc làm
quan toà hay bồi thẩm đoàn. Không ai “lọt lưới” được để mà phải đi lên án hay phẫn nộ. Thông qua phép
đo động học, chúng tôi khẳng định vũ trụ này không bỏ sót bất cứ một hạt cát nào; theo nghĩa đen, vũ trụ
này đếm từng sợi tóc, từng chiếc lá rơi. Không một sự tử tế nào không được chú ý. Tất cả đều được ghi lại
vĩnh hằng trong trường ý thức.
9. Từ bỏ cảm giác Tội lỗi. Tự thấy tội lỗi là vì nỗ lực muốn có được sự cứu rỗi, nó thao túng Thượng Đế và
muốn có được sự tha thứ từ cảm giác tội đồ. Những thái độ này bắt nguồn từ sự hiểu lầm rằng Thượng Đế
là Đấng trừng phạt. Chúng ta ngỡ chúng ta sẽ xoa dịu cơn thịnh nộ công bình của Thần thánh bằng nỗi
thống khổ và sự đền tội của chúng ta. Thực ra chỉ có duy nhất một hành vi thích hợp cho “sự đền tội” này,
đó là biết thay đổi. Thay vì lên án và sống tiêu cực, hãy chọn tích cực. Vì để tiến bộ và thay đổi bản thân,
nó khó hơn là tự thấy tội lỗi, thế nhưng đó mới là phản ứng hợp lý. Chúng ta thấy từ Sơ đồ ý thức, Tội lỗi
nằm ở phía bên dưới, trong khi Thượng Đế ở phía bên trên. Kết quả là cứ quanh quẩn với cảm giác tội lỗi
mãi cũng chẳng giúp ai được bất cứ điều gì!
Hãy khiêm tốn biết rằng cuộc sống của chính mình là một sự tiến hoá của ý thức tâm linh, và chúng ta học
từ những sai lầm. “Có lẽ điều đó đúng tại thời điểm đó”, hãy nghĩ như thế, nó hữu ích trong việc khơi gợi lại
bất cứ chi tiết, hành vi tội lỗi nào trong quá khứ. Lẽ dĩ nhiên sau này nhìn lại, nó đã được tái ngữ cảnh hoá,
và nếu chúng ta thấy rõ ràng làm vậy là sai, hãy mang theo trí tuệ đó về sau. Tất cả chúng ta đều vô tội về
bản chất, bởi vì đó là tính tự nhiên của ý thức.
Cùng với việc từ bỏ cảm giác tội lỗi, hãy từ bỏ luôn khái niệm chúng ta là “tội đồ”, nó là một hiện thực có lợi.
Vì lỗi lầm có thể sửa được, lỗi lầm chẳng qua là một sự thiếu hiểu biết, và nó có thể được tha thứ. Những
gì gọi là lỗi lầm thực chất là sự dính mắc, cảm xúc hoá của đứa trẻ bên trong chúng ta. Đó là đứa bé ăn cắp,
nói dối, lừa đảo, vô lễ và hay đánh người; thế nên lỗi lầm chẳng qua là sự non nớt và thiếu hiểu biết về bản
chất thực sự của hiện thực và ý thức mà thôi. Một khi các giá trị tinh thần thế chỗ cho các giá trị thế gian,
sự cám dỗ sẽ giảm xuống và khả năng gây lỗi sẽ ít hơn.
10. Hãy từ bỏ sự phản kháng và tìm kiếm niềm vui trong sự cho đi 101%. Sự sẵn lòng là nền tảng cho mọi tiến
bộ tinh thần cũng như thành công trên thế giới này. Cảm giác khó chịu đến từ sự phản kháng, và khi buông
xuôi thái độ phản kháng, nó sẽ được thay thế bằng cảm giác mạnh mẽ, tự tin và vui vẻ.
Bất cứ một nỗ lực nào cũng có một điểm cản trở, gọi là khối chướng ngại. Khi nó được khắc phục, sự gắng
sức trước đó biến thành dễ như trở bàn tay. Vận động viên là những người thường trải nghiệm cảm giác
này, và những người lao động chân tay cũng thế. Nó đột ngột có một sự giải phóng năng lượng khổng lồ và
xuất hiện vào lúc mà trạng thái đó gần như Giác ngộ, tại thời điểm đó, mọi việc xảy ra theo cách riêng của
nó. Nó chứa sự bình an, thanh thản và tĩnh lặng. Những vũ công ba lê và những người lao động chân tay
gần như kiệt sức sẽ gần với sự khám phá thiêng liêng này hơn bất cứ ai. Ý thức về sự Hiện diện của Thượng

110
Đế chỉ ngay trước sự buông bỏ. Khi bản ngã rơi xuống hố sâu tuyệt vọng, mọi khủng hoảng có thể biến
thành một cơ hội khám phá tâm linh.
11. Nhận ra được rằng “Sự thật” phụ thuộc vào ngữ cảnh. Sự thật chỉ đơn giản là thế trong một mức độ ý thức
nhất định. Ví dụ, thời điểm này tha thứ là đáng khen, nhưng về sau họ lại thấy vốn chẳng có gì để cần được
tha thứ. Cũng “không có ai” cần được tha thứ. Bản ngã của tất cả chúng ta đều không có thực, cả chung và
cả riêng mỗi người. Vì thế nhận thức của chúng ta không phải hiện thực.
12. Thực hành không dính mắc, đó là một thái độ không vướng mắc cảm xúc vào chuyện đời. Được vậy là có
sự thanh thản và yên bình. Nó được củng cố bằng cách từ chối những quyến rũ về mặt tinh thần đối với
những rối loạn và tham gia vào chuyện của người khác. Và một thái độ để thế giới giải quyết chuyện của
thế giới, để thế gian tự quyết định vận mệnh của thế gian. Sự can thiệp và tham gia vào chuyện nhân thế
sẽ dành cho những người có nguyện và nghiệp đó.
Làm “người tốt” là một chuyện. Giác ngộ là một chuyện khác nữa. Bạn chịu trách nhiệm cho nỗ lực chứ
không phải kết quả, vì kết quả phụ thuộc vào thần thánh và vũ trụ.
Không dính mắc không phải thờ ơ và tách biệt. Nếu hiểu sai, không dính mắc một hồi có thể dẫn đến sự kết
thúc trong vô vị và thờ ơ. Trái lại, không dính mắc còn cho phép một người tham gia trọn vẹn vào cuộc sống
mà không kiểm soát kết quả của sự vật, sự việc.
13. Chấp nhận rằng mọi thứ xảy ra đều phục vụ cho một mục đích nào đó. Chấp nhận mang đến khả năng chữa
lành tuyệt vời cho những xung đột, xung khắc và ảm đạm. Nó điều chỉnh sự mất cân bằng của nhận thức
và ngăn sự chi phối của cảm giác tiêu cực. Hãy khiêm tốn biết rằng chúng ta không hiểu hết và cũng không
biết hết các sự kiện đang xảy ra hoặc đã xảy ra. Chấp nhận không phải một sự thụ động, nó là thái độ vô
kiến. Sự phát triển tâm linh về mặt bản ngã bậc thấp có thể tránh được trong nhận thức rằng, tiến bộ tâm
linh là kết quả của sự ân điển từ Thượng Đế chứ không phải thông qua nỗ lực cá nhân.
14. Tránh những vị thầy giả mạo. Không nên quá đề cao ở khía cạnh này. Những người chủ động tìm kiếm tâm
linh ngây ngô thường dễ bị lung lạc bởi cái bẫy danh tiếng của những nhân vật lôi cuốn trong ngành. Nếu
không có nhận thức về những trạng thái tiên tiến, những người học trò tâm linh sẽ không có phương tiện
hướng dẫn và chủ yếu chỉ dựa trên một sự phán đoán mây mù.
Ở thời điểm này trong tiến trình của nhân loại, chúng ta chỉ có thể dựa vào phương pháp kiểm tra động học
để định chỉnh sự thật cho mức độ ý thức của một người thầy, một tổ chức hoặc một phương pháp giảng
dạy. Những con người ngây thơ bị ấn tượng bởi sự sùng đạo bên ngoài cùng những tuyên bố về sức mạnh
siêu nhiên, những kỳ tích huyền bí, những danh xưng ảo diệu và những sản phẩm tâm linh mông má. Những
người trò tâm linh nghiêm túc được khuyến khích để đi xác minh giáo viên hoặc phương pháp mà họ đang
đi theo thông qua danh sách những phẩm chất cần có của một người thầy chính trực ở chương 8.

111
112

You might also like