ON VAO 10 2016

You might also like

Download as doc, pdf, or txt
Download as doc, pdf, or txt
You are on page 1of 54

UBND HUYỆN NA HANG ĐỀ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO Năm học 2016 - 2017


Môn thi: Ngữ văn
Thời gian: 120 phút (Không kể thời gian giao nhận đề)
Đề này có 01 trang

Phần I: Đọc hiểu (4 điểm)


Đọc đoạn thơ sau và trả lời các câu hỏi:
Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
(Trích Ngữ văn 9, tập I)
Câu 1. Đoạn thơ trích trong bài thơ nào? Nêu tên tác giả của bài thơ ấy? (0,5 điểm)
Câu 2. Từ “lại” ở câu thơ “Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi” diễn tả điều gì? (0,5 điểm)
Câu 3. Xác định biện pháp tu từ từ vựng trong hai câu thơ đầu. Nêu tác dụng của biện pháp tu từ đó? (1
điểm)
Câu 4. Viết đoạn văn (khoảng 200 từ) phát biểu cảm nhận của em về khổ thơ trên. (2 điểm)
Phần II: Làm văn (6 điểm)
Suy nghĩ của em về nhân vật bé Thu trong truyện ngắn “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng.

UBND HUYỆN NA HANG ĐÁP ÁN ĐỀ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NĂM HỌC 2016 - 2017
Môn thi: Ngữ văn
Thời gian làm bài: 120 phút
(Đáp án này có 03 trang)
Phần I: Đọc hiểu (4 điểm)
Câu 1. (0, 5 điểm)
Đoạn thơ trích trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của tác giả Huy Cận.
Câu 2. (0,5 điểm)
- Từ “lại” diễn tả công việc của người dân chài được lặp lại hàng ngày, diễn ra thường xuyên, đều đặn nh ư
một nhịp sống đã quen thuộc. (0,25 điểm)
- Mặt khác chữ “lại” còn biểu thị ý đối lập với hoạt động có trước: Trời, biển đã nghỉ ngơi còn con người
lại ra khơi đánh cá. (0,25 điểm)
Câu 3. (1 điểm)
- Biện pháp tu từ: (0,75 điểm, mỗi ý đúng 0,25 điểm)
+ So sánh: Mặt trời như hòn lửa - > Cảnh hoàng hôn trên biển đẹp rực rỡ.
+ Nhân hóa: Vũ trụ cũng có linh hồn sóng biết cài then, đêm sập cửa.
+ Liên tưởng: Vũ trụ như một ngôi nhà lớn, với màn đêm buông xuống là cánh cửa khổng lồ, những lượn
sóng là then cài.
- Tác dụng: Miêu tả bức tranh hoàng hôn trên biển rực rỡ, lung linh; thiên nhiên gần gũi với con người.
(0,25 điểm)
Câu 4. (2 điểm)

-1-
1. Về hình thức:
HS viết được đoạn văn nghị luận (khoảng 200 từ) nêu cảm nhận về khổ thơ, có mở đoạn, thân đoạn, kết
đoạn.
2. Về nội dung: HS có thể có nhiều cách viết nhưng cần đảm bảo những nội dung chính như sau:
Nội dung cần đạt Biểu điểm

a) Mở đoạn: Giới thiệu ví trí và nội dung chính của khổ thơ 0,25
b) Thân đoạn: Cảm nhận về nội dung và nghệ thuật đoạn thơ
- Cảnh hoàng hôn trên biển: 0,75
"Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa"
+ So sánh: Mặt trời như hòn lửa
+ Nhân hóa: Vũ trụ cũng có linh hồn.
+ Liên tưởng: Vũ trụ như một ngôi nhà lớn, với màn đêm buông xuống là cánh cửa khổng lồ,
những lượn sóng là then cài.
=> Bức tranh hoàng hôn trên biển rực rỡ, lung linh; thiên nhiên gần gũi với con người.
- Cảnh đoàn thuyền khởi hành:
“Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi” 0,75
+ Công việc hàng ngày, diễn ra thường xuyên, đều đặn.
Câu hát căng buồm cùng gió khơi
+ Ẩn dụ “Câu hát căng buồm...”
-> Con người ra khơi trong tâm trạng náo nức, khí thế lạc quan phấn khởi, tiếng hát chan chứa
niềm vui của những người lao động làm chủ thiên nhiên, đất nước. Sự hoà hợp giữa của con
người và thiên nhiên.
0,25
c) Kết đoạn: Khẳng định lại nội dung, nghệ thuật đoạn thơ

Phần II: Làm văn (6 điểm)


1. Yêu cầu về kỹ năng:
- Học sinh vận dụng các thao tác nghị luận, khả năng cảm thụ văn học để trình bày suy nghĩ của mình về
nhân vật trong tác phẩm.
- Bài viết có bố cục 3 phần chặt chẽ, lý lẽ dẫn chứng cụ thể, diễn đạt lưu loát, dùng từ đặt câu đúng, chữ
viết rõ ràng, không mắc lỗi chính tả, khuyến khích những bài viết sáng tạo.
2. Yêu cầu về kiến thức:
- Học sinh có thể trình bày theo nhiều cách, nhưng cần đảm bảo những nội dung sau:
Nội dung cần đạt Điểm

a. Mở bài: 0,5
- Giới thiệu được tác giả, tác phẩm.
- Cảm nhận chung về nhân vật bé Thu và tài năng miêu tả tâm lý nhân vật của tác giả. 0,5
b. Thân bài:
* Khái quát cảnh ngộ của gia đình bé Thu:
- Đất nước có chiến tranh, ba đi tham gia kháng chiến khi Thu chưa đầy một tuổi, lớn lên em chưa 0,5
một lần gặp ba được ba chăm sóc yêu thương, tình yêu Thu dành cho ba chỉ gửi trong tấm ảnh ba
chụp chung cùng má.
* Diễn biến tâm lý của bé Thu trước khi nhận anh Sáu là cha: 0,5
+ Yêu thương ba nhưng khi gặp anh Sáu, trước những hành động vội vã thái độ xúc động, nôn
nóng của cha…Thu ngạc nhiên, lạ lùng, sợ hãi và bỏ chạy…những hành động chứa đựng sự lảng
tránh đó lại hoàn toàn phù hợp với tâm lí trẻ thơ bởi trong suy nghĩ của Thu anh Sáu là người đàn
ông lạ lại có vết thẹo trên mặt giần giật dễ sợ. 0,5
+ Trong hai ngày sau đó Thu hoàn toàn lạnh lùng trước những cử chỉ đầy yêu thương của cha, nó

-2-
cự tuyệt tiếng ba một cách quyết liệt trong những tình huống mời ba vào ăn cơm, xử lí nồi cơm
sôi, và thái độ hất tung cái trứng cá trong bữa cơm…Từ cự tuyệt nó đã phản ứng mạnh mẽ….nó
căm ghét cao độ người đàn ông mặt thẹo kia, nó tức giận, và khi bị đánh nó đã bỏ đi một cách bất
cần…. đó là phản ứng tâm lí hoàn toàn tự nhiên của một đứa trẻ có cá tính mạnh mẽ… Hành động
tưởng như vô lễ đáng trách của Thu lại hoàn toàn không đáng trách mà còn đáng thương, bởi em
còn quá nhỏ chưa hiểu được những tình thế khắc nghiệt éo le của đời sống. Đằng sau những hành
động ấy ẩn chứa cả tình yêu thương ba, sự kiêu hãnh của trẻ thơ về một tình yêu nguyên vẹn trong
sáng mà Thu dành cho ba.
* Diễn biến tâm lý của Thu khi nhận ba: 0,5
+ Sự thay đổi thái độ đến khó hiểu của Thu, không ương bướng mà buồn rầu nghĩ ngợi sâu xa, ánh
mắt, cử chỉ, hành động của bé Thu như thể hiện sự ân hận, sự nuối tiếc, muốn nhận ba nhưng e
ngại vì đã làm ba giận.
+ Tình yêu thương ba được bộc lộ hối hả, ào ạt, mãnh liệt khi anh Sáu nói “Thôi ba đi nghe con”.
Tình yêu ấy kết đọng trong âm vang tiếng ba trong những hành động vội vã: Chạy nhanh như con 0,5
sóc, nhảy thót lên, hôn ba nó cùng khắp, trong lời ước nguyện mua cây lược, tiếng khóc nức nở…
Đó là cuộc hội ngộ chia tay đầy xúc động, thiêng liêng đã tác động sâu sắc đến bác Ba, mọi người

+ Sự lý giải nguyên nhân việc hiểu lầm của bé Thu đựợc tác giả thể hiện thật khéo léo đó là do vết
thẹo trên mặt người ba khi hiểu ra sự thực Thu “nằm im lăn lộn thở dài như người lớn”. Vết thẹo
không chỉ gây ra nỗi đau về thể xác mà còn hằn nên nỗi đau về tinh thần gây ra sự xa cách hiểu
lầm giữa cha con bé Thu. Nhưng chiến tranh dù có tàn khốc bao nhiêu thì tình cảm cha con anh
Sáu càng trở lên thiêng liêng sâu lặng.
* Khẳng định lại vấn đề:
- Ngòi bút miêu tả tâm lý khắc hoạ tính cách nhân vật tinh tế thể hiện được ở bé Thu một cô bé 1
hồn nhiên ngây thơ, mạnh mẽ cứng cỏi yêu ghét rạch ròi. Trong sự đối lập của hành động thái độ
trước và sau khi nhận ba lại là sự nhất quán về tính cách về tình yêu thương ba sâu sắc.
- Những năm tháng sống gắn bó với mảnh đất Nam Bộ, trái tim nhạy cảm, nhân hậu, am hiểu tâm
lý của trẻ thơ đã giúp tác giả xây dựng thành công nhân vật bé Thu.
* Liên hệ: Suy nghĩ về đời sống tình cảm gia đình trong chiến tranh, trân trọng tình cảm gia đình 1
trong cuộc sống hôm nay.
c. Kết bài:
Khẳng định thành công, đồng thời bộc lộ ấn tượng sâu đậm nhất về nhân vật cũng như toàn bộ tác
phẩm. 0,5

UBND HUYỆN NA HANG ĐỀ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT


PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO Năm học 2016 - 2017
Môn thi: Ngữ văn
Thời gian: 120 phút (Không kể thời gian giao nhận đề)
Đề này có 01 trang
Phần I: Đọc hiểu (4 điểm)
Đọc khổ thơ sau và trả lời các câu hỏi :
“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”
(Trích sách Ngữ văn 9, tập hai, trang 58)
Câu 1. Khổ thơ trên trích trong bài thơ nào? Nêu tên tác giả của bài thơ ấy. (0,5 điểm).
Câu 2. Chỉ ra và phân tích ý nghĩa hình ảnh ẩn dụ trong hai câu thơ đầu. (1 điểm).
Câu 3. Dựa trên hiện tượng chuyển nghĩa của từ, cụm từ "bảy mươi chín mùa xuân" có thể
hiểu như thế nào? Theo phương thức chuyển nghĩa nào? (0,5 điểm).

-3-
Câu 4. Em hãy viết đoạn văn (khoảng 200 từ) phát biểu cảm nhận của em về khổ thơ trên.
(2 điểm).
Phần II: Làm văn (6 điểm)
Cảm nhận của em về nhân vật ông Hai trong tác phẩm Làng của Kim Lân.

UBND HUYỆN NA HANG ĐÁP ÁN ĐỀ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NĂM HỌC 2016 - 2017
Môn thi: Ngữ văn
Thời gian làm bài: 120 phút
(Đáp án này có 03 trang)
Phần I: Đọc hiểu (4 điểm)
Câu 1. (0,5 điểm).
Đoạn thơ trên trích trong bài thơ Viếng lăng Bác của tác giả Viễn Phương.
Câu 2. (1 điểm).
- Hình ảnh ẩn dụ trong khổ thơ trên là: mặt trời trong lăng (0,25 điểm)
- Phân tích ý nghĩa của hình ảnh ẩn dụ (0,75 điểm)
Tác giả đã ca ngợi sự vĩ đại của Bác, công lao của Bác đối với non sông đất nước. Đồng
thời thể hiện sự tôn kính, lòng biết ơn của nhân dân đối với Bác, niềm tin Bác sống mãi với non
sông, đất nước ta.
Câu 3. (0,5 điểm).
Dựa trên hiện tượng chuyển nghĩa của cụm từ " bảy mươi chín mùa xuân" được hiểu là 79
tuổi, chuyển nghĩa theo phương thức ẩn dụ.
Câu 4. (2 điểm).
1. Về hình thức:
- HS viết được đoạn văn nghị luận (khoảng 200 từ) nêu cảm nhận về khổ thơ, có mở đoạn,
thân đoạn, kết đoạn.
- Đoạn văn viết mạch lạc, không mắc lỗi diễn đạt, dùng từ, chính tả.
2. Về nội dung: HS có thể có nhiều cách viết nhưng cần đảm bảo những nội dung chính như sau:
Nội dung cần đạt Biểu điểm

a. Mở đoạn: Giới thiệu ví trí và nội dung chính của khổ thơ: Khổ thơ thứ 0,5
2 trong bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương. Đoạn thơ thể hiện sự tôn kính
của tác giả, của nhân dân đối với Bác khi đứng trước lăng Người.
b. Thân đoạn: Cảm nhận về nội dung và nghệ thuật đoạn thơ (1 điểm): 0,25
- Hình ảnh mặt trời trong câu thơ đầu là hình ảnh thực, trong câu thơ thứ hai "mặt
trời trong lăng" là hình ảnh ẩn dụ chỉ Bác Hồ đang nằm trong lăng, thể hiện sự tôn
kính biết ơn của nhân dân đối với Bác.
- Hình ảnh ẩn dụ: “Kết tràng hoa dâng bảy chín mùa xuân” 0,5
Kết tràng hoa: Tô đậm thêm sự tôn kính, biết ơn tự hào của tác giả cũng
như của dân tộc Việt Nam đối với Bác; dâng bảy mươi chín mùa xuân đã cho
-4-
thấy được cuộc đời Bác đẹp như chính mùa xuân, bảy chín năm sống và cống
hiến bảy chín mùa xuân tươi trẻ của cuộc đời cho sự nghiệp giải phóng nước
nhà. 0,25
- Điệp ngữ “ngày ngày” được lặp lại hai lần trong khổ thơ đã thể hiện sự
vĩnh cửu của Bác trong lòng người dân Việt. 0,5
c. Kết đoạn: Khẳng định lại nội dung, nghệ thuật đoạn thơ
Phần II: Làm văn (6 điểm)
1. Về hình thức:
- HS viết được bài văn nghị luận, có bố cục 3 phần: mở bài, thân đoạn, kết bài.
- Bài văn viết mạch lạc, có cảm xúc không mắc lỗi diễn đạt, dùng từ, đúng chính tả.
2. Về nội dung: HS có thể có nhiều cách viết nhưng cần đảm bảo những nội dung chính như sau:
Nội dung cần đạt Biểu điểm

1. Mở bài 0,5
- Giới thiệu chung về tác giả, khái quát về tác phẩm.
- Nêu cảm nhận chung về nhân vật ông Hai: Là người nông dân có tình yêu
làng gắn liền với tình yêu nước.
2. Thân bài 0,5
* Ông Hai là người nông dân yêu làng quê bằng tình yêu đặc biệt
- Yêu làng quê tới mức say đắm, tự hào: đi đâu, gặp ai cũng say mê kể
chuyện làng, khoe làng, tự hào về làng (trước cách mạng, sau cách mạng, khoe về
cảnh vật, về tinh thần kháng chiến của dân làng: đào giao thông hào, tập quân 0,25
sự...). 0,25
- Kháng chiến bùng nổ:
+ Tự hào về làng kháng chiến: Tập quân sự đắp ụ chiến đấu... 0,5
+ Tình nguyện ở lại làng cùng bộ đội du kích chiến đấu.
+ Khi đi tản cư xa làng: sống trong tâm trạng nhớ nhung buồn bực, tối nào
cũng sang bác Thứ nói chuyện về làng cho khuây nỗi nhớ; hỏi thăm tin tức của
0,5
làng; đọc báo để theo dõi tin tức kháng chiến... .
=> Tình yêu làng trước và sau cách mạng có sự phát triển, thể hiện sự phát
triển về nhận thức chính trị của ông Hai nói riêng và của người nông dân nói
chung.
* Tình yêu làng gắn bó với tình yêu nước 0,5
- Nỗi đau xót, tủi hổ của ông Hai nghe tin làng Dầu theo Tây làm Việt gian.
+ Khi mới nghe tin: Sững sờ (cổ họng nghẹn ắng ... da mặt tê rân rân...) 0,5
+ Trên đường về - khi về đến nhà: Cái tin đó đã trở thành nỗi ám ảnh day dứt
khiến ông đau xót, tủi hổ đến mức tuyệt vọng (cúi gằm mặt xuống, nằm vật ra
giường ... tủi thân nước mắt cứ giàn ra...)
+ Những ngày sau đó: Không dám đi đâu, dứt khoát lựa chọn theo suy nghĩ của 0,5

-5-
mình: Yêu làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây thì phải thù. (Phân tích đoạn trò
chuyện với đứa con – là đỉnh điểm của tình yêu làng, yêu nước).
- Vui sướng hả hê khi nghe tin làng chợ Dầu vẫn là làng kháng chiến:
+ Nghe tin cải chính – vui sướng hả hê: “... tươi vui, rạng rỡ ... cặp mắt... hấp 0,25
háy ... chia quà cho con”.
+ Hả hê, sung sướng khoe nhà bị Tây đốt. (bình về hình ảnh ngọn lửa ...).
0,25
- Nhận xét đánh giá về nhân vật ông Hai.
+ Hình tượng ông Hai tạo ấn tượng sâu sắc.
+ Nghệ thuật xây dựng nhân vật: Tạo tình huống, chi tiết chân thực, nghệ
thuật miêu tả tâm lý tính tế. 0,25
+ Hình tượng ông Hai là hình ảnh người nông dân Việt Nam trong cuộc 0,25
kháng chiến chống Pháp: Yêu làng, yêu nước. 0,5
c. Kết bài 0,5
Nhận xét, đánh giá về nhân vật ông Hai

PHÒNG GD&ĐT SƠN DƯƠNG KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT
Năm học 2015 - 2016

Môn thi: Ngữ văn


Thời gian làm bài: 120 phút
(Không kể thời gian giao nhận đề)
ĐỀ BÀI
PHẦN I ( 4điểm)
Đọc đoạn vắn sau và trả lời các câu hỏi bên dưới:
"Nhưng sao lại nảy ra cái tin như vậy được? Mà thằng chánh Bệu thì đích là người làng không sai rồi.
Không có lửa làm sao có khói? Ai người ta hơi đâu bịa tạc ra những chuyện ấy làm gì. Chao ôi! Cực nhục chưa,
cả làng Việt gian! rồi đây biết làm ăn buôn bán ra sao? Ai người ta chứa. Ai người ta buôn bán mấy. Suất cả cái
nước Việt Nam này người ta ghê tởm, người ta thù hằn cái giống Việt gian bán nước...Lại còn bao nhiêu người
làng tan tác mỗi người một phương nữa, không biết họ đã rõ cái cơ sự này chưa?"
1. Đoạn trích trên nằm trong tác phẩm nào? Cho biết tên tác giả?
2. Cho biết tâm trạng của ông Hai trong đoạn trích?
3. Tìm một câu rút gọn trong đoạn văn và chỉ rõ cách rút gọn?
4. Viết đoạn văn (khoảng 200 từ) trình bày cảm nhận của em về nội dung đoạn trích trên?
PHẦN II (6 điểm)
Cảm nhận của em về bài thơ "Viếng lăng Bác" của tác giả Viễn Phương?

* HƯỚNG DẪN CHẤM


PHẦN I (4 điểm)
1.Đoạn trích nằm trong truyện ngắn Làng của nhà văn Kim Lân (0,5 điểm)
2.Tâm trạng nửa tin nửa ngờ của ông Hai khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc. Buộc phải tin đó là sự
thật thì ông Hai lo sợ cho tương lai của những người làng Chợ Dầu đang tản cư ở khắp nơi (0,5 điểm)
3. Câu rút gọn trong đoạn văn: Rồi đây biết làm ăn buôn bán ra sao? (0,5 điểm)
Bộ phận chủ ngữ được rút gọn (0,5 điểm).
4. Học sinh viết được đoạn văn theo yêu cầu sau:
- Về hình thức: Đảm bảo kết cấu một đoạn văn, không mắc lỗi diễn đạt, dùng từ, ngữ pháp (0,5)

-6-
- Về nội dung: Trình bày được cảm nhận về tâm trạng của nhân vật ông Hai, đó là sự nửa ngờ của ông
Hai khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc. Buộc phải tin đó là sự thật thì ông Hai lo sợ cho tương lai của những
người làng Chợ Dầu đang tản cư ở khắp nơi. (1,5 điểm)
*PHẦN II ( 6 điểm )
1. Yêu cầu về hình thức:
- Hiểu đúng yêu cầu của đề bài: Biết cách làm một bài văn nghị luận văn học, kiểu bài
phân tích một bài thơ, biết cách trình bày luận điểm khi viết một bài văn.
- Hình thức trình bày sạch đẹp, bố cục đầy đủ, chặt chẽ. lập luận rõ ràng, văn phong trong
sáng, có cảm xúc, có sáng tạo, có khả năng thuyết phục cao, không mắc lỗi dùng từ, diễn đạt,
ngữ pháp...
2. Yêu cầu về nội dung:
NỘI DUNG CẦN ĐẠT BIỂU ĐIỂM
a. Giới thiệu về nhà thơ Viễn Phương và bài thơ Viếng lăng Bác. Nhận xét khái quát về bài thơ. 1,0
b. Trình bày được:
- Tâm trạng xúc động của nhà thơ khi đến thăm lăng Bác: 0,5
+ Tấm lòng người dân miền Nam đối với Bác: Cách xưng hô như tình cha con ruột thịt: "con" -
"bác". 0,5
+ Cảm xúc thành kính, thiêng liêng: những hình ảnh thân thương của làng quê, của dân tộc như
hàng tre đã trở thành biểu tượng của tình cảm nhân dân gắn bó với Bác, thành biểu tượng của 1,0
sức sống bền bỉ, mạnh mẽ.
- Sự tôn kính, biết ơn của nhân dân đối với Bác: hình ảnh ẩn dụ mặt trời trong lăng, vầng trăng
dịu hiền....- đó là sức sống tư tưởng Hồ Chí Minh. 1,0
- Niềm tiếc thương vô hạn: thương nhớ vô hạn suốt chiều dài thời gian (ngày ngày), không gian
(dòng người)...
- Những cảm xúc chân thành, tha thiết ấy được nâng lên thành ước muốn sống đẹp - đó là được 1,0
hoá thân, hoà nhập vào cảnh vật (muốn làm chim hót, hoa toả hương) và nguyện ước trung
thành với lí tưởng của Bác (cây tre trung hiếu)...
- Bài thơ là giọng điệu thành kính, trang nghiêm mà tha thiết, nhiều hình ảnh ẩn dụ thiêng liêng
diễn tả tình cảm kính yêu, thương nhớ, biết ơn sâu sắc của nhân dân miềm Nam nói riêng và cả 1,0
dân tộc Việt Nam nói chung đối với Bác Hồ.

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TUYÊN QUANG ĐỀ THI TUYỂN SINH VÀO 10 THPT
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO SƠN DƯƠNG MÔN: NGỮ VĂN
NĂM HỌC 2016 - 2017
Thời gian: 120 phút (không kể thời gian giao, nhận
đề)
PHẦN I: (4 điểm)
Đọc khổ thơ và trả lời các câu hỏỉ sau:
"… Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu…"
( Trích Ngữ văn 9 tập 2 trang 70)
1. Khổ thơ trên trích trong bài thơ nào? Tác gia là ai? (0,5 đ)
2. Xác định các biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong khổ thơ? (1đ)
3. Nội dung chính của khô thơ là gì? (0,5đ)
d. Viết đoạn văn ngắn ( Khoảng 200 từ ) trình bày những cảm nhận của em về khổ thơ trên. (2đ)
PHẦN II: ( 6 điểm)
Truyện Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng đã thể hiện thật cảm động tình cha con sâu nặng và cao
đẹp trong cảnh ngộ éo le của chiến tranh.
( Theo Ngữ văn 9, tập 1, trang 202, Nxb Giáo dục Việt Nam 2013)
Hãy phân tích đoạn trích đã học trong truyện Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng để làm sáng tỏ ý
kiến trên.
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TUYÊN QUANG HƯỚNG DÂN CHẤM
-7-
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO SƠN DƯƠNG ĐỀ THI TUYỂN SINH VÀO 10 THPT
MÔN: NGỮ VĂN
NĂM HỌC 2016 - 2017

A. YÊU CẦU CHUNG.


- Giám khảo phải nắm được nội dung trình bày trong bài làm của học sinh để đánh giá được một cách khái quát,
tránh đếm ý cho điểm. Vận dụng linh hoạt hướng dẫn chấm, nên sử dụng nhiều mức điểm một cách hợp lí;
khuyến khích những bài viết có cảm xúc và sáng tạo.
- Học sinh có thể làm bài theo nhiều cách riêng nhưng đáp ứng được các yêu cầu cơ bản của đề, diễn đạt tốt vẫn
cho đủ điểm.
B. YÊU CẦU CỤ THỂ.
PHẦN I: ( 4 điểm)
Nội dung Điểm
1. Khổ thơ trên được trích trong bài Sang thu của nhà thơ Hữu Thỉnh. 0,5
2. Khổ thơ sử dụng một số biện pháp nghệ thuật:
- Phép đối và từ láy: dềnh dàng >< vội vã 0,5
- Phép nhân hóa: Đám mây mùa hạ vắt nửa mình sang thu 0,5
3. Nội dung chính của khổ thơ: Nhà thơ miêu tả cảnh đất trời chuyển mình sang thu nhẹ 0,5
nhàng mà rõ rệt.
4. Viết đoạn văn nêu cảm nhận về khổ thơ.
* Về hình thức: Đoạn văn có bố cục chặt chẽ, diễn đạt lưu loát, không mắc lỗi chính tả. 0,5
* Về nội dung đảm bảo các ý sau:
+ Khổ thơ trích trong bài thơ Sang thu của nhà thơ Hữu Thỉnh. Là những cảm nhận tinh tế của
nhà thơ trước cảnh thiên nhiên đất trời sang thu với những hình ảnh đẹp…
+ Những hình ảnh được diễn tả bằng những từ ngữ gợi cảm, phép đối…, phép nhân hóa có 1
sự tưởng tượng sáng tạo…Thiên nhiên đất trời ngả dần sang thu một cách nhẹ nhàng mà rõ
rệt.
+ Nhà thơ đang say sưa , ngây ngất ngắm nhìn đất trời chuyển mình sang thu. Đó là tình yêu 0,5
tha thiết của tác giả dành cho quê hương.
PHẦN II: (6 điểm)
a. Về kĩ năng: Cách làm bài văn nghị luận văn học; bố cục 3 phần rõ ràng; dẫn chứng phù hợp; văn viết trong
sáng, có cảm xúc; không mắc lỗi tả, lỗi dùng từ và lỗi ngữ pháp.
b. Về kiến thức: Học sinh có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng cần đảm bảo các ý cơ bản sau:
Nội dung Điểm
1. Mở bài:
- Giới thiệu về tác giả, tác phẩm: Nguyễn Quang Sáng là người con của mảnh đất Nam bộ.
Sáng tác của ông chủ yếu tập trung viết về cuộc sống và con người Nam Bộ trong chiến tranh và 0,5
sau hoà bình. Truyện ngắn " Chiếc lược ngà" được viết năm 1966, khi tác giả đang hoạt động ở
chiến trường Nam Bộ,
- Nêu ý kiến : Truyện đã thể hiện thật cảm động tình cha con sâu nặng và cao đẹp trong cảnh
ngộ éo le của chiến tranh.
0,5
2. Thân bài: Phân tích để làm sáng tỏ ý kiến.
* Hoàn cảnh éo le bộc tình cảm cha con giữa ông Sáu và bé Thu:
+ Ông Sáu đi kháng chiến, xa nhà nhiều năm. Ông chưa được biết mặt đứa con gái của mình – bé
Thu. 0,75
+ Tám năm sau, một lần về thăm nhà trước khi đi nhận công tác mới, ông được gặp con. Nhưng,
bé Thu nhất định không chịu nhận ông là cha. Đến lúc em nhận ra cha và và biểu lộ tình cảm
thắm thiết thì ông Sáu lại phải ra đi. 0,75
* Tình cảm của bé Thu dành cho ông Sáu:
+ Thoạt đầu, khi thấy ông Sáu vui mừng, vồ vập nhận bé Thu là con, Thu tỏ ra ngờ vực, lảng 0,75
tránh, lạnh nhạt, thậm chí ngang ngạnh, bướng bỉnh với ông Sáu.
+ Khi nhận ra ông Sáu chính là cha mình, bé Thu muốn nhận ba nhưng không dám vì trót làm ba 0,75
giận. Trước khi ông Sáu lên đường, cô bé cất tiếng gọi “Ba...a...a...ba!” như xé ruột và thể hiện
-8-
tình cảm yêu quý mãnh liệt với ba.
- Tình cảm ông Sáu dành cho con: 0,25
+ Gặp lại con sau bao năm xa cách, ông Sáu hết sức vui mừng. 0,5 0,25
+ Trước thái độ lạnh nhạt của con, ông rất đau khổ, cảm thấy bất lực, ân hận vì đã đánh con.
+ Khi con đã nhận ra mình, ông Sáu vô cùng xúc động, vui xướng, hạnh phúc. 0,25
+ Điều cảm động nhất là khi trở lại căn cứ ông tự làm chiếc lược ngà gửi lại cho con trước lúc hy 0,25
sinh. Chiếc lược ngà đã kết tinh trong nó tình phụ tử mộc mạc mà đằm thắm, sâu xa.
- Nghệ thuật thể hiện: Xây dựng tình huống éo le, kịch tính, miêu tả tâm lý nhân vật vừa tinh tế,
lựa chọn hình ảnh, chi tiết tiêu biểu, ngôn ngữ giàu sức biểu cảm. 0,5
Kết bài: (Đánh giá ) Tình cha con sâu nặng đó đã làm bừng sáng vẻ đẹp tâm hồn của các nhân
vật, khiến người đọc cảm động và thấm thía một sự thật tình cảm cao đẹp thiêng liêng của con 0,5
người sẽ mãi bất tử trước sự tàn khốc của chiến tranh.
Chú ý: Nếu học sinh có ý sáng tạo so với đáo án thì sẽ cho điểm khuyến khích (tùy theo mức độ) Nhưng điểm
của bài làm không vượt quá tổng điểm của câu hỏi này.

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT
TUYÊN QUANG (TTP) NĂM HỌC 2016 - 2017

ĐỀ CHÍNH THỨC Môn thi Ngữ văn


Thời gian: 120 phút (không kể thời gian nhậngiao đề)

ĐỀ BÀI
PHẦN I (4 điểm)
Đọc văn sau và trả lời các câu hỏi từ câu 1 đến câu 4:
“Nửa đêm đang nằm trong chăn, nghe chuông đồng hồ chỉ muốn đưa tay tắt đi. Chui ra khỏi chăn, ngọn
đèn bão vặn to đến cỡ nào vẫn thấy là không đủ sáng. Xách đèn ra vườn, gió tuyết và lặng im ở bên ngoài như
chỉ trực đợi mình ra là ào ào xô tới. Cái lặng im lúc đó mới thật dễ sợ: nó như bị gió chặt ra từng khúc, mà gió
thì giống những nhát chổi lớn muốn quét đi tất cả, ném vứt lung tung…Những lúc im lặng lạnh cóng mà lại
hừng hực như cháy. Xong việc, trở vào, không thể nào ngủ lại được.”.

(Trích Ngữ văn 9 - Tập 1)


Câu 1: (0,5 điểm)
Đoạn văn trên được trích trong tác phẩm nào? Ai là tác giả?
Câu 2: (0,5 điểm)
Nêu giá trị nội dung của tác phẩm có chứa đoạn văn trên?
Câu 3: (1 điểm)
Câu văn “Cái lặng im lúc đó mới thật dễ sợ: nó như bị gió chặt ra từng khúc, mà gió thì giống những
nhát chổi lớn muốn quét đi tất cả, ném vứt lung tung…” sử dụng những biện pháp tu từ nào? Việc sử dụng
những biện pháp tu từ đó có tác dụng gì trong việc diễn đạt nội dung của đoạn văn?
Câu 4: (2 điểm)
Viết một đoạn văn (khoảng 10 đến 15 dòng) trình bày suy nghĩ của em về trách nhiệm của bản thân sau
khi học xong văn bản có chứa đoạn văn trên?
PHẦN II (6 điểm)
Nhận xét về truyện ngắn “Bến quê” của Nguyễn Minh Châu, có ý kiến cho rằng: “Bến quê” là một truyện
ngắn đặc sắc, chứa đựng những chiêm nghiệm, triết lí về đời người được thể hiện bằng tình huống truyện độc
đáo và nhiều hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng."
Em hãy làm sáng tỏ nhận định trên qua truyện ngắn “Bến quê”.

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HƯỚNG DẪN CHẤM


TUYÊN QUANG ĐỀ TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT
NĂM HỌC 2016 - 2017
Môn Ngữ văn lớp 9
ĐỀ CHÍNH THỨC
Thời gian: 90 phút (không kể thời gian giao đề)

PHẦN NỘI DUNG ĐIỂM


-9-
Câu 1.
- Đoạn văn được trích từ văn bản: Lặng lẽ Sa Pa. 0,25
- Tác giả: Nguyễn Thành Long 0,25
Câu 2.
Giá trị nội dung:
- Bức tranh nên thơ về cảnh đẹp ở Sa Pa. 0,25
- Chân dung những người lao động bình thường nhưng phẩm chất rất cao đẹp. Lòng 0,25
I yêu mến, cảm phục với những người đang cống hiến quên mình cho nhân dân, tổ
(4 điểm) quốc.
Câu 3.
- Câu văn sử dụng biện pháp tu từ so sánh và nhân hóa:
+ So sánh: nó như bị gió chặt ra từng khúc, mà gió thì giống những nhát chổi lớn 0,25
muốn quét đi tất cả.
+ Nhân hóa: chặt, quét. 0,25
- Tác dụng: Nhấn mạnh hoàn cảnh làm việc đầy khó khăn, vất vả của anh thanh niên. 0,5
Qua đó làm nổi bật sự hy sinh thầm lặng của nhân vật này.
Câu 4.
- Về hình thức: Đảm bảo đúng hình thức một đoạn văn (có mở đoạn, thân đoạn, kết 0,5
đoạn)
- Về nội dung: HS trình bày nhiều cách nhưng cần đảm bảo các nội dung sau:
+ Nhận thức đúng đắn về sự cống hiến thầm lặng của một bộ phận thanh niên
quên mình cho Tổ quốc. 0,75
+ Có những hành động thiết thực để phấn đấu tu dưỡng đạo đức, trau dồi học vấn
để góp phần xây dựng tương lai nước nhà. 0,75
1. Yªu cÇu vÒ h×nh thøc:
- Hiểu đúng yêu cầu của đề bài: Biết cách làm một bài văn nghị luận văn
học, kiểu bài nghị luận về một tác phẩm truyện, biết cách trình bày luận
điểm khi viết một bài văn.
- Hình thức trình bày sạch đẹp, bố cục đầy đủ, chặt chẽ. lập luận rõ
ràng, văn phong trong sáng, có cảm xúc, có sáng tạo, có khả năng thuyết
phục cao, không mắc lỗi dùng từ, diễn đạt, ngữ pháp...
2. Yªu cÇu vÒ néi dung:
2.1. Mở bài:
II - Giới thiệu được tác giả, tác phẩm 0,25
(6 điểm) - Dẫn dắt được vấn đề: Bến quê là một truyện ngắn đặc sắc, chứa đựng những chiêm 0,25
nghiệm, triết lí, về đời người được thể hiện bằng tình huống truyện độc đáo và nhiều
hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng.
2.2. Thân bài:
a. Phân tích tình huống truyện:
- Tình huống thứ nhất:
+ Khi còn trẻ, Nhĩ đã đi rất nhiều nơi, gót chân anh hầu như đặt lên mọi xó xỉnh 0,5
trên trái đất.
+ Về cuối đời anh mắc phải một căn bệnh hiểm nghèo nên bị liệt toàn thân. Đây là 0,5
một tình huống đầy nghịch lí để người ta chiêm nghiệm triết lí về đời người.
- Tình huống thứ hai:
+ Phát hiện ra vẻ đẹp của bãi bồi bên kia sông, Nhĩ khao khát được một lần được 0,5
đặt chân đến đó.
+ Biết mình không thể làm được, Nhĩ nhờ cậu con trai thực hiện giúp, song cậu 0,5
con trai mải sà vào đám chơi cờ bên đường nên để lỡ chuyến đò ngang duy nhất trong
ngày qua sông.
=> Các tình huống nghịch lí này, tác giả đã lưu ý người đọc những nhận thức về 1
cuộc đời, cuộc đời chứa đầy những điều bất thường, vượt qua khỏi dự định toan tính
của con người. Cuộc sống người ta khó tránh khỏi cái vòng vèo, chùng chình. Cảm
nhận thấm thía vẻ đẹp quê hương giàu đẹp, tình cảm yêu thương của những người

- 10 -
xung quanh.
b. Ý nghĩa biểu tượng của một số hình ảnh:
- Hình ảnh bãi bồi bên kia sông: là hình ảnh quê hương giàu đẹp bình dị, nó đánh 0,25
thức Nhĩ một niềm khao khát được khám phá.
- Hình ảnh bờ sông bên này bị sạt lở: quy luật tự nhiên của dòng sông bên lở bên
bồi, quy luật của đời người có sinh có tử. Suy nghĩ của Nhĩ về cái chết kề cận. 0,25

- Hình ảnh con trai sà vào đám cờ thế bên đường: cuộc đời con người khó tránh
khỏi những điều vòng vèo, chùng chình. 0,25
- Hình ảnh con đò: cơ hội mà con người không nắm bắt rất dễ tuột mất hoặc bỏ
qua. 0,25
=> Truyện chứa đựng những suy ngẫm, trải nghiệm của cuộc đời. Là phát hiện có
tính quy luật, cuộc đời con người không tránh khỏi những sự vòng vèo chùng chình. 1
Thức tỉnh về những giá trị vẻ đẹp đích thực về đời sống ở những cái gần gũi bình
thường mà bền vững.
2.3. Kết bài:
- Bến quê là truyện ngắn thấm đẫm ý vị triết lí về con người và cuộc đời 0,25
- Là bài học về tình yêu và lẽ sống được đặt ra một cách cảm động. Phải biết nâng
niu, trân trọng vẻ đẹp và giá trị bình dị, thân thuộc của cuộc sống, của quê hương 0,25

* Lưu ý: Dàn ý chỉ mang tính chất định hướng. HS có thể trình bày theo cách khác nhưng phải đảm bảo các ý
trên.
- Chỉ cho điểm tối đa đối với những bài viết hoàn chỉnh bố cục, viết đúng thể loại, diễn đạt mạch lạc, có
sáng tạo; trình bày, chữ viết đẹp, rõ ràng, sạch sẽ; không mắc lỗi chính tả hoặc mắc lỗi không đáng kể (1-> 3 lỗi
nhỏ).
- Căn cứ bài làm cụ thể của HS để cho điểm phù hợp, công bằng.

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỀ THI VÀO LỚP 10 THPT


THÀNH PHỐ TUYÊN QUANG Năm học: 2015 - 2016

MÔN THI: NGỮ VĂN


Thời gian: 120 phút
(Không kể thời gian giao nhận đề)

Phần I. (4 điểm) Đọc - hiểu:


Đọc đoạn thơ sau và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 4.
"Quª h¬ng anh níc mÆn, ®ång chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.
Anh víi t«i hai ngêi xa l¹
Tù ph¬ng trêi ch¼ng hÑn quen nhau,
Sóng bªn sóng, ®Çu s¸t bªn ®Çu,
§ªm rÐt chung ch¨n thµnh ®«i tri kØ.
§ång chÝ! "

Câu 1: (0,5đ) Trong nh÷ng c©u th¬ trªn cã mét tõ bÞ chÐp sai. §ã lµ tõ nµo? H·y chÐp l¹i chÝnh x¸c c©u th¬
®ã.
Câu 2: (0,5đ) Đoạn thơ trên trích trong tác phẩm nào? Tác giả là ai?
Câu 3: (1đ) C©u thø sáu trong ®o¹n tr¬ trªn cã tõ "tri kØ". Mét bµi th¬ ®· häc trong ch¬ng tr×nh Ng÷ v¨n líp
9 còng cã c©u th¬ dïng tõ "tri kØ". §ã lµ c©u th¬ nµo? Thuéc bµi th¬ nµo? VÒ ý nghÜa tõ "tri kØ" trong hai
c©u th¬ ®ã cã ®iÓm g× gièng nhau, kh¸c nhau?
Câu 4: (2 đ) C©u thø bẩy trong ®o¹n th¬ trªn lµ mét c©u ®Æc biÖt. H·y viÕt ®o¹n v¨n kho¶ng 10 c©u
ph©n tÝch nÐt ®Æc s¾c cña c©u th¬ ®ã.
Phần II. Làm văn Câu 5: (6 đ) Phát biểu cảm nghĩ của em về nhân vật Phương Định trong tác phẩm "Những
ngôi sao xa xôi" của Lê Minh Khuê.

- 11 -
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐÁP ÁN ĐỀ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT
TUYÊN QUANG Năm học 2016 - 2017

Môn thi: Ngữ văn


Thời gian làm bài: 120 phút

Phần I. Đọc - hiểu:


Câu 1: (0,5 điểm) Trong nh÷ng c©u th¬ trªn cã mét tõ bÞ chÐp sai lµ: “hai”, ph¶i chÐp l¹i lµ: "®«i”: Anh víi
t«i ®«i ngêi xa l¹.
Câu 2: (0,5 điểm) Đoạn thơ trên trích trong tác phẩm "Đồng chí" của tác giả Chính Hữu.
Câu 3:(1 điểm) C©u th¬ trong bµi:" Ánh Tr¨ng" cña NguyÔn Duy cã tõ tri kØ:
"Håi chiÕn tranh ë rõng
VÇng tr¨ng thµnh tri kØ"
VÒ ý nghÜa tõ tri kØ trong hai c©u th¬ ®ã cã ®iÓm g× gièng nhau, kh¸c nhau?
- Gièng nhau: Tõ “tri kØ” trong hai c©u th¬ cïng cã nghÜa chØ ®«i b¹n th©n thiÕt, hiÓu nhau.
- Kh¸c nhau: ë c©u th¬ cña ChÝnh H÷u, tri kØ chØ t×nh b¹n gi÷a ngêi víi ngêi. Cßn ë c©u th¬ cña NguyÔn
Duy, tri kØ l¹i chØ t×nh b¹n gi÷a vÇng tr¨ng víi ngêi.
Câu 4: (2 điểm)
1. Về hình thức:
- Đoạn văn có bố cục 3 phần: Mở đoạn, thân đoạn, kết đoạn.
- Diễn đạt lưu loát, văn phong trong sáng, có cảm xúc, không mắc lỗi chính tả.
- Hình thức trình bày sạch đẹp, chữ viết cẩn thận, dùng từ đặt câu đúng.
2. Về nội dung:
Học sinh có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau, nhưng cần đạt những nội dung sau:
Nội dung cần đạt Thang điểm
- C©u th¬ chØ cã hai tiÕng vµ dÊu chÊm than, lµ nèt nhÊn, lµ lêi kh¼ng ®Þnh. 1
- G¾n kÕt hai ®o¹n cña bµi th¬, tæng kÕt phÇn trªn vµ më ra híng c¶m xóc cho
phÇn sau: céi nguån cña t×nh ®ång chÝ vµ nh÷ng biÓu hiÖn, søc m¹nh cña t×nh 1
®ång chÝ.
Phần II. Tập làm văn
Câu 5: (6 điểm)
Nội dung cần đạt Thang
điểm
1. Mở bài: ( 0,5 điểm )
- Giới thiệu nét chính về tác giả Lê Minh Khuê, truyện ngắn "Những ngôi sao xa xôi" và 0,25
các nhân vật trong truyện.
- Cả ba cô, cô nào cũng đáng mến, đáng cảm phục. Nhưng Phương Định là cô gái để lại nhiều ấn 0,25
tượng sâu sắc trong lòng ta.
2. Thân bài: ( 5 điểm )
- Phương Định, con gái Hà Nội hai bím tóc dày, tương đối mềm, một cái cổ cao, kiêu 1đ
hãnh như đài hoa loa kèn. Đôi mắt cô được các anh lái xe bảo là có cái nhìn sao mà xa xăm.
Nhiều pháo thủ và lái xe hay "hỏi thăm" hoặc "viết những bức thư dài gửi đường dây" cho Định.
Cô có vẻ kiêu kì, làm "điệu" khi tiếp xúc với một anh bộ đội nói giỏi nào đấy, nhưng trong suy
nghĩ của cô thì những người đẹp nhất, thông minh, can đảm và cao thượng nhất là những người
mặc quân phục, có ngôi sao trên mũ.
- Phương Định là một cô gái rất hồn nhiên, yêu đời, giàu cá tính. Thuở nhỏ đã hay hát. 1đ
Cô có thể ngời lên thành cửa sổ căn phòng nhỏ bé nhà mình hát say sưa ầm ĩ. Bàn học lúc nào
cũng bày bừa bãi lên, để đến nỗi mẹ phải mắng. Sống trong cảnh bom đạn ác liệt, cái chết kề bên,
Định lại càng hay hát. Những bài hành khúc, những điệu dân ca quan họ, bài Ca-chiu-sa của
Hồng quân Liên Xô, bài dân ca ý...Định còn bịa ra lời những bài hát, Định hát trong những
khoảng khắc im lặng, hát để động viên Nho, chị Thao và động viên mình. Hát khi máy bay rít,
bom nổ. Đúng là tiếng hát át tiếng bom của những người con gái trong tổ trinh sát mặt đường,
những con người khao khát làm nên những sự tích anh hùng. 1đ
- 12 -
- Trong kháng chiến chống Mĩ, theo tiếng gọi của tiền tuyến, hàng vạn cô gái mang chí
khí Bà Trưng, Bà Triệu xung phong ra tiền tuyến trong đó có Phương Định. Con đường Trường
Sơn huyền thoại được làm nên bằng xương máu, mồ hôi và bao sự tích phi thường của những
người con gái Việt Nam anh hùng.
- Những ngôi sao xa xôi tái hiện chân thực diễn biến tâm lí Phương Định trong một lần 1đ
phá bom nổ chậm. Cô dũng cảm, bình tĩnh tiến đến gần quả bom đàng hoàng mà bước tới. Định
dùng lưỡi xẻng đào đất, có lúc lưỡi xẻng chạm vào quả bom, có lúc Định rùng mình vì cảm thấy
tại sao mình làm chậm thế! Rồi bom nổ váng óc, đất rơi lộp bộp, mắt cay mãi mới mở được, cát
lạo xạo trong miệng. Đó là cuộc sống thường nhật của họ. Phương Định cho biết tôi có nghĩ đến
cái chết. Nhưng đó là một cái chết mờ nhạt không cụ thể.. Phương Định cùng Nho, chị Thao đã
sáng ngời trong khói bom lửa đạn. Chiến công thầm lặng của họ bất tử với năm tháng và lòng
người.
- Phương Định cô gái Hà Nội xinh đẹp, dũng cảm trong lửa đạn, giàu tình yêu thương 1đ
đồng đội, trong sáng, mộng mơ, thích làm duyên như cô thôn nữ ngày xưa soi mình xuống giếng
làng vừa mỉm cười vừa vuốt tóc. Họ có mặt trên những trọng điểm của con đường Trường Sơn
chiến lược và trái tim rực đỏ của họ của những người con gái Việt Nam anh hùng là những ngôi
sao xa xôi mãi mãi lung linh, toả sáng.
3. Kết luận ( 0,5 điểm ) 0,25
- Khẳng định tác phẩm: "Những ngôi sao xa xôi" của Lê Minh Khuê đã làm sống lại trong lòng ta
hình ảnh tuyệt đẹp về những chiến công phi thường của tổ trinh sát mặt đường, của Nho, Định,
Thao, của hàng vạn cô thanh niên xung phong thời đánh Mĩ. Chiến công thầm lặng của Phương
Định và đồng đội là bài ca anh hùng.
- "Những ngôi sao xa xôi" ta như được sống lại những năm tháng hào hùng của đất nước. Những 0,25
Phương Định gần xa vẫn toả sáng hồn ta với bao ngưỡng mộ.

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT
TUYÊN QUANG Năm học 2016-2017
------------------------------

MÔN THI: NGỮ VĂN


Thời gian làm bài: 120 phút
( Không kể thời gian giao nhận đề)
- Đề này có 01 trang -
Phần 1: Đọc- hiểu văn bản ( 4 điểm)
Đọc đoạn thơ sau và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 4:
Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
Câu 1: ( 0,5 điểm)
Khổ thơ trên trích trong tác phẩm nào? Tác giả là ai?
Câu 2: ( 0,5 điểm)
Từ "lại" ở câu thơ thứ ba diễn đạt điều gì?
Câu 3: (1 điểm)
Chỉ ra các biện pháp tu từ trong đoạn thơ và nêu tác dụng của các biện pháp tu từ đó?
Câu 4: ( 2 điểm)
Viết một đoạn văn( khoảng 20 đến 25 dòng) phát biểu cảm nhận của em về khổ thơ trên.
Phần 2: Làm văn ( 6 điểm) Suy nghĩ về nhân vật Phương Định trong tác phẩm “Những ngôi sao
xa xôi” của Lê minh Khuê
- 13 -
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐÁP ÁN ĐỀ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10
TUYÊN QUANG Năm học 2015- 2016

MÔN THI: NGỮ VĂN


Thời gian làm bài: 120 phút
Phần 1: Đọc- hiểu văn bản ( 4 điểm)
Câu Đáp án Điểm
1 - Khổ thơ trên trích trong bài thơ "Đoàn thuyền đánh cá" 0,25
(0,5 đ) -Tên tác giả bài thơ: Huy Cận 0,25

2 - Từ "lại" ở câu thơ thứ ba diễn đạt: công việc lao động đánh cá vào buổi 0,5
(0,5 đ) đêm của ngư dân miền biển diễn ra thường xuyên, liên tục.

3 - Phép tu từ được sử dụng trong đoạn thơ: So sánh (như hòn lửa) và nhân 0,5
(1 đ)
hóa: (cài then, đêm sập cửa).

- Giá trị của phép tu từ được sử dụng:


+ Hình ảnh so sánh giàu giá trị biểu cảm, gợi nên một cảnh hoàng hôn 0,25
trên biển hết sức tráng lệ, tăng giá trị thẩm mỹ cho hình ảnh thơ.
+ Hình ảnh nhân hóa làm cho sóng và biển trở nên có hồn hơn, gần gũi
hơn với con người. Câu thơ gợi liên tưởng: vũ trụ như một ngôi nhà lớn mà
màn đêm buông xuống là tấm cửa khổng lồ và những lượn sóng là then 0,25
cửa.
4 1. Về hình thức: Yêu câu viết được đoạn văn khoảng 20 đến 25 dòng diễn
(2đ) dạt lưu loát, văn phong trong sáng, có cảm xúc, không mắc lỗi chính tả, chữ 0,5
viết đẹp, dùng từ, đặt câu đúng. Đủ bố cục Mở đoạn , thân đoạn, kết đoạn
2.Về nội dung: HS có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau, nhưng cần
đạt những nội dung sau:
- Giới thiệu vị trí khổ thơ trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của nhà thơ
Huy Cận và khái quát nội dung: cảnh hoàng hôn trên biển và hình ảnh 0,5
đoàn thuyền đánh cá ra khơi.
- Cảnh hoàng hôn trên biển rực rỡ, tráng lệ, kì vĩ . cảnh biển đêm rộng lớn
nhưng lại gần gũi với con người Thiên nhiên nghỉ ngơi , con người bước 0,5
vào buổi lao động mới.
( qua các nghệ thuật so sánh ,nhân hóa, liên tưởng, đối lập...)
- Đoàn thuyền đánh cá ra khơi trong câu hát khỏe khoắn, phấn chấn của
người lao động khi được làm chủ cuộc đời , làm chủ thiên nhiên, đất nước. 0.5

Phần 2: Làm văn( 6 điểm)


1. Yêu cầu về hình thức:
- Hiểu đúng yêu cầu của đề bài: Biết cách làm một bài văn nghị luận văn học, kiểu bài
nghị luận về tác phẩm truyện ( hoặc đoạn trích) , biết cách trình bày luận điểm khi viết một bài
văn.
- 14 -
- Hình thức : Bố cục 3 phần rõ ràng; trình bày sạch đẹp, chặt chẽ. lập luận rõ ràng, văn
phong trong sáng, có cảm xúc, có sáng tạo, có khả năng thuyết phục cao, không mắc lỗi dùng
từ, diễn đạt, ngữ pháp...

2. Yêu cầu về nội dung:

Nội dung cần đạt Điểm

1. Mở bài:
0.5
- Giới thiệu những nét chính về tác giả -tác phẩm 0,5
- Cảm nhận chung về nhân vật Phương Định.
2. Thân bài:
1
- Giới thiệu chung về ba cô gái trong tổ trinh sát mặt đường trên tuyến đường
Trường Sơn- thời chống Mĩ .
- Phương Định quê ở Hà Nội là cô gái trẻ, kín đáo trong tình cảm và tự trọng về bản 0,5
thân mình (hay ngắm mặt mình trong gương, biết mình đẹp và được các anh bộ đội
để ý nhưng không tỏ ra săn sóc, vồn vã...đây là nét kiêu kì của những cô gái Hà
Thành)
0,5
- Ở ngay giữa chiến trường ác liệt song cô vẫn không mất đi sự hồn nhiên, trong
sáng: Cô hiện lên rất đời thường, rất thực với những nét đẹp tâm hồn nhạy cảm, hay
mơ mộng và thích hát.( đưa ra một số dẫn chứng trong truyện...) 1
- Có tình cảm động đội sâu sắc: Yêu mến hai cô bạn cùng tổ, cảm phục tất cả những
chiến sĩ mà cô gặp trên tuyến đường Trường Sơn..., chăm sóc đồng đội khi bị
thương....
0,5
- Cô ngời lên với những phẩm chất đáng quý: Có trách nhiệm với công việc; dũng
cảm, bình tĩnh, tự tin khi phá bom...( dẫn chứng diễn biến tâm lí của Phương Định
trong một lần phá bom...) 0,5
-Nghệ thuật: Miêu tả tâm lí nhân vật, xây dựng tình huống truyện, Ngôi kể thứ
nhất - người kể là nhân vật Phương Định góp phần tạo nên sự linh hoạt và hấp dẫn
cho câu chuyện. 0.5
- Đánh giá: Phương Định là một cô gái trẻ, xinh đẹp, dũng cảm trong lửa đạn... là
hình ảnh tiêu biểu cho thế hệ trẻ Việt Nam thời kì chống Mĩ cứu nước .
- Liên hệ trách nhiệm của thế hệ trẻ Việt Nam hiện nay đối với tổ quốc.
3. Kết bài:
0.5
- Khẳng định giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.
- Hình ảnh Phương Định và đồng đội của cô mãi mãi là ngôi sao tỏa sáng trong
lòng bạn đọc.

- 15 -
SỞ GD&ĐT TỈNH TUYÊN QUANG
PHÒNG GD&ĐT YÊN SƠN
ĐỀ SỐ 3
ĐỀ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT NĂM HỌC 2016-2017
MÔN NGỮ VĂN
THỜI GIAN: 120 PHÚT
I.ĐỀ BÀI.
Phần I (4điểm)
Đọc đoạn trích sau và trả lời câu hỏi 1 đến 3:
“Tôi dùng xẻng nhỏ đào đất dưới quả bom. Đất rắn. những hòn sỏi theo tay tôi bay ra hai bên. Thỉnh thoảng
lưỡi xẻng chạm vào quả bom. Một tiếng động sắc đến gai người, cứa vào da thịt tôi. Tôi rùng mình và bỗng thấy
tại sao mình làm quá chậm. Nhanh lên một tí! Vỏ quả bom nóng. Một dấu hiệu chẳng lành. Hoặc là nóng từ bên
trong quả bom. Hoặc là mặt trời nung nóng.”
Câu 1:(1 điểm) Đoạn văn trên gợi cho em nhớ đến tác phẩm nào, do ai sáng tác?
Câu 2: (1 điểm) Điều gì đã được kể trong đoạn truyện? Em có nhận xét gì về cách đặt câu và tác dụng của cách
đặt câu ấy?
Câu 3: (2 điểm) Viết đoạn văn (khoảng 200 từ) nêu cảm nhận của em về nhân vật trong đoạn trích.
(Ngữ văn 9, tập hai)
Phần II (6điểm)
Câu 4: “Sang thu” của Hữu Thỉnh không chỉ có hình ảnh đất trời nên thơ mà còn có hình tượng con người
trước những biến chuyển của cuộc đời ở thời khắc giao mùa.
Hãy phân tích bài thơ để làm sáng tỏ ý kiến trên.
III. HƯỚNG DẪN CHẤM.
CÂU HƯỚNG DÃN CHẤM ĐIỂM
Câu 1 Đoạn văn được trích trong tác phẩm “Những ngôi sao xa xôi” của nhà văn 0,5 điểm
Lê Minh Khuê.

- Đoạn truyện tả tâm trạng của nhân vật Phương Định khi phá bom nổ chậm. 0,5 điểm
Câu 2 - Cách đặt câu đặc biệt ở chỗ: có những câu ngắn, câu tách ra từ một câu hoàn
chỉnh như: Đất rắn…Nhanh lên một tí! …Một dấu hiệu chẳng lành…Hoặc là 0,5 điểm
mặt trời nung nóng.
- Cách đặt câu như vậy tạo được nhịp nhanh cho đoạn truyện, phù hợp với 0,5 điểm
tâm trạng hồi hộp, lo lắng…của nhân vật và diễn biến nhanh của hành động.

Viết đoạn văn cần đảm bảo các yêu cầu sau :
Về nội dung : Cần làm rõ tâm trạng hồi hộp, lo lắng; hành động nhanh, dứt 1 điểm
Câu 3 khoát của nhân vật Phương Định khi phá bom nổ chậm
(2 điểm) Về kĩ năng : Viết đoạn văn theo phép lập luận tổng hợp - phân tích – tổng
hợp và đúng số từ quy định. 1 điểm

A, Yêu cầu về kĩ năng:


- Bài làm phải được tổ chức thành bài làm văn hoàn chỉnh.
- Biết vận dụng kĩ năng nghị luận kết hợp với các yếu tố miêu tả và biểu cảm
để trình bày những cảm nhận về một bài thơ.
- Kết cấu chặt chẽ, diễn đạt trôi chảy; hạn chế lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp.
B, Yêu cầu về kiến thức:
* Trên cơ sở những kiến thức đã học về kiểu văn nghị luận về bài thơ (hoặc
đoạn thơ) và những hiểu biết về tác phẩm Sang thu của Hữu Thỉnh, học sinh
Câu 4 trình bày những cảm nhận của học sinh về bài thơ.
( 6 điểm ) * Học sinh có thể làm bài theo nhiều cách khác nhau nhưng cần đáp ứng
những ý cơ bản sau. 0,5 điểm
1. Mở bài: - Giới thiệu tác giả Hữu Thỉnh và bài thơ Sang thu. Dẫn ý kiến.
- Nhận xét sơ bộ về bài thơ.
2. Thân bài: Nêu nhận xét làm sáng tỏ ý kiến. 4 điểm
- Cảm nhận về sự biến chuyển của đất trời lúc sang thu: (2 điểm)
+ Sự cảm nhận qua nhiều giác quan, nhận ra những dấu hiệu của thu đến từ
- 16 -
mơ hồ đến rõ nét: ban đầu là hương ổi, gió se rồi đến sương đầu ngõ, xa hơn
là dòng sông, cánh chim, làn mây.
+ Cảnh vật mang nét đặc trưng của lúc giao mùa qua hoạt động tính chất: gió
se, sông dềnh dàng, chim vội vã, sương chùng chình – Tập trung phân tích
hình ảnh đặc sắc “ Có đám mây mùa hạ/ Vắt nửa mình sang thu”.
+ Sự tinh tế không chỉ thể hiện ở những từ ngữ diễn tả trạng thái sự vật mà
còn ở cảm nhận bâng khuâng, xao xuyến của con người : bỗng, hình như thu
đã về…
- Cảm nhận tinh tế của nhà thơ về thời tiết lúc giao mùa :
+ Những hiện tượng thời tiết mùa hè vẫn còn : nắng, mưa, sấm nhưng đã đổi
thay theo bước đi của mùa hè. Điều đó được diễn tả qua những từ ngữ : vẫn, (2 điểm)
còn, bao nhiêu, vơi dần, bớt…
+ Hình ảnh hàng cây “đứng tuổi ” nét hạ qua thu tới. Học sinh phân tích hình
ảnh đó.
3. Kết bài:
- Khung cảnh thiên nhiên vào thời giao mùa hạ - thu đẹp như một bức tranh 0,5 điểm
làm xao động lòng người.
- Nêu nhận định, đánh giá chung của mình về bài thơ.

Đề số 2 YS ĐỀ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 –THPT


Năm học: 2015-2016
(Thời gian: 120 phút – Không kể thời gian giao đề)
Câu 1(4 điểm). Đọc đoạn thơ sau và thực hiện các yêu cầu sau:
Đất nước bốn ngàn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước.
a. Đoạn thơ trên trích trong văn bản nào? Của ai? (0,5điểm)
b. Tìm biện pháp nghệ thuật có trong đoạn thơ và cho biết tác dụng của biện pháp đó?(1,5 điểm)
c. Viết đoạn văn trình bày cảm nhận của em về khổ thơ trên.(2 điểm)
Câu 2 (6 điểm). Nhân vật Phương Định trong đoạn trích “Những ngôi sao xa xôi”
của Lê Minh Khuê gợi cho em suy nghĩ gì ?
III. Hướng dẫn chấm
Câu 1 (4 điểm). Học sinh thực hiện được:
a. Đoạn thơ trên trích trong văn bản “ Mùa xuân nho nhỏ” của tác giả Thanh Hải. (0,5 điểm)
b. - Chỉ ra được biện pháp tu từ và phân tích được tác dụng của biện pháp đó:
+ Phép nhân hóa: Đất nước “vất vả”, “gian lao”-> Hình ảnh đất nước trở nên gần gũi, mang dáng vóc tảo tần,
cần cù của người mẹ, người chị. (0,5 điểm)
+ Phép so sánh: Đất nước với “...vì sao, cứ đi lên phía trước”-> nhà thơ sáng tạo hình ảnh đất nước khiêm
nhường nhưng cũng rất tráng lệ: Là một vì sao nhưng ở vị trí lên trước dẫn đầu, đó cũng là hình ảnh của cách
mạng Việt Nam, của đất nước trong lịch sử.(0,5 điểm)
+ Điệp từ “đất nước”:cùng phép so sánh, nhân hóa góp phần làm nổi bật và gợi ấn tượng sâu sắc về hình ảnh đất
nước với niềm yêu mến, tự hào của tác giả. (0,5 điểm)
c. .............................
Câu 2. (6 điểm)
* Yêu cầu chung:
1. Về kỹ năng: Biết cách làm bài văn nghị luận về một nhân vật văn học. Kết cấu bài viết chặt chẽ, bố cục rõ
ràng, diễn đạt lưu loát. Không mắc lỗi chính tả, dùng từ và ngữ pháp chính xác. Chữ viết cẩn thận.
2. Về kiến thức: Yêu cầu bài viết nêu lên những suy nghĩ, cảm nhận về nhân vật Phương Định, nhân vật chính
trong truyện “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê. Đây phải là những nhận xét, đánh giá, bình luận của
người viết về nhân vật .
* Yêu cầu cụ thể
Bố cục Nội dung §iÓm
- 17 -
Mở bài Giới thiệu sơ lược về tác giả tác phẩm . 1
Khái quát được nét đẹp về nhân vật Phương Định.
Vẻ đẹp của Phương Định
Thân bài - Tâm hồn trong sáng, giàu mơ mộng, hồn nhiên tươi trẻ.
- Tinh thần dũng cảm, thái độ bình tĩnh, vượt lên mọi nguy hiểm.
2
- Có tình cảm đồng chí, đồng đội nồng ấm.
( Các ý có kết hợp phân tích dẫn chứng trong tác phẩm)
- Qua nhân vật Phương Định và các cô gái thanh niên xung phong, Lê Minh Khuê 1
đó gợi cho người đọc về tấm gương thế hệ trẻ Việt Nam anh hùng thời chống Mỹ.

Nghệ thuật 1
- Truyện kể theo ngôi thứ nhất, thể hiện chân thực tâm trạng, suy nghĩ của nhân vật;
- Ngôn ngữ, giọng điệu phù hợp với diễn biến của chiến trường ác liệt.
Kết bài - Khẳng định những nét đẹp của nhân vật và giá trị của tác phẩm. 1
- Liên hệ với thanh niên trong giai đoạn hiện nay.

SỞ GD&ĐT TUYÊN QUANG ĐỀ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT


PHÒNG GD&ĐT YÊN SƠN NĂM HỌC 2016 - 2017
Đề số 1 Thời gian: 120 phút (Không kể thời gian giao đề)
I. ĐỀ BÀI
Câu 1 (4 điểm): Đọc đoạn văn sau:
Mãi khuya, bà Hai mới chống gối đứng dậy. Bà lẳng lặng xuống bếp châm lửa ngồi tính
tiền hàng. Vẫn những tiền cua, tiền bún, tiền đỗ, tiền kẹo, … Vẫn cái giọng rì rầm, rì rầm
thường ngày.
- Này, thầy nó ạ.
Ông Hai nằm rũ trên giường không nói gì.
- Thầy nó ngủ rồi à?
- Gì?
Ông lão khẽ nhúc nhích.
- Tôi thấy người ta đồn …
Ông lão gắt lên
- Biết rồi!
a) Đoạn văn trên trích từ tác phẩm nào? Tác giả là ai? (1 điểm)
b) Trong đoạn văn trên tác giả đã dùng hình thức ngôn ngữ nào khi thuật lại cuộc nói
chuyện giữa hai nhân vật? (1 điểm)
c) Viết đoạn văn ngắn từ 10 đến 12 câu diễn tả tâm trạng đó của nhân vật ông Hai? (2
điểm)
Câu 2 (6 điểm): Trình bày cảm nhận của em về bài thơ “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương. (Ngữ văn 9
- tập II)
III. ĐÁP ÁN, BIỂU ĐIỂM
Câu Hướng dẫn chấm Điểm

- 18 -
a) Đoạn văn trên trích từ tác phẩm “Làng” (0,5)

- Tác giả Kim Lân (0,5)

b) Tác giả đã dùng hình thức ngôn ngữ đối thoại khi thuật lại cuộc nói (1)
chuyện giữa nhân vật ông Hai và bà vợ
1
c) * Hình thức: HS trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch hoặc quy
nạp. Trong đoạn văn có sử dụng câu chủ đề, có bố cục rõ ràng, đủ số (0,5 )
câu theo quy định.
* Nội dung: Đảm bảo ý cơ bản: Diễn tả tâm trạng dằn vặt, đau khổ của nhân vật
(1,5 )
ông Hai khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc.
2 1. Yêu cầu kĩ năng
- Biết vận dụng kĩ năng để làm bài văn nghị luận văn học về một tác phẩm thơ.
- Nêu được những nhận xét, đánh giá, sự cảm thụ riêng của người viết kết hợp với
phân tích, bình giá chi tiết hình ảnh thơ đặc sắc.
- Bố cục chặt chẽ. Hệ thống luận điểm, luận cứ rõ ràng, mạch lạc. Sử dụng nhuần
nhuyễn các phép lập luận. Bài viết có cảm xúc.
- Diễn đạt rõ ràng, lưu loát, không mắc lỗi diễn đạt, dùng từ ... 0,5
2. Yêu cầu về kiến thức
a. Mở bài
- Giới thiệu khái quát tác giả Viễn Phương và hoàn cảnh ra đời bài thơ.
- Nêu cảm nhận khái quát: Bài thơ thể hiện tấm lòng thành kính, niềm xúc động sâu
sắc của nhà thơ và của mọi người đối với Bác khi vào lăng viếng Bác bằng một ngôn
ngữ tinh tế, giàu cảm xúc sâu lắng.
b. Thân bài: Cảm nhận chi tiết, phân tích bài thơ theo bố cục:
1,0
+ Khổ thơ thứ nhất: Cảm xúc của nhà thơ trước lăng Bác.
- Cách dùng từ ngữ ở câu 1: từ “thăm” thay cho từ “viếng”; xưng “con - Bác” => thể
hiện cảm xúc của một người con xa lâu ngày mới được trở về bên Bác.
- Hình ảnh hàng tre mộc mạc, quen thuộc, giàu ý nghĩa tượng trưng: Sức sống quật
cường, truyền thống bất khuất của dân tộc Việt Nam; phẩm chất cao quý của Bác Hồ,
hình ảnh hàng tre xanh khơi nguồn cảm xúc cho nhà thơ.
+ Khổ thơ thứ hai: Cảm xúc chân thành, mãnh liệt của nhà thơ khi được hòa vào
dòng người vào lăng viếng Bác. 1,0
- Phân tích hai hình ảnh sóng đôi đặc sắc: Hình ảnh “mặt trời trong lăng rất đỏ” vừa
thể hiện sự vĩ đại của Bác Hồ, vừa thể hiện sự tôn kính của nhân dân, của nhà thơ với
Bác. Hình ảnh “Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân ” chỉ dòng người ngày
ngày nối tiếp nhau đến viếng Bác như kết thành tràng hoa thành kính dâng lên người.
- Phân tích nghệ thuật dùng từ tinh tế, gợi hình, gợi cảm qua các từ: “ngày ngày”,
“bảy mươi chín mùa xuân ” 1,0
+ Khổ thơ thứ ba: Cảm xúc và suy nghĩ của tác giả khi vào lăng.
- Hai câu thơ đầu: Diễn tả chính xác và tinh tế khung cảnh và không khí trong lăng
Bác và cảm nhận hình ảnh Bác bình yên trong “giấc ngủ” giữa “một vầng trăng sáng
dịu hiền”.
- Hai câu thơ sau: cảm xúc đã được bộc lộ trực tiếp, một nỗi đau, một mất mát quá
lớn trước sự ra đi của Người.
+ Khổ thơ cuối: Là tâm trạng lưu luyến của nhà thơ muốn ở mãi bên Bác.
1,0
- Nhà thơ đã gửi tấm lòng mình bằng cách muốn hóa thân, hòa nhập vào cảnh vật bên
lăng Bác.
- Điệp ngữ “muốn làm”: nhấn mạnh khát vọng được hóa thân và làm cho giọng thơ
trở nên tha thiết hơn.
- Hình ảnh hàng tre ở khổ thơ thứ nhất đã được lặp lại ở dòng cuối cùng khép lại bài
thơ với ý nghĩa “cây tre trung hiểu”.
1,0
+ Nhận xét khái quát lại những thành công về nghệ thuật của bài thơ:

- 19 -
- Giọng điệu vừa trang nghiêm, sâu lắng, vừa tha thiết, đau xót, tự hào phù hợp với
nội dung cảm xúc.
- Thể thơ 8 chữ, cách gieo vần linh hoạt, nhịp thơ chậm diễn tả sự lắng đọng trong
tâm trạng, tình cảm của nhà thơ.
- Hình ảnh thơ sáng tạo, kết hợp hình ảnh thực và hình ảnh ẩn dụ có giá trị biểu đạt
và biểu cảm cao
c. Kết bài
- Khẳng định lại nội dung đã cảm nhận:
0,5
+ Viếng lăng Bác là bài thơ hay, giàu chất suy tưởng.
+ Là tiếng lòng của tất cả chúng ta với Bác Hồ kính yêu.
- Liên hệ: Suy nghĩ về sự nghiệp và tình cảm của Bác.

PHÒNG GD&ĐT CHIÊM HÓA KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT
Năm học 2016 - 2017
Môn thi: Ngữ văn
Thời gian làm bài: 120 phút
( Không kể thời gian giao nhận đề)
Đề này có 01 trang

PHẦN I: Đọc - hiểu(4,0 điểm).


Đọc đoạn thơ sau và trả lời câu hỏi::
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa ?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu ?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
(Ngữ văn 9, tập một, tr.94)
Câu 1: (0,5 điểm) Đoạn thơ trên trích từ tác phẩm nào, của ai?
Câu 2: (1 điểm) Nghệ thuật đặc sắc trong đoạn thơ trên là gì? Cảnh được nhìn qua con mắt của ai?
Câu 3: (2,5 điểm) Viết đoạn văn ngắn( khoảng 15 dòng) theo phép lập luận tổng hợp – phân tích – tổng hợp để
làm rõ tâm trạng của nhân vật được nói đến trong đoạn thơ trên. Trong đoạn văn có sử dụng phép thế và có một câu
chứa thành phần biệt lập (gạch dưới từ ngữ dùng làm phương tiện liên kết và thành phần biệt lập).
PHẦN II: Làm văn (6,0 điểm).
Cảm nhận về bài thơ "Sang thu" của nhà thơ Hữu Thỉnh.

HƯỚNG DẪN CHẤM.


CÂU HƯỚNG DÃN CHẤM ĐIỂM
1 Đoạn thơ trên trích từ tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du
(0,5 điểm) 0,5 điểm
2 Nghệ thuật đặc sắc trong đoạn thơ trên là tả cảnh ngụ tình. 0,5 điểm
(1 điểm) Cảnh được nhìn qua con mắt của nàng Kiều. 0,5 điểm

Viết đoạn văn cần đảm bảo các yêu cầu sau :
- Về nội dung: Cần làm rõ tâm trạng buồn bã, cô đơn đến rợn ngợp; nỗi lo 1 điểm
3 lắng, sợ hãi của nàng Kiều khi ở lầu Ngưng Bích.
(2 điểm) - Về kĩ năng: Viết đoạn văn theo phép lập luận tổng hợp - phân tích – tổng
hợp và đúng số dòng quy định trong đó có sử dụng phép thế và có một câu 1,5 điểm
chứa thành phần biệt lập.
A, Yêu cầu về kĩ năng:
- Biết vận dụng kĩ năng nghị luận kết hợp với các yếu tố miêu tả và biểu

- 20 -
cảm để trình bày những cảm nhận về một bài thơ.
- Đảm bảo bố cục 3 phần; lập luận chặt chẽ; không mắc lỗi chính tả, dùng
từ, ngữ pháp.
B, Yêu cầu về kiến thức:
* Trên cơ sở những kiến thức đã học về kiểu văn nghị luận về bài thơ
(đoạn thơ) và những hiểu biết về tác phẩm Sang thu của Hữu Thỉnh, học
4 sinh trình bày cảm nhận về bài thơ.
(6 điểm) * Học sinh có thể làm bài theo nhiều cách khác nhau nhưng cần đáp ứng
những nội dung cơ bản sau:
Mở bài:
- Giới thiệu tác giả Hữu Thỉnh và bài thơ Sang thu. 0,5 điểm
- Nhận xét sơ bộ về bài thơ. 0,5 điểm
Thân bài:
- Nêu cảm nhận về sự tinh tế của nhà thơ trước sự biến chuyển của đất trời 0,5 điểm
lúc sang thu:
+ Sự cảm nhận qua nhiều giác quan, nhận ra những dấu hiệu của thu đến từ
mơ hồ đến rõ nét: ban đầu là hương ổi, gió se rồi đến sương đầu ngõ, xa 1 điểm
hơn là dòng sông, cánh chim, làn mây.
+ Cảnh vật mang nét đặc trưng của lúc giao mùa qua hoạt động, tính chất:
gió se, sông dềnh dàng, chim vội vã, sương chùng chình – Tập trung phân 0,5 điểm
tích hình ảnh đặc sắc “ Có đám mây mùa hạ/ Vắt nửa mình sang thu”.
+ Sự tinh tế không chỉ thể hiện ở những từ ngữ diễn tả trạng thái sự vật mà
còn ở cảm nhận bâng khuâng, xao xuyến của con người: bỗng, hình như
thu đã về…
- Cảm nhận tinh tế của nhà thơ về thời tiết lúc giao mùa: 1 điểm
+ Những hiện tượng thời tiết mùa hè vẫn còn: nắng, mưa, sấm nhưng đã
đổi thay theo bước đi của mùa hè. Điều đó được diễn tả qua những từ ngữ:
vẫn, còn, bao nhiêu, vơi dần, bớt… Hình ảnh hàng cây “đứng tuổi” nét hạ
qua thu tới. 1 điểm
- Từ cảm nhận tinh tế về thời khắc giao mùa từ cuối hạ sang đầu thu, nhà
thơ suy ngẫm về con người: khi con người từng trải, trưởng thành thì cũng
vững vàng hơn trước những tác động bất thường của ngoại cảnh, của cuộc
đời.
Kết bài:
- Nêu nhận định, đánh giá chung của mình về bài thơ. 1 điểm

PHÒNG GD & ĐT CHIÊM HÓA ĐỀ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT
Năm học 2015 – 2016
Môn thi: Ngữ văn
Thời gian làm bài: 120 phút

PHẦN I: Đọc - hiểu(4,0 điểm).


Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi:
“Cả làng chúng nó Việt gian theo Tây…” các câu nói của người đàn bà tản cư hôm trước lại dội lên trong
tâm trí ông.
Hay là quay về làng?...
Vừa chớm nghĩ như vậy, lập tức ông lão phản đối ngay. Về làm gì cái làng ấy nữa. Chúng nó theo Tây cả
rồi. Về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ…
Nước mắt ông giàn ra.Về làng tức là chịu quay lại làm nô lệ cho thằng Tây. Ông lão nghĩ ngay đến mấy thằng
kì lí chuyên môn khua khoét ngày trước lại ra vào hống hách ở trong cái đình.Và cái đình như lại của riêng chúng
nó,lại thâm nghiêm ghê gớm, chứa toàn những sự ức hiếp, đè nén. Ngày ngày chúng dong ra, dong vào, đánh tổ tôm
mà bàn tư việc làng với nhau ở trong ấy. Những hạng khố rách áo ôm như ông có đi qua cũng chỉ dám liếc trộm vào,

- 21 -
rồi cắm đầu xuống mà lủi đi. Anh nào ho he, hóc hách một tí thì chúng nó tìm hết cách để hại, cất phần ruộng, truất
ngôi, trừ ngoại, tống ra khỏi làng…
Ông Hai nghĩ rợn cả người. Cả cuộc đời đen tối, lầm than cũ nổi lên trong ý nghĩ ông. Ông không thể về
làng ấy được nữa. Về bây giờ ông chịu mất hết à?
Không thể được! Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù.
(Kim Lân, Làng )
Câu 1 (1 điểm):
Chỉ rõ ngôi kể và nhận xét tác dụng của ngôi kể đó với việc thể hiện nội dung trong đoạn văn trên?
Câu 2 (1 điểm):
Câu “Hay là quay về làng?...” Có phải là câu độc thoại nội tâm không? Vì sao?
Câu 3 (2 điểm):
Viết một đoạn văn (khoảng từ 15 đến 20 dòng) nêu cảm nhận của em về tâm trạng của ông Hai qua
đoạn văn trích ở trên.
PHẦN II: Làm văn (6,0 điểm).
Suy nghĩ của em về tình cảm chân thành, tha thiết của nhân dân ta với Bác Hồ qua bài thơ "Viếng lăng
Bác" của nhà thơ Viễn Phương

ĐÁP ÁN ĐỀ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT


Năm học 2015-2016
Môn thi: Ngữ văn
Thời gian làm bài: 120 phút
Đáp án có 03 trang
Câu 1 (1 điểm):
- Chỉ rõ ngôi kể trong đoạn văn: ngôi thứ ba (0,25 điểm)
- Hiểu tác dụng của việc chọn ngôi kể: tạo được cái nhìn nhiều chiều và giữ thái độ khách quan khi tái hiện
diễn biến nội tâm nhân vật ông Hai trong tình huống nghe tin làng mình theo Tây (0,75 điểm)
Câu 2 (1 điểm):
Câu “Hay là quay về làng?...” là câu độc thoại nội tâm. Vì Ông Hai tự nói với chính mình, những câu nói
này không phát ra thành tiếng mà chỉ âm thầm diễn ra trong suy nghĩ tình cảm của ông Hai. Dấu hiệu để nhận
biết không có gạch đầu dòng.
Câu 3 (2 điểm):
1. Về kĩ năng:
- Đoạn văn có bố cục 3 phần: Mở đoạn, thân đoạn, kết đoạn.
- Diễn đạt lưu loát, văn phong trong sáng, có cảm xúc, không mắc lỗi chính tả.
- Hình thức trình bày sạch đẹp, chữ viết cẩn thận, không sai lỗi chính tả, dùng từ đặt câu đúng.
2. Về kiến thức:
Học sinh có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau, nhưng cần đạt những nội dung sau:
Nội dung cần đạt Biểu điểm
Mở đoạn:
- Giới thiệu khái quát tác giả, tác phẩm, nhân vật ông Hai. 0,5
- Nhận định khái quát về nhân vật ông Hai
Thân đoạn:
- Nỗi đau đớn tủi hổ vì làng phản bội kháng chiến. 0,25
- Trong ông diễn ra sự giằng xé, xung đột nội tâm sâu sắc: “Làng thì yêu thật nhưng làng 0,25
theo Tây thì phải thù”
- Tình yêu nước rộng lớn hơn, bao trùm lên tình cảm đối với làng quê 0,25
- 22 -
- Sự giác ngộ cách mạng của người nông dân trong cuộc kháng chiến chống Pháp. 0,25
Kết bài: 0,5
- Tình cảm của em với nhân vật.
Câu 4: (6 điểm)
1. Yêu cầu về hình thức:
- Hiểu đúng yêu cầu của đề bài: Biết cách làm một bài văn nghị luận văn học, kiểu bài
phân tích một bài thơ, biết cách trình bày luận điểm khi viết một bài văn.

- Hình thức trình bày sạch đẹp, bố cục đầy đủ, chặt chẽ. lập luận rõ ràng, văn phong trong
sáng, có cảm xúc, có sáng tạo, có khả năng thuyết phục cao, không mắc lỗi dùng từ, diễn đạt,
ngữ pháp...

2. Yêu cầu về nội dung:

Néi dung cÇn ®¹t BiÓu ®iÓm


*Mở bài:
Giới thiệu về nhà thơ Viễn Phương và bài thơ Viếng lăng Bác. Nhận xét khái quát về bài 1,0
thơ.
*Thân bài: 0,5
- Tâm trạng xúc động của nhà thơ khi đến thăm lăng Bác:
+ Tấm lòng người dân miền Nam đối với Bác: Cách xưng hô như tình cha con ruột thịt: "con" - 0,5
"bác".
+ Cảm xúc thành kính, thiêng liêng: những hình ảnh thân thương của làng quê, của dân tộc như
hàng tre đã trở thành biểu tượng của tình cảm nhân dân gắn bó với Bác, thành biểu tượng của
sức sống bền bỉ, mạnh mẽ. 1,0
- Sự tôn kính, biết ơn của nhân dân đối với Bác: hình ảnh ẩn dụ mặt trời trong lăng, vầng trăng
dịu hiền....- đó là sức sống tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Niềm tiếc thương vô hạn: thương nhớ vô hạn suốt chiều dài thời gian (ngày ngày), không gian 0,5
(dòng người)...
- Những cảm xúc chân thành, tha thiết ấy được nâng lên thành ước muốn sống đẹp - đó là được 1,0
hoá thân, hoà nhập vào cảnh vật (muốn làm chim hót, hoa toả hương) và nguyện ước trung
thành với lí tưởng của Bác (cây tre trung hiếu)...
- Bài thơ là giọng điệu thành kính, trang nghiêm mà tha thiết, nhiều hình ảnh ẩn dụ thiêng liêng
diễn tả tình cảm kính yêu, thương nhớ, biết ơn sâu sắc của nhân dân miềm Nam nói riêng và cả 0,5
dân tộc Việt Nam nói chung đối với Bác Hồ.
* Kết bài: 1,0
Nhận định, nêu giá trị của bài thơ.

PHÒNG GD&ĐT LÂM BÌNH


ĐỀ THI VÀO LỚP 10 - MÔN NGỮ VĂN
Thời gian: 120 phút (không kể thời gian giao đề)
A. Đề bài:
I. Đọc hiểu:
Đọc đoạn văn sau và trả lời câu hỏi.
“ …Công việc của chúng tôi là ngồi đây. Khi có bom nổ thì chạy lên, đo khối lượng đất đá lấp vào hố bom,
đếm bom chưa nổ và nếu cần thì phá bom. Người ta gọi chúng tôi là tổ trinh sát mặt đường. Cái tên gợi sự khao
khát làm nên những sự tích anh hùng. Do đó, công việc cũng chẳng đơn giản. Chúng tôi bị bom vùi luôn. Có khi
bò trên cao điểm về chỉ thấy hai con mắt lấp lánh. Cười thì hàm răng lóa lên khuôn mặt nhem nhuốc. Những lúc
đó, chúng tôi gọi nhau là những con quỷ mắt đen.”

- 23 -
( Những ngôi sao xa xôi - Lê Minh Khuê - Sách Ngữ văn 9 tập 2)
Câu 1. (1điểm )
a) Câu “ Những lúc đó, chúng tôi gọi nhau là “ những con quỷ mắt đen” dùng biện pháp tu từ gì? (0,5điểm)
b) Biện pháp tu từ ấy giúp chúng ta hiểu gì về các nhân vật? (0,5điểm)
Câu 2. (1điểm)
a) Câu văn trên gợi liên tưởng đến những câu thơ nào trong “ Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến
Duật?
b) Vì sao em liên tưởng như trên?
Câu 3. (2điểm) Viết đoạn văn quy nạp (khoảng 10 đến 12 câu) nêu cảm nghĩ của em về nhân vật “tôi”. Trong
đoạn có sử dụng một phép thế, một câu cảm thán. (Gạch chân câu cảm thán và từ ngữ dùng làm phép thế)
II. Làm văn: (6 điểm)
“ Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá là khúc tráng ca, ca ngợi sự giàu đẹp của biển cả và tình yêu biển cả của những
người ngư dân làng chài vùng biển Quảng Ninh”. Hãy phân tích đoạn thơ sau để làm sáng tỏ điều đó.
“ Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng,
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.
Cá nhụ, cá chim, cùng cá đé,
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,
Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé.
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.
Ta hát bài ca gọi cá vào,
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.
Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.
( Huy Cận- Đoàn thuyền đánh cá)
B. HƯỚNG DẪN CHẤM
Câu 1. (1điểm)
a) Câu văn sử dụng nghệ thuật ẩn dụ (0,5đ)
b) Cho thấy tinh thần lạc quan, có trách nhiệm cao với công việc của ba cô gái TNXP làm công việc trinh sát
mặt đường. (0,5đ)
Câu 2. (1điểm)
a) Chép chính xác những câu thơ trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”: (0,5đ)
Không có kính, ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”
( Nếu chép một câu: Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha cũng cho tối đa điểm)
b) Vì đều thể hiện tinh thần lạc quan, yêu đời, có trách nhiệm cao trong công việc của những người tham gia
công cuộc kháng chiến chống Mĩ. (0,5điểm)
Câu 3. Đoạn văn (2điểm)
- Hình thức: (1điểm)

- 24 -
+ Sử dụng và gạch chân một phép thế, chú thích xuống cuối đoạn văn (0,5điểm)
+ Sử dụng câu cảm thán, chú thích xuống cuối đoạn văn (0,5điểm)
- Nội dung (1điểm): Làm nổi bật nhân vật Phương Định với những nét tính cách: Vô tư, hồn nhiên, nhạy cảm,
yêu đời…dũng cảm, gan dạ, có tinh thần trách nhiệm cao trong công việc…, chăm sóc, yêu quý, gắn bó với
đồng đội…tiêu biểu cho thế hệ trẻ thời chống Mỹ cứu nước.
II. Làm văn: (6 điểm)
Hình thức : (0,5 điểm): Bài viết có bố cục ba phần
Trình bày sạch đẹp, sai không quá 03 lỗi chính tả.
Nội dung: (5 điểm)
* Mở bài: (1 điểm)
Giới thiệu tác giả, tác phẩm và khái quát nội dung đoạn thơ.
* Thân bài: (3,5điểm)
- Cảm hứng bao trùm cả đoạn thơ là cảm hứng lãng mạn cách mạng bay bổng diệu kỳ của nhà thơ Huy Cận trước vẻ đẹp
của cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển. (0,5điểm)
Khổ thứ nhất: (1,0 điểm)
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
…………………………
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.
- Hai câu thơ đầu đẹp như một bức tranh lồng lồng trời mây, mênh mông biển cả. Bằng trí tưởng tượng phong
phú nhà thơ đã biến hình ảnh đoàn thuyền vốn nhỏ bé so với mặt biển bao la bỗng trở nên kỳ vĩ, sánh ngang với
trời biển - thiên nhiên.
Học sinh chú ý phân tích các hình ảnh: Lái gió, buồm trăng…làm nổi bật hình ảnh những con người đang làm
chủ thiên nhiên, làm chủ biển khơi. (0,5 điểm)
- Hai câu cuối của khổ thơ: Bên cạnh cái ung dung, sảng khoái của người dân chài tự do ta vẫn cảm nhận được
sự vất vả của họ. Họ cũng giống như người chiến sĩ trên mặt trận lao động sản xuất. (0,5 điểm)
Khổ thơ thứ hai: (1 điểm)
Cá nhụ cá chim cùng cá đé
…………………………………
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long
- Nghệ thuật: Liệt kê và điệp từ cá. Khắc hoạ rõ nét sự giàu có của biển cả. Sử dụng hàng loạt các tính từ chỉ
màu sắc : Đen, hồng, vàng…kết hợp từ láy lấp lánh, làm cho biển cả đẹp lộng lẫy như bức tranh sơn mài. (0,5
điểm)
- Cảm nhận tinh tế: Nghe thấy tiếng thở phập phồng của màn đêm. Qua đó thấy được tài quan sát và tình yêu
biển cả của nhà thơ. (0,5 điểm)
Khổ thứ ba: (1,0 điểm)
Ta hát bài ca gọi cá vào
………………………
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.
- Người dân chài gõ thuyền xua cá vào lưới nhưng không không phải chỉ có con người mà còn có ánh trăng.
Hiện thực được trí tưởng tượng sáng tạo thành hình ảnh lạng mạn, giàu chất thơ. Nhà thơ như hoà nhập vào
công việc của những người dân chài, hoà nhập vào biển cả thân yêu. Biển không chỉ giàu, đẹp mà còn đem hạnh
phúc đến cho con người, nuôi sống dân chài từ bao đời nay. (0,5 điểm)
- Cùng với chất lãng mạn bay bổng, người dân làng chài lại lại cất lời hát gọi cá đồng thời thể hiện lòng biết ơn
biển cả quê hương. Nghệ thuật so sánh: Biển cho ta cá như lòng mẹ thể hiện lòng biết ơn và tình yêu biển của
những người dân chài. (0,5 điểm)
* Kết bài: (1điểm)
- 25 -
- Khẳng định lại giá trị nghệ thuật và nội dung của đoạn thơ. (0,5 điểm)
- Liên hệ bản thân về những việc làm thiết thực thể hiện tinh thần lao động góp phần giữ gìn, dựng xây trường
lớp, quê hương. (0,5 điểm)

PHÒNG GD&ĐT LÂM BÌNH

ĐỀ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 Môn : Ngữ văn 9


Thời gian 120 (phút không kể thời gian giao đề)

Phần I. Đọc hiểu. (4 điểm)


Đọc đoạn thơ sau và trả lời câu hỏi
"Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hoà ca
Một nốt trầm xao xuyến.

Một mùa xuân nho nhỏ


Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc".
(Ngữ văn 9, tập 2)
Câu 1 (1 điểm):
a. Đoạn thơ trên được trích từ tác phẩm nào? Tác giả của đoạn thơ trên là ai? (0,5 điểm)
b. Chỉ ra các điệp từ và từ láy trong khổ thơ trên (0,5 điểm)
Câu 2 (1 điểm):
Các hình ảnh “con chim”, “một cành hoa”, “một nốt trầm” có những đặc điểm gì giống nhau?
Câu 3 (2 điểm): Viết đoạn văn ngắn khoảng 15- 20 dòng về lẽ sống của thanh niên trong trong thời đại ngày
nay.
Phần II. Làm văn
Câu 4 (6 điểm): Vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật Phương Định trong đoạn trích “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh
khuê.

III . HƯỚNG DẪN CHẤM


Câu Nội dung Điểm
a. Đoạn thơ trên được trích từ tác phẩm: Mùa xuân nho nhỏ , của tác giả Thanh Hải 0,5
1 b. Từ láy trong đoạn thơ trên: nho nhỏ, xao xuyến. Điệp từ: “ta”, “một”, “dù”.
0,5
* Các hình ảnh con chim, một cành hoa, một nốt trầm có những đặc điểm giống nhau:
- Là những hình ảnh bình dị, khiêm nhường của thiên nhiên, cuộc sống mang lại niềm
vui, vẻ đẹp cho đời một cách tự nhiên. 0,5
2 - Là những hình ảnh mang ước nguyện chân thành, tha thiết của nhà thơ: được cống
hiến những gì tốt đẹp, dù nhỏ bé, đơn sơ cho cuộc đời chung.
0,5
* Yêu cầu về hình thức và kĩ năng:
1
- Đúng hình thức: là một đoạn văn ngắn, dài khoảng 15- 20 dòng.
- Biết vận dụng các thao tác lập luận; hành văn trong sáng, không mắc lỗi chính tả, dùng
từ, đặt câu.
1
* Yêu cầu về nội dung:
3
Chấp nhận những suy nghĩ khác nhau miễn là có sức thuyết phục. Dưới đây là một số

- 26 -
gợi ý cơ bản
- Dâng cho đời là lẽ sống biết cống hiến một cách tự nguyện, chân thành những gì tốt
đẹp nhất cho cuộc đời chung.
- Đó là lẽ sống có ý nghĩa tích cực, mang lại niềm hạnh phúc cho chính mình, cho xã
hội, xuất phát từ ý thức trách nhiệm, từ tình yêu với cuộc đời. Nhiều bạn trẻ ngày nay có
lối sống đẹp đẽ ấy.
- Xác định nhận thức, hành động đúng cho mọi người. Sống cho đời nhưng không cần
ồn ào, phô trương; không nên làm mất đi bản sắc riêng của mình thì mới thực sự có ý
nghĩa.
a. Mở bài (1điểm)
- Giới thiệu chung về tác giả, tác phẩm, 0,5
- Nêu khái quát nhân vật Phương Định 0,5
b. Thân bài (4 điểm)
- Phương Định là một nữ thanh niên xung phong có lí tưởng sống đẹp, kiên cường, dũng
4 cảm, có tinh thần trách nhiệm cao.
- Hoàn cảnh sống chiến đấu
+ Công việc của Phương Định vô cùng khó khăn, thường xuyên phải đối mặt với sự 1
nguy hiểm, cái chết;
+ Chiến trường khốc liệt không làm mất đi nét hồn nhiên trong sáng, nhạy cảm của mơ 1
mộng trong tâm hồn người con gái Hà Nội.
- Đặc điểm tính cách nhân vật:
+ Dù công việc nguy hiểm nhưng nhưng vẫn luôn quan tâm đến hình thức của mình;Cô 1
mê hát, thích bịa lời hát, thích nhiều bài hát. Cô mang vào chiến trường những kí ức
trong sáng, hồn nhiên về Hà Nội, những niềm vui con trẻ.
+ Phương Định rất yêu mến, gắn bó với đồng đội trong tổ trinh sát mặt đường. Cô cảm
phục và dành những tình cảm yêu mến cho chiến sĩ mà cô vẫn gặp trên con đường ra 1
mặt trận.
c. Kết bài. (1 điểm)
- Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật chân thực, tinh tế, ngôn ngữ nhân vật tự nhiên, trẻ
trung, gần với khẩu ngữ, nhiều nữ tính, lựa chọn ngôi kể phù hợp 0,5
- Nhân vật có sự hài hòa của những nét đẹp vừa anh hùng vừa nữ tính. Những rung cảm
tâm hồn, mộng mơ trong sáng, hồn nhiên của nhân vật là cách riêng để Lê Minh Khuê
khẳng định sức sống và bản lĩnh của con người Việt Nam trong đau thương. 0,5

PHÒNG GD&ĐT HÀM YÊN ĐỀ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT
NĂM HỌC 2016 - 2017
MÔN THI: NGỮ VĂN
Thời gian: 120 phút
(Không kể thời gian giao đề)

I. Đề bài:
* Phần I: Đọc - hiểu (4 điểm)
Đọc khổ thơ sau và trả lời câu hỏi:
"Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân"
Câu 1: Khổ thơ trên trích trong bài thơ nào? Tác giả là ai? (0,5 điểm)

- 27 -
Câu 2: Cụm từ “bảy mươi chín mùa xuân” có nghĩa là gì? (0,5 điểm)
Câu 3: Trong câu thơ "Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ", hình ảnh "mặt trời" được tác giả sử dụng
biện pháp tu từ gì? Nêu tác dụng của biện pháp tu từ đó? (1 điểm)
Câu 4: Viết đoạn văn ngắn (khoảng 15 dòng) trình bày cảm nhận của em về khổ thơ trên? (2 điểm)
* Phần II: Làm văn (6 điểm)
Suy nghĩ về nhân vật ông Hai trong truyện ngắn “Làng” của tác giả Kim Lân.
II. Hướng dẫn chấm:
Nội dung Điểm
Phần I: Đọc - hiểu:
Câu 1: - Khổ thơ trích trong bài thơ "Viếng lăng Bác" 0,25
- Tác giả: Viễn Phương. 0,25
Câu 2: Cụm từ “bảy mươi chín mùa xuân”: chỉ tuổi của Bác: Bác qua đời ngày 2 tháng 9 năm
1969, hưởng thọ 79 tuổi. 0,5
Câu 3: Hình ảnh "mặt trời" trong câu thơ "Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ":
- Sử dụng biện pháp tu từ ẩn dụ.
- Tác dụng: Nhấn mạnh, ca ngợi công ơn to lớn của Bác Hồ đối với dân tộc, với đất nước.
Câu 4: Viết đoạn văn ngắn (khoảng 15 dòng) trình bày cảm nhận về khổ thơ:
* Hình thức: Đoạn văn cần đảm bảo về cấu trúc đoạn (mở đoạn, thân đoạn, kết đoạn), diễn đạt 0,5
mạch lạc, không sai lỗi chính tả 0,5
* Nội dung: Đoạn văn cần đảm bảo các ý cơ bản sau:
- Công lao to lớn của Bác Hồ đối với dân tộc, với đất nước. 1
- Tấm lòng thành kính, sự biết ơn sâu sắc của nhân dân Việt Nam đối với Bác Hồ. 1
Phần II: Làm văn (6 điểm)
Yêu cầu:
- Hình thức: Đảm bảo bố cục rõ ràng, diễn đạt mạch lạc, đúng chính tả.
- Nội dung: 0,5
1. Mở bài:
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm.
- Cảm nhận chung về nhân vật ông Hai - người nông dân có tình yêu làng, yêu nước và tinh thần
kháng chiến sâu sắc.
2. Thân bài: Triển khai các nhận định về tình yêu làng, yêu nước của nhân vật ông Hai và nghệ 1
thuật đặc sắc của nhà văn:
* Tình yêu làng, yêu nước của ông Hai là tình cảm nổi bật, xuyên suốt toàn truyện: 1
- Ở nơi tản cư: Ông luôn nhớ về làng, thường hay khoe về sự giàu có và tinh thần kháng chiến
của làng, luôn nghe ngóng, theo dõi tin tức, tình hình kháng chiến...
1
- Khi nghe tin làng theo giặc: Ông bất ngờ, đau đớn, dằn vặt, tủi hổ, xót xa... quyết định dứt
khoát: Làng theo tây thì phải thù làng...
- Khi nghe tin cải chính: Ông sung sướng, hạnh phúc (vui mừng đi khoe khắp nơi, khoe cả nhà 1
mình bị gặc đốt...)
=> Tình yêu làng hòa quyện, thống nhất với tình yêu kháng chiến, yêu nước - nét mới trong tình
cảm, nhận thức của người nông dân trong Cách mạng Tháng Tám.
* Nghệ thuật: 1
- Chọn tình huống tin đồn thất thiệt để thể hiện nhân vật.
- Ngôn ngữ tự nhiên.
- Miêu tả tâm lí nhân vật sâu sắc. 0,5
- Các hình thức trần thuật (đối thoại, độc thoại, độc thoại nội tâm...)
3. Kết bài:
- Sức hấp dẫn của hình tượng nhân vật. Thành công của nhà văn khi xây dựng nhân vật ông Hai.

PHÒNG GD&ĐT HÀM YÊN ĐỀ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT
NĂM HỌC 2016 - 2017
MÔN THI: NGỮ VĂN

- 28 -
Thời gian: 120 phút
(Không kể thời gian giao đề)
I. ĐỀ BÀI
* Phần 1: Đọc hiểu văn bản (4 điểm)
Đọc hai câu thơ sau và trả lời các câu hỏi:
Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi
Mặt trời của mẹ em nằm trên lưng
(Ngữ văn 9-Tập 1)
Câu 1: Hai câu thơ trên nằm trong tác phẩm nào? Tác giả là ai? Thời gian? Hoàn cảnh sáng tác bài thơ?
(1 điểm)
Câu 2: Câu thơ đã sử dụng biện pháp nghệ thuật nào? Cho biết tác dụng của biện pháp nghệ thuật đó? (1
điểm)
Câu 3: Viết đoạn văn (khoảng 200 từ) nêu cảm nhận của em về hai câu thơ trên? (2 điểm)
* Phần 2: Tập làm văn (6 điểm)
Cảm nhận của em về nhân vật ông Sáu trong truyện ngắn “ Chiếc lược ngà”của tác giả Nguyễn
Quang Sáng.
II. HƯỚNG DẪN CHẤM
Phần Nội dung Điểm

Câu
Câu 1: Hai câu thơ trích từ tác phẩm: Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ, 0,25
- Tác giả Nguyễn Khoa Điềm.
- Bài thơ sáng tác năm 1971 0,25
- Hoàn cảnh: Khi nhà thơ đang công tác ở chiến khu miền Tây Thừa Thiên Huế. 0,25
0,25
Phần 1
Câu 2: Câu thơ sử dụng biện pháp tu từ ẩn dụ. Qua từ “ Mặt
trời” ở câu thơ thứ hai “Mặt trời của mẹ em nằm trên lưng”
- Tác dụng: Thể hiện tình cảm của người mẹ đối với con. Con là mặt trời của mẹ; là 0,5
nguồn hạnh phúc ấm áp vừa gần gũi, vừa thiêng liêng của đời mẹ.
0,5
Câu 3:
* Yêu cầu chung:
- Biết cách viết đoạn văn nghị luận về một đoạn thơ
- Bài làm có kết cấu chặt chẽ, bố cục rõ ràng (3 phần: Mở đoạn, thân đoạn, kết 1
đoạn)
- Diễn đạt lưu loát, không mắc lỗi chính tả, chữ viết cẩn thận.
* Yêu cầu cụ thể:
Học sinh nêu cảm nhận của bản thân. Song cần đảm bảo những yêu cầu: 1
* Nội dung:
- Thể hiện tình cảm của người mẹ đối với con. Con là mặt trời của mẹ
- Thể hiện niềm tin, hi vọng của mẹ đối với con.
* Nghệ thuật:
- Thành công trong sử dụng nghệ thuật ẩn dụ độc đáo sáng tạo của tác giả.

* Yêu cầu về hình thức:


- Học sinh biết viết một bài văn nghị luận về một tác phẩm (Đoạn trích)
- Bố cục rõ ràng, chữ viết đủ nét, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, diễn đạt.

- 29 -
* Yêu cầu nội dung
Học sinh có thể trình bày nhiều cách khác nhau, nhưng bài viết cần có các ý
cơ bản sau: 0,5
1. Mở bài:
Phần 2
Giới thiệu khái quát về tác giả Nguyễn Quang Sáng, truyện ngắn “Chiếc lược
ngà”, nhân vật ông Sáu - người cha yêu thương con sâu nặng.
2. Thân bài:
Phân tích nhân vật ông Sáu để thấy được tình yêu thương sâu nặng mà người
cha dành cho con
Học sinh cần bám vào tình huống truyện, chọn chi tiết nghệ thuật đặc sắc để làm
rõ điều đó.
1
* Tình cảm của ông Sáu với con trong những ngày ông được nghỉ phép:
+ Sau tám năm xa cách, khi được nghỉ phép về thăm nhà, ông vồ vập đến với 1
con (...).
+ Những ngày nghỉ phép: Ông tìm mọi cách để gần con, quá nóng ruột, không
kìm được mình, ông đánh con (...). Giây phút chia tay, được nghe con gọi “ba”, ông
sung sướng, xúc động nghẹn ngào không cầm được nước mắt (...) 1
* Tình cảm của ông Sáu với con được thể hiện tập trung và sâu sắc ở phần
sau của truyện, khi ông Sáu ở trong rừng, tại khu căn cứ:
- Ông luôn day dứt, ân hận đã đánh con khi nóng giận. Lời dặn của con lúc chia
tay: “Ba về! Ba mua cho con một cây lược nghe ba!” đã thúc đẩy ông nghĩ đến việc 1
làm một chiếc lược ngà dành cho con.
- Tình cảm của ông được gửi gắm qua việc làm chiếc lược ngà. Khi kiếm được
một khúc ngà, ông đã vô cùng vui sướng, rồi dành hết tâm lực vào việc làm cây lược
(Dẫn chứng)
=> Chiếc lược ngà đã thành một vật quí giá, thiêng liêng với ông Sáu.... 1
- Tình cảm của cha dành cho con trong những giây phút cuối đời (Bị thương nặng
trong một trận càn của địch, trước khi nhắm mắt, ông cố sức lấy chiếc lược, nhờ
đồng đội trao lại cho con ....)
-> Như vậy thường trực, đau đáu trong cảm xúc, suy nghĩ, tâm trạng, hành động,
cử chỉ của ông Sáu từ khi được gặp con đến khi vĩnh biệt cuộc đời là hình ảnh đứa
con yêu dấu.
3. Kết bài: 0,5
Khẳng định giá trị về nội dung nghệ thuật của tác phẩm
(Nhấn mạnh, khẳng định ngợi ca sức mạnh tình phụ tử thiêng liêng như một giá
trị nhân bản sâu sắc).

Đề 1: Suy nghĩ của em về nhân vật bé Thu trong truyện ngắn “Chiếc lược ngà” của Nguyễn
Quang Sáng.

- 30 -
Bài làm
Nguyễn Quang Sáng là một nhà văn quân đội, một cây bút văn xuôi xuất sắc của nền văn học hiện đại
Việt Nam.Tác phẩm của ông chủ yếu viết về cuộc sống và con người ở Nam Bộ trong hai cuộc kháng chiến
chống Pháp và chống Mĩ cũng như sau hòa bình .Tiêu biểu là truyện ngắn: “Chiếc lược ngà”, khi cuộc kháng
chiến chống Mĩ đã bước vào giai đoạn ác liệt nhất.Truyện đã để lại trong lòng người đọc một tình cảm cha con
sâu nặng và cao đẹp giữa ông Sáu và bé Thu trong cảnh ngộ éo le của chiến tranh.
Truyện kể rằng ông Sáu thoát li tham gia kháng chiến khi bé Thu chưa đầy mAột tuổi. Sau tám năm, ông
được phép về thăm nhà nhưng bé Thu không chịu nhận ông làm cha vì trên mặt ông có một vết sẹo. Ông càng
vỗ về, con bé càng đẩy ra, nó còn gọi ông là “người ta”, bị dồn vào thế bí nó vẫn biết cách chắt nước nồi
cơm.Thậm chí, nó còn hất tung cái trứng cá mà ông Sáu gắp cho. Bị cha đánh , nó chèo xuồng qua nhà
ngoại ,được ngoại giải thích, bé Thu hiểu ra mọi chuyện và nhận ông Sáu làm cha. Nhưng trong một trận càn,
ông Sáu đã hi sinh, ông chỉ kịp trao chiếc lược ngà cho bác Ba - người bạn chiến đấu để đem về cho Thu
Đọc truyện ta thấy tình cha con thiêng liêng sâu nặng giữa ông Sáu và bé Thu được thể hiện một cách chân
thật và xúc động trong hoàn cảnh đất nước đang có chiến tranh .Tình cảm cuả Thu đối với cha được thử thách
bởi thời gian, bởi chiến tranh khiến người đọc không khòi xúc động ! Gần tám năm xa cách, bé Thu chưa một
lần nào được ở cạnh cha , được cha yêu thương , vỗ về, ôm vào lòng và chưa bao giờ được gọi tiếng cha than
thương. Chính vì thế , nỗi lòng khao khát , mong ước được gặp cha, được gọi tiếng “ Ba”, đựơc yêu thương cha
và đựơc cha thương yêu đang rất mãnh liệt trong Thu. Thế mà, sự việc không như ta tưởng, Thu không những
không chịu nhận cha mà còn có phản ứng thật quyết liệt và dữ dội . “Thu tái đi rồi vụt chạy và kêu thét lên :
Má! Má!....” Thậm chí, khi ông Sáu càng vỗ về Thu càng đẩy ra. Thu còn nói trõng với ông và kêu ông là
“người ta”. Khi ông Sáu gắp cho Thu cái trứng cá thì cô bé hất cái trứng cá ra khỏi chén làm cơm văng tung
tóe.Thái độ của bé Thu thật đáng trách ,đáng giận .Nhưng khi ta biết được nguyên nhân thì Thu không đáng
trách mà còn đáng thương, đáng trân trọng biết nhường nào ! Thu không chấp nhận người đàn ông có vết thẹo
trên má là cha mình vì không ai có thể thay thế được hình ảnh ngừơi cha trong tấm hình đã ngự trị trong trái tim
bé bỏng của mình .Điều đó chứng tỏ Thu luôn yêu thương cha , kình trọng cha đến thế nào, luôn luôn giữ hình
ành người cha thân yêu như một báu vật mà không ai có thể xâm phạm và ép buộc. Và khi hiểu ra được sự việc ,
Thu nằm im, lăn lộn, thỉnh thoảng lại thở dài như người lớn .Có lẽ Thu đang cảm thấy hối hận nhiều lắm vì
những điều mà cô bé đã làm với người cha của mình.Giây phút chia tay , tình cha con nỗi dậy trong Thu .Tiếng
“ Ba” của Thu như tiếng xé, xé sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người . Chắc rằng Thu không thể nào biết đựơc
đó là tiếng “ Ba” đầu tiên và cũng là tiếng “ Ba” cuối cùng trong cuộc đời Thu. Cô bé thật tội nghiệp ! Thu chạy
tới chỗ ông Sáu , nhảy thót lên , hai tay ôm chặt ông Sáu rồi Thu hôn lên môi, lên má , lên cổ, lên vai và lên cả
vết thẹo dài trên má ông Sáu . Chứng kiến cảnh đó ai mà không khỏi xúc động và trào cả nước mắt cơ chứ. Quả
thật đó là thứ tình cảm không gì có thể sánh bằng, chân thật, sâu sắc và cảm động nhất .
Truyện đã được trần thuật theo lời người bạn ông Sáu - bác Ba - người đã chứng kiến cảnh ngộ éo le của
cha con ông nên bày tỏ được sự đồng cảm , chia sẻ khiến cho câu chuyện trở nên đáng tin cậy , có sức thuyết
phục cao , có ý kiến bình luận , suy nghĩ sắc bén . Cách xây dựng tình huống truyện đặc sắc , rất tự nhiên và hợp
lí . Ngôn ngữ truyện trong sáng, dân giả , mang đậm bản chất của con người Nam Bộ .Nghệ thuật miêu tả tâm lí
nhân vật rất tinh tế , chính xác , lựa chọn được những chi tiết đặc sắc của bé Thu , có những đoạn miêu tả nội
tâm nhân vật rất cảm động . Chính những nghệ thuật này tạo nên sự thành công cho tác phẩm
Câu chuyện đã khép lại nhưng để lại cho người đọc bao niềm xúc động , tình yêu và niềm cảm phục đối với con
người Việt Nam qua hai nhân vật ông Sáu và bé Thu. Họ đã vượt qua mọi mất mát , sẵn sàng hi sinh tình cảm
riêng tư vì cách mạng. Nguyễn Quang Sáng đã rất thành công khi xây dựng truyện ngắn này. Tác phẩm làm cho
ta cảm thấy căm ghét chiến tranh, yêu quý hơn cuộc sống hòa bình hôm nay , yêu quý hơn mái ấm gia đình .
Bài 2:
Nguyễn Quang Sáng là một nhà văn quân đội, một cây bút văn xuôi xuất sắc của nền văn học hiện đại
Việt Nam.Tác phẩm của ông chủ yếu viết về cuộc sống và con người ở Nam Bộ trong hai cuộc kháng chiến
chống Pháp và chống Mĩ cũng như sau hòa bình .Tiêu biểu là truyện ngắn: “Chiếc lược ngà”, khi cuộc kháng
chiến chống Mĩ đã bước vào giai đoạn ác liệt nhất. Truyện đã để lại trong lòng người đọc một hình ảnh bé Thu
là nhân vật trọng tâm của câu chuyện, được tác giả khắc họa hết sức tinh tế và nhạy bén, là một cô bé giàu cá
tính,bướng bỉnh và gan góc.
Bé Thu gây ấn tượng cho người đọc về một cô bé dường như lì lợm đến ghê gớm, khi mà trong mọi tình
huống em cũng nhất quyết không gọi tiếng “Ba”, hay khi hất cái trứng mà ông Sáu gắp cho xuống,cuối cùng khi
ông Sáu tức giận đánh một cái thì bỏ về nhà bà ngoại.Nguyễn Quang Sáng đã khéo léo xây dựng nhiều tình
huống thử thách cá tính của bé Thu,nhưng điều khiến người đọc phải bất ngờ là sự nhất quán trong tính cách của
bé,dù là bị mẹ quơ đũa dọa đánh,dù là bị dồn vào thế bí,dù là bị ông Sáu đánh,bé Thu luôn bộc lộ một con người

- 31 -
kiên quyết , mạng mẽ. Có người cho rằng tác giả đã xây dựng tính cách bé Thu hơi “thái quá”, song thiết nghĩ
chính thái độ ngang ngạnh đó lại là biểu hiện vô cùng đẹp đẽ mà đứa con dành cho người cha yêu quý. Trong
tâm trí bé Thu chỉ có duy nhất hình ảnh của một người cha “chụp chung trong bức ảnh với má”.Người cha ấy
không giống ông Sáu, không phải bởi thời gian đã làm ông Sáu già đi mà do cái thẹo trên má.Vết thẹo, dấu tích
của chiến tranh đã hằn sâu làm biến dạng khuôn mặt ông Sáu.Có lẽ trong hoàn cảnh xa cách và trắc trở của
chiến tranh, nó còn quá bé để có thể biết đến sự khốc liệt của bom lửa đạn, biết đến cái cay xè của mùi thuốc
súng và sự khắc nghiệt của cuộc sống người chiến sỹ. Cái cảm giác đó không đơn thuần là sự bướng bỉnh của
một cô bé đỏng đảnh, nhiễu sách mà là sự kiên định, thẳng thắn , có lập trường bền chặt,bộc lộ phần nào đó tính
cách cứng cỏi ngoan cường của cô gian liên giải phóng sau này.
Nhưng xét cho cùng, cô bé ấy có bướng bỉnh, gan góc,tình cảm có sâu sắc,mạnh mẽ thế nào thì Thu vẫn
chỉ là một đứa trẻ mới 8 tuổi,với tất cả nét hồn nhiên, ngây thơ của con trẻ. Nhà văn tỏ ra rất am hiểu tâm lý của
trẻ thơ và diễn tả rất sinh động với tấm lòng yêu mến và trân trọng một cách đẹp đẽ, thiêng liêng những tâm tư
tình cảm vô giá ấy.Khi bị ba đánh,bé Thu “cầm đũa gắp lại cái trứng cá để vào chén rồi lặng lẽ đứng dậy,bước
ra khỏi mâm”. Có cảm giác bé Thu sợ ông Sáu sẽ nhìn thấy những giot nước mắt trong chính tâm tư của mình?
Hay bé Thu dường như lờ mờ nhận ra mình có lỗi?Lại một loạt hành động tiếp theo “Xuống bến nó nhảy xuống
xuồng,mở lòi tói,cố làm cho dây lòi tói khua rổn rang ,khua thật to,rồi lấy dầm bơi qua sông”.Bé Thu bỏ đi lúc
bữa cơm nhưng lại có ý tạo tiếng động gây sự chú ý.Có lẽ co bé muốn mọi người trong nhà biết bé sắp đi ,mà
chạy ra vỗ về,dỗ dành.Có một sự đối lập trong những hành động của bé Thu, giữa một bên là sự cứng cỏi, già
giặn hơn tuổi, nhưng ở khía cạnh khác cô bé vẫn mong được yêu quý vỗ về.Song khi “Chiều đó,mẹ nó sang dỗ
dành mấy nó cũng không chịu về”, cái cá tính cố chấp một cách trẻ con của bé Thu được tác giả khắc họa vừa
gần gũi,vừa tinh tế.Dù như thế thì bé Thu vẫn chỉ là một đứa trẻ 8 tuổi hồn nhiên,dẫu có vẻ như cứng rắn và
mạnh mẽ trước tuổi.
Ở đoạn cuối, khi mà bé Thu nhận ra cha,thật khó để phủ nhận bé Thu là đứa bé giàu tính cảm.Tình cha
con trong Thu giữ gìn bấy lâu nay,giờ trỗi dậy,vào cái giây phút mà cha con phải tạm biệt nhau.Có ai ngờ một
cô bé không được gặp cha từ năm 1 tuổi vẫn luôn vun đắp một tình yêu bền bỉ và mãnh liệt với cha mình,dù
người cha ấy chưa hề bồng bế nó,cưng nựng nó,săn sóc,chăm lo cho nó,làm cho nó một món đồ chơi kể từ khi
nó bắt đầu làm quen với cuộc sống.Nó gần như chưa có chú ấn tượng nào về cha,song chắc không ít lần nó đã tự
tưởng tượng hình ảnh người cha nó tài giỏi nhường nào,cao lớn nhường nào,có vòng tay rộng để ôm nó vào lòng
ra sao?Tình cảm mãnh liệt trong nó ngăn không cho nó nhận một người đàn ông lại kia làm bố.Khi đến ngày
ông Sáu phải đi,con bé cứng cỏi mạnh mẽ ngày hôm nào lại “như thể bị bỏ rơi”,”lúc đứng ở góc nhà,lúc đứng
tựa cửa và cứ nìn mọi người vây quanh ba nó,dường như nó thèm khát cái sự ấm áp của tình cảm gia đình ,nó
cũng muốn chạy lại và ôm hôn cha nó lắm chứ,nhưng lại có cái gì chặn ngang cổ họng nó,làm nó cứ đứng
nguyên ở ấy, ước mong cha nó sẽ nhận ra sự có mặt của nó.Và rồi đến khi cha nó chào nó trước khi đi,có cảm
giác mọi tình cảm trong lòng bé Thu bỗng trào dâng.Nó không nén nổi tình cảm như trước đây nữa,nó bỗng kêu
hét lên “Ba…”,”vừa kêu vừa chạy xô đến nhanh như một con sóc,nó chạy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy
cổ ba nó”,”Nó hôn ba nó cùng khắp.Nó hôn tóc,hôn cổ,hôn vai,hôn cả vết thẹo dài trên má của ba nó nữa”.Tiếng
kêu “Ba” từ sâu thẳm trái tim bé Thu,tiếng gọi mà ba nó đã dùng mọi cách để ép nó gọi trong mấy ngày
qua,tiếng gọi ba gần gũi lần đầu tiên trong đời nó như thể nó là đứa trẻ mới bi bô tập nói,tiếng gọi mà ba nó tha
thiết được nghe một lần.Bao nhiêu mơ ước,khao khát như muốn vỡ òa ra tring một tiếng gọi cha.Tiếng gọi ấy
không chỉ khiến ba nó bật khóc mà còn mang một giá trị thiêng liêng với nó.Lần đầu tiên nó cảm nhận mơ hồ về
niềm sung sướng của một đứa con có cha. Dường như bé Thu đã lớn lên trong đầu óc non nớt của nó. Ngòi bút
nhà văn khẳng định một nhân vật giảu tình cảm,có cá tính mạnh mẽ,kiên quyết nhưng vẫn hồn nhiên, ngây
thơ:Nhân vật bé Thu.
“Chiếc lược ngà” như một câu chuyện cổ tích hiện đại, thành công trong việc xây dựng hình thượng bé
Thu và gửi gắm thông điệp đẹp về tình cha con.Nhân vật ông Ba-người kể chuyện hay chính là nhà văn Nguyễn
Quang Sáng,phải là người từng trải,sống hết minh vì cách mạng kháng chiến của quê hương, gắn bó máu thịt
với những con người giàu tình yêu, nhân hậu mà rất kiên cường, bất khuất, nhà văn mới có thể nhập hồn được
vào các nhân vật, sáng tạo nhiều hình tượng với các chi tiết sinh động, bất ngờ, hơn nữa lại có giọng văn dung
dị, cảm động!

Đề 2: Cảm nhận của em về nhân vật ông Hai trong tác phẩm Làng của Kim Lân.

- 32 -
Kim Lân là một nhà văn hiện đại Việt Nam. Vốn gắn bó và am hiểu sâu sắc cuộc sống ở nông thôn,
Kim Lân hầu như chỉ viêt về sinh hoạt làng quê và cảnh ngộ của người nông dân. Truyện ngắn Làng cũng là
một tác phẩm thành công của nhà văn Kim Lân được viết trong thời là đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp và
đăng lần đầu trên tạp chí Văn nghệ năm 1948. Truyện ngắn thể hiện chân thực, sâu sắc và cảm động lòng yêu
làng quê, đất nước và tinh thần kháng chiến của những người nông- dân, cụ thể ở đây là nhân vật ông Hai.

Làng là câu chuyện kể về người nông dân tên Hai Thu, người làng Chợ Dầu. Nhân vật giản đơn ấy đã in
sâu vào trái tim độc giả ngay từ những trang viết đầu tiên. Ông Hai được khắc họa trong tác phẩm là một người
nông dân chân chất, mộc mạc. Tình yêu làng của ông cũng chất phác như chính con người ông vậy. Đối với ông,
yêu làng có nghĩa là yêu nước, yêu làng có nghĩa là tự hào khi kể về ngôi làng của mình hàng ngày, hàng giờ. Yêu
làng là nhớ lại những ngày tháng gian khổ đắp ụ, đào đường, be bờ, xẻ đá…Yêu làng là yêu cả những câu hát
bông phèng mỗi giờ giải lao…Đối với ông Hai Thu, tình yêu làng đã trở thành hơi thở của cuộc sống, trở thành niềm
tin, trở thành niềm tự hào không dứt trong những câu chuyện thường nhật. Tình yêu làng thiết tha, sâu nặng ấy
càng được thể hiện sâu sắc khi nhà văn đặt nhân vật vào tình huống bất ngờ, độc đáo. Đó là tình huống nghe tin
làng Chợ Dầu theo giặc. Tình huống ấy khiến người đọc cảm nhận sâu sắc hơn tình yêu làng trong một tâm hồn
giản dị. Hôm ấy, cũng như mọi ngày, từ phòng thông tin ra, ông lão đang phấn chấn vì nghe ngóng được nhiều tin
vui từ kháng chiến thì lại gặp những người tản cư. Ông quay phắt lại lắp bắp hỏi khi nghe người ta nhắc đến tên
làng ông, mong nhận được những tin tốt lành, nào ngờ lại là tin dữ: “Cả làng chúng nó Việt gian theo Tây…”. Tin dữ
ấy khiến ông lão đau đớn, nhục nhã, xấu hổ, bế tắc, tuyệt vọng. Ông lão không còn háo hức, vui sướng mỗi khi
nhắc đến ngôi làng của mình nữa. Thay vào đó là một sự đấu tranh nội tâm giằng xé. Ông trách người làng, trách
người đưa tin rồi lại đến trách mình. Ông ở lì trong nhà, không bước chân ra khỏi cửa, trốn chạy khỏi thực tại, tự
mình chống chọi với nỗi đau đớn tột cùng. Nỗi ám ảnh day dứt trong ông biến thành nỗi sợ hãi.

Tình cảnh của ông càng éo le hơn khi bà chủ nhà có ý muốn đuổi gia đình ông đi. Ông chợt nghĩ về làng
nhưng lại phản đối ngay “ về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ Cụ Hồ”, ông không cam chịu “ quay lại làm nô lệ cho
thằng Tây”. Qua câu nói trên, ta thấy tình yêu làng của ông Hai đã lớn rộng thành tình yêu nước bởi dẫu tình yêu
làng có bị lung lay nhưng tình yêu ông dành cho kháng chiến, cho Cụ Hồ không hề thay đổi. Ông lựa chọn một cách
dứt khoát và đau đớn: “Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”. Dù xác định thù làng nhưng ông
vẫn không thẻ dứt bỏ tình cảm của mình với nó. Thê nên ông mới đau đớn, xót xa. Ông đành tìm niềm an ủi trong
lời tâm sự với thằng út. Ông hỏi những điều mà ông biết trước câu trả lời: “Thế nhà con ở đâu?”, “Thế con ủng hộ
ai?”… Câu trả lời của thằng bé giản dị mà thiêng liêng: “nhà ta ở làng Chợ Dầu”, “Ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh muôn
năm!”…ông muốn con cùng khắc cốt ghi tâm. “Ông lão xúc động, nước mắt ông lão giàn ra chảy ròng ròng trên hai
má.”, ông mong mình được minh oan. Thế mới thấy, dẫu có thế nào thì ông vẫn trung thành với kháng chiến, với Cụ
Hồ.

Tình huống câu chuyện thật trớ trêu làm sao! Nhưng may thay, tin làng Chợ Dầu theo giặc được cải chính.
Ông Hai sung sướng như người được sống lại. Ông đóng khăn áo chỉnh tề rồi tất tả chạy theo người báo tin mà
quên dặn trẻ coi nhà. Đến đâu cũng câu nói “Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ. Đốt nhẵn! Ông chủ tịch làng tôi mới lên
trên này cải chính… cải chính cái tin làng Chợ Dầu chúng tôi đi Việt gian ấy mà. Láo! Láo hết! Toàn là sai sự mục
đích cả”, vừa nói “ông lão cứ múa tay lên mà khoe”. Tác giả đã đặt nhân vật trong ngôn ngữ khá tự nhiên, bộc lộ
thêm tính chất người nông dân Việt Nam thời kì kháng chiến chống Pháp. Ông Hai khoe nhà mình bị đốt là minh
chứng rằng làng không theo giặc. Mất hết cả cơ nghiệp nhưng ông lão vẫn sung sướng, không hề tiếc nuối. Qua đó
ta hiểu thêm, đối với ông vật chất chẳng có giá trị gì cả, nhưng danh dự, tinh thần yêu nước là trên cả. Đó là một
niềm vui kì lạ nhưng thể hiện cảm động tình yêu làng, yêu nước, tinh thần hi sinh của người nông dân Việt Nam
trong cuộc kháng chống giặc ngoại xâm.

Tình yêu làng trong ông Hai đã hòa quyện, thống nhất với tình yêu nước. Hạnh phúc và đau khổ của ông
gắn liền với làng quê, đất nước Đó chính là vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật ông Hai, của người nông, dân nói riêng
và dân tộc Việt Nam nói chung, vẻ đẹp ấy đã được kế thừa và phát huy, vẻ đẹp ấy đã được Đảng, Bác Hồ giác
ngộ đưa lên một tầm cao mới giá trị mới.

Đề 3: Cảm nhận của em về bài thơ "Viếng lăng Bác" của tác giả Viễn Phương?

- 33 -
Trong các bài thơ viết về Bác Hồ, Viếng lăng Bác của Viễn Phương là một bài thơ đặc sắc, gây cho em
nhiều xúc động nhất. Bao trùm toàn bài thơ là niềm thương cảm vô hạn, lòng kính yêu và biết ơn sâu sắc của
nhà thơ đối với Bác Hồ vĩ đại.

Câu thơ mở đầu "Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác" như một lời nói nghẹn ngào của đứa con đi xa trở
về thăm viếng hương hồn Bác Hồ kính yêu. Tình cảm ấy là tình cảm chung của đồng bào và chiến sĩ miền Nam
đối với lãnh tụ vĩ đại của dân tộc.

Nhà thơ đứng lặng đi, trầm ngâm từ phía xa nhìn lăng Bác. Hàng tre để lại cho anh nhiều cảm xúc và
liên tưởng thấm thía. Màu tre xanh thân thuộc của làng quê Việt Nam luôn luôn gắn bó với tâm hồn của Bác.
Bác đã "đi xa "nhưng tâm hồn Bác vẫn gắn bó thiết tha với quê hương xứ sở:

Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam

Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.

Cây tre, "hàng tre xanh xanh"... "đứng thẳng hàng" ẩn hiện thấp thoáng tnrớc lăng Bác. Cây tre đã được
nhân hóa như biểu tượng ca ngợi dáng đứng của con người Việt Nam: kiên cường, bất khuất, mộc mạc, thanh
cao... Hình ảnh cây tre trong lời thơ của Viễn Phương biểu thị niềm tự hào dân tộc làm cho mỗi chúng ta cảm
nhận sâu sắc về phẩm chất cao quý của Bác Hồ cũng như của con người Việt Nam trong bốn nghìn năm lịch sử.

Trong nền thơ ca Việt Nam hiện đại có nhiều bài thơ nói đến hình ảnh mặt trời: "Mặt trời chân lí chói
qua tim "( Từ ấy - Tố Hữu). "Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi - Mặt trời của mẹ, em nằm trên lưng" (Nguyễn
Khoa Điềm). Viễn Phương có một lối nói rất hay và sáng tạo, đem đến cho em nhiều liên tưởng thú vị:

Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng,

Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ.

Ở đây "mặt trời... rất đỏ" là hình ảnh ẩn dụ tượng trưng cho đạo đức, lòng yêu nước, tinh thần cách mạng
sáng ngời của Bác. Mặt trời thiên nhiên thì vĩnh hằng cũng tựa như tên tuổi và sự nghiệp cách mạng của Bác Hồ
đời đời bất tử.

Viễn Phương đã ví dòng người vô tận đến viếng lăng Bác như "Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa
xuân ".Mỗi người Việt Nam đến viếng Bác với tất cả tấm lòng kính yêu và biết ơn vô hạn. Ai cũng muốn đến
dâng lên Người những thành tích tốt đẹp, những bông hoa tươi thắm nảy nở trong sản xuất, chiến đấu và học
tập. Hương hoa của hồn người, hương hoa của đất nước kính dâng Người. Cách nói của Viễn Phương rất hay và
xúc động: lòng thương tiếc, kính yêu Bác Hồ gắn liền với niềm tự hào của nhân dân ta - nhớ Bác và làm theo Di
chúc của Bác.

Khổ cuối, cảm xúc thơ dồn nén, sâu lắng, làm xúc động lòng em. Lời hứa thiêng liêng của nhà thơ đối
với hương hồn Bác trước khi trở lại miền Nam thật vô cùng chân thành. Câu mở đầu nhà thơ viết: "Con ở miền
Nam ra thăm lăng Bác"... đến đây, anh lại nghẹn ngào nói: "Mai về miền Nam thương trào nước mắt"... Biết bao
lưu luyến, buồn thương! Ra về trong muôn dòng lệ "thương trào nước mắt". Xúc động tột cùng, nhà thơ muốn
hóa thân làm "con chim hót", làm "đóa hoa tỏa hương", làm "cây tre trung hiếu" để được đền ơn đáp nghĩa, để
được mãi mãi sống bên Người. Ba lần nhà thơ nhấc lại hai chữ "muốn làm" như thế giọng thơ trở nên thiết tha,
cảm động. Những câu thơ của Viễn Phương vừa giàu hình tượng vừa dào dạt biểu cảm, đã khơi gợi trong tâm
hồn em bao tình thương tiếc và biết ơn vô hạn đối với Bác Hồ kính yêu. Trong câu thơ của Viễn Phương tuy có
tiếng khóc nhưng không làm cho chúng ta bi lụy, yếu mềm, trái lại, nó đã nâng cánh tâm hồn chúng ta:

Xin nguyện cùng Người vươn tới mãi

Vững như muôn ngọn dải Trường Sơn" (Bác ơi - Tố Hữu)

Ai cũng cảm thấy phải sống xứng đáng, phải sống đẹp để trở thành "cây tre trung hiếu" của đất nước
quê hương:
- 34 -
Mai về miền Nam, thương trào nước mắt,

Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác,

Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây,

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.

"Cây tre trung hiếu" là một hình ảnh ẩn dụ đầy sáng tạo, thể hiện đạo lí sáng ngời của con người Việt
Nam tận trung với nước, tận hiếu với dân, đời đời trung thành với sự nghiệp cách mạng của Bác.

Bác Hồ đã đi xa, nhưng hình ảnh Bác, sự nghiệp cách mạng và công đức của Bác vẫn sống mãi trong tâm
hồn dân tộc. Bài thơ của Viễn Phương đã thể hiên rất hay và chân thành tình cảm của hàng triệu con người Việt
Nam đối với lãnh tụ Hồ Chí Minh.

Đề 4: Truyện Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng đã thể hiện thật cảm động tình cha con
sâu nặng và cao đẹp trong cảnh ngộ éo le của chiến tranh.
( Theo Ngữ văn 9, tập 1, trang 202, Nxb Giáo dục Việt Nam 2013)
Hãy phân tích đoạn trích đã học trong truyện Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng để
làm sáng tỏ ý kiến trên.

Nguyễn Quang Sáng quê ở An Giang, ông hầu như chỉ viết về cuộc sống và con người Nam Bộ .“Chiếc
lược ngà” là một tác phẩm tiêu biểu của ông. Bằng việc sáng tạo tình huống bất ngờ mà tự nhiên, hợp lý, truyện
đã thể hiện thật cảm động tình cha con sâu nặng và cao đẹp của cha con ông Sáu trong cảnh ngộ éo le của chiến
tranh.
Trong chiến tranh, con người phải chịu nhiều mất mát, thiệt thòi, hy sinh về tình cảm gia đình. Ông Sáu
xa nhà đi kháng chiến khi con gái đầu lòng mới tròn một tuổi . Sau tám năm xa cách ông mới có dịp trở về thăm
nhà, nhưng trớ trêu thay, Thu không nhận ông là ba. Phút đầu gặp gỡ, Thu ngờ vực, lảng tránh,thậm chí còn sợ
hãi bỏ chạy vì : “vết thẹo bên má phải cứ mỗi khi anh xúc động thì nó lại đỏ ửng lên, giật giật trông rất dễ sợ ”.
Trong những ngày ông Sáu ở nhà, Thu cương quyết không nhận ông là cha mặc dù ông đã tìm mọi cách để gần
gũi,v ỗ về cô bé. Có những lúc, lâm vào thế bí, nó cũng chỉ nói trổng: “Vô ăn cơm”, “cơm sôi rồi,chắt nước
giùm cái” , “cơm sôi rồi, nhão bây giờ”… Trong bữa cơm, ông Sáu âu yếm gắp cho con miếng trứng cá to,
không ngờ bé phản ứng một cách quyết liệt: “bất thần hắt miếng trứng cá ra khỏi bát làm cơm bắn tung toé cả ra
mâm”. Bị ông Sáu đánh vào mông, Thu bỏ về nhà ngoại và còn “cố ý làm cho dây lòi tói khua rổn rảng ”…Sự
ương ngạnh, bướng bỉnh của Thu không hoàn toàn đáng trách bởi em còn quá nhỏ để hiểu được sự éo le, khắc
nghiệt trong hoàn cảnh xa cách của chiến tranh và những người lớn trong gia đình cũng chưa kịp chuẩn bị cho
em đón nhận những khả năng bất thường đó. Em không nhận ông Sáu là cha vì ông có vết thẹo dài trên má
không giống bức hình chụp chung với má mà em biết. Điều đó chứng tỏ tình cảm của Thu dành cho ba thật sâu
sắc.- Em chỉ bộc lộ tình yêu sâu sắc của mình với ba khi biết chắc đó là ba .

Buổi sáng cuối cùng trước khi ông Sáu lên đường, thái độ của Thu đột ngột thay đổi. Trong đêm bỏ về nhà
ngoại Thu đã được bà giải thích về vết thẹo. Bé hiểu ra, ân hận và hối tiếc vô cùng: “nghe bà kể , nó nằm im lăn
lộn và thỉnh thoảng lại thở dài như người lớn”. Phút chia tay “vẻ mặt nó sầm lại buồn rầu, cái vẻ buồn trên
gương mặt ngây thơ của con bé trông thật dễ thương”. Khi ông Sáu nhìn con để chào từ biệt, “đôi mắt mênh
mông của con bé bỗng xôn xao” tình cha con bị dồn nén bấy lâu chợt bùng lên mạnh mẽ, hối hả,cuống quýt. Nó
thét lên gọi ba“tiếng kêu của nó như tiếng xé, xé sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người, nghe thật xót xa”.
Hành động của Thu cũng thay đổi “nó nhảy thót lên, dang cả hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó. Nó hôn ba nó cùng
khắp, hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả vết thẹo dài trên má của ba nó nữa”…Tất cả những hành động,thái độ
đó của Thu đều bắt nguồn từ tình cảm dành cho người ba mà bé hằng yêu kính, tôn thờ và không ai có thể thay
thế được. Tình cảm của Thu thật mạnh mẽ, sâu sắc và cũng dứt khoát, rạch ròi. Ở Thu có nét cứng cỏi đến ương
ngạnh nhưng vẫn có nét ngây thơ, hồn nhiên của con trẻ. Bằng tâm hồn nhạy cảm, một trái tim nhân hậu và tấm
lòng chan chứa yêu thương đối với trẻ em, Nguyễn Quang Sáng dường như đã cảm nhận đến tận cùng những
biểu hiện tình cảm của nhân vật để miêu tả một cách sinh động và tinh tế .
Nhân vật chính thứ hai trong tác phẩm là nhân vật ông Sáu. Tình cảm của ông đối với con gái nhỏ được biểu
hiện phần nào trong chuyến về thăm nhà. Khi xuồng chưa kịp cập bến, trông thấy con ông đã vội vàng “nhảy lên
- 35 -
bờ, khom người, hai tay đưa về phía trước, miệng lắp bắp : “ba đây con ! ba đây con.” Những tưởng bé Thu sẽ
ào tới, ôm lấy cổ ba cho thoả những tháng ngày xa cách. Nhưng không, ông hẫng hụt, bất ngờ khi thấy: “bé tròn
mắt ngơ ngác nhìn rồi sợ hãi bỏ chạy ”. Thời gian ở nhà không nhiều nên ông Sáu không đi đâu xa, suốt ngày
chỉ tìm cách gần gũi, vỗ về con, mong con gọi một tiếng ba mà không được. Có lúc giận quá ông đã đánh con.
Lúc chia tay tình yêu mãnh liệt của bé Thu khiến ông cảm động “một tay ôm con,tay kia lấy khăn chấm nước
mắt ”. Cảm động và đau đớn hơn khi biết rằng đây là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng anh được nghe tiếng
ba thân thương từ cô con gái nhỏ, bởi vì sau đó, chẳng bao giờ anh có thể trở về được nữa! Trong những ngày ở
khu căn cứ, anh ân hận vì đã trót đánh con. Nhớ lời con dặn, khi kiếm được một khúc ngà anh vui mừng như trẻ
nhỏ “mặt anh hớn hở như một đứa trẻ được quà”. Những ngày sau đó bao nhiêu tình cảm yêu quí,nhớ thương
con anh dồn cả vào việc làm cây lược. Anh cặm cụi “cưa từng răng lược, anh còn khắc lên đó dòng chữ nhỏ
“Yêu nhớ tặng Thu con của ba”…Những lúc nhớ con anh mang cây lược ra mài lên tóc mình cho cây lược thêm
óng mượt : “Cây lược ngà ấy chưa chải được mái tóc dài của con nhưng nó như gỡ rối được phần nào tâm trạng
của anh”. Có lẽ những lúc ấy anh mong có một lần về phép thăm nhà để anh tự tay mình cầm cây lược chải tóc
cho con …Đau đớn thay chiến tranh khiến anh chẳng bao giờ có thể trở về bên con gái anh được nữa. Anh bị hy
sinh trong một trận càn. Trước lúc hy sinh, “dường như chỉ có tình cha con là không thể chết”, anh cầm cây lược
trao cho bạn với niềm mong mỏi không còn có thể cất được thành lời. Từ lúc ấy, cây lược bằng ngà đã trở thành
kỷ vật, thành biểu tượng thiêng liêng của tình phụ tử. Những dòng cuối cùng của truyện khép lại trong nỗi buồn
mênh mông mà chứa chan ý nghĩa nhân văn sâu sắc.

Chủ đề của chuyện không mới lạ, nhưng tác giả thành công bởi đã khai thác tình cha con trong những
tình huống éo le cảm động. Cách lựa chọn ngôi kể, tạo lập tình huống bất ngờ mà tự nhiên, hợp lý cùng với việc
miêu tả diễn biến tâm lý nhân vật tinh tế, sâu sắc đặc biệt là tâm lý trẻ thơ đã giúp truyện có được vị trí riêng
trong lòng độc giả. Câu chuyện về chiếc lược bằng ngà không chỉ nói lên tình cha con sâu nặng thắm thiết mà
còn gợi cho người đọc suy ngẫm và thấm thía những mất mát đau thương mà chiến tranh đã gây ra cho bao
nhiêu gia đình. Bởi vậy mà em càng thêm trân trọng cuộc sống hoà bình mà chúng ta đang có hôm nay .

Đề 5: Nhận xét về truyện ngắn “Bến quê” của Nguyễn Minh Châu, có ý kiến cho rằng: “Bến
quê” là một truyện ngắn đặc sắc, chứa đựng những chiêm nghiệm, triết lí về đời người được thể
hiện bằng tình huống truyện độc đáo và nhiều hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng."
Em hãy làm sáng tỏ nhận định trên qua truyện ngắn “Bến quê”.
Nguyễn Minh Châu là cây bút xuất sắc có nhiều trăn trở, tìm tòi, thúc đẩy công cuộc đổi mới văn học VN
hiện đại. Nhiều truyện ngắn viết sau 1975 của ông đã gây xôn xao, được xem là hiện tượng nổi bật của văn học
thời kì đổi mới. Truyện ngắn Bến quê là một tác phẩm xuất sắc, thông qua các tình huống có tính nghịch lý,
những chi tiết sinh hoạt đời thường, nhà văn muốn đưa đến cho người đọc những triết lý giản dị mà sâu sắc,
mang tính trải nghiệm, có ý nghĩa tổng kết về cuộc đời.
Nhĩ - nhân vật chính của truyện đã từng làm công việc mà nhờ đó anh có điều kiện đi khắp nơi, không sót
một xó xỉnh nào trên trái đất. Tác giả không cho chúng ta biết rằng trước khi lâm bệnh Nhĩ làm nghề gì, địa vị
xã hội ra sao nhưng bằng vào chi tiết Nhĩ được đi khắp nơi trên thế giới, có thể đoán định được anh là một
người có vị trí công việc quan trọng. Nhưng chính cái thời gian Nhĩ ốm liệt giường mới là quãng thời gian quan
trọng, có ý nghĩa lớn hơn cả so với cả một đời bôn ba và những chuyến đi liên tiếp đến mọi chân trời xa lạ.
Giờ đây bị cột chặt vào giường bệnh bởi một căn bệnh hiểm nghèo đến nỗi không thể tự mình dịch
chuyển lấy vài mươi phân trên chiếc giường hẹp, anh phát hiện ra cái không gian trước mắt không quá một tầm
nhìn từ cửa sổ nhà anh mà lại xa lạ đến mức tự trách sao mình chưa đặt chân đến đó bao giờ. Một nỗi khao khát
khó hiểu đã đến với anh: anh muốn đi đến cái không gian ấy nhưng không thể thực hiện được nên đã nhờ Tuấn
– đứa con trai học đại học tại một thành phố phía Nam vừa mới nghỉ hè trở về – thay anh đặt bước chân qua bến
sông.
Từ lúc đứa con trai lộp bộp đôi dép sa bô xuống thang gác, anh hồi hộp, gắng gom góp sức tàn để theo dõi
con đò mỗi ngày một chuyến đang tách khỏi bãi bồi bên kia để sang bên này và anh cũng kịp nhận ra rằng,
thằng Tuấn con anh đã chậm chân vì mải sa vào một đám người chơi phá cờ thế trên hè phố. Thời gian được anh
tính từng cái tích tắc, thế mà thằng Tuấn có hiểu được anh đâu. Nhưng làm sao nó hiểu được khi chưa đối diện
với sự ngắn ngủi nghiệt ngã của thời gian như anh. Anh “nghĩ một cách buồn bã, con người ta trên đường đời
thật khó tránh khỏi được những cái điều vòng vèo hoặc chùng chình, vả lại nó đã thấy có gì đáng gọi là hấp dẫn
ở bên kia sông đâu? Hoạ chăng chỉ có anh là người từng trải, đã từng in gót chân khắp mọi chân trời xa lạ mới
nhìn thấy hết vẻ giàu có lẫn mọi vẻ đẹp của một bãi bồi sông Hồng ngay bờ bên kia, cả trong những nét tiêu sơ,
và cái điều riêng anh khám phá thấy giống như một niềm mê say pha lẫn với nỗi ân hận đau đớn, bởi lẽ không
- 36 -
bao giờ giải thích hết.”
Nhĩ đã phát hiện vùng đất bên kia sông, nơi bến quê quen thuộc, một vẻ đẹp bình dị mà hết sức quyến rũ.
Đó là cái bãi bồi bên kia sông lúc này đang phô ra trước khuôn cửa sổ của gian gác nhà Nhĩ một thứ màu vàng
thau xen với màu xanh non - những sắc màu thân thuộc như da thịt, hơi thở của đất màu mỡ.
Không gian và những cảnh sắc ấy vốn quen thuộc, gần gũi, nhưng lại như rất mới mẻ với Nhĩ, tưởng như
lần đầu tiên anh cảm nhận được tất cả vẻ đẹp và sự giàu có của nó. Nhĩ cũng hiểu rằng mình sắp giã biệt cõi đời,
trong anh bừng dậy một niềm khao khát vô vọng, nhỏ bé mà lại trở nên quá lớn lao, xa vời mà giờ đây Nhĩ chỉ
chỉ tưởng tượng chứ không thể thực hiện được.
Điều ước muốn ấy chính là sự thức tỉnh về những giá trị bền vững, bình thường và sâu xa của cuộc sống.
Những giá trị bình thường ấy thường bị người ta bỏ qua, lãng quên, nhất là lúc còn trẻ, khi nhưng ham muốn xa
vời đang lôi cuốn con người tìm đến.
Sự nhận thức này chỉ đến được với người ta khi con người đã từng trải, Nhĩ đang ở những phút cuối đời,
đang nằm liệt trên giường bệnh, mới thức tỉnh về điều đó có xen với niềm ân hận xót xa mà không thể nào giải
thích được. Một con người đã từng đi khắp mọi chân trời xa lạ giờ đây mới nhìn thấy hết sự giàu có lẫn vẻ đẹp
của cái bãi bồi bên sông ngay trước cửa sổ nhà anh.
Hoàn cảnh của Nhĩ bệnh tật hiểm nghèo kéo dài, phải nằm liệt một chỗ, mọi sự đều phải trông cậy vào sự
chăm sóc của vợ con. Trong cái buổi sáng hôm đó Nhĩ nhận ra rằng thời gian của đời mình chẳng còn bao lâu
nữa. Lúc này anh mới nhận ra tình yêu thương sự tần tảo và đức hi sinh thầm lặng của Liên, vợ anh. Anh thoáng
ân hận về sự vô tình của mình đối với vợ. Lần đầu tiên Nhĩ để ý thấy Liên mặc tấm áo vá, những ngón tay gầy
guộc âu yếm vuốt ve bên vai của anh. Liên đã nói những lời chân thành: “miễn là anh sống luôn luôn có mặt
anh, tiếng nói của anh trong gian nhà này… ”.Chưa bao giờ Nhĩ nghe rõ những tiếng bình dị, thân thương như
thế. Liên như là hiện thân của cái bến quê mà Nhĩ đã từng không nhận ra. Nhĩ nhìn thấy tấm áo vá của vợ khi
anh đã nhận thức được giá trị của cái gần gũi, bình dị. Sự tần tảo, chịu đựng hi sinh ở Liên cũng là vẻ đẹp của
người phụ nữ Việt Nam nói chung.
Cảm thức mỗi ngày trôi qua với anh thật dài dằng dặc: “Hôm nay đã là ngày thứ mấy rồi em nhỉ?” - “Anh
cứ yên tâm. Vất vả, tốn kém đến bao nhiêu em với các con cũng chăm lo cho anh được”.
Trong cảm thức của anh, thời gian còn lại thật vô cùng ngắn ngủi, không gian tâm lí diễn ra trong cái nhỏ
hẹp của tấm phản, căn phòng, khung cửa sổ. Bến sông quê cạnh nhà gần gũi thế nhưng sao mà xa cách trong
tâm thế phát hiện lần đầu với nỗi vô vọng bất lực của nhân vật. Nó là không gian hiện lên trong sự đối sánh đầy
chất đối nghịch với không gian tạo bởi cái nhìn xa vào tương lai và niềm tin để an ủi: “– Anh cứ tập tành và
uống thuốc cho đều. Sang tháng mười nhất định anh đi lại được; – Vậy thì đầu hoặc giữa tháng mười một, anh
sẽ đi Thành phố Hồ Chí Minh một chuyến; hoặc “nếu tiến triển tốt hơn, em có thể đỡ anh men cầu thang bước
xuống một bậc…hoặc giả anh lại khoẻ hơn, chúng mình có thể bước xuống hai bậc; – Ừ , tưởng gì…nhất định
đầu tháng mười anh sẽ đi ra được đến đầu cầu thang…”
Bến quê theo ý nghĩa đó là một nhận thức sáng ngời của nhân vật về đường đời và cuộc đời. Nhưng thật oái
oăm chính khi anh thức nhận ra được chân lí ấy thì anh lại không còn khả năng để thực hiện. Đó là sự bất lực
của thực tiễn trước khát vọng đẹp đẽ lành mạnh như một yêu cầu tất yếu. Người đọc trân trọng Bến quê, trân
trọng những suy ngẫm, trải nghiệm sâu sắc của nhà văn về con người và cuộc đời, thức tỉnh ở mọi người hãy
trân trọng những vẻ đẹp và giá trị bình dị, gần gũi của gia đình của quê hương. Với Nhĩ lúc này, gia đình là bến
tình thương, bến hạnh phúc. Nhĩ đã tìm thấy được nơi nương tựa là gia đình trong những ngày này.
Ấn tượng khi đọc Bến quê của Nguyễn Minh Châu là ấn tượng về một cái gì đó như là đứng trước “mấy
bông hoa cuối cùng còn sót lại trở nên đậm sắc hơn”. Có cái gì xót xa trong cái màu đậm sót lại kia. Có điều
khác thường khi ham muốn cuối cùng của một đời người chỉ là nhờ con sang bến sông ngay bên nhà
mình: “Bây giờ con sang bên kia hộ bố... Chẳng để làm gì cả… Con hãy qua đò đặt chân lên bờ bên kia, đi chơi
loanh quanh rồi ngồi xuống nghỉ chân ở đâu đó một lát, rồi về".
Có những sự thực vẫn tồn tại như nghịch lí. Tình huống tự sự của Bến quê, trước hết, độc đáo ở điểm này.
Một con người "đã từng đi tới không sót một xó xỉnh nào trên trái đất" khi lâm bệnh nặng không thể đi được
nữa mới chợt nhận ra "một chân trời gần gũi, mà lại xa lắc vì chưa hề bao giờ đi đến - cái bờ bên kia sông
Hồng ngay trước cửa nhà mình". Khi có thể tới được Bến quê một cách dễ dàng thì không nghĩ tới, không tới;
khi không thể tới được thì lại "say mê", "ham muốn" - đó là nghịch lí.
Ngịch lí ấy nói lên một sự thật là: có khi, cái người ta mơ ước, khát khao, cái người ta không thể có
không phải điều gì to tát, lớn lao mà lại là những điều hết sức nhỏ bé, thường tình. Người ta vươn tới chính
những giá trị bình dị. Mảnh đất mơ ước ở ngay bến sông quê đây thôi.
Suốt đời Nhĩ cũng đã từng chơi phá cờ thế trên nhiều hè phố, thật là không dứt ra được". Cả đời Nhĩ đã
nhỡ chuyến đò ấy, giờ đây đứa con không hiểu được ước muốn của cha, không thể hiểu được đằng sau cái mong
muốn "kì quặc" của người cha sắp từ giã cõi đời là cả một câu chuyện mang ý nghĩa triết lí cuộc đời. Giống như
- 37 -
Nhĩ đã từng chưa bao giờ nghĩ tới mảnh đất bến quê sông Hồng kề cạnh nhà mình. Vì vậy anh con trai của Nhĩ
đã làm một cách miễn cưỡng và rồi lại bị cuốn hút vào trò chơi phá cờ thế hấp dẫn nó gặp trên đường đi, để rồi
có thể lỡ chuyến đò sang ngang duy nhất trong ngày. Điều khát khao của anh đang bị trì hoãn, chính điều này
làm cho anh thêm trĩu nặng suy tư và cả sự đau đớn.
Trong sự lo lắng, khắc khoải vốn thường trực của một người đang sống những giờ phút cuối cùng, Nhĩ đã
ngẫm ra: "con người ta trên đường đời thật khó tránh được những cái điều vòng vèo hoặc chùng chình, vả lại
nó đã thấy có cái gì hấp dẫn ở bên kia sông đâu? Hoạ chăng chỉ có anh đã từng trải, đã từng in gót chân khắp
mọi chân trời xa lạ mới nhìn thấy hết sự giàu có lẫn mọi vẻ đẹp của một cái bãi bồi sông Hồng ngay bờ bên kia,
cả trong những nét tiêu sơ, và cái điều riêng anh khám phá thấy giống như một niềm mê say pha lẫn với nỗi ân
hận đau đớn, lời lẽ không bao giờ giải thích hết".
Người ta khó có thể làm lại được những gì thuộc về quá khứ, không thể đi lại những chuyến đò đã nhỡ.
Cái bến quê rất gần, và không khó khăn gì để đến đó, nhưng nếu cứ mắc vào cái mớ "chùng chình" thế cuộc rất
có thể ta sẽ không bao giờ đến được. Từ sự việc ấy, Nhĩ đã nghiệm ra được cái quy luật phổ biến của đời
người: ”Con người ta trên đường đời thật khó tránh được những cái điều vòng vèo hoặc chùng chình”.
Ở cuối truyện, khi thấy con đò ngang vừa chạm mũi vào bờ đất bên này sông, Nhĩ đã thu hết tàn lực dồn
vào một cử chỉ có vẻ kì quặc : “Anh đang cố thu nhặt hết mọi chút sức lực cuối cùng còn sót lại để đu mình nhô
người ra ngoài giơ một cánh tay gầy guộc ra phía ngoài cửa sổ khoát khoát – y như đang khẩn thiết ra hiệu cho
một người nào đó ”. Hành động cuối cùng này của Nhĩ có thể hiểu là anh đang nôn nóng thúc giục cậu con trai
hãy mau kẻo lỡ chuyến đò duy nhất trong ngày. Nhưng hình ảnh này còn gợi ra ý nghĩa khái quát hơn: Đó là ý
muốn thức tỉnh mọi người về những cái vòng vèo, chùng chình mà chúng ta đang sa vào trên đường đời để dứt
ra khỏi nó, để hướng tới những giá trị đích thực, vốn rất giản dị, gần gũi và bền vững.
Tạo ra một chuỗi những tình huống nghịch lí như trên, tác giả muốn lưu ý người đọc đi đến một nhận
thức về cuộc đời: cuộc sống và số phận con người chứa đầy những điều bất thường, những nghịch lí, ngẫu
nhiên, vượt ra ngoài những dự định và ước muốn, những hiểu biết và toan tính của con người. Những ý nghĩa
của tình huống nghịch lý nói trên không dừng ở đó, nó còn là những tổng kết mang tính trải nghiệm của cả đời
người mà chỉ khi sắp giã biệt cuộc đời, ta mới cảm nhận thấm thía.
(Kết bài 1) Tác phẩm đem đến cho người đọc những cảm nhận thấm thía về bến quê. Đó là những gì thân
thiết với mỗi người, là bông hoa bằng lăng, là chuyến đò ngang, là bãi bồi, là những người thân yêu trong gia
đình và những hàng xóm tốt bụng, thân thuộc … Đó là những giá trị bình thường mà bền vững. Từ đó tác giả
đem đến một thông điệp: hãy giữ gìn và trân trọng bến quê bình dị của mỗi người.
(Kết bài 2) Bến quê là truyện ngắn thấm đẫm ý vị triết lí về con người và cuộc đời, là bài học về tình yêu và
lẽ sống được đặt ra một cách cảm động. Phải biết nâng niu, trân trọng vẻ đẹp và giá trị bình dị, thân thuộc của
cuộc sống, của quê hương
Đề 6: Phát biểu cảm nghĩ của em về nhân vật Phương Định trong tác phẩm "Những ngôi sao xa
xôi" của Lê Minh Khuê.
Lê Minh Khuê là một trong những nhà văn thuộc thế hệ những nha văn bắt đầu sáng tác trong thời kì
kháng chiến chống Mĩ.Với tài năng và sự tìm tòi của mình bà đã sớm gặp được những thành công vang dội về
mảng đề tài của thanh niên xung phong hoạt động trên tuyến đường Trường Sơn.Bà đã để lại một khối lượng tác
phẩm lớn với tầm ảnh hưởng lớn .Trong số đó thì tác phẩm “Những ngôi sao xa xôi” là một trong những tác
phẩm sáng giá nhất.Trong tác phẩm thì nhân vật Phương Định là một nhân vật giành được nhiều tình cảm của
tác giả bởi vẻ đẹp tâm hồn cùng ngoại hình và sự dũng cảm kiên cường không sợ bất kì gian khó hiểm nguy
nào.
Phương Định còn là cô gái có hình thức đẹp. Chị không tự nói nhiều về mình nhưng qua mấy lời tự kể,
người đọc có thể hiểu vì sao cánh pháo thủ, lái xe hay trêu đùa, nhắn nhe, thăm hỏi, gửi thư cho chị mặc dù ngày
nào cũng nhìn thấy nhau: “Tôi là một cô gái khá. Hai bím tóc dày, tương đôi mềm, một cái cổ cao, kiêu hãnh
như đài loa kèn. Còn mắt tôi thì các anh bảo: cô có cái nhìn sao mà xa xăm.r. Là người được các anh chiến sĩ
quan tâm nhiều nhất so với chị em, nhưng Phương Định ít săn sóc, vồn vã với họ, mà thường đứng xa, khoanh
tay trước ngực, nhìn đi nơi khác, môi mím chặt.
Phương Định giả vờ điệu đà vậy thôi nhưng trong lòng chị luôn yêu quý họ và thấy: “Những người đẹp
nhất, thông minh nhất, can đảm, cao thượng nhất là những người mặc quân phục, có ngôi sao trên mũ”. Điều
này cho thấy, Phương Định là cô gái hồn nhiên, trong sáng, kín đáo, sống có lí tưởng, biết đặt nhiệm vụ chung
trên tình cảm riêng tư, sống hòa mình cùng đồng đội.Nhân vật chính trong truyện còn được người đọc cảm phục
bởi vẻ đẹp khi làm nhiệm vụ cái vẻ mặt bình tĩnh cái dáng vẻ gan dạ đến khó tin của một cô gái trẻ Chị phải
chạy trên cao điểm đánh phá của máy bay địch. Sau mỗi trận bom, chị cùng đồng đội phải lao ra trọng điểm, đo
và ước tính khối lượng đất đá bị bom địch đào xới, đếm những quả bom chưa nổ và dùng những khối thuốc nổ

- 38 -
đặt vào cạnh nó để phá. Đó là công việc mạo hiểm với cái chết luôn gần kề tạo áp lực khiến thần kinh vô cùng
căng thẳng. Thực hiện công việc đó, Phương Định và đồng đội phải rất bình tĩnh và họ đã thực sự bình tĩnh, ung
dung một cách lạ thường. Thậm chí, với họ, công việc ấy đã trở thành bình thường: "Công việc của chúng tôi là
ngồi đây. Khi có bom nổ thì chạy lên, đo khối lượng đất lấp vào hố bom, đếm bom chưa nổ và khi cần thì phá
bom”.
Cuộc sống nơi chiến trường luôn đối mặt với thử thách, nguy hiểm và cái chết đã tôi luyện ở Phương
Định lòng quả cảm, không sợ hi sinh. Tâm lí Phương Định trong một lần phá bom được miêu tả rất cụ thể, tinh
tế đến từng cảm giác. Khung cảnh và không khí chưa đầy sự căng thẳng nhưng Phương Định vẫn có nét tâm lí
rất con gái, cảm giác: “Có ánh mắt các chiến sĩ dõi theo mình” để rồi sự dũng cảm ở cô như được kích thích bởi
lòng tự trọng: “Tôi đến gần quả bom,… tôi không sợ nữa. Tôi sẽ không đi khom. Các anh ấy không thích cái
kiểu đi khom khi có thể cứ đường hoàng mà bước tới”. Ở bên quả bom, cận kề với cái chết im lìm và bất ngờ,
từng cảm giác của con người cũng trở nên sắc nhọn: “Thỉnh thoảng lưỡi xẻng chạm vào quả bom. Một tiếng
động sắc đến gai người, cứa vào da thịt tôi. Tôi rùng mình và bỗng thấy tại sao mình làm quá chậm. Nhanh lên
một tí! Vỏ quả bom nóng. Một dấu hiệu chẳng lành”. Tiếp đó, là cái giây phút căng thẳng chờ đợi tiếng nổ của
quả bom. Phương Định có nghĩ đến cái chết nhưng là “một cái chết mờ nhạt, không cụ thể”, còn cái chính vẫn
là: “liệu mìn có nổ, bom có nổ không?”. Đây là một trách nhiệm rất cao trong công việc, là lòng dũng cảm vô
song. Có thể khẳng định rằng: Phương Định và những đồng đội của cô thực sự là những người anh hùng, nhưng
là những anh hùng mà không tự biết. Chính điều đó, khiến cho nhân vật Phương Định trở nên đáng mến. Sau
những giây phút căng thẳng ở cao điểm, xong việc là thở phào chạy vào hàng, là sà ngay vào một thế giới khác
– thế giới con gái với những mơ mộng: nằm dài trên nền ẩm, lười biếng nheo mắt nghe ca nhạc từ cái đài bán
dẫn nhỏ, có thể nghe, có thể nghĩ ngợi lung tung… Phương Định mê hát và thích nhiều bài hát: những bài hành
khúc bộ đội hay hát trên những ngả đường mặt trận; thích dân ca quan họ mềm mại, dịu dàng; thích Ca-chiu-sa
của hồng quân Liên Xô; thích ngồi bó gối mơ màng trước lời bài hát dân ca Ý trữ tình… Thích hát, Phương
Định còn bịa ra lời mà hát, ngồi dựa vào thành đá và khe khẽ hát. Rõ ràng, thích hát là nét tâm lí của thời đại –
cái thời tiếng hát át tiếng bom, nhưng đây cũng là nét cá tính ở Phương Định hé lộ vẻ đẹp phong phú của tâm
hồn. Trong tiếng hát, có ý thức về lý tưởng, có khao khát về quê hương, tình yêu của tuổi trẻ và có cả khát vọng
được trở về cuộc sống thanh bình. – Ở Phương Định nét đẹp còn được ngời sáng trong tình đồng đội thắm thiết.
Cô luôn yêu thương trìu mến và quan tâm đến đồng đội. Cô lo lắng cho chị Thao và Nho lên cao điểm chưa về
đến nỗi “nói như gắt vào máy” khi đại đội trưởng hỏi tình hình. Cô hiểu chị Thao và Nho như biết về những chị
em ruột thịt. Đó là chị Thao sợ máu và vắt nhưng khi chiến đấu lại rất dũng cảm. Trong cuộc việc, ai cũng gờm
chị bởi sự bình tĩnh, cương quyết, táo bạo. Với Nho, cô em út của tổ trinh sát thì Phương Định rất muốn bế trên
tay. “trông nói nhẹ mát như một que kem trắng. Biết bao trìu mến, yêu thương trong cái nhìn ấy. Khi Nho bị
thương, cô vỗ về và chăm sóc như một người y tá: “moi đất, bế Nho đặt lên đùi”,”rửa cho Nho bằng nước đun
sôi trên bếp than”,”tiêm cho Nho” rồi “pha sữa trong cái ca sắt…”. Đặc biệt, cô dành tình yêu và niềm cảm phục
cho tất cả những chiến sĩ mà cô gặp ngày đêm trên con đường ra mặt trận. Với cô “những người đẹp nhất, thông
minh, cam đảm và cao thượng nhất là những người mặc quân phục có ngôi sao trên mũ”.
Tình đồng chí đồng đội của Phương Định thật thiêng liêng, cao cả và đáng quý! Chính điều đó đã tiếp
thêm sức mạnh cho cô để cô hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình. Vẻ đẹp tâm hồn Phương Định ngời sáng nhất
khi cơn mưa đá bất ngờ ập đến. Chỉ một cơn mưa đá mà bao ngột ngạt, căng thẳng, hiểm nguy của chiến trường
tan biến, để nhường chỗ cho niềm vui con trẻ òa nở, cuống cuồng:” Mưa đá!Cha mẹ ơi!Mưa đá!”. Chỉ một trận
mưa đá vụt đi qua cũng đánh thức ở Phương Định rất nhiều kỉ niệm và nỗi nhớ về thành phố, quê hương, về gia
đình, về tuổi thơ thanh bình của mình.
Sau cái say sưa của niềm vui con trẻ là nỗi nhớ da diết khôn nguôi. Nhớ rất nhiều: người mẹ, cái cửa sổ
ngôi nhà, những ngôi sao to trên bầu trời thành phố, cái cây, vòm trời của nhà hát, bà bán kém và đám trẻ háo
húc vây quanh; con đường nhựa sau cơn mưa, những ngọn đèn trên quảng trường lung linh như những ngôi sao
trong truyện cổ tích nói về xứ sở thần tiên… Tất cả vừa rõ ràng, vừa mờ ảo; vừa đồng hiện, vừa vụt hiện trong
tâm trí; vừa gần gũi, vừa xa xôi. Những hoài niệm làm dịu cơn khát, những cơn khát cháy lòng, những hi vọng
xa xôi. Tất cả ào đến, xoáy mạnh cũng mãnh liệt, dữ dội như con mưa đá. Tất cả làm thành hành trang tâm hồn
của cô thanh niên xung phong, tiếp cho cô sức mạnh, thắp cho cô niềm tin và tỏa sáng vẻ đẹp của người chiến sĩ
Trường Sơn, của những ngôi sao xa xôi.
Tác phẩm “những ngôi sao xa xôi”của Lê Minh Khuê đã để lại trong chúng ta những hình ảnh thật đẹp biết
bao.Đọng lại trong chúng ta chính la một người con gái hồn nhiên yêu đời và không hề sợ mọi khó khăn gian
khổ trên đời,cô gái ấy thật dũng cảm và một phong cách tốt đẹp của thế hệ trẻ thanh niên Việt Nam
Đề 7: Suy nghĩ về nhân vật Phương Định trong tác phẩm “Những ngôi sao xa xôi” của Lê minh
Khuê
- 39 -
Viết về người lính và chiến tranh là nguồn cảm hứng của rất nhiều nhà thơ, nhà văn.Với Phạm Tiến Duật,ta
được đến với sự trẻ trung,ngang tàng của các chiến sĩ Trường Sơn qua “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”.Gặp
“Khoảng trời hố bom” của Lâm Thị Mỹ Dạ,ta lại bắt gặp những cô gái mở đường không tiếc thân mình “đánh
lạc hướng thù hứng lấy luồng bom”.Và đến với “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê ta lại không khỏi
thán phục trước tinh thần dũng cảm, tình đồng đội nồng ấm, tâm hồn lạc quan trong sáng của ba nữ thanh niên
xung phong mà đề lại ân tượng sâu sắc nhất trong em là Phương Định.
Phương Định cùng Nho và Thao – những cô gái thanh niên xung phong sống trên cao điểm mênh mông
khói bụi Trường Sơn và bom đạn hủy diệt của kẻ thù.Công việc của chị và đồng đội trong tổ chinh sát mặt
đường là “đo khối lượng đất đá lấp hố bom,đếm bom chưa nổ và nếu cần thì phá bom” để bảo vệ con đường cho
những đoàn xe băng về phía trước,góp phần vào sự nghiệp giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.Công việc
của chị thật vinh quang nhưng cũng đầy hi sinh gian khổ.Song chính hoàn cảnh gian khó hiểm nguy ấy đã làm
cho chúng ta cảm nhận được những phẩm chất đáng quý của chị.
Cảm nhận đầu tiên về nhân vật Phương Định là vẻ đẹp của tinh thần dũng cảm,thía độ bình tĩnh vượt lên
mọi hiểm nguy. Hằng ngày,chị thường xuyên phải chạy trên cao điểm bị bom đạn cày nát mà còn ẩn dấu những
quả bom chưa nổ. Điều đó cũng có nghĩa chị luôn phải đối mặt với thần chết.Mỗi ngày, chị phải phá từ 3-5 lần
bom, nguy hiểm là vậy nhưng chị vẫn bình thản thậm chí còn thấy thú vị dù trên mình còn có vết thương chưa
lành miệng. Cứ mỗi lần phá bom,đất rắn,tiếng xẻng va chạm vào cỏ quả bom nghe sắc lạnh đến ghê người.
Ngay cả lúc ấy,chị vừa trách vừa nhắc nhở mình “phải nhanh hơn chút nữa”,nếu không vỏ quả bom nóng lên
hoặc nóng từ bên trong quả bom hay nóng do mặt trời khi đó sẽ rất nguy hiểm”. Xác đinh được tính chất nguy
hiểm ,song với tinh thần dũng cảm cùng tình yêu Tổ quốc,chị đã vượt qua tất cả.Thao tác, tư thế,thái độ bình
tĩnh khi phá bom là vẻ đẹp đáng quý ở Phương Đinh nói riêng và những cô gái trẻ nói chung.Có những lúc, chị
cũng nghĩ đến cái chết nhưng cái chết này mờ nhạt. Còn ý nghĩa cháy bỏng là “ Liệu mìn có nổ.bom có nổ
không? LÀm thế nào để châm mìn lần thứ hai?”Mục đích hoàn thành nhiệm vụ luôn được chị đặt lên trên hết.
Trong chị luôn thường trực tình đồng đội,đồng chí nồng ấm.Tấm long vị tha của chị luôn quan tâm tới
đồng đội.Khi chị Nho và Thao ở trên cao điểm,phải ở nhà trực máy nhưng trong lòng Phương Đinh luôn lo
lắng,sốt ruột,đứng ngồi không yên.Chị lo lắng đến mức chạy ra chạy vào lắng nghe cả tiếng súng hỗ trợ của các
anh bộ đội pháo binh.sự lo lắng ấy khiến chị cáu với cả đội trưởng “Chinh sát chưa về”.Điều đó thể hiện lòng
quan tâm,lo lắng của chị với đồng đội thật sâu sắc.Chị luôn trìu mến,yêu thương bạn bè,chẳng thế mà chị đã
nhận xét về người đồng đội trẻ tuổi-Nho,chị phát hiện ra vẻ dễ thương của Nho “nhẹ,mát mẻ như một que kem
trắng”,chị còn hiểu rất rõ sở thích của bạn,của đồng đội.Chị Thao thích ghi bài hát mặc dù chị hát toàn sai
nhạc,chị ghi tới ba cuốn sổ dày bài hát,chị Thao còn thích tỉa đôi long mày nhỏ như que tăm,chị hiểu được sự
cương quyết,tạo báo nhưng rất đáng gờm trong công việc của chị Thao.Tuy vậy chị Thao rất sợ máu và vắt.Chị
hiểu được ở Nho thích thuê thùa,trên ngực áo của Nho luôn có một bông hoa.Chị còn hiểu được tâm trạng của
đồng đội như khi Nho bị thương,chị Thao thì cuống quýt lên còn Nho lại bình tĩnh,gan dạ.Phương ĐỊnh băng
bó,tiêm thuốc và pha sữa cho Nho.Tình cảm đồng đội,đồng chí là ngọn lửa sưởi ấm lòng,là niềm tin,là động
lực,là nguồn động viên khích lệ các chị thêm vững lòng trên mặt trận đầy gian nguy này.Ngược lại,chị Phượng
Đinhk cũng rất cần sự cổ vũ,động viên của đồng đội.Chị cảm thấy ấm lòng và tự tin hơn khi cảm thấy ánh mắt
dõi theo,khích kệ của các anh chiến sĩ pháo binh.Chị được rất nhiều chiến sĩ cảm mến.Điều đó càng làm tình
đồng đội,đồng chí trong chị thêm sâu đậm biết bao!
Nét nổi bật và cũng là điểm hấp dẫn nhất của Phương ĐInh với người đọc chúng ta là tâm hồn trong
sáng,giàu mơ mộng,là sự hồn nhiên như trẻ thơ của chị.Chị là cô gái Hà Nội vào chiến trường khói lửa,chị vẫn
hay nhớ nhà,nhớ những kỉ niệm tuổi thơ.Chị hay hát,hay cười một mình,ngắm mình trong gương.Chị tự đánh
giá mình là “một cô gái khá”.Chị có cái điệu đà của người Hà Nội nhưng là cái điệu thật đáng yêu vì nó hồn
nhiên và vô cùng chân thực.
Qua nhân vât Phương Định,ta càng hiểu thêm về những vẻ đẹp đáng quý của những cô giá thanh niên
xung phong trên tuyến đường Trường Sơn nói riêng và thế hệ trẻ Việt Nam trong những năm tháng hào hùng
ấy.Âm vang của những câu hát sau sẽ luôn vang vọng trong con người Việt Nam với lòng tự hào đầy trân trọng:
“Cô gái mở đường ra đi cứu nước
Tiếng hát ai vang vọng núi rừng…..”

Đề 8: “Sang thu” của Hữu Thỉnh không chỉ có hình ảnh đất trời nên thơ mà còn có hình tượng
con người trước những biến chuyển của cuộc đời ở thời khắc giao mùa.
Hãy phân tích bài thơ để làm sáng tỏ ý kiến trên.
- 40 -
Khoảnh khắc giao mùa có lẽ là khoảnh khắc đẹp đẽ nhất của tự nhiên ,nó gieo vào lòng người những rung
động nhẹ nhàng khiến ta như giao hoà, đồng điệu .Khi chúng ta chưa hết ngỡ ngàng bởi một Xuân Diệu “tựa
cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì ” thì đã gặp một Hữu Thỉnh tinh tế ,sâu sắc đến vô cùng qua một thoáng “Sang Thu” .
Bài thơ của Hữu Thỉnh không chỉ có hình ảnh đất trời nên thơ mà còn có hình tượng con người
trước những biến chuyển của cuộc đời ở thời khắc giao mùa.
.Không phải là sắc “mơ phai” hay hình ảnh “con nai vàng ngơ ngác” mà là hương ổi thân quen nơi vườn mẹ
đã đánh thức những giác quan tinh tế nhất của nhà thơ : Bỗng nhận ra hương ổi Phả vào trong gió se, Câu thơ có
hương vị ấm nồng của chớm thu ở một miền quê nhỏ .Tín hiệu đầu tiên để tác giả nhận ra mùa thu là “hương
ổi”. Mùi hương quê nhà mộc mạc “phả” trong gió thoảng bay trong không gian .Cảm giác bất chợt đến với nhà
thơ : “bỗng nhận ra” -một sự bất ngờ mà như đã chờ đợi sẵn từ lâu lắm .Câu thơ không chỉ tả mà còn gợi liên
tưởng đến màu vàng ươm , hương thơm lựng , vị giòn, ngọt, chua chua nơi đầu lưỡi của trái ổi vườn quê .Và
không chỉ có thế, cả sương thu như cũng chứa đầy tâm trạng,thong thả, chùng chình giăng mắc trên khắp nẻo
đường thôn : Sương chùng chình qua ngõ Hình như thu đã về . Sương thu đã được nhân hoá ,hai chữ “chùng
chình” diễn tả rất thơ bước đi chầm chậm của mùa thu . Nếu ở câu thơ đầu tiên nhà thơ “bỗng nhận ra” thu về
khá bất ngờ và đột ngột thì sau khi cảm nhận sương thu ,gió thu, thi sỹ vẫn ngỡ ngàng thốt lên lời thầm thì như
tự hỏi :Hình như thu đã về!? Tâm hồn thi sỹ nắm bắt những biến chuyển nhẹ nhàng, mong manh của tạo vật
trong phút giao mùa cũng êm đềm, bâng khuâng như bước đi nhỏ nhẹ của mùa thu .
Không gian nghệ thuật của bức tranh thu được mở rộng hơn ,cái bỡ ngỡ ban đầu vụt tan biến đi nhường
chỗ cho những rung cảm mãnh liệt trước không gian thu vời vợi : Sông được lúc dềnh dàng Chim bắt đầu vội vã
Sông nước đầy nên mới “dềnh dàng” nhẹ trôi như cố tình chậm lại ,những đàn chim vội vã bay về phương nam
…Không gian thu thư thái , hữu tình và chứa chan thi vị , đặc biệt là hình ảnh : Có đám mây mùa hạ Vắt nửa
mình sang thu . Câu thơ giúp ta hình dung về đám mây mỏng nhẹ ,trắng xốp ,kéo dài như tấm khăn voan duyên
dáng của người thiếu nữ thảnh thơi , nhẹ nhàng “ vắt nửa mình sang thu”.Câu thơ có tính tạo hình không gian
những lại có ý nghĩa diễn tả sự vận động của thời gian : thu bắt đầu sang , hạ chưa qua hết , mùa thu vừa chớm ,
rất nhẹ , rất dịu , rất êm , mơ hồ như cả đất trời đang rùng mình thay áo mới …
Khổ thơ thứ ba diễn tả rất rõ sự biến chuyển của không gian và cũng là một thoáng suy tư của nhà thơ
trước cảnh vật, đất trời : Vẫn còn bao nhiêu nắng Đã vơi dần cơn mưa Sấm cũng bớt bất ngờ Trên hàng cây
đứng tuổi . Vẫn là nắng, mưa, sấm, chớp của mùa hạ vương lại đâu đây , song chỉ là “vẫn còn” , “đã vơi dần”, “
cũng bớt bất ngờ” bởi mùa thu đã đến .Ý thơ còn gợi liên tưởng đến con người khi đã lớn tuổi và từng trải thì
những giông gió, thăng trầm của cuộc đời ít làm con người ta bất ngờ, bị động .Những suy tư đó của tác giả có
lẽ đã góp phần làm cho “Sang thu” trở nên giàu ý nghĩa .
Hình ảnh thơ đẹp , ngôn từ tinh tế , giọng thơ êm đềm và những rung động man mác ,bâng khuâng của tác
giả trong buổi giao mùa đã tạo nên một dấu ấn không dễ phai mờ trong lòng bao độc giả. Có lẽ vì vậy mà sau
khi đọc “Sang thu” của Hữu Thỉnh ta càng thấy yêu hơn mùa thu thiết tha, nồng hậu của quê nhà .Có phải chăng
tác giả muốn gởi đến ta một triết lí của cuộc đời con người. Những người khi "sang thu" thì không vòn sôi nổi
như khi còn trẻ, nhưng họ đã từng trải, đã bước qua những thời khắc khó khăn nhất của cuộc đời thì không còn
ngại sóng gió nữa.

Đề 9: Trình bày cảm nhận của em về bài thơ “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương. (Ngữ văn 9 -
tập II)
Bác Hồ mất là một sự kiện lớn làm xúc động muôn triệu trái tim Việt Nam và thế giới, làm cảm động
cả đát trời: “ Trời tuôn nước mắt, đời tuôn mưa”. Hầu như nhà thơ nào cũng làm thơ khóc Bác, viếng Bác.
Trong đó có nhà thơ Viễn Phương với bài Viếng lăng Bác. Bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương không chỉ
là một bài thơ viếng hay khóc Bác bình thường. Bác mất năm 1969. Mùa xuân 1975 đất nước mới thống nhất,
năm 1976 Viễn Phương mới tới viếng lăng Người. Như vậy là viếng Bác, khóc Bác cũng là thăm Bác. Cả ba
nhập vào một chuyến đi. Một chuyến hành hương mà đồng bào chiến sĩ miền Nam chờ đợi, mong mỏi và chiến
đấu trong suốt mấy chục năm trường.
Mở đầu bài thơ, tác giả tự giới thiệu: “Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”. Cách xưng hô thật hồn nhiên
mà tha thiết. Bác là cha cho nên mới xưng con. Nhưng con ở miền Nam lại mang một sắc thái thiêng liêng - đứa
con xa vắng mặt ngày cha mất. Miền Nam là nơi đi trước về sau, nơi Bác Hồ hằng mong nhớ. “Bác nhớ miền
Nam nỗi nhớ nhà. Miền Nam mong Bác nỗi mong cha”
Từ xa, nhà thơ vừa nhìn thấy hàng tre đã xiết bao xúc động:
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng
- 41 -
Với từ con, với hình ảnh hàng tre, nhà thơ dã tạo nên một không khí thật thân thương gần gũi và thiêng
liêng nơi lăng Bác.
Không gian quanh lăng Bác trở thành một không gian đặc biệt thương nhớ. Không gian thương nhớ ấy như
là bất tận với thời gian, được láy đi láy lại bằng chữ ngày ngày. Dòng thời gian liên tục. Dòng người cũng như
không ngừng nghỉ. Người mang hoa, người kết thành hoa dâng lên bảy mươi chín mùa xuân, dâng lên một cuộc
đời chiến đấu hi sinh vì dân vì nước. Tình cảm với Bác được nén lại ở khổ thơ đầu được bày tỏ kín đáo qua cách
dùng ẩn dụ: “ Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ”. Bác là mặt trời, Bác như mặt trời. Bác là trời xanh, mãi mãi
là trời xanh. Tất cả đều thể hiện sự bất tử của người. Nhưng đến khổ thơ thứ ba thì tình cảm mới bộc lộ một
cách trực tiếp. Đó là tình thương, nỗi đau được bộc phát khi nhìn thấy Bác nằm trong lăng: “Mà sao nghe nhói ở
trong tim”. Đây là cái giật mình thảng thốt. Tất nhiên, trong nhận thức lí trí nhắc ta Bác vẫn còn sống mãi.
Nhưng đây là nỗi đau nhói lên từ đáy sâu trái tim. Bác mất thật rồi. Bác không thể gặp mặt những người con
miền Nam mà người hằng mong nhớ.
Mạch cảm xúc dâng trào mãnh liệt trong giờ phút chia ly.
"Mai về miền Nam thương trào nước mắt"
Câu thơ thể hiện khoảng cách thời gian ngắn ngủi, khơi gợi trong lòng nhà thơ những cảm xúc lưu luyến. Cụm
từ "thương trào nước mắt" nghe dào dạt mà thấm sâu, là sự kính yêu cuộc đời cao cả của Bác, là nỗi xót đau khi
đối mặt với giờ phút chia ly cận kề. Thương ở đây bao trùm cả thương yêu, thương kính và thương xót. Thương
đến trào nước mắt là niềm cảm xúc không thể dừng lại, không thể kềm chế mà tuôn trào nước mắt, những giọt
nước mắt trước lúc chia xa. Cảm xúc đó cũng chính là cảm xúc của con người Việt Nam, của triệu triệu trái tim
luôn hướng về Bác. Cảm xúc ấy cũng là nguyên nhân để nhà thơ nói lên ước nguyên sâu thẳm trong tâm hồn:
"Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này"
Điệp ngữ "muốn làm" được điệp lại nhiều lần như để khẳng định ước nguyện chân thành của nhà thơ. Nhà
thơ muốn hóa thân thành những hình ảnh đẹp nhất của thiên nhiên đất nước để dâng lên cho Bác. Nhà thơ muốn
làm con chim cất lên tiếng hót mê say, muốn làm đóa hoa tỏa hương cho đời. Và thật cao đẹp biết bao khi nhà
thơ muốn hóa thân làm cây tre trung hiếu, trong muôn ngàn cây tre quanh lăng Bác, để được ở mãi bên Bác.
Hình ảnh cây tre ở khổ thơ thứ nhất được lặp lại trong khổ thơ cuối tạo nên kết cấu đầu cuối tương ứng, giúp
hoàn thiện biểu tượng cây tre Việt Nam. Nếu ở khổ thơ thứ nhất, tre là hình ảnh tượng trưng cho phẩm chất kiên
cường, bất khuất; thì ở khổ thơ cuối, hình ảnh cây tre được lặp lại nhưng là để tượng trưng cho phẩm chất trung
hiếu. Cây tre đã trở thành biểu tượng toàn vẹn cho phẩm chất của con người và dân tộc Việt Nam.
(Kết bài 1) Bài thơ với những hình ảnh ẩn dụ giàu ý nghĩa, với giọng thơ nghiêm trang thành kính, với
cảm xúc hết sức chân thành, nhà thơ viễn Phương đã nói hộ cho mọi người nỗi xúc động thiêng liêng, lòng biết
ơn vô hạn đối với Bác Hồ - vị cha già của dân tộc.
(Kết bài 2) Bài thơ "Viếng lăng Bác" đã để lại trong lòng bạn đọc những cảm xúc sâu lắng và tha thiết.
Với những hình ảnh ẩn dụ độc đáo và những biện pháp tu từ đặc sắc, Viễn Phương đã thể hiện một hồn thơ rất
riêng. Qua bài thơ, Viễn Phương đã thay nhân dân miền Nam nói riêng và nhân dân cả nước nói chung dâng lên
Bác niềm cảm xúc chân thành, lòng tôn kính thiêng liêng. Bài thơ sẽ tiếp tục sống trong lòng người đọc, gợi
nhắc cho những thế hệ kế tục thành quả rực rỡ của cách mạng cách sống sao cho xứng đáng với sự hi sinh của
một con người vĩ đại mà giản dị- Chủ tịch Hồ Chí Minh, người đã sống trọn một đời:
"Chỉ biết quên mình cho hết thảy
Như dòng sông chảy nặng phù sa"

Đề 10: Cảm nhận về bài thơ "Sang thu" của nhà thơ Hữu Thỉnh.
Với tâm hồn nhạy cảm sâu sắc và tình yêu thiên nhiên tha thiết, Hữu Thỉnh trong bài thơ "Sang thu" đã nêu
lên những cảm nhận tinh tế của mình về sự biến đổi của đất trời từ cuối hạ sang đâu thu.
Tâm hồn nhạy cảm của tác giả hòa quyện vài khoảnh khắc giao mùa, với một cảm giác mơn man khó tả:
Bỗng nhận ra hương ổi Phả vào trong gió se Sương chùng chình qua ngõ Hình như thu đã về Khoảnh khắc giao
mùa đến với tác giả bằng nhiều giác quan: Khứu giác (hương ổi), xúc giác (gió se lạnh), thị giác (sương chùng
chình). Mỗi giác quan mang đến cho tác giả một cảm nhận riêng và mỗi giác quan là một dấu hiệu nhận biết sự
chuyển mùa. Đầu thu, hương ổi lan tỏa đi khắp nơi hòa quyện vào làn gió se lạnh trở thành một mùi thơm đặc
biệt, nồng nặc cả hai cánh mũi. Thứ hương thơm ấy cứ nhẹ trôi trong không gian, xoa dịu lòng người và bất ngờ
đến với tác giả ("bỗng"). Những màn sương giăng mắc bắt đầu xuất hiện. "Chùng chình" là cố ý chậm lại, quyến
luyến không muốn bước qua "ngõ" - ngưỡng cửa của thời gian. Hình ảnh "Sương chùng chình qua ngõ" vừa có
tính tạo hình trong không gian vừa diễn tả sự chuyển mùa. Tất cả chì là những cảm nhận ban đầu của tác giả
("hình như"), không có một căn cứ xác thực cho "sang thu". Mùa thu sần được hiện ra qua những kinh nghiệm
- 42 -
của tác giả: Sông được lúc dềnh dàng Chim bắt đầu vội vã Có đám mây mùa hạ Vắt nửa mình sang thu Bằng
kinh nghiệm của mình tác giả nhận ra cái đặc trưng của mùa thu. Thu sang, sông không còn chảy gấp gáp, cuộc
khúc nữa mà nhẹ nhàng trôi, êm ả như đang suy ngẫm. Ngược lại, những chú "chim bắt đầu vội vã" tìm nơi trú
ẩn vì gió se lạnh đã đến. "Đám mây mùa hạ" "vắt nửa mình sang thu" gơi cho ta hình ảnh một cô gái thướt tha
với chiếc khăn the uốn lượn. Đặc biệt, tác giả đã sáng tạo nên hình ảnh "vắt nửa mình sang thu" vừa có tính tạo
hình trong không gian vừa diển tả sự chuyển mùa. Đám mây cứ nhẹ trôi và thời gian thì cũng trôi heo. Đến đây
mùa thu đã hiện ra một cách rõ ràng, không thể nào phủ nhận được. Mùa thu hiện ra, tác giả dang tay đón nhận
cùng những suy ngẫm triết lí của mình. Vẫn còn bao nhiêu nắng Đã vơi dần cơn mưa Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi Mùa thu sang, nắng giảm dần, không còn gắt, những cơn mưa giảm dần và sấm thì
cũng vơi đi. Mọi thứ đến một cách nhẹ nhàng, êm dịu, không ồn ào gấp gáp. Hình ảnh "Sấm cũng bớt bất ngờ -
Trên hàng cây đứng tuổi" có thể hiểu theo hai lớp nghĩa. Thứ nhất, những cây đã lớn không còn bất ngờ trước
tiếng sấm. Thứ hai, những người từng trải thì không còn sợ hãi trước sóng gió cuộc đời nữa. Có phải chăng tác
giả muốn gởi đến ta một triết lí của cuộc đời con người. Những người khi "sang thu" thì không vòn sôi nổi như
khi còn trẻ, nhưng họ đã từng trải, đã bước qua những thời khắc khó khăn nhất của cuộc đời thì không còn ngại
sóng gió nữa.
"Sang thu" là tiếng lòng của tác giả, của một người với tâm hồn nhạy cảm và tình yêu thiên nhiên tha thiết.
Nghệ thuật nhân hóa, ẩn dụ cùng cách chọn lọc từ ngữ tinh tế đã làm nên thành công của bài thơ.

Đề 11: Suy nghĩ của em về tình cảm chân thành, tha thiết của nhân dân ta với Bác Hồ qua bài
thơ "Viếng lăng Bác" của nhà thơ Viễn Phương
Trong những bài thơ viết về Bác sau ngày Bác đi xa , “Viếng lăng Bác”của Viễn Phương là một bài thơ
đắc sắc . Bài thơ diễn tả niềm kính yêu ,sự xót xa và lòng biết ơn vô hạn của nhà thơ đối với vị lãnh tụ bằng cảm
xúc chân thành ,thiết tha, sâu lắng.
Từ mảnh đất miền Nam mấy chục năm trời chiến đấu gian khổ ,tác giả làm cuộc hành hương về đất Bắc .
Lòng bồi hồi xúc động ,anh tìm đến Ba Đình :
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác.
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi!hàng tre xanh xanh Việt Nam .
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng .”
Đoạn thơ mở đầu thiêng liêng thành kính nhưng vẫn gợi một không khí ấm áp gần gũi không chỉ ở cách
xưng hô “con” mà còn ở cách dùng từ mang ý nghĩa giảm nhẹ . Nhà thơ không nói ra “viếng” mà là ra
“thăm” ,như con về thăm cha ,thăm nơi Bác nghỉ . Nỗi đau như cố dấu mà giọng thơ vẫn chan chứa ngậm ngùi.
Hình ảnh đầu tiên gây ấn tượng đậm nét với tác giả là hình ảnh hàng tre trong sương sớm, trải dài, bát ngát một
màu xanh, khiến cho lăng Bác trang nghiêm bỗng trở nên thân thuộc, gần gụi như xóm làng Việt Nam . Hình
ảnh hàng tre “đứng thẳng hàng” trong “bão táp mưa sa” đã trở thành biểu tượng cho sức sống bền bỉ ,kiên cường
,không bao giờ chịu khuất phục của nhân dân Việt Nam . Hình ảnh đó như khúc dạo đầu mở ra một loạt những
suy tưởng mênh mông, sâu lắng:
“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ .”
“Mặt trời trong lăng” là một ẩn dụ chỉ Bác Hồ , mặt trời thiên nhiên đem lại ánh sáng và sự sống .Còn mặt
trời Bác cũng là ánh sáng soi đường đem lại cuộc sống hạnh phúc, ấm no .Mặt trời Bác toả sáng, ấm áp, sóng
đôi và trường tồn cùng mặt trời thiên nhiên là một sáng tạo riêng của tác giả .Cách nói vừa ca ngợi sự vĩ đại , bất
tử của Bác vừa thể hiện sự tôn kính , ngưỡng mộ và lòng biết ơn vô hạn đối với Bác …Tất cả tình cảm đó dệt
thành ý thơ tuyệt đẹp:
“Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân.”
Điệp ngữ “ngày ngày ”và hình ảnh “dòng người đi trong thương nhớ ”vừa gợi ấn tượng về cõi trường sinh vĩnh
viễn vừa gợi tấm lòng nhân dân không nguôi nhớ Bác . Tình cảm đó kết thành tràng hoa đẹp dâng lên 79 mùa
xuân của Bác kính yêu . Nhịp thơ chậm rãi , dàn trải ,cấu trúc câu và từ ngữ được lặp lại gợi liên tưởng đến
những bước đi chầm chậm của dòng người vào lăng viếng Bác trong không khí thiêng liêng, thành kính và niềm
cảm xúc thiết tha..
Đứng trước di hài Bác ,bao tình cảm ấp ủ bấy lâu bỗng trào dâng thổn thức :
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
“Trời xanh” , “vầng trăng” là những hình ảnh kỳ vĩ của thiên nhiên gợi suy ngẫm về cái cao cả ,vĩ đại , bất
diệt , trường tồn . Bác vẫn còn mãi với non sông, người đã hoá thân vào thiên nhiên , đất nước . Sự nghiệp của

- 43 -
người là bất tử .Dù tin như vậy nhưng trái tim vẫn nhói đau khi nghĩ rằng Bác không còn nữa .Nỗi đau được
biểu hiện cụ thể , trực tiếp “mà sao nghe nhói ở trong tim! ”.Đó là nỗi đau ,là niềm thương vô hạn của đứa con
về muộn bên di hài người cha yêu kính .
Cuộc gặp gỡ nào rồi cũng đến lúc phải chia tay. Lòng nhớ thương ,đau xót kìm nén đến gìơ vỡ oà thành nước
mắt :
“Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này .”
Ước nguyện được hoá thân thành con chim ,đoá hoa ,cây tre để canh giữ ,điểm tô cho nơi vị lãnh tụ kính yêu
yên nghỉ . Hình ảnh cây tre lặp lại cuối bài tạo ấn tượng đậm nét thể hiện lòng kínhyêu và lòng biết ơn vô hạn
đối với Bác .Điệp ngữ “muốn làm” , cấu trúc câu được lặp lại tạo thành nốt nhạc dồn dập ,tha thiết diễn tả tình
cảm ,khát vọng trào dâng mãnh liệt . Bài thơ tưởng khép lại trong sự xa cách về không gian nhưng lại tạo được
sự gần gũi trong tình cảm ,ý chí .Như vậy bước chân ra đi nhưng tấm lòng của người con miền Nam thì ở
lại .Tiếng lòng đó , ước nguyện đó không chỉ là của riêng tác giả mà đã trở thành tiếng lòng chung của nhiều
người
“Viếng lăng Bác” là bài thơ giàu chất suy tưởng ,chất trữ tình đằm thắm với cách sử dụng nhiều luyến láy
ngôn ngữ ,phong phú âm điệu khiến bài thơ mau chóng được đông đảo bạn đọc tiếp nhận .Chính vì vậy nó đã
sớm được phổ nhạc và trở thành một bài ca sâu lắng ,giàu sức truyền cảm và quen thuộc với mỗi người Việt
Nam .

Đề 12: Suy nghĩ của em về tình cảm chân thành, tha thiết của nhân dân ta với Bác Hồ qua bài
thơ "Viếng lăng Bác" của nhà thơ Viễn Phương
Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà
Miền Nam mong Bác nỗi mong cha.
(Tố Hữu)
Bác yêu đồng bào miền Nam vô hạn và nhân dân miền Nam yêu Bác khôn cùng. Miền Nam mong chờ
Bác vào thăm nhưng nước nhà chưa thống nhất, người chưa kịp thực hiện ý nguyện vào thăm đồng bào miền
Nam ruột thịt thì đã đi xa mãi mãi; để lại trong lòng mỗi người dân Việt Nam một nỗi nhớ thương day dứt
không nguôi. Nỗi nhớ thương ấy đã thôi thúc Viễn Phương từ miền Nam ra thăm lăng Bác. Bài thơ Viếng lăng
Bác đã thể hiện lòng thành kính và niềm xúc động sâu sắc của tác giả trước lăng Bác. Viễn Phương đã thay mặt
đồng bào miền Nam bày tỏ lòng biết ơn sâu nặng đối với lãnh tụ – vị cha già kính yêu của dân tộc Việt Nam.
Mở đầu bài thơ như một lời tự sự nhưng đã chứa dựng bao nhiêu cảm xúc:
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát.

Viễn Phương đã mang theo bao tình cảm thắm thiết của đồng bào miền Nam ra miền Bắc để viếng lăng
Bác, Đến Ba Đình, nhà thơ đã nhìn thây hàng tre ẩn hiện trong làn sương mờ ảo. Khung cảnh ở đây thật thiêng
liêng. Hình ảnh hàng tre bát ngát gợi lên một quang cảnh đẹp mang đậm nét làng quê. Cảnh quang ấy đã làm
cho nhà thơ cảm nhận nơi đó có một linh hồn quen thuộc của quê hương đất Việt:

Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam


Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.

Từ hàng tre cụ thể bên lăng Bác, nhà thơ liên tưởng đến hình ảnh cây tre Việt Nam, liên tưởng đến sức
sống dẻo dai, mãnh liệt và bản lĩnh kiên cường của dân tộc Việt Nam. Hình ảnh hàng tre xanh xanh ấy đã làm
tác giả biểu lộ niềm tự hào sâu sắc. Rồi hòa với dòng người tiến vào trong lăng Bác, tác giả đã càng dậy lên
niềm xúc động, tự hào:

Ngày ngày Mặt Trời đi qua trên lăng


Thấy một Mặt Trời trong lăng rất đỏ.

- 44 -
Mặt trời đi qua trên lăng Bác là Mặt Trời của tạo hóa, thiên nhiên đang tỏa ra ngàn tia nắng ấm. Còn
mặt trời rất đỏ trong lăng là Bác Hồ vĩ đại. Bác được ví như vầng thái dương chói lọi, sưởi ấm cho muôn loài.
Mặt trời ấy là tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng sáng ngời ấy như ánh mặt trời vĩnh hằng trên trái đất. Bởi vậy,
Bác ra đi là sự mất mát lớn đối với đồng bào và chiến sĩ cả nước, mất mát lớn đối với toàn thể dân tộc ta. Bác để
lại muôn vàn nhớ thương trong tâm khảm mỗi con người:

Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ


Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân.

Không chỉ có một ngày, hai ngày mà ngày ngày đều có người đến viếng lăng Bác. Dòng người như một
tràng hoa với muôn ngàn sắc hương từ mọi miền đất nước dâng lên Bác. Trong khung cảnh trang nghiêm, tĩnh
lặng ấy, ai cũng xúc động, thành kính và tỏ lòng biết ơn sâu sắc. Cùng, với dòng người đi vào bên trong lăng
Bác, nhà thơ Viễn Phương không nén được xúc động trong lòng:

Bác nằm trong giấc ngủ bình yên


Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà xao nghe nhói ở trong tim!

Tác giả đã cho ta cảm nhận không gian và thời gian như ngưng đọng trước một hình ảnh thiêng liêng. Ta
cảm nhận như Bác đang ngủ một giấc ngủ bình yên vì lí tưởng của Bác đã được thực hiện. Bác đi về cõi vĩnh
hằng nhưng hình ảnh Bác vẫn còn sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta. Hình ảnh vầng trăng sáng dịu hiền
trong bài thơ là một liền tưởng độc đáo của tác giả. Có thể liên tưởng ấy bắt nguồn từ hiện thực. Đó là ánh
sáng của vầng trăng dịu nhẹ, trong trẻo chiếu xuống lăng Bác. Vầng trăng dịu ngọt ấy gợi ta nghĩ đến tâm hồn
cao đẹp của Bác. Vầng trăng dịu hiền là biểu tượng về con người Bác, tấm lòng nhân ái bao la của Bác. Từ hình
ảnh vầng trăng, nhà thơ lại tiếp tục liên tưởng đến trời xanh. Đó cũng là biểu tượng về Bác. Tâm hồn Bác lồng
lộng như vũ trụ bao la. Công đức của Bác kì vĩ như trời cao, biển rộng. Nhìn Bác kính yêu đang yên giấc nghìn
thu, nhà thơ đau xót cực độ, tiếc thương Bác đã ra đi mãi mãi không về. Tình cảm ấy đã làm cho nhà thơ lưu
luyến khi phải rời xa lăng Bác:

Mai về miền Nam thương trào nước mắt


Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.

Điệp ngữ muốn làm lặp lại ba lần đã gợi tả cảm xúc thiết tha, tình yêu nồng cháy của tác giả đối với Bác.
Nhà thơ muốn làm con chim ca hát và làm đóa hoa tỏa ngát hương thơm để đem niềm vui đến cho Bác, muôn tỏ
lòng trung hiếu để đền đáp công ơn như trời biển của Bác, muốn ở mãi nơi lăng Bác như hàng tre xanh ngát bốn
mùa ở Ba Đình lịch sử.

Bài thơ Viếng lăng Bác thật giàu hình ảnh và giàu cảm xúc, có mấy ai đọc bài thơ mà không thấy rung
cảm trong lòng. Giọng điệu bài thơ phù hợp với nội dung tình cảm, nhịp thơ chậm thể hiện sự trang nghiêm,
lòng thành kính và cảm xúc sâu lắng. Riêng ở khổ thơ cuối với nhịp thơ nhanh hơn, phù hợp với sắc thái của
niềm mong ước, khát vọng của nhà thơ.

Bằng nghệ thuật sử dụng biện pháp ẩn dụ và biểu tượng, tác giả thể hiện tình cảm chân thành của mình
đối với Bác. Hình ảnh Bác không chỉ trong tâm khảm dân tộc Việt Nam mà còn trong trái tim nhân loại. Bác ra
đi để lại một tấm gương sáng ngời thật cao quí, đó là “Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” mà cả dân Việt Nam
đã và đang hướng tới để hoàn thiện mình.

Đề 13: “ Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá là khúc tráng ca, ca ngợi sự giàu đẹp của biển cả
và tình yêu biển cả của những người ngư dân làng chài vùng biển Quảng Ninh”. Hãy phân tích
đoạn thơ sau để làm sáng tỏ điều đó.
“ Thuyền ta lái gió với buồm trăng

- 45 -
Lướt giữa mây cao với biển bằng,
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.
Cá nhụ, cá chim, cùng cá đé,
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,
Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé.
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.
Ta hát bài ca gọi cá vào,
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.
Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.
(Huy Cận- Đoàn thuyền đánh cá)

Huy Cận là một trong những tên tuổi tiêu biểu của phong trào Thơ mới trước Cách mạng tháng Tám năm
1945, với những tác phẩm nổi tiếng như Lửa thiêng, Vũ trụ ca… Sau Cách mạng, ông nhanh chóng hòa nhập
vào công cuộc kháng chiến vĩ dại của dân tộc chống thực dân Pháp. Hòa bình lập lại, từng trang thơ Huy Cận
ấm áp hơi thở của cuộc sống mới đang lên. Đoàn thuyền đánh cá được sáng tác ở Hòn Gai, năm 1958. Sau một
chuyến tác giả đi thực tế dài ngày, được đánh giá là một trong những bài hay của thơ ca Việt Nam hiện đại. Bài
thơ là khúc tráng ca, ca ngợi sự giàu đẹp của biển cả và tình yêu biển cả của những người ngư
dân làng chài vùng biển Quảng Ninh. Điều đó được thẻ hiện rõ nét qua đoạn thơ:

“ Thuyền ta lái gió với buồm trăng

Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.”


Vẻ đẹp của biển đã làm giảm bớt nỗi nhọc nhằn vất vả, đem lại niềm vui và sức mạnh cho con người đang
chinh phục thiên nhiên, làm chủ cuộc đời. Cảnh đánh cá trong đêm dược nhà thơ quan sát và miêu tả với một
cảm hứng trữ tình mãnh liệt. Tác giả như nhập thân vào thiên nhiên, vào công việc, vào con người:

Thuyền ta lái gió với buồm trăng


Lướt giữa mây cao với biển bằng,
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.

Những hình ảnh lái gió, buồm trăng, mây cao, biển bằng phảng phất phong vị thơ cổ điển nhưng vẫn tươi
mới chất hiện thực. Một chuyến ra khơi đánh cá cũng giống như một trận đánh. Cũng thăm dò tìm cho ra bãi cá;
cũng dàn đan thế trận để giăng lưới, bủa lưới sao cho trúng luồng cá bạc, để sáng mai lúc trở về, thuyền nào
thuyền nấy đầy ắp cá.

Đã bao đời, người ngư dân có mối quan hệ chặt chẽ với biển cả. Họ thuộc biển như thuộc lòng bàn tay.
Bao loài cá họ thuộc tên, thuộc dáng, thuộc cả thói quen của chúng:

“Cá nhụ cá chim cùng cá đé,


Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cái đuôi em quẫy trăng vầng chóe.
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.”
Trên mặt biển đêm, ánh trăng long lanh dát bạc, cá quẫy đuôi, sóng sánh trăng vàng. Bài ca gọi cá vẫn
tiếp tục ngân vang, lúc náo nức, lúc thiết tha. Trăng thức cùng ngư dân, trăng cùng sóng dập dờn bên mạn

- 46 -
thuyền, như gõ nhịp phụ họa cho tiếng hát. Trăng chiếu sáng cho ngư dân kéo được những mẻ cá đầy. Thiên
nhiên, con người thật là hoà hợp.
Tiếng hát căng tràn mặt biển, nhu để gọi cá vào.
“Ta hát bài ca gọi cá vào,
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.
Biển cho ta cá như lòng mẹ,
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào".
”Ta hát bài ca gọi cá vào” gợi sự thân thiết, gợi niềm vui, phấn chấn yêu lao động. “Gõ thuyền đã có nhịp trăng
cao.” gợi cảm nhận chất thơ bay bổng lãng mạn, không phải con người gõ thuyền để xua cá vào lưới mà là trăng
cao gõ. Trong đêm trăng sáng, vầng trăng in xuống mặt nước, sóng xô bóng trăng dưới nước gõ vào mạn thuyền
tạo nên nhịp điệu cho bài ca lao động. Có thể nói đây là hình ảnh lãng mạn đầy chất thơ làm đẹp thêm công việc
đánh cá trên biển. Thiên nhiên đã cùng con người hoà đồng trong lao động. Và như vậy, bức tranh không chỉ có
màu sắc hình ảnh mà còn có cả âm thanh rộn rã.
“Biển cho ta cá như lòng mẹ,
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào”.
Gợi sự giao hoà thân thiết, ưu ái của con người với biển quê hương, biển rất ân tình.
Đoạn thơ là khúc ca sảng khoái của người lao động đánh cá, thể hiện niềm phấn khởi trước những thành
quả lao động của mình, đồng thời ca ngơi sự giàu đẹp của biển bằng một tình yêu thiên nhiên của người dân
chài Quảng Ninh.
Đề 14: Vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật Phương Định trong đoạn trích “Những ngôi sao xa xôi” của
Lê Minh khuê.
Bài làm
“Những ngôi sao xa xôi” của nhà văn xuất sắc văn xuôi hiện đại Việt Nam những năm chống Mỹ. Đến với tác phẩm,
ta dễ dàng nhận thấy vẻ đẹp của thế hệ trẻ Việt Nam toả sáng trong một giai đoạn lịch sử của dân tộc. Những cô gái thanh
niên xung phong đã trở thành hình tượng khó quên. Họ như một thứ ánh sáng ẩn hiện xa xôi có sức mê hoặc lòng người.
Trong đó nhân vật Phương Định được khắc hoạ như một hình ảnh tiêu biểu nhất của người con gái Hà Nội giữa Trường
Sơn ác liệt. Trước vẻ đẹp của hình tượng được sáng toả trong hiện thực đời sống của chiến trường đánh Mỹ. Đặt nhân vật
của mình nơi mà bom đạn, Lê Minh Khuê đã giúp ta nhận ra vẻ đẹp đáng khâm phục ở Phương Định đó là lòng dũng cảm,
gan dạ trước thử thách hiểm nguy.
Xoay quanh diễn biến tâm trạng của cô gái trẻ này trong một lần phá bom, trong không khí vắng lặng,
căng thẳng đến “phát sợ” lòng cô thoáng cái cảm giác ớn lạnh. Nhưng rồi cô không sợ nữa “Tôi đến gần quả
bom, cảm thấy có ánh mắt các chiến sỹ dõi theo mình. Tôi không sợ nữa. Tôi sẽ không đi khom. Các anh ấy
không thích kiểu đi khom ấy”. Lòng dũng cảm của Phương Định như được nhân lên bởi luôn cảm thấy mình đối
mặt với thử thách không phải trong tư thế lẻ loi mà luôn có đồng đội kề bên, dõi theo chia sẻ và tiếp sức. Đến
khi ở bên quả bom kề sát với cái chết, thần kinh căng thẳng như sợi dây đàn thì từng cảm giác của cô càng sắc
nhọn hơn “thỉnh thoảng lưỡi xẻng chạm vào quả bom một tiếng động sắc đến gai người cứa vào da thịt tôi. Tôi
rùng mình và bỗng thấy tại sao mình làm quá chậm. Nhanh lên một tý. Vỏ quả bom đang nóng dần lên”... Đoạn
văn được tạo bởi một chuỗi câu ngắn giọng văn gấp gáp, căng thẳng diễn tả chính sác tâm trạng hồi hộp cao độ
của nhân vật đối mặt giữa cái sống và cái chết. Đó là tâm trạng rất thực đối với những người làm công việc phá
bom dù công việc có được làm hàng ngày và cũng rất rễ hiểu khi phá bom lại là một cô gái trẻ. Tiếp đó là cái
cảm giác căng thẳng chờ đợi tiếng nổ của quả bom. Những dòng viết thể hiện lòng dũng cảm của nhân vật được
Lê Minh Khuê viết bằng một cách rất riêng. Nó vừa gợi cảm chân thực nhịp sống khẩn trương nơi chiến trường
vừa cho ta thấy cách bộc lộ phẩm chất anh hùng ấy thật bình dị.
Không chỉ vậy, hình tượng nhân vật Phương Định còn để lại trong lòng người đọc ấn tượng tốt đẹp vẻ một cô gái
hồn nhiên mơ mộng giữa hiện thực đời thường. Cũng như các cô giá mới lớn Phương Định cũng nhạy cảm và quan tâm
đến hình thức của mình. Cô thường quan sát và tự đánh giá về mình một cách tự tin “Tôi là con gái Hà Nội nói một cách
khiêm tốn tôi là một cô gái khá”. Nhà văn đã cho người đọc hình dung thật rõ về một cô gái có hai bím tóc dày cái cổ cao
kiêu hãnh như một đài hoa loa kèn và đặc biệt là đôi mắt “có cái nhìn sao mà xa xăm”. Đó là thiếu nữ có một ngoại hình
phảng phất dáng dấp thanh lịch của một thiếu nữ Hà Thành. Nếu nói đôi mắt là cửa sổ tâm hồn thì nhìn vào đôi mắt của
Phương Định ta thấy rõ một tâm hồn rất lãng mạn, mơ mộng và hồn nhiên: biết cánh lính trẻ thường săn sóc vồn vã và cô
không biểu lộ tình cảm mà “ thường đứng ra xa, khoang tay trước ngực và nhìn đi nơi khác”. Đó là cái kiêu kỳ đáng yêu.
Nhưng cô thú nhận “chẳng qua tôi điệu thế thôi”. Đó là cách diễn đạt tâm lý nhân vật của nhà văn vừa chân thực lại vừa
tinh tế vẻ đẹp tâm hồn trong của nhân vật được thể bộc lộ một cách tự nhiên qua tâm trạng lúc đón nhận cơn mưa đá. Đón
nhận một cơn mưa bất ngờ với một cách tự nhiên qua tâm trạng lúc đón nhận cơn mưa đá. Đón nhận một cơn mưa bất ngờ
với một niềm vui thật trẻ thơ. Không phải là cô gái căng thẳng, hồi hộp tột độ khi phá bom mà là một thiếu nữ hồn nhiên
trong sáng với niềm vui “sáng sủa tràn đầy”. Mưa bất ngờ đưa Phương Định trở về với quá khứ với những kỷ niệm tuổi
thơ ào ạt trào dâng. Đó là hình ảnh thân thương của gia đình, của Hà Nội vời vợi tiếng rao của bà bán xôi sáng, cánh cửa
- 47 -
sổ cơn mưa mùa hạ, hoa trong công viên, ngọn đèn trên quảng trường và bầu trời thành phố đầy sao. Nỗi nhớ Hà Nội sao
mà da diết cháy bỏng. Tâm hồn cô thanh niên xung phong như đang bay lên thăng hoa cùng bầu trời ngàn sao. Ta bỗng
chợt hiểu đó chính là nguồn sức mạnh làn điệu nâng bước chân cô gái trẻ mỗi khi bước vào trận. Tiếp sức cho cô bình tĩnh
tự tin mỗi khi đối mặt với chiến trường ác liệt đầy gian khổ.
Vẻ đẹp hình tượng nhân vật Phương Định được khắc hoạ bằng ngôn ngữ kể chuyện độc đáo khả năng chiếm lĩnh
hiện thực tâm lý nhân vật tinh tế sắc sảo của ngòi bút Lê Minh Khuê. Nhà văn không khắc hoạ nhân vật ở mức độ lý tưởng
mà nhân vật vẫn hiện lên với đầy đủ những phẩm chất anh hùng và cũng rất đáng yêu. Nhân vật Phương Định là hình ảnh
tiêu biểu cho vẻ đẹp thế hệ trẻ Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ có lý tưởng sống đúng đắn tinh thần chiến đấu dũng
cảm, có đời sống nội tâm phong phú trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng lạc quan yêu đời. Vẻ đẹp của hình tượng nhân vật
trong “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê đã góp phần tạo nên khúc ca lãng mạn biểu dương vẻ đẹp của con
người anh hùng Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ vĩ đại của dân tộc.
Đề 15: Suy nghĩ về nhân vật ông Hai trong truyện ngắn “Làng” của tác giả Kim Lân.
Kim Lân là một nhà văn hiện đại Việt Nam. Vốn gắn bó và am hiểu sâu sắc cuộc sống ở nông thôn, Kim
Lân hầu như chỉ viêt về sinh hoạt làng quê và cảnh ngộ của người nông dân. Truyện ngắn Làng cũng là một tác
phẩm thành công của nhà văn Kim Lân được viết trong thời là đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp và đăng
lần đầu trên tạp chí Văn nghệ năm 1948. Truyện ngắn thể hiện chân thực, sâu sắc và cảm động lòng yêu làng
quê, đất nước và tinh thần kháng chiến của những người nông- dân, cụ thể ở đây là nhân vật ông Hai.

Ông Hai là người nông dân "chân lấm tay bùn", quạnh năm "bán mặt cho đất, bán lưng cho trời", lao động
cần cù, không phút nào ngơi nghỉ. Từng mảnh đất, con trâu, thửa ruộng, nếp nhà., từ lâu đã trở thành máu thịt
trong ông, không thể dứt ra được. Thế mà, vì vợ con, vì gia đình, ông đành phải đi tản cư, đành phải xa cái làng
Chợ Dầu thân yêu của mình, nhưng lòng thì vẫn đau đáu khôn nguôi nhớ về nó. ông nhớ những ngày tham gia
kháng chiến, cùng anh em đào đường, đắp ụ, xẻ hào, khuân đá… Chỉ cần nghĩ đến vậy là ông đã sướng rơn lên
"Ô, sao mà độ ấy vui thế. Ông lão thấy mình như trẻ ra! Chao ôi! Ông lão, nhớ làng, nhớ cái làng quá!".

Những ngày nơi tản cư, ông nhớ làng da diết. Những lúc rảnh rỗi, ông lại đi khắp làng và "bô bô" khoe
với mọi người về cái nơi "chôn rau cắt rốn” của mình. Ông tự hào về nó lắm. Bởi đó là làng kháng chiến, làng
anh hùng kiên cường chống giặc. Ông khoe làng ông những ngày tập quân sự, đến cả các cụ già cũng đến. Làng
ông có ,cái phòng thông tin rộng rãi, sáng sủa, rồi cả cái loa phát thanh chiều chiều cả làng đều nghe… Ông yêu
làng bởi tinh thần kháng chiến của nó chứ không phải nó lắm của, giàu sang.

Ông cũng thường xuyên đi đọc báo để nghe tin về làng Chợ Dầu của mình. Những chiến công nho nhỏ của
các anh chiến sĩ hay của các em nhỏ cũng đủ làm ông sướng rơn, cứ như thể làng mình vừa lập công vậy. Ông
mong đát nước mau đến ngày thống nhất cùng như mong chóng được trở về làng.Mọi việc làm, hành động của
ông Hai đều hướng về làng. Tình yêu làng trong ông có lẽ chẳng bao giờ vơi cạn. Trong hoàn cảnh khó khăn
nhất, nó càng được bộc lộ rõ hơn. Nếu chẳng yêu làng đến mức da diết, cháy bỏng thì ông đâu có đau khổ đến
tột cùng như bây giờ. Cái tin cả làng Chợ Dầu lập tề theo giặc làm Việt gian đến với ông quá bất ngờ và quá
nhanh. Chẳng ai có thể ngờ được một làng Chợ Dầu tinh thần khi xưa giờ lại hèn nhát, nhục nhã đến như vậy.
Cái tin đó làm ông choáng váng và đau đớn: "Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng
người đi, tưởng như đến không thở được. Một lúc lâu ông mới rặn è è như nuốt phải cái gì vướng ở cổ […]
giọng lạc hẳn đi”. Một cú sốc lớn đối với ông Hai, nó khiến ông biến đổi hẳn từ vui sang buồn, từ rạng rỡ thành
sầu não. Có ai đó bất ngờ xiết chặt lấy trái tim ông, bóp méo hơi thở của ông, khiến ông bất ngờ và đau đớn đến
tột độ. Ông gắng gượng hỏi lại, chỉ mong mình đã nghe lầm. Nhưng câu trả lời "vừa ở đấy lên" khiến ông không
còn cách nào khác nữa. Ông phải tin vào những điều mình không, thể tin. Ông đành phải chấp nhận một sự thật
đau đớn là làng Chợ Dầu theo Việt gian". Ông lảng đi chỗ khác, lẳng lặng ra về. Nỗi nhục nhã ê chề khiến ông
phải cúi gằm mặt xuống mà đi". Đâu còn cái hớn hở, “cái đầu cung cúc lao về phía trước" như hôm nào, ông
không dám nhìn vào mọi người vì sợ bị dè bỉu, chê cười. Trong ông văng vẳng ám ảnh câu nói của người đàn bà
chua ngoa: "Cái giống Việt gian thì cứ cho mỗi đứa một nhát!". "Mỗi đứa" ấy chính là bạn bè, anh em, người
thân của ông Hai nơi làng Chợ Dầu. Họ đang bị thiên hạ xỉ vả, coi khinh.Về đến nhà, ông nằm vật ra giường
như một người bị ốm nặng, nước mắt ông giàn ra. Ông cảm thấy mình vừa bị mất đi một thứ thật quan trọng và
thiêng liêng trong đời. Đó là danh dự. Ông trao trọn danh dự của mình vào danh dự của làng Chợ Dầu. Giờ làng
bị xỉ vả, mất di danh dự, ông cũng thấy mình thật nhục nhã. Ông mắng cả con, mắng cả những người dân làng
Chợ Dầu “Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà nhục nhã thế này”, rồi ông rít lên chua xót.
Nhưng rồi ông dừng lại, ngờ ngợ như lời mình nói không được đúng lắm. Ông tự hỏi; "Chả nhẽ cái bọn ở làng
lại đổ đốn đến thế được?". Ông vẫn còn niềm tin vào làng Chợ Dầu, tin vào anh em làng xóm.

- 48 -
Nhưng sau đó, ông lại băn khoăn "Không có lửa làm sao có khói, mà người ta hơi đâu bịa tạo ra những chuyện
ấy làm gì?" ông băn khoăn, day dứt. Có nên tin hay không? Hàng loạt câu hỏi cứ xoắn xít lấy ông. Nhục nhã,
xót xa, ông thốt lên: "Chao ôi! Cực nhục chưa, cả làng Việt gian!". Tình cảnh ông Hai lúc này thật đáng thương!
Kể từ đó, ông luôn bị ám ảnh bởi lời đồn và tai mắt mọi người. Suốt ngày ông chỉ thui thủi trong căn nhà ọp ẹp,
nghe ngóng xem "tình hình ra sao". Ông sợ. Một đám đông túm lại ông cũng sợ, dăm bảy tiếng nói cười xa xa
cũng khiến ông chột dạ, nơm nớp như người ta đang để ý. Chính vì lòng tự trọng mà ông mới sợ như vậy, lo
lắng và bồn chồn đến vậy! Đến mức đường cùng, không còn nơi ăn chốn ở, ông cũng nhất quyết không trở về
làng. Mặc dù, có lúc trong ông thoáng có ý nghĩ: "Hay là quay về làng?" nhưng ý nghĩ ấy biến mất ngay trong
ông. Vì về làng là bỏ kháng chiến, bỏ Cụ Hồ… Lòng trung thành với kháng chiến đã xua đi ý nghĩ sai lầm trong
ông. Ông lại khóc! "Nước mắt ông giàn ra". Ông Hai nghĩ rợn cả người. Cả cuộc đời đen tôi, lầm than cũ nổi lên
trong ý nghĩ ông". Ông không muốn về làng để rồi lại phải làm nô lệ cho thằng Tây.

Xung đột nội tâm giữa lòng yêu làng và yêu nước xảy ra gay gắt trong ông. Biết chọn con đường nào khi
một bên là tình còn một bên là nghĩa. Làng Chợ Dầu là nơi "chôn rau cắt rốn", là nơi sinh thành, nơi ông từng
yêu quý và tự hào. Giờ bảo ông dứt bỏ, ông nào nỡ. Còn kháng chiến, Cụ Hồ lại là cứu cánh của gia đình ông,
giúp ông, bà Hai và bọn trẻ thoát khỏi cuộc đời nô lệ tối tăm xưa kia. Biết làm sao bây giờ? Ông Hai băn khoăn,
day dứt, lòng đầy đau khổ.

Nhưng tình yêu nước đã chiến thắng. Không thể vì một cái nhỏ hơn mà bỏ đi những gì lớn lao. Ông quyết
định: "Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù!". Tình yêu làng giờ trở thành lòng căm giận.
Ông thù làng vì ông theo kháng chiến, theo tất cả những con người trung thành với cách mạng. Tình yêu nước
giờ đã hòa quyện và bao trùm lên tình yêu làng trong ông Hai.

Rồi một hôm, cái khuôn mặt rũ rượi của ông Hai bỗng trở nên rạng rỡ và hạnh phúc trở lại. Đó là khi cái tin
làng Chợ Dầu theo Tây được cải chính. Làng Chợ Dầu đâu có theo Tây, vẫn "lại chỉ là…" Ông hoa chân múa
tay, mua cả quà bánh cho con. Lại chạy sang nhà bác Thứ khoe khoang. Ông lại còn hào hứng khoe nhà mình bị
đốt nhẵn, điều đó thật lạ lùng! Nhưng trạng thái tâm lí đó hoàn toàn phù hợp với một người như ông Hai: Danh
dự của ông và làng Chợ Dầu được lấy lại mà mất đi ngôi nhà thì có đáng gì đâu. Vì cách mạng, kháng chiến,
ông nguyện hi sinh cả hạnh phục riêng tư, cả của cải, vật chất. Với ông, kháng chiến, cụ Hồ là tất cả.

Tình yêu làng trong ông Hai đã hòa quyện, thống nhất với tình yêu nước. Hạnh phúc và đau khổ của ông
gắn liền với làng quê, đất nước Đó chính là vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật ông Hai, của người nông, dân nói riêng
và dân tộc Việt Nam nói chung, vẻ đẹp ấy đã được kế thừa và phát huy, vẻ đẹp ấy đã được Đảng, Bác Hồ giác
ngộ đưa lên một tầm cao mới giá trị mới.Với một tài năng xuất sắc, một ngòi bút rất chuyên nghiệp, nhà văn
Kim Lân đã xây dựng nên hình tượng đẹp về người nông dân Việt Nam. Ông Hai cũng như bao người nông dân
khác, với một tâm hồn đẹp tuyệt vời đã để lại trong lòng ta niềm kính yêu trân trọng tha thiết.

Đề 16: Cảm nhận của em về nhân vật ông Sáu trong truyện ngắn “ Chiếc lược ngà”của tác
giả Nguyễn Quang Sáng.
Là nhà văn Nam Bộ, Nguyễn Quang Sáng am hiểu và gắn bó với mảnh đất Thành đồng cùng những
người con gái trung kiên trên mảnh đất ấy. Truyện của ông hầu như chỉ viết về cuộc sống con người Nam Bộ
trong chiến tranh và sau hòa bình. Sáng tác năm 1966, trong thời kì cuộc kháng chiến chống Mỹ đang diễn ra
quyết liệt, “Chiếc lược ngà” ngợi ca tình cha con, tình đồng chí của những người cán bộ Cách mạng – cũng là
tình người trong cảnh ngộ éo le của chiến tranh. Cũng như bé Thu, nhân vật ông Sáu trong truyện đã để lại cho
người đọc rất nhiều ấn tượng.
Ông Sáu xa nhà đi kháng chiến, mãi đến khi con gái ông lên 8 tuổi, ông mới có dịp về thăm nhà, thăm
con. Bé Thu không chịu nhận cha vì vết thẹo trên mặt làm ba em không giống với người chụp chung với má
trong bức ảnh mà em đã biết.Thu đối xử với ba như người xa lạ, đến lúc hiểu ra, tình cha con thức dậy mãnh liệt
trong em thì cũng là lúc ông Sáu phải lên đường. Ở khu căn cứ, bao nỗi thương nhớ con, ông dồn vào việc làm
cho con cây lược. Ông hi sinh trong một trận càn của Mỹ ngụy. Trước lúc nhắm mắt, ông còn kịp trao cây lược
cho một người bạn. Tình đồng đội, tình cha con của ông Sáu được miêu tả thật cảm động,làm sáng ngời vẻ đẹp
của người lính Cách mạng, của người cha yêu con.
Vẻ đẹp của nhân vật ông Sáu mà người đọc cảm nhận trước hết là vẻ đẹp của người lính Cách mạng.
Kháng chiến bùng nổ, ông Sáu từ giã những gì thân thương nhất: con thơ, vợ trẻ lên đường làm Cách mạng. Khi
ông ra đi, bé Thu, con gái đầu lòng, cũng là đứa con gái duy nhất của ông chưa đầy một tuổi.Vậy mà, đằng đẵng

- 49 -
suốt những năm kháng chiến, ông không một lần về thăm con,bởi với những người lính “đâu có giặc là ta phải
đi”. Họ đã gác tình riêng, vì nghĩa lớn để rồi ngày kháng chiến thắng lợi, ông được nghỉ phép về thăm nhà, thăm
con. Trong lợi to lớn của dân tộc, có phần xương máu mà ông Sáu đóng góp.
Cảm động nhất, để lại ấn tượng nhiều nhất cho người đọc trong hình ảnh người cha chiến sĩ ấy chính là
tình phụ tử thiêng liêng, sâu đậm –tình yêu thương mà ông Sáu dành cho đứa con gái. Được về thăm nhà sau
bao năm ở chiến khu, khao khát đốt lòng ông Sáu là được gặp con, được nghe con gọi tiếng ba, được sống trong
tình cha con mà bấy lâu nay ông chưa được sống. Vì thế, về gần tới nhà, thoáng thấy bóng con,không chờ xuồng
cập bến, ông nhón chân nhảy thót lên xô chiếc xuồng tạt ra.Ông bước vội vàng những bước dài. Cái tiếng gọi
ông phải kìm nén bao lâu nay bỗng bật ra thật cảm động, làm người đọc thấy nghẹn ngào: -“Thu!Con”.Ngược
lại với điều ông mong muốn, đứa con gái ngơ ngác,hốt hoảng rồi vụt chạy và kêu thét lên khiến người cha đau
khổ, hai tay buông thõng như bị gãy. Rồi suốt ba ngày nghỉ phép , ông không dám đi đâu xa, chỉ quanh quẩn
gần con. Song, ông càng xích lại gần nó càng lùi xa; ông càng khao khát được nghe tiếng “ba” từ lòng con, nó
càng không gọi… Bị con cự tuyệt,ông Sáu đau khổ không khóc được phải cười.
Trước giờ phút lên đường chia tay con, ông muốn ôm con,nhưng lại sợ con không nhận đành chỉ nhìn.
Song chính trong lúc này, tình cảm dành cho người cha ở bé Thu òa ra mãnh liệt. Nó cất tiếng gọi “ba”, ông xúc
động đến phát khóc và “không muốn cho con thấy mình khóc, anh Sáu một tay ôm con, một tay rút khăn lau
nước mắt, rồi hôn lên mái tóc của con”.Người chiến sĩ ấy nước mắt đã khô cạn nơi chiến trường, giờ đây là
những giọt nước mắt hiếm hoi – nước mắt của niềm hạnh phúc và tình cha con. Thương con,chia tay con, ông
Sáu hứa sẽ mua cho con cây lược.
Tình cảm của ông Sáu đối với con còn được nhà văn thể hiện rất cảm động khi ông ở khu căn cứ. Nỗi day
dứt, ân hận ám ảnh ông suốt nhiều ngày là việc ông đã đánh con khi nóng giận. Rồi lời dặn của con: “Ba về ba
mua cho con một cây lược nghe ba”đã thôi thúc ông nghĩ đến việc làm cho con một cây lược bằng ngà. Làm cây
lược trở thành bổn phận của người cha, thành tiếng gọi cầu khẩn của tình yêu thương con. Kiếm được khúc ngà
voi, ông Sáu hớn hở như một đứa trẻ được quà và ông dành hết tâm trí, công sức vào việc làm ra cây lược. Hãy
nghe đồng đội của ông kể lại: “Những lúc rỗi, anh cưa từng chiếc răng lược, thận trọng, tỉ mỉ và cố công như
người thợ bạc”. Phải chăng, bao nhiêu tình yêu thương con ông dồn vào việc làm cây lược ấy? Rồi ông gò lưng
tỉ mẩn, khắc từng nét chữ lên sống lưng lược: “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”.Cây lược ấy, dòng chữ ấy là tình
yêu, là nỗi nhớ thương, sự ân hận của ông đối với đứa con gái. Những lúc rỗi cũng như đêm đêm nhớ con ông
thường lấy cây lược ra ngắm ngía, rồi mài lên tóc cho cây lược thêm bóng, thêm mượt. Làm như vậy, có lẽ ông
không muốn con ông bị đau khi chải lược lên tóc. Yêu con, ông Sáu yêu từng sợi tóc của con. Người đọc cảm
động trước tấm lòng của người cha ấy. Lòng yêu con đã biến người chiến sĩ thành một nghệ nhân – nghệ nhân
chỉ sáng tạo ra một tác phẩm duy nhất trên đời– chiếc lược ngà. Cho nên,cây lược ngà đã kết tinh trong nó tình
phụ tử mộc mạc, sâu xa mà đơn sơ, giản dị.
Làm được lược cho con, ông Sáu mong được gặp con, được tận tay chải mái tóc con. Nhưng rồi, một tình
cảnh đau thương lại đến với cha con ông Sáu: trong một trận càn lớn của quân Mỹ ngụy, ông Sáu bị một viên
đạn bắn vào ngực. “Trong giờ phút cuối cùng,không còn đủ sức trăng trối lại điều gì, hình như chỉ có tình cha
con là không thể chết được”, tất cả tàn lực cuối cùng chỉ còn cho ông làm một việc “đưa tay vào túi, móc cây
lược” đưa cho người bạn chiến đấu. Đó là điều trăng trối không lời nhưng nó thiêng liêng hơn cả những lời di
chức. Nó là sự ủy thác, là ước nguyện cuối cùng, ước nguyện của tình phụ tử. Và bắt đầu từ giây phút ấy, cây
lược của tình phụ tử đã biến người đồng đội của ông Sáu thành một người cha thứ hai của bé Thu.
Người đọc đã không thể cầm được nước mắt khi nghe tiếng khóc thét của đứa con gọi cha buổi chia tay
hồi nào, giờ bỗng không thể cầm lòng khi chứng kiến cái cử chỉ cầm cây lược và ánh mắt nhìn của người cha
vào giây phút lâm trung. Từng có bao nhiêu áng văn nói về tình mẹ cực kì xúc động nhưng có lẽ đây là một
trang văn rất hiếm hoi mô tả đến tận cùng sâu thẳm trái tim yêu thương của người cha dành cho con. Cũng từ
hình ảnh này, nhà văn đã khẳng định: Bom đạn và chiến tranh có thể hủy diệt được sự sống, nhưng tình cha con
– tình phụ tử thiêng liêng không gì có thể giết chết được.
Có thể nói nhân vật ông Sáu được nhà văn xây dựng bằng những nét nghệ thuật đặc sắc. Nguyễn Quang
Sáng đã đặt nhân vật vào cảnh ngộ éo le của đời sống để từ đó ngòi bút miêu tả tâm lí tinh tế đã phát hiện bao
cung bậc cảm xúc của tình phụ tử. Ngoài ra, ngôn ngữ kể chuyện vừa truyền cảm, vừa mang đậm chất địa
phương Nam Bộ đem đến cho người đọc nhiều xúc động. Đặc biệt,nhà văn đã lựa chọn được một số chi tiết
nghệ thuật rất đắt giá như lời dặn mua cho con cây lược của bé Thu,ông Sáu hớn hở khi kiếm được chiếc ngà
voi… Tất cả đã góp phần tô đậm vẻ đẹp của người chiến sĩ Cách mạng, của người cha yêu con nồng thắm.
Hình ảnh ông Sáu – người chiến sĩ Cách mạng, người cha trong truyện “Chiếc lược ngà” đã để lại bao
thổn thức trong lòng người đọc về tình phụ tử sâu sắc. Chiếc lược ngà và những dòng chữ trên sống lưng lược
mãi mãi là kỉ vật, là nhân chứng về nỗi đau, về bi kịch đầy máu và nước mắt của những năm chiến tranh. Ông

- 50 -
Sáu là người lính của một thế hệ anh hùng mở đường đi trước đã nếm trải nhiều gian khổ và hi sinh. Ông là hình
ảnh tiêu biểu của con người Việt Nam sẵn sàng hi sinh tất cả vì độc lập dân tộc, thống nhất đất nước.
Đề 17 làm thêm: Cảm nhận bài thơ Nói với con của Y Phương.
Ca dao từng có câu: “Công cha như núi Thái Sơn”. Có phải vì vậy mà người cha luôn khao khát những đứa
con có được sự vững vàng, rắn rỏi mạnh mẽ trên đường đời. Qua bài thơ Nói với con của Y Phương, người đọc
nhận thấy tình cảm và mong ước của một người cha như vậy dành cho con, một thứ tình cảm nồng ấm và thiêng
liêng, giản dị. Bài thơ đồng thời cũng gợi cho người đọc những suy nghĩ sâu sắc về trách nhiệm của người làm
con.
Mượn lời một người cha nói với con, bài thơ gợi về cội nguồn của mỗi con người, đồng thời bộc lộ niềm
tự hào trước sức sống mạnh mẽ, bền bỉ của quê hương mình. Nhà thơ đã mở rộng từ tình cảm gia đình đến tình
cảm quê hượng, từ những kỷ niệm gần gũi, thiết tha mà nâng lên thành lẽ sống.
Mở đầu bài thơ bằng những hình ảnh cụ thể, Y Phương đã tạo được không khí gia đình đầm ấm, quấn
quýt. Từng bước đi, từng tiếng nói tiếng cười của con được cha mẹ mừng vui đón nhận:

“Chân phải bước tới cha

Chân trái bước tới mẹ

Một bước chạm tiếng nói

Hai bước tới tiếng cười”

Những câu thơ có cách diễn đạt thật độc đáọ đã cho thấy tình yêu thương của cha mẹ đối với con. Con lớn
lên hàng ngày trong tình yêu thương ấy, trong sự nâng niu, mong chờ của cha mẹ.

Không chỉ có tình yêu thương của cha mẹ, thời gian trôi qua, con trưởng thành trong cuộc sống lao động,
trong thiên nhiên thơ mộng và nghĩa tình của quê hương. Đó là cuộc sống của những “người đồng mình", rất
cần cù và tươi vui:

"Người đồng mình thương lắm con ơi

Đan lờ cài nan hoa, vách nhà ken câu hát

Rừng cho hoa, con đường cho những tấm lòng

Cha mẹ nhớ mãi về ngày cưới

Ngày đầu tiên đẹp nhất trong đời”.

Những từ ngữ giàu sắc thái biểu hiện: cài nan hoa, ken câu hát,... đã miêu tả cụ thể cuộc sống ấy đồng thời
thể hiện tình cảm gắn bó, quấn quýt của con người quê hương. Rừng núi quê hương thơ mộng và trữ tình cũng
là một trong những yếu tố nuôi con khôn lớn, nâng đỡ tâm hồn con. Thiên nhiên với những sông, suối, ghềnh,
thác... đã nuôi dưỡng con người cả về tâm hồn và lối sống: "Rừng cho hoa, con đường cho những tấm lòng".
Cách gọi “người đồng mình” đặc biệt gần gũi, thân thiết và gắn bó như gợi niềm ruột thịt yêu thương.

Không chỉ gợi cho con về nguồn sinh dưỡng, cha còn nói với con về những đức tính cao đẹp của "người
đồng mình". Đó là lòng yêu lao động, hăng say lao động với cả tấm lòng. Đó là sức sống bền bỉ, mạnh mẽ, vượt
qua mọi khó khăn, gian khổ:

“Người đồng mình thương lắm con ơi

Cao đo nỗi buồn

- 51 -
Xa nuôi chí lớn”.

Dùng những từ ngữ rất mạnh mẽ như "cao", "xa", "lớn”, tác giả muốn nhấn mạnh cuộc sống khoáng đạt,
mạnh mẽ của những "người đồng mình". Dù khó khăn, đói nghèo còn nhiều nhưng họ không nhụt chí, ý chí của
họ vẫn rất vững chắc, kiên cường:

“Người đồng mình thô sơ da thịt

Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con

Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương

Còn quê hương thì là phong tục”

Những "người đồng mình" vượt qua vất vả để bám trụ lấy quê hương. Bằng cuộc sống lao động không mệt
mỏi, họ xây dựng quê hương với những truyền thống cao đẹp. Những "người đồng mình" mộc mạc, thẳng thắn
nhưng giàu chí khí, niềm tin...Người cha đã kể với con về quê hương với cảm xúc rất tự hào.

Tình cảm của người cha dành cho con rất thiết tha, trìu mến. Tình cảm này bộc lộ tự nhiên, chân thực qua
những lời nhắn gửi của cha cho cọn. Người cha muốn con sống phải có nghĩa tình, thuỷ chung với quê hương,
biết chấp nhận những khó khăn, vất vả để có thể:

“Sống trên đá không chê đá gập ghềnh

Sống trong thung không chê thung nghèo đói

Sống như sông như suối

Lên thác xuống ghềnh

Không lo cực nhọc”

Người cha mong cho con mình sống ngay thẳng, trong sạch, sống với ý chí, niềm tin để vững vàng vượt
qua mọi thử thách khó khăn. Người cha mong cho con sống phải luôn tin vào khả năng của mình, tin tưởng vào
bản thân. Có như vậy, con mới có thể thành công, mới không thua kém ai cả Người cha đã nói với con bằng tất
cả lòng yêu thương của mình, nói với con những điều từ đáy lòng mình. Điều lớn nhất người cha đã truyền dạy
cho con chính là niềm tự tin vào bản thân và lòng tự hào với sức sống mạnh mẽ, bền bỉ, với truyền thống của
quê hương.

Qua những lời người cha nói với con, có thể thấy tình cảm của người cha đối với con thật trìu mến, thiết tha
và tin tưởng. Điều lớn lao nhất mà người cha muốn nói với con chính là niềm tự hào với sức sống mạnh mẽ bền
bỉ của quê hương và niềm tin khi bước vào đời.

Bài thơ đã gợi cho người đọc những niềm cảm động sâu xa và những suy nghĩ sâu sắc. Thì ra, đằng sau
những lặng lẽ, thâm trầm cùa cha là biết bao yêu thương, biết bao mong mỏi, biết bao hi vọng, biết bao đợi
chờ ... Con lớn lên như hôm nay không chỉ nhờ vào cơm ăn và áo mặc mà còn mang nặng ân tình của những lời
dạy dỗ ân cần thấm thía. Quả là:

“Công cha như núi Thái Sơn

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”.

Vậy thì, là người làm con, con xin nguyện:

“Một lòng thờ mẹ kính cha

- 52 -
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con".

Chẳng những vậy, con sẽ bước theo những bước chân vững chắc mà cha để lại trên con đường cha bước
đến đỉnh Thái Sơn - nguyện “sống như sông như suối”, nguyện ngẩng cao đầu “lên đường” mà không “thô sơ da
thịt”. Và trên con đường ấy, con sẽ mang theo hình ảnh quê hương để tiếp tục nối tiếp cha anh “tự đục đá kê cao
quê hương” thân thiết của mình.

Bài thơ có nhiều nét đặc sắc về nghệ thuật, tuy nhiên, độc đáo nhất và đặc sắc nhất là cách thể hiện, diễn tả
tình cảm. Những từ ngữ, hình ảnh trong bài rất mộc mạc nhưng đồng thời cũng rất giàu hình ảnh gợi tả vừa cụ
thể vừa có sức khái quát cao.

Bài thơ nhắc nhở chúng ta về tình cảm gia đình ấm cúng, ca ngợi truyền thống cần cù, sức sống mạnh mẽ
của quê hương, của dân tộc. Qua lời nói với con, ta phần nào hiểu rõ hơn, cảm nhận sâu sắc hơn những tình cảm
của người cha dành cho con. Những bài học mà người cha trong bài thơ Nói với con có lẽ là những bài học mà
bất kỳ người cha nào cũng muốn dạy cho con mình. Và những bài học giản dị, mộc mạc đó có lẽ sẽ theo con
suốt trên chặng đường đời, bài học của cha - bài học đầy ý nghĩa sâu sắc

- 53 -
- 54 -

You might also like