Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 166

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA

HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

NGUYỄN BÙI KHIÊM

PHONG CÁCH TẢN VĂN BÁO CHÍ


CỦA NGÔ TẤT TỐ

LUẬN ÁN TIẾN SĨ BÁO CHÍ HỌC

HÀ NỘI - 2019
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

NGUYỄN BÙI KHIÊM

PHONG CÁCH TẢN VĂN BÁO CHÍ


CỦA NGÔ TẤT TỐ

Ngành: Báo chí học


Mã số: 9.32.01.01

LUẬN ÁN BÁO CHÍ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS, TS. TẠ NGỌC TẤN

HÀ NỘI - 2019
LỜI CAM ĐOAN CỦA TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả được trình bày trong luận án này là trung thực và chưa được
công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Tác giả luận án

NGUYỄN BÙI KHIÊM


LỜI CẢM ƠN

Tôi xin trân trọng cảm ơn Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Khoa Báo
chí đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi học tập và nghiên cứu; xin bày tỏ lòng
biết ơn sâu sắc tới các thầy giáo, cô giáo Khoa Báo chí và các khoa, phòng,
ban, trung tâm của Học viện Báo chí và Tuyên truyền đã tận tình giảng dạy,
giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu, hoàn thành luận án này.

Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc đến Giáo sư, Tiến
sĩ Tạ Ngọc Tấn - người đã tận tình giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập,
nghiên cứu và hoàn thành luận án.
Hà Nội, ngày 22 tháng 01 năm 2019
Tác giả luận án

NGUYỄN BÙI KHIÊM


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ PHONG CÁCH TẢN VĂN
BÁO CHÍ CỦA NGÔ TẤT TỐ ................................................................................7
Chƣơng 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ TẢN VĂN VÀ PHONG CÁCH TẢN VĂN
BÁO CHÍ..................................................................................................................28
1.1. Tản văn và tản văn báo chí......................................................................28
1.2. Phong cách và phong cách báo chí .........................................................41
1.3. Một số nhân tố chi phối, ảnh hưởng tới phong cách tản văn báo chí của
Ngô Tất Tố .....................................................................................................46
Chƣơng 2: PHONG CÁCH TẢN VĂN BÁO CHÍ CỦA NGÔ TẤT TỐ QUA
BÌNH DIỆN NỘI DUNG TÁC PHẨM .................................................................55
2.1. Đề tài trong tản văn báo chí của Ngô Tất Tố ..........................................55
2.2. Chi tiết trong tản văn báo chí của Ngô Tất Tố ........................................62
2.3. Một số dự báo trong tản văn báo chí của Ngô Tất Tố ............................72
Chƣơng 3: PHONG CÁCH TẢN VĂN BÁO CHÍ CỦA NGÔ TẤT TỐ QUA
BÌNH DIỆN HÌNH THỨC VÀ KẾT CẤU TÁC PHẨM ....................................83
3.1. Phong cách đặt đầu đề tản văn báo chí của Ngô Tất Tố .........................83
3.2. Sức sáng tạo trong kết cấu tản văn báo chí của Ngô Tất Tố ...................88
3.3. Sức thuyết phục logíc của tản văn báo chí Ngô Tất Tố ..........................96
Chƣơng 4: PHONG CÁCH NGÔN NGỮ TẢN VĂN BÁO CHÍ CỦA
NGÔ TẤT TỐ ............................................................................... 104
4.1. Sử dụng linh hoạt nhiều lớp từ ..............................................................104
4.2. Sáng tạo trong việc sử dụng các tình thức biểu cảm .............................111
4.3. Sử dụng ngôn ngữ trào phúng, châm biếm, giàu tính chiến đấu ..........119
Chƣơng 5: Ý NGHĨA VÀ MỘT SỐ BÀI HỌC VỀ NGHIỆP VỤ LÀM BÁO
RÚT RA TỪ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU PHONG CÁCH TẢN VĂN BÁO CHÍ
CỦA NGÔ TẤT TỐ ..............................................................................................128
5.1. Ý nghĩa thực tiễn của kết quả nghiên cứu về tản văn báo chí Ngô Tất Tố........128
5.2. Một số bài học về nghiệp vụ làm báo rút ra từ kết quả nghiên cứu phong
cách tản văn báo chí của Ngô Tất Tố ...........................................................136
KẾT LUẬN ............................................................................................................147
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ ...............152
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................153
DANH MỤC BẢNG

Bảng 3.1. Bảng so sánh độ dài của đầu đề tản văn báo chí của Ngô Tất Tố, theo từng tờ
báo và từng năm từ năm 1928 đến năm 1945 ..................................................84
Bảng 3.2. Bảng thống kê độ dài của đầu đề tản văn báo chí của Ngô Tất Tố (trên
tổng số 1.147 tác phẩm được khảo sát) .........................................................85
Bảng 4.1. Bảng phân tích thành ngữ sử dụng trong tản văn báo chí của Ngô Tất Tố
......................................................................................................................116
QUY ƢỚC TRÌNH BÀY

Tài liệu trích dẫn được ghi theo số thứ tự tương ứng trong phần danh
mục TÀI LIỆU THAM KHẢO và được đặt trong dấu ngoặc vuông [x, tr.]
ngay sau phần có liên quan, sau dấu phảy (, tr.) là số trang. Thông tin đầy đủ
về tài liệu trích dẫn được ghi trong mục tài liệu tham khảo đặt cuối luận án.

Tên của các cơ quan, tài liệu được in nghiêng, ví dụ: Nhà xuất bản Giáo
dục; Viện dân biểu. Trong một số trường hợp, tên của bài báo, tài liệu, hoặc
tên, số báo được đặt trong hai dấu ngoặc đơn (…) ví dụ (Ở hiền gặp lành),
hoặc tên các tài liệu tờ báo được sử dụng, trích dẫn, như: (Thực nghiệp Dân
báo, 1933). Phần được trích dẫn in nghiêng và được đặt trong hai dấu ngoặc
kép “…”. Ví dụ: Các tác giả của Từ điển tiếng Việt định nghĩa “Thành ngữ là
tập hợp từ cố định đã quen dùng mà nghĩa thường không thể giải thích được
một cách đơn giản bằng nghĩa các từ tạo nên nó”[38, tr.789].

Đối với các trích dẫn không nguyên văn, trong dấu [x] chỉ có số thứ tự
tài liệu tham khảo mà không có số trang.
1
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Ngô Tất Tố là một trong những nhà văn, nhà báo lớn, có nhiều đóng
góp cho sự nghiệp văn học và báo chí nước ta những năm đầu thế kỷ XX. Tài
năng của ông được bộc lộ trên nhiều phương diện: sáng tác, khảo cứu, dịch
thuật. Riêng ở mảng sáng tác, ông bộc lộ tài năng trên nhiều thể loại: tiểu
thuyết, phóng sự, tản văn báo chí… Ở bất kỳ thể loại nào, Ngô Tất Tố cũng
để lại những ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Thân thế, sự nghiệp sáng
tác của ông đã thu hút sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu, phê bình trên cả
lĩnh vực văn học và báo chí.
Theo tổng hợp chưa đầy đủ, đến nay đã có khoảng 400 công trình
nghiên cứu là những bài báo của các cây bút cùng thời với Ngô Tất Tố; các
chuyên đề nghiên cứu khoa học của các nhà giáo, nhà nghiên cứu; các khóa
luận tốt nghiệp đại học, luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ… với mục đích, phạm
vi, đối tượng nghiên cứu liên quan đến các bình diện khác nhau về cuộc đời,
sự nghiệp văn học, sự nghiệp báo chí của Ngô Tất Tố.
Việc nghiên cứu về Ngô Tất Tố nhìn chung đã khá toàn diện. Tuy
nhiên, theo khảo sát của chúng tôi, các công trình nghiên cứu về sự nghiệp
báo chí của ông vẫn còn khá khiêm tốn và còn có những khoảng trống nhất
định bởi hầu hết chỉ dựa trên cơ sở nghiên cứu khoảng 100 tác phẩm báo chí
được xác định là của Ngô Tất Tố và công bố từ năm 1975, trong khi di sản
báo chí của ông còn rất lớn. Mặt khác, nói đến tác phẩm báo chí của Ngô Tất
Tố không thể không nhắc đến tản văn - thể loại tác phẩm chứa đựng sắc nét
phong cách của Ngô Tất Tố nhưng lại chưa được nghiên cứu, lý giải thỏa
đáng cho tương xứng với tầm vóc của chủ thể sáng tạo.
Trong thời gian qua, nhiều nhà nghiên cứu đã dày công tìm kiếm và
tổng hợp được một số lượng lớn tác phẩm báo chí của Ngô Tất Tố đăng báo
trong khoảng thời gian từ năm 1926 đến năm 1945; năm 2005 đã có khoảng
2
1.350 tác phẩm báo chí đã được xác định là của Ngô Tất Tố và năm 2011 các
tác phẩm đó được hợp tuyển và in trong cuốn Tổng tập tản văn Ngô Tất Tố.
Bước đầu khảo sát những tác phẩm báo chí của Ngô Tất Tố, chúng tôi
đặt ra một số vấn đề cần nghiên cứu: 1) Sự hình thành và phát triển văn xuôi
trên báo chí Việt Nam giai đoạn từ nửa sau thế kỷ XIX đến năm 1945 là cơ sở
để hình thành và phát triển của tản văn báo chí; 2) Bối cảnh kinh tế - xã hội
đầu thế kỷ XX là một trong những nhân tố chi phối và hình thành phong cách
tản văn báo chí nói chung và tản văn báo chí của Ngô Tất Tố nói riêng; 3) Tản
văn báo chí của Ngô Tất Tố là kết quả của những tìm tòi thể nghiệm của ông
trong tiến trình vận động và phát triển của báo chí Việt Nam; 4) Phong cách
tản văn báo chí của Ngô Tất Tố từng bước có sự phát triển theo hướng hoàn
thiện phong cách làm báo hiện đại.
Với di sản báo chí to lớn mới được xác định, cùng với những vấn đề đặt
ra nêu trên cần có lời giải đáp, chúng tôi thấy rằng, việc nghiên cứu về sự
nghiệp báo chí của Ngô Tất Tố nói chung, về phong cách tản văn báo chí của
Ngô Tất Tố nói riêng là cần thiết. Qua đó, có thể hệ thống hóa được phong
cách tản văn báo chí của Ngô Tất Tố trong bối cảnh hoạt động báo chí trước
Cách mạng tháng Tám; góp phần đánh giá được đầy đủ và toàn diện hơn về
tài năng, thành tựu cũng như những đóng góp của ông trong lịch sử báo chí
Việt Nam; góp phần làm giàu cơ sở lý luận báo chí và rút ra được ý nghĩa và
những bài học, giúp cho người làm báo hôm nay nâng cao trình độ nghiệp vụ.
Từ những lý do đó, chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu: “Phong cách tản
văn báo chí của Ngô Tất Tố” cho luận án tốt nghiệp khóa nghiên cứu sinh
ngành báo chí học của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở hệ thống hóa và phát triển lý thuyết về tản văn báo chí và
phong cách tản văn báo chí, luận án đi sâu phân tích để có thể nhận diện được
phong cách tản văn báo chí của Ngô Tất Tố thể hiện qua nội dung, hình thức kết
3
cấu và ngôn ngữ tản văn báo chí của ông. Từ đó có thể rút ra ý nghĩa và một số
bài học về nghiệp vụ làm báo nói chung và thể loại tản văn báo chí nói riêng.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu và hệ thống hóa những vấn đề lý luận văn học, lý luận
báo chí liên quan đến tản văn, tản văn báo chí; phong cách và phong cách tản
văn báo chí.
- Tổng hợp, phân tích và đánh giá tản văn báo chí của Ngô Tất Tố, qua
đó làm rõ đặc điểm phong cách tản văn báo chí của Ngô Tất Tố.
- Đúc kết những bài học thiết thực cho hoạt động nghiệp vụ báo chí đương
đại từ thực tiễn hoạt động báo chí và sáng tạo tản văn báo chí của Ngô Tất Tố.
- Đề xuất những vấn đề cần tiếp tục giải quyết, nghiên cứu.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là phong cách tản văn báo chí của
Ngô Tất Tố cả về phương diện nội dung tư tưởng lẫn hình thức thể hiện thông
qua các tư liệu của Ngô Tất Tố nói chung và các tác phẩm tản văn báo chí của
ông nói riêng.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu, khảo sát những tác phẩm tản văn báo chí của Ngô Tất Tố
đã được tuyển in trong: Tổng tập tản văn Ngô Tất Tố; Ngô Tất Tố tiểu phẩm
báo chí; Ngô Tất Tố tác phẩm… và một số tác phẩm báo chí của Ngô Tất Tố
đăng báo trước năm 1945 mà chúng tôi tiếp cận được từ các nguồn khác.
- Nghiên cứu tổng quan về Ngô Tất Tố; qua đó phân tích, kế thừa một
số kết quả nghiên cứu về Ngô Tất Tố, nhất là về sự nghiệp báo chí của Ngô
Tất Tố đã có từ trước đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
- Luận án được xây dựng trên cơ sở vận dụng quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về báo chí, nhất là những quan điểm,
nguyên tắc trong hoạt động sáng tạo của người làm báo.
4
- Vận dụng lý luận báo chí, lý luận văn học và những kết quả nghiên
cứu: 1) Về lịch sử báo chí; 2) Về hệ thống lý luận thể loại tác phẩm báo chí,
nhất là về thể loại tác phẩm báo chí chính luận nghệ thuật; 3) Về lý luận văn
học; 4) Về lý luận phong cách và các tài liệu liên ngành liên quan.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài, chúng tôi chủ
yếu sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây:
- Phương pháp nghiên cứu lịch sử: lý giải đặc điểm phong cách tản văn
báo chí của Ngô Tất Tố trong mối quan hệ trực tiếp với môi sinh văn hóa thời
cuộc mà ông đã sống và sáng tạo.
- Phương pháp hệ thống: đặt các tản văn báo chí của Ngô Tất Tố trong
toàn bộ sự nghiệp báo chí của ông và trong bối cảnh phát triển của báo chí
Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến Cách mạng tháng Tám. Qua đó có thể đánh
giá toàn diện hơn những đóng góp của Ngô Tất Tố về thể loại tản văn báo chí
và phong cách tản văn báo chí của ông.
- Phương pháp nghiên cứu nội dung: đi sâu nghiên cứu về nội dung tản
văn báo chí của Ngô Tất Tố và các yếu tố chi phối và ảnh hưởng đến nội dung
tác phẩm báo chí của ông.
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành: nghiên cứu tản văn báo chí của
Ngô Tất Tố trong mối liên hệ đa ngành với văn học, ngôn ngữ, lịch sử, tâm lý,
xã hội học…
Với các phương pháp nêu trên, chúng tôi thu thập, xử lý thông tin tham
khảo từ các nguồn tài liệu sau đây:
- Nguồn tài liệu sơ cấp: Tổng tập tản văn Ngô Tất Tố, Ngô Tất Tố tác
phẩm, Tiểu phẩm báo chí Ngô Tất Tố…; một số báo, tạp chí, tài liệu liên quan
đến phạm vi nghiên cứu của luận án được khai thác tại Thư viện Quốc gia,
Viện Văn học, Thư viện Hà Nội, Thư viện Học viện Báo chí và Tuyên
truyền…
- Nguồn tài liệu thứ cấp: Cơ sở lý luận báo chí, lý luận văn học, lịch sử
báo chí, lịch sử văn học; lịch sử các phong trào chính trị, xã hội trước năm
5
1945; các công trình nghiên cứu về Ngô Tất Tố đã được công bố dưới dạng
sách, luận văn, luận án; các bài nghiên cứu trên các tạp chí khoa học chuyên
ngành; quan điểm của các nhà lãnh đạo, nhà quản lý; hồi ký của một số nhà
báo; quan điểm của các nhà nghiên cứu nước ngoài về văn học, báo chí Việt
Nam, về sự nghiệp báo chí và hoạt động báo chí của Ngô Tất Tố.
5. Giả thuyết nghiên cứu
Theo mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, chúng tôi xác định một số nội
dung quan trọng cần được nghiên cứu là các vấn đề lý luận và thực tiễn liên
quan đến tản văn và tản văn báo chí; phong cách tác giả, phong cách tác phẩm
và phong cách tản văn báo chí của Ngô Tất Tố… Với một số giả thuyết
nghiên cứu như sau:
5.1. Những tìm tòi thể nghiệm về tản văn báo chí là những đóng góp
của Ngô Tất Tố trong tiến trình vận động và phát triển của báo chí Việt Nam.
5.2. Ngô Tất Tố là một trí thức cựu học, làm báo trong bối cảnh giao
thoa văn hóa Đông - Tây với những biến động chính trị - xã hội trước Cách
mạng tháng Tám năm 1945… Đó là những nhân tố hình thành phong cách tản
văn báo chí của Ngô Tất Tố.
5.3. Phong cách tản văn báo chí của Ngô Tất Tố có ý nghĩa lịch sử đối
với báo chí Việt Nam và những bài học ích dụng đối với lao động nghề báo
hiện nay.
6. Đóng góp mới của luận án
6.1. Về lý luận
Trên cơ sở khảo sát những công trình nghiên cứu trong và ngoài nước
về tản văn và tản văn báo chí, luận án khái quát hóa những vấn đề lý luận căn
bản về tản văn báo chí, từ đó đề xuất khái niệm và những đặc trưng chủ yếu
của thể loại tản văn báo chí. Hiện nay, khía cạnh lý luận tản văn báo chí vẫn
đang là khoảng trống cần được khơi mở, bổ sung để từng bước hoàn thiện
trong hệ thống lý luận về thể loại báo chí ở Việt Nam.
6.2. Về thực tiễn
- Thông qua việc nghiên cứu phong cách tản văn báo chí của Ngô Tất
Tố, chúng tôi mong muốn khẳng định vị thế của tản văn báo chí Việt Nam
6
nửa đầu thế kỷ XX và là một bộ phận quan trọng trong đời sống báo chí dân
tộc trên con đường hiện đại hóa.
- Kết quả nghiên cứu của luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo,
biên soạn giáo trình, tài liệu học tập, nghiên cứu cho các cơ sở đào tạo, bồi
dưỡng về báo chí - truyền thông.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Tổng quan tình hình nghiên cứu, Kết luận, Tài
liệu tham khảo, luận án được kết cấu theo 5 chương:
Chương 1. Lý luận chung về tản văn và phong cách tản văn báo chí.
Chương 2. Phong cách tản văn báo chí của Ngô Tất Tố qua bình diện
nội dung tác phẩm.
Chương 3. Phong cách tản văn báo chí của Ngô Tất Tố qua bình diện
hình thức và kết cấu tác phẩm.
Chương 4. Phong cách ngôn ngữ tản văn báo chí của Ngô Tất Tố.
Chương 5. Ý nghĩa và một số bài học về nghiệp vụ làm báo rút ra từ kết
quả nghiên cứu phong cách tản văn báo chí của Ngô Tất Tố.
7
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
VỀ PHONG CÁCH TẢN VĂN BÁO CHÍ CỦA NGÔ TẤT TỐ

Ngô Tất Tố là nhà văn hiện thực phê phán nổi tiếng trước Cách mạng
tháng Tám với những tác phẩm văn học tiêu biểu như các tiểu thuyết Tắt đèn,
Lều chõng, các tập phóng sự Việc làng, Tập án cái đình, Dao cầu thuyền
tán… Ông cũng là một nhà báo lớn với khoảng 1.350 tác phẩm đã được đăng
báo trong thời gian từ năm 1926 đến Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Trong gần một thế kỷ qua, kể từ tác phẩm đầu tay là Cẩm hương đình
được phát hành năm 1923, sự nghiệp văn học, báo chí của Ngô Tất Tố đã
nhận được sự quan tâm, mến mộ của nhiều nhà nghiên cứu, phê bình, các thế
hệ nhà giáo, học viên, sinh viên. Tuy nhiên, phần lớn công trình nghiên cứu
đều tập trung về sự nghiệp văn học của ông, nhất là về tác phẩm Tắt đèn, như
Phong Lê đã nhận định “hơn nửa thế kỷ qua, tên tuổi Ngô Tất Tố trước hết và
gần như bao quát là gắn liền với Tắt đèn”[62, tr.110].
Chúng tôi nghiên cứu tổng quan tình hình nghiên cứu về sự nghiệp của
Ngô Tất Tố nói chung, sự nghiệp báo chí và phong cách sáng tạo của ông nói
riêng theo ba giai đoạn: trước năm 1945; từ năm 1945 đến năm 1985; và từ
năm 1986 đến nay. Cụ thể như sau:
1. Tình hình nghiên cứu về Ngô Tất Tố trƣớc năm 1945
Trước năm 1945, có lẽ Phan Khôi, một người bạn thân thiết của Ngô
Tất Tố, là người đầu tiên nhận xét về phong cách của Ngô Tất Tố. Khi đọc
những bài thơ Thú quê, Buổi chiều qua sông, Nghe gà gáy cảm hoài ký tên
N.T.T. trên báo Thần Chung số tháng 9-1929, Phan Khôi viết: “Đọc ba bài
nầy phải đoán ra tác giả là người có chí khí, có tâm sự, mà lại đã từng trải
giang hồ nữa. Tuy vậy, trong thơ chẳng hề dùng một chữ nào ngông nghênh,
một lời nào xốc nổi, ý kín mà không tối, khí mạnh mà dằn, cái hay ở trong
đó”[57, tr.114].
Năm 1939, trên cơ sở hợp tuyển các nội dung của tác phẩm Tắt đèn đã
đăng báo nhiều kỳ, nhà sách Mai Lĩnh phát hành lần đầu cuốn Tắt đèn của
Ngô Tất Tố. Nhân dịp này, một số đồng nghiệp của ông đã có bài báo giới
8
thiệu tác phẩm Tắt đèn, qua đó, giới thiệu về sự nghiệp, về phong cách sáng
tạo của ông.
Vũ Trọng Phụng nhận xét: “Ngô Tất Tố là một nhà báo về phái Nho
học và là một tay ngôn luận xuất sắc trong đám nhà Nho. Làng báo Bắc Kỳ,
Trung Kỳ, Nam Kỳ, cũng như độc giả, hẳn không ai là không biết danh tiếng
người ra đời từ hồi thi sĩ Nguyễn Khắc Hiếu chủ trương An Nam tạp chí và đã
viết nhiều bài đại luận khảo cứu, bút chiến, phê bình, nhiều truyện lịch sử có
giá trị, trong nhiều tờ báo và tạp chí cả Nam lẫn Bắc. Với cái sự đời hoan
nghênh ấy, Ngô Tất Tố chẳng cần ai giới thiệu nữa”[89].
Chỉ với ít dòng giới thiệu đó, Vũ Trọng Phụng đã khái quát giới
thiệu Ngô Tất Tố là người có phong cách làm báo thuộc “phái Nho học”;
người đã từng ra Bắc vào Nam với những bài đại luận khảo cứu, bút chiến,
phê bình…
Trên báo Mới, số ra ngày 15-6-1939, trong bài giới thiệu về tác phẩm
Tắt đèn, Trần Minh Tước đã đồng tình với nhận định của Vũ Trọng Phụng về
phong cách đậm chất Nho gia của Ngô Tất Tố và cho rằng, ngòi bút ấy đã
vượt ra khỏi những câu văn “điền viên vui thú”, vượt qua những nội dung về
“cải lương hương chính”, “vượt khỏi cả thế hệ của mình. Người môn đồ của
Khổng Mạnh này đã thở hít cái không khí xã hội của K.Marx như tất cả
những thiếu niên văn sĩ ở hàng tranh đấu”[128]. Nói cách khác, Ngô Tất Tố
là cây bút cựu học nhưng đã tiếp cận được trào lưu chung của xã hội, của
K.Marx. Theo Trần Minh Tước, việc tiếp cận những trào lưu xã hội của
K.Marx chính là tiền đề để Ngô Tất Tố đứng vào hàng ngũ những nhà văn,
nhà báo đấu tranh vì tiến bộ xã hội.
Cũng trong năm 1939, trong bài Tắt đèn - tiểu thuyết của Ngô Tất Tố,
trên báo Đông phương, tác giả Phú Hương cho rằng Ngô Tất Tố tuy đã chịu
ảnh hưởng của lối viết của Âu - Tây nhưng hoạt động sáng tạo của ông vẫn
mang đậm phong cách Nho gia với những di tích Hán học, những câu chuyện
kể theo lối Á Đông, tuy đã “chia ra từng chương một, nhưng nó đi luôn một
mạch từ đầu đến cuối, chuyện nọ liên tiếp chuyện kia…”[44]. Trong bài báo
này, Phú Hương đã rút ra nhận xét đó khi phân tích về mối liên kết nội dung
9
trong tác phẩm Tắt đèn. Sau này, khi tiếp cận sâu hơn di sản báo chí của Ngô
Tất Tố, chúng tôi đã thấy rõ hơn mối liên kết về nội dung trong mỗi tác phẩm
báo chí, cũng như giữa các tác phẩm báo chí với nhau luôn có sự liền mạch,
có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tạo nên một bức tranh tổng thể về đời sống
chính trị - xã hội đương thời.
Trong những năm từ 1942 đến 1945, Vũ Ngọc Phan đã lần lượt phát
hành các tập của bộ Nhà văn hiện đại. Có thể xem đây là một trong những
công trình nghiên cứu về các tác giả, tác phẩm đầu tiên của văn học, báo chí
Việt Nam. Vũ Ngọc Phan đã dành sự trân trọng đặc biệt đối với Ngô Tất Tố:
“Ông là một tay kỳ cựu trong làng văn, làng báo Việt Nam… vào số những
nhà Hán học đã chịu ảnh hưởng văn học Âu Tây và được người ta kể vào
hạng nhà Nho có óc phê bình, có trí xét đoán, có tư tưởng mới... và ông đã
theo kịp cả những nhà văn thuộc phái tân học xuất sắc nhất”[83, tr.549].
Theo Vũ Ngọc Phan, Ngô Tất Tố có phong cách đặt câu rất “Tây”, đó là
những chữ được, chữ bằng, chữ bị vốn thường dùng trong lối văn của người
phương Tây, do vậy, khi đọc văn của Ngô Tất Tố “người ta có cái cảm tưởng
như đọc những câu văn dịch ở tiếng Pháp”[83, tr.555].
Khi viết về những nhà Nho cùng thời với Ngô Tất Tố như Phan Kế
Bính, Trần Văn Ngoạn, Nguyễn Đôn Phục, Nguyễn Hữu Tiến… Vũ Ngọc
Phan cho rằng, sản phẩm các tác giả đó chủ yếu là những tác phẩm dịch thuật,
biên soạn theo những tác phẩm chữ Hán, hoặc viết theo truyện cổ dân gian…
còn Ngô Tất Tố là người đầu tiên đi vào lĩnh vực sáng tác, phê bình như các
cây bút lớp mới đương thời.
Vũ Ngọc Phan “thích nhất anh Tố ở những bài bút chiến”[83, tr.419],
những tác phẩm “bút chiến” của Ngô Tất Tố có thể chia thành hai nhóm: “một
loại bút chiến, gồm những bài đả kích những tệ tục, thói tham ô, dởm đời của
bọn quan lại, cường hào và tư sản. Cũng có những bài viết dưới dạng châm
biếm, trào lộng như những bài ở mục: “Nói mà chơi”; và “một loại nữa là
phóng sự và tiểu thuyết”[83, tr.423].
Như vậy, Vũ Trọng Phụng, Trần Minh Tước, Phú Hương và Vũ Ngọc
Phan đã chỉ ra một số đặc trưng về thể loại cũng như phong cách sáng tạo của
10
Ngô Tất Tố. Với bất kỳ thể loại nào, cây bút của Ngô Tất Tố cũng thể hiện sự
sắc sảo, sôi nổi, nhiệt tâm và được đồng nghiệp thừa nhận là “một tay bút
chiến đầy nhiệt tình, luôn luôn đứng về phía nhân dân, đả kích không khoan
nhượng giai cấp phong kiến và giai cấp tư sản”[83].
2. Tình hình nghiên cứu về Ngô Tất Tố từ năm 1945 đến năm 1985
2.1. Thời kỳ 1945 - 1959
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đất nước đã giành được độc lập,
nhưng chỉ sau một thời gian rất ngắn cả dân tộc lại phải bước vào cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Cũng như nhiều văn nghệ sỹ, trí thức
yêu nước cùng thời, Ngô Tất Tố lên đường phục vụ cách mạng, phục vụ
kháng chiến thông qua hoạt động sáng tạo của mình.
Ngô Tất Tố mất ngày 20-4-1954, ngay trước ngày giải phóng Điện
Biên, kết thúc chín năm kháng chiến trường kỳ. Những tháng ngày đó và
những năm tiếp theo, nhiều anh em, đồng chí của Ngô Tất Tố đã có bài viết
thể hiện niềm tiếc thương và kính trọng cuộc đời và sự nghiệp của ông:
Nguyên Hồng với Ngô Tất Tố (Văn nghệ, năm 1954); Nguyễn Công Hoan với
Đọc Tắt đèn của Ngô Tất Tố (Văn nghệ, năm 1956); Hồng Chương với
chuyên đề Tắt đèn cuốn tiểu thuyết hiện thực xuất sắc in trong sách Phương
pháp sáng tác trong văn học nghệ thuật (Nxb Sự thật, 1956); Bùi Huy Phồn
với Đọc lại Việc làng (Văn nghệ, năm 1958)…
Nghiên cứu lại những những bài viết đó, chúng tôi thấy rằng, các tác
giả đều đề cao tài năng của Ngô Tất Tố trong sự nghiệp sáng tác nói chung
của ông, nhất là qua những tác phẩm văn học Tắt đèn, Lều chõng; các tập
phóng sự Việc làng, Dao cầu thuyền tán… Tuy nhiên, các bài viết chỉ đề cập
chung chung về sự nghiệp báo chí và gần như không có nhận xét về đặc điểm,
phong cách sáng tạo báo chí của Ngô Tất Tố.
Năm 1954, khi nhận xét về văn nghiệp của Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng
đã cho rằng: “Ngòi bút rắn chắc của Ngô Tất Tố đã không e dè đưa lên những
sự thật. Người nông dân giãy lên trên những dòng chữ của Ngô Tất Tố (…).
Cái mạnh, cái sắc của Ngô Tất Tố ở chỗ dám nhìn thẳng vào sự thực, căm
giận, chửi rủa và phá bỏ. Cái mạnh, cái sắc của Ngô Tất Tố còn ở chỗ đi sâu
11
vào những khía cạnh đen tối, sai trái của kẻ thù”[39]. Dù đây chỉ là những
nhận xét chung về sự nghiệp cầm bút của Ngô Tất Tố, nhưng Nguyên Hồng
đã khắc họa được những đặc trưng phong cách của ngòi bút độc đáo này, đó
là tính chân thực, bám sát hiện thực của đời sống xã hội và dũng cảm đấu
tranh với những điều đen tối, sai trái của kẻ thù.
Năm 1956, trong một bài viết về Ngô Tất Tố, Hà Xuân Trường nhận
định: “Ngô Tất Tố đã can đảm nhìn vào sự thật, can đảm nói lên sự thật. Ngô
Tất Tố không góp nhặt tài liệu, không làm con số cộng. Ngô Tất Tố đã mang
vốn sống của mình nhận xét người, cảnh, biểu hiện người, cảnh. Ngô Tất Tố
không nói quá, cũng không tô vẽ. Ngô Tất Tố nói thật, viết thật… Tài châm
biếm của Ngô Tất Tố có khi chua xót, mỉa mai, có khi sắc cạnh, nhưng đó là
những mũi kim châm thẳng vào những kẻ thống trị gian ác”[123, tr.286].
Theo Hà Xuân Trường, chỉ có tài năng và lòng can đảm mới có thể tạo nên
những tác phẩm có phong cách như của Ngô Tất Tố.
Cũng trong năm 1956, trong bài Đọc Tắt đèn của Ngô Tất Tố, một cây bút
lão thành trên báo Văn nghệ, Nguyễn Công Hoan đã bày tỏ sự kính nể đối với
Ngô Tất Tố, một cây bút Nho gia nhưng “những tác phẩm của ông từ lối trình
bày, tả cảnh, cho đến cách hành văn, thật là mới mẻ - ngày ấy, chúng tôi gọi là
“Tây”, là “Âu hóa”[35, tr.181]. Sau này, trong công trình nghiên cứu về di sản
báo chí của Ngô Tất Tố, các nhà nghiên cứu đã chứng minh được rằng, Ngô Tất
Tố ít nhiều được học và biết tiếng Pháp, ngoài những câu chữ và lối viết của
người Pháp đã được Ngô Tất Tố vận dụng, ông còn nắm được một số phương
pháp tư duy của phương Tây ngay từ những năm 1928 - 1931 [17].
Năm 1959, ở Sài Gòn, Thế Phong xuất bản cuốn Những nhà văn tiền
chiến 1930 - 1945, tác giả đã dành cho Ngô Tất Tố những tình cảm thật cảm
động, ông xếp Ngô Tất Tố vào nhóm các nhà văn, nhà báo điển hình của giai
đoạn trước năm 1945, cho rằng Ngô Tất Tố là cây bút “hoài vọng dĩ vãng”;
“có vốn Nho học uyên bác nhưng chịu học hỏi Tây học”; “là nhà văn, nhà báo
của bình cũ rượu mới, có lối văn sáng sủa, hấp dẫn, quan sát tận tường, với
những rung cảm phong phú”[88, tr.403].
Chúng tôi cho rằng, những nhận xét của Thế Phong là sự khái quát xác
đáng về phong cách sáng tạo của Ngô Tất Tố mang đậm chất uyên bác của
12
người phương Đông, nhưng lại có cách viết văn, viết báo mới mẻ, hiện đại
của người phương Tây.
2.2. Thời kỳ 1960 - 1974
Năm 1961, Nhà xuất bản Giáo dục phát hành tập sách Văn học Việt
Nam 1930 - 1945 [74], đây là công trình nghiên cứu và khoa giáo đầu tiên của
nền giáo dục Việt Nam sau ngày hòa bình lập lại. Trong tập sách này, Nguyễn
Công Hoan đã có những nhận xét về Ngô Tất Tố: “anh em cầm bút phục nhất
ông ở điểm đặc biệt sau này ông là một nhà Nho thuần túy… Thế thì hẳn là
ông gần văn học Trung Quốc hơn văn học Pháp…”[45, tr.52].
Là bạn văn, bạn báo, cùng là cây bút hiện thực phê phán hàng đầu trước
Cách mạng tháng Tám, những lời nhận xét đó vừa là sự kính trọng của Nguyễn
Công Hoan đối với Ngô Tất Tố, vừa là những nhận định về phong cách của Ngô
Tất Tố trong hoạt động sáng tạo. Tuy làm báo là hoạt động sáng tạo theo cách
của người phương Tây, nhưng phong cách của Ngô Tất Tố “hẳn là gần văn học
Trung Quốc hơn”. Đó chính là phong cách “bình cũ rượu mới”, dù lối viết có
cách tân, hiện đại thế nào thì hồn cốt, nội dung, tư tưởng của tác phẩm vẫn được
chứa đựng, gói ghém trong những lối viết của một nhà cựu học, trong tâm thức
của sự “hoài vọng dĩ vãng” như cách nói của Thế Phong.
Năm 1957, Nguyễn Đức Đàn được Viện Văn học phân công nghiên cứu
về sự nghiệp sáng tác của Ngô Tất Tố. Bốn năm sau, năm 1961, Nguyễn Đức
Đàn đã báo cáo chuyên đề Ngô Tất Tố một cây bút chiến đấu xuất sắc trong
văn học Việt Nam [15]. Theo đó, nhà Nho Ngô Tất Tố, người đã từng đỗ đầu
xứ, nhưng trước những biến thiên của thời đại, vị đồ đệ “cửa Khổng sân
Trình” đã sớm tiếp thu được những tư tưởng học thuật mới và trở thành một
cây bút xuất sắc, một kiện tướng trong dòng văn học hiện thực phê phán.
“Trong làng văn, làng báo, cái tên Ngô Tất Tố đã trở nên quen thuộc và được
nhiều người mến phục. Từ những tác phẩm lớn cho đến những bài báo, những
bài phóng sự ngắn, ngòi bút của Ngô Tất Tố luôn luôn biểu hiện một tinh thần
chiến đấu sắc bén và mạnh mẽ”[13, tr.331].
Theo Nguyễn Đức Đàn, hầu hết những tác phẩm báo chí của Ngô Tất
Tố là những bài phê bình, đả kích hoặc châm biếm, giễu cợt với giọng văn
13
linh hoạt, sắc sảo, có khi nhẹ nhàng, tinh tế, có khi đanh thép, mạnh mẽ.
“Ngòi bút của Ngô Tất Tố là một ngòi bút chiến đấu có phẩm chất cách
mạng. Phẩm chất cách mạng ấy biểu hiện ở chỗ ngòi bút của ông biết tôn
trọng sự thật và biết đứng về phía quần chúng bị áp bức mà phát biểu”[15].
Ngòi bút của Ngô Tất Tố còn bộc lộ tình cảm nồng nhiệt đối với quần chúng
và cách mạng, “có một ý nghĩa vị nhân sinh rõ rệt. Cái nhìn của Ngô Tất Tố
đối với con người và cuộc sống xã hội là một cái nhìn chân thực, đúng đắn,
không phiến diện”[15].
Theo quan điểm của một số cây bút cùng thời với Ngô Tất Tố và của
một số nhà nghiên cứu sau này, vấn đề thể loại báo chí trước Cách mạng
tháng Tám chủ yếu được phân định qua nội dung của tác phẩm báo chí, hoặc
qua những chiều hướng dư luận khác nhau được tạo ra bởi nội dung của tác
phẩm đó trong đời sống chính trị - xã hội. Chính từ quan điểm đó, Nguyễn
Đức Đàn đã khu biệt giữa sáng tác với phê bình nghiên cứu, ông nhận định:
“Trên báo chí cũng như trong sáng tác, phê bình nghiên cứu, ngòi bút của
Ngô Tất Tố luôn luôn dũng cảm tố cáo những cái xấu xa, vạch ra những cái
thoái hóa, lạc hậu ở trong xã hội”[13, tr.332]. Phải chăng, Nguyễn Đức Đàn
đã khu biệt những bài báo thông thường như cách gọi hiện nay với các bài bút
chiến mà ông gọi là phê bình? Năm 1942, Vũ Ngọc Phan đã đưa ra quan điểm
về thể loại tác phẩm báo chí của Ngô Tất Tố, đó là: “một loại bút chiến, gồm
những bài đả kích những tệ tục, thói tham ô, dởm đời của bọn quan lại, cường
hào và tư sản…”[83, tr.423].
Như vậy, những bài báo tố cáo những cái xấu xa, vạch ra những cái
thoái hóa, lạc hậu ở trong xã hội; đả kích những tệ tục, thói tham ô, dởm đời
của bọn quan lại, cường hào và tư sản… có thể gọi là bài báo phê bình như
cách nói của Vũ Ngọc Phan; hoặc gọi là những bài bút chiến như cách nói của
Nguyễn Đức Đàn. Và theo hai ông, dù gọi bằng tên gì thì đó chính là thể loại
tác phẩm Ngô Tất Tố viết nhiều nhất trước Cách mạng tháng Tám.
Trong lời giới thiệu cuốn Tắt đèn do Nhà xuất bản Văn hóa phát hành
năm 1962, Nguyễn Tuân đã nhận định rằng sự nghiệp cầm bút của Ngô Tất
Tố gồm nhiều mặt: sáng tác, luận bình, bút chiến và dịch thuật [118], có lẽ
Nguyễn Tuân đã xếp các tác phẩm văn học của Ngô Tất Tố vào nhóm sáng
14
tác; dịch thuật là một nhóm riêng; còn bình luận và phê bình là những tác
phẩm báo chí được xếp chung vào một nhóm.
Năm 1962, Nguyễn Đức Đàn và Phan Cự Đệ đã báo cáo chung kết quả
nghiên cứu về sự nghiệp cầm bút của Ngô Tất Tố [14]. Trong chuyên đề Một
cây bút chiến đấu sắc bén trong làng báo thời Pháp thuộc, các tác giả đã tập
trung nghiên cứu sâu về loại văn “Nói mà chơi” của Ngô Tất Tố. Theo đó,
loại văn trong chuyên mục “Nói mà chơi” do Ngô Tất Tố đảm đương là
“những bài bình luận ngắn, gọn về xã hội, chính trị, thời sự, văn nghệ, giáo
dục…”[14, tr.20]. Theo các nhà nghiên cứu, loại văn này được gọi là tiểu
phẩm, là những bài bình luận ngắn được đăng báo trong các chuyên mục.
Trước năm 1945, loại văn này rất thịnh hành, nó xuất hiện do yêu cầu phê
phán xã hội với lối viết châm biếm dí dỏm, sắc cạnh, phù hợp với khẩu vị của
độc giả thành thị lúc bấy giờ, hơn nữa, loại văn này phù hợp với điều kiện
thời gian của cả người viết báo và người đọc báo. Ngô Tất Tố “bằng một
nghệ thuật châm biếm sắc cạnh, Ngô Tất Tố đã ngang nhiên vạch mặt chỉ
trán tất cả những chuyện tàn ác thối tha, nhơ nhớp, kệch cỡm, giả dối, bịp
bợm của xã hội thời thuộc Pháp”[14, tr.20].
Những tiểu phẩm báo chí của Ngô Tất Tố từng bước thể hiện sự
trưởng thành của cây bút có xuất thân cựu học và “ngày càng đạt đến một
trình độ nghệ thuật xuất sắc”[14, tr.21]. Ngay từ những tác phẩm đầu tiên,
Ngô Tất Tố đã đứng trên lập trường của chủ nghĩa hiện thực phê phán, cũng
giống như Lỗ Tấn thời kỳ từ 1927 trở về trước, Ngô Tất Tố luôn phê bình xã
hội, vạch mặt những cái xấu xa, giả dối, bịp bợm của giai cấp thống trị [14].
Nghệ thuật viết tiểu phẩm của Ngô Tất Tố được thể hiện ở 4 bình diện,
đó là: điển hình hóa; tính hình tượng; nghệ thuật châm biếm; ngôn ngữ. Trong
đó, nổi bật nhất là nghệ thuật châm biếm, một số bài châm biếm của Ngô Tất
Tố đã đạt đến một trình độ xuất sắc [14].
Cũng trong năm 1962, trong bài Ngô Tất Tố như tôi đã biết trên Tạp
chí Văn nghệ, Nguyễn Đức Bính nhận định: “Ngô Tất Tố trước hết là một nhà
báo, một nhà báo cả những khi viết tiểu thuyết, một nhà báo có biệt tài”[5];
ông là một người đặc biệt bởi ông “là nhà báo viết tạp văn, cái mà Âu Tây gọi
15
là tiểu phẩm, thời bình, một loại văn trên có nhiều nhà văn có tài như Lỗ Tấn
chẳng hạn đã xây dựng cả một sự nghiệp”[5].
Theo Nguyễn Đức Bính, tạp văn là một vũ khí đấu tranh trong xã hội
có đấu tranh giai cấp. Một bên là do cuộc đấu tranh chống áp bức bóc lột
không cho phép sáng tác trong những điều kiện thời gian rộng rãi, một bên là
tài năng hài hước, là nhiệt tình xã hội của nhà văn, hai yếu tố ấy cộng lại làm
nên tạp văn.
Như vậy, những tác phẩm báo chí của Ngô Tất Tố, Vũ Ngọc Phan gọi là
“bút chiến”; Nguyễn Đức Đàn và Phan Cự Đệ gọi là “tiểu phẩm” và đặt tiểu
phẩm trong mối liên hệ tạp văn, tản văn; còn Nguyễn Đức Bính là người đầu tiên
cho rằng, tác phẩm báo chí của Ngô Tất Tố gọi là “tạp văn” với dẫn chiếu “Âu
Tây gọi là tiểu phẩm”, đồng thời cho rằng, đó loại văn mà Lỗ Tấn đã xây dựng
cả một sự nghiệp.
Nguyễn Đức Bính không đi sâu về khái niệm tạp văn, nhưng ông đã nói
kỹ hơn về đặc điểm của về thể loại này, đó là một lối văn đặc biệt. “Nhẹ nhàng
mà vẫn thâm thúy, thẳng thắn mà vẫn kín đáo, cứng rắn mà không làm mất
duyên dáng, nghiêm nghị mà không làm mất thân mật, bóng bẩy nhưng vẫn rõ
ràng như cục đất ném vào mặt, với một chút, nhưng chất phác, như tinh nghịch,
như dí dỏm, khóc hổ ngươi, cười ra nước mắt, đó là tạp văn. Ngô Tất Tố trước
hết là một nhà viết tạp văn”[5].
Theo Nguyễn Đức Bính, phong cách của Ngô Tất Tố rất cụ thể, đó là
“một lối viết mới, độc đáo nữa là khác, không chút gì nhắc lại lối văn biền ngẫu
của các cụ đồ, giọng văn khi thì đậm đà, khi thì duyên dáng, nhưng đặc biệt là dí
dỏm; câu văn sắc cạnh, trong sáng, ngắn gọn, chữ dùng thường mạnh dạn và ý
nhị”[5]. Phong cách đó còn thể hiện tinh thần chiến đấu, bởi “Chỉ trong bút
chiến nhà văn mới phát huy được hết tài năng của mình”[5].
Năm 1973, Nhà xuất bản Giáo dục phát hành bộ sách Lịch sử văn học
Việt Nam, trong tập V (1930 - 1945), Nguyễn Đăng Mạnh đã có chuyên đề
giới thiệu về Ngô Tất Tố. Tác giả cho rằng, Ngô Tất Tố là nhà văn, nhà báo
có nhiều đức tính tốt đẹp:“Lòng yêu nước, thương dân đã khiến ông phát huy
được những yếu tố tích cực của Nho giáo và của các học thuyết cổ đại Trung
Hoa nói chung; là người có tài năng nhiều mặt, có sức sáng tạo phong phú,
16
bền bỉ. Ông có đầy đủ điều kiện cốt yếu về đức và tài để có thể trở thành một
nhà báo, một nhà văn xuất sắc”[74, tr.71].
Cũng trong năm 1973, từ miền Nam, trong cuốn Bốn mươi năm nói láo,
Vũ Bằng đã bày tỏ sự kính phục Ngô Tất Tố về đức độ, văn tài, học lực và coi
Ngô Tất Tố như một người thầy; hai ông từng có một thời gian khá dài làm
việc ở tờ Tương lai và tờ Công dân, cùng nhau theo theo nghiệp cầm bút với
mục tiêu: “đả kích quan trường và lên án chế độ thực dân”[3, tr.112].
Vũ Bằng hồi tưởng “Ngô Tất Tố (dưới bút hiệu Ngô Công) viết phim
thì tuyệt tác vì không những dí dỏm mà lại sâu sắc (có lẽ vì bác có cái vốn
chữ Nho rất khá mà lại ham học ham đọc các sách Tàu, dịch các sách Tây
ra). Ngô Tất Tố là một trong những bậc thầy đã khuyên tôi phải viết cho rõ,
cho sáng, phải lấy nghệ thuật phục vụ nhân sinh”[46, tr.262]. Vũ Bằng gọi
những tác phẩm báo chí của Ngô Tất Tố là “phim hàng ngày”[3, tr.97] và
được ông lý giải, đó là “một loại văn đặc biệt dễ làm cho người ta ưa và dễ đi
sâu vào tâm hồn người đọc hơn cả các loại văn khác trong văn chương kim
cổ. Có lẽ vì thế tờ báo nào muốn cho phổ cập cũng có mục “phim”, vui cười,
nói phiếm” [4, tr.175].
Theo Vũ Bằng, Ngô Tất Tố là người đã hướng dẫn cho ông nhiều về
cách viết báo, phải viết “cho sáng, cho rõ”, phải đặt mình ở tầm hiểu biết,
trình độ của người đọc thì mới viết đúng, người đọc mới có thể hiểu được,
nếu không thì “không ai hiểu, vì bác không ở tỉnh và ở quê nên không biết:
trình độ độc giả của mình còn kém, viết như bác chỉ để một vài anh trí thức
đọc thôi, còn đa số thì không hiểu mô tê gì cả”[46, tr.262].
2.3. Thời kỳ 1975 - 1985
Năm 1975, Nhà xuất bản Văn học phát hành bộ sách 2 tập Ngô Tất Tố -
tác phẩm do của Phan Cự Đệ chủ biên. Sau báo cáo kết quả nghiên cứu Ngô
Tất Tố được Nguyễn Đức Đàn và Phan Cự Đệ công bố năm 1962 thì đây là
công trình giới thiệu toàn diện hơn về sự nghiệp của Ngô Tất Tố với những
thành công của ông trên các lĩnh vực: báo chí, nghiên cứu dịch thuật, văn
học... Riêng về lĩnh vực báo chí, lần đầu tiên Phan Cự Đệ tuyển tập và giới
thiệu 112 tác phẩm báo chí của Ngô Tất Tố được viết trong khoảng thời gian
1929 - 1943.
17
Ở công trình này, Phan Cự Đệ cho rằng Ngô Tất Tố là một nhà Nho
nghèo yêu nước tiến bộ, sớm giác ngộ, đi theo cách mạng và nỗ lực, phấn đấu
trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Theo Phan Cự Đệ, nếu không
thấy rõ điểm xuất phát đó của Ngô Tất Tố thì không thể đánh giá đúng mức
được những cố gắng và sự tiến bộ vượt bậc của ông.
Năm 1983, Lê Thị Đức Hạnh có bài Đặc sắc trong tiểu phẩm của Ngô
Tất Tố trên tạp chí Văn học. Trong bài báo này, Lê Thị Đức Hạnh đã thống
nhất với quan điểm của Nguyễn Đức Đàn và Phan Cự Đệ, cho rằng, tiểu
phẩm báo chí ra đời và phát triển trước hết là do những đòi hỏi của tình hình
chính trị - xã hội những năm 1930-1945. Trước phong trào đấu tranh của quần
chúng nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, thực dân Pháp và chính quyền bù
nhìn đã đưa ra những chính sách mị dân, ngu dân, tìm cách ru ngủ và trụy lạc
hóa thanh niên, đánh lạc hướng suy nghĩ của trí thức... bọn “bồi bút” dấy lên
các phong trào như bảo tồn quốc túy, vui vẻ trẻ trung, cải lương hương
chính… bàn về các chuyện bảo hộ, trực trị, “với cái nhìn nhạy bén, Ngô Tất
Tố chĩa ngay ngòi bút trào phúng vào những chính sách bịp bợm đó”[31].
Bước sang thời kỳ Mặt trận Dân chủ (1936-1939), do chính quyền thực dân
phải nới lỏng chính sách kiểm duyệt báo chí nên những tác phẩm báo chí
mang tính chiến đấu của Ngô Tất Tố có điều kiện ra đời dồn dập và chưa bao
giờ ngòi bút của ông tỏ ra sắc sảo và dũng cảm bằng lúc này.
Lê Thị Đức Hạnh gọi những tác phẩm báo chí của Ngô Tất Tố là tiểu
phẩm, đó là “những bài báo rất giàu tính nghệ thuật, là sự kết hợp nhuần
nhuyễn giữa lý trí và hình tượng, thông qua những sự kiện, những tài liệu cụ
thể, tạo nên một sức thuyết phục mạnh”[31]. Những bài báo của Ngô Tất Tố
luôn sử dụng tiếng cười làm vũ khí phê phán, có sức gợi cảm đặc biệt ở nhiều
mức độ. Ở ông, có khi tiếng cười như ngọn roi quất mạnh vào mặt đối thủ, có
khi lại là sự mỉa mai, giễu cợt, mới đọc qua tưởng như bông đùa nhẹ nhàng,
nhưng sau mới ngấm dần, càng ngấm càng đau.
Theo Lê Thị Đức Hạnh, phong cách viết báo của Ngô Tất Tố giản dị, tự
nhiên, nhưng giàu chất lý luận; sử dụng nhiều hình ảnh sinh động, cụ thể, có
khả năng gây cười, song vẫn giữ được sự nghiêm túc và tính chiến đấu mạnh
18
mẽ. Với xuất thân cựu học nên những tác phẩm báo chí của Ngô Tất Tố luôn
mang những vết tích về đạo đức, như sự tiết tháo, tính cương trực, lòng trong
sạch, không chịu hạ mình xu phụ, cầu cạnh kẻ quyền thế, không chịu khuất
phục thế lực đồng tiền, bán rẻ lương tâm và ngòi bút cho kẻ thống trị [130].
Về nghệ thuật báo chí của Ngô Tất Tố, Lê Thị Đức Hạnh khái quát ở
năm khía cạnh, đó là: sử dụng những hình ảnh quen thuộc trong cuộc sống
hàng ngày; sử dụng nhiều điển tích, tục ngữ, ca dao, giai thoại văn học; sử
dụng lối tỉ dụ, ngoa ngữ, chơi chữ; khai thác các đề tài bằng cách đặt đối lập
một hiện tượng nào đó. Với nghệ thuật đó, đọc những bài báo của Ngô Tất Tố
người đọc không thấy có sự đơn điệu, trùng lặp, người đọc dễ dàng bắt gặp
những sự thú vị, bất ngờ. Đó chính là phong cách của Ngô Tất Tố.
3. Tình hình nghiên cứu về Ngô Tất Tố từ năm 1986 đến nay
3.1. Tình hình nghiên cứu về Ngô Tất Tố ở Việt Nam
Năm 1993, Bộ Văn hóa - Thông tin, Hội Nhà văn Việt Nam, Hội Nhà báo
Việt Nam và Viện Văn học đã phối hợp tổ chức Hội thảo kỷ niệm lần thứ một
trăm ngày sinh của Ngô Tất Tố. Nhân dịp này, nhiều nhà báo, nhà nghiên cứu
phê bình đã công bố những công trình nghiên cứu về sự nghiệp của Ngô Tất Tố
với những thành tựu quan trọng liên quan đến sự nghiệp báo chí của ông.
Trong bài Ngô Tất Tố - nhà báo nghiệp văn, Phan Quang, lúc đó là
người đứng đầu Hội Nhà báo Việt Nam đã nhận định: “nói đến sự nghiệp báo
chí Ngô Tất Tố, không ít người nghĩ ngay đến tiểu phẩm của ông. Cũng là
điều hợp lý. Đó là những áng văn xuất sắc, còn lại với thời gian. Có lần tôi
đánh liều liên hệ tiểu phẩm của ông với Lỗ Tấn, vì cảm thấy ở thể loại này,
hai nhà văn có những tố chất chung”[92, tr.658]. Theo Phan Quang, tiểu
phẩm báo chí là thể loại tác phẩm báo chí được nhiều cây bút sử dụng để bày
tỏ chính kiến của mình. Tuy nhiên, để thành công với thể loại này, người viết
phải hội tụ được ít nhất hai điều kiện: một là, phải có nền tảng văn hóa thâm
hậu, hiểu mười nói một; hai là, phải có trí tuệ sắc sảo biểu hiện bằng ngôn từ.
Phan Quang khái quát: “Cái trên là kết quả tích cóp, tu dưỡng cả đời người.
Cái sau, có phần trời phú, song còn là đức khiêm nhường, lòng tôn kính
người đọc, không cẩu thả dù trong phút giây”[92, tr.658].
19
Điều quan trọng nhất đối với người viết báo là ở cái tâm, thái độ và
cách nhìn. Cũng từ cái tâm mà Ngô Tất Tố có thể viết nên những tác phẩm
báo chí sắc như dao; là ngọn lửa thôi thúc ông chiến đấu không mệt mỏi, đả
kích không nương tay quan Tây và quan ta, những kẻ cường hào và hãnh tiến,
bọn vô lại và tất cả những điều chướng tai gai mắt trong xã hội và trên chính
trường thời ấy. Ngô Tất Tố đã thể hiện phong cách của mình qua hoạt động
báo chí và tác phẩm báo chí. Phan Quang đã thốt lên rằng làm sao một người
không tiếp cận thẳng với báo chí thế giới hiện đại lại có thể viết nên những
bài báo “Tây” như vậy về phong cách. Phong cách viết của Ngô Tất Tố mới
mẻ về văn phong, về cách vào đề, dẫn dắt sự việc cho đến chọn câu kết thúc...
Trong bài Tiểu phẩm báo chí của Ngô Tất Tố, tác giả Trương Chính đã
giới thuyết về tiểu phẩm. Thời Ngô Tất Tố, trước Cách mạng tháng Tám,
người ta chưa gọi những áng văn xuôi bàn thế sự, thời sự gọn nhẹ này bằng
cái tên “tiểu phẩm”, cũng chưa gọi “tạp cảm, tạp văn” như Lỗ Tấn, mà dùng
một từ rất cổ là “tạp trở”. Tạp trở xuất hiện cùng một lần với báo chí. Khoảng
những năm 1915-1917, trên tờ Đông Dương tạp chí, Tản Đà - Nguyễn Khắc
Hiếu đã viết nhiều bài bàn phiếm kiểu ấy rồi… Vì là một thể tài nhẹ, dễ đọc,
hợp với người xem báo, nên sau đó, báo nào cũng dành cho nó vài ba cột,
dưới những đề mục ý nghĩa rõ ràng: Nhàn đàm, Thời đàm, Hài đàm, Nói chơi,
Nói mà chơi, Nói hay đừng [8]. Chính Tản Đà là người đã dẫn dắt Ngô Tất Tố
bước những bước đi đầu tiên vào làng báo, nên chắc hẳn rằng, những bài viết
“bàn phiếm kiểu ấy” có ảnh hưởng sâu sắc đến phong cách viết của Ngô Tất
Tố sau này.
Trương Chính cho rằng, khi đã lấy ngòi bút làm vũ khí đánh kẻ thù, thì
phải đánh nhanh, đánh gọn, đúng đối tượng, đúng chỗ hiểm, đánh thật mạnh.
Để làm được điều đó, chắc hẳn rằng Ngô Tất Tố phải có một sự cố gắng tột
bậc để thay đổi văn phong. Bởi lối văn của các nhà Nho thường chuộng văn
biền ngẫu, dài dòng, nay viết tiểu phẩm phải viết theo lối mới “ngắn, sắc,
xoay chuyển nhanh, câu thường đặt theo lối phá cách. Đó là văn phong của
báo chí phương Tây…”[8]. Là một nhà “cựu học”, Ngô Tất Tố biết nhiều từ
Hán - Việt nhưng ông không lạm dụng mà sử dụng rất nhuần nhuyễn; ông biết
20
nhiều điển tích, điển cố nhưng rất tiết chế, sử dụng vừa phải và đúng lúc,
không khoe khoang; ông viết như nói, không trau chuốt, đả kích cũng không
phải đánh cho sướng tay, chửi bới cho sướng miệng mà là để tố cáo, vạch trần
một cách nghiêm chỉnh.
Phong Lê, Viện trưởng Viện Văn học lúc đó có bài Ngô Tất Tố một
chân dung lớn, một sự nghiệp lớn. Tác giả đã có những nhận định về vai trò
của lớp trí thức đầu thế kỷ XX, trong đó, Ngô Tất Tố xứng đáng là một chân
dung lớn và tiêu biểu, là người phát ngôn và thúc đẩy cho cả hai nhu cầu cách
mạng và canh tân, người đáp ứng cả hai phương diện nội dung và hình thức
của văn chương theo hướng cách mạng và hiện đại [61].
Theo Phong Lê, là một nhà Nho, một trí thức Tây học, một kẻ sĩ của
nhân dân, những phẩm chất đi vào văn Ngô Tất Tố với những chạm khắc thật
sắc sảo. “Với tư cách nhà văn hóa, học giả, người nghiên cứu dày dặn và sâu
sắc về văn hóa dân tộc nói riêng và văn hóa phương Đông cổ truyền, có thể
được xem là phần cơ bản tạo nên cốt cách riêng của Ngô Tất Tố”[61].
Khác với Phong Lê, Vũ Tú Nam đã có những nhận định cụ thể hơn về
phong cách của Ngô Tất Tố, ông cho rằng, dù Ngô Tất Tố ký những tên khác
nhau, nhưng người đọc có thể nhận ra tác giả của nó, bởi những tác phẩm báo
chí ấy đều có một thái độ dứt khoát, dũng cảm, cùng một giọng điệu, một bút
pháp: khi cười cợt, khi châm biếm mỉa mai, vạch mặt chỉ tên, lúc bóng gió từ
chuyện vặt ngày thường bắt sang một vấn đề thời sự chính trị nóng hổi... và
bởi Ngô Tất Tố có “văn phong hết sức linh hoạt, vào thẳng đề như một mũi
lao, cách lập luận vừa đùa vui vừa chặt chẽ, sự tố cáo có cơ sở chẳng hề là
bới móc cá nhân mà là vạch trần những hành vi có hại cho đời sống và đạo lý
xã hội”[70].
Trong bài Nhà Nho thức thời, ngòi bút tình cảm của Ngô Tất Tố,
Vương Trí Nhàn đã đưa ra những nhận định về hạt nhân triết lý Nho giáo
trong phong cách Ngô Tất Tố. Trước năm 1945, các nhà văn đến với báo, sẵn
sàng có mặt trong đủ loại bài vở khác nhau, nhưng chủ yếu là “viết các bài
vặt, để trêu chọc thiên hạ gây sự với đám quan trường cùng đám trọc phú,
hoặc cãi nhau với các báo bạn. Những bài báo nhỏ này, có những cái tên ước
21
lệ: phiếm luận, nhàn đàm, hài văn... và được xếp chung vào một mục là tiểu
phẩm”[69]. Theo Vương Trí Nhàn, những tác phẩm báo chí của Ngô Tất Tố
luôn thể hiện cách viết tình cảm, mực thước và cổ điển. Song cũng chính vì
vậy nó là một thứ văn chương thời nào người ta cũng đọc được.
Năm 1998, Hà Minh Đức đã công bố chuyên đề Tiểu phẩm văn học và
báo chí của Ngô Tất Tố. Theo Hà Minh Đức, tiểu phẩm văn học và báo chí
của Ngô Tất Tố vừa mang đầy đủ đặc điểm của tiểu phẩm báo chí lại vừa
mang đặc điểm của tiểu phẩm văn học. Gọi là tiểu phẩm báo chí vì các tác
phẩm đều khai thác một cách thời sự chuyện có thật trong đời sống hàng
ngày. Người và việc trong tiểu phẩm của ông thường có địa chỉ, người thật
việc thật nhưng không phải để ca ngợi mà chủ yếu là đả kích, châm biếm nên
tính đấu tranh, khẩu khí bút chiến của các tiểu phẩm rất rõ rệt [22].
Hà Minh Đức nhận định, tính thời sự bao giờ cũng là ưu tiên hàng đầu
trong những tiểu phẩm văn học và báo chí của Ngô Tất Tố; đồng thời tính
luận chiến của tiểu phẩm văn học và báo chí của Ngô Tất Tố không bó hẹp
trong một địa hạt nào mà mở rộng trên nhiều phạm vi chính trị, xã hội, văn
hóa, đạo lý, thẩm mỹ... Điều nổi bật trong những tiểu phẩm văn học và báo
chí của Ngô Tất Tố là “tinh thần đấu tranh mạnh mẽ cho công bằng xã hội,
cho quyền sống của con người… Phẩm chất ấy thể hiện trong các bài viết tạo
nên linh hồn và dũng khí của ngòi bút” [22].
Về phong cách sáng tác của Ngô Tất Tố, Hà Minh Đức cho rằng, Ngô
Tất Tố không chạy theo từng việc nhỏ mà có cái nhìn bao quát vào bức tranh
chung của xã hội, vào bản chất của từng sự kiện, hiện tượng. Ông chú ý đến
những chi tiết nảy sinh trong đời thường, những chuyện tưởng như vụn vặt
nhưng từ đó phát hiện ra nhiều vấn đề cơ bản của đời sống. Nhà Nho Ngô Tất
Tố với kiến thức học vấn uyên thâm về cổ học, nhà trí thức với khuynh hướng
xã hội tiến bộ, nhà văn hiện thực am hiểu và bênh vực cho quyền lợi của
người nông dân, nhà báo năng động với ngòi bút giàu sức chiến đấu. Ngòi bút
châm biếm của Ngô Tất Tố có nhiều giọng điệu khác nhau. “Ngô Tất Tố đã
sử dụng nhiều cách viết khác nhau từ lý thuyết để chỉ ra một kinh nghiệm, một
phương pháp đấu tranh”[22]. Ngô Tất Tố thường hướng mũi tiến công và
22
cảm hứng phê phán vào những vấn đề có ý nghĩa xã hội. Chất châm biếm,
trào phúng của tiểu phẩm văn học và báo chí Ngô Tất Tố thâm thúy, đánh
trúng đích, có chiều sâu văn hóa cổ kim và ngôn từ nhiều màu vẻ. Dấu ấn cá
nhân, dấu ấn của thời đại đều đậm nét. Ngô Tất Tố nhà văn, Ngô Tất Tố nhà
báo, sự kết hợp hài hòa hai thiên chức ở một con người, hai phẩm chất văn
chương và báo chí ở một ngòi bút.
Năm 2000, Tạ Ngọc Tấn xuất bản cuốn Tiểu phẩm báo chí Hồ Chí
Minh. Tác giả đã có những nhận xét, đánh giá về những tác phẩm báo chí của
Ngô Tất Tố: “…phải đến những năm 30 của thế kỷ này, khi mà báo chí công
khai phát triển rầm rộ thì tiểu phẩm mới thực sự khẳng định vai trò vị trí của
mình là một thể loại báo chí có uy lực. Đặc biệt trong thời kỳ Mặt trận dân
chủ (1936-1939), khi báo chí tiến bộ và cách mạng có điều kiện phát triển
công khai, tiểu phẩm thực sự có đất để cắm rễ và nở rộ. Trong giai đoạn này,
tác giả tiểu phẩm để lại dấu ấn đặc biệt sâu đậm trên mặt báo trong nước là
Ngô Tất Tố”[107, tr.7].
Theo Tạ Ngọc Tấn, dấu ấn đặc biệt sâu đậm được Ngô Tất Tố thể hiện
qua tiểu phẩm, chính là sự kết hợp giữa những phương pháp thể hiện của báo
chí và thủ pháp nghệ thuật của văn học, giữa ngôn ngữ thông tin chính luận
với ngôn ngữ hình tượng nghệ thuật… Trong những tác phẩm báo chí của
Ngô Tất Tố luôn có sự kết hợp rất linh hoạt giữa các yếu tố của chính luận, tự
sự, thông tin và thơ ca, hò vè, ca dao, dân ca.
Trong chuyên đề Từ nhà Nho đến nhà văn, nhà báo Việt Nam hiện đại,
tác giả Nguyễn Đức Dũng cho rằng, Ngô Tất Tố là người đã góp phần nâng
tiểu phẩm lên địa vị ngang hàng với những thể loại báo chí khác. Nhưng điều
đáng kinh ngạc nhất là ông đã vận dụng cái vốn Nho học của mình để viết báo
một cách đặc biệt xuất sắc với văn phong hiện đại, hoàn toàn Việt Nam [11].
Năm 2004, Hội đồng Khoa học và công nghệ thành phố Hà Nội đã
nghiệm thu Đề tài khoa học “Di sản báo chí Ngô Tất Tố - Ý nghĩa lý luận và
thực tiễn đối với sự nghiệp phát triển báo chí thủ đô” do Phan Cự Đệ chủ
nhiệm. Đây là công trình nghiên cứu đầu tiên có quy mô lớn, trên cơ sở khảo
23
sát 1.350 tác phẩm đăng báo, trong đó phần lớn là các tác phẩm mới xác định
được là của Ngô Tất Tố.
Số lượng tác phẩm báo chí nêu trên của Ngô Tất Tố rất có ý nghĩa với
các nhà nghiên cứu, bởi đến năm 1994, nhà báo Phan Quang đã từng đặt câu
hỏi và tiếc nuối, rằng: “Ngô Tất Tố đã viết bao nhiêu tiểu phẩm, không tính
những tác phẩm văn học, những công trình khảo cứu và dịch thuật, những bài
đại luận?... Chúng tôi chỉ được đọc một phần rất nhỏ những gì nhà báo Ngô
Tất Tố đã cho in ra dưới nhiều tên...”[92, tr.658]. Và cũng bởi đến tận năm
2011 (năm phát hành cuốn Tổng tập tản văn Ngô Tất Tố) phần lớn các công
trình nghiên cứu về Ngô Tất Tố đều khảo sát, nghiên cứu trên cơ sở hơn 100
tác phẩm báo chí đã được xác định và tuyển tập từ năm 1975.
3.1.1. Luận án tiến sĩ
- Luận án tiến sĩ, chuyên ngành văn học Việt Nam: Ba phong cách trào
phúng trong văn học Việt Nam thời kỳ 1930 - 1945 của Trần Văn Hiếu, bảo
vệ năm 1999 tại Đại học Sư phạm Hà Nội. Luận án nghiên cứu phong cách
trào phúng của một số tác giả tiêu biểu trước năm 1945, trong đó có Ngô Tất
Tố. Qua đó, tác giả cố gắng phát hiện nét nổi trội của mỗi phong cách để thấy
đóng góp về tư tưởng và nghệ thuật của các cây bút này đối với văn học Việt
Nam hiện đại.
- Luận án tiến sĩ, chuyên ngành ngữ văn: Quan niệm nghệ thuật về
hoàn cảnh trong văn xuôi hiện thực (1930 - 1945) qua một số tác phẩm tiêu
biểu của Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao của Phạm Mạnh Hùng, bảo
vệ năm 2001 tại Đại học Sư phạm Hà Nội. Luận án đã góp phần khẳng định
có một quan điểm nghệ thuật về hoàn cảnh trong trào lưu văn học hiện thực
thời kỳ 1930 - 1945 được bộc lộ qua cấu trúc nghệ thuật trong một số tác
phẩm của Ngô Tất Tố; khẳng định đóng góp của Ngô Tất Tố về phương diện
xây dựng hoàn cảnh nghệ thuật, đổi mới một phương diện hình thức trong tác
phẩm văn chương Việt Nam.
- Luận án tiến sĩ, chuyên ngành văn hóa Việt Nam: Sự nghiệp sáng tác
của Ngô Tất Tố của Trần Thị Phương Lan, bảo vệ năm 2008 tại Viện Văn
học, Viện Khoa học xã hội Việt Nam. Luận án đi sâu tìm hiểu sự nghiệp sáng
24
tác của Ngô Tất Tố thể hiện trong các tác phẩm văn học và báo chí; khẳng
định những đóng góp của ông đối với nền văn hóa dân tộc. Trong đó, tác giả
đi sâu tìm hiểu những đặc điểm về thi pháp, phong cách nghệ thuật của văn
học và báo chí của Ngô Tất Tố.
- Luận án tiến sĩ, chuyên ngành Văn học Việt Nam: Giao thoa nghệ
thuật giữa hai khuynh hướng văn xuôi lãng mạn và hiện thực thời kỳ 1932 -
1945 của Thành Đức Bảo Thắng bảo vệ năm 2013 tại Viện Khoa học xã hội
Việt Nam. Luận án đi sâu tìm hiểu hiểu sự gặp gỡ, kế thừa giữa một số tác giả
của hai khuynh hướng, truyền thống và hiện đại, giữa Đông và Tây, thấy rõ
hơn những giá trị giá trị mới trong quá trình vận động, hòa nhập với văn học,
báo chí hiện đại trên thế giới.
3.1.2. Luận văn thạc sĩ
Qua tổng hợp chưa đầy đủ của chúng tôi, có rất nhiều luận văn thạc sĩ
có đề tài nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp của Ngô Tất Tố nhưng chủ yếu
là các luận văn thuộc chuyên ngành văn học, ngôn ngữ, văn hóa… có rất ít
luận văn thạc sĩ chuyên ngành báo chí, nhất là luận văn liên quan đến đề tài
luận án của chúng tôi. Trong số những luận văn thạc sĩ mà chúng tôi tiếp cận
được, có một số luận văn có đề tài đáng chú ý, như: Ngô Tất Tố nhà văn của
phong tục làng quê Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, luận
văn của Dương Văn An, bảo vệ năm 2009; Thành ngữ trong văn xuôi hiện
thực phê phán Việt Nam qua một số sáng tác tiêu biểu của Ngô Tất Tố, luận
văn của Nguyễn Thị Huệ, bảo vệ năm 2012; Ngô Tất Tố - nhà báo thành tựu
xuất sắc qua mảng tạp văn, tiểu phẩm, luận văn của Trần Văn Dững, bảo vệ
năm 1997; Đóng góp của phóng sự và tiểu phẩm Ngô Tất Tố đối với văn học
Việt Nam 1930 - 1945, luận văn của Phan Thị Mỹ Hạnh, bảo vệ năm 2007;
Ngôn ngữ nghệ thuật Ngô Tất Tố, luận văn của Bế Hùng Hậu, bảo vệ năm
2010; Đặc điểm tạp văn của Ngô Tất Tố, luận văn của Đinh An Phong, bảo vệ
năm 2015…
3.2. Các nghiên cứu về Ngô Tất Tố ở nước ngoài
Qua khảo sát từ các nguồn tài liệu có thể tiếp cận được, chúng tôi thấy
rằng, số công trình nghiên cứu về Ngô Tất Tố ở nước ngoài vô cùng khiêm
25
tốn, chỉ có một vài chuyên đề nghiên cứu được công bố tại các hội thảo quốc
tế và đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành trong và ngoài nước.
Năm 1982, Trường Đại học Harvard (Mỹ) tổ chức Hội thảo quốc tế về
đề tài Văn chương Việt Nam giữa hai thế chiến (1918 - 1945) [24, tr.10]. Hội
thảo có sự tham gia của một số nhà Việt Nam học đến từ nhiều nước trên thế
giới như: R.Brocheux, G.Budaren, Nguyễn Phú Phong, Trần Văn Khê ở Pháp.
Đoàn Việt Nam có hai đại biểu là Phan Cự Đệ và Hà Minh Đức tham dự.
Trong tham luận của mình, G.Budaren đã nêu lên những mặt trái,
những nhược điểm cố hữu của người nông dân Việt Nam. Từ đó, tác giả liên
hệ và xem những nhược điểm của người nông dân trong tập phóng sự “Việc
làng” của Ngô Tất Tố không phải là chuyện của một thời mà cho đến nay vẫn
còn tồn tại. G.Budaren nhận định: “bằng việc tham gia nhiệt tình vào sinh
hoạt các làng xã, Ngô Tất Tố đã làm một công trình dân tộc học dễ dàng và
giản dị như người ta hít thở vậy. Người ta đã thấy được điều đó qua những
phóng sự cũng như trong những bài đăng báo của ông”[78, tr.116].
Năm 1993, G.Budaren tiếp tục công bố chuyên đề Một nhà dân tộc học
được đào tạo bằng thực tiễn quần chúng trong cuốn Tín ngưỡng dân gian và
các xã hội châu Á. Trong chuyên đề này, G. Budaren cho rằng, nhà Nho Ngô
Tất Tố đã “không từ bỏ nền văn hóa truyền thống mà ông luôn biết nêu lên
những phần tinh túy nhất, ông thuộc những người kiên quyết đổi bút nghiên
nhà Nho lấy phong cách viết hiện đại”[46, tr.113]. Theo quan điểm của
G.Budaren, cơ hội lập nghiệp đối với những nhà Nho cuối mùa như Ngô Tất
Tố chỉ mở ra đối với những người có quyết tâm đi theo phong cách viết hiện
đại và đó hẳn là một cuộc cải cách mang tính cách mạng. G.Budaren cho
rằng, Ngô Tất Tố là người nặng lòng yêu nước, người hiểu biết sâu sắc về vốn
cổ Trung - Việt, rất thông hiểu văn hóa Pháp và luôn “mong muốn trở thành
người cải cách”.
Nghiên cứu chuyên đề này, chúng tôi thấy rằng G. Budaren đã có sự
thống nhất với ý kiến của Vũ Ngọc Phan từ những năm 1940, cho rằng Ngô
Tất Tố đã lạm dụng chữ “bị” trong những tác phẩm báo chí của mình và điều
26
đó chỉ có thể “giải thích bằng một sự ảnh hưởng lạm dụng câu bị động trong
tiếng Pháp”[46, tr.114].
Hoàng Khả Hưng, Phó giáo sư Học viện Văn học, Đại học Dân tộc
Quảng Tây, Trung Quốc là một nhà Việt Nam học, ông đã giới thiệu một số
chuyên đề nghiên cứu về Ngô Tất Tố. Rất tiếc, Hoàng Khả Hưng chỉ dừng lại
trong việc nghiên cứu Ngô Tất Tố qua những tác phẩm văn học của ông.
Trong chuyên đề Những kết tinh văn hóa Nho giáo trong sáng tác của Ngô
Tất Tố, Hoàng Khả Hưng nhận định: “Ngô Tất Tố đã thể hiện một không gian
nồng đậm văn hóa Nho giáo của xã hội Việt Nam đương thời, qua đó đề cao
phẩm chất dân tộc tốt đẹp của nhân dân Việt Nam, đồng thời phê phán hành
vi bạo ngược của giai cấp thống trị thực dân phong kiến, thể hiện điểm nhìn
tích cực của tác giả với tinh thần văn hóa truyền thống tốt đẹp”[40].
Một số vấn đề đặt ra từ tổng quan tình hình nghiên cứu
Qua tổng quan nghiên cứu về phong cách tản văn báo chí của Ngô Tất
Tố, chúng tôi nhận thấy một số vấn đề như sau:
1. Nhìn chung, các bài viết, các chuyên luận, báo cáo khoa học, các công
trình nghiên cứu nêu trên, có thể khác nhau về góc nhìn, về quy mô nghiên cứu,
trực tiếp hay không trực tiếp, đều đã góp một tiếng nói có ý nghĩa cho việc
nghiên cứu phong cách nghệ thuật tản văn báo chí của Ngô Tất Tố. Chúng tôi có
thể tiếp nhận được những ý kiến trực tiếp hay gián tiếp, liên quan đến phong
cách của Ngô Tất Tố thể hiện qua những tác phẩm báo chí của ông. Những kết
quả đó tuy ít ỏi nhưng có sự thống nhất đánh giá về phong cách báo chí của Ngô
Tất Tố mang đậm bản sắc dân tộc và được hình thành trên cơ sở phẩm chất của
một Nho gia có sự tiếp thu phong cách viết báo hiện đại của người phương Tây.
2. Hầu hết kết quả nghiên cứu nêu trên được khảo sát hơn 100 tác phẩm
báo chí của Ngô Tất Tố sáng tác từ khoảng năm 1929 đến năm 1942. Con số
này rất khiêm tốn so với số lượng tác phẩm báo chí trong sự nghiệp gần 20
năm cầm bút viết báo của Ngô Tất Tố; mặt khác, con số đó chưa đủ làm cơ sở
dữ liệu để các nhà nghiên cứu đưa ra những kết quả khảo sát, phân tích bảo
đảm tính tổng thể, toàn diện và chân thực.
27
3. Cho đến thời điểm này, vẫn chưa có một công trình dày dặn tập
trung nghiên cứu có hệ thống về hoạt động báo chí của Ngô Tất Tố và phong
cách tản văn báo chí của ông. Phong cách của Ngô Tất Tố chưa được trình
bày, lý giải một cách có hệ thống với tư cách là một phạm trù hoàn chỉnh
trong hoạt động sáng tạo của Ngô Tất Tố.
Từ thực tế nêu trên cho thấy, việc đầu tư, nghiên cứu về tản văn báo
chí của Ngô Tất Tố nói chung, về phong cách tản văn báo chí của Ngô Tất
Tố nói riêng là một việc làm cần thiết và có ý nghĩa thiết thực cả về khoa
học và thực tiễn.
28
Chƣơng 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ TẢN VĂN
VÀ PHONG CÁCH TẢN VĂN BÁO CHÍ

1.1. Tản văn và tản văn báo chí


1.1.1. Mối quan hệ văn học và báo chí
Báo chí và văn học có chung một đối tượng nhận thức là hiện thực đời
sống, cùng sử dụng ngôn từ như một công cụ chủ yếu để phản ánh hiện
thực. Tuy nhiên, đây là hai hình thái ý thức xã hội đặc thù với những đặc
trưng, đặc điểm khác biệt.
Văn học đã xuất hiện từ rất lâu trước khi có báo chí. Nó lấy con người
làm đối tượng nhận thức trung tâm với phương thức chiếm lĩnh và biểu đạt
đặc thù là hình tượng nghệ thuật. Văn học phản ánh hiện thực thông qua
những hình tượng nghệ thuật vừa phản ánh chân thực đời sống, vừa thông qua
đó thể hiện thái độ thẩm mỹ của nhà văn. Như vậy, thông tin trong tác phẩm
văn học là thông tin thẩm mỹ và tính hình tượng đó là dấu hiệu đặc trưng để
phân biệt văn học với những loại tác phẩm khác tuy cũng diễn đạt bằng lời
văn, cũng dùng văn chương nhưng không phải là văn học hoặc chỉ ít nhiều
mang tính chất văn học.
Báo chí xuất hiện trong đời sống con người muộn hơn so với văn học.
Nó có nhiệm vụ thông tin kịp thời về cái mới. Đó là những sự việc, sự kiện,
tình huống, hoàn cảnh tiêu biểu đang nảy sinh hàng ngày hàng giờ trong đời
sống. Nó phản ánh hiện thực trúng, đúng trong mọi trạng huống tồn tại xác
thực và luôn luôn chịu áp lực của yêu cầu thời sự cập nhật. Yêu cầu này nhiều
khi gay gắt đến từng thời khắc. Báo chí có nhiệm vụ cung cấp thông tin nhằm
thoả mãn nhu cầu được hiểu biết của công chúng về những sự thật nóng hổi,
sinh động mới diễn ra. Đó là những sự thật tiêu biểu, được phản ánh một cách
chính xác, cụ thể, tỷ mỉ, cặn kẽ.
Trên cơ sở so sánh đó, có thể thấy báo chí và văn học có mục đích,
nhiệm vụ và chức năng riêng, do đó không thể phân biệt chúng một cách đơn
giản. Báo chí phản ánh sự thật dưới sự chi phối gắt gao của áp lực thời sự.
29
Chính áp lực này đã chi phối đến dung lượng, ngôn ngữ, bút pháp cho đến
cách thức tổ chức tác phẩm báo chí nói chung. Tác phẩm văn học không chịu
áp lực này. Tuy khác biệt nhưng giữa văn học và báo chí luôn tồn tại một mối
quan hệ tương giao chặt chẽ và bền vững qua suốt chiều dài lịch sử văn học
và báo chí Việt Nam. Điều này được thể hiện một cách toàn diện từ nội dung
(đề tài, chủ đề, đối tượng phản ánh…) đến các yếu tố hình thức (kết cấu, ngôn
ngữ, bút pháp, giọng điệu, thể loại…). Trong thực tế, trên báo chí vẫn thường
xuyên xuất hiện một số thể loại văn học có thể đáp ứng những yêu cầu thời sự
của báo chí một cách rất năng động như tản văn, tạp văn, tiểu phẩm… Đó là
những thể loại nằm trong miền giao thoa giữa văn học và báo chí, hợp lưu
thành dòng chảy “văn - báo bất phân”. Chúng có thể kết hợp một cách hiệu
quả đặc trưng hình tượng của văn học với đặc trưng thông tin sự kiện xác thực
- thời sự của báo chí để phản ánh sinh động hiện thực đang vận động và phát
triển ngày càng đa dạng. Với những tác phẩm này, đặc trưng văn học luôn chi
phối quá trình sáng tạo tác phẩm, còn tính chất báo chí của chúng thể hiện ở
khả năng bám sát những vấn đề, chủ điểm thời sự nóng hổi.
Trong tương quan so sánh giữa các thể loại này, ngôn ngữ của tác phẩm
văn học giàu hình ảnh và cảm xúc với những biện pháp nghệ thuật phong phú
nhằm tái tạo hình tượng nghệ thuật, còn ngôn ngữ của tác phẩm báo chí lại
thiên về tính chất thông tin, thông báo và đặc biệt chú ý tới sự chính xác, cụ
thể. Nói cách khác, trong khi ngôn ngữ báo chí thiên về sự chính xác, tính
ngắn gọn, đơn nghĩa, trực tiếp thì ngôn ngữ văn học ngoài nhiệm vụ phản ánh
chân thực đời sống còn phải thể hiện được góc nhìn thẩm mỹ của nhà văn
trước hiện thực thông qua các phương tiện ngôn ngữ hình tượng, hình ảnh,
nhiều khi đa nghĩa.
1.1.2. Thể loại văn học và thể loại báo chí
1.1.2.1. Thể loại văn học
Tác phẩm văn học là sự thống nhất trọn vẹn của các yếu tố đề tài, chủ
đề, tư tưởng nhân vật, kết cấu, cốt truyện… theo những quy luật nhất định.
Theo Lí luận văn học: “thể loại tác phẩm văn học là khái niệm chỉ quy luật
loại hình của tác phẩm, trong đó ứng với một loại nội dung nhất định có một
30
loại hình thức nhất định, tạo cho tác phẩm một hình thức tồn tại chỉnh
thể”[105, tr.220].
Thể loại văn học được hình thành trên cơ sở lặp lại có tính quy luật của
các yếu tố hình thức của tác phẩm. Đó cũng là cơ sở để người ta tiến hành
phân loại tác phẩm. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu cho rằng, sự phân loại thể
loại, cũng như phân loại đề tài, chủ đề, cảm hứng, nhân vật, kết cấu, lời văn…
dù quan trọng đến đâu cũng chỉ là vấn đề có tính ước lệ [105], bởi thực tiễn
sáng tác văn học hết sức đa dạng và phong phú.
Xuất phát từ phương thức phản ánh hiện thực và phương thức sáng tạo
hình tượng nghệ thuật của văn học, các nhà nghiên cứu phương Tây từ rất
sớm trong lịch sử đã chia các tác phẩm văn học ra làm ba loại: tự sự, trữ tình
và kịch [102] mà người đặt nền móng cho việc phân loại thể loại đó chính là
Aristot. Theo đó, (1) trong tác phẩm tự sự tác giả dùng lời của mình để thuật
lại các sự kiện, chú trọng đến trạng thái đời sống và tính cách nhân vật; (2)
trong tác phẩm trữ tình tác giả dùng lời của nhân vật hoặc tác giả nhập vai
nhân vật để bộc lộ trực tiếp tình cảm, cảm xúc của mình; nói chung trữ tình
không cần đến sự miêu tả chi tiết ngoại hình nhân vật và tình tiết hoàn chỉnh.
Trữ tình chú trọng đến thế giới nội tâm của con người; (3) trong tác phẩm
kịch chủ yếu do các nhân vật trong tác phẩm dùng ngôn ngữ và động tác của
mình để biểu diễn.
Ở Trung Quốc, từ xa xưa đã phân các tác phẩm văn học thành hai loại
gồm thơ (vận văn) và văn xuôi (tản văn). Qua các bước phát triển sau đó, việc
phân chia tác phẩm văn học được đưa ra với những nguyên tắc khác nhau
thành nhiều thể loại khác nhau. Suốt thời kỳ cổ và trung đại, Trung Quốc xuất
hiện nhiều cách phân loại văn học khác nhau như của Tào Phi, Chấp Ngu,
Lưu Cơ, Tiêu Thống…
Đến đầu thế kỷ XX, trên cơ sở kế thừa cách phân loại truyền thống, kết
hợp với các tiêu chí phân loại của phương Tây, Trung Quốc đã phân văn học
thành bốn loại: “thơ ca, văn xuôi, tiểu thuyết, kịch”[105, tr.239]. Trong đó,
văn xuôi bao gồm toàn bộ các thể loại văn học không phải thơ ca, tiểu thuyết,
kịch “phạm vi loại này rất rộng, bao gồm văn xuôi trữ tình, văn xuôi có cốt
31
truyện như du kí, tạp kí, phóng sự, truyện kí kết hợp trần thuật và bình luận
như tạp văn, tiểu phẩm”[105, tr.239].
Ở Việt Nam, ngoài kinh điển của Nho gia, các trước thuật khác đều được
xem là tản văn với ý nghĩa là văn xuôi trong mối quan hệ so sánh với văn vần.
Đó là những lời nói nơi “thôn cùng ngõ hẻm”, là “lời quê góp nhặt dông dài”.
Thể loại này “không được đánh giá cao như thơ, phú lục. Vốn chịu ảnh hưởng
sâu đậm của văn hóa Trung Hoa, của Nho giáo… chỉ đến khi tiếp xúc với văn
hóa phương Tây, quan niệm này mới bắt đầu bị lung lay”[81, tr.60].
Theo tinh thần đó, việc phân chia thể loại tác phẩm văn học cũng được
nhiều thế hệ các nhà nghiên cứu quan tâm và có những cách phân chia theo
những nguyên tắc nhất định. Các giáo trình lí luận văn học của Việt Nam
những năm 1960 đã phân chia tác phẩm văn học thành bốn loại, gồm thơ ca,
tiểu thuyết, kịch và kí. Đây là nét đặc biệt và khác với quan điểm của người
Trung Quốc, bởi kí là loại hình văn học phi hư cấu. Sau đó, giáo trình của
trường Đại học Tổng hợp và Đại học Sư phạm do Nguyễn Lương Ngọc chủ
biên đã chia tác phẩm văn học thành ba loại.
Các tác giả cuốn Lí luận văn học [105] đã chọn cách phân loại tác
phẩm văn học thành bốn thể loại và đã “tính đến sự phát triển các thể loại
trong văn học hiện đại, đặc biệt là thể loại tiểu thuyết, kí, tản văn…”[105,
tr.242]. Cách phân chia được dựa trên hai tiêu chí: hư cấu và phí hư cấu.
Trong đó loại phi hư cấu bao gồm: kí sự, phóng sự, nhật kí, hồi kí, du kí, tản
văn, thông tấn… Từ hai loại lớn đó lại chia ra bảy thể loại, trong đó thể loại
tản văn bao gồm bút kí, tùy bút, tạp văn, tiểu phẩm, văn trữ tình… [105].
Năm 1987, Giáo trình lý luận văn học của Đại học Sư phạm Hà Nội đã
đề xuất chia văn học thành 5 loại: tự sự, trữ tình, kịch, ký, chính luận.
Năm 2010, Giáo trình lý luận văn học của Học viện Báo chí và tuyên
truyền đã đưa ra các tiêu chí cơ bản như: hình thức lời văn; dung lượng tác
phẩm; cảm hứng tình điệu; nội dung để phân chia các thể loại văn học. Các
tác giả đã thống nhất với cách chia thể loại văn học như giáo trình của Đại
học Sư phạm Hà Nội và cho rằng ký và chính luận là hai thể loại xuất hiện ở
chỗ giao nhau giữa nhu cầu nghệ thuật và nhu cầu thực tiễn, giữa nhu cầu
32
nhận thức sự thật khách quan và nhu cầu mỹ cảm. Với cách chia như vậy:
“vừa kế thừa được truyền thống phân loại của phương Tây, vừa khái quát
được thực tiễn văn học dân tộc từ cổ xưa đến hiện đại vốn rất đa dạng và
phức tạp” [65, tr.173]; cách chia đó cũng bao quát được khá toàn diện thực
tiễn vận động và phát triển của lịch sử văn học Việt Nam.
1.1.2.2. Thể loại báo chí
Theo Từ điển Bách khoa toàn thư Liên Xô (1985): “Thể loại là khái
quát hóa những đặc tính của một nhóm lớn các tác phẩm có cùng thuộc tính
về nội dung, hình thức, cách thể hiện tác phẩm của một thời đại, một giai
đoạn, một dân tộc, hay một nền nghệ thuật thế giới”[77, tr.431].
Thể loại là hình thức biểu hiện cơ bản, thống nhất và tương đối ổn định
của các tác phẩm; cách gọi và phân chia thể loại để phù hợp với mức độ giá
trị của sự kiện, vấn đề, nhân vật cũng như ý đồ, mục đích của người thể hiện
hoặc cơ quan báo chí. Theo tinh thần đó, tác giả Đinh Văn Hường, trong cuốn
Giáo trình các thể loại báo chí thông tấn đã khái quát: “có thể hiểu thể loại
báo chí là xã luận, bình luận, phỏng vấn, ghi nhanh, tường thuật, tin, phóng
sự, điều tra… được sử dụng phổ biến, rộng rãi trên các loại hình báo chí hiện
nay”[50, tr.9].
Đinh Văn Hường đã đề ra năm tiêu chí nhận diện thể loại báo chí, gồm:
(1) Sự kiện, vấn đề, nhân vật được phản ánh; (2) Mức độ phản ánh; (3) Năng
lực phản ánh; (4) Hiệu quả tác động; (5) Tên gọi cụ thể của tác phẩm.
Tuy đề ra những tiêu chí nhận diện đó, nhưng tác giả cho rằng: “cách gọi
và phân chia các thể loại để phù hợp với mức độ giá trị của sự kiện, vấn đề,
nhân vật cũng như ý đồ, mục đích của người thể hiện hoặc cơ quan báo chí”[49,
tr.11]. Điều đó có nghĩa rằng, cách gọi và phân chia thể loại báo chí chỉ mang ý
nghĩa tương đối trong mối quan hệ với nhà báo và cơ quan báo chí.
Năm 1995, Tạ Ngọc Tấn, tác giả cuốn Tác phẩm báo chí cho rằng, thể
loại thể hiện quy luật loại hình của tác phẩm báo chí, tức là sự thống nhất, quy
định lẫn nhau có tính quy luật, lặp đi lặp lại của các yếu tố trong các tác phẩm
báo chí. Các yếu tố trong các tác phẩm báo chí tập hợp lại theo hai bình diện
nội dung và hình thức. Việc hình thành tiêu chí phân chia thể loại tác phẩm
33
báo chí cũng dựa vào chính những đặc điểm lặp đi, lặp lại của hai phương
diện này. Quy mô, tính chất và ý nghĩa xã hội của nội dung tác phẩm; hình
thức, phương pháp phản ánh hiện thực và chuyển tải thông tin của tác phẩm;
mục đích, chức năng thông tin của tác phẩm báo chí… là những tiêu chí cơ
bản để phân loại tác phẩm báo chí. “Tác phẩm báo chí là một chỉnh thể
chuyển tải nội dung thông tin mang tính thời sự với hình thức tương ứng. Nói
cách khác, quan hệ hữu cơ giữa một lượng thông tin hoàn chỉnh mang tính
thời sự và trực tiếp nào đó với những hình thức biểu đạt thích hợp với nó tạo
thành tác phẩm báo chí”[108, tr.152].
Tác phẩm báo chí được xem xét dưới hai bình diện là nội dung và hình
thức. Đây là hai bình diện thống nhất hữu cơ với nhau, quy định lẫn nhau,
trong đó nội dung có ý nghĩa quyết định.
Tạ Ngọc Tấn đã phân chia tác phẩm báo chí thành ba loại: (1) “Loại tác
phẩm thông tấn có các thể loại: tin, tường thuật, phỏng vấn bài báo, ghi
nhanh, điều tra, phóng sự”; (2) “loại tác phẩm chính luận bao gồm các thể
loại bình luận, xã luận và chuyên luận”; (3) “loại tác phẩm thông tấn nghệ
thuật bao gồm các thể bút ký, ký sự, nhật ký phóng viên, tiểu phẩm”[107,
tr.42-44].
Năm 1999, trong cuốn Từ lý luận đến thực tiễn báo chí, tác giả Tạ
Ngọc Tấn đã “phân chia tác phẩm báo chí thành ba loại: loại tác phẩm thông
tấn; loại tác phẩm chính luận và loại tác phẩm chính luận nghệ thuật”[108,
tr.182]. Trong đó, loại tác phẩm chính luận nghệ thuật bao gồm các thể loại
ký (bút ký, ký sự, nhật ký phóng viên…) và tiểu phẩm, tuy nhiên, về loại tác
phẩm này Tạ Ngọc Tấn cho rằng, đó là “một bộ phận phức tạp nhất, tồn tại
sự bất đồng ý kiến nhiều nhất trong phân loại cũng như xác định các đặc
trưng”[108, tr.184].
Tuy phức tạp và còn có nhiều ý kiến khác nhau, nhưng Tạ Ngọc Tấn đã
đưa ra ba đặc trưng của loại tác phẩm chính luận - nghệ thuật: (1) Nội dung
các loại tác phẩm chính luận - nghệ thuật là các sự kiện, vấn đề khách quan,
tồn tại trong thực tế, mang tính thời sự hoặc quan hệ chặt chẽ với dòng thời sự
chủ lưu, có ý nghĩa chính trị hoặc giáo dục, hướng dẫn suy nghĩ, hành vi của
34
con người trong xã hội hiện thời; (2) Ngôn ngữ và kết cấu của loại tác phẩm
chính luận - nghệ thuật uyển chuyển, kết hợp giữa chất thông tin, chính luận
khách quan đặc trưng cho báo chí và tính chất nghệ thuật với các thủ pháp
phong phú của văn học; (3) Mục đích chính của tác phẩm chính luận - nghệ
thuật là cung cấp cho công chúng thông tin về các vấn đề, sự kiện toàn diện
hơn trong các mối quan hệ với các giá trị thẩm mỹ.
1.1.3. Tản văn và tản văn báo chí
1.1.3.1. Tản văn
Theo Từ điển tiếng Việt, tản văn có hai nghĩa, là “văn xuôi và loại văn
gồm các thể ký và các thể văn khác ngoài truyện, thơ và kịch”[134, tr.889].
Theo đó, tản văn theo nghĩa rộng là tất cả các tác phẩm văn xuôi; theo nghĩa
hẹp, tản văn là một thể loại tác phẩm văn học (không phải là truyện, thơ và
kịch vốn đã được định hình rõ nét trong đời sống văn học).
Cách giải thích khái niệm tản văn nêu trên có những ảnh hưởng nhất
định bởi quan niệm của người Trung Quốc [105]. Theo Khái yếu lịch sử văn
học Trung Quốc của Nhà xuất bản Đại bách khoa toàn thư Trung Quốc khái
niệm tản văn trong văn học truyền thống Trung Quốc dùng để chỉ những tác phẩm
văn xuôi, “là một thể tài văn học cùng với thơ ca, tiểu thuyết, kịch, bao gồm các hình
thức văn kể chuyện, văn trữ tình, phóng sự, tạp văn v.v.. để phân biệt với khái niệm
“văn xuôi” cổ đại, nên cũng gọi là văn xuôi văn học”[79, tr.288].
Trong tác phẩm Văn tâm điêu long, tác giả Lưu Hiệp đã chia các tác
phẩm văn học thành hai loại là “văn” và “bút”[32]. Trong đó, loại “bút không
vần” được Nguyễn Đăng Điệp nhận định “chính là tản văn”[20, tr.9].
Như vậy, tản văn trong văn học Trung Quốc chỉ một phạm vi rộng, bao quát
nhiều thể loại. Ban đầu nó được dùng để chỉ “văn xuôi” nói chung, về sau nghĩa này
biến đổi theo sự biến đổi của đời sống loại thể qua các thời kỳ văn học. Có ý kiến cho
rằng sau khi gạt đi những thể loại đã có đủ những điều kiện cần thiết như tiểu thuyết,
thơ ca, hý kịch thì tác phẩm văn học còn lại được gọi chung là tản văn [68].
Theo lí luận văn học Trung Quốc, tản văn đã có lịch sử hơn 2.000 năm.
Tuy ra đời sớm, nhưng ở Trung Quốc tản văn không thực sự phát triển, bởi
cho đến tận đầu thế kỷ XX, tản văn vẫn được viết bằng “văn ngôn” - ngôn ngữ
35
trong các kinh sách, các tác phẩm văn học, công văn… rất xa lạ với ngôn ngữ
phổ thông của người dân Trung Quốc. Đến đầu những năm 1920, khi hệ thống
thi cử truyền thống ở Trung Quốc bị bãi bỏ, tản văn được phép viết bằng văn
“bạch thoại” - ngôn ngữ phổ thông trong xã hội, cùng với sự phát triển mạnh
mẽ của báo chí và ảnh hưởng tích cực của tư tưởng dân chủ, tản văn ở Trung
Quốc mới có sự phát triển mạnh mẽ.
Với bề dầy lịch sử và bước phát triển về thể loại như vậy, trong chuyên
đề Tản văn hiện đại Trung Quốc, Tạ Quốc Tuấn cho rằng: “trong các thể loại
văn xuôi của Trung Quốc xưa cũng như nay, tản văn đã ảnh hưởng đến người
đọc nhiều nhất và cũng được nhiều người sử dụng nhất”[127, tr.13].
Theo Đàm Gia Kiện, tác giả cuốn Trung Quốc cổ đại tản văn sử
cảo[59], đặc trưng căn bản của tản văn thể hiện ở chữ “tản” nghĩa là phân tán,
là tự do, là việc thể hiện nội dung không chịu sự quy định chặt chẽ về thể loại;
tuy nhiên, đặc trưng của tản văn là tuy “tản” nhưng có trật tự, luôn hướng đến
sự tinh tế trong nghệ thuật; hình thức của tản văn tuy không chặt chẽ, nhưng
bị chi phối bởi ý tưởng lập ý của tác giả. Do vậy, tản văn là một chỉnh thể; tuy
“tản” mà không “loạn”[33].
Người Trung Quốc chia tản văn thành ba loại: tản văn tự sự, tản văn
trữ tình, tản văn nghị luận. Trong đó, tản văn nghị luận là thể loại lấy việc nói
đạo lý làm nội dung chủ yếu và nghị luận là thủ pháp biểu hiện cơ bản. Tản
văn nghị luận bám chắc vào những sự kiện, nhân vật, hiện tượng có ý nghĩa
điển hình trong đời sống; lấy thái độ, tình cảm của người viết làm cơ sở lập
luận và dùng ngôn ngữ sinh động, giàu tính văn học, cách viết trong sáng rõ
ràng để thể hiện được bản chất của sự kiện, hiện tượng. Như vậy, tản văn nghị
luận bao giờ cũng thể hiện khuynh hướng tư tưởng, sắc thái tình cảm của
người viết. Những sự kiện, hiện tượng liên quan đến lịch sử, hiện tại, tương
lai, tự nhiên, xã hội, nhân sinh, tôn giáo, văn hóa, nghệ thuật, kinh tế, chính
trị… đều có thể trở thành đề tài của tản văn.
Dạng thức của tản văn nghị luận rất phong phú, bao gồm: tạp văn, tiểu
phẩm, đặc tả, du ký, hồi ký… và có mối liên hệ, giao thoa với các thể loại
khác. Về dung lượng, tản văn của người Trung Quốc có khoảng 100 chữ,
36
nhiều nhất cũng chỉ đến 2.000 chữ [33]. Tuy nhiên, người ta phân tản văn
nghị luận thành hai loại, gồm “thuyết minh tản văn” và “trữ tình tản văn”.
Theo Tạ Quốc Tuấn, thuyết minh tản văn chính là loại tác phẩm mà Lỗ Tấn
sử dụng nhiều nhất, bởi thế, nói đến tạp văn là nói đến Lỗ Tấn [127].
Năm 1960, Hội Nhà báo Việt Nam xuất bản cuốn Bài giảng về tạp văn.
Nghiên cứu tài liệu này, chúng tôi thấy, quan điểm của Tạ Quốc Tuấn và Đàm
Gia Kiện nêu trên có sự thống nhất với quan điểm của các tác giả cuốn Bài
giảng về tạp văn khi cho rằng: tản văn là cách gọi chung của những thể mà
Trung Quốc gọi là “tạp cảm”, “luận văn xã hội”, “luận văn có tính văn nghệ”.
Từ tản văn được người phương Tây gọi là “feuilleton”, từ này có nguồn gốc
tiếng Latinh, dịch sang tiếng Trung Quốc là “tiểu phẩm văn” hay “tạp văn”.
Bởi vậy, Lỗ Tấn coi tản văn, tạp văn, tiểu phẩm là các cách gọi khác nhau của
cùng một thể loại.
Lê Trà My, trong luận án tiến sĩ Tản văn Việt Nam thế kỷ XX (từ góc độ
thể loại) đã cho rằng, ngay từ đầu thế kỷ XX, ở Việt Nam “các bậc tiền bối”
đã có ý thức tách tản văn ra khỏi văn xuôi, coi tản văn là một thể loại với
những đặc điểm riêng và từ đó đến nay “những sáng tác loại này vẫn tiếp tục
được duy trì qua các giai đoạn dưới nhiều tên gọi khác nhau như nhàn đàm,
thời đàm, phiếm đàm, tạp văn, tùy bút, đoản văn, phiếm luận, tạp trở, tiểu
phẩm, v.v..”[68, tr.13].
Chúng tôi thấy rằng, quan điểm của Lê Trà My cũng như quan điểm
của các tác giả cuốn Bài giảng về tạp văn và của Lỗ Tấn, đã đặt tản văn, tạp
văn, tiểu phẩm trong mối quan hệ giao thoa với nhau. Do vậy, việc tìm điểm
khác nhau về nguyên tắc giữa tản văn, tạp văn và tiểu phẩm là không có nhiều
ý nghĩa.
Trong lời giới thiệu cuốn Tản văn Việt Nam hiện đại, Trần Đình Sử đã
nhận định, trong thực tế đời sống văn học và báo chí Việt Nam hiện nay, “tản
văn dường như đang ngày càng khởi sắc lên: nhiều tờ báo có mục tản văn
dưới các tên mục khác nhau: “đoản văn”, “tản văn”, “nói hay đừng”, “nhàn
đàm”, “phiếm luận”... nhiều tập tản văn, tuyển tập tản văn của các tác giả đã
ra mắt và được bạn đọc hoan nghênh”[69, tr.5]. Cũng theo Trần Đình Sử “tản
37
văn có sự kết hợp hai nhân tố chính luận và văn nghệ. Gọi là “luận văn xã
hội” chính là chính luận”[38, tr.8].
Như vậy, tạp văn hay tiểu phẩm là một thể văn đặc biệt của tản văn và
nghiên cứu về thể tạp văn, tiểu phẩm với tư cách là những thể văn đặc biệt của
tản văn là nhằm tìm hiểu đặc điểm của thể loại này.
Theo Tinh hoa tri thức văn hóa Trung Quốc, Lỗ Tấn đã cho rằng:
“phàm là văn chương, thảng hoặc có phân loại, đều có thể xếp vào một loại
nào đó, nếu là biên niên thì cứ theo năm tháng mà xếp, không cần đến thể
văn, tất cả các loại đều nhét vào một chỗ, thế là thành “tạp”[51, tr.1158], đó
là tạp văn theo nghĩa rộng, còn về nghĩa hẹp, Lỗ Tấn cho rằng: “những bài
nói về đạo lý nhỏ hoặc không có đạo lý, mà lại không phải là một thiên dài,
mới có thể gọi là tiểu phẩm, tức là tạp văn”[51, tr.1158]. Như vậy, theo nghĩa
hẹp, tiểu phẩm là một dạng tạp văn, căn cứ theo vấn đề mà tác phẩm đó đề
cập hoặc theo dung lượng của tác phẩm mà định danh.
Từ quan điểm của Lỗ Tấn, Vương Kiến Huy đã giới thuyết: “Tạp văn
là một loại tản văn, là một bài luận văn mang tính văn nghệ, phản ánh một
cách nhanh chóng và trực tiếp những biến động xã hội… mà Lỗ Tấn là đại
biểu đã vận dụng tản văn một cách rộng rãi để vạch trần, phanh phui, đưa ra
ánh sáng những sự vật có hại còn đang tiềm ẩn. Chúng là những lưỡi dao
găm, ngọn lê đâm thẳng vào kẻ thù. Về mặt nghệ thuật, thì tình cảm tràn trề,
hình tượng tươi sáng, có sức lôi cuốn mạnh mẽ. Những đặc điểm này đã hình
thành nên truyền thống mới, phong cách mới của tạp văn”[51, tr.1158].
Vương Kiến Huy cho rằng, tạp văn có ba đặc trưng. Trước hết, tạp văn
là thể văn mang tính chiến đấu “phê phán, châm biếm sự vật cũ và biểu
dương, ca ngợi sự vật mới cũng là tiêu chí mang tính chiến đấu của tạp
văn”[51, tr.1159]; thứ hai, tạp văn là văn chính luận mang tính văn nghệ, “bởi
việc vận dụng ngôn ngữ văn học để miêu tả sự vật, đồng thời lại là thể văn
nghị luận, có tính thuyết lý bởi việc vận dụng phương pháp logíc suy luận để
vạch ra bản chất của sự vật; nó vừa có yêu cầu của tính hình tượng, lại vừa
có sức mạnh của tính logíc chặt chẽ, vừa dùng tình để cảm hóa người, vừa
dùng lý lẽ để thuyết phục người, chứa đựng cả hình tượng, tình cảm và lý lẽ,
38
dung hợp chính luận và văn nghệ trong một thể”[51, tr.1159]; thứ ba, tạp văn
ngắn gọn và sắc bén, đáp ứng được nhu cầu bức thiết của tình hình thực tế,
thích ứng với thời cuộc và có hiệu quả.
Cũng theo Tinh hoa tri thức văn hóa Trung Quốc, ở Trung Quốc cũng
có nhiều quan điểm khác nhau về tiểu phẩm, có người nói tiểu phẩm là tản
văn, có người nói tiểu phẩm là một nhánh của tản văn; có người nói tiểu phẩm
là tạp văn và cũng có người cho rằng, tiểu phẩm khác tản văn. Tản văn hiện
đại sau thời “Ngũ tứ” là một thể văn học sánh ngang với tiểu thuyết, thơ ca và
kịch; tản văn “bao hàm mấy loại mục nhỏ, như tạp văn, tùy bút, ghi nhanh, du
ký, thông tấn, đặc tả, báo cáo văn học… mà tiểu phẩm chính là một trong số
đó; đặc điểm của tiểu phẩm, trước hết là ngắn gọn, mỗi bài khoảng trên dưới
1000 chữ”[51, tr.1160].
1.1.3.2. Giới thuyết tản văn báo chí
Theo Thuật ngữ báo chí truyền thông, “tản văn là văn xuôi nghệ thuật
nói chung, bao gồm nhiều thể: tạp văn, tùy bút, tiểu phẩm, tiểu luận. Các tiểu
thể loại với những cách định danh khá ngẫu hứng, tự do như: nhàn đàm,
phiếm đàm, thời đàm, phiếm luận, tạp trở, đoản văn… cũng được xếp vào
phạm trù tản văn”[41, tr.172]. Theo đó, thuật ngữ tản văn sẽ trở nên đắc dụng
và đơn giản hơn khi người làm báo “không cần quan tâm tới tác phẩm của
mình được viết theo thể loại nào tạp văn hay tiểu phẩm, tiểu luận hay phiếm
luận, phiếm đàm…”, bởi tản văn “như một khái niệm dung hòa các đường
biên thể loại” [41, tr.172].
Phạm Thành Hưng, tác giả cuốn Thuật ngữ báo chí truyền thông cho
rằng, đặc điểm phổ quát của tản văn là sự hiện diện trực tiếp của cái tôi tác
giả, là sự ưu tiên về quan điểm, cách cảm, cách nhìn của thông tin lý lẽ trước
thông tin sự kiện; là sự linh hoạt, phóng túng trong cách hành văn, trong tổ
chức hình ảnh và liên hội các chi tiết. Vị thế của chủ thể tản văn nhìn chung là
vị thế cao đàm, ung dung tự tại, vượt lên thói thường, đưa đường chỉ lối cho
độc giả khám phá thời cuộc, trải nghiệm cuộc sống, hoặc cảm nhận những
khía cạnh mới mẻ, ý vị của đời sống nhân sinh. Và đặc thù quan trọng “tản
văn là thể văn trữ tình nhưng phát triển mạnh nhờ báo chí”[41, tr.172].
39
Theo Phạm Thành Hưng, nếu nói về các cây bút tản văn, phải nghĩ
ngay tới các nhà văn nổi tiếng gắn với từng thể khác nhau, như: Lỗ Tấn gắn
với tạp văn, Ngô Tất Tố gắn với tiểu phẩm [41]...
Như vậy, khái niệm tản văn gắn liền với các khái niệm tạp văn, tiểu
phẩm. Tạp văn là một thể tản văn giàu tính luận chiến, có ý nghĩa thời sự về
một đề tài chính trị, xã hội nào đó. Tạp văn vừa có tính chính luận sắc bén,
vừa có tính nghệ thuật sinh động. “Trong số các thể tản văn, tạp văn là thể
giàu tính báo chí hơn cả… tạp văn vượt lên như một thể loại xung kích, phản
ứng nhanh nhậy, kịp thời trước những vấn đề bức xức của đời sống xã
hội...”[41, tr.172].
Trong phần lý luận về tản văn, Phạm Thành Hưng đã nhận định rằng
khi nói về Ngô Tất Tố là nói về những tiểu phẩm của ông, tuy nhiên ở phần lý
luận về tạp văn, Phạm Thành Hưng lại cho rằng, Ngô Tất Tố là người đã “tận
dụng hiệu năng công luận của tạp văn, tạo dựng được môi trường độc giả
riêng cho thể loại này”[41, tr.175]. Hoàng Minh Lường khi bàn về mối tương
giao giữa văn học và báo chí đã cho rằng, giữa hai loại hình có những thể loại
đặc trưng riêng “song không phải không có những thể loại nằm ở nơi trung
điểm giao nhau giữa văn học và báo chí”[64]. Điều đó cho thấy, giữa các khái
niệm tản văn, tạp văn, tiểu phẩm có mối quan hệ giao thoa cả đặc trưng thể
loại, nên rất khó có thể tách bạch được. Về vấn đề này, Phan Quang đã nhận
định: “giữa các thể loại báo chí hoặc văn học có sự giao thoa ngày càng rõ
nét, thậm trí giao thoa, thâm nhập giữa báo chí và văn học”[92, tr.339].
Như chúng tôi đã trình bày ở phần trên, các nhà lý luận báo chí Việt
Nam đã chia tác phẩm báo chí thành ba loại, gồm thông tấn, chính luận và
chính luận nghệ thuật, trong loại tác phẩm chính luận nghệ thuật “bao gồm
các thể bút ký, ký sự, nhật ký phóng viên, tiểu phẩm”[107, tr.75].
Theo Tạ Ngọc Tấn, tiểu phẩm là một thể loại có lịch sử khá lâu, có vị
trí không kém phần quan trọng trong mối tương quan chung với các thể loại
báo chí khác… Ở Liên Xô, đầu những năm 1930, tiểu phẩm chưa được coi là
một thể loại báo chí. Mi-kha-in Cam-sốp - một nhà báo Xôviết nổi tiếng đã
nhìn nhận tiểu phẩm bên ngoài khuôn khổ của một thể loại. Ông coi tiểu
40
phẩm có thể là ký, là thơ châm biếm v.v.. nằm trong loại tác phẩm chính luận.
“Chỉ đến cuối những năm 50 của thế kỷ này, báo chí Xôviết mới chính thức
thừa nhận tiểu phẩm là một thể loại báo chí đặc biệt trong bảng phân loại -
thể loại tác phẩm mang tính châm biếm”[109, tr.9].
Tạ Ngọc Tấn cho rằng, ở nước ta vào những năm 1920, tiểu phẩm đã
bắt đầu xuất hiện trên mặt báo, tuy nhiên không nhiều và chưa tạo được sự
chú ý của dư luận xã hội [109]. Phải đến những năm 1930, khi mà báo chí
công khai phát triển rầm rộ thì tiểu phẩm mới khẳng định vai trò vị trí của
mình như một thể loại báo chí có uy lực. Trong thời kỳ Mặt trận dân chủ
(1936 - 1939), khi báo chí tiến bộ và cách mạng có điều kiện phát triển công
khai thì tiểu phẩm thực sự đã có đất để cắm rễ và nở rộ. Tạ Ngọc Tấn nhận
định: “Trong giai đoạn này, tác giả tiểu phẩm để lại dấu ấn đặc biệt sâu đậm
trên mặt báo trong nước là Ngô Tất Tố”[109, tr.7].
Liên quan đến thuật ngữ tản văn, tạp văn, tiểu phẩm còn có một số
thuật ngữ có nội hàm gần nhau. Trong tiếng Anh có thuật ngữ “proses” dịch
ra là văn xuôi nói chung, “là một thể loại báo chí tự do, người viết báo biểu
đạt quan điểm của mình bằng lối viết ngẫu hứng”[136, tr.112]. Trong tiếng
Pháp thuật ngữ “essai” (Đặng Thai Mai dịch là “thí luận”) bao gồm cả tiểu
phẩm, tản văn, tạp văn, tiểu luận… được sử dụng phổ biến ở châu Âu. Thông
qua bài essai, người viết bày tỏ chính kiến cá nhân “bằng thước đo riêng
mang tính chủ quan” về các vấn đề nhân sinh nổi bật, “thể loại này được
nhiều nhà văn và nhà báo ở Nga yêu thích”[7, tr.374]. Trong thực tiễn sáng
tạo văn học và báo chí ở Việt Nam, xu hướng sử dụng khái niệm tiểu phẩm để
chỉ các loại hình tác phẩm giàu màu sắc essai dường như khá phổ biến.
Cũng như các thể loại tác phẩm báo chí khác, tiểu phẩm ra đời do yêu
cầu khách quan của xã hội. Giai cấp tư sản tìm thấy ở tiểu phẩm một thứ vũ
khí sắc bén để chống lại các thế lực phong kiến, quý tộc bảo thủ, phản động
cùng chế độ phong kiến lỗi thời lạc hậu đã mục ruỗng từ bên trong. Là con đẻ
của cuộc cách mạng dân chủ tư sản, tiểu phẩm ngay từ đầu đã mang tính
chiến đấu cao. Nó là tiếng nói của giai cấp cách mạng, tiếng nói của khuynh
41
hướng vận động tích cực hợp quy luật lịch sử chống lại giai cấp phản động,
những thế lực cản trở bánh xe lịch sử.
Phẩm chất tiêu biểu tạo nên tính chiến đấu của tiểu phẩm chính là cái
cười. Khi mới ra đời, cái cười trong tiểu phẩm vạch mặt, lên án bản chất xấu
xa, sự lạc hậu, thối nát của chế độ xã hội phong kiến đã mục ruỗng, suy tàn.
Dần dần về sau, cái cười trong tiểu phẩm nhằm vào cái cũ, cái xấu nói chung,
kể cả những biểu hiện tiêu cực trong nội bộ nhân dân. Nhiều nhà văn, nhà báo
lớn có tư tưởng tiến bộ ở châu Âu trước đây đã sử dụng tiểu phẩm trên diễn
đàn báo chí công khai để châm biếm, diễu cợt, lên án sự thối nát, bất công của
xã hội đương thời, những biểu hiện giả dối, lừa bịp trong hoạt động tôn giáo
hay sự lợi dụng tôn giáo để thực hiện những mục tiêu chính trị vụ lợi, ích kỷ.
Từ quan điểm của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước, chúng tôi
cho rằng: Tản văn báo chí là loại tác phẩm có dung lượng ngắn gọn, thường
gắn với môi sinh báo chí bởi tính năng tư tưởng sắc bén của nó. Có thể gọi tản
văn là một thể loại báo chí đặc thù có khả năng dung nạp linh hoạt phẩm chất
của nhiều thể loại như tạp văn, tiểu phẩm, tiểu luận… Tản văn nhiều khi cũng
được định danh ngẫu hứng bằng các cách gọi như: nhàn đàm, nhàn tưởng,
phiếm đàm, thời đàm, tạp trở, đoản văn… Đặc trưng phổ quát của tản văn báo
chí là sự hiện diện trực tiếp của cái tôi tác giả, trong đó có sự ưu tiên về quan
điểm, cách cảm, cách nhìn nhận riêng của tác giả trước sự kiện khách quan.
Tản văn có hình thức tổ chức văn bản hết sức linh hoạt, thậm chí ngẫu hứng
trong cách hành văn, trong việc lựa chọn đề tài, tổ chức thông tin, liên kết các
chi tiết. Sức cuốn hút trong tiếp nhận tản văn là ở nghệ thuật đan xen các thủ
pháp nghệ thuật ngôn từ và văn phong thông tấn khách quan. Có thể xem tản
văn là sự hợp lưu điển hình giữa các phẩm chất báo chí và tính năng thẩm mỹ
của văn học.
1.2. Phong cách và phong cách báo chí
Phong cách là một thuật ngữ không chỉ được dùng trong lĩnh vực văn
học nghệ thuật, mà còn được dùng trong nhiều ngành khoa học và đời sống xã
hội trong đó có báo chí. Xung quanh thuật ngữ này có rất nhiều định nghĩa,
quan niệm khác nhau.
42
1.2.1. Phong cách
Theo quan điểm của người phương Tây từ thời cổ đại, khái niệm phong
cách (style) đã được nghiên cứu và vận dụng như một thuật ngữ liên quan đến
sáng tác văn học. Người Hy-La đã dùng chữ stylos (Hy Lạp), stylus (La Mã)
để chỉ dụng cụ viết, về sau người Pháp dùng chữ style để chỉ nét chữ, rồi chỉ
đặc điểm về mặt hình thức như ngôn ngữ và văn thể của tác phẩm văn học.
Phong cách là ý niệm gắn liền với những sản phẩm vật chất do con người tạo
ra nên, theo lẽ đó, nhà văn nổi tiếng người Pháp Buffon (1707-1788) đã đưa
ra quan niệm: “Phong cách chính là bản thân con người”[106, tr.20].
Ở Liên Xô trước đây, theo thống kê của M.B. Khrapchenkô trong cuốn
Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển văn học có tới gần 20 cách hiểu
khác nhau về phong cách. M.B.Khrapchenkô đã phân tích, đánh giá các khái
niệm và quan điểm về phong cách của các nhà nghiên cứu văn học Nga như:
D.Likhachep, A.Grigorian, V.Turbin để đưa ra kết luận: “Phong cách được
hiểu như những thủ pháp biểu hiện, cách khai thác hình tượng đối với cuộc
sống, như thủ pháp thuyết phục và thu hút độc giả”[58, tr.152].
N.Gulaiep đã đưa ra khái niệm “cộng đồng thẩm mỹ” như một nguyên
tắc nghệ thuật để hình thành phong cách. Ông cho rằng: “Phong cách chính là
biểu hiện sự gần gũi của các nhà văn về những nguyên tắc nghệ thuật mô tả
cuộc sống”[26, tr.344]. N.Gulaiep đã nhấn mạnh đến tính tư tưởng, thế giới
quan của người cầm bút và các yếu tố như: môi trường sáng tác, thời đại, lý
tưởng, thị hiểu thẩm mỹ... có thể tạo nên nét độc đáo của phong cách nhà văn.
Khái niệm phong cách thực sự gắn với con người, gắn liền với hoạt
động phát triển xã hội. Chỉ tính riêng thuật ngữ phong cách trong hoạt động
văn học, báo chí đã có nhiều cách gọi tên đồng nghĩa như: phong cách chính
luận, phong cách nghệ thuật, phong cách tác giả... Nghiên cứu về phong cách
người cầm bút, các nhà nghiên cứu ở Liên Xô trước đây thường chú ý đến tài
năng và cá tính sáng tạo của nhà báo, môi trường sáng tác nghệ thuật, đến thế
giới hình tượng mà họ xây dựng trong tác phẩm.
Ở Trung Quốc, phong cách ban đầu được hiểu là văn thể. Lưu Hiệp
trong Văn tâm điêu long đã chia ra các loại phong cách như: điển nhã, sâu xa,
43
cô đọng, lộ rõ, rườm rà, tráng lệ, tân kỳ, nhẹ nhàng. Lưu Hiệp đã bàn đến cá
tính, phong thái, cốt cách nhà văn để đưa ra nhận xét: “Lời văn và sáng tác
của mỗi người một khác. Cho nên lời văn và lý lẽ tầm thường hay ưu tú,
không ai có thể đổi cái tài của mình. Phong cách cứng hay mềm, (muốn đổi)
may ra chỉ có cách đổi khí chất”[33, tr.192]. Cái quan trọng của phong cách
là sự biểu hiện cá tính sáng tạo mà cá tính sáng tạo nhà văn khác nhau nên
dẫn đến phong cách khác nhau. Mặt khác, phong cách người cầm bút còn có
mối quan hệ chặt chẽ với khí chất của người đó. Lưu Hiệp cho rằng, nếu ý chí
và khí chất của nhà văn hăng hái mạnh mẽ thì cái phong cách nhà văn có tác
dụng cảm hóa… “cho nên người nào trau dồi cốt cách thì việc chọn lựa lời
văn thế nào cũng tinh, người nào đi sâu vào phong cách thì diễn đạt tình cảm
thế nào cũng rõ”[32, tr.197]. Như vậy, cá tính sáng tạo của nhà văn gắn liền
với các vấn đề như điều kiện sống, tài năng, khí chất, học vấn, tập quán, sự
rèn luyện... là những nhân tố quan trọng để hình thành phong cách của mỗi
cây bút.
Kế thừa tư tưởng của Lưu Hiệp, sau này Lỗ Tấn, nhà tạp văn nổi tiếng
của Trung Quốc đã cho rằng, phong cách một mặt là nơi hội tụ, biểu hiện cá
tính sáng tạo của nhà văn nhưng mặt khác cũng là nơi tiếp nhận, giao lưu,
phát triển cùng với xu hướng sáng tác đương thời.
Ở Việt Nam, phong cách nghệ thuật nói chung, phong cách tác giả nói
riêng là lĩnh vực khá mới mẻ nhưng đã được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm,
chính vì vậy đã có khá nhiều công trình đề cập đến vấn đề này.
Sau năm 1954, phong cách học, lúc đầu gọi là “Tu từ học” dưới góc
nhìn ngôn ngữ học được đưa vào giảng dạy ở khoa ngữ văn của một số trường
đại học. Năm 1964, Giáo trình Việt ngữ - tu từ học ra đời, đánh dấu sự ra đời
chính thức của bộ môn khoa học mới - Phong cách học. Sau đó, Giáo trình
phong cách học tiếng Việt hiện đại do Nguyễn Nguyên Trứ, Lê Anh Hiền, Cù
Đình Tú viết cho trường Đại học Sư phạm Việt Bắc là một công trình tương
đối đầy đủ và có tính hệ thống cao. Năm 1982, nhóm tác giả Cù Đình Tú, Lê
Anh Hiền, Võ Bình, Nguyễn Thái Hòa biên soạn một giáo trình mới “Phong
cách tiếng Việt”.
44
Những năm gần đây, các nhà nghiên cứu lý luận văn học và báo chí đã
dành nhiều công sức tìm hiểu vấn đề phong cách với nhiều công trình khoa
học được công bố.
Trong công trình nghiên cứu Dẫn luận phong cách học, tác giả Nguyễn
Thái Hòa đã định nghĩa: “Phong cách là những đặc trưng trong hoạt động lời
nói được lặp đi lặp lại ở một người nào đó, ở một môi trường ngôn ngữ hay
một cộng đồng, có khả năng khu biệt với những kiểu biểu đạt ngôn ngữ khác;
nói cách khác”[34, tr.172].
Trong tác phẩm Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều,
Phan Ngọc khái quát: “Phong cách là một hiện tượng thuộc văn hóa, lịch sử
chứ không phải thu lại trong một vài quy tắc về hình thức... Phong cách là
một cấu trúc hữu cơ của tất cả các kiểu lựa chọn tiêu biểu, hình thành một
cách lịch sử và chứa đựng một giá trị lịch sử, có thể cho phép ta nhận diện
một thời đại, một thể loại hay một tác giả”[71, tr.110].
1.2.2. Phong cách báo chí
Thuật ngữ phong cách trong báo chí, văn học thực ra đã xuất hiện ở Việt
Nam từ đầu thế kỷ XX với ý nghĩa là “lối văn”, “giọng văn”, “bút pháp”, “văn
phong”… Nguyễn Bá Học đã nêu: “Người cục súc thường hay làm văn tiểu xảo,
người nhu nhược thường hay làm văn chi li, người thô sơ thường hay làm văn
sống sượng, người danh lợi thường hay làm văn thù phụng, người bợm bãi
thường hay làm văn hoa tình”[28, tr.247]. Các tác giả cuốn The Community
Newspaper cho rằng, phong cách báo chí chủ yếu ở “các cách biểu đạt nội dung,
đơn giản chỉ là cách chấm câu; cách viết hoa, đặt tên hay đầu đề, cách viết tắt
hay cách trình bày, bố cục của tác phẩm”[135, tr.109].
Qua những luận điểm trên cho thấy, tính cách và khí chất được xem là
phương diện quan trọng ảnh hưởng quyết định đến tài năng nghệ thuật của
nhà báo và giá trị của tác phẩm. Nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân cho rằng,
phong cách là những nét tương đối bền vững của hệ thống hình tượng,
phương thức biểu hiện nghệ thuật tiêu biểu cho bản sắc sáng tạo của một nhà
báo, một tác phẩm, một khuynh hướng, một nền văn học dân tộc nào đó [2].
Như vậy, nét riêng độc đáo trong tư duy sáng tạo chính là điểm khái quát hình
45
thành phong cách của người cầm bút. Ngô Văn Giá cho rằng: “Một trí thức,
một nghệ sĩ chân chính sống, nghĩ và ký thác vào tác phẩm đạt đến một độ
sâu sắc nào đó sẽ chạm được vào tâm thức Việt, văn hóa Việt. Điều này
không phải hễ cứ muốn là có được. Hình như nó thuộc về cốt cách”[52,
tr.385].
Tuy nhiên, khi so sánh với phong cách văn học, Quang Đạm lại cho
rằng: “Văn phong báo chí cũng có những đặc điểm riêng của nó. Văn phong
báo chí không đòi hỏi nhiều tu từ, mỹ từ phức tạp. Nhưng nó rất khó ở chỗ
diễn đạt sao cho thật khoa học, cho thật logíc, cho thật thời sự”[12, tr.216].
Phong cách bao hàm nhiều yếu tố của sự đổi mới sáng tạo nghệ thuật
của người cầm bút, song cũng cần khẳng định tính ổn định của phong cách và
cái nhìn nghệ thuật độc đáo của người cầm bút cũng là những yếu tố rất quan
trọng. Đỗ Thị Thu Hằng cho rằng, cá tính là một phần của nhân cách, là
những nét đặc biệt độc đáo, nổi bật của nhân cách, làm cho nhân cách này
khác nhân cách khác, “mỗi nhà báo đều khác với các nhà báo khác ở cá tính,
thể hiện khác biệt rõ nét ở lĩnh vực trí tuệ, cảm xúc, ý chí”[30, tr.75] và cá
tính ảnh hưởng trực tiếp đến phong cách sáng tạo của nhà báo.
Lê Minh Quốc cho rằng, nhà báo phải thổi cái hồn của mình vào bài
báo bằng tất cả sự ngẫu hứng, “không chỉ có thế, họ còn phải có kiến thức để
nêu lên suy nghĩ, chính kiến riêng của mình. Chính lúc đưa cái hồn của mình
vào từng con chữ thì mới tạo ra phong cách riêng”[53, tr.189].
Nói về phong cách báo chí, Hồ Chí Minh cho rằng, người làm báo phải
luôn tâm niệm “Vì ai mình viết? viết cho ai, viết để làm gì”, văn phong báo
chí phải “giản đơn, dễ hiểu, phổ thông, hoạt bát”[92, tr.33] và đó cũng chính
là mong muốn của Người, báo chí phải luôn luôn “gần gũi với nhân dân”.
Từ quan điểm của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước, chúng tôi
cho rằng: Phong cách là nét riêng độc đáo gắn liền với con người nhà báo, có
thể nhận diện phong cách từ những tác phẩm báo chí của họ thông qua các
yếu tố nội dung, hình thức, ngôn ngữ của tác phẩm và không phải nhà báo nào
cũng có phong cách. Chỉ những nhà báo có tài năng nghệ thuật, có bản lĩnh,
46
biết sử dụng các phương tiện biểu đạt với hiệu quả cao nhất mới có thể tạo ra
phong cách riêng.
1.3. Một số nhân tố chi phối, ảnh hƣởng tới phong cách tản văn báo chí
của Ngô Tất Tố
1.3.1. Những nhân tố chủ quan
1.3.1.1. Quê hương và gia đình
Ngô Tất Tố sinh năm 1894 trong một gia đình nhà Nho nghèo ở làng
Lộc Hà, tổng Hội Phụ, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, nay là xã Mai Lâm, huyện
Đông Anh, Hà Nội. Dưới thời Pháp thuộc làng quê của Ngô Tất Tố tồn tại
nhiều hủ tục nặng nề. Gia đình ông là một gia đình nông dân thiếu ruộng,
quanh năm phải lĩnh ruộng làng để canh tác, cái nghèo cái khó luôn đeo đẳng
với gia đình ông. Chính vì thế, gia đình ông nợ nần chồng chất quanh năm.
Thuở nhỏ, Ngô Tất Tố đã theo cha đi học ở các trường hàng tổng ở
Lang Tài, Thuận Thành; lớn lên ông lại đi dạy học ở các làng Đông Trù, Gia
Thượng... đó là những làng quê cận kề quê hương của Ngô Tất Tố. Sau này,
tuy Ngô Tất Tố rời quê ra Hà Nội viết báo, viết văn nhưng ông thường xuyên
trở về quê. Chính việc gần gũi với làng quê như vậy đã giúp cho Ngô Tất Tố
có dịp tìm hiểu rất nhiều phong tục, tập quán, văn hóa làng quê, đồng thời
thấy rõ sự bóc lột đè nén của thực dân, phong kiến, địa chủ, cường hào đối
với người nông dân cũng như những hủ tục sau những lũy tre làng.
Ngô Tất Tố sinh ra trong một gia đình có truyền thống khoa cử, ông nội
và cha đẻ của ông đều là những người từng theo nghiệp “đèn sách”. Chính với
điều kiện gia đình như vậy, Ngô Tất Tố thuận đường học hành và đỗ đạt là điều
dễ hiểu. Ông đã từng đỗ đầu trong một kỳ khảo hạch cấp tỉnh, vì thế Ngô Tất Tố
thường được mọi người gọi bằng cái tên thân mật “bác đầu xứ Tố”.
Ngô Tất Tố là người có lòng yêu nước thiết tha, ông đã từng chứng
kiến và chịu ảnh hưởng sâu sắc những phong trào yêu nước thời kỳ những
năm tháng đầu thế kỷ XX với những tên tuổi như Hoàng Hoa Thám, Phan Bội
Châu, Phan Chu Trinh... Lòng yêu nước của ông gắn liền tình cảm với những
người dân lao động nghèo khổ, cần cù và tốt bụng. Trong thời kỳ Mặt trận
dân chủ, Ngô Tất Tố đã sớm tiếp thu ảnh hưởng của cách mạng, đứng trên lập
47
trường dân chủ, tố cáo áp bức bóc lột của bọn thực dân, phong kiến và tha
thiết đòi cải thiện đời sống cho nhân dân lao động.
Là một nhà Nho đồng cảm với những người lao động nghèo khổ, lại tận
mắt chứng kiến sự thối nát, tàn tạ của chế độ khoa cử phong kiến, Ngô Tất Tố
đã vượt qua bức tường sừng sững ngăn cách ý thức hệ để đến với người dân,
đặc biệt là người dân thôn quê nghèo khổ bằng một tình cảm yêu thương, trân
trọng hiếm có. Tố chất của một nhà văn, nhà Nho viết báo đã tạo cho Ngô Tất
Tố phong cách tiếp cận hiện thực ở những góc nhìn khác nhau, từ đó có cách
lý giải, đánh giá vấn đề theo quan điểm tiến bộ. Ở ông có sự kết hợp Đông
Tây kim cổ, một phong cách hòa quyện nhuần nhuyễn cái hiện đại phương
Tây với cái truyền thống phương Đông. Ngô Tất Tố lột tả hiện thực hiển hiện
trước mắt người đọc với tất cả diện mạo, hình hài của nó, sau đó truy xét đến
tận cùng ngọn nguồn, căn nguyên hiện thực, để rồi bất ngờ, kín đáo bày tỏ
thái độ của mình. Điều này tạo nên một Ngô Tất Tố nhà văn - nhà Nho - nhà
báo không thể trộn lẫn với các nhà văn, nhà báo là trí thức Tây học cùng thời.
1.3.1.2. Sự nghiệp báo chí của Ngô Tất Tố
Ngô Tất Tố theo nghiệp cầm bút bắt đầu từ những năm 1907 - 1908,
theo lời ông kể lại, trước khoa thi Kỷ Dậu (1909) ngoài chữ Nho ra, lại có bài
thi quốc ngữ. Lại, nhưng việc ông tập trung học chữ quốc ngữ là do ảnh
hưởng cuộc phản đối khoa cử do hội Đông Kinh nghĩa thục khởi xướng [98],
“thầy tôi cũng chán lối văn cử nghiệp, bắt tôi tập lối văn thiết thực, tỷ dụ như:
tả cảnh một đồng lúa chiêm, hay tả cảnh cái đình cái chùa...” và “bởi nhàn
rỗi quá, không có việc gì mà làm, tôi mới nảy ra ý tưởng viết văn. Tôi dịch
cuốn Cẩm Hương Đình, năm ấy tôi đã 22 tuổi...”[73, tr.389].
- Thời kỳ 1926 - 1929, Ngô Tất Tố bắt đầu làm báo từ năm 1926 khi
ông cộng tác cùng với Tản Đà ở An Nam tạp chí. Cuối năm 1927, Ngô Tất Tố
cùng Tản Đà vào Sài Gòn dự định tiếp tục tái bản An Nam tạp chí nhưng
không thành công, ông ở lại viết cho Đông Pháp thời báo, Thần chung và
Đuốc nhà Nam…
- Thời kỳ 1930 - 1935, Ngô Tất Tố đảm trách các chuyên mục Gặp đâu
nói đấy (Phổ thông); Nói chơi (Đông Phương); Chuyện giữa giời (Thực
48
nghiệp dân báo)… Ngô Tất Tố còn viết nhiều tản văn đăng trên các tờ như
Ngọ báo, Đông pháp thời báo, Công luận, Đuốc nhà Nam…
- Thời kỳ 1936 - 1939, Ngô Tất Tố đảm trách nhiều chuyên mục như:
Gặp đâu nói đấy, Thật hay bỡn, Làng tôi, Đời dân quê, Thời sự, Quốc tế
(Thời vụ báo); Nói mà chơi (Tương lai); Ném bùn sang ao (Con ong)…
- Thời kỳ 1940 - 1945, Ngô Tất Tố đảm trách chuyên mục Chuyện
hàng ngày (Đông Pháp); Thơ và tình (Trung Bắc Chủ nhật).
- Thời kỳ 1945 - 1954, Ngô Tất Tố tham gia vào Ủy ban Giải phóng
của làng Lộc Hà quê ông. Năm 1946, ông tham gia vào Hội Văn hóa cứu
quốc, tự nguyện lên Việt Bắc tham gia kháng chiến; vừa viết văn vừa viết
báo cho các tờ Cứu quốc, Tạp chí Văn nghệ, Cứu quốc khu XII... Tại Hội
nghị Văn nghệ toàn quốc lần thứ nhất, tháng 7/1948, ông được bầu vào Ban
Chấp hành Hội Văn nghệ Việt Nam [111].
Ngô Tất Tố đã cộng tác và viết bài cho 27 tờ báo, tạp chí với khoảng
1.350 tác phẩm báo chí, bằng nhiều bút danh khác nhau đã được xác định là
của Ngô Tất Tố. Số lượng tác phẩm báo chí đồ sộ ấy được chưng cất từ quá
trình trải nghiệm hoạt động báo chí đầy nhiệt huyết, nên người đọc dễ dàng
cảm nhận được phong cách sáng tạo rất riêng biệt của Ngô Tất Tố qua những
tản văn của ông.
1.3.2. Những nhân tố khách quan
1.3.2.1. Bối cảnh chính trị, kinh tế, xã hội đầu thế kỷ XX
Ngô Tất Tố bước chân vào làng báo trong bối cảnh Chiến tranh thế giới
lần thứ nhất kết thúc. Hậu quả để lại đối với tất cả các nước tham chiến, trong
đó có nước Pháp bị thiệt hại nặng nề về người và của với hàng chục triệu
người chết, hàng trăm tỷ đôla bị ngốn vào chi phí chiến tranh [119]. Bối cảnh
đó cùng với thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga… đã mở ra một
cục diện thế giới mới với sự ra đời và phát triển mạnh mẽ của phong trào
cộng sản, phong trào công nhân và phong trào giải phóng dân tộc.
Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, thực dân Pháp đã triển khai nhiều
chính sách phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội nhằm đẩy mạnh khai
thác thuộc địa ở Đông Dương. Chỉ trong một thời gian ngắn, hầu hết các
49
ngành kinh tế đều phát triển, từ nông nghiệp, đến công, thương nghiệp, giao
thông vận tải, dịch vụ tài chính... trong đó phải kể đến sự phát triển vượt bậc
của nền kinh tế công nghiệp và nông nghiệp. Sự chuyển biến đó cùng với sự
thay đổi trong chính sách thuộc địa lấy “hợp tác với người bản xứ” làm cho
xã hội Việt Nam bị phân hóa theo hướng ngày càng phức tạp, mâu thuẫn xã
hội quyết liệt hơn xung quanh vấn đề cách mạng dân tộc, dân chủ.
Ở khu vực nông thôn, giới địa chủ, cường hào ra sức tích tụ, chiếm đoạt
ruộng đất, đẩy người nông dân vào cuộc sống lầm than, cơ cực. Chính điều
kiện đó khiến cho nông dân giác ngộ hơn về quyền lợi cũng như ý thức dân
tộc. Giai cấp địa chủ gia tăng về số lượng và đa dạng hơn về thành phần. Mặt
khác, một bộ phận xuất thân từ các tầng lớp “trên” của xã hội thuộc địa, các
quan lại trong bộ máy chính quyền, các trí thức Tây học, các doanh nhân,
thương gia trung thành với chính sách “Pháp - Việt đề huề” (Collaboration
Franco - Annamite), quay lưng lại với quyền lợi quốc gia, dân tộc, chống lại
nhân dân; bộ phận khác là tầng lớp địa chủ nhỏ và vừa, trong đó có một số
mới từ nông dân mà trở thành, nên tỏ ra phức tạp hơn trong thái độ với phong
trào giải phóng dân tộc. Với những ảnh hưởng nhất định của chính sách
“Pháp - Việt đề huề”, nhà nghiên cứu Trần Văn Giàu đã cho rằng “tư tưởng
nhân dân bị đầu độc rất nặng”[25, tr.294].
Tư sản dân tộc trở thành một giai cấp, trên cơ sở một nền kinh tế phát
triển, ít nhiều giai cấp này mang tính chất “Việt hóa”. Giai đoạn này, vượt qua
thời kỳ hoạt động riêng lẻ, phân tán, họ đã liên kết thành các hội đoàn để mở
rộng sản xuất và bảo vệ quyền lợi của mình trước sự cạnh tranh của tư bản
nước ngoài. Cùng với sự phát triển về số lượng, ý thức giai cấp trong giai cấp
này đã hình thành và ngày càng bộc lộ rõ nét. Từ những cuộc đấu tranh đòi
được bình đẳng về quyền lợi kinh tế, giai cấp tư sản đã tiến tới đòi hưởng
quyền tự do - dân chủ, đấu tranh để có tiếng nói và vai trò về chính trị. Lúc
này, chính sự ra đời của báo chí tư sản đã đánh dấu một bước trưởng thành
của giai cấp tư sản Việt Nam về tư tưởng và ý thức giai cấp.
Sự phân hóa sâu sắc cả về kinh tế và xã hội Việt Nam đã ảnh hưởng lớn
đến phong trào yêu nước, giải phóng dân tộc của nhân dân ta trong những
năm 1920; tạo điều kiện thuận lợi cho sự tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin, vũ
50
khí cách mạng của giai cấp vô sản quốc tế cũng như những ảnh hưởng mạnh
mẽ từ cuộc Cách mạng tháng Mười Nga - cuộc cách mạng vô sản đầu tiên
trên thế giới thắng lợi, mở ra một thời đại mới cho lịch sử loài người - thời đại
phong trào giải phóng dân tộc chuyển hẳn sang phạm trù vô sản.
Sự ra đời của các đảng cộng sản Pháp, Trung Quốc và các nước trên thế
giới vừa là nguồn cổ vũ động viên các chiến sĩ cộng sản Việt Nam, vừa tạo ra
những thuận lợi cho sự du nhập chủ nghĩa Mác - Lênin và những tư tưởng
tiến bộ vào Việt Nam. Từng bước, phong trào cách mạng Việt Nam hội nhập
và trở thành một bộ phận không thể tách rời của phong trào cộng sản thế giới
dưới sự lãnh đạo của Quốc tế Cộng sản. Đây cũng là thời kỳ phong trào đấu
tranh yêu nước và cách mạng của nhân dân ta diễn ra sôi nổi, dưới nhiều hình
thức khác nhau và in đậm dấu ấn của những giai cấp, những tầng lớp xã hội
tiến hành những cuộc đấu tranh đó.
Cũng trong giai đoạn này, phải kể đến những hoạt động xuất sắc và
công lao to lớn của Nguyễn Ái Quốc tại Pháp, tại Liên Xô cũng như tại các
nước láng giềng: Trung Quốc, Lào, Miên, Xiêm... Người tiếp cận chủ nghĩa
Mác - Lênin, lý luận cách mạng tiên tiến truyền bá về Việt Nam và chuẩn bị
về tư tưởng, tổ chức cho việc thành lập một đảng cộng sản chân chính ở Việt
Nam cũng như đưa phong trào cách mạng Việt Nam hội nhập và trở thành
một bộ phận không thể tách rời của phong trào cộng sản thế giới, dưới sự lãnh
đạo của Quốc tế Cộng sản.
1.3.2.2. Bối cảnh đời sống báo chí đầu thế kỷ XX
Trong bối cảnh kinh tế, chính trị - xã hội nêu trên, giữa những thập niên
đầu của thế kỷ XX mặc dù báo chí hoàn toàn nằm trong quyền quản lý của
chính quyền thực dân, nhưng những người cầm bút yêu nước vẫn tìm mọi
cách để bày tỏ tư tưởng của mình ngay trên mặt báo của kẻ thống trị.
Ngô Tất Tố bắt đầu làm báo từ năm 1926, sau khi từ Nam kỳ trở ra Hà
Nội năm 1930, cho đến năm 1945, có thể nói sự nghiệp của ông gắn chặt với
con đường làm báo chuyên nghiệp, “báo chí trong thời kỳ này đã gặt hái
được những kết quả tốt đẹp. Với sự phát triển của ngôn ngữ và tư tưởng, văn
phong của báo chí ngày càng hoàn chỉnh”[121, tr.260].
Trong thời kỳ này, báo chí có sự thay đổi rõ rệt về nội dung và hình
thức. Sự phát triển của chữ quốc ngữ là một tiền đề rất quan trọng cho sự phát
51
triển của văn hóa, xã hội. Việc giao lưu, học hỏi với phương Tây cùng với sự
phát triển của đô thị đã đem lại một luồng không khí mới cho văn chương,
học thuật, sự thay đổi rõ rệt về báo chí, sinh hoạt văn học cũng như công
chúng. Đây cũng là một giai đoạn sôi động trong lịch sử báo chí và văn học
Việt Nam với những cách tân về thể loại, ngôn ngữ, hình thức và quan niệm
về sáng tác. Từ những tác phẩm báo chí, văn học còn in đậm dấu ấn của
phong cách cổ, tính quy phạm và ước lệ trong phương thức biểu hiện, những
tác phẩm báo chí và văn chương đã chuyển nhanh vào thời kỳ hiện đại với sự
đóng góp của đông đảo các cây bút với nhiều khuynh hướng sáng tác khác
nhau. Trong đó có thể nói đến Hoàng Tích Chu, một cây bút mà Ngô Tất Tố
đã có hàng chục bài “bút chiến” với lối văn “mô phòng theo lối hành văn của
người Pháp, lúc đầu độc giả xem đó là lố lăng, không thích hợp nhưng lần
hồi, họ làm quen được và xem đó là lối viết thích hợp trên báo chí mà đua
nhau tập theo nhiều lắm”[104, tr.81].
Một số tờ báo tiêu biểu của thời kỳ này có thể kể đến là:
- Đông Pháp thời báo: ban đầu đây là một trong những tờ báo thân nhà
cầm quyền Pháp, chuyên “tán dương những nhà quyền thế đương thời, kể
chuyện vớ vẩn, ca ngợi công ơn của nền khai hóa và ru ngủ dân chúng” như
Nguyễn Ái Quốc đã phân tích [66, tr.343]. Đó chính là nguyên nhân khiến cho
tờ báo này nhanh chóng mất độc giả buộc chủ báo bán lại cho chủ khác. Dưới
thời chủ mới là ông Diệp Văn Cường, Đông Pháp thời báo chuyển sang viết
những nội dung bài có tính đối lập, như phản ánh sự kiện người dân biểu tình
đòi trả tự do cho Phan Bội Châu; bày tỏ quan điểm tiến bộ trước một số hoạt
động của Toàn quyền Đông dương mới sang… từng bước Đông Pháp thời báo
trở thành một trong những tờ báo có đông người đọc nhất hồi bấy giờ.
Tờ Đông Pháp thời báo đã công nhiên giới thiệu báo Việt Nam hồn do
Nguyễn Ái Quốc chủ trương xuất bản ở Pháp và tự nguyện đứng ra làm đại lý
phân phối báo Việt Nam hồn ở Đông Dương [66].
Để có thêm thanh thế, ngoài nhà cách mạng Trần Huy Liệu đã cộng tác
với tờ báo này từ trước, chủ bút Diệp Văn Cường còn mời thêm hai cây bút
Bắc kỳ nổi tiếng là Tản Đà và Ngô Tất Tố vào Nam để tăng cường cho ban
biên tập. Nhờ đó, ngay từ những năm tháng đầu tiên đến với nghề báo chuyên
nghiệp, được tiếp xúc với không khí làm báo ở Nam kỳ là nhân tố quan trọng
52
hình thành phong cách báo chí của Ngô Tất Tố, bởi “không có ở đâu mà sự
tranh cãi giữa những người Việt về đường lối chống Pháp trực tiếp bằng vũ
lực hay mục tiêu hiện đại hóa trong khuôn khổ thuộc địa lại gay gắt như ở
miền Nam” và cũng không có nơi nào “chịu ảnh hưởng của sự tiếp xúc Tây
phương sâu xa như thế” [72, tr.83].
- Thực nghiệp dân báo, ra số đầu tiên từ đầu năm 1920. Thời kỳ đầu, tờ
báo này đã hô hào mọi người đi vào con đường “thực nghiệp”, kêu gọi cho
phép giai cấp tư sản Việt Nam được xây dựng nhà máy, phát triển sản xuất.
Thực nghiệp dân báo đã đáp ứng được “những khát khao của độc giả. Khát
khao ấy không có gì khác lạ hơn là nới rộng chế độ cai trị, tăng thêm tự do,
bớt trừ tham nhũng áp bức… chiều theo nguyện vọng của độc giả, trình bày
những tư tưởng tự cường, giải phóng, tố cáo những sự ỷ thế, lạm quyền,
những điều thối tha, mục nát”[37, tr.136].
Năm 1925, Nguyễn Ái Quốc lập Hội Thanh niên cách mạng Việt Nam
ở Quảng Châu. Những thanh niên yêu nước Việt Nam từ trong nước ra cùng
với những thanh niên trong Tâm tâm xã đang có mặt ở Trung Quốc được
Nguyễn Ái Quốc giáo dục về lý luận cách mạng vô sản và con đường giải
phóng dân tộc theo chủ nghĩa Mác - Lênin. Học xong, phần lớn được cử về
nước xây dựng phong trào. Nhờ có lý luận cách mạng khoa học, đường lối
chính trị đáp ứng được yêu cầu và xu hướng phát triển của lịch sử nước ta,
nên Hội Thanh niên cách mạng Việt Nam phát triển cơ sở rất nhanh chóng
trong hàng ngũ trí thức thanh niên, học sinh và giai cấp công nhân tạo ra
những tiền đề tư tưởng và chính trị chuẩn bị cho bước phát triển mới nhảy vọt
của cách mạng Việt Nam, theo con đường cách mạng vô sản.
Thời kỳ này, một dòng báo mới xuất hiện trong lịch sử báo chí nước ta -
báo cách mạng, xuất bản bí mật, không hợp pháp, mở đầu bằng tờ Thanh niên
của Tổng bộ Hội Thanh niên cách mạng Việt Nam, do Nguyễn Ái Quốc sáng
lập. Tiếp theo tờ Thanh niên còn có tờ Công nông và Lính Cách mệnh của
Tổng bộ do Nguyễn Ái Quốc tổ chức và chỉ đạo. Cùng với sự phát triển của hệ
thống tổ chức và cơ sở của Hội Thanh niên cách mạng Việt Nam, nhiều tờ báo
của kỳ bộ, tỉnh bộ và chi hội cũng ra đời. Tính tất cả những tờ báo từ ngày
trước còn lại và mới ra đời trong khoảng thời gian 1923 - 1929, cả báo xuất bản
53
công khai, hợp pháp và không hợp pháp, cả nước có khoảng trên dưới 90 tờ,
gấp hai lần tổng số báo chí xuất bản trong 59 năm (1865 - 1924).
Tình hình chính trị, kinh tế, xã hội thời kỳ này để lại dấu ấn rất rõ nét
trên báo chí. “Trong 5 năm rưỡi, kể từ đầu năm 1936, có gần 30 tờ báo và tạp
chí từ thời gian trước còn được tiếp tục xuất bản và 180 tờ báo mới ra đời
công khai, hợp pháp. Số báo và tạp chí xuất bản công khai hợp pháp lên tới
210, gấp gần 2 lần rưỡi số báo và tạp chí của quãng thời gian trước dài
tương đương như vậy (1924 - 1929). Bên cạnh làng báo công khai hợp pháp,
phải kể đến hệ thống báo chí xuất bản bí mật không hợp pháp, chủ yếu là báo
chí cách mạng, khoảng 170 tờ…”[42, tr.96].
Ngô Tất Tố bước vào nghề báo đúng vào lúc báo chí cách mạng ra đời
và từng bước phát triển mạnh mẽ. Trong bối cảnh đó, chắc hẳn Ngô Tất Tố đã
tiếp nhận được những tri thức mới mẻ và tiến bộ về nghệ thuật báo chí. Bởi
lẽ, báo chí cách mạng trong thời kỳ này đã có những đóng góp to lớn, mang
lại lại những bài học giá trị về nghề nghiệp [56].
Không khí sinh hoạt dân chủ và đấu tranh cho tự do ngôn luận, cải thiện
đời sống của những người lao động ở thành thị và nông thôn diễn ra sôi nổi, bắt
đầu từ mùa Thu năm 1936, phát triển đến đỉnh cao vào giữa năm 1938.
Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo đấu tranh đòi chính quyền thuộc
địa công nhận hoạt động công khai, hợp pháp. Dựa vào khí thế của phong trào
quần chúng do Đảng lãnh đạo, một bộ phận những người cộng sản ra hoạt
động công khai, gây được ảnh hưởng sâu sắc trong đấu tranh cho dân chủ và
dân sinh trong các tầng lớp xã hội, nhất là trong những người lao động và trí
thức. Đó chính là một cái nền cho sự phát triển của báo chí nước ta trong một
giai đoạn đặc biệt. Thời kỳ Mặt trận dân chủ (1936-1939) là thời kỳ báo chí
phát triển sôi nổi đặc biệt. Theo tài liệu của cơ quan lưu trữ của thực dân
Pháp, “năm 1936, cả nước có 277 tờ báo, tạp chí, tập san các loại. Cuối năm
tăng hơn đầu năm 47 tờ và hơn năm 1935 10 tờ (3,7%). Năm 1937 có 289 tờ,
tăng hơn năm 1936 là 12 tờ (4,3%). Năm 1938 có 308 tờ, tăng hơn năm 1937
là 19 tờ (6,5%). Đến năm 1939, con số báo và tạp chí tiếp tục tăng lên 4%,
trong đó tốc độ tăng của Bắc kỳ và Nam kỳ lên đều nhau; Trung kỳ từ năm
1938 lại sụt hơn 1936 (26/17 tờ)”[42, tr.l13].
54
Tiểu kết Chƣơng 1
Trong Chương 1, luận án đã đi sâu phân tích và làm rõ các nội dung sau:
Về tản văn báo chí: Tản văn báo chí là tản văn được đăng tải trên báo
chí. Tản văn báo chí có thể xem là một thể loại báo chí đặc thù hợp lưu các
phẩm chất văn học và báo chí. Các thông tin sự kiện, thông tin thời sự có thể
được trình bày một cách có nghệ thuật. Tản văn báo chí bao gồm nhiều thể:
tạp văn, tiểu phẩm… có thể được định danh ngẫu hứng, như: nhàn đàm,
phiếm đàm, thời đàm, tạp trở, đoản văn. Đặc trưng phổ quát của tản văn báo
chí là sự hiện diện trực tiếp của cái tôi tác giả, trong đó có sự ưu tiên về quan
điểm, cách cảm, cách nhìn của tác giả trước sự kiện; tổ chức tác phẩm linh
hoạt, ngẫu hứng trong cách hành văn, trong việc lựa chọn đề tài, tổ chức
thông tin, liên kết các chi tiết.
Về phong cách: Phong cách là nét độc đáo gắn liền với con người nhà báo,
có thể nhận diện từ những tác phẩm báo chí của họ thông qua các yếu tố nội dung,
hình thức, ngôn ngữ của tác phẩm và không phải nhà báo nào cũng có phong
cách. Chỉ những nhà báo có tài năng nghệ thuật, có bản lĩnh, biết sử dụng các
phương tiện biểu đạt với hiệu quả cao nhất mới có thể tạo ra phong cách riêng.
Một số nhân tố chủ quan chi phối và ảnh hưởng phong cách tản văn báo
chí của Ngô Tất Tố: Sinh ra trong một gia đình và làng quê giàu truyền thống
văn hóa, nhất là có truyền thống hiếu học đã góp phần hình thành ở Ngô Tất Tố
nhân cách của một ký giả giầu tinh thần yêu nước, yêu nhân dân, cảm thông với
người lao động nghèo khổ; phát huy những yếu tố tích cực của Nho giáo, tiếp
thu những giá trị mới trong kỹ năng làm báo của người phương Tây; tư tưởng
tiến bộ, thức thời đã giúp Ngô Tất Tố sớm tìm thấy điểm gặp gỡ giữa con đường
đi tới của một cây bút hiện thực với hành trình cách mạng của dân tộc.
Một số nhân tố khách quan chi phối và ảnh hưởng phong cách tản văn
báo chí của Ngô Tất Tố: Bối cảnh chính trị, kinh tế, xã hội những thập niên
đầu thế kỷ XX và sự phát triển của báo chí cùng với những biến động theo
hướng mở rộng dân chủ, tiếp thu những kỹ nghệ làm báo hiện đại của châu
Âu… chính là những nhân tố chi phối mạnh mẽ tới việc hình thành phong
cách của nhà văn, nhà báo Ngô Tất Tố, nhất là phong cách tản văn báo chí
của ông.
55
Chƣơng 2
PHONG CÁCH TẢN VĂN BÁO CHÍ CỦA NGÔ TẤT TỐ
QUA BÌNH DIỆN NỘI DUNG TÁC PHẨM

Nội dung là một trong hai bình diện quan trọng của một tác phẩm báo
chí. “Nội dung tác phẩm báo chí là một phạm vi, một bộ phận mới mẻ của
cuộc sống hiện thực được phản ánh thông qua nhận thức, lựa chọn và sáng
tạo của nhà báo. Có thể phân biệt các yếu tố nội dung chính của tác phẩm
báo chí là sự kiện, chi tiết, vấn đề chính kiến, đề tài và tư tưởng”[108, tr.155].
Điều làm cho mọi người dễ nhận diện phong cách tản văn báo chí của
Ngô Tất Tố là sự phong phú về đề tài và đa dạng cách thức biểu đạt được thể
hiện trong những tản văn của ông. Nói cách khác, phong cách tản văn báo chí
của Ngô Tất Tố qua bình diện nội dung của những tản văn được thể hiện ở
việc lựa chọn đề tài, cách thức thu thập, xử lý thông tin, cách thức đề cập và
phản ánh sự kiện, hiện tượng, các vấn đề của đời sống xã hội; qua việc khắc
họa hình ảnh của những nhân vật, những con người cụ thể và những dự báo
về các vấn đề chính trị - xã hội thông qua những tác phẩm báo chí của mình.
2.1. Đề tài trong tản văn báo chí của Ngô Tất Tố
Đề tài là phạm vi hiện thực trong đó hàm chứa sự kiện, vấn đề được
phản ánh vào tác phẩm báo chí. Theo Tạ Ngọc Tấn, “có đề tài là của một lĩnh
vực rộng lớn trong đời sống xã hội, tự nhiên. Có đề tài chỉ bao gồm một khu
vực nhỏ cụ thể của ngành kinh tế, một loại hình hoạt động xã hội”[108,
tr.164]. Nói cách khác, đề tài báo chí là đề tài của một tác phẩm cụ thể với
tính chất là một lĩnh vực đời sống hiện thực được nhà báo theo dõi, phản ánh.
Trong báo chí, chỉ có thể thấy được giá trị của tác phẩm thông qua việc khai
thác nội dung của đề tài [96]; việc lựa chọn đề tài phản ánh là bí quyết đầu
tiên, là chìa khóa mở ra thành công của tác giả, tác phẩm [122].
Nói đến phạm vi phản ánh hiện thực trong tản văn, không chỉ đơn giản
là sự “ghi chép” mà còn là sự phản ánh sự kiện, hiện tượng ở nhiều bình diện
khác nhau có chủ đích của nhà báo. Chính vì thế, việc khảo sát về đề tài tản
văn báo chí của Ngô Tất Tố có ý nghĩa xác định rõ hơn phong cách sáng tạo
56
của ông thể hiện qua nội dung những tản văn báo chí. Kết quả khảo sát của
chúng tôi cho thấy, đề tài tản văn báo chí của Ngô Tất Tố chủ yếu theo ba
loại: chính trị; văn hóa, xã hội và quốc tế.
2.1.1. Đề tài chính trị
Hoạt động báo chí luôn gắn liền với các hoạt động chính trị, hay nói
cách khác hoạt động báo là hoạt động chính trị [53]. Do vậy, các vấn đề chính
trị luôn là một trong những đề tài quan trọng nhất của báo chí nói chung và
đối với tản văn báo chí của Ngô Tất Tố cũng không phải là ngoại lệ. Trong
các tản văn của mình, mối quan tâm hàng đầu của Ngô Tất Tố chính là những
sự kiện chính trị đang diễn ra hằng ngày, nhất là những sự kiện chính trị liên
quan mật thiết đến đời sống của nhân dân.
Trên lập trường của chủ nghĩa hiện thực phê phán, Ngô Tất Tố đã vạch
trần những chính sách ngu dân, mị dân và những thủ đoạn thâm độc của chính
quyền thực dân nhằm đánh lạc hướng các tầng lớp nhân dân, nhất là thanh
niên hòng đẩy họ vào con đường sa ngã, trụy lạc. Bằng ngòi bút của mình,
trong các tác phẩm báo chí Ngô Tất Tố đã đấu tranh với những thủ đoạn đó
với nhiều cách tiếp cận khác nhau, như: tranh luận về vấn đề “bảo hộ” và
“trực trị” (Không phải đánh bốc, đánh bài Tây đấy); cổ vũ phong trào “chấn
hưng Phật giáo”, “bảo tồn quốc túy” (Cái ngày quốc túy, Hỡi đồng bào Việt
Nam chúng ta nên vẽ mình cho con cái chúng ta, Mười năm nữa báo chí Bắc
Kỳ sẽ cổ động đến thò lò, quay đất…); hay các phong trào “Âu hóa”, “vui vẻ
trẻ trung” (Xin nhờ Lơ Muya Cát Tường việc này nữa)…
Đầu những năm 1930, báo chí Bắc kỳ đã sôi nổi tranh luận về vấn đề
xây dựng hiến pháp theo hướng “bảo hộ” hay “trực trị” do Phạm Quỳnh và
Nguyễn Văn Vĩnh khởi xướng. Theo Ngô Tất Tố, đó chỉ là một trong những
thủ đoạn chính trị, bởi những người có chủ trương vốn “cùng hội cùng
thuyền”. Ngô Tất Tố đã mượn câu chuyện về những người chơi bài Tây ngoài
hè phố để mỉa mai về chiêu trò này của ông Quỳnh, ông Vĩnh: “Một chị đàn
bà ngồi trong làm “cái”, miệng hát tay tráo ba quân ít xì để cho hàng xứ đến
đánh, đánh trúng “bài người” thì được, đánh phải “bài hoa” thì thua… lại
phải có một chị đàn bà khác ngồi ngoài làm “con”, cởi ruột tượng mà đánh,
57
đánh một cách hăng hái sát phạt, thiên hạ thấy vậy ngõi mắt đánh theo, lắm
người phải dốc túi với các chị. Tối đến, chị “cái”, chị “con” đổ tiền làm một,
trừ vốn đi, còn được bao nhiêu chia nhau. Ấy cái lối đánh bài Tây
nó thế!”[18, tr.81].
Về việc bầu cử nghị viện, hay bầu người đứng đầu Viện Dân biểu Bắc
kỳ, Ngô Tất Tố đã có hàng chục tác phẩm với những nhân vật được ông theo
đuổi trong nhiều năm liên tục. Bằng những luận điểm đanh thép, ông tố cáo
sự ươn hèn, dốt nát của những kẻ mang tiếng là đại biểu của nhân dân nhưng
bất tài và vô dụng. Trong tác phẩm Nghị viện khóa tới sẽ là trách nhiệm của
ai? ông viết:
“Hẳn không ai lạ gì tài đức của hai hạng người ấy. Một nửa tiếng
Pháp không biết đã đành, nhiều ông còn đọc quốc ngữ không trơn,
hoặc là không đọc được nữa. Người ta trách các ông hay ngủ gật
hay ngáp vặt ở nghị trường, nhưng với tư cách ấy chẳng ngủ, chẳng
ngáp thì làm gì”.
(Thời vụ, số 12, 1938)
Những năm 1936-1939, nhờ ảnh hưởng của Mặt trận dân chủ và các
phong trào cách mạng, “chánh phủ bãi lệ kiểm duyệt các báo chí quốc ngữ,
nên số báo chí xuất bản ngày càng nhiều; không những là cơ quan thông
tin… lại có nhiều cơ quan tuyên truyền những chủ nghĩa về chánh trị, về xã
hội”[28, tr.365]. Với điều kiện đó, tản văn của Ngô Tất Tố chuyển mạnh sang
đề tài chính trị, ngòi bút của ông liên tục đề cập đến những sự kiện chính trị
quan trọng trong nước và thế giới. Ông vẽ nên một bức tranh toàn cảnh với
đầy đủ các sự kiện quan trọng như: phong trào Đông Dương đại hội với
những cuộc biểu tình rầm rộ đón lao công đại sứ Godard ở Bắc kỳ; phong trào
đấu tranh dân chủ của báo giới đòi tự do ngôn luận, tự do hội họp; những
cuộc đình công khổng lồ của “lao động Đông Dương”, của “phu phen thuyền
thợ”, hay “mấy nghìn phu xe ở Hà Nội” đòi tăng lương. Ngòi bút của Ngô Tất
Tố cũng kịp thời phản ánh những sự kiện liên quan đến việc biểu tình của
nông dân Thanh Hóa làm cho giới quan lại “giật mình đánh thót”; những cuộc
58
nổi dậy phá kho thóc địa chủ của nông dân Bạc Liêu, Rạch Giá… với khí thế
“đi rầm rập như những đám quân du kích”.
Khi viết cho tờ Tương lai, Ngô Tất Tố đã đứng hẳn về phía phong trào
Đông Dương đại hội và Mặt trận dân chủ và trở thành “người bạn đường của
giai cấp công nhân”[17, tr.97]. Bằng ngòi bút của mình, Ngô Tất Tố đã vạch
mặt một số đồng nghiệp ở báo Ngày nay khi họ hùa theo theo Viện Dân biểu
Bắc kỳ để phá hoại phong trào Đông Dương đại hội: “Cái việc lựa chọn đại
biểu, thảo tập nguyện vọng để chờ đưa cho ủy ban điều tra, đối với óc người
Việt Nam, ai chẳng coi là việc quan trọng... Thế mà mấy ông đồng nghiệp ở
đường Quan Thánh lại định làm cho việc quan trọng thành ra việc “lùng tùng
xòe”. Cái đó mới nhẫn tâm chứ!”[18, tr.458].
Trong tác phẩm Đừng giở những ngón ấy ra nữa - Tôi can mấy ông
Ngày nay, Ngô Tất Tố phê phán Phạm Huy Lục và một số cây bút của tờ
Ngày nay khi họ đưa những điều thỉnh cầu lạc lõng như việc “tuần phòng”
vào Bản dân nguyện, ông viết:
“Cái lối thỉnh cầu khốn nạn ấy, chẳng phải chỉ riêng các ông mới có.
Còn nữa, có người muốn xin ấn định tiền thuế cho phu xe. Còn có
người muốn xin cho dân An Nam lại học chữ Hán. Còn có người
muốn xin đừng thi hành luật tuần lễ 40 giờ. Những người ấy cũng như
mấy ông đều trực tiếp hoặc gián tiếp thuộc về bọn ông Lục tất cả”.
(Tương lai, số 3, 1936)
2.1.2. Đề tài văn hóa, xã hội
Khi mới bước chân vào làng báo, những năm 1930, Ngô Tất Tố viết nhiều
về đề tài văn hóa, xã hội. Ông tập trung ngòi bút của mình đả kích những thói hư
tật xấu trong xã hội, như mê tín dị đoan, đài các rởm, tham ăn tục uống…; ông
vạch mặt bản chất hủ bại của những kẻ mang danh nhà Nho, bọn bồi bút, tay sai
của chế độ thực dân. Những năm từ 1940-1945, trong thời kỳ chiến tranh, khi
báo chí bị đặt dưới chế độ kiểm duyệt gắt gao, thắt chặt những tác phẩm viết về
đề tài chính trị của Pháp và Nhật thì ngòi bút đả kích của Ngô Tất Tố lại thiên về
các đề tài văn hóa, xã hội. Thực ra, đây là sự điều chỉnh, sự thích ứng để tồn tại
và chuyển hướng phản ánh hiện thực xã hội qua việc phê phán các vấn đề như
mê tín dị đoan, hôn nhân gia đình, y tế, giáo dục…
59
Vấn đề gia đình luôn là một mối quan tâm hàng đầu của Ngô Tất Tố.
Trong tác phẩm đầu tay của mình đăng trên An Nam tạp chí năm 1926 có đầu
đề Đối với ý kiến gia đình của ông Tạ Quang Cát, Ngô Tất Tố viết:
“Trong Khổng giáo, quan trọng nhất là luân lý, bắt đầu từ gia đình.
Luân lý gia đình thế nào? Trật tự người trên người dưới có khác
nhau, quyền hạn người dưới, người trên phải phân biệt, đó là một
nhẽ. Xưa nay, nhà nào có gia phong tốt, gia pháp nghiêm, thì gia
đình phải theo khuân phép ấy cả”.
(An Nam tạp chí, số 3, 1926)
Trong các tản văn của mình, Ngô Tất Tố thường phân tích, mổ xẻ từng
nội dung một cách biện chứng để lý giải những vấn đề về mang tính xã hội và
liên quan đến luân lý gia đình, gia phong, gia pháp; về vai trò của người phụ
nữ trong gia đình; phận là vợ, đạo làm con; chuyện phẩm hạnh, tiết nghĩa
trong quan hệ vợ chồng… Thường thì Ngô Tất Tố mượn một sự kiện nào đó
xảy ra trong xã hội để đi sâu luận bàn, mở rộng thành một vấn đề mang tính
xã hội. Nói cách khác, những vấn đề mà Ngô Tất Tố đề cập vừa mang tính
thời sự vừa mang tính xã hội, nhân văn sâu sắc.
Cũng về đề tài văn hóa, xã hội, Ngô Tất Tố đã mượn những sự kiện như lũ
lụt vỡ đê; chuyện cứu trợ; chuyện đầu cơ tích trữ; chuyện mê tín dị đoan, đốt vàng
mã “tro cao như núi”… để từ đó mổ xẻ, phân tích những mặt trái của vấn đề xã
hội bức xúc như cảnh đói ăn trong ngày lũ, chuyện chia nhau số hàng cứu trợ ít ỏi
cho cả huyện cả tổng, chuyện bao diêm thời chiến tranh…
Đến giữa những năm 1930, để làm giảm bớt cái không khí căng thẳng,
u uất lan tràn khắp thành thị, thôn quê do chính sách khủng bố trắng và nạn
khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 - 1933 gây ra, chính quyền thực dân Pháp
đã phát động những chính sách như: chấn hưng Phật giáo, Âu hóa, vui vẻ
trẻ trung; cho phép lập hội Phật giáo ở Nam kỳ và Trung kỳ năm 1932; lập
hội Phật giáo Bắc Kỳ năm 1934; tổ chức thi người đẹp, chợ phiên; thi quần
vợt, bơi lội, đua xe đạp… Ngô Tất Tố đã cho rằng, những động thái ấy chỉ là
những chiêu trò mang tính mị dân của chính quyền thực dân. Bằng ngòi bút
của mình, Ngô Tất Tố đã phê phán với những hình ảnh đầy tính châm biếm
60
như: những thiếu nữ mặc áo dài tân thời đi chợ phiên nhưng xì xụp lễ bái
ở đền chùa; có những kẻ tăng lữ lợi dụng nơi tu hành để làm những việc dâm
ô, bỉ ổi; mượn nơi công sở để tổ chức cờ bạc đỏ đen…
Ngô Tất Tố đã viết một loạt bài đả kích thói mê tín dị đoan, vạch mặt
bọn lợi dụng tôn giáo để tư lợi. Ngôi đền ở phố Hàng Trống theo ông là một
trong những nơi nhiều người lễ bái nhất, nhưng “sự đông khách đó không tại
thần thiêng mà chỉ tại “được đất”. Bởi vì ở đó có phải chỉ có một mình đền ấy
mà thôi đâu, hai bên tả hữu còn có hai cái “săm” nữa, nghe nói cả hai đều được
“đêm đêm hàn thực, ngày ngày nguyên tiêu”[18, tr.70].
Ngô Tất Tố công kích bọn người giả dối mượn việc là “bảo tồn quốc túy”
để hô hào phụ nữ “cứ giữ gìn cái sinh hoạt ở cửa buồng, xó bếp”; cổ động
dân quê “cứ duy trì những hủ tục ở góc điếm, sân đình” và đề cao phần tư tưởng
cặn bã của triết lý Khổng Mạnh. Ông mỉa mai: “điều đáng tiếc là những cái
quốc túy mà mấy tờ báo chí đang hô hào bảo tồn đó mới là những cái, những
món quốc túy về đời trung cổ mà thôi... Nếu món ấy mà bảo tồn được thì dân tộc
An Nam mới xứng đáng là dân tộc An Nam”[18, tr.84].
Ngô Tất Tố đã dẫn lời của Mạnh Tử: “Bếp có thịt heo, chuồng có ngựa
béo, dân có vẻ đói, ấy là đem lũ thú cho ăn thịt người” để lên án tội ác của
bọn thực dân đem thóc ra nuôi ngựa trong khi hàng triệu người dân Việt Nam
đang chết đói. “Phải, mỗi ngựa ăn mất phần gạo của mười người, tức là mười
người chết đói vì một con ngựa. Dung túng Hội đua ngựa là một chính sách
thâm độc của bọn thực dân Pháp”[18, tr.1201].
2.1.3. Đề tài quốc tế
Ngay khi bắt đầu bước chân vào làng báo và hoạt động báo chí chuyên
nghiệp, ngòi bút của Ngô Tất Tố đã bám sát và phản ánh kịp thời tình hình
thời sự quốc tế, với những sự kiện lớn trên thế giới như: tình hình Trung Quốc
sau chiến tranh “nha phiến”; tình hình cách mạng ở Đài Loan; tình hình quân
sự của Nhật Bản; tình hình Xiêm La và mối quan hệ giữa Xiêm La với Trung
Quốc; tình hình Hồi giáo (Islam giáo), Gia Tô giáo và Do Thái giáo ở
Palestine, nơi phát nguyên của đạo Hồi (Islam giáo) và đạo Gia Tô… Ngô Tất
Tố đã phản ánh kịp thời với những bình luận sắc sảo. Trong tác phẩm Nước
61
Tàu mất hay còn? Ông viết: “Ngay khi tiếng súng bắt đầu nổ ở Lư Cầu Kiều,
những người bàng quan đều tin chắc rằng: chỉ trong ba tháng, cái nước 400
trăm triệu dân sẽ theo số phận Mãn Châu cùng làm tôi tớ cho người Nhật”
(Thời vụ, số 37, 1938).
Sau chiến tranh “nha phiến” năm 1840, người Trung Quốc phải ký điều
ước Nam Kinh: nhường Hương Cảng cho Anh; nhường cho Nhật xứ
Đài Loan, đảo Liêu Đông, đảo Bành Hồ và bồi thường binh phí cho Nhật 200
triệu lạng bạc; năm 1898 ký điều ước với Đức… Những điều ước đó, theo
Ngô Tất Tố là rất “nhục nhã”. Bình luận sâu hơn vấn đề này, trong tác phẩm
Ai là thủ phạm trong án Thái Bình Dương đại chiến sau này? Ngô Tất Tố
viết: “Nước nào mà ở địa vị nước Tàu tất cũng không chịu hoài cho những
mảnh giấy bất nhơn kia nó đè đầu bóp cổ. Vậy thì sau này, nếu có một ngày vì
những mảnh giấy vô nhân đạo ấy, mà biển Thái Bình trải qua một hồi sóng
gió chánh là tội ở những kẻ gây nên những mảnh giấy đó, mà không phải là
tội ở kẻ hủy bỏ đi vậy”[17, tr.91].
Qua những tác phẩm có đề tài quốc tế của Ngô Tất Tố, người đọc thấy
được ở ông những kiến thức sâu sắc cả về văn hóa phương Đông và văn hóa
phương Tây, những kiến thức ấy được thể hiện qua những chi tiết, những bình
diện thời sự khác nhau, như: “phó sơn họ Hít” đã làm bẽ mặt Giáo hoàng khi
hắn sang La Mã không chịu “làm lễ thụ phong của Giáo hoàng và nhờ Giáo
hoàng đặt hộ cái mũ lên đầu” như Napoleon đã từng làm; về “chiếc mũ ba
đào”, mũ tôn vương của Đại Á Hoàng đế có giắt 718 viên bảo thạch…; về bài
thơ của Vương Bột làm ở Đằng Vương Các lúc cái gác nổi tiếng ở trên
Chương Giang thuộc đất “Nam Xương cố quận, Hồng Châu tân phủ” bị
bọn phátxít Nhật tàn phá...
Một điều đáng ngạc nhiên với người đọc là trong điều kiện khó khăn về
thông tin liên lạc mà Ngô Tất Tố vẫn theo dõi sát sao tình hình quốc tế để có
tin tức mới và có thể bình luận về các vấn đề thời sự quốc tế kịp thời có liên
quan đến nhau, như Hội nghị Munich tổ chức vào tháng 9-1938 giữa những
người đứng đầu chính phủ một số nước lớn để bàn giải quyết vấn đề Đức -
Tiệp. Trước đó, tháng 5-1938, phátxít Đức tập trung quân ở biên giới Đức -
62
Tiệp yêu cầu cho nhân dân Sudètes tự trị, yêu cầu mở rộng cuộc trưng cầu
dân ý trong hạt Sudètes về vấn đề này để buộc các nước Anh, Pháp phải thúc
ép Tiệp nhượng bộ…
Bình luận về hành động của nước Đức phátxít, trong tác phẩm Tuồng
Tây và tuồng Tàu Ngô Tất Tố viết: “Ông tướng họ Hít gầm gào từ trong
buồng trò nhẩy ra. Bắt đầu hắn xé hết các hiệp ước, mấy nước thắng trận đều
giương mắt nhìn. Rồi hắn nuốt chửng nước Áo, mấy nước thắng trận cũng lại
giương mắt nhìn luôn”. Ngô Tất Tố đã mượn lời khán giả của vở tuồng để
bày tỏ rằng “nếu trong lúc đó hai cụ thủ tướng ấy không rụt rè một cách thái
quá, thì nước Tiệp đã không bị chết toi”[18, tr.556].
Cũng về đề tài này, trong tác phẩm Cái bất nhã của ông phó sơn họ
Hít, Ngô Tất Tố viết:
“Hắn đòi cướp đất Sudètes, hai cụ đã vâng cho hắn kéo quân chiếm
Sudètes. Hắn đòi mở cuộc đầu phiếu ở nơi có ít dân Đức trong đất
nước Tiệp, các cụ cũng thuận cho hắn muốn mở cuộc ấy ở đâu thì
mở... Thì ra các cụ càng nhượng bộ với hắn bao nhiêu, hắn càng
coi thường các cụ bấy nhiêu”.
(Thời vụ, số 69, 1938)
Với vai trò của người bình luận thời sự quốc tế, thái độ của Ngô Tất Tố
rất rõ ràng. Đó là ý thức của một người cầm bút có trách nhiệm trong việc
phản ánh các vấn đề quốc tế, nhất là những vấn đề liên quan đến quyền lợi
của nhân dân lao động và những dân tộc bị áp bức.
2.2. Chi tiết trong tản văn báo chí của Ngô Tất Tố
Chi tiết là những bộ phận nhỏ nhất của sự kiện; chi tiết có thể là một
hành vi, một lời nói, một cử chỉ của con người, một sự vật hay một trạng thái
cụ thể của hoàn cảnh diễn ra sự kiện [108]. Muốn phát hiện và lựa chọn được
những chi tiết “đắt” đòi hỏi nhà báo phải có sự hiểu biết bao quát mọi bình
diện của sự kiện, tìm hiểu tỉ mỉ, quan sát tinh tế từng mặt, từng bộ phận của
sự kiện. Những chi tiết về con người, cuộc đời, chính trị, xã hội… được đưa
vào trong mỗi tác phẩm báo chí thể hiện năng lực của người làm báo và sự tỉ
mỉ, tập trung quan sát, khai thác và sử dụng được nhiều chi tiết mới tạo nên
được phong cách của người viết.
63
Hà Minh Đức đã cho rằng, trong những tản văn văn học - báo chí của
Ngô Tất Tố, ông không chạy theo những việc nhỏ mà luôn có cái nhìn bao
quát vào bức tranh chung của xã hội, vào bản chất của các hiện tượng, Ngô
Tất Tố “chú ý đến những chi tiết nảy sinh trong đời thường, những chuyện
tưởng như vụn vặt nhưng từ đó phát hiện ra nhiều vấn đề cơ bản của đời
sống”[26, tr.409] và chính những chi tiết ấy đã mang hơi thở của cuộc sống
vào mỗi tác phẩm. Một trong những điểm quan trọng tạo nên phong cách
riêng của Ngô Tất Tố thể hiện qua những tản văn báo chí của ông chính là ở
chỗ ông khai thác, lựa chọn, sử dụng được rất nhiều chi tiết và có thể hệ thống
lại theo hai nhóm: nhóm chi tiết về nhân vật và chi tiết về sự kiện.
2.2.1. Nhóm chi tiết về nhân vật
Tản văn báo chí của Ngô Tất Tố đề cập đến nhiều loại nhân vật khác
nhau của đời sống xã hội. Là một cây bút hiện thực phê phán, những nhân vật
trong tản văn báo chí của Ngô Tất Tố thường được phản ánh ở những mặt tiêu
cực, hoặc liên quan đến những vấn đề bất cập, bức xúc của đời sống, chính vì
vậy từ ngoại hình, diện mạo đến tính cách của từng nhân vật được miêu tả với
những chi tiết đa dạng bằng thứ ngôn ngữ châm biếm, đả kích sâu cay. Nhân
vật trong tản văn của Ngô Tất Tố có thể phân loại theo ba nhóm, đó là nhóm
nhân vật quan lại của chính quyền thực dân; nhóm địa chủ, tay sai, bồi bút và
nhóm những người bình dị trong xã hội.
Những nhân vật quan lại của chính quyền thực dân trong tản văn báo
chí của Ngô Tất Tố gồm đủ các gương mặt, đó là những người đứng đầu
chính quyền nước Pháp, các nước phương Tây, những bộ trưởng, tổng trưởng,
thống sứ… là những ông Tây “nhà đoan”, những anh lính lê dương mạt
hạng… Tất cả được Ngô Tất Tố khắc họa bằng những chi tiết nhằm làm nổi
bật bản tính tham tham, tàn ác trong việc cai trị, bóc lột nhân dân Việt Nam.
Danh từ “ông Tây” trong những tác phẩm báo chí của Ngô Tất Tố dường như
có mối quan hệ với loại “sài lang bạo ngược”. Trong tác phẩm Hiệp tác hay
hiếp tác, Ngô Tất Tố miêu tả:
“Chỉ một cái danh từ “ông Tây” cũng đủ làm cho dân quê chúng tôi
rùng mình khiếp sợ, mà tưởng tượng tới sự nóng nảy mạnh tợn của
một ông Sen đầm về tịch ký, hay một ông Tây đoan đi bắt rượu. Đến
64
những anh bồi Tây, chị vú đầm, mỗi khi về làng cũng còn đương thần
thế ông chủ để hách dịch với bà con, huống chi đây, một khi ông Tây
ấy đã tự xưng là quan chủ tỉnh, là quản Ba. Có lẽ cũng vì cái trình độ
ngu dốt của dân chúng tôi đối với những công chức của chính phủ, họ
đã in sâu trong óc là những giống sài lang bạo ngược”.
(Thời vụ, số 88, 1938)
Bên cạnh những “ông Tây” bao giờ cũng có những nhân vật tay sai,
những quan lại trong chính quyền tay sai, bộ máy phong kiến, đó là những vị
“dân biểu”, “cụ thượng”, “phó Quỳnh”, “Khán ngốc”... Cũng như bọn mang
danh Tây thực dân, những quan lại người Việt về bản chất cũng tham lam, tàn
ác, bóc lột, bòn rút xương máu của người lao động. Trong tác phẩm Yêu cầu
một cuộc điều tra cách làm giàu của quan lại An Nam, Ngô Tất Tố đã khai
thác nhiều chi tiết:
“Tri huyện tập sự mỗi tháng tám chục đồng, tổng đốc hạng nhất
hơn ba trăm đồng một tháng, ở các ngạch khác cũng có những chức
lương bổng tương đương như vậy. Thế nhưng các viên quan lại,
bao giờ cũng giàu có gấp mười, gấp trăm những viên chức lương
bổng ngang với mình. Lương tháng của họ nuôi vợ, nuôi con chưa
đủ. Cái giàu có kia ở đâu mà ra?”.
(Tương lai, số 1, 1936)
Ngô Tất Tố mô tả đến từng chi tiết về cuộc đời và từng nấc thang danh
vọng về một kẻ được coi là Người có danh vọng trong làng:
“Năm 16 tuổi ông đã có con, rồi từ đấy vợ cứ sinh năm cho tới chẵn
hai cỗ bốn trai bốn gái. Tuy không biết chữ, nhưng sinh vào con
theo thói đặt lãi cho vay, ông rất thông thạo những văn tự cầm, văn
tự đợ, gốc lãi phân minh không nhầm lẫn. Trong làng cũng có
nhiều kẻ khinh ông vô học, năm 20 tuổi, ông tức khí bỏ tiền ra mua
cái khóa sinh, chẳng phải ôn nhuần học tập, cứ ngồi nhà đợi giấy
sức lĩnh bằng, khao một bữa lên ngay ông khóa, vọng tư văn sánh
với bọn văn thân…”.
(Thời vụ, số 31, 1938)
Phần lớn các tản văn báo chí của Ngô Tất Tố có đề tài về văn hóa, xã
hội, trong đó đối tượng mà Ngô Tất Tố đề cập và phản ánh chính là những
65
nhân vật đời thường sống trong lầm than, cơ cực. Chính vì vậy, đọc tản văn
báo chí của Ngô Tất Tố, người ta có thể thấy được rất nhiều nhân vật đời
thường với những sắc thái tâm lý, tính cách khác nhau. Trong tác phẩm Làm
thế nào mà phân biệt trai gái? Ngô Tất Tố đặt câu hỏi và tự trả lời bằng
những chi tiết rất cụ thể:
“Phân biệt cái gì thì khó, chớ phân biệt trai gái thì có khó gì? Cái
gò má hồng hồng, cái bộ ngực phồng phồng, trong lúc gặp bọn con
trai, đôi mắt giả vờ trông xuống, nhưng thỉnh thoảng lại chơm chớp
đưa ngược trở lên, lanh hơn luồng chớp, người đó phi con gái tức
đàn bà, quyết không phải con trai. Còn người nào bộ mặt trơ tráo,
đôi mép có chỗ đen đen lún phún, sắp sửa mọc râu, thấy cô nào coi
bộ dễ thương, thì hai mắt lấm lét, liếc ngang, liếc dọc, đó là con
trai chứ gì…”.
(Phổ thông, Số 159, 1931)
Khảo sát Tổng tập tản văn Ngô Tất Tố cho thấy, trong số hơn 400 tác
phẩm đề cập trực tiếp đến danh tính những của nhân vật cụ thể có tới 213 tản
văn có đầu đề nêu rõ tên nhân vật hoặc những người liên quan trực tiếp đến sự
kiện được phản ánh trong tác phẩm báo chí của mình.
Tản văn báo chí của Ngô Tất Tố là bức tranh rộng lớn và chân thực về
xã hội thực dân nửa phong kiến Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Đó là
một bức tranh biếm họa sinh động, sâu sắc với đủ loại nhân vật trong xã hội,
từ những kẻ trong bộ máy cai trị của chính quyền thực dân, phong kiến, đến
bọn tay sai bồi bút, bọn tư sản, bọn làm giàu bất chính… qua những tác phẩm
như: Ba tấc lưỡi của cụ Thượng Quốc; Chú Khán Ngốc nói chyện ông Phó
Quỳnh; Còn chờ gì nữa mà chưa giải tán Viện Dân biểu?; Đố biết ông Gôđa
là người gì?; Ông Thống sứ với trận mưa hôm nọ; Quan tỉnh Bắc Giang đối
với ba nghìn cơ dân; Tiên sinh Phạm Quỳnh cãi lộn với ông Thượng Chi…
Qua những tác phẩm đó, Ngô Tất Tố đã tái hiện những chân dung mang đầy
đủ bản chất, tính cách của những nhân vật đó.
Điều cần chú ý là điển hình trong tản văn nói chung và tản văn báo chí
nói riêng khác với điển hình trong các loại hình nghệ thuật khác như kịch, tiểu
thuyết… Ở tản văn báo chí, hình tượng điển hình có khi không nằm trong một
66
bài báo mà phải qua tập hợp một số bài báo mới thấy được một cách đẩy đủ.
Lỗ Tấn đã từng cho rằng, những cái gì mà tạp văn của ông miêu tả thường là
một cái mũi, một cái miệng, một sợi lông nhưng tập hợp các tác phẩm đó lại
có thể hợp thành một hình tượng. Trong tản văn báo chí của Ngô Tất Tố,
những hình tượng Phạm Huy Lục, Phạm Quỳnh, Bùi Quang Chiêu, Hitle...
được xây dựng khá công phu qua nhiều tác phẩm báo chí khác nhau. Mỗi tác
phẩm dường như tập trung soi sáng một nét tiêu biểu nào đó của một tính
cách đa dạng và phức tạp… làm thành những nhân vật điển hình và tất cả có
thể tập hợp lại để ghép thành một bức tranh tổng thể về xã hội trước Cách
mạng tháng Tám.
Nhân vật điển hình thứ nhất phải kể đến Phạm Huy Lục, Viện trưởng
Viện Dân biểu Bắc kỳ. Năm 1930, trong bài Bọn dân biểu suy đới ông Phạm
Huy Lục là phải, Ngô Tất Tố viết:
“Các ông dân biểu của ta, từ hôm 23 Septembre, sau khi họp mặt ở
tiệc trà của bọn ông Nguyễn Hữu Cự, thì có trên sáu chục ông bị
phe của ông Lục kéo xuống Khâm Thiên, luôn trong hai ngày, được
uống, được ăn, đã say lại no, cái “Trời” của ông Lục đối với các
ông Dân biểu lớn lắm chứ... Theo nghĩa câu sách Hán trên kia, ông
trời “cơm riệu” là trời chung của “dân”, các ông này biết trọng
trời của “dân” mà suy đới ông Lục, thật đúng là người thay mặt
cho “dân” hoan nghênh lắm”.
(Phổ thông, số 73, 1930)
Dưới ngòi bút châm biếm của Ngô Tất Tố, Phạm Huy Lục được khắc
họa như một kẻ “cao tay” chỉ vì biết dùng “cơm riệu” để thu phục người khác
bỏ phiếu cho mình. Kỳ thực, kẻ mang danh đại biểu của dân như thế chẳng có
tài cán gì.
Năm 1938, tức là 8 năm sau, Ngô Tất Tố vẫn không buông tha cho
Phạm Huy Lục, trong tác phẩm Đã thấy ông Phạm Huy Lục ông viết: “Người
ta nói rằng: trong mấy hôm nay, âm binh của ông Lục đã rắc bùa cái, bùa
con, bùa đeo, bùa dán, bùa yểm, đủ các thứ bùa… và đã thu hết hồn vía cử tri
rồi. Bốn đô vật kia không thạo những pháp thuật ấy mà muốn tranh với ông
67
Lục thì tranh sao được?”[18, tr.442]. Không chỉ là một phù thủy cao tay trong
tranh cử, Phạm Huy Lục còn tỏ ra có “pháp thuật cao cường” khi đang ngồi
ghế viện trưởng Viện Dân biểu Bắc kỳ, bởi thế: “trong mấy khóa liền, khóa
nào ông ấy cũng giữ chiếc ghế nghị trưởng không ai tranh nổi. Ồng ấy không
phải bênh vực quyền lợi cho dân mà cứ làm phó hội trưởng của hội Nhân
quyền, ông ấy không học thuốc ngày nào mà nghiễm nhiên làm một yếu nhân
trong hội thày thuốc, nghe đâu ông dân biểu kiêm thày bùa ở Hà Đông đã
chịu tài, đủ tỏ ông Lục là một nhà phù thủy cao tay”[18, tr.398].
Nhân vật điển hình thứ hai là Phạm Quỳnh. Từ cuối năm 1930, trên tờ
Phổ thông, Ngô Tất Tố đã có hàng chục bài báo viết về Phạm Quỳnh. Trong
tác phẩm Ông Phạm Quỳnh là bạc tình lang, Ngô Tất Tố khắc họa:
“Bước một bước từ chức thư ký trường Bác cổ, qua Hàn lâm viện
trứ tác, Hồng lô tự khanh đến thẳng Bắc Kỳ nhân dân đại biểu, con
đường ông đi thật mau. Cái gì nó thổi ông ta lên vù vù như vậy? Ấy
là một ngọn gió nồm. Tập báo Nam phong đối với ông Phạm
Quỳnh thật có công to, ơn nặng, khác gì một ả nhân tình rất tận
tâm, rất đắc lực, đã vì ông gây dựng cơ đồ, điểm tô phẩm giá, nâng
ông lên hoàn cảnh ngày nay”.
(Phổ thông, số 65, 1930)
Sau chiến thế giới lần thứ nhất, đế quốc Pháp thực hiện cuộc khai thác
thuộc địa lần thứ hai. Về mặt chính trị, chúng tung ra những khẩu hiệu như
“Pháp - Việt đề huề”, “Pháp - Việt hợp tác”. Về mặt văn hóa, chúng chủ
trương cải cách giáo dục ở các trường Pháp - Việt, cho phép người Việt Nam
mở báo, mở các nhà xuất bản, lập hội Khai trí tiến đức nhằm tập hợp các bậc
“thượng lưu” của xã hội lúc đó. Phạm Quỳnh được phép mở Nam phong
tạp chí để hết lòng ca ngợi chủ nghĩa “Pháp - Việt đề huề”, ca ngợi văn minh
Đại Pháp, cổ động “xây đắp nền quốc văn”…
Một khuôn mặt khác của Phạm Quỳnh được Ngô Tất Tố khắc họa như
là người vẽ “hiến pháp tam giác”. Theo Ngô Tất Tố, cái trò “lập hiến” này
của Phạm Quỳnh là bắt chước Bùi Quang Chiêu. Họ Bùi nhờ đề xướng ra vấn
đề lập hiến và lập ra đảng Lập hiến mà “nhảy vọt” lên ghế Chánh hội đồng
68
quản hạt. Trong tác phẩm Sau lưng cụ Bùi Quang Chiêu hai ông Quỳnh Vĩnh
đuổi nhau xồng sộc, Ngô Tất Tố viết:
“Đẻ sau khôn trước, bạn thân của ông Nguyễn Bá Trác (ông Phạm
Quỳnh) biết chỗ khuyết điểm đó, khi thảo hiến pháp cho nước Nam,
cũng theo mẫu của ông Bùi mà thêm vào hoàng đế Bảo Đại, làm
một cạnh nữa, thành ra “hiến pháp chân vạc”. Ông Bùi chỉ có hiến
pháp hai cạnh mà còn làm được chánh hội quản hạt, mình có hiến
pháp rành rành ba cạnh, há chăng nhảy lên cái ghế Viện trưởng
của Viện Dân biểu Bắc kỳ được sao?”.
(Phổ thông, số 72, 1930)
Trong tác phẩm Nước bạc cuối cùng của cụ Bùi Quang Chiêu, Ngô Tất
Tố dẫn tin từ đồng nghiệp về việc Bùi Quang Chiêu muồn xin gia nhập Đảng
Xã hội cấp tiến. Trong phiên đại hội thường niên của đảng này tại Sài Gòn,
hầu hết những người có mặt - cả Tây lẫn An Nam - đã biểu quyết không đồng
ý nguyện vọng của Bùi Quang Chiêu. Ngô Tất Tố bày tỏ: “Than ôi! Nghĩ đến
mà buồn cho cụ. Tôi muốn ví đời cụ như một canh bạc. Đánh bạc thường có
lúc đỏ lúc đen, đỏ thì lên voi, đen thì xuống chó, người ta vẫn nói như thế!
Cái đời chính trị của Bùi tướng công cũng vậy” (Thời vụ, số 139, 1939).
Nhân vật điển hình thứ ba được của Ngô Tất Tố là Hitler. Ông khắc họa
chân dung kẻ đứng đầu nhà nước phát xít với bốn cái tên khác nhau: con quái vật
ở thế giới (Chúa trùm đảng áo nâu sẽ xuống địa ngục); chúa trùm đảng áo nâu
(Hitler và con gà mái Biên Hòa); ông phó sơn họ Hít (Cái bất nhã của ông phó
sơn họ Hít); ông tướng họ Hít trong tuồng Tây (Tuồng Tây và tuồng Tàu).
Ngô Tất Tố đã mô tả về lai lịch của Hitler, đó là “một anh thợ sơn tay
trắng, chỉ nhờ có một cái miệng mà trong khoảng có sáu bảy năm, đánh đổ
một chính phủ, xé tan mấy tờ hòa ước, vỗ trơn bao nhiêu công nợ của liệt
cường, bây giờ lại nuốt sống nước Áo và đương lăm le nuốt nốt nước Tiệp,
làm cho các nước Âu châu đều phải nhớn nhác lo sợ, thật có thể gọi là quái
vật ở thế giới”[18, tr.410].
Ngô Tất Tố viết về Hitler không chỉ nhằm vào Hitler. Mũi tên của ông
bắn ra còn nhằm một mục tiêu khác, đó là đào sâu sự bất hòa giữa “Hít tặc”
69
và đạo Thiên chúa ở châu Âu. Trong tác phẩm Chúa trùm đảng áo nâu sẽ
xuống địa ngục, Ngô Tất Tố nhận định:
“Ở phương Tây không một ông vua nào không cúi đầu trước
nhà thờ của đạo Thiên Chúa, bất luận họ là vua về ngạch nào.
Ngay như ông Nã Phá Luân là người rất kiêu ngạo với đạo
Thiên Chúa, đã đòi Giáo hoàng đến hầu, đưa Giáo hoàng ký
giam, đã bắt Giáo hoàng phải cuốc bộ trong tám tháng trời
ròng rã. Vậy mà khi lên làm vua cũng phải làm lễ thụ phong
của Giáo hoàng và nhờ Giáo hoàng đặt hộ cái mũ lên đầu”.
(Thời vụ, số 27, 1938).
Mũi tên bắn vào “ông phó sơn” chính là nhằm tố cáo bản chất bất lực
và hèn hạ của chính quyền Pháp và Anh: “Lúc lão Mút khởi hành sang Đức,
lão Hít ra tận biên giới cũ của nước Áo nghênh tiếp hẳn hoi, vậy mà khi hai
cụ Xăm, Đa lần lượt hạ máy bay xuống đất nước Đức, hắn chỉ giao cho
mấy kẻ bộ hạ của hắn đón rước qua loa lấy lệ, chính hắn không hề ỏ ê gì đến,
như thế có tức không chứ? ừ thì một mình hắn không thể săn sóc được cả ba
người, cái đó có thể tha thứ. Thế mà bữa trưa hôm ấy, hắn chỉ mời riêng lão
Mút về ăn với hắn ở điện La Prime Eugène để cho hai cụ Xăm, Đa đi ra hàng
cơm “xực phàn” với nhau. Thực là xỏ lá ra mặt!”[18, tr.481].
Ngô Tất Tố đã khắc họa về những cá nhân điển hình mỗi người mỗi vẻ
trong nhiều tác phẩm với từng thời gian khác nhau, nhưng khi khớp nối lại,
người đọc có thể hình dung được đầy đủ các khuôn mặt khác nhau của một
con người, từ bản chất đến hình thức. Bằng thủ pháp đó, Ngô Tất Tố đề cập
đến những vấn đề chính trị, văn hóa, xã hội rộng lớn hơn, sâu sắc hơn thông
qua diện mạo cụ thể của từng nhân vật.
2.2.2. Nhóm chi tiết về sự kiện
Sự kiện là linh hồn của một tác phẩm báo chí. Việc khai thác có hiệu
quả những chi tiết liên quan đến sự kiện, hiện tượng hay những vấn đề đặt ra
trong cuộc sống hằng ngày góp phần minh họa và làm rõ bản chất của sự
kiện, hiện tượng được phản ánh. Khảo sát cho thấy, sự kiện nào cũng được
Ngô Tất Tố phản ánh với những chi tiết sống động nhất, đầy đủ nhất, phù hợp
70
với mục đích, yêu cầu của nội dung tác phẩm. Đỗ Chỉnh đã nhận xét rằng, với
mỗi sự kiện, Ngô Tất Tố luôn “tỉ mỉ, cần trọng, ông quan sát thấu đáo mảnh
đất mà mình chọn làm địa điểm để thể hiện nội dung vấn đề cần phản ánh
trong tác phẩm của mình”[54, tr.15].
Trong tác phẩm Dân An Nam mình văn minh hơn dân Hoa Kỳ, Ngô Tất
Tố đã phản ánh sự kiện Hoa Kỳ mới đóng được một con tàu biển:
“Một chiếc tàu cực lớn, bề dài 785 thước, bề ngang 150 thước, máy
phát động cộng được 35.000 mã lực, đó là tin của báo Thực nghiệp
mà Đông phương trích lại, nhưng ở dưới bỏ sót không đề rõ chỗ
sản xuất của nó. Theo như tin ấy, thì trong chiếc tàu bay này sẽ có:
phòng khách, phòng hút thuốc, phòng đánh đàn, phòng viết thư,
phòng ăn uống v.v..”.
(Đông phương, số 399, 1931)
Trong tác phẩm Sướng nhất thế giới là dân An Nam, Ngô Tất Tố viết
về vấn đề hội hè, đình đám ở làng quê:
“Trong những ngày vào đám, họ sẽ giết trâu, giết bò làm cỗ, đem phường
chèo con hát về hát tại đình và còn bày ra nhiều cuộc vui nữa. Rồi thì dân làng
đàn ông con trai, ai nấy quần trắng trúc bâu, áo the ba chỉ, ngồi tại đình uống
rượu, nghe hát, đàn bà con gái thì mẹ nào con ấy, chị nào em ấy, cõng kệ nhau,
dắt díu nhau, lượn ra lượn vào khắp các sân đình cửa điếm; đêm đến lại vui hơn
nữa, tổ tôm... thò lò, xóc đĩa, muốn chơi thứ gì có thứ ấy”.
(Đông phương, số 400, 1931)
Trong tác phẩm Giá văn ta và giá văn Tàu, Ngô Tất Tố đã cung cấp
cho người đọc nhiều thông tin chính xác đến từng chi tiết. Theo Ngô Tất Tố,
vào năm 1942 giá văn được tính theo cách 8 hào một trang loại văn hạng nhất,
mỗi trang 33 dòng, mỗi dòng 13 chữ. Đó lại là giá hai lần in, mỗi xu được 10
chữ, trong khi ở chợ mỗi xu chỉ mua được 2 quả ớt, “đố ai mua được cái gì xu
năm, đừng nói xu mười” (Đông Pháp, số 5124, 1942).
Năm 1928, qua nguồn tin từ sách báo của Trung Quốc ở Chợ Lớn, Ngô
Tất Tố đã có thể viết về những vấn đề thời sự quốc tế, như thực lực tình hình
quân đội Nhật Bản với rất nhiều thông tin chi tiết: “Hiện nay nước Nhật có đến
71
220 chiếc quân hạm, máy bay riêng về lục quân hơn 500 chiếc, quân hàng
không 17 sư đoàn… năm 1927 tổng chi về việc quân là 400 triệu đồng”
(Đông Pháp thời báo, 1928). Hay viết về tình hình sản xuất lúa gạo ở Thái Lan,
ông phản ánh: “Xiêm La, Miến Điện và Việt Nam là ba xứ nhiều gạo có tiếng ở
thế giới; mỗi năm gạo ở Sài Gòn tải ra, có tới 120 muôn tấn, ở Miến Điện tới
245 muôn tấn, ở Băng Cốc cũng tới 120 muôn tấn...”(Đông Pháp, 1928).
Ngô Tất Tố kịch liệt phê phán những tục lệ ma chay, cưới xin phiền hà,
tốn kém ở nông thôn cũng như ở thành thị. Trong tác phẩm Bắc kỳ cũng nên
bắt chước, ông đã câu hỏi, rằng một nhà “trung sản” khi cha già mẹ héo, số
vải dùng cho việc ma chay, tang lễ sẽ hết bao nhiêu? Và ông phân tích:
“Đúng lệ thông thường, cha mẹ lâm chung, con cái dâu rể đều phải
bận áo thụng trắng ngoài phủ một mảnh áo gai, các cháu cũng phải
mặc áo trắng, nhưng mà phần nhiều chỉ là áo chẽn. Còn những họ
hàng thân thuộc, mỗi người một tấm khăn trắng. Vậy là nhà ấy phải
đủ 12 áo thụng, 24 áo chẽn, khăn thì ít nhất cũng 30 chiếc trở ra, vì
24 cháu đã mất 24 khăn rồi, còn 6 cái nữa thuộc về phần họ mạc.
Tính theo vải ta, mỗi cái áo thụng hết 24 vuông, áo chẽn phải 20
vuông một chiếc, khăn thì đàn ông 7 vuông, đàn bà 3 vuông. Cộng
cách ước lược, riêng về số áo gần 800 vuông, còn khăn độ 200
vuông, nghĩa là vừa tròn 1.000 vuông...”.
(Đông Pháp, số 5381, 1943)
Trong tác phẩm Bao giờ đến lượt bọn tích trữ sợi? Ngô Tất Tố kể về sự
kiện một số kẻ “vừa Tây vừa Nam” cấu kết với nhau để tích trữ và buôn lậu
thuốc lá. Khi chúng bị bắt và đưa ra xét xử, ông đã miêu tả rất chi tiết:
“4 người phải tù tất cả là 24 tháng nhưng số tiền phạt thì cũng kha
khá: 27 vạn và 6.000 quan... Theo lệ của Tòa đại hình đặc biệt, số tiền
phạt này đều nhân gấp sáu lần. Vậy thì 27 vạn và 6.000 quan sẽ thành
1 triệu 65 vạn và 36 nghìn quan. Ấy là chưa kể số tiền án phí. Thật là
vụ án hùng vĩ, bốn nghìn năm lịch sử Việt Nam chưa có”.
(Đông Pháp, số 5128, 1942)
72
Nhận xét về cách khai thác và sử dụng chi tiết trong tản văn báo chí của
Ngô Tất Tố, Vũ Tú Nam đã cho rằng, mỗi chi tiết đã tạo nên những góc cạnh
khác nhau của lịch sử và văn hóa, là cơ sở của sự liên tưởng rộng rãi và mạnh
mẽ và là sự khẳng định táo bạo đối với đối tượng mà Ngô Tất Tố phê phán
hoặc đả kích [18]; Phan Quang thì cho rằng, phong cách mà Ngô Tất Tố có
được là do ông có tri thức rộng, “đọc nhiều, quan sát kỹ, quan tâm đến từng
chi tiết với cách phán xét riêng”[93, tr.145].
2.3. Một số dự báo trong tản văn báo chí của Ngô Tất Tố
Nghiên cứu về Ngô Tất Tố, Phong Lê đã nhận định rằng sự nghiệp cầm
bút của Ngô Tất Tố nằm trọn nửa đầu thế kỷ XX, nhưng người đọc luôn đặt
Ngô Tất Tố vào vị trí của những cây bút hàng đầu của thế kỷ XX, bởi ông
luôn luôn là con người của thời sự, của hiện tại; ánh sáng trong tác phẩm của
ông luôn luôn có sức rọi sâu và xa; sự nghiệp của ông là dự cảm, là phát
ngôn, là hiện thân những vấn đề của đất nước, của nhân dân, của thế kỷ [61].
2.3.1. Dự báo về những vấn đề chính trị
Trong hơn 20 năm làm báo, Ngô Tất Tố đã dành một số lượng đáng kể
những tản văn báo chí của mình để lên án, vạch trần nạn tham ô, hối lộ, nhũng
nhiễu của các tầng lớp quan lại trong chính quyền thực dân trước Cách mạng
tháng Tám. Qua đó, Ngô Tất Tố cũng đề ra một số giải pháp với mong muốn
làm sao cho xã hội có thể tốt đẹp hơn.
Năm 1942, trong cuốn Nhà văn hiện đại, trong phần giới thiệu về Ngô
Tất Tố, Vũ Ngọc Phan đã cho rằng, Ngô Tất Tố thường xuyên có những tác
phẩm “đả kích những tệ tục, thói tham ô, dởm đời của bọn quan lại, cường hào
tư sản, những chuyện chướng tai gai mắt, những chuyện bất công ngang trái
trong xã hội cũ”[83, tr.540]. Ông đã dùng những hình ảnh như “chuột bọ”,
“sâu bọ”, “những con mọt già đục khoét dân quê, bất kỳ việc gì, họ cũng
nhũng lạm được cả”[18, tr.967]… để chỉ thẳng mặt lũ quan tham, bọn cướp
ngày, công khai bóc lột người dân. Lối viết ví von thâm thúy hay đả kích trực
diện đó của Ngô Tất Tố thể hiện thái độ ghê tởm, khinh bỉ của ông đối với
những kẻ mang danh quan “phụ mẫu” trong chế độ cũ.
73
Ngô Tất Tố đã điểm mặt, chỉ tên: “đám sai nha ở phủ huyện, kết giao
với đám chức việc ở làng tìm kế xui nguyên dục bị, dùng những mánh khóe
quỉ quyệt để bóc lột dân, vu hãm kẻ vô tội vào vòng pháp luật… Bọn thầy cò
là bọn lái buôn lẽ phải, lại là bọn thợ chế ra tội ác nữa”[18, tr.365]; là bọn
“cướp ngày, không ai ngờ lại còn có một sự lo sợ nữa, đó là sợ người nhà
nước”[18, tr.479]; là những tên tuổi chức danh cụ thể, như “Nguyễn Khắc
Khôi, lý trưởng xã Hương Ngải… Hắn phạm tội khai gian khung cửi, lấy
bông mua sợi để bán lại với giá thật cao”[18, tr.883].
Ngô Tất Tố gọi là hạng cò mồi việc quan ở chốn công đường là bọn
“nho”. Đó là những kẻ chuyên “bới móc những việc trong hương thôn, xui
bên nọ, giục bên kia, để dắt mối thưa kiện cho quan thầy kiếm lời, càng bới
được nhiều việc, quan thầy càng yêu, sự mơ tưởng hàng ngày của chúng là
được quan thầy tặng cho cái tên là đầy tớ chân tay là hả lắm rồi”[18, tr.490].
Trong tác phẩm Người nhà nước (Thời vụ, 1938), Ngô Tất Tố đã phê
phán những người làm ở công đường, dù lớn dù nhỏ cũng là người nhà nước,
“ai dám chống cự thì sẽ bị khép vào tội bất tuân thượng lệnh hoặc ngăn trở
công chức nhà nước! Chối cãi vào đâu, chỉ một lời khai của “người nhà
nước” cũng đủ bằng chứng cho quan tòa buộc tội rồi”[18, tr.479]. Với uy
quyền như thế nên trong xã hội đã phát sinh đủ các hạng người giả hiệu, từ
quan tham quan phán, đến lính nhà đoan, lính mật thám… tất cả đều tìm mọi
cách dọa nạt, bóc lột những người dân quê thật thà, chất phác.
Trong tác phẩm Biểu tình ở Thanh Hóa (Thời vụ, 1938), Ngô Tất Tố
viết: “lòng tham là thiên tính của loài người, cũng như sự dữ tợn là thiên tính
của giống hùm beo sư tử”[18, tr.403], nhưng cái thiên tính đó của con người
là có điều kiện, cái lòng tham nó bành trướng được ở trong quan trường chẳng
qua là do người dân xử sự với bọn quan còn nhã nhặn quá. Theo Ngô Tất Tố,
khi gặp một việc gì ám muội, không cần kiện cáo lôi thôi, người dân cứ việc
rủ nhau thật đông, đến tận cửa quan mà hỏi thì bọn quan lại tham lam ấy cũng
không dám tùy tiện muốn làm gì thì làm, “dẫu đem tiền nấu súp mà đổ vào
miệng, các ông ấy cũng không dám ăn”. Quan điểm đó thể hiện tinh thần và
thái độ phản kháng đối với chế độ của Ngô Tất Tố rất rõ ràng.
74
Trong hồi ký Bốn mươi năm nói láo, Vũ Bằng đã kể lại chuyện ông
cùng Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng và Phùng Bảo Thạch rủ nhau làm tờ
Tương lai, các ông đã cùng nhau làm cho tờ báo này trở thành một tờ tuần báo
tranh đấu được người đọc rất chú ý bởi những tác phẩm báo chí của các ông
chuyên hướng vào việc “đả kích quan trường, lên án chế độ thực dân”[3,
tr.112]. Qua những tản văn của mình, Ngô Tất Tố đã đặt ra vấn đề phải điều
tra cách làm giàu của giới quan lại để làm rõ nguồn gốc của những của cải,
vật chất, sự giàu có của những kẻ mang danh đại biểu của dân ấy từ đâu mà
ra. Ông viết: “Đối với chính phủ, quan lại chỉ là kẻ thừa hành mệnh lệnh
nhưng về phương diện khác quan lại lại là một nghề làm giàu rất mau chóng!
Một ông hậu bổ kiết xác, thường qua quan trường một vòng độ ít lâu tức thì
có ô tô, có nhà lầu, có đồn điền, có tiền gửi ngân hàng, nghiễm nhiên là một
nhà triệu phú. Trong thời kỳ ấy vợ rong chơi, con lêu lổng gia đình suốt năm
không kiếm ra xu nào, cách ăn tiêu thì xa xỉ gấp trăm người khác”[18, tr.229].
Với tinh thần đấu tranh trực diện, thẳng thắn, ngòi bút Ngô Tất Tố đã
dũng cảm giáng những đòn chí tử vào bọn quan tham nhũng nhiễu. Trong tác
phẩm Tương lai với Thái thượng Lão quân, Ngô Tất Tố viết:
“Quan lại tham nhũng chẳng là những kẻ bóp dân như bà cô bóp
cháu à? Thủ đoạn của họ cực kỳ màu nhiệm, họ đã bóp người nào
thì người ấy không thể không lè lưỡi ra, lè lưỡi cho đến khi có đồ
cúng họ… Thần cây đa, ma cây gạo, cú cáo cây đề vẫn là những
thứ kẻ quê rất sợ, song chưa nguy hiểm cho dân bằng họ”.
(Tương lai, số 13, 1937)
Cũng tinh thần đó, trong tác phẩm Cái lối ấy ông Tổng lý khó tránh
lắm, Ngô Tất Tố cho rằng, xưa nay chính phủ chỉ định cách đánh thuế mà
không định phương pháp thu thuế, nên bọn tổng lý có thể tự đặt ra luật lệ đặc
biệt cho phép tuần phiên lùng bắt người, bắt trâu bò gà lợn, hoặc đồ đạc của
người thiếu thuế. “Cái lối làm việc trái phép ấy chính phủ địa phương tuy
cũng biết, nhưng có ảnh hưởng tốt cho sự thu thuế cho nên cũng ngơ cho bọn
tổng lý tha hồ nhũng lạm và lương dân không biết cáo tố vào đâu cho
được”[18, tr.463].
75
Ngô Tất Tố sử dụng nhiều cách viết khác nhau để phê phán tệ nạn tham
nhũng của bọn quan lại, nhưng với bất kỳ cách thể hiện nào ông cũng nêu cao
tinh thần: tham nhũng phải bị chỉ tay thẳng mặt, nói rõ cho mọi người biết.
Tuy nhiên, Ngô Tất Tố biết rằng, làm được điều đó không phải dễ dàng, vì
“khi chuyện chưa vỡ lở, những người ngoài cuộc có ai đụng đến bọn đó
không… Ở đời ai ưa nói thật bao giờ”[18, tr.821]. Từ hạn chế ấy, Ngô Tất Tố
đề xuất phương án, “lý dịch mà nhũng lạm được là tại dân quê không hiểu
quyền lợi của mình. Nay muốn trong lũy tre xanh, ai hiểu quyền lợi của nấy,
thì việc giảng dụ cho họ vẫn là một việc rất cần”[18, tr.1007].
Khi viết về tệ nạn nhũng nhiễu của các tầng lớp quan lại, Ngô Tất Tố
thường xuất phát từ những vụ việc cụ thể và điển hình. Cái tài của ông là ở
giữa đống bộn bề thật giả ông đã nhận ra rất nhanh, rất nhạy cái tiến bộ để
ủng hộ, cái phản động để đả phá. Ông có cách chứng minh đầy thuyết phục
bằng cách nêu ra những lý lẽ, những mâu thuẫn ẩn giấu trong mỗi sự việc,
bằng cách so sánh với việc xưa… Ngô Tất Tố sử dụng giọng văn hài hước,
sắc sảo, đôi lúc ông khen để mà lên án, ủng hộ để mà đả phá, mát mẻ trào
lộng để mà phẫn nộ, căm giận. Trong tác phẩm Chỉ có Tề thiên đại thánh mới
trị được họ, ông cho rằng, “muốn trừ tiệt nạn đó, chỉ còn một cách. Nhờ các
bác sĩ tìm thứ thuốc gì tiêm cho sạch máu ăn bẩn của bọn quen ăn bẩn đó…
mời Tề Thiên Đại Thánh chui vào bụng họ thấy họ ăn bẩn tức thì bóp cho đau
bụng bão. Như thế họa chăng họ sợ”[18, tr.883].
Ngô Tất Tố đã đặt vấn đề rằng chính phủ cần điều tra và trừng phạt
nghiêm khắc những kẻ tham lại, phải điều chỉnh việc thu thuế cho thỏa đáng,
phân định quyền hạn lý dịch và hương hồi cho rõ ràng; phải nghiên cứu đặt
cho một phương pháp gì có thể ngăn ngừa được những sự nhũng lạm của các
viên chức một khi có việc phải giao tiếp với người dân quê. Cũng trong tác
phẩm Người nhà nước, Ngô Tất Tố đã kiến nghị với chính phủ, cần “định
đoạt rõ ràng cái quyền hạn và trách nhiệm của một bên thừa hành là các viên
chức, một bên phải ứng tiếp là hương lý, những khi các viên chức tới một địa
phương nào để thừa hành chức vụ, phải đưa ra đủ giấy má tờ chữ của quan
76
trên cấp cho, lại nên có một thứ dấu hiệu gì đặc biệt để phân biệt thực
giả”[18, tr.479].
Do công khai đả kích và phê phán những mặt trái của các tầng lớp quan
lại của chính quyền thực dân, hẳn nhiên bọn chúng thù ghét tờ Tương lai và
có những hành vi trấn áp. Ngô Tất Tố đã đáp lại thái độ đó trong tác phẩm
Tương lai với Thái thượng Lão quân:
“Từ ngày Tương lai ra đời, tội ác của họ (tức bọn quan lại) luôn
luôn bị công kích dưới ngòi bút nghiêm nghị… Hỡi những ông quan
lại có máu phàm ăn đã làm những thủ đoạn đê hèn lén lút! Chúng
tôi không ghét gì các ông, rất mong các ông cải tà quy chính. Có
muốn cho mình khỏi bị Tương lai khui trừ, tốt hơn hết là các ông
hãy rửa cho sạch lòng ruột, từ nay đừng bóp nặn dân đen như ngày
trước nữa”.
(Tương lai, số 13, 1937)
Nhận thức rõ bản chất của nạn tham nhũng, Ngô Tất Tố cho rằng, thu nhập
hay lương bổng không liên quan đến bản tính tham nhũng của quan lại, cho nên
không cần phải tăng lương, quan trọng nhất là phải giao cho người dân có quyền
giám sát hoạt động của quan lại và phải có một cơ quan làm công tác thanh tra
riêng về công tác này. Đọc các bài báo này, chắc hẳn người đọc sẽ liên tưởng
đến những vấn đề tham nhũng hiện nay. Quan điểm tích cực này của Ngô Tất
Tố không những đúng với giai đoạn đó mà trong bối cảnh đời sống kinh tế - xã
hội hiện nay, việc tăng cường vai trò kiểm tra, giám sát của nhân dân, thành lập
cơ quan chuyên trách làm công tác phòng, chống tham nhũng vẫn nguyên giá trị.
Lấy ích dân lợi nước làm mục đích cho nghiệp cầm bút, Ngô Tất Tố đã
dành nhiều tâm lực để điều tra, tìm hiểu và phản ánh đúng bản chất của từng
sự việc, từng con người. Nhiều bài báo sắc bén như những bản cáo trạng, với
những chứng cứ cụ thể, giàu sức khái quát, có tác dụng lan tỏa hiệu ứng, tác
động đến tận hôm nay. Ông luôn đứng về phía nhân dân bị áp bức, chủ yếu là
đứng về phía nông dân đối lập với giai cấp địa chủ phong kiến, quan lại.
Trong cuộc đấu tranh xã hội, chỗ đứng và cái nhìn của Ngô Tất Tố luôn có
77
chính kiến rất rõ ràng, bởi vậy nhiều bài báo của ông đến nay vẫn có tính thời
sự, vẫn như viết ra để nói việc bây giờ, cho người đọc bây giờ.
2.3.2. Dự báo về những vấn đề văn hóa, xã hội
Khi viết về đề tài văn hóa, xã hội, Ngô Tất Tố thường đi sâu phân tích
những giá trị, những nét đẹp về truyền thống văn hóa của dân tộc như các lễ
hội, các nghi thức tín ngưỡng, các sinh hoạt văn hóa của nhiều vùng miền.
Bên cạnh đó, Ngô Tất Tố cũng viết nhiều về những hiện tượng mê tín, dị
đoan, những hủ tục trong đời sống xã hội.
Trong tác phẩm Quả chuông khổng lồ chùa Cổ Lễ có thể thức tỉnh được
người đời chăng, Ngô Tất Tố kể lại việc chùa Cổ Lễ đúc mãi vẫn không thành
công quả chuông khổng lồ, tốn kém bao nhiêu tiền của. Ông mỉa mai:
“Chắc một quả chuông khổng lồ, đúc công phu tốn kém như thế thì
rồi đây những lúc sáng chiều tiếng chuông trong suốt chuyển động
không khí sẽ vang khắp một vùng! Nhưng tiếng đó liệu rồi đây có
đủ to để cảnh tỉnh được những kẻ mê tín, ngu muội”.
(Trung Bắc Chủ nhật, số 5, 1940)
Đả kích trực diện những kẻ mê tín và ngu muội ấy chưa đủ, Ngô Tất Tố
viết bài Không thể để được thói mê tín nhảm nhí ấy nữa để tiếp tục khẳng
định phê phán thói nhảm nhí ấy. Ông cho rằng: “không thể khoanh tay ngồi
nhìn bọn không suy nghĩ cứ đem từng núi giấy một mà thiêu ra tro. Vì vậy,
lắm người đang mong ước các nhà đương cục ra tay bài trừ thói đó, nó chỉ là
một thói mê tín nhảm nhí. Trừ được thói đó tức là trừ được một cái hại lớn
cho người Nam” (Đông Pháp, số 5318, 1943).
Cái tai hại của những hủ tục đối với người dân Việt Nam trước hết là sự
lãng phí, bởi trong khi trẻ em không đủ giấy vở để viết, những người làm văn
làm báo không đủ giấy để in sách in báo mà “trong ba ngày Tết từ thành thị
đến thôn quê, không nhà nào mà không có vàng, ít thì năm bó mười bó, nhiều
ra có khi đến hàng trăm bó, bày chật tất cả hương án, bàn thờ. Nếu ai có thể
đem hết số vàng cúng tết của xứ Bắc kỳ để vào một đống, tôi quyết là cái
đống ấy phải to bằng ba quả núi Tản Viên”. Ngô Tất Tố khẳng định, phải bài
trừ ngay cái tệ nạn đó, bởi nó “không phải hiếu thảo gì với ông vải” mà cũng
78
chẳng “phạm gì đến việc cúng vái là tục di truyền của người Nam cả” (Đông
pháp, 1942).
Trong tác phẩm Nên thương các cậu học trò, Ngô Tất Tố đã đặt vấn đề
rằng tại sao người dân Việt Nam luôn cần kiệm, thường hà tiện từng xu, sao
lại có lúc thiêu hủy kể hàng triệu bạc mà không tiếc? Ông tự tìm câu trả lời và
lý giải trên mặt báo: “chẳng tôn giáo nào dạy ta phải đốt vàng mã. Nguyên
nhân việc đốt vàng mã chỉ là thói giả dối do ở người Tàu gây ra”. Ông dẫn
chuyện, từ thời phong kiến ở nước Tàu có tục tuẫn táng, tức khi nhà có người
chết, lúc sống họ thích vật gì, thì lúc họ chết, người nhà phải đem vật ấy mà
chôn theo họ. Nhưng chôn của thật thì tiếc, về sau người ta mới chế những đồ
bằng lụa thay vào, dần dần thấy chôn lụa cũng phí của quá, họ bèn dùng giấy
màu để thay cho lụa, thế là thành tục đốt vàng, đốt mã… Bởi vậy, Ngô Tất Tố
mới khẳng định: “Người mình không hiểu gốc ngọn nhắm mắt theo họ, mấy
nghìn năm nay, đốt hại đã bao nhiêu của”.
Ngày nay, ở các đền, chùa, nơi thờ tự tâm linh, ở các khu dân cư và
trong mỗi nhà dân… đâu đâu cũng có hình thức hóa vàng mã với số lượng
ngày càng nhiều, mẫu mã ngày càng phong phú, giá trị tiền bạc không phải là
nhỏ. Cũng như Ngô Tất Tố đã từng viết cách đây gần 80 năm, chắc mấy
người đã hiểu được nguồn gốc của tục lệ đó, mấy ai đã biết đó chỉ là hủ tục
“nhảm nhí” được du nhập vào Việt Nam… chính vì thế, những dự báo của
Ngô Tất Tố cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Đành rằng kinh tế - xã hội
phát triển, việc sử dụng vàng mã bên cạnh ý nghĩa văn hóa tâm linh còn có ý
nghĩa kinh tế với những mặt tích cực nhất định, song, về tổng thể, đốt vàng
mã chính là đốt đi một phần của vật chất của xã hội, nếu bài trừ được hủ tục
đốt vàng mã thì lượng của cải vật chất đó sẽ có thể sử dụng vào những việc
khác có ý nghĩa và thiết thực hơn.
Về giáo dục, năm 1939, Ngô Tất Tố có tác phẩm: Học nghiệp và thực
nghiệp chia làm hai phái, một tâm lý lầm lỗi của học giới nước ta. Với đầu đề
đó, Ngô Tất Tố đã cho rằng, việc tách rời ý nghĩa thực tiễn của việc giáo dục
là một sai lầm. Theo ông, “học thành tài và nên người là mục đích của việc
học”. Nhưng điều đó chẳng qua là một “tập quán sùng thượng”, có thứ tài mà
79
vô dụng “nếu sự học chẳng phải liên lạc trực tiếp với vấn đề nhân sinh thì giá
trị của nó rất đáng ngờ”. Ngô Tất Tố cho rằng: “viết chữ và đọc sách là học,
mà cầm cái gậy hay vác cái búa, hay bất cứ tập làm một việc gì, đều là học
cả”. Theo Ngô Tất Tố, mục đích của việc học là nhằm mưu sinh; học gì cũng
nhằm để có được tri thức nghề nghiệp để có thể sử dụng cho mỗi người, có
ích cho xã hội. Bởi cái lẽ ấy, việc học phải gắn với thực hành, phải mang tính
thực dụng, hữu ích.
Theo Ngô Tất Tố, người Việt Nam xưa nay thường có suy nghĩ rằng, học
là nhằm làm cho người ta trở nên cao quý hơn kẻ khác, người có học có vị trí
cách biệt hơn hẳn những hạng người khác trong xã hội. Học để làm quan, học
để phát tài chứ không phải học để lao động hay để mưu sinh, bởi lẽ ấy “người
đã đi học thì dầu là đắc dụng hay thất nghiệp cũng chỉ mơ tưởng những cuộc
đời ngoài những nghề thực dụng như nông, công, thương nghiệp” và hậu quả
của điều đó là “luôn luôn có cái nạn trí thức thất nghiệp, đang khi mà trong
thực nghiệp giới thiếu người gánh vác”.
Đó là một sai lầm. Ngô Tất Tố nhận định như vậy, người đi học nhất
thiết phải gắn bó mật thiết với lao động thực tế, với “thực nghiệp”. Có làm
được như thế đất nước “mới mong tiến đến bước phú cường được”.
Gần 80 năm đã qua, những vấn đề bất cập trong giáo dục mà Ngô Tất Tố
đã nêu đến nay dường như vẫn nguyên giá trị. Hiếu học là một nét đẹp văn
hóa của dân tộc, tuy nhiên việc giáo dục, đào tạo không gắn với hướng nghiệp
là một sai lầm, là sự vô ích và lãng phí nhân lực và vật chất của xã hội. Tình
trạng “thừa thầy thiếu thợ” trong nhiều năm gần đây đã và đang là vấn đề xã
hội đúng như Ngô Tất Tố đã dự báo. Do vậy, những đề xuất của Ngô Tất Tố
từ đầu thế kỷ trước mang tính dự báo sâu sắc, đòi hỏi cần có sự nghiên cứu
một cách nghiêm túc về vấn đề học đi đôi với thực hành đi đôi với hoạt động
“thực nghiệp”, qua đó có thể có tìm ra những giải pháp tích cực, phù hợp với
tình hình hiện nay.
Về những vấn đề liên quan đến y tế, ngay từ đầu những năm 1930, Ngô
Tất Tố có những tản văn phê phán về hoạt động của những kẻ bất lương
mang danh thày thuốc để hại người; đó là những kẻ thất nghiệp, vô học,
80
không có kiến thức gì về thuốc cũng làm nghề thuốc; là những kẻ vừa làm
thày lang vừa cho thuê xe đòn đám ma… tất cả vì lòng tham, vì tiền bạc mà
xem nhẹ tính mạng của người khác. Trong tác phẩm Cụ Mạnh Tử còn thua
thầy lang Hà thành, Ngô Tất Tố viết:
“Nói ra thì mất lòng, cái y học của các thầy phần nhiều - phần
nhiều chứ không phải tất cả - là món “con bọ con kiến”, cho nên
dao cầu của mấy thầy ấy chém người như chém ngóe. Tuy vậy,
chết kệ họ, tiền họ, mấy thầy cứ bỏ túi. Tặng cho mấy thầy bốn chữ
“giết người lấy của” thì đúng lắm. Xưa nay những hiệu cho thuê
xe đám ma, nhờ mấy thầy mà phát đạt cũng nhiều”.
(Đông phương, số 496, 1931)
Ngô Tất Tố mỉa mai, thày lang mà mở hiệu cho thuê xe đám ma là phải,
việc bốc thuốc có lẽ cần cho con bệnh chết hơn là con bệnh sống, vì họ chết
thì thầy lợi cả tiền bán thuốc, lợi cả tiền cho thuê xe đưa họ xuống suối
vàng. Qua tản văn của mình, Ngô Tất Tố đã dóng lên hồi chuông về đạo đức
của những người mang danh “lương y”, chữa bệnh cứu người…
Trong những tác phẩm như Oan cho mấy cái răng; Dân là quý; Lại
chuyện người kim bụng cổ; Còn một hạng nữa… Ngô Tất Tố đã đứng về phía
những người dân để lên án những bất cập trong việc khám chữa bệnh của
những người làm thuốc. Theo Ngô Tất Tố, đã là thầy thuốc phải coi tính
mạng của người bệnh là trên hết; những kẻ “miệng không đọc sách thuốc
ngày nào mà vẫn ngoen ngoẻn nói về nghề thuốc để lấy tiền” thật đáng
nguyền rủa, oan hồn của những người chết oan dưới tay chúng không bao giờ
có thể tha thứ.
Ngô Tất Tố cho rằng, sở dĩ nhiều người dân bị chết oan bởi những “thầy
lang” là do không “không có người nước nào được giàu lòng tin bằng người
nước Nam, không cần hỏi đến nghề nghiệp, học vấn, người ta chỉ tin nhau ở
lời nói. Và cái đức tin ấy người ta nhất định chỉ để tin các… thầy lang” (Oan
cho mấy cái răng). Trong các mối quan hệ xã hội, sự tin tưởng lẫn nhau là cần
thiết bởi qua đó các mối quan hệ sẽ chặt chẽ hơn, tin cậy hơn. Tuy nhiên, nếu
không nắm chắc được về chuyên môn, học vấn, chỉ nghe danh ai đó là “thầy
81
lang” mà giao phó cả số mệnh của mình cho họ thì là sự cả tin ngây thơ chết
người. Ngô Tất Tố cho rằng, để bảo toàn tính mạng, người bệnh nhất thiết
phải biết được rõ trình độ của thầy thuốc, uy tín của hiệu thuốc.
Mặt khác, những kẻ dốt nát mang danh “thầy lang đọc sách không hiểu
nghĩa, quảng cáo thì như ông thánh”, đáng lẽ người dân nghe lời quảng cáo
phải biết đó là kẻ lừa đảo lấy tiền, nhưng vẫn “cẩu thả vẫn nhắm mắt uống
thuốc của họ” thì tất yếu ảnh hưởng đến tính mệnh, “tức là tự tử chứ gì?”. Có
lẽ không có sự dự báo, sự cảnh tỉnh nào cụ thể hơn những câu viết đó của
ông. Ngô Tất Tố đã đề xuất chính quyền cần phải quản lý chặt hoạt động của
các thày lang vì những kẻ “sống về nghề thuốc mà thực ra không am tường
nghề, làm nghề chữa bệnh mà không học thật không có gì bảo đảm cho bệnh
nhân. Chẳng trách lắm người đã bị chết oan vì gặp phải tay lang băm làm
hại”.
Theo Ngô Tất Tố, cần dùng khoa học hiện đại để nghiên cứu về Đông y;
thuốc Tàu tuy là môn thuốc rất hay nhưng mà những người soạn ra sách thuốc
đều chưa biết khoa học là gì, “làm cho thuốc của Tàu và của Ta phải mờ ám
giống như một môn huyền học”. Do vậy, cần “khảo nghiệm tính chất thuốc
Bắc và thuốc Nam và một trường học dùng phương pháp khoa học nghiên
cứu nghề thuốc Tàu thì may ra cái nạn giết người lấy của ở xã hội thầy lang
mới trừ bớt được”(Công dân, 1935).
Những dự báo đó của Ngô Tất Tố đến nay đã thành hiện thực, đã và
đang là một hướng đi tích cực trong việc sử dụng các bài thuốc dân gian
truyền thống phục vụ việc chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nhân dân. Trong bối
cảnh phát triển mạnh mẽ của báo chí, truyền thông, nhất là những điều kiện
thuận lợi trong việc mở rộng các mối quan hệ tương tác trên môi trường
Internet, người có bệnh có thể vào các mạng xã hội để hỏi bệnh mà không cần
hỏi bác sỹ; có những người tin quảng cáo, tin dư luận ảo hơn tin bác sỹ…
đúng như Ngô Tất Tố đã dự báo, đó là sự cả tin, sự ngây thơ chết người, rất
dễ mang họa cho bản thân. Hơn nữa, với các tiến bộ khoa học về tân dược và
kỹ thuật khám chữa bệnh, nhưng việc khám chữa bệnh như hiện nay không
phải vì thế mà an toàn, tin cậy hơn thời của Ngô Tất Tố… Do vậy, người
82
bệnh phải nắm chắc về uy tín, chất lượng khám chữa bệnh của thầy thuốc, của
cơ sở y tế đang khám chữa bệnh cho mình… như thế mới bảo đảm sự an toàn
của chính mình hoặc người thân của mình.
Tiểu kết Chƣơng 2
Trong Chương 2, luận án đã đi sâu phân tích và làm rõ các nội dung sau:
Một là, tản văn báo chí của Ngô Tất Tố có ba đề tài chính: 1) Đề tài
chính trị là đề tài chủ yếu được ông viết vào đầu những năm 1930 và trong
giai đoạn Mặt trận dân chủ do những ảnh hưởng thuận lợi của chính sách nới
lỏng việc quản lý và kiểm duyệt báo chí; 2) Đề tài văn hóa, xã hội là đề tài
này được Ngô Tất Tố đề cập trong hầu hết các tản văn báo chí của ông, nhưng
tập trung vào đầu những năm 1930 và khoảng thời gian từ 1940 đến 1945.
Đây là thời gian chiến tranh, nhằm trấn áp các hoạt động chống đối, chính
quyền thực dân đã tăng cường kiểm duyệt và đàn áp báo chí, buộc Ngô Tất
Tố phải chuyển hướng ngòi bút của mình phản ánh về các nội dung văn hóa;
3) Đề tài quốc tế, Ngô Tất Tố thường viết về đề tài này để phản ánh về các
vấn đề thời sự quốc tế với những bình luận sắc sảo, cập nhật.
Hai là, một trong những điều quan trọng để tạo nên thành công của Ngô
Tất Tố chính là nhờ những lối quan sát hiện thực một cách tỉ mỉ, cẩn trọng, thấu
đáo để phát hiện được những chi tiết, những góc cạnh khác nhau của nội dung
vấn đề cần phản ánh. Từng chi tiết cung cấp một lượng thông tin chuẩn xác, kịp
thời và đầy đủ về bản chất của những con người trong xã hội với đầy đủ các
gương mặt từ quan chức chính phủ, quan lại phong kiến đến những con người
bình dị trong xã hội. Tất cả góp phần khắc họa được những sự kiện điển hình,
những nhân vật điển hình của đời sống xã hội trong chế độ cũ.
Ba là, Ngô Tất Tố đã có những dự báo sâu sắc và nhạy bén về những
vấn đề chính trị, về chế độ quản lý như phòng, chống tham nhũng, tham ô hối
lộ; dự báo về những vấn đề văn hóa, xã hội như tệ nạn xã hội, giáo dục, y tế…
Nhiều dự báo, cảnh báo và đề xuất của Ngô Tất Tố cho đến nay vẫn còn
nguyên giá trị và rất cần thiết có sự nghiên cứu và vận dụng.
83
Chƣơng 3
PHONG CÁCH TẢN VĂN BÁO CHÍ CỦA NGÔ TẤT TỐ
QUA BÌNH DIỆN HÌNH THỨC VÀ KẾT CẤU TÁC PHẨM

Hình thức của tác phẩm báo chí là tất cả các yếu tố hàm chứa, biểu hiện
và chuyển tải nội dung. Kết cấu của tác phẩm báo chí được hiểu như là sự
phân chia và sự bố trí các phần, các chương mục theo một hệ thống nhất định
để thể hiện nội dung của tác phẩm [87].
Hình thức của tản văn nói chung, tản văn báo chí của Ngô Tất Tố nói
riêng rất đa dạng. Chính vì vậy việc xây dựng kết cấu tản văn của ông không
bao giờ rơi vào tình trạng đồng nhất và đơn điệu. Tùy thuộc vào nội dung của
từng tác phẩm, tùy thuộc vào dụng ý của mình mà Ngô Tất Tố chọn cho từng
tác phẩm một lối kết cấu thích hợp. Tuy nhiên, khảo sát cho thấy, các tản văn
báo chí của Ngô Tất Tố về cơ bản là loại kết cấu sự kiện. Tản văn viết theo kiểu
kết cấu sự kiện của Ngô Tất Tố gồm có hai thành phần rõ rệt: đầu đề và nội
dung. Hai thành phần này có quan hệ mật thiết với nhau, đầu đề của tản văn
phần nào chuyển tải được nội dung cơ bản sắp được đề cập trong truyện đó và
nội dung cũng đi sâu làm rõ ý nghĩa của đầu đề đã đặt ra. Chính vì vậy kết cấu
của một tản văn tuy ngắn gọn nhưng rất chặt chẽ.
3.1. Phong cách đặt đầu đề tản văn báo chí của Ngô Tất Tố
Đầu đề tác phẩm báo chí là một dạng đầu đề văn bản trong phong cách
ngôn ngữ báo chí. Đó là tên gọi chính thức của một tác phẩm báo chí. Để thực
hiện chức năng thông tin và tác động xã hội của mình, báo chí phản ánh hiện
thực cuộc sống bằng các sự kiện xác thực và thời sự. Các đặc trưng này quyết
định và chi phối đầu đề tác phẩm báo chí cả về nội dung thông tin cũng như
cấu trúc ngữ pháp và nghệ thuật ngôn từ. Tính cá thể hóa của tác giả và tác
phẩm đòi hỏi đầu đề tác phẩm tạo dựng được dấu ấn phong cách cá nhân. Đó
là cái riêng, sự độc đáo, sáng tạo trong khi lựa chọn yếu tố tạo hình để miêu tả
cũng như lựa chọn ngôn từ để biểu đạt.
Ngô Tất Tố là một nhà báo tôn trọng các giá trị truyền thống nhưng
cũng là một nhà báo giàu tính hiện đại, tất cả được thể hiện từ nếp tư duy luận
84
bàn một vấn đề cho đến cách thiết lập đầu đề cho những tác phẩm báo chí của
mình. Đối với một tác phẩm báo chí, việc đặt đầu đề chắc hẳn phải bảo đảm
được yêu cầu về tính thời sự. Đầu đề của một tác phẩm phải gắn với đối
tượng mà người viết đề cập và miêu tả. Vì thế, cách đặt đầu đề cho tác phẩm
báo chí là vấn đề có tính nghệ thuật để đạt hiệu quả tác động tốt. Chỉ cần đọc
đầu đề, người đọc đã biết được nội dung chính của thông tin chứa đựng trong
phần nội dung [138]. Ngô Tất Tố đã tỏ rõ sự sắc sảo, nhưng cũng rất chân
phương, dân giã trong cách đặt đầu đề. Do vậy, những đầu đề tản văn ban
chấp hành của Ngô Tất Tố mang đậm phong cách của ông.
3.1.1. Độ dài của đầu đề
Bảng 3.1. Bảng so sánh độ dài của đầu đề tản văn báo chí của Ngô Tất Tố,
theo từng tờ báo và từng năm từ năm 1928 đến năm 1945

Số chữ bình
Báo Năm quân trong đầu
đề
Đông Pháp thời báo 1928 6,0
Thần Chung 1929 9,0
Phổ thông 1930 - 1931 10,7
Đông phương 1931 8,2
Đuốc nhà Nam 1932 9,0
Công luận 1932 16,2
Thực nghiệp dân báo 1933 4,5
Công dân 1935 7,5
Tương lai 1937 11,3
Thời vụ 1938 - 1939 7,0
Con ong 1939 5,2
Trung Bắc Chủ nhật 1940 10,0
Đông Pháp 1940 - 1945 5,7
Khảo sát Tổng tập tản văn Ngô Tất Tố cho thấy, bình quân đầu đề của
tản văn có 7,5 chữ. Trong đó, 947 tản văn (82%) đầu đề có từ 10 chữ trở
xuống. Có 92 đầu đề (8,3%) đầu đề chỉ đích danh về địa phương, cơ quan, tổ
chức; 213 đầu đề (18,62%) nêu đích danh nhân vật, sự kiện, hiện tượng. Có
85
68 đầu đề (5,92%) là câu nghi vấn, là những câu hỏi về sự kiện, hiện tượng
cần giải quyết.
Độ dài ngắn cho một đầu đề trong tản văn báo chí của Ngô Tất Tố có sự
linh hoạt cao. Tùy thuộc vào vấn đề, có khi một đầu đề chỉ vài ba chữ, như:
Cam Ranh; Cụ lang Bần; Bác bếp Thả; Dân là quý; Hết năm; Người nhà
nước; Thục Điểu chết... Cũng có khi, đầu đề dài đến mươi, mười lăm chữ,
như: Cái khí giới của bọn phú hào dùng để bóc lột dân nghèo hay là nạn vay
lãi ở thôn quê; Đừng giở mấy ngòn ấy ra nữa tôi can mấy ông Ngày nay; Sau
lưng cụ Bùi Quang Chiêu hai ông Quỳnh, Vĩnh đuổi nhau sồng sộc; Thuốc
lậu, chuyện kiếm hiệp, vé số giả và cụ Nguyễn Thượng Hiền... Đầu đề tản văn
dài nhất có 30 chữ: “Chúng tôi muốn tiễn ông Godard bằng món quà này - cái
khí giới của bọn hào phú dùng để bóc lột dân nghèo hay là nạn vay lãi ở thôn
quê” trên báo Tương lai, năm 1937. Sự linh hoạt này đã tạo nên tính cụ thể,
gợi cảm cũng như giá trị thông tin trong các đầu đề tản văn báo chí của Ngô
Tất Tố.

Bảng 3.2. Bảng thống kê độ dài của đầu đề tản văn báo chí của Ngô Tất
Tố (trên tổng số 1.147 tác phẩm đƣợc khảo sát)
Số chữ trong đầu
Số lƣợng tản văn Tỷ lệ (%)
đề
2 7 0.61
3 32 2.79
4 119 10.37
5 145 12.64
6 248 21.62
7 156 13.60
8 137 11.94
9 82 7.15
10 56 4.88
11- 20 156 13.60
21 – 31 9 0.78
86
3.1.2. Cấu trúc câu của đầu đề
Câu đơn là câu có mô hình một cụm chủ vị, thường tương hợp với kết
cấu chủ ngữ - vị ngữ, kết cấu chủ thể - hành động. Khảo sát toàn bộ đầu đề
tản văn báo chí của Ngô Tất Tố cho thấy, đầu đề có cấu trúc kiểu câu đơn
xuất hiện với tần số cao, khoảng 61,3%.
Câu là ngữ tuyến được hình thành một cách trọn vẹn về ngữ pháp và
ngữ nghĩa với một ngữ điệu theo các quy luật nhất định của ngôn ngữ, là
phương tiện diễn đạt, biểu hiện tư tưởng về thực tại và thái độ của người nói
đối với hiện thực [85]. Như vậy, câu là cấu trúc phù hợp với một đầu đề
chuẩn mực, rõ ràng. Cấu trúc đầu đề là một câu khá phổ biến trên các báo.
Tuy nhiên, cấu trúc phải bảo đảm gắn liền với nội dung thông tin của đầu đề
với các chức năng bình phẩm (decommentaire), trần thuật (derécit) hay khẳng
định (affirmtif) [139].
Tuy có tần số xuất hiện cao và khả năng chuyển tải một thông báo hoàn
chỉnh, song kiểu đầu đề câu đơn được Ngô Tất Tố sử dụng không thật sự hấp
dẫn và tạo được sự tò mò của người đọc. Trên thực tế, sức lôi cuốn của đầu đề
được tạo nên từ sự gợi mở của bản thân sự kiện cũng như ngôn từ chở tải nó.
Chính vì thế, đầu đề kiểu câu đơn nếu không sử dụng các yếu tố lạ, mới, lối ví
von thì thường đơn điệu, dễ gây nhàm chán. Mặc dù có những hạn chế đó,
song không thể phủ nhận lợi thế của đầu đề kiểu câu đơn là đơn giản, dễ đọc,
dễ đặt, phù hợp với các tờ nhật báo và là phong cách thể hiện hiện đại.
3.1.3. Sử dụng thành ngữ và khẩu ngữ trong đầu đề
Thành ngữ là đơn vị có sẵn mang chức năng định danh, biểu thị sự vật,
ý nghĩa, tính chất một cách bóng bẩy. Do vậy, sử dụng thành ngữ làm đầu đề
vừa súc tích, ngắn gọn, vừa gần gũi, dể hiểu và tạo ra ý nghĩa hàm ẩn sâu sắc.
Khảo sát 1147 tản văn báo chí của Ngô Tất Tố cho thấy, ông đã sử
dụng 29 lượt thành ngữ trong đầu đề tản văn của mình. Trong đó, một số
thành ngữ được sử dụng ở dạng nguyên bản như: Mang nặng đẻ đau, Người
kim bụng cổ, Ở hiền gặp lành, Anh hùng tương ngộ, Ngắn hai dài một…; có
một số thành ngữ được cải biên như: Mất ngựa có khi là phúc, Cánh tay dùi
87
đục…; một số thành ngữ được lấy ý như: Oan cho cái răng cái tóc, Ông
Nguyễn Khắc Hiếu bị bìm bìm leo…
Tuy tỷ lệ sử dụng thành ngữ trong đầu đề tản văn không cao, nhưng đã
cùng với việc sử dụng hàng ngàn lượt thành ngữ, tục ngữ trong nội dung các
tản văn cho thấy Ngô Tất Tố đã sử dụng rất thành thạo và khai thác hiệu quả
mối tương giao giữa báo chí và văn học. Đây là phương thức có tác động
mạnh mẽ đối với tâm lý, tình cảm của người đọc bởi sự thân thuộc và khả
năng biểu cảm mạnh mẽ.
Dùng khẩu ngữ trong các đầu đề cũng là phương thức tạo biểu cảm của
Ngô Tất Tố. Khảo sát cho thấy, trong số 1147 tản văn có đến 42 đầu đề sử
dụng khẩu ngữ. Phong cách khẩu ngữ gắn với quá trình giao tiếp tự nhiên,
linh hoạt, sinh động, phong phú hàng ngày làm tăng tính quần chúng cho đầu
đề cũng như tác phẩm. Sự biểu cảm, ngạc nhiên, vui vẻ, phẫn nộ… của tác giả
thể hiện dưới dạng khẩu ngữ có tác động trực tiếp, nhanh, mạnh. Những vấn
đề đặt ra trong tác phẩm báo chí của Ngô Tất Tố nhờ thế mà được người đọc
tiếp xúc, lĩnh hội một cách tự nhiên nhất. Có thể kể một số đầu đề sử dụng
khẩu ngữ như: Hãy học chút nữa rồi sẽ nói em ơi; Ừ thế chứ! Bấy nhiêu cô
cũng nhiều rồi mà; Chiến tranh đi nữa chúng ta cũng không sợ gì; Người
Nhật nói xằng; Cướp! Cướp! Cấp cứu; Than ôi! Thương thay!
3.1.4. Mối quan hệ giữa đầu đề với nội dung tác phẩm
Khảo sát cho thấy, đa số đầu đề tản văn báo chí của Ngô Tất Tố được
đặt theo hướng khơi gợi người đọc nhu cầu tìm hiểu bản chất của sự kiện, vấn
đề mà ông đề cập trong tác phẩm, như: Con cháu khôn hơn ông vải; Đố biết
ông Gô đa là người gì; Không nên quên một bọn văn sĩ; Thuốc lậu, chuyện
kiếm hiệp, vé xổ số giả và cụ Nguyễn Thượng Hiền; Vậy thì An Nam cũng
phải có thuộc địa chứ… Có những đầu đề mang tính chiến đấu mạnh mẽ, như:
Bãi nước bọt trên mặt ông tuần phủ; Hiệp tác hay hiếp tác; Họ lại kiếm ăn vào
nắm xương khô; Họ vẫn ăn vào cái xác chết... Có những tác phẩm được đặt đầu
đề một cách bình dị, đơn thuần chỉ là thông báo một tin tức, một sự kiện nào
đó với nội dung rõ ràng, như: Bắc Ninh cầu cứu; Biểu tình ở Thanh Hóa;
Những việc đáng ghi chép của phòng canh nông Nam Kỳ…
88
Nhìn chung, cách đặt đầu đề tản văn báo chí của Ngô Tất Tố thu hút
người đọc, gợi trí tò mò để tìm hiểu chuyện nhưng không mang tính giật gân.
Cho dù chỉ ra những sự tương phản nhưng đều phù hợp với sự kiện, vấn đề
mà tác phẩm phản ánh; phù hợp với bản chất của đối tượng. Đối với một nhà
cựu học, được đào tạo theo khuôn phép và nề nếp ổn định nên rất dễ nêu ra
những đầu đề quen thuộc, thậm chí sáo mòn. Nhưng Ngô Tất Tố không
những đã tránh được những hạn chế đó mà trong hoạt động sáng tạo của mình
ông còn đặt được những đầu đề vừa phù hợp với yêu cầu của hoạt động báo
chí hiện đại, vừa góp phần nâng cao chất lượng đầu đề như một khía cạnh của
nghệ thuật làm báo.
Về cú pháp, Ngô Tất Tố có rất nhiều cách thức xây dựng đầu đề cho
những tản văn báo chí của mình, như: sử dụng lối lặp từ ngữ để đặt đầu đề,
như: An Nam hút máu An Nam; Làng kiện làng; Ở trong Nam hai ông An
Nam tranh nhau làm An Nam…; đầu đề ở dạng câu nghi vấn: Chơi kiểu gì lạ
vậy?; Còn gì nữa mà chưa giải tán Viện Dân biểu?; Ông Pagès chắc có đọc
qua Trang Tử?; đầu đề là một câu cảm thán Khốn nạn! ông Bùi Xuân Học lại
bị Hà thành ngọ báo công kích!; Ừ thế chứ! bấy nhiêu cô cũng nhiều rồi
mà!...; đầu đề là một câu văn mang tính chất khẳng định: Không phải đánh
bốc, đánh bài Tây đấy…
Ngoài ra, Ngô Tất Tố còn đặt đầu đề tản văn có nội dung như một lời
khuyên: Đừng giở ngón ấy ra nữa, tôi can mấy ông Ngày nay; Không nên
quên một bọn văn sĩ… hay một lời cầu khiến, nhờ vả: Xin nhờ Lemur Cát
Tường việc này nữa; Việc này lại phải nhờ đến cụ nghè Bân...
Có thể thấy, cách đặt đầu đề tản văn báo chí của Ngô Tất Tố rất linh
hoạt, với bất kỳ hình thức nào đầu đề tản văn báo chí của Ngô Tất Tố vẫn có
một nét riêng đó là cái bản lĩnh và trí tuệ sắc bén thể hiện trong con chữ.
3.2. Sức sáng tạo trong kết cấu tản văn báo chí của Ngô Tất Tố
Kết cấu là một trong những yếu tố hình thức của tác phẩm báo chí “là
sự tổ chức, mối quan hệ qua lại giữa các bộ phận trong một tác phẩm báo
chí”[108, tr.167]. Kết cấu của mỗi tác phẩm báo chí có thể hình thành và hoàn
thiện ở các giai đoạn khác nhau trong quá trình sáng tạo tác phẩm. Tuy nhiên,
cho dù hình thành ở giai đoạn nào thì kết cấu vẫn mang đậm dấu ấn cá nhân,
mang đậm phong cách của tác giả trong mỗi tác phẩm. Kết cấu của một tác
89
phẩm cụ thể thường phản ánh những quan hệ nằm sâu trong cấu trúc ngôn
ngữ mà khung kết cấu thường bắt đầu bằng sự phân đoạn theo quan điểm
truyền thống “tam đoạn”, gồm: mở đầu, diễn giải và kết luận.
Trên quan niệm đó, chúng tôi khảo sát các tản văn báo chí của Ngô Tất
Tố dựa trên loại hình cấu trúc “tam đoạn” để tìm hiểu đặc điểm phong cách
sáng tác của Ngô Tất Tố thể hiện qua các tản văn báo chí của ông.
3.2.1. Phần mở đầu
Cũng như việc đặt đầu đề, phần mở đầu của mỗi tác phẩm báo chí phải
tạo được ấn tượng và sức hấp dẫn đối với người đọc, phải thực sự ngắn gọn,
tránh lan man vì sẽ ảnh hưởng đến cảm hứng của người đọc. Phần mở đầu
cũng phải cung cấp những thông tin cốt yếu nhất, nếu người đọc không thấy
thông tin nào quan trọng ngay từ câu đầu tiên thì sự chú ý sẽ không chuyển
thành hứng thú, thậm chí sẽ làm mất hứng thú đối với bạn đọc.
Khảo sát tản văn báo chí của Ngô Tất Tố cho thấy, ông có phần mở đầu
phổ biến là mở đầu giản lược và mở đầu phức tạp.
3.2.1.1. Mở đầu giản lược
Mở đầu giản lược là cách mở đầu một cách đơn giản, ngắn gọn. Qua
đó, khái quát cách tiếp cận sự kiện, hiện tượng với sự dồn nén cao về dung
lượng câu chữ nhưng đạt hiệu quả tối đa về mặt thông tin. Bên cạnh yêu cầu
đó, mở đầu giản lược vẫn phải thể hiện được thái độ, tình cảm của tác giả đối
với những sự kiện, hiện tượng được phản ánh với cái nhìn của người trong
cuộc. Trong mở đầu tác phẩm Lời tuyên ngôn nhận chức hay là một câu ra
viết báo, Ngô Tất Tố viết:

“Nhớ lúc xưa, tạp chí Nam phong nhô mặt với đời, Phạm Thượng
Chi tiên sinh thảo bài phi lộ, riêng các đoạn nói về cớ tại sao mà
viết bài đó, tiên sinh dùng đến gần hai trang giấy khổ lớn, dẫn ra
một thôi những là tòa nội các mới lập…”.
(Phổ thông, số 61, 1930)
Hay trong tác phẩm Sao lại kiện giúp, Ngô Tất Tố mở đầu:

“Tôi nhắc đến chuyện sư nữ Ngô Thị Đức. Té ra từ khi ở Tàu trốn
về quê hương tu với bụt chùa nhà, sư Đức đã toan tự tử hai lần.
90

Ngoài lần định nhảy xuống cầu sông Cái, lại còn một lần định nhảy
xuống hồ Trúc Bạch nữa kia”.
(Đông Pháp, số 4982, 1941)
Cách mở đầu giản lược này thường bắt gặp trong những tác phẩm có
tính chất mô tả, tường thuật lại một sự kiện, một hiện tượng, như: Con trai
ông Vân Long bị lôi thôi ở Hải Phòng; Phần mộ họ Khổng thửa động vậy ôi;
Kém gì thánh trạng ngày xưa… Cũng có thể đó mở đầu giới thiệu vể một địa
danh, một nhân vật hoặc sự kiện có tính chất chung chung. Ví dụ như trong
tác phẩm Nguyễn Quốc Túy nhớ dai hơn bác Tứ Ly, tác giả viết:

“Trong một năm có 365 ngày, trong 365 ngày có 52 tuần lễ, mà mỗi
tuần lễ báo ra có hai kỳ, tuy chưa được hàng ngày cùng quốc dân
tay bắt mặt mừng, nhưng tuần nào cũng được cùng nhau chia ngọt
sẻ buồn”.
(Thực nghiệp dân báo, ngày 8-9-1933)
3.2.1.2. Mở đầu phức tạp
Ngược lại với cách mở đầu giản lược, trong nhiều tản văn của mình,
Ngô Tất Tố sử dụng cách mở đầu phức tạp cả về cách thức và nội dung thể
hiện. Theo cách mở đầu này, ông giới thiệu về sự kiện, hiện tượng với sự thể
hiện cảm xúc, suy nghĩ hoặc nhận thức của mình đối với sự kiện, hiện tượng
đó. Về hình thức, phần mở đầu phức tạp có dung lượng câu chữ nhiều hơn so
với mở đầu giản lược. Trong tác phẩm Kẻ thù số một đời đời của dân Bắc kỳ
ta, Ngô Tất Tố viết:

“Giữa lúc cả thế giới đang để mắt đến cuộc chiến tranh ở Âu châu
giữa Anh và Đức, Ý, mọi người đang hồi hộp mong đợi cuộc đại tấn
công của quân Đức sang Anh, thì ở xã hội Việt Nam ta khắp các
tỉnh miền trung châu, nhân dân đều lưu tâm đến tình hình nước lụt
ở các triền sông Nhị Hà và Thái Bình cùng là đê điều ở khắp các
nơi. Nhất là trong mấy ngày cuối tuần lễ trước, nước sông Nhị Hà ở
Hà Nội lên tới mực 12 thước 30 phân là mực nước từ hơn 40 năm
nay chưa bao giờ thấy có”.
(Trung Bắc Chủ nhật, số 18, 1940)
91
Với cách mở đầu phức tạp, dài dòng, nên cho phép tác giả phô diễn khả
năng linh hoạt trong việc vào đề bằng những thủ pháp đặc biệt. Như trong
xưng hô, tác giả vào đề một cách thân mật, xưng hô “mình” (Ông Phạm
Quỳnh là bạc tình lang; Nào ai đã thật làm anh ai; Mạ lại tin tức), “chúng
mình” (Ai là đại biểu cho báo giới Việt Nam ở cuộc đấu xảo Paris). Ngô Tất
Tố có cách lôi kéo sự chú ý của người đọc bằng việc sử dụng những động từ
hết sức bình dị, như “trông” (Truyện Kiều sẽ ghi vào hiến pháp có ngày);
“coi” (Tiên sinh Phạm Quỳnh cãi lộn với ông Thượng Chi); “ngó” (Còn chờ
gì nữa mà chưa giải tán viện dân biểu); “thấy” (Nghị viện khóa tới sẽ là trách
nhiệm của ai), “đọc” (Chúa trùm đảng áo nâu sẽ xuống địa ngục). Hoặc giả là
những từ ngữ cảm thán, bộc lộ thái độ hài hước tạo được sự thích thú ở người
đọc như trong tác phẩm Hú vía! Tưởng là mất ông Phạm Huy Lục.
Có khi việc mở đầu được tiếp nối về thông tin trực tiếp từ đầu đề của
tác phẩm. Chẳng hạn với đầu đề Ở trong Nam, hai ông An Nam tranh nhau
làm An Nam, ngay phần mở đầu tác giả tiếp nối: “Cái chuyện cũng kỳ đấy
chứ!”. Đầu đề trong trường hợp này đóng vai trò vào đề. Hay trong tác phẩm
Chết vì ăn, Ngô Tất Tố vào đề: “Nhờ quý quốc bảo hộ khai hóa, dân Việt
Nam có nhiều cách sống, mà cũng có nhiều cách chết. Phiền muộn vì công
danh, uất ức vì gia đình, thất vọng vì tình ái… là những hạng không muốn
sống mà tự làm cho chết, nhưng có một hạng nheo nhóc vì đống con, bơ phờ
vì không cơm, cố cầu cạnh bon chen cho được sống, thì lại gặp ngay cái chết,
là hạng chết vì ăn!” (Thời vụ, số 37, 1938).
Ngô Tất Tố có một kiểu mở đầu rất giàu chất văn học, khiến người đọc
cảm thấy thú vị vì được đón nhận thêm một câu tục ngữ, một câu nói dân gian
hay một câu phong dao mà ông dùng để vào đề cho một vấn đề tương tự. Như
trong tác phẩm Hắn đáng đi ở tù thay, mở đầu là: “Phong dao có câu “Đàn
ông chớ kể Phan Trần”; hay trong tác phẩm Ngắn hai dài một, mở đầu là:
“Tục ngữ thường nói ngắn hai dài một”… Với kiểu mở đầu này người đọc có
thể được tiếp xúc với những tri thức rất bất ngờ, có thể bật ra tiếng cười sảng
khoái. Trong tác phẩm Những ông Ba Vì hoành tráng, được mở đầu: “Phong
dao có câu “Bố vợ là vớ cọc chèo, mẹ vợ là bèo trôi sông, chàng rể là ông Ba
Vì”; trong Ai nhất ai nhì, ông mở đầu: “Tục ngữ có câu “Nhất sĩ nhì nông,
hết gạo chạy rông nhất nông nhì sĩ”…
92
Kết cấu tản văn báo chí của Ngô Tất Tố phần lớn là kết cấu sự kiện,
nên việc vào đề bằng cách nêu các cụm từ chỉ thời gian chiếm số lượng lớn.
Thời gian có khi cụ thể ngày, giờ, như trong các tác phẩm: Vì ghen nên nỗi
Tây với Tàu hành hung; Một cái cảm tưởng khi đi coi Hoa kiều kỷ niệm ngày
quốc khánh…; sử dụng cụm từ chỉ thời gian quá khứ như “Bảy tám tháng
trước” trong tác phẩm Ông thống sứ với trận mưa hôm nọ; “Chừng như trong
tuần lễ trước thì phải” trong tác phẩm Đăng nguyên văn một ít thôi. Ngô Tất
Tố còn dùng những cụm từ chỉ thời gian một cách chung chung, như: năm nọ,
năm ấy, thuở xưa, gần đây, hôm vừa rồi... giúp người đọc có thể xác định
hoặc áng khoảng được thời gian sự việc, hiện tượng xảy ra.
Cũng có những tản văn được mở đầu bằng những từ chỉ không gian cụ
thể, như: “Ở tỉnh Gia Định mới có một kì nhân” trong tác phẩm Có thế mới tu
được; hay “Ở tỉnh Bắc Giang có một việc rất đáng cảm động” trong Chuyện
hàng ngày. Có khi mở đầu bằng những từ chỉ không gian một cách chung
chung như: “Ở các nơi thành thị” trong tác phẩm Một nghề mới lạ; “Khắp thế
giới” trong tác phẩm Cái nạn kiêng tên…
3.2.2. Phần diễn giải
Đã có nhà nghiên cứu so sánh tản văn báo chí của Ngô Tất Tố là khẩu
súng, chĩa vào kẻ thù thì phần mở đầu có thể ví với hành động lên đạn sẵn
sàng và phần diễn giải chính là thao tác bóp cò, nhằm thẳng kẻ thù mà bắn.
Khảo sát Tổng tập tản văn Ngô Tất Tố cho thấy, phần diễn giải trong tác
phẩm báo chí của ông bao giờ cũng có những cách lập luận chặt chẽ, xoáy sâu
vào vấn đề và đẩy vấn đề lên cao, qua đó bộc lộ thái độ của mình. Ông có
những thủ pháp cố ý kéo dài sự chờ đợi của người đọc, khiến họ càng tò mò
hơn. Để cuối cùng, Ngô Tất Tố đưa họ đến với nội dung chính cần biết, khiến
họ cảm thấy bất ngờ thú vị.
Trong tác phẩm Ông Nguyễn Khắc Hiếu bị bìm bìm leo, Ngô Tất Tố tố
cáo một tờ báo đã “ăn cắp” tên của Tản Đà - Nguyễn Khắc Hiếu, lợi dụng
danh tiếng của Tản Đà để vụ lợi. Chuyện vỡ lở, họ lại quay ra nói xấu Tản
Đà. Những tưởng việc Ngô Tất Tố nói không liên quan gì đến việc Tản Đà bị
bìm bìm leo, nhưng ông bất ngờ diễn giải rõ hơn về chiêu trò đó:
93
“Ông Nguyễn Khắc Hiếu bị bìm bìm leo. Nói vậy chắc có người
không tin. Ông Hiếu hiện ở Hà Nam lo tính chuyện An Nam tạp chí,
chớ có phải ông ấy vẫn nằm ở xó rừng ngày trước đâu, mà bị bìm
bìm leo được… Than ôi! Giậu đổ bìm leo, nghĩ như tình cảnh ấy
ông Hiếu thật khổ sở vậy. Tôi nói ông Hiếu bị bìm bìm leo chính là
nghĩa thế”.
(Phổ thông, số 113, 1930)
Ngô Tất Tố có những cách tạo tình huống và gỡ nhút, giải đáp tình
huống một cách rất linh hoạt. Trong tác phẩm Cô tây Hoẻn, Ngô Tất Tố đã
diễn giải về không khí làng quê khi cô tây Hoẻn dẫn một “ông Tây” về làng:
“Các tướng nấu rượu lậu, nhớn nhác xô nhau cất dọn giấu giếm, cả
cái lão trùm Đẩu đương du dương say tỉnh với mấy phân thuốc
phiện ngang cũng vội nhỏm dậy lẻn ra đầu nhà vứt cái hến thuốc
xuống ao! Tây càng đi gần tới, lũ trẻ càng xô nhau chạy, mọi người
đứng trong bụi hàng, hay nấp trong cổng nhìn ra: Một anh Tây lính
mũi lõ râu xồm, mình cao bụng phệ dắt chiếc xe đạp đi bên cạnh
một người đàn bà phấn son sặc sỡ, quần áo lam, giầy cao gót, chiếc
ô xanh biếc, chiếu xuống bộ mặt phấn bị mồ hôi loang lổ, bộ răng
trắng nhom nhem khấp khểnh như rà rụa với bộ môi cong mỗi khi
cười nói. Bộ răng ấy, bộ môi ấy đã làm cho dân làng nhận được là
cô Hoẻn, con ông đĩ Hoét”.
(Thời vụ, số 40, 1938)
Tùy theo sự kiện hay vấn đề của tác phẩm mà Ngô Tất Tố có cách lập
luận để đạt được mục đích viết của mình. Bằng những lập luận chặt chẽ, Ngô
Tất Tố đã phản ánh hành động ám muội của Phạm Huy Lục trong cuộc bầu cử
vào Viện dân biểu. Từ việc không thấy tên ông Lục trong danh sách ứng cử,
Ngô Tất Tố khẳng định “chưa đến hơi thở cuối cùng thì dẫu sét đánh bên tai
ông Lục cũng không bỏ ghế dân biểu khóa này”. Ngô Tất Tố dám khẳng định
như vậy vì ông hiểu rất rõ con người đó “nếu không làm dân biểu thì ông ấy
sẽ thành ra vô nghề nghiệp - vì ngoài nghề dân biểu ông Lục không còn biết
một nghề nào khác - sợ bị ghép vào tội du đãng”. Ở Hà Nội ai cũng biết “tận
tổ chấy” ông Lục nên chắc chắn chẳng ai bầu cho ông ta. Chắc thế vì thế nên
ông Lục ứng cử ở Phú Thọ, nơi người ta chưa biết rõ lắm về ông ấy. Nhưng
94
tại sao không thấy tên ông Lục trên báo chí? Ngô Tất Tố lập luận tiếp: “Hay
là ông ấy vận động ngầm với các báo, bảo họ đừng nói đến mình vội, để ông
có đủ thì giờ xoay xỏa”. Tác giả cứ đưa ra vấn đề rồi lại dùng lập luận để giải
quyết vấn đề, từ từ bản chất của vấn đề được hiện lên. Và cuối cùng ông vạch
trần cho mọi người biết cái mánh khóe của ông Lục trong việc ứng cử vào
Viện Dân biểu cũng như lý do vì sao mà ông luôn được bầu. Cũng bằng khả
năng phán đoán, lập luận này ông lần lượt vạch mặt những chính sách gian
giảo, thâm độc của bọn thực dân nói chung, của các nhân vật cụ thể trong giới
quan trường nói riêng.
Như vậy, ở phần diễn giải, Ngô Tất Tố đã có những cách thắt nút, gỡ
nút, đặt tình huống và giải quyết tình huống rất linh hoạt, qua đó đưa người
đọc tiếp cận được những sự kiện, những vấn đề thời sự và thú vị.
3.2.3. Phần kết luận
Phần kết luận là phần khái quát vấn đề và đưa ra lời bình. Ấn tượng
nhất của phần này là lời bình của tác giả, hoặc của nhân vật (nếu có), lời bình
có sâu sắc thì bài viết mới thực sự thành công và tạo được cảm nhận sâu sắc
trong lòng độc giả. Khảo sát tản văn báo chí của Ngô Tất Tố cho thấy, ông có
nhiều cách kết luận vấn đề, nhưng tựu chung lại có cách kết luận đóng và kết
luận mở - kết luận như không kết luận.
Trong phần kết luận, Ngô Tất Tố thường sử dụng những lời bình luận
vừa sâu sắc, vừa mang tính định hướng, mở ra một lối giải quyết nào đó. Mục
đích viết của Ngô Tất Tố không chỉ là công kích những cái xấu mà còn mong
muốn cải tạo cái xấu, góp phần làm đẹp cho xã hội, do đó, trong lời kết luận
của ông người ta không thấy sự bế tắc. Chẳng hạn trong tác phẩm Yêu cầu
một cuộc điều tra về cách làm giàu của quan lại An Nam, sau phần lập luận
diễn giải, Ngô Tất Tố khái quát lại vấn đề và cho rằng, quan lại là một phần
nguyên nhân trong cảnh thống khổ của dân:
“Không thể nhắm mắt nói rằng cứ để nguyên cái bộ quan lại... nên
thêm một cuộc điều tra về cách làm giàu của quan lại. Hễ cách làm
giàu bị bại lộ, thì nền tảng của giới ấy có thể lung lay. Dù chẳng
được tự trị, trực trị chi chi, nhưng được vậy cũng giảm đi một chút
không khí khó chịu”.
(Tương lai, số 1, 1936)
95
Trong nhiều tản văn, Ngô Tất Tố kết luận bằng một câu hỏi, hoặc đặt
vấn đề một cách dở dang, mở ra những cách giải quyết khác nhau thuộc về
người đọc. Trong tác phẩm Cháy nhà ra mặt chuột, Ngô Tất Tố ví bọn quan
lại cũng giống như lũ chuột, bắt mãi mà chưa hết, ông kết luận bằng một câu
hỏi: “Chuột còn hay hết, chúng ta còn thấy chúng ra mặt nữa thôi. Đố ai biết
được?”. Khi viết về cụ lang Bần trong một tác phẩm cùng tên, Ngô Tất Tố đã
vạch ra những thủ đoạn bất lương của hai cha con cụ lang. Ông kết thúc bài
viết bằng một câu hỏi lớn, thể hiện sự quan ngại sâu sắc đối với tương lai của
xã hội: “Từ bác vé xe, nhảy lên ông lang, từ anh bồi phụ nhảy lên anh đốc tờ,
chẳng biết bao giờ hai cha con nhà ấy gặp nhau rồi thì cái kết quả sẽ ra
sao?”. Hay trong tác phẩm Đàn bà ăn hiếp đàn ông, Ngô Tất Tố cũng đặt ra
hai câu hỏi: “Làm vợ vua thì không được phép chơi trai, vậy mà các vua cứ
được phép bắt hàng nghìn con gái nhốt vào cung mà dùng lần? Con gái bắt
con trai mà chơi là có tội vậy sao con trai cứ được mở lầu xanh, lầu đỏ, đem
con gái mà nhốt vào?” (Đông phương, số 402, 1931).
Cũng có khi Ngô Tất Tố kết thúc tác phẩm bằng những lời mỉa mai,
châm biếm. Trong một tác phẩm, Ngô Tất Tố phê phán một đồng nghiệp viết
bài về Tạ Hiền tiên sinh nhưng không hiểu biết gì về người đó. Sau khi cung
cấp bổ sung một loạt thông tin về Tạ Hiền, Ngô Tất Tố kết luận:
“Nói cho đúng, Tạ Hiền tiên sinh ở Bắc Ninh cũng như núi Tản
Viên ở Sơn Tây vậy. Vậy mà tờ báo của người đồng huyện với tiên
sinh viết ra lại không thèm biết đến cái tên của tiên sinh, cũng là sự
lạ ở thế gian. Lạ nữa là không biết mà dám viết bài khảo cứu về
tiên sinh, thật là coi trời bằng cây rau má!”.
(Đông phương, số 442, 1931)
Khi kể về việc ông Nguyễn Doãn T. bị nhổ nước bọt vào mặt. Ngô Tất
Tố dẫn giai thoại về Lâu Sư Đức thời nhà Đường, cho rằng, chắc hẳn ông T.
đã biết giai thoại đó, nên mới có ứng xử như vậy. Ông kết luận:
“Ông T. khi mới xuất chính ắt đã đọc rồi. Thế thì trong lúc làm
quan ông T. chắc biết trước mình sẽ có ngày phải thực hành câu
nói của Lâu Sư Đức. Bây giờ hưu rồi việc mới xảy ra. Đó cũng là
may mắn lắm. Rửa chi cho tốn nước và hại xà phòng!”.
(Tương lai, số 10, 1937)
96
Với chính kiến và thái độ rõ ràng, trong các tản văn của mình, Ngô Tất
Tố luôn ở thế chủ động chính vì thế lời nói của ông bao giờ cũng nhẹ nhàng
nhưng hàm ý sâu xa, khiến cho đối tượng của ông như bị bắn phát súng, tuy
nhẹ, nhưng lại trúng chỗ hiểm nên khó lành. Ngoài ra, Ngô Tất Tố còn kết
thúc tác phẩm bằng những lời đe dọa, buộc tội, như các tác phẩm: Dân vô sản
với những ngày đã được gọi là kinh tế phục hưng; Cho no đủ đã; Hiệp tác
hay hiếp tác… Ở một số tác phẩm, Ngô Tất Tố còn mượn một đoạn thơ hoặc
một khúc ca để kết luận cho bài viết của mình, như: Ông thống sứ với trận
mưa hôm nọ; Hỏi thăm ông huyện vô danh…
Khái quát về sức sáng tạo trong kết cấu tản văn báo chí của Ngô Tất
Tố, Phan Cự Đệ cho rằng, những tác phẩm báo chí của Ngô Tất Tố có kết cấu
độc đáo, trong đó có sự kết hợp giữa sức thuyết phục logíc với sức truyền cảm
bằng hình tượng thẩm mỹ. Mỗi yếu tố trong kết cấu trong tản văn báo chí của
Ngô Tất Tố đều mang một thế mạnh riêng. Nhưng với yếu tố nào ông cũng
thể hiện được tài năng và bản lĩnh của mình. Đó chính là phong cách của Ngô
Tất Tố thể hiện qua kết cấu những tác phẩm báo chí của mình [17].
3.3. Sức thuyết phục logíc của tản văn báo chí Ngô Tất Tố
Khảo sát tổng tập tản văn báo chí trong gần 20 năm làm báo trước Cách
mạng tháng Tám của Ngô Tất Tố cho thấy, hầu hết các tác phẩm báo chí của
ông là những bài bình luận thời sự hoặc bình luận về các vấn đề văn hóa, xã
hội. Điều đó yêu cầu mỗi tác phẩm phải có sức thuyết phục logíc, với những
căn cứ, lập luận chặt chẽ, chính xác. Bên cạnh đó, tác giả phải có chính kiến
rõ ràng đối với các vấn đề chính trị. Nhưng với đặc trưng của tản văn báo chí,
mỗi tác phẩm lại phải xây dựng được những hình tượng và sức truyền cảm
sâu sắc đối với người đọc. Phan Cự Đệ đã nhận định rằng: “Ngô Tất Tố đã kết
hợp được sức thuyết phục logíc trong kết cấu và lập luận của tiểu phẩm với
sức truyền cảm bằng hình tượng, với khả năng điển hình hóa”[17, tr.152].
Sức thuyết phục logíc trong tản văn báo chí của Ngô Tất Tố được thể hiện qua
phương pháp diễn dịch, quy nạp và loại suy.
3.3.1. Phương pháp diễn dịch
Phương pháp diễn dịch (déduction) là phương pháp tác giả đưa ra một
nhận định có tính phổ quát hay một định đề lớn, sau đó dẫn ra những trường
97
hợp cụ thể để chứng minh cho định đề lớn đã nêu nhằm củng cố và nâng cao
sức thuyết phục logíc về nhận định của mình.
Trong tác phẩm Vài lời chào bạn đọc, Ngô Tất Tố đã đưa ra nhận định
có tính phổ quát, rằng cuộc đời chỉ là chỗ “trò chơi” của các đấng siêu việt,
người đời chỉ là “đồ chơi” cho các đấng ấy:
“Theo Kinh thánh của đạo Gia Tô, đức Chúa Trời trong bảy ngày
làm ra tinh tú, ngày đêm, núi sông cây cỏ, loài vật và loài người, là
cốt để cho đẹp con mắt của ngài; theo sách Phật, cõi trần là nơi biển
khổ, công việc và thân đời của loài người, chẳng qua như cái bóng,
cái bọt, như luồng chớp, như hạt móc, như giấc chiêm bao…”.
(Đông phương, số 372, 1931)
Sau đó, Ngô Tất Tố mới chứng minh cái nhận định phổ quát của
mình bằng những trường hợp, với những nội hàm cụ thể:
“Ở chỗ trò chơi, làm cái đồ chơi, trăm công nghìn việc, rút lại chỉ
là “chơi” cả, có điều mỗi người “chơi” một khác: Anh hùng hào
kiệt, chơi bằng sự nghiệp, thanh danh; đại thánh đại hiền chơi bằng
luân lý, đạo đức; các nhà chính trị chơi bằng lưới phép cạm hình;
các nhà võ bị chơi bằng máy bay tàu chiến; nhà săn bắn chơi bằng
súng; nhà kiếm hiệp chơi bằng gươm; bọn đổ bác chơi bằng lá bạc
quân bài…”.
(Đông phương, số 372, 1931)
Qua hai bước “diễn dịch” đi từ nhận định chung nhất đến từng lập luận
nhánh, cuối cùng, Ngô Tất Tố mới nói điều cần nói, đó là những lý do của việc
ra đời chuyên mục “Nói chơi” trên báo Đông phương do Ngô Tất Tố đảm
trách, đó chính là “sân chơi” riêng của ông. Ngô Tất Tố viết:
“Thục Điểu cũng sinh ra ở cái bầu “chơi” này, lẽ tất nhiên là phải
“chơi”, nhưng Thục Điểu không chơi bằng những món kia mà chơi
bằng lời nói. Cụ Nguyễn Công Trứ hay là cụ Nguyễn Du chẳng biết -
vì Thục Điểu chỉ nhớ mơ hồ - có hai câu thơ rằng “Sa bà thế giới
nhân như mộng, du hí văn chương ngã diệc bài”, hai câu này nếu
tạm dịch ra quốc văn thì là “Cuộc đời man mác người mơ ngủ; ngọn
bút bông lơn tớ đóng trò” Thục Điểu tuy chẳng có tài đóng trò văn
98
chương như cụ tác giả câu thơ kia, nhưng thử nói “chơi” để trước
mua vui cho mình, sau làm duyên với các bạn đọc báo”.
(Đông phương, số 372, 1931)
Trong tác phẩm Xứ Đông Pháp và quan toàn quyền Brevié, Ngô Tất Tố
đã dũng cảm đối mặt và tỏ ra hoài nghi về quan toàn quyền - người có quyền
lực nhất Việt Nam và Đông Dương lúc đó. Ông viết:
“Một ông quan có tài đến đâu lúc mới đến nhậm chức một thuộc
địa cũng không thể không trải qua cái thời kỳ khảo sát ấy mà bắt
đầu đem thi hành ngay cái chính sách của mình được. Bởi vì một
chính sách đã thảo ra trong một buồng giấy theo sách vở và tin tức
mơ hồ, chắc đâu đã thích hợp được với một trình độ xã hội luôn
luôn biến đổi và tình hình quốc tế mỗi ngày mỗi khác”.
(Thời vụ, số 50, 1938)
Nhấn mạnh như vậy, nhưng Ngô Tất Tố đã đặt ra câu hỏi ở phần kết
luận, rằng toàn quyền Brevié đã làm được những gì cho xứ xở này? Và Ngô
Tất Tố đã tự trả lời rằng, ông ta chẳng làm được gì. Hay trong tác phẩm: Chức
viện trưởng viện dân biểu bầu cho dân biểu do chính phủ lựa chọn cũng được
nhưng không nên bầu cho ông Phạm Quỳnh, Ngô Tất Tố đã sử dụng phương
pháp diễn dịch để giới thiệu về ông Phạm Quỳnh:
“Nói về sức học, ông Quỳnh thật vào bực khá, nhưng nói về tài
làm việc chính trị thì ông ta cũng chưa đủ sức. Trong bài “Trả
lời bài “Cảnh cáo mấy nhà học phiệt” của ông Phan Khôi” vừa
rồi, chính ông ta cũng tự nói rằng: “Tôi không phải là nhà chính
trị” câu đó là câu thực tình, không phải là có khiêm tốn chi hết.
Xem như tư tưởng về chính trị của ông ta từ khi ra chen chọi với
đời đến nay thì rõ”.
Đặt ra định đề như vậy, để trong từng phần diễn giải, Ngô Tất Tố đã
sau đó dẫn ra từng nội dung cụ thể để chứng minh cho định đề đã nêu, qua đó
củng cố và nâng cao sức thuyết phục logíc về nhận định của mình như sau:
“Khi mới ra đời vì lãnh trách nhiệm biên tập Tạp chí Nam Phong
mà được hàm hàn lâm viện trứ tác, thì tư tưởng của ông ta là tư
tưởng quân chủ, cái tư tưởng đó đã bày tỏ rõ rệt ở trên tập Nam
Phong lúc đầu, không cần phải dẫn chứng cớ”.
99
“Sau đó chừng 8, 9 năm, khi ông ta theo vua Khải Định sang
Pháp, bấy giờ tư tưởng của xã hội phần đông khuynh hướng về
dân chủ, thì ông ta cũng đổi cái tư tưởng quân chủ mà đi một
chiều với đông người”.
“Trở lên ba đoạn chứng cớ đó, chúng tôi chỉ lấy sự hiển nhiên ở
trước công chúng mà chia hồi cho tư tưởng chính trị của ông
Quỳnh, chứ không có ý phê bình tư tưởng hồi nào là hay, tư tưởng
hồi nào là dở”.
(Phổ thông, số 60, 1930)
3.3.2. Phương pháp quy nạp
Ngược lại với phương pháp diễn dịch, phương pháp quy nạp
(réduction) là phương pháp người ta thường đưa ra những trường hợp cụ thể
trước, sau đó mới rút ra một kết luận có tính chất phổ quát. Khảo sát cho thấy,
Ngô Tất Tố ít khi sử dụng phương pháp này. Năm 1941, trên Đông Pháp, trong
bài Làng báo cũng nên bài trừ những món ăn giả, Ngô Tất Tố cho rằng:
“Đọc báo hàng ngày, thỉnh thoảng lại thấy xã hội Việt Nam sản ra
những bọn người giả. Giả mật thám, giả lính đoan, giả làm người của
sở kia, sở nọ. Hạng người nào cũng có kẻ giả, trừ ra một hạng ăn
cướp… Có lẽ trong các thực đơn của thế giới, không đâu có nhiều
món giả bằng nước An Nam. Cũng thì một miếng thịt, người ta bày ra
đủ trò: nấu với tiết gọi là “giả trâu”, nấu với giềng mẻ gọi là “giả
cầy”, nấu với hành răm gọi là “giả chim”, nấu với đậu nghệ gọi là
“gia ba ba”, đốt đi rồi bóp với thính đỗ tương thì lại bảo “giả dê”. Ấy
là cột báo chật hẹp, tôi không dám kể những món giả bong bóng, giả
mắm mực, giả gà hầm, giả vịt hầm... trong những cỗ chay vẫn cúng
Phật Tổ”.
(Đông Pháp, số 4957, 1941)
Từ những trường hợp cụ thể đó, Ngô Tất Tố đã đưa ra nhận định chung:
“Đồ ăn là thứ sẽ ăn vào miệng, hễ mà qua hai hàm răng thì nó là lợn hay
trâu, hay gì gì nữa, cái lưỡi sẽ biết tức thì, thế mà chúng ta cứ làm giả, thì có
khác chi xúi giục nhau rằng: trên đời không cái gì mà không giả được”.
100
Hay khi viết về Bùi Quang Chiêu trong các tác phẩm như: Nước bạc
cuối cùng của cụ Bùi Quang Chiêu; Sau lưng cụ Bùi Quang Chiêu, hai ông
Quỳnh, Vĩnh đuôi nhau xồng xộc, Ngô Tất Tố đã dẫn dắt câu chuyện từ chi
tiết đến những vấn đề cụ thể: Sau chiến thế giới lần thứ nhất, tư tưởng chính
trị của giai cấp tư sản là “Pháp - Việt đề huề” và chủ nghĩa dân tộc cải lương.
Nhiều tờ báo của các nhà tư sản mại bản đã đề nghị chính quyền thực dân ban
cho một chế độ tự trị như Canada, Úc hoặc ban cho một hiến pháp miễn là
không xâm phạm đến chủ quyền của nước Pháp. Đó chính là chủ trương “lập
hiến” của Bùi Quang Chiêu.
Ngô Tất Tố đã phản ánh sâu hơn về nhân thân của Bùi Quang Chiêu:
Khi còn lưu học ở Pháp, Bùi Quang Chiêu đã có mối quan hệ chặt chẽ với
ông Phan Chu Trinh và được đông đảo du học sinh An Nam ở Pháp kính
phục. Nhờ việc diễn thuyết công kích chính sách bán rượu, thuốc phiện ở
Đông Dương mà Bùi Quang Chiêu được nhiều người, nhất là người dân Nam
kỳ hoan nghênh, coi Bùi Quang Chiêu như một vị cứu tinh của đất nước. Bùi
Quang Chiêu cũng khiến cho người ta tin rằng nhờ đó mà đất nước Việt Nam
sẽ độc lập, tự do, bình đẳng rồi phú cường làm đàn anh tất cả thế giới… Ngô
Tất Tố mỉa mai, người ta không kịp nghĩ rằng Bùi Quang Chiêu chỉ có một
cái miệng và hai bàn tay trắng trơn, chứ không có phép thần thông gì cả, nên
dù có nói thánh, nói tướng thế nào mặc lòng, nhưng hai bàn tay trắng trơn kia
cũng không thể làm đúng như cái miệng đã nói. Theo tinh thần đó, Ngô Tất
Tố kết luận: “Bùi Quang Chiêu cũng chỉ là người An Nam dù mà cụ vẫn mặc
Tây, ăn cơm Tây, cả nhà đều nói tiếng Tây. Thế là người ta đâm hoài nghi
trong bụng, sau rồi họ nói lên báo, sau rồi họ công kích, sau rồi họ chế giễu,
sau rồi họ thóa mạ”[18, tr.599].
3.3.3. Phương pháp loại suy
Phương pháp loại suy (raisonnement par analogie) là phương pháp tác
giả sử dụng để so sánh, đối chiếu hai sự kiện xa cách nhau trong không gian
và thời gian nhưng lại giống nhau về hiện tượng hoặc về bản chất. Theo kết
quả khảo sát, đây là phương pháp mà Ngô Tất Tố sử dụng khá phổ biến trong
các tác phẩm báo chí của mình.
101
Trong tác phẩm Ông Pagès chắc có đọc qua Trang Tử, Ngô Tất Tố đã
mượn chuyện xưa để nói chuyện nay, so sánh hai câu chuyện một ở Tàu và
một ở ta. Ông mở đầu:
“Cái chuyện hai ông Diệp Văn Kỳ và Bùi Thế Mỹ bị ông thống đốc
Pagès đuổi ra khỏi Nam kỳ, bạn đọc chắc đều biết cả. Bấy giờ
Tương lai tuy chưa ra đời, chúng tôi cũng nghe nhiều dư luận đối
với việc ấy! Người ta bàn tán om sòm một hồi, rút lại, ai nấy chỉ
muốn hiểu rõ cái cớ vì sao mà hai bạn đồng nghiệp chúng tôi lại bị
đuổi”.
(Tương lai, số 12, 1937)
Theo Ngô Tất Tố, ông Kỳ và ông Mỹ đều mắc hai tội: một là, hai ông
dám công nhiên viết báo khi chưa được phép của chính quyền; hai là, ông Ký
cổ động cho hội nghị Đông Dương, còn ông Mỹ công kích một chuyện cờ
bạc; cả hai ông không phải người Nam kỳ vốn được “hưởng tất cả những
quyền lợi của một công dân Pháp”[113, tr.36], nhất là về hoạt động báo chí.
Cố nhiên tội trạng của hai ông không đáng phải trục xuất, nhưng hội
Liên hữu của báo giới Nam kỳ đã có lời xin ông thống đốc Nam kỳ không nên
trị họ bằng cách nghiêm ngặt như vậy, nhưng không được, ông Kỳ, ông Mỹ
vẫn bị trục xuất khỏi đất Nam kỳ. Vấn đề là ngay sau đó, phán quyết được xét
lại, thống đốc đã xóa nghị định trục xuất, cho phép hai ông Kỳ, Mỹ lại được
vào đất Nam kỳ. Ngô Tất Tố đã lý giải vấn đề đó:
“Trong việc này có lẽ Pagès đại nhân vì yêu hai ông Kỳ, Mỹ mà muốn
bắt chước Thư Công nước Tống. Ông đó là người rất thích chơi khỉ,
trong nhà nuôi khỉ rất nhiều. Vì muốn hạn chế lương ăn của chúng,
Thư Công gọi chúng và hỏi: “Cho mi sớm bốn chiều ba hạt dẻ, mi
bằng lòng không?”. Các khỉ đều cau mày tỏ ý bất bình. Ông ta đổi lại:
“Cho mi sớm ba chiều bốn hạt dẻ, mi bằng lòng không?”. Đàn khỉ
nhảy nhót tỏ ý mừng rõ. Đó là chuyện ở Trang Tử”.
(Tương lai, số 12, 1937)
Trong đầu đề của tác phẩm, Ngô Tất Tố đã đặt câu hỏi “Ông Pagès chắc
có đọc qua Trang Tử?” cho nên ngài mới làm đúng như hệt. Ngài rất yêu hai
102
ông Kỳ, Mỹ và muốn làm ơn cho họ, nhưng mà làm ơn bằng cách nào, khiến
cho họ phải cảm ơn mình? Quyền hành sẵn ở trong tay, ta hãy đuổi cổ họ đi
để cho họ sợ, rồi lại tha cho họ lại, để cho họ mừng. Đương sự mà mừng, tất
nhiên họ phải cảm phục cái lượng hải hà của mình đã đối với họ. Ngô Tất Tố
kết luận: “Đó cũng như Thư Công cho khỉ ăn sớm ba chiều bốn vậy. Hoặc giả
thế chăng? Nếu không thế, cớ sao tự ngài lại bãi bỏ luôn nghị định của ngài?
Thế ra ông thống đốc Pagès năm nay phản đối ông thống đốc Pagès năm
ngoái à?”[18, tr.347].
Tương tự như câu chuyện trên, trong tác phẩm Ông Thống sứ với trận
mưa hôm nọ, người đọc thấy có sự giống nhau giữa hai sự kiện cách xa nhau
về không gian và thời gian: “Hậu Hán thư chép rằng: Trịnh Hoằng khi mới
được bổ làm quan, trong hạt đương hạn hán, suốt cả mùa Xuân không mưa.
Ông ta bèn giảm bớt sưu thuế, bỏ những chánh sự phiền hà cho dân. Thế rồi
xe của ông ta đi tới đâu thi trời mưa tới đó. Bởi vậy thiên hạ mới gọi những
hạt mưa ấy là những “trận mưa theo xe”.
Dẫn chuyện xưa là để Ngô Tất Tố liên hệ với chuyện ngày nay: “Các
bạn nghĩ coi: quan nhỏ mọn như Trịnh Hoằng còn làm náo động lòng trời
huống chi Tholance đại nhân, một vị thủ hiến Bắc Kỳ, đại diện cho cả
hai chính phủ Nam triều và Pháp quốc, sự “ở” sự “đi” của ngài há chẳng
xoay được vận trời hay sao? Dù trong lúc trọng nhậm xứ này, ngài không
thèm làm những việc Trịnh Hoằng đã làm, nhưng cái chính tích của ngài
cũng có nhiều điều đáng chép...”.
Theo Ngô Tất Tố, hai sự kiện có sự khác nhau về không gian và thời
gian, nhưng giữa hai sự kiện có sự giống nhau ở hiện tượng và trái ngược về
bản chất. Ngô Tất Tố mỉa mai: “Vậy thì những hạt mưa rào hôm nọ có thể
cho là một cuộc tiễn chân Tholance đại nhân. Nó cũng linh nghiệm như
những ”trận mưa theo xe” của Trịnh Hoằng, nhưng một đằng mưa trong khi
đến, một đằng mưa trong khi đi, khác nhau chỉ có chỗ đó”[18, tr.346].
103
Tiểu kết Chƣơng 3
Trong Chương 3, luận án đã đi sâu phân tích và làm rõ các nội dung sau:
Một là, Đầu đề trong tản văn báo chí của Ngô Tất Tố không có sự bó
buộc, cậu nệ, có mối quan hệ chặt chẽ với nội dung của tản văn. Ngô Tất Tố
có sự thay đổi linh hoạt cú pháp trong cách đặt đầu đề, khiến cho đầu đề tản
văn báo chí của ông vừa bảo đảm yêu cầu đối với một tác phẩm báo chí vừa
bảo đảm tính mới mẻ, giàu sức cuốn hút thẩm mỹ.
Hai là, sức sáng tạo trong kết cấu tản văn báo chí của Ngô Tất Tố được
thể hiện rất rõ qua các yếu tố của cấu trúc nội dung tác phẩm: 1) Phần mở đầu
với các cách thức và nghệ thuật đặt vấn đề; 2) Phần diễn giải nội dung; 3) Kết
luận nội dung. Trong đó, phần kết luận là phần khái quát vấn đề và những lời
bình với nội dung mở hoặc đóng.
Ba là, Sức thuyết phục logic của tản văn báo chí của Ngô Tất Tố được
thể hiện qua phương pháp diễn dịch, quy nạp và loại suy. Trong đó, Ngô Tất
Tố chủ yếu sử dụng phương pháp diễn dịch và loại suy.
104
Chƣơng 4
PHONG CÁCH NGÔN NGỮ TẢN VĂN BÁO CHÍ CỦA NGÔ TẤT TỐ

Ngôn ngữ là một trong những yếu tố sống còn của tác phẩm báo chí.
Theo Tạ Ngọc Tấn, căn cứ vào những quy luật nội tại của hoạt động sáng tạo
báo chí cũng như mối quan hệ của báo chí với các lĩnh vực khác của đời sống
xã hội là thừa nhận tồn tại của phong cách ngôn ngữ báo chí trong các tác
phẩm báo chí [108]. Khảo sát tản văn báo chí của Ngô Tất Tố cho thấy, mỗi
tác phẩm được ông thể hiện có một phong cách ngôn ngữ khác nhau không có
sự trùng lặp và tẻ nhạt; ông sử dụng linh hoạt nhiều lớp từ; luôn đổi mới cách
diễn đạt truyền thống và sử dụng ngôn ngữ trào phúng, châm biếm để tăng
sức biểu cảm của những tản văn báo chí của mình.
4.1. Sử dụng linh hoạt nhiều lớp từ
4.1.1. Sử dụng từ thuần Việt
4.1.1.1. Lớp từ phổ thông
Vùng quê Kinh Bắc, quê hương của Ngô Tất Tố là một trung tâm văn
hóa của vùng đồng bằng Bắc Bộ. Gần như cả cuộc đời viết văn, làm báo, ông
gắn bó với đời sống ở làng quê và chính điều đó đã giúp Ngô Tất Tố hiểu sâu
sắc nếp cảm, nếp nghĩ, lời ăn tiếng nói của người nông dân; giúp ông tích lũy
được một vốn phương ngữ giàu có để đưa vào những tác phẩm báo chí và các
tác phẩm văn học của mình.
Qua khảo sát các tản văn báo chí của Ngô Tất Tố, chúng tôi thấy ông
đã sử dụng hàng ngàn lượt từ ngữ gắn với đời sống sinh hoạt đời thường, nhất
là đời sống của người nông dân. Trong đó, có những từ chiếm tỷ lệ cao như:
“ruộng” 181 lượt; “trâu” 104 lượt; “lúa” 98 lượt; “cày” 79 lượt; “khoai” 25
lượt; “lợn” 34 lượt, “ruộng” 27 lượt, “bò” 19 lượt... Ngoài ra, những từ như:
bừa, sào, mẫu, mồi rơm, thước, thuổng, cuốc, xẻng, thúng, xảo, mẹt, đòn
gánh… cũng được sử dụng phổ biến tạo nên không khí làng quê thấm đẫm
trong từng bài viết của Ngô Tất Tố.
Có thể kể ra một số từ tiêu biểu như: ậm ọe; bố cu; bố đĩ; bô bô; con
nít; hằm hằm; hục hặc; nắc nỏm; nộm nạm; ngắc ngoải; ngủng nghỉnh; vọc
105
vạch; vừa vặn… hay những từ ghép vừa thuần Việt vừa có sự khu biệt về ngữ
nghĩa như: đớ lưỡi; nghe lỏm; nói toẹt; nhè dịp; rảnh việc; ma nào; bưng
miệng; kể nốt; chết quách, khéo nhử; làm đỏm… Ngô Tất Tố cũng mạnh dạn
sử dụng các từ phổ thông, như: nhời (lời); dục dịch (rục rịch); binh (bênh
vực); mần (làm); dái cá (rái cá); lạt (nhạt); chút tội (trút tội); róc (cạn); bồ côi
(mồ côi); chi (gì); nền chi (cho nên); dưa dứa (từa tựa); chưng muốn (vì
muốn); mần thinh (làm thinh); van (gọi)...
Các tổ hợp từ mang tính khẩu ngữ cũng được tác giả sử dụng hết sức tự
nhiên như đổ máu mồm, bưng miệng, khô bỏ mẹ, bạn nối khố, choang cho
một mẻ, ăn phải bả, bị chết toi, chẳng ma nào, khểnh cang, ở cạnh nách, khéo
nhử, đẻ thả cửa, nói dại đổ đi, quất vào đít...

Trong tác phẩm Ông Phạm Quỳnh là bạc tình lang, Ngô Tất Tố viết:
“Trước kia màu hồ còn đượm, xã hội còn kẻ đón người đưa, thì đối
với chị ả Nam Phong, tiên sinh cũng hết lòng chải chuốt, khiến cho
ả đúng tuần trăng mà ra mặt với đời. Vài năm gần đây, chị ả vì
phấn lạt hương phai, tiên sinh ruồng rẫy ngay ả, mà ôm ái tình
đi sang con đường chính trị. Tiên sinh chẳng ỏ ê đến ả, để cho ả
sống dở chết dở, thoi thóp, ngắc ngoải...”.
(Phổ thông, số 65, 1930)
Có thể thấy, các từ như: ả, chị ả, ỏ ê, ruồng rẫy, ôm, thoi thóp, ngắc
ngoải; hay các tổ hợp từ như: kẻ đón người đưa, ra mặt, phấn lạt hương phai,
sống dở chết dở… đã góp phần làm cho các câu văn vừa bộc lộ tính chân thực
của sự kiện vừa là lời bình luận xác đáng, làm cho thông tin đưa ra có sức
truyền cảm và tác động mạnh mẽ đối với người đọc.
Lời ăn tiếng nói hàng ngày, mang đậm tính dân giã của làng quê Bắc bộ
được Ngô Tất Tố khai thác triệt để, như trong tác phẩm Con cháu khôn hơn
ông vải ông đã dùng những từ như coi, ngó, bỏ ráo, chẳng mần vua thì mần
quan. Ngô Tất Tố sử dụng cả những từ ngữ mang tính xuề xòa của người
nông dân như trong tác phẩm Kiểu đất ở phố Hàng Trống: “Cái ngôi đền ở
giữa phố choèn choèn bằng cái quán nước, thè lè ra mép đường đi, chẳng
biết là thờ chi mà coi bộ sầm uất hết sức”; hay trong tác phẩm Ông Thông
106
Reo dám tiết lộ bí mật của ông Phạm Quỳnh: “Ông Thông Reo, người viết
báo Trung lập, hôm nọ đã bô bô đem cái việc ấy nói toẹt lên báo rồi”...
Trong tác phẩm Có người bảo ông Nguyễn Văn B. thất tiết, Ngô Tất Tố
đã sử dụng những từ ngữ mang tính chua ngoa, đáo để như: “ổng ăn dưng
ngồi rồi đã gần một năm rồi độ này ngứa nghề lại vào làm quản lí báo Công
luận”; “nói ra thì ngứa máu ông Phan Khôi”…
4.1.1.2. Từ địa phương
Từ địa phương hay còn gọi là phương ngữ “là một thuật ngữ ngôn ngữ
học để chỉ sự biểu hiện của ngôn ngữ toàn dân ở một địa phương cụ thể với
những nét khác biệt của nó với ngôn ngữ toàn dân hay với một phương ngữ
khác”[6, tr.24]. Các nhà nghiên cứu ngôn ngữ thường chia phương ngữ thành
3 nhóm, phương ngữ phương Bắc bộ, Trung bộ và Nam bộ.
Theo khảo sát của chúng tôi, Ngô Tất Tố sử dụng nhiều phương ngữ
Bắc bộ và phương ngữ Nam bộ trong các tản văn báo chí của ông. Đây cũng
là điều hợp lý, bởi Ngô Tất Tố trưởng thành ở Bắc bộ, những đã có quá trình
sống và làm việc ở Nam bộ những năm đầu bước chân vào làng báo, cho nên
ông có những trải nghiệm và hiểu biết nhất định đối với phương ngữ ở hai
vùng này. Chính vì thế, có thể bắt gặp nhiều phương ngữ quen thuộc, phổ
biến ở các vùng quê của khác nhau của đất nước trong tản văn báo chí của
Ngô Tất Tố.
Những phương ngữ của Nam bộ như: quá giang, mần thinh, lẹ, phải
quấy, lạ hoắc, thiệt tình; bề nào, khoái chí, mấy bữa rày, mừng quýnh, đi riết,
không dè, om sòm, tiệm đồ, tính ém, lằn xằn, lóng này, đưa rước, thâu tiền,
đặng, nổ vỏ ruột, châu thành, lứng khứng, liệng xà ngầu, tiệm giặt ủi, dằn
xuống, phải quấy, mần ngơ, răn bảo, quở trách, như vầy, lãnh, lần lần, chánh
phủ, rưa rứa, nói xạo, cãi lộn…
Những phương ngữ của Bắc bộ như: ngờ vơ ngờ vạ, ám nhận, già nửa,
non nửa, nói suông, dăm ba câu, dấm dúi, trổ ra, vụng dại, lên vù vù, chị ả,
bẽ bàng, trơ mắt, thừa sức, rục rịch, năn nỉ, lờ đi, nói bô bô, to như trời, chắc
như lèn, nói toạc, xúc xiểm, vạ vật, bĩu môi, mánh khóe, nói quấy nói quá, hút
cho đẫy, chướng mắt, cũ rích, tràn cung mây, buồn tênh, chạy kèm kèm, nhiễu
chuyện, mặt dầy…
107
Có thể khẳng định rằng, trình độ sử dụng phương ngữ của Ngô Tất Tố
rất già dặn và điêu luyện, chính điều đó đã góp phần quan trọng vào thành
công của những áng văn “hoàn toàn phụng sự dân quê” của ông, đưa ngôn
ngữ tản văn báo chí rất gần gũi với lời ăn tiếng nói của người dân quê, tạo
không khí nông thôn cho các tác phẩm viết về đề tài nông dân rất hiệu quả.
4.1.2. Sử dụng từ Hán - Việt
Chữ Hán theo dòng chảy lịch sử - văn hóa vào nước ta từ thế kỷ thứ
nhất trước Công nguyên. Trong một thời gian rất dài, chữ Hán được dùng là
văn tự chính thống của nhà nước Việt Nam. Người Việt dùng chữ Hán để đọc
những văn bản, giấy tờ, công văn bằng chữ Hán theo âm Hán - Đường, một
cách phát âm riêng của người Việt đối với chữ Hán, gọi là âm Hán - Việt.
Những chữ Hán dùng trong tiếng Việt, biểu hiện nghĩa từ vựng tiếng Việt, có
thể gọi là từ Hán - Việt [43].
Do tản văn báo chí có sự kết hợp giữa ngôn ngữ sự kiện với ngôn ngữ
nghệ thuật nên cho phép sử dụng các lớp từ thuộc nhiều phong cách ngôn
ngữ khác nhau. Dĩ nhiên, việc khai thác và sử dụng chủ yếu lớp từ nào là tùy
thuộc ở kiểu lựa chọn của người viết.
Là một nhà Nho có vốn kiến thức uyên thâm, Ngô Tất Tố đã phát huy
những ưu thế từ vốn Hán học, vốn văn hóa phương Đông mà trước hết là lớp
từ Hán - Việt. Khảo sát trong 1.147 tác phẩm báo chí của Ngô Tất Tố cho
thấy, có tới hàng chục ngàn lượt từ Hán - Việt được sử dụng, trong đó, nhiều
từ xuất hiện với tần suất cao như: chính phủ 470 lượt; tiên sinh 204 lượt; dân
tộc 137 lượt; dân biểu 131 lượt; kinh tế 84 lượt; tổng lý 66 lượt; chính sách 63
lượt; nghị viện 59 lượt; hiến pháp 41 lượt; chủ trương 34 lượt…
Là một nhà Nhà Nho, Ngô Tất Tố dĩ nhiên thấy được tiềm năng to lớn
của từ Hán - Việt và ông đã khai thác và sử dụng chúng một cách hiệu quả
trong các tác phẩm của mình. Cùng viết tản văn báo chí để châm biếm, đả
kích cái xấu, cái lạc hậu, nhưng Hồ Chí Minh chủ trương khai thác lớp từ
thuần Việt thì Ngô Tất Tố lại chủ yếu sử dụng lớp từ Hán - Việt. Qua cách sử
dụng của Ngô Tất Tố, các từ Hán - Việt đã tạo được những liên tưởng
108
bất ngờ, thú vị, những hàm nghĩa tinh tế làm bật lên tiếng cười châm biếm
sâu cay. Trong tác phẩm Giết người lấy của, ông viết:
“Một số rất lớn cụ lang, ông lang, chú lang, anh lang kia đều là tổ
sư, thánh sư, tiên sư và kỹ sư của nghề bịp… Trớ trêu thay, những
kẻ vốn là thầy đồ dốt, là anh chàng thi trượt bằng tiểu học, là đứa
vô nghề nghiệp, là những bọn chữ Tây chữ Tàu chẳng biết bỗng
nhiên thành lang mà lại là tổ sư, thánh sư, tiên sư, kỹ sư hành nghề
bằng thủ đoạn “mỗi người bị lừa một lần thì tôi sẽ trở thành một
nhà triệu phú”.
(Đông Pháp, số 5541, 1942).
Trong tác phẩm Cho no đủ đã, Ngô Tất Tố viết:
“Lại biết bao những tài chủ, nghiệp chủ và điền chủ cùng những danh
công, đại thương lập nên những công ty vĩ đại, những cổ phần, những
thương phiếu trên nghị trường quốc tế có địa vị cao quý làm cho bao
kẻ thèm muốn cái xứ bờ xôi ruộng mật. Lại những cảnh tượng xa
hoa trong các nơi thành thị, những công sở, những biệt thự, những lâu
đài kiến trúc kinh phí hàng năm kể vạn, kể triệu”.
(Thời vụ, số 86, 1938)
Chỉ một đoạn văn ngắn mà có hàng loạt từ Hán - Việt như tài
chủ, nghiệp chủ, điền chủ, danh công, đại thương, công ty, vĩ đại, cổ phần,
thương phiếu, nghị trường, quốc tế, địa vị, cao quý, cảnh tượng, kiến trúc,
kinh phí, vạn, triệu. Cách sử dụng từ Hán - Việt của Ngô Tất Tố cho thấy,
đằng sau cái vẻ sang trọng của những từ Hán - Việt, ông đã phác họa lý lịch
cá nhân của những quan lại công chức, những người đóng vai trò ông chủ
trong xã hội từ thủ hiến, thống đốc người Pháp cho đến quan lại hàng tỉnh,
hàng huyện, viện trưởng dân biểu, nghị viện, bọn địa chủ... phần nhiều là
những bọn “ăn chó cả lông ăn hồng cả hột”, những kẻ vơ vét, bóc lột đến
cùng kiệt bờ xôi ruộng mật ở xứ xở này.
4.1.3. Sử dụng lớp từ ngữ gốc Âu
Từ ngoại lai “là những từ nước ngoài được vay mượn đã đi vào hệ thống
của tiếng dân tộc để chỉ những đối tượng, hiện tượng riêng có trong tiếng nước
ngoài đó”[60, tr.44]. Trong tiếng Việt, bên cạnh các từ ngữ gốc Hán như đã nêu
109
trên, phần nhiều các từ ngoại lai có nguồn gốc từ châu Âu. Có thể nói rằng, việc
sử dụng lớp từ gốc Âu trong tản văn báo chí của Ngô Tất Tố là một trong những
thủ pháp hiện đại trong phong cách ngôn ngữ của ông.
Qua khảo sát tản văn báo chí của Ngô Tất Tố, dù tổng hợp chưa đầy đủ
nhưng chúng tôi thấy đã có tới 1.230 lượt từ ngữ gốc Âu trong tản văn báo chí
của ông với nhiều hình thức thể hiện khác nhau.
4.1.3.1. Các từ chỉ thời gian
Các từ chỉ thời gian trong tản văn báo chí của Ngô Tất Tố phổ biến là
các từ tiếng Pháp chỉ các tháng trong năm như Janvier, Mars, Mai, Avril,
Septembre, Octobre, Décembre… Theo nghiên cứu của chúng tôi, việc sử
dụng tiếng Pháp để chỉ thời gian trong các tác phẩm báo chí không phải riêng
của Ngô Tất Tố, cách sử dụng rất phổ biến ở các trong nhiều tác phẩm báo chí
của các tác giả khác cùng thời. Có lẽ, trong bối cảnh giao thời về văn hóa, ở
nước ta lúc đó tồn tại hai loại lịch, lịch truyền thống (âm lịch) và lịch của
người Pháp du nhập vào (dương lịch). Do vậy, chắc hẳn rằng, trên báo chí sử
dụng các từ tiếng Pháp chỉ thời gian là tất yếu. Cách dùng này thường có sự
xen ghép với các nội dung liên quan, như:
- Ngày 1’ Janvier.
- Chẳng biết vì sao hồi tháng Avril năm ngoái…
- Số báo ra ngày 4 Avril năm 1931.
- Trên Thực nghiệp dân báo số ra ngày 30 Mai, có đăng tin rằng…
4.1.3.2. Các từ chỉ tên người
Cũng như các ngôn ngữ khác, tên riêng tiếng nước ngoài trong tiếng
Việt là một tất yếu và bình thường của tiếp xúc ngôn ngữ trong quá trình giao
lưu văn hóa giữa các dân tộc [52]. Tản văn báo chí của Ngô Tất Tố là một bức
tranh toàn cảnh về xã hội Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám, với rất
nhiều nhân vật Tây có, ta có. Hiển nhiên, tác giả phải nêu tên những nhân vật
đến từ nước ngoài. Khảo sát cho thấy, Ngô Tất Tố có ba cách nêu tên các
nhân vật người nước ngoài:
- Tên các nhân vật được trình bày giữ nguyên tên họ như trong tiếng
nước ngoài, như: De la Chevrotière, Gandhi, M.Coulau, Poincaré, Jeanne
D’Arc, Caroly, Hélène, Gandhi, Lord Jruwin, Pharr, Juiles Haay, Roosevelt
Mussolini…
110
Một số người gốc Á nhưng có tên đã được phiên âm sang tiếng Anh
hoặc tiếng Pháp cũng được giữ nguyên như tên gốc, như: Hu Lin, Chang Chu
Lân, Wu Tinh Chang…
- Tên các nhân vật được phiên âm sang tiếng Việt cho dễ đọc, dễ hiểu,
như: Hit-le (Hitle), Găng-đi (Gandhi), Lâm Khẳng (Abrahm Lincoln), Mút-
xô-lô-ni (Mussoloni), Gô đa (Godard), Nã Phá Luân (Napoleon).
- Tên các nhân vật đã được phiên âm sang tiếng Việt nhưng được Việt
hóa nhằm mục đích dễ đọc, dễ nhớ như: lão Mút (Mussoloni), lão phó sơn họ
Hít (Hitle), Xăm tướng quân (Xambeclanh), Đa tướng công (Daladie)… Tuy
nhiên, tên gọi của nhiều người được Việt hóa trong tản văn báo chí của Ngô
Tất Tố là một trong những thủ pháp nhằm châm biếm, đả kích.
4.1.3.3. Các từ chỉ tên riêng
Trong chế độ thực dân, nửa pk trước Cách mạng tháng Tám, phần lớn
các tác phẩm báo chí của Ngô Tất Tố có đề tài chính trị, đề tài quốc tế, do
vậy, ông phải sử dụng nhiều tư liệu, nguồn tin từ nước ngoài, chính vì thế,
phần lớn các các từ gốc Âu chỉ tên riêng là về tên các tờ báo, các hãng thông
tấn, các tổ chức quốc tế, như: La Revue Franco-Anamite (Pháp Việt Tạp chí),
Le Peuple, Ami du Peuple, Ami du Peuplé (Bạn dân), Tribune Indigène (Bản
xứ diễn đàn), Tribune Indochinoise, Le Journal, La Dépêche, Impartial, La
Renaissance, L’Effort, Berliner Bersen Zeitung, L’Illustration; Dépêche (tên
hãng điện tín), Arip (tên hãng điện tín), S.F.I.O (tên viết tắt của đảng Xã hội).
Ngoài ra, Ngô Tất Tố còn dẫn nguồn từ các báo có tên phiên âm từ
tiếng Trung Quốc, như: Sun pao (Tân báo), Sin watt pao (Bình dân), Ta Kung
pao (Đại Công báo).
Một số địa danh quốc tế được Ngô Tất Tố sử dụng bao gồm tên nước,
tên địa phương, tên đường phố, tên các công ty, các tòa nhà, cung điện, tàu
xe… như: Roumani, Paris, Colombo, Paul Blanchy, Bride, Giec Club,
Canton, Cap Tourane, Service d’Immigration…
Bên cạnh các từ gốc Âu được Ngô Tất Tố giữ nguyên gốc sử dụng
trong các tản văn của mình, một số từ tên riêng đã được phiên âm, Việt hóa
cũng được sử dụng như: Anh Cát Lợi (England), Ba Lê (Paris), Nữu Ước
(New York); Sở T.S.F, Sở dây thép, nhà ga (gar); bót, sở di trú (Service d’
Immigration)…
111
4.1.3.4. Một số từ phổ thông
Người Pháp đô hộ Việt Nam, trong sự xâm lăng chính trị có sự xâm
nhập về văn hóa, chính vì thế những từ gốc Âu có tính chất phổ thông cũng
xuất hiện nhiều trong tản văn báo chí của Ngô Tất Tố, như:
Sâm banh (Champagne), áo bành tô, tarif (hóa đơn), cu ly (người lao
động), nhà Đoan (phòng thuế, hải quan), Annamite (người Việt Nam), Đét xe
(tráng miệng), danh từ (nom), động từ (verbe), hình dung từ (adjectif),
kilôgam, mandat (ngân phiếu), chủ từ (suject), phốt (lỗi), me xừ, loong toong
(người giúp việc văn phòng), madam (bà), mademoiselle (cô), boong tàu
(surpont), sốp phơ (tài xế), áo ba-đờ-suy, giầy săng đá, “cua rơ” (vận động
viên xe đạp), va li, mũ kê bi, mũ cát két, ca-ta-lô, cà phê, cùi dìa, phóng sét…
4.2. Sáng tạo trong việc sử dụng các tình thức biểu cảm
Trong hoạt động sáng tạo của mình, Ngô Tất Tố luôn đổi mới cách diễn
đạt truyền thống như sử dụng điển tích, điển cố, những chuyện có sẵn trong
sử sách; những thành ngữ, tục ngữ, ca dao, những giai thoại, truyền thuyết để
tăng giá trị biểu cảm và làm nổi bật vấn đề mình định viết.
4.2.1. Sử dụng điển tích, điển cố
Qua khảo sát Tổng tập tản văn Ngô Tất Tố, trong số 1.147 tản văn được
khảo sát có tới 213 tác phẩm có sử dụng điển tích, điển cố (chiếm 18%). Hầu
hết các điển tích được Ngô Tất Tố sử dụng đều có nguồn gốc từ di sản văn
hóa của người Trung Quốc, từ kho tàng tri thức Hán học… được vận dụng
vào các tác phẩm báo chí của ông với những tình huống nội dung cụ thể. Ngô
Tất Tố sử dụng các điển tích, điển cố có tác dụng soi sáng các sự kiện, thông
qua sự đối sánh thời đại xưa và cuộc sống xã hội hiện tại. Đó cũng là đặc
trưng phong cách của cây bút cựu học, bởi đó là một tập quán quen thuộc
trong văn học Việt Nam trung cận đại [55].
Ngô Tất Tố sử dụng điển tích, điển cố không hề cầu kỳ, sách vở mà hết
sức tự nhiên, có dụng ý rõ ràng, qua đó làm nổi bật những sự việc mà tác giả
định nói, định viết. Hầu hết các điển tích, điển cố hay giai thoại được đặt
trong tương quan chuyện xưa chuyện nay để người đọc tự rút ra kết luận, tạo
nên những liên tưởng bất ngờ, gây hứng thú cho người đọc. Sự đan xen giữa
tích cũ, chuyện xưa với những sự kiện, hiện tượng mới không chỉ làm gia
112
tăng sức biểu cảm của ngôn từ, mà còn làm cho sự phê phán hay mỉa mai,
châm biếm trở nên thâm thúy nhẹ nhàng, dễ tiếp nhận hơn... Có thể kể hàng
loạt trường hợp như: Dùng chuyện Trịnh Hoàng trong Hậu Hán thư để đả
kích tên thống sứ Bắc kỳ Tholance; lấy tích Dương Tấn trong truyện Phong
thần có đủ bảy hai phép hóa thân để chế diễu Phạm Quỳnh sáng lập ra Hiến
pháp tam giác; lấy chuyện vợ Chu Mãi Thần để so sánh với tình thế oái oăm
của báo Tân Việt; lấy chuyện Lâu Sư Đức nhà Đường khuyên người em khi đi
làm thái thú phải tốt nhịn để dè bỉu bãi nước bọt trên mặt ông tuần phủ
Nguyễn Doãn T.; lấy giai thoại Thư công trong Trang Tử cho khỉ ăn sáng ba
chiều bốn để vạch mặt trò hề mị dân của thống đốc Nam kỳ Pagés...
Tuy nhiên, khảo sát Tổng tập tản văn Ngô Tất Tố cho thấy, những điển
tích, điển cố, giai thoại được Ngô Tất Tố sử dụng trong những tản văn báo chí
của mình không hoàn toàn giống như điển tích hoặc cách sử dụng điển tích
trong các tác phẩm cổ văn. Theo lối văn của cổ nhân, việc sưu tầm những lời
vàng ý ngọc của cổ nhân, những điển tích, điển cố được coi như một trong
những tiêu chuẩn định giá thẩm mỹ cho tác phẩm. Càng tầm chương trích cú,
càng sử dụng nhiều điển tích, điển cố càng được coi là uyên bác, trang trọng.
Với những tản văn báo chí của Ngô Tất Tố, sự ảnh hưởng của tập quán sáng
tác văn học là có nhưng ở mỗi tác phẩm đã có sự tuân thủ theo những quy luật
của báo chí. Những điển tích, điển cố được ông sử dụng chỉ là phương tiện, là
một trong những thủ pháp nhằm nâng cao hiệu quả thông tin cũng như tác dụng
xã hội của tác phẩm báo chí của mình.
Cách đề dẫn điển tích, điển cố của ông cũng rất linh hoạt, khi thì kể toàn
văn, khi thì chỉ trích dẫn một phần, khi thì liên thông giữa các tác phẩm báo chí
với nhau. Tất cả cho thấy bút lực, kiến văn trong tản văn báo chí của Ngô Tất
Tố hết sức đa dạng, linh hoạt. Phong cách riêng của Ngô Tất Tố là ở chỗ ông
mượn những điển tích, nhưng giải phóng chúng khỏi bộ cánh kinh viện và
không khí học thuật trang trọng [54]. Qua đó, “làm mềm hóa” những điển tích,
điển cố theo hướng giai thoại hóa, làm cho người đọc có thể dễ hiểu, dễ nhớ,
hiểu được chuyện xưa để biết chuyện nay. Đó cũng là một trong những yếu tố
tiền đề tạo nên tính hấp dẫn của tác phẩm báo chí, tạo nên phong cách riêng của
Ngô Tất Tố thể hiện qua những tác phẩm báo chí của mình.
113
Một trong những thủ pháp quen thuộc trong những tản văn báo chí của
Ngô Tất Tố là sự biến hóa của những con chữ “là hình thức dùng các hiện
tượng đồng âm, đa nghĩa trong ngôn ngữ nhằm tạo ra một tác dụng nhất định
như bóng gió, châm biếm, hài hước... trong lời nói”[131, tr.172]. Nhờ đó,
nâng cao giá trị biểu cảm cho ngôn từ, làm cho lời nói của chủ thể phát ngôn
trở nên sinh động, hấp dẫn và sâu sắc hơn, để lại dấu ấn nhất định trong lòng
người đọc.
Trước hết, Ngô Tất Tố dựa vào tính phân tiết của tiếng Việt để thực hiện
những hình thức tách ghép từ khiến cho cách dùng từ trong tản văn bộc lộ
những hàm nghĩa hết sức tinh tế. Chẳng hạn, nhân sự kiện báo Tổ quốc Việt
Nam đăng tin Hoàng Trọng Phu từ chức tổng đốc Hà Đông nhưng sau lại
được giữ lại thêm một thời gian nữa, Ngô Tất Tố viết: “Nếu không, nếu tỉnh
Hà Đông bị thiếu một ông tổng đốc thì tổ quốc có khi sẽ thành tổ... cò”. Cái tổ
quốc ở đây là của tờ báo Tổ quốc Việt Nam và một ông tổng đốc Hà Đông từ
chức thì cái nhà sẽ thiếu một cột tức là tổ quốc (báo Tổ quốc Việt Nam) sẽ đổ,
vậy quốc dân sẽ ở vào đâu? Cách tách ghép từ tổ quốc thành tổ cò tạo nên
một tiếng cười hài hước nhẹ nhàng, dí dỏm.
Lại có những trường hợp, Ngô Tất Tố khai thác các bộ phận trong cấu
trúc âm tiết như thanh điệu, phần vần để tạo nên những kết hợp âm thanh
nhằm cung cấp những nét nghĩa mới, những lượng thông tin mới. Chẳng hạn,
phê phán chủ trương “Pháp - Việt đề huề”, Ngô Tất Tố viết: “Cái lý thuyết ấy
thì rất hay, nhưng có một điều rất khó là khi ngẫm xem thân thế của hai bên
như một kẻ nằm trên giường, một người nằm dưới đất, một kẻ ăn thịt, một
người gặm xương thì cái tinh thần thân ái còn lâu mới thắm thiết được. Ấy,
hiệp tác sinh ra hiếp tác cũng vì thế”[18, tr.514]. Cách dùng từ hiệp tác và
hiếp tác trong câu văn trên làm cho người đọc phải suy nghĩ để nhận ra bản
chất vấn đề mà tác giả đang nói đến. Đằng sau cặp từ hiệp tác hay hiếp tác là
một thủ đoạn lừa bịp, một trò hề, một hài kịch. Có khi, tiếp thu truyền thống
nói có vần có nhịp của người Việt, Ngô Tất Tố viết những câu văn hết sức
uyển chuyển, giàu nhạc điệu.
Nhiều trường hợp, Ngô Tất Tố khai thác hiện tượng đồng âm trong
tiếng Việt để gia tăng lượng thông tin cho câu văn, gây hứng thú cho người
đọc. Có thể kể một số trường hợp như Tiên sinh Thông Reo, ông bạn đồng
114
nghiệp với mình hàng ngày vẫn reo ở báo Trung Lập; hay Thanh Hóa là
một tỉnh hiền lành nhất ở Trung Bắc kì, trong khi phong trào chính trị
đùng đùng nổi lên khắp xứ, tỉnh ấy vẫn thái bình hơn tỉnh Thái Bình, không
xảy ra chuyện gì rắc rối.
Đặc biệt, Ngô Tất Tố rất dụng công khi khai thác hiện tượng đồng âm
trong câu Phạm tiên sinh là một nhà dở học giả, dở chính trị. Ta nhận ra
kiểu chơi chữ đồng âm, giả trong học giả là kẻ, là người (người có kiến thức
sâu rộng) và giả là không phải thật mà là được làm ra với vẻ bề ngoài giống
như thật vì nó gần âm gần nghĩa với từ dở được dùng trong kết hợp dở học
giả, dở chính trị. Qua cách dùng từ đồng âm, Ngô Tất Tố đã khắc họa
được con người Phạm Quỳnh trước những biến thiên của thời cuộc. Cách
châm biếm của ông quả là thâm thúy nhưng cũng rất hóm hỉnh, kín đáo.
Ngô Tất Tố đã khai thác có hiệu quả đặc tính trật tự từ trong tiếng Việt.
Trong tiếng Việt, trật tự các yếu tố trong từ, các thành phần trong câu là hết sức
quan trọng vì nó có thể làm thay đổi ý nghĩa và cấu trúc của các đơn vị trong
tiếng Việt. Phê phán ông Phạm Huy Lục tìm cách chui vào Viện Dân biểu vì
nếu không làm dân biểu thì ông ấy thành ra vô nghề nghiệp, Ngô Tất Tố viết:
“Cái đất nghìn năm văn vật bây giờ đã thành ra đất điều bạc vô lễ, dám biết
tày một ông viện trưởng đã trưởng viện đến hai khóa liền”. Cách đảo trật tự từ
viện trưởng và trưởng viện, trong đó một từ chỉ chức vụ (danh từ), một từ
dùng với nghĩa làm trưởng cái viện (động từ) là để làm nổi bật bản chất cố
đấm ăn xôi, tham quyền cố vị của Phạm Huy Lục.
Trong tác phẩm Cái bất nhã của ông phó sơn họ Hít (Thời vụ, 1938),
ngay từ đầu đề của tản văn, Ngô Tất Tố đã thu hút sự chú ý của người đọc bởi
những câu chữ về danh tính một ông thợ sơn nào đó tên là Hít, cái tên vừa lạ
vừa quen, quen vì bối cảnh sắp vào cuộc chiến tranh do người đứng đầu nước
Đức - Hítle phát động, lạ là vì nay mới biết ông ta là thợ sơn có cái tên được
“Việt hóa” là ông Hít… câu chuyện không dừng ở đó, Ngô Tất Tố dẫn người
đọc tham gia một sự kiện quốc tế: “trong mấy bữa trước, khi mà thủ tướng họ
Mút ngồi lối ở thánh La Mã để thỉnh thoảng nói vài câu chơi, thì Xăm tướng
công và Đa tướng công đã bao phen bay đi bay về trong vùng Ba lê Luân Đôn
115
để duy trì nền hòa bình cho Âu châu”. Đó là một sự kiện quan trọng, nhưng
với người đọc, quan trọng hơn cả là họ được tiếp cận với một loạt những
người quyền cao chức trọng có cái tên rất mộc mạc như thủ tướng họ Mút
(Mutsolini), Xăm tướng công (Xămbeclanh), Đa tướng công (Daladie)…
4.2.2. Sử dụng thành ngữ
Thành ngữ là một tổ hợp cố định có tính hoàn chỉnh về nghĩa, có sắc
thái biểu cảm, có tính hình tượng và tính cụ thể [99]. Thành ngữ là nhóm từ
cố định mà từ xưa tới nay người ta vẫn quen dùng khi nói; thành ngữ kiệm lời
mà đủ ý, hình tượng sinh động; thành ngữ được dùng để làm tăng sắc thái văn
chương, cuốn hút người đọc, người nghe, khiến câu chuyện thêm sinh động,
hấp dẫn. Chính vì vậy, người Trung Quốc đã cho rằng thành ngữ chính là
muối của ngôn ngữ [51].
Có nhiều quan niệm khác nhau về thành ngữ, theo Nguyễn Văn Tu,
“thành ngữ là cụm từ cố định mà các từ trong đó đã mất đi tính độc lập đến
một trình độ cao về nghĩa, kết hợp làm thành một khối vững chắc, hoàn
chỉnh”[124, tr.185]; Tiêu Hà Minh thì cho rằng, thành ngữ “không chỉ cô
đọng, sinh động mà còn là hình ảnh được khái quát hóa mà thành”[67, tr.6].
Trong số các thủ pháp nhằm tạo giá trị biểu cảm cho ngôn ngữ báo chí,
việc sử dụng thành ngữ, tục ngữ đang được xem là một trong những thủ pháp
phổ cập nhất và cũng hiệu quả nhất. Nguyên do là bởi thành ngữ, tục ngữ có
những ưu thế nổi trội như: phong phú về nội dung, đa dạng về hình thức; giàu
hình ảnh và dễ sử dụng [1].
Ngô Tất Tố sống nhiều ở nông thôn, bản tính ông lại thích cái vẻ giản
đơn, mộc mạc, thâm thúy của người dân quê. Chính vì vậy, trong những tản
văn của mình, ông vận dụng khá điêu luyện vốn từ ngữ dân gian, những lời ăn
tiếng nói hàng ngày của người dân. Chính những vốn từ ngữ dân dã đó đã
đem đến cho tản văn của ông một sức hấp dẫn mãnh liệt, biến những bài báo
khô khan của ông thành những câu chuyện thú vị, dễ hiểuvà gần gũi với
người đọc. Khảo sát trên 1.147 tản văn báo chí trong Tổng tập tản văn Ngô
Tất Tố, chúng tôi thấy có tới 747 tản văn có sử dụng thành ngữ (chiếm
65,4%) với tổng số 1710 lượt thành ngữ.
116
Bình quân mỗi tản văn có 2,2 lượt thành ngữ được sử dụng, trong đó có
71 tản văn có từ 5 lượt thành ngữ sử dụng trở lên, cao nhất có 14 lượt thành
ngữ. Ví dụ như tác phẩm Tại sao Đông Phương không muốn có những bài lai
cảo bằng lối văn ông Hoàng Tích Chu (Đông Phương, số 465, 1931) có 10
lượt; tác phẩm Phải! chúng ta nên xét rõ hạng người “nhảy cóc nhảy nhái” là
người thế nào? (Công luận, số 2409, 1932) có 12 lượt; tác phẩm: Nguyễn
Quốc Túy nhớ dai hơn bác Tứ Ly (Thực nghiệp dân báo, số 132, 1933) có 13
lượt; tác phẩm Bỏ làng (Thời vụ, số 1, 1938): có 14 lượt...
Trong các tản văn báo chí của Ngô Tất Tố, các thành ngữ, tục ngữ được
sử dụng khá phổ biến, linh hoạt, có các dạng thức khác nhau hết sức sinh
động và sáng tạo với hai loại: thành ngữ nguyên dạng và thành ngữ đã được
cải biến.
Bảng 4.1. Bảng phân tích thành ngữ
sử dụng trong tản văn báo chí của Ngô Tất Tố
THÀNH NGỮ NGUYÊN DẠNG Thành ngữ đã cải biến
1.215 (70,7%) 503 (29,3%)
Tổng số: 1.718 thành ngữ (100%)
4.2.2.1. Thành ngữ nguyên dạng
Những thành ngữ được Ngô Tất Tố sử dụng nguyên dạng chủ yếu là
thành ngữ 4 hoặc 6 yếu tố, như: Ăn cây nào rào cây ấy; Ăn quả nhớ kẻ trồng
cây, Bùn lầy nước đọng, Chen vai thích cánh, Chân lấm tay bùn, Con Rồng
cháu Tiên, Kẻ đón người đưa, Mập mờ đành lận con đen, Run như cầy sấy…
Tuy giữ nguyên cách diễn đạt dân gian nhưng trong mỗi tác phẩm của
mình, Ngô Tất Tố luôn cân nhắc sử dụng chính xác cho từng đối tượng, vấn
đề, tạo được những ngữ cảnh phù hợp có hàm ý sâu xa làm cho các thành
ngữ, tục ngữ có sự cộng hưởng về ngữ nghĩa làm xuất hiện cái mới, một yêu
cầu cơ bản của ngôn ngữ báo chí. Trước hết là những thành ngữ được Ngô
Tất Tố vận dụng đúng văn cảnh, bộc lộ được những khả năng diễn đạt phong
phú. Bản chất của sự vật, hiện tượng, con người được gọi tên một cách ấn
tượng. Trong một số tác phẩm viết về Phạm Quỳnh, Ngô Tất Tố gọi Phạm
Quỳnh là người có tài “theo gió bỏ buồm” như một cách khái quát tính cách
của nhân vật này. Hay trong một số tác phẩm khác, Ngô Tất Tố gọi những kẻ
117
chủ hầm mỏ, chủ nhà máy là bọn “ăn chó cả lông, ăn hồng cả hột”. Có lẽ
không có câu chữ nào có thể diễn đạt tốt hơn bản chất tham lam, bóc lột của
bọn họ như thế.
Trong tác phẩm Họ vẫn ăn vào cái xác chết, từ sự cố bà lão ăn mày
chết ở chợ, lí trưởng đã sai chân tay kéo thi thể của người xấu số vào các quán
bán hàng để đục khoét tiền của các chủ quán. Lí trưởng đã nói với với bác lái
lợn: “Thôi được, cứ về, nhưng phải câm nhé, nếu có đứa nào nó biết thì tôi
không thể nào che chỗ cho anh được mà anh thì tiền mất tật mang đấy”.
Thành ngữ “tiền mất tật mang” ở đây vừa có nghĩa đen vừa có nghĩa bóng, có
lời khuyên ra vẻ ban ơn lẫn hăm dọa của kẻ quyền thế. Hàm nghĩa tinh tế của
thành ngữ được nảy sinh trong ngữ cảnh bác lái lợn đã phải trút hầu bao dâng
cụ lí năm đồng và được cụ hứa che chở.
Qua cách sử dụng thành ngữ, Ngô Tất Tố đã cho chúng ta thấy khả
năng biểu đạt dồi dào của thành ngữ Việt Nam. Chúng ta còn gặp nhiều thành
ngữ khác có giá trị nghệ thuật đã được Ngô Tất Tố sử dụng với tần suất cao
như: Cày sâu cuốc bẫm, Chân lấm tay bùn, Chịu thương chịu khó, Cày thuê
cuốc mướn, Đầu tắt mặt tối, Lưng cao khố bện... Những thành ngữ này dường
như mang tính biểu cảm về nỗi cơ cực của người nông dân Việt Nam trước
Cách mạng tháng Tám. Ngô Tất Tố không chỉ tái hiện được cuộc sống vất vả,
lam lũ của người nông dân mà còn còn bày tỏ thái độ đồng cảm của mình đối
với họ. Ông ngợi ca phẩm chất cần cù, chịu thương chịu khó của những người
nông dân quanh năm “đầu tắt mặt tối” mà cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc
lại phải “bán vợ đợ con” vì sưu thuế.
Trong đó, đáng kể là những thành ngữ được Ngô Tất Tố sử dụng như một
thông điệp về niềm tự hào dân tộc, kêu gọi người dân phải nhắc nhớ đến nguồn
gốc tổ tiên, giang sơn, đất nước như thành ngữ “Con Rồng cháu Tiên” với những
biến thể như “dòng dõi Rồng Tiên” sử dụng đến 65 lượt; thành ngữ “Bốn nghìn
năm văn hiến”, hay “Đất nước bốn nghìn năm” được sử dụng đến 29 lượt. Ngô
Tất Tố còn sử dụng nhiều thành ngữ gắn với những địa danh nổi tiếng của mỗi
vùng quê hương như “Sông Hương núi Ngự”; “Núi Tản sông Đà”, “Non Hương
nước Hát”… như một niềm tự hào về quê hương, đất nước mình.
118
4.2.2.2. Thành ngữ được cải biến
Trong nhiều trường hợp, Ngô Tất Tố cải biến cấu trúc của các thành
ngữ, đây chính là một nét độc đáo, sự sáng tạo trong việc khai thác và sử dụng
cách diễn đạt truyền thống. Ngô Tất Tố sử dụng thủ pháp này theo hai cách.
Thứ nhất, ông hoán đổi vị trí các yếu tố trong thành ngữ. Đây là những
trường hợp các yếu tố trong thành ngữ vẫn được giữ nguyên, chỉ có vị trí của
các yếu tố trong cấu trúc được sắp xếp lại. Ví dụ, Con Rồng cháu Tiên đổi
thành Dòng dõi Rồng Tiên, Con nhà Rồng Tiên…; Người khôn của khó đổi
thành Người khó của khôn; Thay da đổi thịt đổi thành Thay thịt đổi da… Ông
thường hoán đổi vị trí các yếu tố thường chỉ gặp trong các thành ngữ có 4 yếu
tố và cấu trúc đối ngẫu cặp đôi theo hai vế tương ứng. Những thành ngữ như
Cổ cày vai bừa, Vai u thịt bắp, Thấp cổ bé họng… để chỉ những người nông
dân lao động vất vả, cực nhọc, thân phận bé nhỏ, mong manh… được Ngô Tất
Tố sử dụng góp phần tăng tính biểu cảm trong những tản văn của mình.
Thứ hai, Ngô Tất Tố cải biến thành ngữ theo cách lược bớt đi một bộ
phận của thành ngữ, tục ngữ. Ví dụ thành ngữ Lửa gần rơm lâu ngày cũng
bén biến đổi thành “Trong lúc rơm gần với lửa, ai chắc lòng ai thế nào”. Hiện
tượng lược bớt các yếu tố chủ yếu xảy ra đối với tục ngữ. Nguyên do là tục
ngữ thường gồm hai vế, mỗi vế là một cấu trúc khá trọn vẹn về cú pháp và
diễn đạt tương đối hoàn chỉnh một ý nghĩa nào đó, cho nên việc đưa ra một vế
của tục ngữ vào câu văn không cản trở quá trình nhận thức của người đọc, mà
ngược lại, còn giúp cho họ hiểu rõ hơn định hướng thông tin của người viết
trong khi vẫn có những liên tưởng nhất định về câu tục ngữ nguyên gốc.
Cũng có những trường hợp Ngô Tất Tố cải biến hình thức diễn đạt dân
gian hết sức độc đáo, sáng tạo, đó là mạnh dạn cải biến toàn bộ cấu trúc thành
ngữ. Đó là các trường hợp: Chuôi chẳng khi nào lại ngắn hơn gáo; Thằng
còng làm chưa chắc đã đủ cho thằng ngay ăn; Tai ếch hay là đầu cua...
Thành ngữ Đầu cua tai nheo có nghĩa là mọi chi tiết, mọi chuyện ngóc ngách
sâu kín của sự việc, câu chuyện. Khi sử dụng thành ngữ này, Ngô Tất Tố đã
thay đổi yếu tố nheo (cá nheo) bằng yếu tố ếch, thêm vào yếu tố hay là biến
đổi quan hệ giữa các yếu tố trong thành ngữ trong trường hợp: “Cố nhiên họ
không thèm biết chủ nghĩa xã hội là tai ếch hay đầu cua”. Qua đó, có thể
thấy nghĩa gốc của thành ngữ gần như được giữ nguyên và được chồng lên
119
một tầng nghĩa mới, gia tăng sắc thái biểu cảm. Cách sử dụng thành ngữ của
Ngô Tất Tố làm cho các hình thức diễn đạt dân gian trở nên tinh tế hơn, chính
xác hơn, hiện đại hơn.
4.3. Sử dụng ngôn ngữ trào phúng, châm biếm, giàu tính chiến đấu
Tản văn báo chí của Ngô Tất Tố mang đậm tính trào phúng, châm biếm
và giàu tính chiến đấu. Tiếng cười trong tản văn báo chí của Ngô Tất Tố là
tiếng cười tinh tế, đa dạng về phong cách, phong phú về bút pháp thể hiện.
4.3.1. Sử dụng câu hỏi tu từ như một vũ khí châm biếm lợi hại
Tản văn báo chí của Ngô Tất Tố thường có chủ đề rõ ràng và đơn giản.
Điều quan trọng đối với ông là chủ đề ấy phải gắn được với một mâu thuẫn
mang tính trào phúng, một tình thế có tính hài hước. Sự nhạy bén đối với loại
mâu thuẫn này, chính là đặc điểm của óc quan sát, trí tưởng tượng của Ngô Tất
Tố luôn luôn được lọc qua một tấm lăng kính đặc biệt, đó là thứ nhãn quan
riêng về thế giới của Ngô Tất Tố. Nguyễn Đăng Mạnh gọi đó là “nhãn quan
trào phúng”, giúp nhà báo nhìn đâu cũng thấy những chuyện nực cười.
Nói về nghệ thuật trào phúng của Ngô Tất Tố, người ta dễ nhận thấy tài
hoa của ông nổi trội hơn hết ở cách cài đặt sự kiện và cách kể chuyện. Bên
cạnh đó, điểm mạnh của Ngô Tất Tố còn thể hiện rõ ở chỗ sắp đặt và dẫn dắt
các tình tiết sao cho câu chuyện trở nên hấp dẫn, làm cho những mâu thuẫn
trào phúng, những tình thế hài hước bật ra ở cuối tác phẩm một cách thật đột
ngột bất ngờ. Ở đây, một trong những thủ thuật hóm hỉnh nhất của Ngô Tất
Tố là dùng những chi tiết đánh lạc hướng độc giả khỏi cái đích thật sự của câu
chuyện. Người đọc càng bị lạc đi xa bao nhiêu thì khi truyện kết thúc, càng bị
bất ngờ bấy nhiêu. Đây là chỗ mà nhà trào phúng có thể nghĩ ra đủ thứ “cạm
bẫy” thú vị.
Thực ra, trong lối viết trào phúng thường có hai lối gây cười. Có lối
gây cười gián tiếp, nghĩa là trình bày khách quan và bình thản về sự việc, để
cho người đọc tự mình rút ra kết luận trào phúng từ chính cái vô lý, vô nghĩa,
cái lố bịch, ngu xuẩn của hiện thực được phản ánh. Còn lối gây cười gián tiếp
buộc người đọc phải có thời gian ngẫm nghĩ mới nhận ra cái đáng cười. Lối
gây cười như thế thường thấy ở những phong cách thâm trầm, kín đáo. Nhưng
cũng có lối gây cười trực tiếp, nghĩa là người viết không giấu giếm vai trò bố
trí sắp đặt của mình đối với câu chuyện.
120
Trong nghệ thuật châm biếm, các nhà văn, nhà báo thường sử dụng ba
thủ pháp nghệ thuật: 1) Đả kích (satire): phủ nhận hoàn toàn đối tượng bị đả
kích. Thủ pháp này thường dùng đối với kẻ thù; 2) Hài hước (humour): không
phủ nhận hoàn toàn đối tượng, chỉ phê phán những nhược điểm. Thủ pháp
này thường dùng trong nội bộ nhân dân; 3) Trào lộng (ironie): thường có hai
mạch, mạch công khai có vẻ khen ngợi, nhưng mạch ngầm là chê bai, phủ
nhận.
Trong thời kỳ Mặt trận dân chủ (1936 - 1939), với sự cởi mở hơn trong
việc kiểm duyệt báo chí của người Pháp, ngòi bút đả kích của Ngô Tất Tố đã
tung hoành mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Khi mà thực dân Pháp và những kẻ lũ
bồi bút không ngớt lời ca tụng cái gọi là “công ơn khai hóa văn minh” của
nước Đại Pháp đối với dân An Nam thì Ngô Tất Tố đã tấn công vào những
luận điệu đó. Trong tác phẩm Vậy thì An Nam cũng phải có thuộc địa chứ,
ông viết:

“Chẳng ai dùng đến chữ “đánh chiếm”, người ta bảo đó là công


cuộc rất nhân đạo của mấy nước văn minh vì thiên chức mà khai
hóa cho những dân tộc dã man... Tôi đương thành tâm kính phục
cái nhân đạo của mấy ông đó và muốn tin rằng ở trên đời này chỉ
có cuộc khai hóa, không bao giờ có cuộc đánh chiếm. Thế nhưng
tôi vẫn còn phân vân và tự hỏi thêm: “Nếu quả như vậy thì ra cái
trận Âu châu đại chiến năm 1914 cũng do mấy ông Nhật nhĩ man
định khai hóa cho nước Pháp à?”.
(Thời vụ, số 101, 1939)
Tùy vào từng loại đối tượng cụ thể là kẻ thù của dân tộc hay những mâu
thuẫn trong nội bộ nhân dân mà Ngô Tất Tố có lối châm biếm, trào lộng thích
hợp với một vốn ngôn ngữ rất quần chúng. Từ những chuyện thời sự như Gôđa
sang thăm Đông Dương; chuyện Tôlăngxơ về nước; cuộc tranh cãi để bênh vực
thuyết “bảo hộ” hay “trực trị” của Phạm Quỳnh và Nguyễn Văn Vĩnh; chuyện
Phạm Huy Lục tranh cử nghị viện... đến rất nhiều chuyện lố lăng, nực cười khác
như nạn thầy lang giả, nạn mê tín dị đoan, nạn rượu lậu, thuốc phiện, nạn buôn
bán văn chương... đều được Ngô Tất Tố vạch trần bản chất và phê phán một
cách mạnh mẽ thông qua ngòi bút châm biếm vô cùng sắc bén.
121
Lúc cần Ngô Tất Tố cũng sử dụng vũ khí đả kích những bọn lừa bịp,
nhân danh phong trào “ái quần”, “ái quốc” để kêu gọi những người dân yêu
nước góp đóng góp tiền bạc để thành lập Ích hữu thư xã. Cơ quan của thư xã
là Hữu thanh tạp chí đã dùng hình ảnh con chim gọi đàn để thể hiện tinh thần
“chiêu hàng ái quốc” của họ. Dân chúng nhiều người đã bị lừa, có người đóng
một suất, hai suất, có người đóng đến năm sáu mươi suất. Ngô Tất Tố đã
thẳng tay vạch trần bộ mặt bịp bợm của chúng: “Nói đúng thì là ăn cắp. Các
ông ăn cắp hủy, ăn cắp hoang, ăn cắp cho đến nỗi mấy vạn bạc vốn của
hội không còn một xu nào. Rồi trong bọn “ái quốc” này lại sinh đánh nhau,
kiện nhau, bỏ nhau vào tù. Thế là hội đi đằng hội! Những anh cổ động viên
góp tiền trơ hai mắt chẫu mà nhìn. Ấy đó, cái tấn tuồng “ái quốc” của Ích
hữu thư xã đầu đuôi là thế”[14, tr.107].
Vũ khí mà Ngô Tất Tố sử dụng nhiều nhất là hài hước hoặc trào lộng hài
hước. Vì sao phải sử dụng hài hước? Ngô Tất Tố lập luận: “Ai cũng nhận khôi
hài là một lối văn cần có bất kỳ đời nào, xứ nào hay trường hợp nào. Là vì
việc đời không thể nói thẳng thì nói cong, không thể nói xuôi thì phải nói
ngược, nói cong đối với mục đích lại có hiệu quả hơn là nói xuôi, nói thẳng,
công dụng của văn chương khôi hài là vậy”[18, tr.1089].
Trong trường hợp đối tượng bị phê phán, tuy vẫn nằm trong nội bộ nhân
dân, nhưng là một con người cụ thể thì Ngô Tất Tố chuyển sang giọng trào
lộng hài hước. Đó là trường hợp lý cựu X. kiện hương sư của làng Phương
Lũng, tổng Đăng Xá, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Gặp hương sư, lý cựu
X. cố mời ông giáo đến nhà mình “nghỉ”. Tưởng ông Lý cũng có đứa con học
mình, muốn mình dạy thêm cho đứa nhỏ ấy nên ông giáo vui lòng nhận lời.
Chẳng ngờ cuối tháng, ông lý cựu mới đưa sổ ra, đòi ông giáo phải trả đến 18
đồng một tháng. Lương ông giáo có 13 đồng không đủ trả, nên phải viết văn
tự nợ tiền cơm của ông Lý. Văn tự có câu: “tôi nhận có nợ Lý Toét 18 đồng
bạc”. Chắc nghĩ mình chỉ có “Lý” mà không “Toét” nên ông lý cựu phát đơn
kiện về chữ “Toét” dùng không đúng! Ngô Tất Tố kết luận bằng một giọng
trào lộng hài hước “Ông giáo bị kiện là phải. Theo nghĩa cổ của thôn quê Bắc
kỳ, hai chữ “Lý Toét” chỉ để chỉ về những người quê mùa khờ khạo mà thôi.
122
Cái người đã có can đảm tính tiền cơm tháng 18 đồng bạc cho một ông gia sư
lương tháng 13 đồng tức là một người có đủ năng lực để dỡ nhà thờ gia sư
về làm củi đun, sao lại gọi là Lý Toét?”[18, tr.864].
Những năm 1930 - 1931, thực dân Pháp tiến hành khủng bố trắng, đàn
áp dã man các phong trào yêu nước và cách mạng. Mặt khác, cuộc khủng
hoảng kinh tế thế giới 1929 - 1933 đã dẫn đến tình trạng lao động, sản xuất
đình đốn, thất nghiệp tràn lan. Một không khí buồn rầu, u uất tràn ngập khắp
nơi. Để làm giảm không khí căng thẳng trong xã hội, thực dân Pháp tìm cách
phát động các phong trào như chấn hưng Phật giáo, Âu hóa, Vui vẻ trẻ trung;
tổ chức những sự kiện như chợ phiên, nhảy đầm, dạ hội, giải quần vợt, bi-a,
yo-yo; tổ chức hội hè, đình đám… ở khắp các địa phương. Ngô Tất Tố thấy rõ
những âm mưu đó của bọn thực dân và ông bình luận bằng một giọng trào
lộng đả kích: “Hiện nay thế giới, nước nào nước ấy, đều khốn khổ về nạn kinh
tế khủng hoảng, làm dân kiếm được miếng ăn cũng khó thay, đâu có quang
cảnh vui thú như vậy. Thật là dân Việt Nam, nói là dân Bắc kỳ thì đúng
hơn, sướng nhất thế giới. Có người lo rằng: Nếu họ cứ đình đám mãi thế, e
rằng công việc đình trệ, tiêu pha tốn kém, rồi công nợ đẻ ra, miếng ăn chẳng
có, có ngày phải bán nhà bán cửa mà đi cầu thực tha phương, như vậy chưa
chắc là sướng”[18, tr.90].
Nhân sự kiện ông Lao công đại sứ Godard của chính phủ Mặt trận
Bình dân Pháp sang thăm Đông Dương, Ngô Tất Tố có hai bài Đố biết ông
Godard là người gì?, Ông phủ Hoài Đức muốn làm đẹp cho tỉnh Hà Đông.
Trong hai tác phẩm này, Ngô Tất Tố đã phản ánh Mặt trận dân chủ Đông
Dương phát động quần chúng xuống đường biểu tình đón Godard và đưa các
bản dự thảo dân nguyện, nhưng bọn thực dân và lũ tay sai thì tìm cách ngăn
trở. Thậm chí khi Godard về Pháp thì ở một số nới “đã có những người bị đòi,
bị bắt, bị tra, bị hỏi và bị đánh nữa, chỉ vì tội đã đi đón ông Godard”.
Bằng bút pháp trào lộng đả kích, Ngô Tất Tố đã khéo léo tìm cách vạch
mặt bọn thực dân phong kiến. Chúng bố trí cho Godard vào thăm tỉnh Hà
Đông của ông Võ hiển Hoàng Trọng Phu “một vị quan rất quyền thế và rất
trung thành với chính phủ bảo hộ”, thăm xưởng dệt làng Vạn Phúc, cuộc cải
lương của làng Thanh Liệt, viện Bảo tàng và nhà hội quán của Hội công nghệ.
123
Đẹp biết chừng nào! Nhưng bấy nhiêu nơi đẹp chưa bày hết vào con mắt quan
sát của ngài Đại sứ thì một cảnh xấu bỗng chốc lù lù hiện ra. Ấy là hai trăm
nông dân, do anh Bùi Xuân Lãng làm đại biểu, đợi ở đầu làng Vạn Phúc
đón ông đại biểu của chính phủ Mặt trận Bình dân. Tại cổng làng Vạn Phúc,
họ đứng xếp hàng rất có trật tự. “Tuy vậy đối với con mắt những ông “dân chi
phụ mẫu”, cái trật tự vẫn không che lấp cái xấu của họ. Họ xấu vì họ toàn là
bố cu mẹ đĩ không có phẩm hàm quan tước. Họ xấu vì họ đeo toàn những
quần nâu áo vải, không có áo thụng lam, mũ cánh chuồn. Họ xấu vì họ chỉ
có cái bảng đề chữ “nhà quê” ở tay, không có bài ngà hay mề đay, kim
khánh”[17, tr.317]. Ông tri phủ Hoài Đức ra lệnh đuổi anh Bùi Xuân Lãng và
đám nông dân về. Ngô Tất Tố bình luận: “Phải! Đuổi là phải! Mắng là phải!
Muốn giữ vẻ đẹp cho tỉnh Hà Đông, tất nhiên ông buộc phải bài trừ lũ dân
xấu ấy. Đành rằng trời sinh ra họ vẫn xấu, nhưng xấu thì để ở nhà, ai
cho phép họ được đem mà bày vào mắt ông Đại sứ!”[18, tr.317].
Chúng ta thấy rõ trong những bài trào lộng đả kích này có hai mặt. Mặt công
khai có vẻ bênh vực hành động của tên tri phủ Hoài Đức nhưng mạch ngầm thì
nhằm vạch âm mưu của bè lũ thống trị muốn che mắt Godard, không để cho viên
Đại sứ này thấy rõ những cảnh xấu xa, đồi bại ở Đông Dương, hiểu được nguyện
vọng của những người dân nghèo bị áp bức ở Đông Dương.
Tính chiến đấu của Ngô Tất Tố được thể hiện qua nghệ thuật châm biếm
sắc sảo, thâm thúy và đậm đà bản sắc dân tộc. Trong đó, Ngô Tất Tố đã sử dụng
châm biếm như là một thủ pháp nghệ thuật quan trọng trong phương pháp sáng
tác của chủ nghĩa hiện thực phê phán. Phong cách châm biếm trong tản văn báo
chí của Ngô Tất Tố là sự kết hợp giữa cái thâm thúy của một nhà Nho trí thức
với cái vui hồn hậu, lạc quan, tính chiến đấu sắc bén của văn học dân gian. Nói
cách khác, nhờ vốn Hán học và sự thâm thúy của một nhà Nho, Ngô Tất Tố đã
tạo cho câu chuyện một chiều sâu triết học về đạo đức nhân sinh.
4.3.2. Sử dụng lối so sánh ví von, ám chỉ
So sánh là phương thức nghệ thuật nhằm mục đích làm nổi bật đặc điểm,
thuộc tính của sự kiện, hiện tượng này qua đặc điểm, thuộc tính của sự kiện,
hiện tượng kia [125].
124
Ngô Tất Tố có khả năng liên tưởng phong phú và sử dụng phép so sánh
một cách đa dạng, bất ngờ. Ông tận dụng mọi hình thức so sánh như những
thủ pháp nghệ thuật để phản ánh sự kiện, hiện tượng.
Lối so sánh được Ngô Tất Tố vận dụng phổ biến là dùng những sự vật,
hiện tượng tương đồng để làm rõ hiện thực được phản ánh. Tạm gọi là so
sánh tương đồng. Kiểu so sánh này không cần phân biệt không gian, thời
gian, đối tượng được so sánh, cũng không cần phân biệt là người là vật hay là
việc, chỉ cần sự vật được so sánh và sự vật dùng để so sánh có cùng chung
một bản chất như nhau. Việc vận dụng lối so sánh này của Ngô Tất Tố đã
giúp ông công phá mạnh mẽ vào những thế lực nhiều mưu mô, xảo quyệt.
Với lối so sánh này, có lúc Ngô Tất Tố chọn những cặp so sánh quen
thuộc trong dân gian như “chuột” với “quan lại”. Trong Kinh thi của người
Trung Quốc có tác phẩm Thạc thử (Con chuột to) nổi tiếng, viết về tình trạng
người dân khốn đốn vì các tầng lớp quan lại tham lam tàn ác, nên họ cho nên
nói ví von chúng như những con chuột to đục khoét dân lành. Người Việt
cũng ví bọn quan lại như những lũ chuột chuyên đục khoét của dân. Vào thế
kỷ XVI, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã viết bài thơ Ghét chuột để phản ánh bản chất
gian tham của bọn quan lại phong kiến. Cũng với sự liên tưởng đó, Ngô Tất
Tố trong tác phẩm Cháy nhà ra mặt chuột đã có một sự so sánh rất thú vị giữa
xã hội loài chuột và xã hội loài người với đám quan lại An Nam. Xã hội loài
chuột có những kẻ “hay ăn vụng, hay cắn hại lại hay truyền bệnh dịch hạch
cho người ta, cái giống chuột ai ai cũng ghét”. Chúng phần lớn là “bậc tài
giỏi tinh khôn”, chỗ nào cũng chui vừa, lại có cái tài “náu mình” rất kỹ.
“Cũng nhờ cái kín đáo và vững chãi đó mà các anh luôn sống trong nhà
người ta mà người ta không bắt nổi”. Tuy nhiên “cái hang ấy chỉ che chở cho
các anh bình yên chứ không thể che chở cho các anh trong cơn tai biến”.
Chính vì thế, dù có trốn kỹ đến mấy, khi nhà cháy thì “các anh” cũng phải lòi
ra, cho nên dân gian có câu “cháy nhà ra mặt chuột”.
Ngô Tất Tố nói kỹ về xã hội loài chuột, về bản chất cũng như cái kết cục
của chúng khi cháy nhà. Sau đó ông dùng một câu so sánh đắt giá: “xét cho kĩ,
chẳng riêng gì xã hội loài chuột mới có trường hợp ấy, chính ở xã hội loài
125
người cũng thường như thế. Ngay như trong đám quan trường An Nam”. Như
vậy, vấn đề mà Ngô Tất Tố muốn đề cập tất nhiên không phải là xã hội loài
chuột mà chính là xã hội loài người mà cụ thể là đám quan lại An Nam.
Không cần phải diễn giải nhiều lời, chỉ qua sự so sánh đó, người đọc cũng
hiểu Ngô Tất Tố muốn phản ánh điều gì. Đó là nạn quan tham, đục khoét của
công. Dù chúng có trăm phương nghìn kế, có trốn chui trốn nhủi mà làm
những điều phi pháp, thì cũng có ngày “cháy nhà” mà “ra mặt chuột”. Và, để
thuyết phục độc giả tin theo sự so sánh của mình, ông đưa ra một số dẫn
chứng về việc quan lại tham ô bị đem ra tòa xử lý. Một câu hỏi được nêu lên
thật nhức nhối ở cuối tản văn của ông: chuột còn thì quan lại tham ô cũng còn
và biết bao giờ mới hết nạn quan tham của công?
Ngô Tất Tố còn sử dụng lối so sánh đối lập. Ông chọn đặt cạnh nhau
những sự việc trái ngược nhau về bản chất, về hành động để thể hiện nội dung
phê phán của mình. Lối so sánh này thể hiện rõ trong các tiểu phẩm như: Ả
xẩm Tàu mấy ông nhà giàu An Nam; Chuyện hàng ngày; Ai nhất, ai nhì; Từ
nay dân Pháp lại khổ hơn dân An Nam thêm một từng nữa… Một số tác phẩm
của ông đưa ra những tấm gương đạo đức hàng ngày để sau đó so sánh với
những thói hư, tật xấu với mục đích hướng thiện. Chẳng hạn ông đã so sánh
hành động nhân đạo của một “ả xẩm tàu”, đã giúp đồng bào tới hai chục
đồng, số tiền không phải là nhỏ đối với một một ả buôn son bán phấn. Ngược
lại, “những người giàu có hàng vạn, hàng triệu mà tiền bạc của họ cũng chỉ
ních vào tủ sắt... có ai đem sổ quyên đến hoặc về diễn dịch làm phúc mời họ
thì họ lắc ngay cái đầu”. Với bọn nhà giàu keo kiệt bủn xỉn, thiện tâm còn
thua một ả đàn bà ở tầng lớp cuối cùng của xã hội.
Cũng có khi ông so sánh về sự phân biệt đối xử trái ngược để phê phán
sự bất công của xã hội đương thời. Ông so sánh lớp “nhà nông”, với lớp “nho
sĩ’, để thấy được nỗi đau thời thế, thấy được trong “buổi chợ chiều” trí thức
Nho học không còn được trọng vọng như trước; ông lấy chuyện nước Pháp
với chính sách cấm thuốc phiện, truy xét tận gốc việc sử dụng và chứa chấp
thuốc phiện để so sánh với việc thuốc phiện được tự do khắp các nước Đông
126
Dương. Từ đó chỉ ra âm mưu thâm độc của kẻ thù, muốn dùng thuốc phiện để
làm tê liệt tinh thần phản kháng của nhân dân ta.
So sánh là một trong những thủ pháp chủ yếu nhằm thể hiện nội dung của
tản văn. Muốn so sánh thành công và làm nổi bật được vấn đề, người cầm bút
phải có khả năng liên tưởng và tưởng tượng phong phú. Ngô Tất Tố là một cây
bút hiện thực phê phán nên với trí tưởng tượng, liên tưởng giàu có phong phú
của mình ông đã cung cấp cho độc giả nhiều sự so sánh thú vị, đặc biệt chuyển
tải được tư tưởng, tình cảm đến độc giả một cách hấp dẫn và sâu sắc. Ông thực
sự đem đến cho thể loại tản văn một “hình dong” mới uyển chuyển, đậm đà thoát
khỏi bản chất khô khan vốn có của những sự kiện, hiện tượng thời sự. Đó chính
là những đóng góp có ý nghĩa thẩm mỹ và ý nghĩa kỹ thuật của Ngô Tất Tố đối
với nghệ thuật viết tản văn. Bên cạnh thủ pháp so sánh, lối nói ám chỉ, hàm ý
cũng được Ngô Tất Tố khai thác triệt để, sử dụng rộng rãi trong tản văn của
mình. Lối nói ám chỉ, hàm ý trong trong mỗi tác phẩm của Ngô Tất Tố có thể
được thực hiện thông qua những hình ảnh so sánh. Ngô Tất Tố thường dùng sự
vật này để ám chỉ sự vật kia. Trong tình hình báo chí luôn bị kiểm duyệt chặt
chẽ, lối viết này đã giúp Ngô Tất Tố vượt qua tai mắt của những kẻ chuyên cắt
xén bài viết. Tuy nhiên lối viết ám chỉ, hàm ý của Ngô Tất Tố không quá sâu xa,
khó hiểu, vì vậy người đọc vẫn dễ dàng nhận ra. Mục đích của ông là viết cho
quần chúng, nhân dân nên những thủ pháp nghệ thuật ông sử dụng cũng rất gần
gũi và dễ hiểu đối với họ. Là nhà Nho với vốn hiểu biết sâu rộng, Ngô Tất Tố có
cảm thức sâu sắc và nhạy bén về các đặc điểm của tiếng Việt, khai thác và sử
dụng chúng khá thành công trong các tản văn báo chí, tạo nên sức hấp dẫn đặc
biệt đối với người đọc.
Tản văn báo chí của Ngô Tất Tố thường bình luận thời sự, xã hội nhưng
không đơn thuần là một bài xã luận chính trị mà đã xây dựng được những
hình tượng sinh động, hấp dẫn. Chính vì thế, ngôn ngữ tản văn báo chí của
Ngô Tất Tố đã kết hợp được nét sắc sảo mạnh mẽ của ngôn ngữ báo chí với
chất thâm thúy, nhuần nhị, hàm súc của ngôn ngữ văn chương; không chỉ biểu
đạt ý tưởng một cách thông thường mà còn tham gia trực tiếp vào việc xây
dựng và kiến trúc nội dung tác phẩm [22].
127
Tiểu kết Chƣơng 4
Trong Chương 4, chúng tôi đã phân tích làm rõ những nội dung sau:
Một là, Ngô Tất Tố có một phong cách ngôn ngữ riêng, một thế giới
nghệ thuật riêng giàu tinh thần sáng tạo. Từ một nhà Nho ông đã trở thành
nhà văn hiện thực, nhà báo tiến bộ, có tri thức sâu sắc về văn hóa truyền thống
phương Đông. Phong cách ngôn ngữ báo chí của Ngô Tất Tố vừa mang đậm
tính truyền thống lại vừa rất hiện đại, luôn có sự “giao thoa” giữa ngôn ngữ
văn học và ngôn ngữ báo chí với sự kết hợp giữa tính biểu cảm, hình tượng
của văn học với tính hiện thực của ngôn ngữ báo chí.
Hai là, ngôn ngữ tản văn báo chí của Ngô Tất Tố còn mang đậm dấu vết
của ngôn ngữ Nho gia, song lại đậm đà sắc thái ngôn ngữ nông thôn Bắc bộ
từ cách sắp xếp các sự kiện theo trật tự thời gian, cách cấu trúc ngôn ngữ nhịp
nhàng đăng đối, đến cách vận dụng thành ngữ, phương ngữ, cách phối hợp
các phương thức biểu đạt, cách kết cấu câu văn... Với chất liệu ngôn ngữ đó,
tác phẩm của ông là bức tranh chân thực về xã hội thực dân nửa phong kiến
cũ. Trong tác phẩm của ông, chất lượng những trang viết là sự kết hợp giữa
những tri thức sâu sắc về văn hóa dân tộc với những sáng tạo về hình thức thể
hiện, trong đó có nghệ thuật ngôn từ.
Ba là, Ngô Tất Tố sử dụng ngòi bút làm phương tiện đả kích, châm biếm
xã hội. Nghệ thuật châm biếm của Ngô Tất Tố rất linh hoạt, phong phú, có
khi một câu hỏi tu từ cũng thể hiện thái độ châm biếm. Ngô Tất Tố là nhà văn
có nhiều cách tân, sáng tạo trong nghệ thuật ngôn từ. Ngôn ngữ trong tác
phẩm của ông luôn đồng hành cùng thời đại, cập nhật được những vấn đề thời
sự đang diễn ra trong xã hội, không chỉ thế ngòi bút của ông luôn dũng cảm,
tiên phong trên các mặt trận chiến đấu.
128
Chƣơng 5
Ý NGHĨA VÀ MỘT SỐ BÀI HỌC VỀ NGHIỆP VỤ LÀM BÁO
RÚT RA TỪ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU PHONG CÁCH
TẢN VĂN BÁO CHÍ CỦA NGÔ TẤT TỐ

5.1. Ý nghĩa thực tiễn của kết quả nghiên cứu về tản văn báo chí Ngô Tất
Tố
5.1.1. Từ những bài học về nghề làm báo của Ngô Tất Tố đến trách
nhiệm của người làm báo hôm nay
Báo chí, truyền thông là vũ khí tư tưởng sắc bén của Ðảng và Nhà
nước, là cầu nối giữa Ðảng, Nhà nước với nhân dân; là phương tiện quan
trọng tuyên truyền phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng Ðảng và hệ thống
chính trị; là diễn đàn để nhân dân tham gia quản lý xã hội, giám sát quyền lực,
thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Dưới sự lãnh đạo của Ðảng, trong những năm qua, hệ thống báo chí,
truyền thông đã góp phần to lớn vào việc tổ chức thực hiện đường lối đổi mới
của Ðảng, pháp luật của Nhà nước Việt Nam, đóng vai trò là động lực thúc
đẩy phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, con người, khoa học, kỹ thuật, bảo vệ
Tổ quốc. Ðặc biệt, báo chí, truyền thông trở thành vũ khí quan trọng trong
cuộc đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, quan liêu, tệ nạn xã hội.
Hơn 70% số các vụ việc tham nhũng, lãng phí được phát hiện, xử lý là do báo
chí, truyền thông phát hiện [115]. Thông qua phản ánh dư luận xã hội, phân
tích, đánh giá nguyên nhân và các bài học từ các vụ việc tham nhũng, lãng
phí, tiêu cực, báo chí, truyền thông đã góp phần răn đe, cảnh báo, ngăn chặn
một phần tệ nạn tham nhũng, tiêu cực trong xã hội, giáo dục cán bộ, đảng
viên sống trong sáng, gương mẫu thực hiện chủ trương, đường lối của Ðảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Bên cạnh những ưu điểm, thành tựu to lớn và căn bản đó, hệ thống báo
chí, truyền thông Việt Nam không tránh khỏi những hạn chế, khuyết điểm.
Một số cơ quan báo chí sa đà khi thông tin các mặt tiêu cực của đời sống xã
hội; chưa chú ý đúng mức việc phát hiện, cổ vũ, nhân rộng những nhân tố
129
mới, điển hình tiên tiến, những mặt tích cực của xã hội; hoặc có biểu hiện
thương mại hóa, xa rời tôn chỉ, mục đích, chưa làm tốt chức năng định hướng
tư tưởng và dư luận xã hội, lấy tích cực đẩy lùi tiêu cực, chăm lo xây dựng
con người. Trong thực tiễn, vẫn còn một số đối tượng bất mãn hoặc thù địch
chống phá chế độ, chống phá đất nước từ bên trong và bên ngoài, tung thông
tin sai trái, xấu độc lên mạng xã hội, bóp méo sự thật, xuyên tạc đường lối,
quan điểm của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Những thông tin
này là những tác nhân gây nhiễu về tư tưởng, văn hóa, ảnh hưởng xấu đến sự
đồng thuận trong nhân dân.
Trước thực tế đó, việc tăng cường hơn nữa và đổi mới phương thức
lãnh đạo và quản lý báo chí của Đảng và Nhà nước là hết sức cần thiết. Nghị
quyết Hội nghị Trung ương 5 (khóa X) nêu rõ: “Báo chí là tiếng nói của
Đảng, Nhà nước, của tổ chức chính trị - xã hội và là diễn đàn của nhân dân,
đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, hoạt động
trong khuôn khổ pháp luật; bảo đảm tính tư tưởng, tính chân thật, tính nhân
dân, tính chiến đấu và tính đa dạng”[129, tr.110].
Nghiên cứu về phong cách tản văn báo chí của Ngô Tất Tố cho thấy,
những kết quả nghiên cứu có ý nghĩa thực tiễn, sát hợp với việc cụ thể hóa
những nội dung Nghị quyết của Đảng trên các bình diện tôn chỉ, mục đích;
tính chân thật, tính chiến đấu, tính nhân dân và tính đa dạng của báo chí.
Những kết quả đó cũng có ý nghĩa thiết thực trong việc nâng cao tinh thần
trách nhiệm của người làm báo trong hoạt động báo chí hôm nay.
5.1.1.1. Người làm báo phải thực hiện đúng tôn chỉ, mục đích hoạt
động của cơ quan báo chí
Ngay từ những năm đầu bước chân vào làng báo, với tư cách một nhà
báo chuyên nghiệp, Ngô Tất Tố đã tự ý thức: “Một tờ báo phải có một cái tôn
chỉ để làm con đường mà đi”[18, tr.203]. Khi đã xác định được đúng “con
đường” đòi hỏi trách nhiệm của người làm báo “không được để những bài trái
với tôn chỉ của mình tự do nhảy lên mặt báo mà không có lời bình phẩm”[18,
tr.206]. Hoạt động không đúng tôn chỉ hoạt động của tờ báo sẽ làm mất uy tín,
hạ thấp vai trò của tờ báo. Ông ví von: “Báo mà không có tôn chỉ mục đích thì
130
có khác gì nhà thổ? Chỉ có nhà thổ thì mới thấy ai cũng tiếp, Tây cũng được,
Tàu cũng được, Nhật cũng được, miễn là có tiền thì thôi...”[18, tr.289].
Thời đó có người cho rằng đất nước đang thời kỳ nô lệ, báo chí bị kiểm
duyệt, các nhà báo có thể bị đàn áp nên “muốn giữ tôn chỉ cũng không thể
được”. Ngô Tất Tố cho rằng lập luận đó không đúng. “Đành rằng cái tình thế
đặc biệt, báo ở nước mình cũng khó theo trọn tôn chỉ thật đấy, song không
phải là không thể giữ được, bởi vì mình vẫn có quyền không nói kia mà...
Không thèm động đến những cái trái với tôn chỉ của mình, đó là cách giữ tôn
chỉ của báo mình đó” (Đông phương,1931).
Ngày nay, dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, tổ chức và hoạt động của các
cơ quan báo chí, hoạt động chuyên môn của mỗi nhà báo luôn được đặt trong
khuôn khổ của pháp luật, được bảo đảm quyền tự do ngôn luận, đó là những
thuận lợi rất lớn. Nhưng có ý kiến cho rằng cái khó của các nhà báo hiện nay
trong việc đảm bảo định hướng tư tưởng, định hướng chính trị là ở chỗ chúng
ta đã bỏ chế độ bao cấp, phần lớn các báo phải phải tự lo hạch toán, phải chấp
nhận cạnh tranh thị trường với cả những mặt tích cực và tiêu cực. Việc các
báo không được bao cấp thì không có gì mới, vì trước Cách mạng tháng Tám
chỉ có một vài tờ như Nam phong, Đông Dương tạp chí... được thực dân bảo
hộ còn hầu hết các báo và tạp chí đều phải tự xoay sở để tồn tại. Như vậy, vấn
đề sống còn và phát triển của mỗi cơ quan báo, tạp chí là phải nâng cao chất
lượng của tờ báo. Các nhà báo cần đáp ứng kịp thời những nhu cầu, thị hiếu
của người đọc về những vấn đề nóng hổi, thời sự, những vấn đề bức xúc về
chính trị, kinh tế, xã hội đang được dư luận chú ý và góp phần giải đáp một
cách khoa học và thuyết phục những băn khoăn, những luồng ý kiến khác
nhau trong dư luận quần chúng.
Yêu cầu các cơ quan báo chí, các nhà báo tiếp tục phấn đấu thực hiện
đúng tôn chỉ, mục đích của báo chí, mọi cán bộ, phóng viên, trước hết là
người lãnh đạo, quản lý tờ báo phải nắm vững và thực hiện nghiêm túc tôn
chỉ, mục đích của tờ báo. Tuyệt đối trung thành với sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam. Đó cũng là một trong những tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp
của báo chí Việt Nam [103].
131
5.1.1.2. Đề cao tính chân thật trong hoạt động báo chí
Báo chí luôn gắn với thông tin, tin với sự thật là một “nếu mà không
đúng sự thật thì không tin được”[12, tr.211]. Đó là nguyên tắc có tính chất
sống còn của hoạt động báo chí nói chung và hoạt động sáng tạo nghề báo nói
riêng. Chính vì thế, chủ trương của Đảng đề cao tính chân thật trong hoạt
động báo chí là hoàn toàn đúng đắn. Và những kết quả rút ra từ việc nghiên
cứu phong cách tản văn báo chí của Ngô Tất Tố có ý nghĩa thực tiễn trong
việc rèn luyện, nâng cao tính chân thật trong hoạt động báo chí ngày nay.
Ngô Tất Tố đã đạt được tính chân thật về thông tin trong tản văn của
mình. Ông thường lật mặt trái của các hiện tượng để khám phá ra các chủ
trương, chính sách bịp bợm, ngu dân của bè lũ thực dân phong kiến (Thế thì
nhà báo là ông trời; Hiệp tác hay hiếp tác; Vậy thì An Nam cũng phải có
thuộc địa chứ?; Từ nay dân Pháp lại khổ hơn dân An Nam thêm một từng
nữa...). Trong tác phẩm Từ nay dân Pháp lại khổ hơn dân An Nam thêm một
từng nữa, Ngô Tất Tố nêu lên một hiện tượng nghịch lý ở Pháp chính phủ
cấm hút thuốc phiện và hạn chế uống rượu trong khi ở Việt Nam, toàn quyền
Đông Dương cho hút thuốc phiện thoải mái, thậm chí quy định: “Mỗi suất
đinh một tháng phải uống đủ một lít rượu, nếu kém, tổng lý sẽ bị các quan
phủ, huyện quở trách”. Giải thích hiện tượng phi lý đó, Ngô Tất Tố đã vạch
trần những âm mưu đầu độc bằng rượu, thuốc phiện, nhà săm, vi trùng hoa
liễu của thực dân Pháp nhằm ru ngủ và làm tê liệt ý chí phản kháng của người
dân thuộc địa nhằm đẩy thanh niên vào con đường trụy lạc, nhằm đưa một
dân tộc đến chỗ diệt vong: “Đối với dân tộc “dã man” đã bị những người văn
minh chinh phục, thuốc phiện là một “đạo giáo”. Như vậy việc tấn công vào
cái xấu, cái tiêu cực, cái thấp hèn phải xuất phát từ một lý tưởng cao cả, một
cái tâm trong sáng, một thái độ bênh vực quyền sống của con người. Chỉ có
thể tấn công vào bóng tối khi trong tay nhà báo chúng ta có một ngọn đèn, khi
trong tâm chúng ta cháy sáng một ngọn lửa, như ngọn lửa trong tâm của Ngô
Tất Tố [93].
Muốn bảo đảm tính chân thật, nhà báo phải điều tra, khám phá, chỉ ra
bản chất của hiện tượng chứ không dừng lại ở hiện tượng bề mặt, phải hoàn
toàn chịu trách nhiệm trước Đảng và quần chúng về những tin tức mà mình
132
đưa ra trên mặt báo. Ngô Tất Tố luôn đề cao tính xác thực của thông tin trên
báo, do đó nhà báo luôn phải “ưu tiên các thông tin cụ thể và chính xác, loại
bỏ những chi tiết mơ hồ hoặc quá chung chung”[63, tr.108].
Những vi phạm do vô tình hay do non kém năng lực tác nghiệp hoặc là
cố ý vi phạm đạo đức nghề nghiệp gây ra những hệ quả đáng tiếc, làm mai
một hình ảnh của những người làm báo chân chính, dẫn đến công chúng mất
niềm tin vào báo chí, vi phạm tính chân thực của báo chí. Khi những ngòi bút
bị bẻ cong, thông tin sai sự thật dù với mục đích nào cũng không thể biện
minh trước toàn xã hội. Người cầm bút phải có quan điểm rõ ràng, có chính
kiến và sự trung thực, luôn vì cái chung, đặt lợi ích của tập thể, của nhân dân
lên hàng đầu.
5.1.1.3. Đề cao tính nhân dân trong hoạt động báo chí
Báo chí phải đáp ứng quyền được thông tin và phản ánh kịp thời ý kiến,
nguyện vọng của nhân dân. Tính nhân dân là một đặc trưng về nội dung của
tản văn báo chí của Ngô Tất Tố. Ngô Tất Tố là người phát ngôn cho những
khát vọng dân tộc, dân chủ của quần chúng, đặc biệt là của những người dân
nghèo ở nông thôn, là người thông cảm với nỗi đau khổ của quần chúng, với
tinh thần “thương người như thể thương thân”. Nhà báo cách mạng hôm nay
cũng là người giữ nhịp cầu liên hệ giữa quần chúng với Đảng, phản ảnh kịp
thời nguyện vọng của nhân dân với Đảng, từ đó góp phần tạo sự nhất trí cao
giữa quần chúng với Đảng.
Để đạt được tính phổ cập thông tin trên tất cả các vấn đề quan trọng đối
với độc giả là rất khó. Trở ngại chính là kiến thức không đầy đủ của nhà báo,
khả năng tiếp cận của họ khi phản ánh cuộc sống, cộng với những khó khăn
trong việc truyền tải thông tin đến độc giả. Nghiên cứu phong cách tản văn
báo chí của Ngô Tất Tố cho thấy, cách khắc phục những khó khăn đó tốt nhất
là mở rộng tầm nhìn, nâng cao trình độ, kỹ năng sáng tạo, củng cố tính định
hướng nhân văn trong quan điểm xã hội của người làm báo với mong muốn
giúp đỡ độc giả của mình nâng cao tri thức về cuộc sống [90].
5.1.1.4. Đề cao tính chiến đấu của báo chí
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần phát biểu về trách nhiệm chính trị
của nhà báo: “Cán bộ báo chí cũng là chiến sỹ cách mạng, cây bút, trang giấy
133
là vũ khí sắc bén của họ”; “Cái bút là vũ khí sắc bén, bài báo là tờ hịch cách
mạng”[80, tr.123-124].
Trước Cách mạng tháng Tám, xuất phát từ tinh thần yêu nước, thương
dân, Ngô Tất Tố đã tấn công vào những mặt trái của xã hội thực dân, phong
kiến. Cái sắc sảo của ngòi bút Ngô Tất Tố là khả năng phê phán, vạch trần
những cái xấu xa của xã hội cũ.
Có vốn hiểu biết xã hội sâu sắc, có tài năng châm biếm nhưng nếu
không có lòng yêu thương vô hạn đối với con người thì Ngô Tất Tố cũng
không thể trở thành một nhà báo lớn. Như vậy phải hiểu tính chiến đấu của
nhà báo một cách toàn diện. Đó là nhà báo có dũng khí dám bênh vực lẽ phải,
bênh vực công lý, bênh vực những hành động tốt đẹp, cao cả, đồng thời tấn
công quyết liệt vào cái xấu, tiêu cực (như thói tham nhũng, hách dịch, cửa
quyền...), cái ác, cái ti tiện thấp hèn đang chà đạp lên công lý, đang đi ngược
lại những lý tưởng của chủ nghĩa xã hội.
Ngày nay, trong bối cảnh kinh tế - xã hội phát triển mạnh mẽ hơn bao
giờ hết, đòi hỏi báo chí nói chung, mỗi nhà báo nói riêng phải luôn đề cao tinh
thần đổi mới về tổ chức và hoạt động, đáp ứng được yêu cầu của báo chí
trong hoạt động kiểm tra, giám sát, đấu tranh chống các hiện tượng tiêu cực
trong đời sống kinh tế - xã hội; khẳng định và phát triển các yếu tố tích cực,
tiến bộ, loại bỏ khỏi đời sống xã hội những hiện tượng trái với bản chất chế
độ, có hại cho lợi ích của nhân dân, của đất nước [110].
Nhà văn, nhà báo lớn là người có trí tuệ sắc sảo và một trái tim nhân
hậu. Tản văn báo chí của Ngô Tất Tố không chỉ làm nhiệm vụ đả kích bọn
thực dân phong kiến mà còn biểu dương những quan lại thanh liêm như Ngô
Gia Lễ, Nguyễn Văn Hiếu, Nguyễn Trọng Bình (Một cái khoáng điển trong
quan trường; Nhân cuộc truy điệu ông Ngô Gia Lễ...); ca ngợi những nhân
cách cao cả, những tâm lòng nhân hậu (Từ ông phán Hà Xuân Tiên đến hai
bác cu ly xe thật thà; Đến lúc có phúc rồi chăng; Trời không thể phụ chúng
ta; Hãy nên theo gương trường Đỗ Hữu Vỵ...). Đó là chưa kể Ngô Tất Tố đã
ca ngợi những sĩ phu yêu nước trong phong trào Cần Vương, những chí sĩ
như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, những nghĩa quân trong các cuộc khởi
nghĩa Ba Đình, khỏi nghĩa của Hoàng Hoa Thám v.v...
134
5.1.1.5. Thích ứng với tính đa dạng của báo chí trong tình hình mới
Đa dạng trong các hình thức: báo viết, báo nói, báo ảnh, báo hình, báo
điện tử... Đa dạng trong thể loại: Tin, phóng sự, bình luận, tiểu phẩm, người
tốt việc tốt, thời sự quốc tế...
Để hấp dẫn thị hiếu và tâm lý người đọc và chủ động đấu tranh với
những luận điệu sai trái, có hại cho sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp đổi mới
do Đảng ta lãnh đạo người làm báo phải thường xuyên đổi mới tổ chức và
hoạt động, đa dạng về phương thức thể hiện, thể loại với phong cách độc đáo
trong cách diễn đạt. Nghĩa là mỗi nhà báo cần có một phong cách ngôn ngữ
riêng, không giống ai. Về mặt này, chúng ta cũng có thể học được ở Ngô Tất
Tố, chỉ riêng việc gọi tên những đối tượng bị đả kích mà giọng điệu Ngô Tất
Tố luôn luôn thay đổi. Lúc thì dùng giọng trang trọng: “Tholance đại nhân”,
“Bùi Quang Chiêu đại nhân”, “Hiệp tá đại học sĩ sung Bắc Kỳ Phật giáo hội
hội trưởng kiêm Hà Nội Quán sứ tự trụ trì Nguyễn Năng Quốc đại nhân”.
Nhưng cũng có lúc lại là giọng chậm biếm giễu cợt: “Bắc Kỳ nghị trưởng Lê
me-xừ”, ông “phó sơn họ Hít”, ông “Thủ tướng họ Mút”, “bà chúa chuồng
chim Hàng Bạc, họp khách năm châu, chiêu người bốn giống”. Lúc là giọng
đả kích, quất thẳng vào mặt “những bậc ăn chó cả lông, ăn hồng cả hột”,
những “cụ lang, anh lang, chú lang đều là tổ sư, thánh sư, tiên sư và kỹ sư
của nghề bịp”, “những kẻ bán thuốc hạ bộ, Hán tự chẳng biết Hán, Tây tự
đếch biết Tây, mả tổ của hắn chỉ có ống thụt!”. Tạo ra một cách nói, cách diễn
đạt độc đáo cũng là một cách thu hút độc giả.
Mặt khác, mỗi cơ quan báo chí cũng luôn phải đổi mới cả nội dung và
hình thức thông tin, thường xuyên tổ chức chuyên mục mới về các vấn đề trong
nước và quốc tế nhưng không chạy theo thị hiếu tầm thường của một bộ phận
công chúng. Tất nhiên nếu buộc phải đề cập đến những chuyện bình dị của cuộc
sống đời thường thì các nhà báo cũng qua đó nêu lên những vấn đề xã hội, tư
tưởng, tâm lý hoặc cách ứng xử có văn hóa giữa con người với con người.
5.1.2. Học tập phong cách viết tản văn báo chí của Ngô Tất Tố, nâng
cao chất lượng các chuyên mục trên mặt báo
Từ tản văn báo chí của Ngô Tất Tố, chúng ta có thể học được tinh thần
đấu tranh không khoan nhượng bằng một nghệ thuật châm biếm sắc sảo và
một niềm tin mãnh liệt vào tương lai tốt đẹp. Những kiến thức sâu rộng, sự
135
am hiểu cuộc sống đời thường cùng sự nhạy bén trước thời cuộc được thể
hiện trong những tản văn đầy tính chiến đấu của Ngô Tất Tố mãi mãi là
những bài học quý báu cho mỗi nhà báo hôm nay.
Có thể nói, sự nghiệp đổi mới của Đảng và Nhà nước ta hiện nay đã và
đang tạo ra những điều kiện thuận lợi cho báo chí phát triển, trong đó có sự
phát triển của các thể loại báo chí. Tinh thần dân chủ hóa xã hội đang tạo môi
sinh thuận lợi cho tản văn phát huy tác dụng. Tản văn báo chí trở thành hiện
tượng phổ biến và là nét đặc trưng của báo chí trong quá trình đổi mới. Tản
văn có thể phát huy mạnh mẽ tính chiến đấu đến quyết liệt thông qua những
thủ pháp châm biếm linh hoạt, đa dạng vốn là những ưu thế trong tản văn báo
chí của Ngô Tất Tố. Đối tượng phê phán trong tản văn chính là những tiêu
cực trong đời sống xã hội, những hiện tượng tham nhũng, quan liêu, tha hóa
của một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức, viên chức; đồng thời tản văn
cũng biểu dương những con người mới, những “Người tốt, việc tốt” trong đời
sống thường ngày và trên mọi lĩnh vực hoạt động của xã hội. Tản văn báo chí
của Ngô Tất Tố phê phán cái xã hội thực dân, phong kiến nhưng vẫn dành vị
trí thích đáng cho việc biểu dương những tấm gương tốt trong xã hội.
Nối tiếp truyền thống quá khứ, thể loại tản văn báo chí cần được nghiên
cứu và phát huy sức mạnh của nó trong bối cảnh xây dựng và phát triển báo
chí trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay. Sẽ là thiếu
khi phác thảo diện mạo của nền báo chí đổi mới ở ta hiện nay mà không nói
đến tản văn.
Trong những năm qua, các cơ quan báo chí đã chú trọng và thường
xuyên đăng tải tản văn. Nhiều tác giả giàu phong vị tản văn đã thực sự giành
được tình cảm của bạn đọc như Lý Sinh Sự, Lê Thanh Phong, Bồng Lai, Anh
Minh… Tuy nhiên cũng phải thừa nhận thực tế là chưa nhiều cây bút tản văn
thực sự có tầm cỡ, chưa gắn liền tên tuổi của mình với các chuyên mục trên
mặt báo. Một số chuyên mục được duy trì trong nhiều năm, đã ghi được dấu
ấn trong lòng bạn đọc đến nay dó nhiều lý do khác nhau đã dần dần mất đi
tính hấp dẫn hoặc không duy trì được.
Trong đời sống báo chí hiện nay, ngoài những tản văn, tiểu phẩm gắn
liền với sự thật tiêu biểu, điển hình còn không ít tác phẩm được viết dưới hình
thức phiếm chỉ. Thực tế cho thấy, cách viết chung chung như vậy thường ít
136
gây ấn tượng và đương nhiên là không có khả năng tác động mạnh mẽ, có
hiệu quả đối với bạn đọc.
Khảo sát Tổng tập tản văn Ngô Tất Tố cho thấy, trong số 1350 tác
phẩm đăng báo của Ngô Tất Tố trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, đã có
đến 400 nhân vật có họ, tên, địa chỉ gắn với sự kiện, sự việc cụ thể, rõ ràng.
Ngô Tất Tố đã từng nhấn mạnh: “Nghề viết phải cần có đức thật thà nghĩa là
mình biết gì thì hãy nói, mà đã nói thì phải nói cho rõ ràng, gãy gọn”; “Khi
nào định phiếm chỉ thì dùng tiếng nói chung, còn khi nào định xác chỉ thì
muốn nói cái gì phải gọi tận tên cái ấy”(Đông phương, số 464, 1931).
Tản văn báo chí của Ngô Tất Tố vừa mang tính văn học vừa giàu tính
thông tấn, báo chí vì nó khai thác những chuyện thời sự trong cuộc sống hàng
ngày. Người và việc trong tản văn Ngô Tất Tố thường có địa chỉ, tên tuổi rất
cụ thể nên tính chiến đấu, khẩu khí bút chiến rất rõ rệt. Tính thời sự ở đây có
nhiều cấp độ và do dung lượng ngắn gọn, nên tản văn của ông có thể bám sát
các sự kiện hoặc vấn đề thời sự mới nảy sinh một cách năng động, “vạch mặt
chỉ tên” đối tượng, tham gia tích cực vào công cuộc đấu tranh chống tiêu cực,
tạo ra sức chiến đấu mạnh mẽ của tờ báo.
Cũng cần phải thấy rằng, trong quá trình phản ánh hiện thực, mặc dù
người viết lựa chọn những sự kiện, vấn đề tiêu biểu, có thật để phản ánh
nhưng về cơ bản thì đặc trưng hình tượng vẫn chi phối toàn bộ quá trình sáng
tạo. Những sự thật được tác giả lựa chọn nhất thiết phải đáp ứng được những
tiêu chí về tính điển hình và phải được sàng lọc thông qua một nhãn quan tư
tưởng, thẩm mỹ tiến bộ để trở thành những hình tượng có giá trị thông tin sự
thật một cách thẩm mỹ. Có thể nói, tản văn báo chí của Ngô Tất Tố thuộc loại
mẫu mực trong việc thể hiện những đặc điểm nêu trên.
5.2. Một số bài học về nghiệp vụ làm báo rút ra từ kết quả nghiên cứu
phong cách tản văn báo chí của Ngô Tất Tố
5.2.1. Bài học từ ý thức về nghề làm báo
Trong quá trình lựa chọn các sự kiện, hiện tượng của đời sống xã hội để
phản ánh, các nhà báo phải dựa trên nguyên tắc vì lợi ích của dân tộc, của
nhân dân để có sự định hướng đúng đắn và rõ ràng. Đó là ý thức, là trách
nhiệm cao nhất đối với mỗi nhà bào trong hoạt động sáng tạo của mình. Để
137
hoàn thành được trách nhiệm đó, nhà báo phải “biết lựa chọn các hiện tượng
trong cuộc sống, tự tìm hiểu, đặt ra và giải quyết các vấn đề một cách kịp
thời. Để đạt được những điều đó, đòi hỏi nhà báo hàng loạt những phẩm chất
như thành thạo trong việc lựa chọn đề tài, xử lý tư liệu, xây dựng tác
phẩm…”[96, tr.196]. Những phẩm chất đó, có thể học được qua việc nghiên
cứu phong cách hoạt động sáng tạo của Ngô Tất Tố.
Trong thời gian từ năm 1926 đến năm 1945, ngay từ khi mới bước chân
vào làng báo, Ngô Tất Tố đã đảm trách nội dung cho một số chuyên mục như
Gia đình, Chuyện nhà nông…; những năm sau đó, ở các báo Ngô Tất Tố cộng
tác, ông đều phụ trách một chuyên mục, như: Gặp đâu nói đấy (Phổ thông -
1930); Nói chơi (Đông phương - 1931); Thật hay bỡn, Ném bùn sang ao,
Chuyện làng tôi; Gặp đâu nói đấy (Thời vụ - 1938); Chuyện hàng ngày
(Đông Pháp)…
Khi mở một chuyên mục trên mặt báo hoặc thay đổi bút danh, Ngô Tất
Tố đều “có lời ra mắt bạn đọc”. Năm 1931, sau khi chuyển từ Phổ thông sang
Đông phương “lĩnh cái trách nhiệm Nói chơi”, Ngô Tất Tố giới thiệu: “Anh
hùng hào kiệt chơi bằng sự nghiệp thanh danh; đại thánh đại hiền chơi bằng
luân lý đạo đức; các nhà chính trị chơi bằng lưới phép cạm hình… Thục Điểu
cũng sinh ra ở cái bầu “chơi” này, lẽ tất nhiên là phải chơi, nhưng Thục
Điểu không chơi bằng những món kia mà chơi bằng lời nói”[46, tr.63]. Chắc
hẳn ông ý thức rất rõ việc tạo lập một kiểu sân chơi đặc biệt trên trang báo.
Tuy nhiên ở phần cuối bài viết trên, Ngô Tất Tố lại rào một câu hóm hỉnh
theo lối phiếm đàm: “Có điều đáng dặn cặn kẽ là Thục Điểu chỉ nói chơi chớ
không nói thật đâu, đừng ai tưởng là thật mà về nhà đổ thóc giống ra mà ăn
thì Thục Điểu không chịu trách nhiệm”[47, tr.63].
Lời rào đón như thế, Ngô Tất Tố thường hay sử dụng, nhất là đối với
những tản văn có sự va chạm, “nói thật mất lòng”: “Trên cột báo này, cái
ngòi sắt của Thục Điểu không dám nể nang những sự giả dối hay là
những điểm dốt nát, nếu là việc có thể nói được” (Muốn lúa tốt phải nhổ cỏ);
hay “Lời nói của nó đã làm cho nhiều người cau mày nghiến răng, tím gan
tím ruột” (Thục Điểu chết).
138
Ngô Tất Tố đã từng phàn nàn, rằng “cái kiếp viết mướn ở báo quốc văn
ngoài này, ai còn lạ gì, nó lênh đênh như cánh bèo trên mặt nước” (Sao ông
Bùi Thế Mỹ nỡ giấu chúng tôi), bởi bất cứ lúc nào nhà cầm quyền cũng có thể
kiểm duyệt, thu hồi giấy phép hoạt động, trục xuất nhà báo ra khỏi các thành
phố lớn… Cho nên lối viết của Ngô Tất Tố luôn phải “giở giọng bông lơn”
(Màn đen xã hội, mũi kim thế sự) hay trào lộng đả kích: “Không phải tớ nói
thật đâu, đó là “ngọn bút bông lơn tớ đóng trò” đấy” (Sướng nhất thế giới là
dân An Nam).
Khi đã làm chủ một chuyên mục trên báo, tức là làm chủ một “sân
chơi” riêng cho mình, người làm báo phải thấy rõ vai trò quan trọng của cách
đặt đầu đề của từng bài, cách mà Ngô Tất Tố gọi là “xây dựng đề mục trên
mặt báo”, ông cho rằng, “đề mục phải có hình ảnh, dễ hiểu mà ý vị sâu xa,
nếu có mấy chữ mà bất thông thì văn chương tư tưởng còn ra gì nữa”. Trong
tác phẩm Thêm tí muối vào sau bức màn, ông viết: “Chẳng cần xem đến bài,
cứ nhè mặt chữ mà đoán, cũng biết rằng mục Sau bức màn là để nói chuyện
bí mật gì đó… Đến như tự biết báo nhạt mà muốn làm cho nó mặn, thì phải
đem mà ướp muối, chứ nói là thêm tí muối, mà trong bài chẳng có gì là chất
muối, thì đọc lên nghe vẫn nhạt phèo phèo”. Cũng trong cùng tác phẩm nêu
trên, Ngô Tất Tố nói rõ quan điểm của mình về vai trò của đầu đề tác phẩm:
“cái đề mục ở mặt báo cũng như cái mắt ở mặt người nên kiếm những chữ
thông thông mà đặt. Nếu đặt bằng chữ lăng lố thì có khác gì cái mắt có rạp
mà không rửa”[18, tr.143].
Trong tác phẩm Lời tuyên ngôn nhân chức hay là một câu ra viết báo,
Ngô Tất Tố viết khi ra mắt mục “Gặp đâu nói đấy” trên báo Phổ thông năm
1930, ông cho rằng: “Nói là “gặp đâu nói đấy” lại cũng là nói cho gọn thôi.
Kỳ thực việc đời chan chan nói cũng không hết. Những việc nhỏ mọn như
những chuyện chim chuột trăng hoa, những chuyện lường đảo trộm cắp, Thiết
Khẩu Nhi quyết không khi nào dúng miệng làm chi. Những vấn đề lớn lao
man mác như vấn đề khoa học, triết học, Thiết Khẩu Nhi không đủ chỗ mà
nói… Các ngài hãy coi lần lần”[18, tr.26].
139
Năm 1938, tức là gần mười năm sau đó, Ngô Tất Tố lại nhận trách
nhiệm trông coi mục “Gặp đâu nói đấy” trên báo Thời vụ. Những việc đời mà
năm 1930 Ngô Tất Tố cho rằng “chan chan nói cũng không hết” và nhiều
chuyện ông không muốn “dúng miệng làm chi” thì nay ông muốn mở rộng
“để nói cho được nhiều chuyện”, ông cho rằng, trong tiếng Việt, tưởng không
tiếng nào rộng bằng tiếng “gặp đâu nói đấy”. Chắc hẳn từ lý do đó, Ngô Tất
Tố lại đặt lại tên cho chuyên mục của mình. Theo đó, “bất cứ kinh tế, chính
trị, xã hội chi chi, đều đưa vào đó được cả”. Và với “sân chơi” đó, bằng tâm
huyết của một nhà báo yêu nước thương dân, Ngô Tất Tố có thể quan tâm đến
mọi vấn đề của xã hội, làm tròn trách nhiệm cao cả hướng dẫn dư luận cho
quốc dân đồng bào.
Ngô Tất Tố viết báo với tất cả niềm say mê nghề nghiệp của một nhà
báo chân chính, với tâm huyết của một trí thức yêu nước thương dân, với ý
thức về trách nhiệm cao cả của người làm báo là hướng dẫn dư luận cho quốc
dân đồng bào. Viết báo ở Hà Nội, ở cái xứ Bắc kỳ thời thuộc Pháp, “cái xứ
báo chí luôn luôn chết non, chết yểu bất đắc kỳ tử về chính trị hay tiền tài”,
giữ được lương tâm trong sáng, giữ được dũng khí của người cầm bút không
phải là chuyện dễ. Tản văn báo chí của Ngô Tất Tố cung cấp cho các thế hệ
người làm báo hôm nay những tư liệu sống về cuộc đời người làm báo chân
chính đầy khó khăn, thiếu thốn.
Trong một bài viết trên báo Đông phương, Ngô Tất Tố đã so sánh cuộc
sống của đồng nghiệp phương Tây với những người cầm bút ở mình:
“Giá chữ đắt nhất là trong Nam, song người chủ bút một tờ báo lớn, mỗi
tháng hậu lắm người ta cũng chỉ trả đến hai trăm rưỡi, ba trăm đồng là cùng.
Trung kỳ thế nào không biết. Bắc kỳ, trừ mấy tờ báo có tiền phụ cấp, hiện ở
các báo, chủ bút cũng chẳng qua mỗi tháng ăn một trăm trở lại… Than ôi,
đem những giá ấy so với giá của Âu Mỹ, chẳng phải là đất với trời mà là tầng
địa phủ thứ 18 với tầng thiên cung thứ 36 vậy”. Nêu lên thực trạng và so sánh,
rồi ông kết luận: “Ai làm cho giá chữ của mình rẻ rúng như vậy? Trời đó chứ
ai! Nếu trời cứ bắt tình thế báo giới khó khăn mãi thế này, e rằng có lúc nó
còn rẻ nữa”[18, tr.189].
140
Năm 1931, Ngô Tất Tố có một loạt bài viết trên báo Đông phương phê
phán lối viết báo của Hoàng Tích Chu. Theo Ngô Tất Tố, lối văn của Hoàng
Tích Chu không đáng để đăng trên báo Đông phương vì không thể làm bận
lòng người đọc, hơn nữa, lối văn của người đầu tiên được đào tạo bài bản về
nghiệp vụ báo chí ở Pháp về có những điều “bất thông”. Ông đã trình bày quan
điểm của mình rất rõ qua bài Lối văn ông Hoàng Tích Chu. Theo đó, phẩm chất
quan trọng của người cầm bút, trước tiên là “đức tính thật thà, nghĩa là cái gì
mình biết thì hãy nói, mà đã nói thì phải nói cho rõ ràng gãy gọn như hai với
hai là bốn”. Theo ông, trong việc lý giải các nội dung, người làm báo phải dẫn
rõ nguồn gốc của tài liệu với những trích dẫn cụ thể câu, “làm vậy, không phải
để quảng cáo cái sức học của mình đâu, cốt để cho người nào chưa biết những
cái mình dẫn ra đó, có thể biết chỗ tìm kiếm, hoặc để khảo cứu thêm, hoặc để
xem rằng mình nói có đúng hay không?”[18, tr.155]. Tinh thần nghiêm cẩn
trong việc lao động chữ nghĩa của Ngô Tất Tố cũng là bài học ích dụng thiết
thực cho những người cầm bút hôm nay.
Cũng trong loạt bài đả kích về lối văn Hoàng Tích Chu, Ngô Tất Tố
cho rằng, với những điều nhà báo viết ra, nhất là những nội dung cao siêu
hoặc chuyên biệt với một lớp đối tượng nào đó, đương nhiên độc giả đã
không thể biết được nhà báo viết sai hay đúng thì tác giả viết sao, cho dù họ
“nói trời nói đất” thì người đọc cũng phải tin… Và Ngô Tất Tố thẳng thắn lên
án cách viết của Hoàng Tích Chu: “Cái lối văn ấy, cái lối văn chỉ nêu mấy cái
tên người, tên sách, tên học thuyết để lòe người đó, tôi gọi là lối văn “bịp”.
Bịp vì mình không học mà làm bộ có học. Bịp với ăn gian cũng là một
môn”[18, tr.155]. Có lẽ, xuất phát từ quan điểm luôn phải coi trọng độc giả,
coi trọng một cách thành thật, không cho phép bất kỳ sự lừa dối nào, nên Ngô
Tất Tố luôn cảnh cáo sự giả dối trong giới cầm bút.
Theo Ngô Tất Tố, khi đã theo nghề làm ruộng, dù có từ tâm đến đâu,
cũng không thương được loài cỏ. Bởi vì cỏ là vật hại lúa, muốn cho lúa tốt tất
nhiên phải trừ cỏ, ấy là phương pháp nhất định của nhà nông. Ông đã so sánh
loại người giả dối, những cây bút giả dối như loài “cỏ rả”, cần phải áp dụng
chính sách của nhà nông, muốn tốt lúa phải nhổ cỏ. Ông răn người chính là
răn mình, rằng phải luôn đấu tranh với sự giả dối: “chẳng dám nói làm theo
cổ nhân, nhưng cũng muốn học theo cái lối làm ruộng. Vì thế mà trên cột báo
141
này, cái ngòi sắt của Thục Điểu không dám nể nang những sự giả dối, hay là
những điều dốt nát, nếu là việc có thể nói được”[18, tr.127].
Xem lại những tờ báo quốc ngữ từ buổi khởi thủy như trên tờ Gia Định
báo, “Số 1, năm 1882 đã có phần quảng cáo được tách riêng”[80, tr.117]; dần
dần trên các tờ báo khác cũng xuất hiện những trang quảng cáo hoặc nội dung
quảng cáo đan xen giữa các nội dung, đó là bước phát triển buổi ban đầu của
kinh tế báo chí. Tuy nhiên, vấn nạn “thương mại hóa báo chí” cũng đã có
những manh nha sự lạm dụng. Trong tác phẩm Nên lấy con mắt coi lời rao
của mấy thầy tướng mà coi những quảng cáo của các nhà văn, Ngô Tất Tố đã
lên tiếng vạch mặt lối quảng cáo lừa bịp để ăn tiền của một số tờ báo:

“Chúng ta luôn luôn thấy lời rao của các thầy tướng. Trong các lời
rao đó, họ nói như rồng như phượng... Các ông nhà báo từ những ông
thiểu học, cũng biết chắc rằng những lời rao đó toàn là nói láo, đời
nào một người Tàu thất nghiệp sang đây mà có tài tiên tri như vậy?
Biết họ nói láo mà sao mấy ông vẫn cho họ mượn tờ báo mình để lừa
đảo độc giả? Ấy là vì họ có tiền. Một tháng họ có mười đồng cho mấy
ông thì mấy ông cho họ mượn báo của mình mà hàng ngày đánh lừa
độc giả. Độc giả vĩ đại bị lừa, mấy ông có bị lừa đâu”.
(Đông phương, số 476, 1931)
Theo Ngô Tất Tố, nhà báo phải trung thực với chính bản thân mình, với
độc giả, không vì tiền tài mua chuộc hay vì quyền lực mà xuyên tạc, bóp méo
sự thật, đánh lừa công chúng. Vũ Duy Thông đã khái quát về ý thức nghề
nghiệp của Ngô Tất Tố: “Ý thức sâu sắc về vai trò xã hội và trách nhiệm công
dân của người làm báo đã hun đúc nên ở ông lòng yêu nghề, giúp ông vượt qua
bao khó khăn để gắn bó máu thịt với nghề”[17, tr.208].
5.2.2. Bài học về dũng khí của người làm báo
Ngô Tất Tố là một cây bút chiến đấu. Bằng ngòi bút của mình ông
chiến đấu với những điều ngang trái trong đời sống xã hội, đấu tranh với giai
cấp thống trị cường quyền nhằm bênh vực những người dân lao động nghèo
khổ, bị áp bức trong xã hội… tất cả nhằm xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn.
Để làm được những mục đích nhân văn ấy, hơn ai hết ông phải là một nhà báo
dũng cảm, một ngòi bút đầy dũng khí. Nghiên cứu sâu hơn về phong cách
142
được thể hiện qua những tản văn báo chí của ông, chắc hẳn các thế hệ cầm bút
hôm nay sẽ rút được cho mình bài học về dúng khí của người làm báo. Dũng
khí đó thể hiện bình diện nội dung, hình thức và ngôn ngữ, nhưng trước hết là
ở nội dung với những phẩm chất cụ thể.
Với tinh thần chiến đấu không bao giờ khoan nhượng, chấp nhận va
chạm, chấp nhận cả những thua thiệt để sống chết với nghề, những bài báo
của Ngô Tất Tố đã “làm cho nhiều người chau mày, nghiến răng, tím gan tím
ruột” và “mất lòng bao nhiêu thì thù oán bấy nhiêu”. Trong số “nhiều người”
đó, có cả sự chau mày, nghiến răng của nhiều cơ quan trong chính quyền thực
dân: năm 1935, chánh sở Mật thám Hà Nội đã gọi Ngô Tất Tố đến để mua
chuộc, dọa nạt, nhưng không nao núng được tinh thần của Ngô Tất Tố, không
làm cách nào được, chúng bắt ông đóng cửa hiệu thuốc Thọ dân y quán ở phố
Sinh Từ; một dịp khác, người Pháp cấm không cho ông viết Hải Phòng tuần
báo và trục xuất ông khỏi Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định; năm 1939, sau khi
phát hành Tắt đèn mật thám đã về Bắc Ninh khám nhà và bắt giam Ngô Tất
Tố. Bọn thực dân đã sai Phạm Lê Bổng đến mua chuộc ông, hứa hẹn với ông
về chuyện muốn được tha phải viết báo Nam cường của hắn… Ngô Tất Tố đã
kiên quyết từ chối tên tay sai đê hèn ấy. Sau này, nhiều thế hệ các nhà nghiên
cứu, trong đó có chúng tôi đã đặt ra câu hỏi, rằng yếu tố gì đã giúp Ngô Tất
Tố vượt qua những thử thách, cam go và cả những cám dỗ ấy? Chúng tôi đã
tìm thấy câu trả lời chung, đó là bởi lòng say mê, sống chết với nghề nghiệp;
là lương tâm trong sáng của một người cầm bút chân chính; là dũng khí bất
khuất của một trí thức yêu nước, thương dân của Ngô Tất Tố.
Trong bài phê bình Lối văn ông Hoàng Tích Chu, Ngô Tất Tố nêu lên
một đức tính cần phải có của người cầm bút phải “có đức tính thật thà, nghĩa
là cái gì mình biết thì hãy nói, mà đã nói thì phải nói cho rõ ràng gãy gọn như
hai với hai là bốn” (Đông phương, số 467, 1931).
Ngô Tất Tố nhấn mạnh: “Khi nào định phiếm chỉ thì dùng tiếng nói
chung, còn khi nào định xác chỉ thì muốn nói cái gì phải gọi tận tên cái ấy”.
Nghĩa là phải có dẫn chứng cụ thể, có địa chỉ rõ ràng để người đọc có thể
kiểm tra, xác minh. Theo Cao Đắc Điểm, “trong hơn 800 tản văn, Ngô Tất Tố
đã đề cập đến hơn 400 sự việc, nhân vật có họ tên chính xác, địa danh cụ thể
rõ ràng”[19, tr.80]. Chính xác đến từng chi tiết là một trong những yêu cầu
143
quan trọng của mỗi tác phẩm báo chí, mặt khác, chính xác cũng là cơ sở để
nhà báo thể hiện dũng khí trong đấu tranh với những tiêu cực xã hội trong xã
hội và cũng là nhằm bảo vệ chính bản thân mình. Tuy nhiên, thông tin chi tiết
chính xác thôi chưa đủ, “các chi tiết đúng và vẫn gây ngộ nhận nếu bạn
không đặt đúng bối cảnh” và phải bảo đảm được “sự công bằng… tránh
thành kiến trong cách tường thuật và bài viết của mình”[133, tr.31].
Ngô Tất Tố cho rằng, nhà báo phải thẳng thắn trung thực với bản thân
mình và với độc giả, phải có cái tâm, không vì tiền tài mua chuộc hay
vì quyền lực mà xuyên tạc sự thật, bóp méo sự thật, đánh lừa công chúng. Tuy
nhiên, cần phải nhìn nhận rõ rằng, khi đấu tranh với những mặt trái của xã
hội, cho dù với mục tiêu trong sáng, vì nhân dân, vì tiến bộ xã hội thì nhà báo
vẫn phải đối mặt với nhiều điều bất lợi và nguy hiểm, bởi lúc này “báo chí
không còn là công cụ của chính phủ nữa mà là một phương tiện cung cấp các
bằng chứng và lý lẽ làm cơ sở cho việc người dân có thể kiểm tra chính phủ
và xem xét các chính sách”[100, tr.19], yêu cầu cao về dũng khí của nhà báo
chính là từ những vấn đề như thế.
Người nghệ sĩ và nhà báo chân chính sáng tạo không phải chỉ để mưu
sinh, mà trước hết là do nhu cầu thôi thúc bên trong. Đó là sự thôi thúc từ nội
tâm, ngọn lửa cháy bên trong tâm hồn nhà văn, nhà báo Ngô Tất Tố bắt nguồn
từ lý tưởng cao đẹp, lý tưởng của một trí thức yêu nước thương dân. Chính lý
tưởng đó đã tạo cho Ngô Tất Tố sức mạnh và dũng khí khi cầm bút chống lại
cường quyền và áp bức, sẵn sàng hy sinh quyền lợi của bản thân mình để bảo
vệ hạnh phúc của quần chúng.
Tuy nhiên, tính chiến đấu của báo chí được biểu hiện trên cả hai mặt
biểu dương và phê bình. Thực tiễn những năm qua đã chứng tỏ “tinh thần
dũng cảm, tính chiến đấu của người viết báo không chỉ biểu hiện ở những bài
phê bình, thậm trí lại biểu hiện chủ yếu ở những bài dám ủng hộ những nhân
tố mới khi nó còn là cái mầm, cái nụ, đang bị chê bai, vùi dập…”[114, tr.25],
cái sự “dám” đó, cũng là khí chất và sự dũng cảm của người làm báo; “báo
chí phải tự giác, phải có đầy đủ ý thức, để xông vào các vấn đề chính trị mà
cuộc sống đặt ra”[86, tr.21]. Và chỉ như vậy báo chí mới thực sự phát huy
được sức mạnh của mình, người làm báo mới thực sự là chiến sĩ trên mặt trận
thông tin, tư tưởng.
144
5.2.3. Bài học về tính hiện đại và dân tộc trong ngôn ngữ tản văn báo
chí của Ngô Tất Tố
Ngôn ngữ là yếu tố đầu tiên của văn học và báo chí. Đặc biệt khi viết
các thể loại báo chí gần gũi với văn chương như tản văn, nhà báo cũng cần là
nghệ sĩ ngôn từ. Nhà báo, nhà văn cần phải tạo cho mình một phong cách
ngôn ngữ riêng. Trong lịch sử báo chí Việt Nam, những nhà báo lớn như Hồ
Chí Minh, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố… đều là những nghệ sĩ bậc thầy về
việc sử dụng ngôn ngữ.
Trần Quang, trong bài Sử dụng ngôn ngữ trên báo đã nêu ra 3 chuẩn
mực về ngôn ngữ báo chí, gồm: sự chuẩn xác của ngôn ngữ; rõ ràng, dễ hiểu;
đơn giản, ngắn gọn, súc tích [94]. Vốn liếng ngôn ngữ của nhà báo phụ thuộc
vào vốn sống và trình độ văn hóa. Hành trang đó dần dần được bổ sung từ
nhiều nguồn khác nhau. Họ đã trải qua một quá trình rèn luyện lâu dài và gian
khổ mới có thể nắm được và làm chủ được các phương tiện biểu hiện bằng
ngôn ngữ. Ngôn ngữ báo chí Ngô Tất Tố là nhân tố rất quan trọng góp
phần hình thành nên phong cách báo chí của ông. Ngôn ngữ là cái vỏ trực tiếp
của tư duy, là phương thức làm phát lộ tác giả, từ khuynh hướng tư tưởng,
thái độ sống, cách thức suy nghĩ, cho đến vốn tri thức, khả năng phát hiện vấn
đề, khả năng phân tích và bóc trần bản chất của sự kiện... Tất cả, cuối cùng
đều phải được bộc lộ qua ngôn ngữ. Ngoài ngôn ngữ ra, nhà báo không còn
phương tiện nào để bộc lộ mình trước người đọc. Thiên chức của nhà báo
trước hết là nói lên sự thật. Cùng một hiện trạng, tùy thuộc ở lập trường
tư tưởng và khả năng phát hiện, nắm bắt, tái hiện của mình, mỗi nhà báo đem
lại cho công chúng cái sự thực trong chừng mực anh ta có thể.
Ngô Tất Tố là một nhà báo lão luyện, vừa có vốn văn hóa bác học của
một bậc túc Nho lại vừa có văn hóa dân gian của vùng Kinh Bắc cổ xưa
nên ngôn ngữ báo chí của Ngô Tất Tố vừa có màu sắc thâm thúy của triết học
phương Đông vừa có màu sắc dân dã, khỏe mạnh, lạc quan của truyền thống
văn hóa quần chúng của làng quê Việt Nam. Trong một tản văn ngắn gọn với
vài ba trăm chữ, để có thể tổ chức sao cho hiệu quả khi công kích vào cái xã
hội thực dân phong kiến, ngôn ngữ của Ngô Tất Tố tất nhiên phải vừa súc tích
vừa chính xác, cụ thể, nhờ vậy thực chất các vấn đề xã hội bức xúc cần được
phơi trần trước dư luận đều được Ngô Tất Tố biểu đạt xác đáng. Đó chính là
145
phẩm chất mà các thế hệ người làm báo sau này phải học tập từ kỹ năng biểu
đạt hàm xúc, xác đáng của Ngô Tất Tố.
Tính súc tích của ngôn ngữ chỉ phát huy hiệu quả khi ngôn từ, lời lẽ tìm
được cách thức biểu đạt đắc địa cho nó. Ngô Tất Tố có năng lực khai thác và
tổ chức ngôn từ rất đáng khâm phục. Không chỉ ở các trường hợp ông
sử dụng những từ Hán Việt... Ngô Tất Tố còn rất đặc sắc khi sử dụng các từ
thuần Việt. Từ thuần Việt trong tản văn báo chí của Ngô Tất Tố mang vẻ đẹp
đa sắc: vừa trang trọng, mực thước, chuẩn xác, vừa thân thiện, dân giã theo lối
khẩu ngữ bình dân. Tinh thần khẩu ngữ trong tản văn báo chí của Ngô Tất Tố
đã góp phần làm giàu cho văn học và báo chí Việt Nam hồi đầu thế kỷ XX ở
tiềm năng biểu đạt theo hướng dân chủ hóa rất gần gũi với đời sống nhân dân.
Phải chăng đó là một trong những chuẩn mực nghề nghiệp hàng đầu,
một loạt hành trang cấp thiết đối với những người làm báo chuyên nghiệp...
Tư duy ngôn ngữ quốc văn hồi ban đầu đối với Ngô Tất Tố chính là tư duy
bằng ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ Việt ngữ. Hơn nữa, tác giả lại sinh ra ngay tại xứ
sở trường tồn của tiếng Việt vốn trải qua bao đời không bị đồng hóa, lại được
tắm mình trong nguồn suối văn hóa dân gian giữa vùng địa linh nhân kiệt của
dân tộc. Đó là cội nguồn mang lại vẻ đẹp đa sắc điệu của ngôn ngữ tản văn
báo chí của Ngô Tất Tố.
Qua kết quả nghiên cứu về phong cách tản văn báo chí của Ngô Tất Tố
cho thấy, đặc tính thâm thúy và sắc sảo thể hiện rõ nét trong ngôn ngữ tản văn
báo chí của ông. Đặc tính đó bắt nguồn sâu xa từ vốn tri thức rất thâm hậu của
một bậc túc Nho, được trưng cất và chắt lọc qua một trí tuệ sắc sảo, mẫn tiệp,
với công lao khổ luyện mà thành văn tài.
Trong bối cảnh hiện nay, khi tổ chức nội dung một tác phẩm báo chí,
với sự đa dạng của các loại hình báo chí người làm báo có nhiều điều kiện
thuận lợi để sử dụng ngôn ngữ văn chương để làm giàu cho ngôn ngữ báo chí
của mình, đặc biệt là trong những thể loại báo chí đặc thù như tản văn. Tuy
nhiên, dù biểu đạt dưới hình thức nào, nhà báo cũng phải thể hiện “tính chuyên
nghiệp bằng cách diễn đạt thông báo cốt lõi trong văn bản truyền thông của
mình, với một lối hành văn báo chí giản dị, trong sáng”[112, tr.61] .
Bằng vốn văn hóa, nhất là vốn ngôn ngữ và văn hóa dân gian phong phú
của quê hương trao truyền, Ngô Tất Tố đã sớm tạo được sức hấp dẫn đối với
146
người đọc qua những trang viết giàu uy lực kiến văn và tiềm năng tác động mỹ
cảm. Qua những tản văn báo chí của mình, Ngô Tất Tố đã gửi đến các thế hệ
đồng nghiệp sau này những bài học về sử dụng ngôn ngữ: phải dùng một số
lượng từ ngữ ít nhất để đạt được hiệu quả lớn nhất khi tạo lập văn bản. Mỗi chữ,
mỗi câu trong văn bản phải được được chắt lọc, tinh luyện kỹ càng. Nhà báo
trước hết phải sử dụng ngôn ngữ sao cho công chúng dễ hiểu và cần “phải nói
bằng ngôn ngữ của công chúng”[90, tr.37]. Như Roy Peter Clack, một chuyên
gia nghiên cứu về truyền thông đã khái quát: “Viết cái gì thì viết nhưng phải
dưới 800 chữ”[80, tr.231], nói cách khác, nhà báo hiện nay phải nằm lòng
phương châm viết báo: “1) ngắn; 2) ngắn; và 3) ngắn. Điều đó cũng là yêu cầu
của hoạt động báo chí chuyên nghiệp. Xu thế hội nhập quốc tế đã và đang ngày
càng sâu rộng trong tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội trong đó có
báo chí và truyền thông và sự hội nhập quốc tế về văn hóa như một nền tảng căn
bản cho sự phát triển của báo chí, truyền thông hiện đại [137].
Tiểu kết Chƣơng 5
Trong Chương 5, luận án đã đi sâu phân tích những nội dung sau:
Một là, về ý nghĩa thực tiễn của kết quả nghiên cứu phong cách tản văn
báo chí của Ngô Tất Tố:
Nghiên cứu về phong cách tản văn báo chí của Ngô Tất Tố cho thấy,
những kết quả nghiên cứu có ý nghĩa thực tiễn, sát hợp với việc cụ thể hóa
những nội dung của Nghị quyết của Đảng trên các bình diện tôn chỉ, mục
đích; tính chân thật, tính chiến đấu, tính nhân dân và tính đa dạng của báo chí.
Những kết quả đó cũng có ý nghĩa thiết thực trong việc nâng cao tinh thần
trách nhiệm của người làm báo trong hoạt động nghề báo hôm nay.
Hai là, một số bài học về nghiệp vụ làm báo rút ra từ kết quả nghiên
cứu về phong cách tản văn báo chí của Ngô Tất Tố
Trong quá trình lựa chọn các sự kiện, hiện tượng của đời sống xã hội để
phản ánh, các nhà báo phải dựa trên nguyên tắc vì lợi ích của dân tộc, của
nhân dân để có sự định hướng đúng đắn và rõ ràng. Đó là ý thức, là trách
nhiệm cao nhất đối với mỗi nhà bào trong hoạt động sáng tạo của mình.
Những phẩm chất đó, có thể học được qua việc nghiên cứu phong cách hoạt
động sáng tạo của Ngô Tất Tố: 1) Bài học về ý thức trong nghề làm báo; nói
đến báo chí là nói đến những vấn đề có tính thời cuộc. Báo chí vừa phải thực
147
hiện đúng tôn chỉ mục đích của mình vừa phải đổi mới để phù hợp với thời
cuộc và nâng cao hiệu quả hoạt động của tờ báo. Ngô Tất Tố coi sự trung
thành với tôn chỉ hoạt động báo chí có giá trị quan trọng sự thủy chung trong
hôn nhân gia đình có chiều sâu văn hóa; 2) Bài học về dũng khí của người
làm báo; 3) Bài học về tính hiện đại và dân tộc trong ngôn ngữ tản văn báo
chí của Ngô Tất Tố.
KẾT LUẬN

1. Tản văn từ rất sớm được coi là các loại văn xuôi nghệ thuật nói
chung, bao gồm nhiều thể: tạp văn, tùy bút, tiểu phẩm, tiểu luận. Các tiểu thể
loại với những cách định danh khá ngẫu hứng, tự do như: nhàn đàm, phiếm
đàm, thời đàm, phiếm luận, tạp trở, đoản văn... cũng được xếp vào phạm trù
tản văn.
Thể loại tản văn báo chí là một thể loại tác phẩm báo chí đặc thù. Tản
văn báo chí cơ bản thể hiện những đặc trưng chủ yếu của tản văn. Tản văn
báo chí thuộc nhóm chính luận nghệ thuật với kết cấu ngắn gọn và linh hoạt,
có nội dung phê phán, đả kích sâu cay bằng tư duy lý tính về những mặt trái
trong cuộc sống đương đại mang hơi thở thời sự dưới một thủ pháp uyển
chuyển và hình tượng rất gần với văn học. Đặc điểm phổ quát của tản văn báo
chí là sự hiện diện trực tiếp của cái tôi tác giả, là sự ưu tiên quan điểm, cách
cảm, cách nhìn của thông tin lý lẽ trước thông tin sự kiện, là sự linh hoạt,
phóng túng trong cách hành văn, trong tổ chức hình ảnh, liên hội các chi tiết.
2. Một số nhân tố chi phối và ảnh hưởng phong cách tản văn báo chí
của Ngô Tất Tố bao gồm: 1) Quê hương giàu truyền thống văn hóa; gia đình
nhà Nho nghèo nhưng hiếu học đã góp phần hình thành nhân cách của một
người có tinh thần yêu nước, yêu nhân dân, cảm thông với người lao động
nghèo khổ; là cái nôi văn hóa với những sắc thái văn hóa giàu chất dân gian,
cổ truyền… tất cả đi vào những trang tản văn báo chí của ông, tạo nên phong
cách riêng có của Ngô Tất Tố; 2) Bối cảnh chính trị, xã hội và báo chí những
thập niên đầu thế kỷ XX; 3) Với sự thích ứng với thời cuộc, Ngô Tất Tố đã
phát huy những yếu tố tích cực của Nho giáo, tiếp thu những giá trị mới trong
148
kỹ năng làm báo của người phương Tây. Tư tưởng tiến bộ, thức thời đã giúp
Ngô Tất Tố sớm tìm thấy điểm gặp gỡ giữa con đường đi của một cây bút
hiện thực với hành trình Cách mạng của dân tộc.
3. Tản văn báo chí của Ngô Tất Tố có 3 đề tài chính: 1) Các vấn đề
chính trị: Đề tài này chủ yếu được viết vào đầu những năm 1930 và trong giai
đoạn Mặt trận dân chủ (1936 - 1939) do những ảnh hưởng thuận lợi của chính
sách nới lỏng việc quản lý và kiểm duyệt báo chí; 2) Các vấn đề văn hóa, xã
hội: đề tài này được Ngô Tất Tố đề cập trong hầu hết các tản văn báo chí của
ông, nhưng tập trung vào đầu những năm 1930 và khoảng thời gian từ 1940
đến 1945. Đây là thời gian chiến tranh thế giới lần thứ nhất, do vậy để trấn áp
các hoạt động chống đối, chính quyền thực dân đã tăng cường kiểm duyệt và
đàn áp báo chí, buộc Ngô Tất Tố phải chuyển hướng ngòi bút của mình phản
ánh về các nội dung văn hóa, xã hội; 3) Các vấn đề quốc tế: Bằng các nguồn
tin khác nhau, Ngô Tất Tố đã có không ít tản văn báo chí của mình để viết về
các vấn đề thời sự quốc tế.
Một trong những điều quan trọng để tạo nên thành công của Ngô Tất
Tố chính là nhờ những lối quan sát hiện thực một cách tỉ mỉ, cẩn trọng, thấu
đáo mảnh đất mà mình chọn làm địa điểm để phát hiện được những chi tiết,
những góc cạnh khác nhau của nội dung vấn đề cần phản ánh. Qua đó, những
chi tiết vừa cung cấp một lượng thông tin chuẩn xác, kịp thời những vấn đề,
sự kiện vừa xảy ra của xã hội.
Toàn bộ tản văn báo chí của Ngô Tất Tố làm thành một bức tranh rộng
lớn và chân thực về xã hội thực dân phong kiến Việt Nam trước Cách mạng
tháng Tám với những biếm họa sinh động, sâu sắc về các loại nhân vật trong xã
hội, những kẻ thực dân phong kiến, bọn tay sai bồi bút, bọn tư sản, bọn làm giàu
bất chính… Ngô Tất Tố đã kế tục truyền thống nghệ thuật dân gian, với sự
tập trung, cô đọng, bằng vài nét phác họa tài tình, Ngô Tất Tố đã vẽ nên được
những bức chân dung với đầy đủ bản chất tính cách của những nhân vật đó.
Những dự báo trong tản văn báo chí của Ngô Tất Tố: 1) Dự báo về
những vấn đề chính trị, về chế độ quản lý như phòng chống tham nhũng, tham
ô hối lộ; 2) Dự báo về những vấn đề xã hội như tệ nạn xã hội, giáo dục, y tế…
149
Những dự báo và hướng nhận thức đó cho đến nay vẫn nguyên giá trị và có ý
nghĩa thực tiễn.
4. Trong nghệ thuật xây dựng đầu đề tản văn, Ngô Tất Tố có sự thay
đổi linh hoạt cú pháp trong cách đặt, khiến cho đầu đề tản văn báo chí của
Ngô Tất Tố vừa bảo đảm yêu cầu đối với một tác phẩm báo chí vừa bảo đảm
tính mới mẻ, giàu sức cuốn hút. Các dạng thức kết cấu trong tản văn báo chí
của Ngô Tất Tố hết sức linh hoạt trên cả ba phương diện: 1) Cách thức và
nghệ thuật đặt vấn đề; 2) Diễn giải nội dung; 3) Kết luận nội dung. Trong đó,
Phần kết luận là phần khái quát vấn đề và đưa ra lời bình. Ấn tượng nhất của
phần này là lời bình của tác giả, hoặc của nhân vật và ở phần này khó có ai
sâu sắc hơn Ngô Tất Tố.
Ngô Tất Tố đã kết hợp được sức thuyết phục logíc trong kết cấu và lập
luận của tiểu phẩm với sức truyền cảm bằng hình tượng, với khả năng điển
hình hóa. Sức thuyết phục logíc của tản văn báo chí của Ngô Tất Tố được thể
hiện qua phương pháp diễn dịch, quy nạp hoặc lập luận loại suy. Trong đó,
ông chủ yếu sử dụng phương pháp diễn dịch và loại suy.
5. Ngô Tất Tố có một phong cách ngôn ngữ riêng, một thế giới nghệ
thuật riêng giàu tinh thần sáng tạo. Từ một nhà Nho ông đã trở thành nhà văn
hiện thực, nhà báo tiến bộ, có tri thức sâu sắc về văn hóa truyền thống phương
Đông. Phong cách ngôn ngữ báo chí của Ngô Tất Tố vừa mang đậm tính
truyền thống lại vừa rất hiện đại, luôn có sự “giao thoa” giữa ngôn ngữ văn
học và ngôn ngữ báo chí với sự kết hợp giữa tính biểu cảm, tính hình tượng
của văn học với tính thông tấn xác tín của ngôn ngữ báo chí.
Ngôn ngữ tản văn báo chí của Ngô Tất Tố còn lưu đọng dấu vết của
ngôn ngữ Nho gia, song lại đậm đà sắc thái ngôn ngữ nông thôn Bắc bộ từ
cách sắp xếp các sự kiện theo trật tự thời gian, cách cấu trúc ngôn ngữ nhịp
nhàng đăng đối, đến cách vận dụng thành ngữ, phương ngữ, cách phối hợp
các phương thức biểu đạt, cách kết cấu câu văn... Với chất liệu ngôn ngữ đó,
tác phẩm của ông thực sự là bức tranh chân thực về xã hội thực dân nửa
phong kiến trước Cách mạng tháng Tám. Trong các tác phẩm báo chí của ông
mỗi trang viết là sự kết hợp giữa những tri thức sâu sắc về văn hóa dân tộc với
150
những sáng tạo về hình thức thể hiện, trong đó có nghệ thuật ngôn từ linh hoạt
của ông.
Ngô Tất Tố sử dụng ngòi bút làm phương tiện đả kích, châm biếm xã
hội. Nghệ thuật châm biếm của Ngô Tất Tố rất linh hoạt, phong phú, có khi
một câu hỏi tu từ cũng thể hiện thái độ châm biếm. Ngô Tất Tố là nhà văn,
nhà báo có nhiều cách tân, sáng tạo trong nghệ thuật ngôn từ. Ngôn ngữ trong
tác phẩm của ông luôn đồng hành cùng thời đại, cập nhật được những vấn đề
thời sự đang diễn ra trong xã hội. Ngòi bút của ông luôn dũng cảm, tiên
phong phanh phui cái xấu, cái ác, bênh vực cái thiện trên tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội. Ngòi bút ấy chưa có cái sức mạnh của một “đòn xoay chế
độ” nhưng trong một chừng mực nào đó, nó cũng đã làm cho người ta nhận
thấy cái vô đạo của giai cấp thống trị, thấy được cuộc sống tối tăm của người
lao động trong xã hội cũ.
6. Ngô Tất Tố đã trực tiếp hoặc gián tiếp trình bày quan điểm của mình
về các vấn đề liên quan đến tổ chức và hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ báo
chí, có thể khái quát ở một số nhóm vấn đề như: nhà báo phải trung thực với
ngòi bút của mình; nói đến báo chí là nói đến những vấn đề có tính thời cuộc.
Thời cuộc luôn thay đổi đòi hỏi báo chí vừa phải thực hiện đúng tôn chỉ mục
đích của mình, vừa phải có những thay đổi cần thiết phù hợp với thời cuộc và
nâng cao hiệu quả hoạt động của tờ báo; phải luôn đề cao ý thức tôn trọng
người đọc.
Người làm báo phải bám sát tôn chỉ hoạt động của tờ báo. Nghề báo là
nơi hội tụ được lý tưởng của Nho gia với khát khao hành động của một thanh
niên Việt Nam yêu nước. Ý thức sâu sắc về vai trò xã hội và trách nhiệm công
dân của người làm báo đã hun đúc nên ở ông lòng yêu nghề, giúp ông vượt
qua bao khó khăn để gắn bó máu thịt với nghề.
7. Trong quá trình nghiên cứu đề tài, chúng tôi thấy có những vấn đề
cần tiếp tục đặt ra để việc nghiên cứu về tản văn báo chí thực sự toàn diện và
có hệ thống như: tản văn trong mối quan hệ với các thể loại tác phẩm báo chí
hiện nay; tản văn trong các hình thức sáng tác gắn với các phương tiện truyền
thông hiện đại; mối quan hệ giữa tản văn báo chí với tản văn văn học và các
151
loại hình nghệ thuật đương đại… Do khuôn khổ, phạm vi nghiên cứu của luận
án và thời gian không cho phép, chúng tôi chưa có điều kiện đi sâu tìm hiểu
những vấn đề này. Chúng tôi hy vọng trong thời gian tới sẽ có dịp tiếp tục
nghiên cứu các vấn đề học thuật thú vị và bổ ích đó./.
152
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ

1. Nguyễn Bùi Khiêm (2011), Đôi nét về tản văn - tiểu phẩm báo chí của
Ngô Tất Tố, Tạp chí Lý luận và truyền thông, số tháng 6, năm 2011.
2. Nguyễn Bùi Khiêm (2011), Nghiên cứu bước đầu về tiểu phẩm báo
chí của Ngô Tất Tố, Tạp chí Người làm báo, số tháng 6, năm 2011.
3. Nguyễn Bùi Khiêm (2015), Quan điểm về hoạt động báo chí của Ngô
Tất Tố, Tạp chí Lý luận và truyền thông, số tháng 7, năm 2015.
4. Nguyễn Bùi Khiêm (2018), Ngô Tất Tố với vấn đề chống tham nhũng,
hối lộ, Tạp chí Người làm báo, số tháng 10, năm 2018.
5. Nguyễn Bùi Khiêm (2018), Một số dự báo về các vấn đề xã hội trong
tản văn báo chí của Ngô Tất Tố, Tạp chí Thông tin khoa học lý luận chính trị,
số tháng 10, năm 2018.
153
TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1. Hoàng Anh (2002), Về cách sử dụng thành ngữ, tục ngữ trên báo chí, Tạp
chí Nghề báo, số 4, 2002.
2 Lại Nguyên Ân (2003), 150 Thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia, Hà
Nội.
3. Vũ Bằng (2008), Bốn mươi năm nói láo, Nxb Lao động, Hà Nội.
4. Vũ Bằng (1971), Những cây cười tiền chiến, Nguyệt san nhân văn, Sài Gòn,
số 1, 1971.
5. Nguyễn Đức Bính (1962), Ngô Tất Tố như tôi đã biết, Tạp chí Văn nghệ, số
61, 1962, Hà Nội.
6. Hoàng Thị Châu (1989), Tiếng Việt trên mọi miền đất nước, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
7. A.A. Chertưchơnưi (2004), Các thể loại báo chí, Nxb Thông tấn, Hà Nội.

8. Trương Chính (1993), Tiểu phẩm của Ngô Tất Tố, Phụ san báo Văn nghệ,
tháng 5/1993.
9. Nguyễn Viết Chước (1974), Lược sử báo chí Việt Nam, Nam Sơn xuất bản,
Sài Gòn.
10. Mast Claudia (2007), Truyền thông đại chúng - công tác biên tập, Nxb
Thông tấn, Hà Nội.
11. Hoàng Đình Cúc, Đức Dũng (2007), Những vấn đề của báo chí hiện đại,
Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
12. Quang Đạm (2010), Một nghề đáng quý, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

13. Nguyễn Đức Đàn (1980), Tập nghiên cứu và bình luận văn học chọn lọc,
tập 2, Nxb Hà Nội.
14. Nguyễn Đức Đàn, Phan Cự Đệ (1962), Ngô Tất Tố, Nxb Văn hóa, Hà Nội.

15. Nguyễn Đức Đàn (1961), Ngô Tất Tố một cây bút chiến đấu xuất sắc trong
văn học Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 3, 1961.
16. Phan Cự Đệ (1975), Ngô Tất Tố toàn tập, Nxb Văn học, Hà Nội.
17. Phan Cự Đệ (2005), Di sản báo chí Ngô Tất Tố, ý nghĩa lý luận và thực tiễn,
Nxb Văn học, Hà Nội.
18. Cao Đắc Điểm, Ngô Thị Thanh Lịch (2011), Tổng tập tản văn Ngô Tất Tố,
Nxb Thông tin và Truyền thông, Hà Nội.
19. Cao Đắc Điểm, Ngô Thị Thanh Lịch (2014), Chân dung Ngô Tất Tố, Nxb
Thông tin và truyền thông.
20. Nguyễn Đăng Điệp (2009), Tuyển tập ký - tản văn Thăng Long, Hà Nội, tập
1, Nxb Hà Nội.
154
21. Nguyễn Hữu Dự (1995), Thuật ngữ báo chí Anh - Việt, Nxb Đồng Nai,
Đồng Nai.
22. Hà Minh Đức (1998), Tiểu phẩm văn học và báo chí của Ngô Tất Tố, Tạp
chí Văn học, số 11, 1998.
23. Hà Minh Đức (2000), Cơ sở lý luận báo chí - Đặc tính chung và phong
cách, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
24. Hà Minh Đức (2009), Người của một thời, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
25. Trần Văn Giàu (1987), Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh, tập 1, Nxb
thành phố Hồ Chí Minh.
26. Guilaiep (1982), Lý luận văn học, Nxb Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.

27 The Missouri Group (2009), Nhà báo hiện đại, Nxb Trẻ, thành phố Hồ Chí
Minh.
28. Dương Quảng Hàm (2005), Quốc văn trích diễm, Nxb Trẻ, Hà Nội.
29. Dương Quảng Hàm (2005), Việt Nam văn học sử yếu, Nxb Trẻ, thành phố
Hồ Chí Minh.
30. Đỗ Thị Thu Hằng (2013), Tâm lý học ứng dụng trong nghề báo, Nxb Thông
tấn, Hà Nội.
31. Lê Thị Đức Hạnh (1983), Đặc sắc trong tiểu phẩm của Ngô Tất Tố, Tạp chí
Văn học, số 6, 1983.
32. Lưu Hiệp (2007), Văn tâm điêu long, Nxb Văn học và Trung tâm Nghiên
cứu Quốc học, Hà Nội.
33. Đỗ Văn Hiểu (2002), Tản văn hiện đại Trung Quốc, Giáo trình Lý luận văn
học, Nxb Đại học Sư phạm Hoa Trung, Trung Quốc, 2002 (website:
dovanhieu.wordpress.com).
34. Nguyễn Thái Hòa (1997), Dẫn luận phong cách học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

35. Nguyễn Công Hoan (1956), Đọc Tắt đèn của Ngô Tất Tố, một cây bút lão
thành, báo Văn nghệ, số 116, 1956.
36. Nguyễn Công Hoan (1971), Đời viết văn của tôi, Nxb Văn học, Hà Nội.

37. Văn Hoàn (1957), Đại hội Văn hóa toàn quốc, Xã hội ấn quán, Sài Gòn.

38. Hội Nhà báo Việt Nam (1960), Bài giảng về tạp văn, Hà Nội.
39. Nguyên Hồng (1954), Nhà văn lão thành Ngô Tất Tố, tạp chí Văn nghệ, số
54, 1954.
40. Hoàng Khả Hưng (2013), Những kết tinh văn hóa Nho giáo trong sáng tác
của tác giả văn học Việt Nam hiện đại Ngô Tất Tố, Tạp chí Hợp lưu, số
tháng 1, 2 và 3, 2013.
41. Phạm Thành Hưng (2007), Thuật ngữ báo chí - truyền thông, Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội.
42. Đỗ Quang Hưng (chủ biên) (2001), Lịch sử báo chí Việt Nam 1865 - 1945,
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
155
43. Nguyễn Bá Hưng (chủ biên) (2010), Từ điển từ ngữ gốc chữ Hán trong
tiếng Việt hiện đại (từ đa tiết), Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
44. Phú Hương (1939), Tắt đèn - tiểu thuyết của Ngô Tất Tố, báo Đông phương,
số 10, ngày 01/9/1939.
45. Mai Hương (1993), Ngô Tất Tố với chúng ta, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.

46. Mai Hương (2000), Ngô Tất Tố Một tài năng lớn, đa dạng, Nxb Văn hóa -
Thông tin, Hà Nội.
47. Mai Hương, Tôn Phương Lan (2001), Ngô Tất Tố về tác gia và tác phẩm,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
48. Đinh Hường (2004), Luận bàn về thể loại báo chí, Tạp chí Người làm báo,
số 2, 2004.
49. Đinh Văn Hường (2007), Các thể loại báo chí thông tấn, Nxb Đại học quốc
gia Hà Nội.
50. Đinh Văn Hường (2011), Giáo trình các thể loại báo chí thông tấn, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
51. Vương Kiến Huy, Dịch Học Kim (2004), Tinh hoa tri thức văn hóa Trung
Quốc, Nxb Thế giới, Hà Nội.
52. Khoa Báo chí, Phân viện Báo chí và tuyên truyền (1995), Báo chí những
vấn đề lý luận và thực tiễn, tập 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
53. Khoa Báo chí, Phân viện Báo chí và tuyên truyền (2001), Báo chí những
điểm nhìn từ thực tiễn, tập II, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
54. Khoa Báo chí, Đại học KHXHNV, Đại học quốc gia Hà Nội (2001), Báo chí
những vấn đề lý luận và thực tiễn, tập 4, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
55. Khoa báo chí, Trường Đại học KHXHNV, Đại học Quốc gia Hà Nội (2005),
Báo chí những vấn đề lý luận và thực tiễn, tập 6, Nxb Đại học quốc gia Hà
Nội.
56. Khoa báo chí, Đại học KHXHNV, Đại học quốc gia Hà Nội (2010), Báo chí
những vấn đề lý luận và thực tiễn, tập 7, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
57. Phan Khôi (1998), Chương dân Thi thoại, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
58. Khrapchenkô (1978), Cá tính sáng tạo nhà văn và sự phát triển văn học,
Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.
59. Đàm Gia Kiện (2006), Trung Quốc cổ đại tản văn sử cảo, Trùng Khánh xuất
bản xã (dẫn theo bản dịch của Nguyễn Đăng Điệp về ký và tản văn).

60. Đinh Trọng Lạc (2002), 99 phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
61. Phong Lê (1994), Ngô Tất Tố - một chân dung lớn, một sự nghiệp lớn, Tạp
chí Văn học, số 1, 1994.
62. Phong Lê (2007), Đến với tiến trình văn học Việt Nam hiện đại, Nxb Hội
nhà văn, Hà Nội.
63. Loichervouet (1999), Viết cho độc giả, Hội nhà báo Việt Nam, Hà Nội.
156
64. Hoàng Minh Lường (1998), Bàn thêm về mối tương giao giữa văn học và
báo chí Việt Nam, Tạp chí Báo chí và Tuyên truyền, số 5, tháng 9-10/1998,
Hà Nội.
65. Hoàng Minh Lường, Nguyễn Thị Huệ (2010), Giáo trình lý luận văn học,
Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
66. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà
Nội.
67. Tiêu Hà Minh (2012), Đi tìm điển tích thành ngữ, Nxb Thông tấn, Hà Nội.

68. Lê Trà My (2008), Tản văn Việt Nam thế kỷ XX (từ cái nhìn thể loại), Luận
án tiến sĩ, Đại học Sư phạm Hà Nội.
69. Lê Trà My (2011), Tản văn Việt Nam hiện đại, Nxb Hải Phòng, Hải Phòng.

70. Vũ Tú Nam (1994), Cây bút sắc bén của một nhà Nho, Báo Văn nghệ, số 1,
1994.
71. Phan Ngọc (1998), Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong truyện Kiều, Nxb
Văn học, Hà Nội.
72. Vương Trí Nhàn (1994), Nhà Nho thức thời, ngòi bút tình cảm của Ngô Tất
Tố, Tạp chí Văn học, số 1, 1994.
73. Nhiều tác giả (1961), Văn học Việt Nam 1900 - 1945, Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
74. Nhiều tác giả (1961), Văn học Việt Nam 1930 - 1945 (hai tập), Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
75. Nhiều tác giả (1973), Lịch sử văn học Việt Nam, tập V, 1930 - 1945, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
76. Nhiều tác giả (1981), Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận, Nxb Văn
học, Hà Nội.
77. Nhiều tác giả (1985), Từ điển Bách khoa toàn thư Liên Xô (dẫn theo Đinh
Văn Hường trong Giáo trình các thể loại báo chí thông tấn).

78. Nhiều tác giả (1993), Ngô Tất Tố với chúng ta, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

79. Nhiều tác giả (2000), Khái yếu lịch sử văn học Trung Quốc, Tập 2, Bùi Hữu
Hồng dịch, Nxb Thế giới, Hà Nội.
80. Nhiều tác giả (2017), Gia Định báo - Tờ báo Việt ngữ đầu tiên, Nxb Văn
hóa - Văn nghệ, thành phố Hồ Chí Minh.
81. Võ Văn Nhơn, Nguyễn Thị Phương Thúy (2012), Văn chương phương Nam
một vài bổ khuyết, Nxb Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh.
82. Philippe M.F.Peycam (2015), Làng báo Sài Gòn 1916 - 1930, Nxb Trẻ,
thành phố Hồ Chí Minh.
83. Vũ Ngọc Phan (2008), Tuyển tập, tập 1, Nxb Văn học, Hà Nội.
84. Vũ Ngọc Phan (2008), Tuyển tập, tập 4, Nxb Văn học, Hà Nội.
157
85. Hoàng Trọng Phiến (1980), Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Đại học Trung học
chuyên nghiệp, Hà Nội.
86. Trần Thế Phiệt (1995), Tác phẩm báo chí, tập III, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

87. Trần Thế Phiệt (2014), Tác phẩm báo chí chính luận, tập III, Nxb chính trị
quốc gia, Hà Nội.
88. Thế Phong (1959), Những nhà văn tiền chiến 1930 - 1945, Nxb Vàng Son,
Sài Gòn.
89. Vũ Trọng Phụng (1939), Tắt đèn của Ngô Tất Tố, báo Thời vụ, số 100, ngày
31/01/1939.
90. E.P. Prôkhôrốp (2004), Cơ sở lý luận của báo chí, tập 1, Nxb Thông tấn, Hà
Nội.
91. Phan Quang (2005), Nghề báo nghiệp văn, Nxb Thông tấn, Hà Nội.

92. Phan Quang (2010), Tuyển tập 10 năm 1998 - 2008, Nxb Văn học, Hà Nội.

93. Phan Quang (2011), Thương nhớ vẫn còn, Nxb Văn học, Hà Nội.

94. Trần Quang (2000), Các thể loại chính luận báo chí, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
95. Trần Quang (2000), Sử dụng ngôn ngữ trên báo, Tạp chí Người làm báo, số
12/2000, Hà Nội.
96. Trần Quang (2001), Làm báo lý thuyết và thực hành, Nxb Đại học quốc gia
Hà Nội.
97. Dương Trung Quốc (2001), Việt Nam những sự kiện lịch sử (1858 - 1918),
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
98. Dương Trung Quốc (2001), Việt Nam những sự kiện lịch sử (1919 - 1945),
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
99. Nguyễn Hữu Quỳnh (2001), Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Từ điển bách khoa,
Hà Nội.
100. Fred S.Siebert, Theodore Peterson, W.Schramm (2014), Bốn học thuyết
truyền thông, Nxb Tri thức, Hà Nội.
101. Nguyễn Khắc Sinh (2005), Phong cách thời đại nhìn từ một thể loại văn
học, Nxb Văn học, Hà Nội.
102. Dương Xuân Sơn (2004), Các thể loại báo chí chính luận nghệ thuật, Nxb
Đại học quốc gia Hà Nội.
103. Dương Xuân Sơn, Đinh Văn Hường, Trần Quang (2011), Cơ sở lý luận báo
chí truyền thông, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
104. Thiếu Sơn (2001), Nghệ thuật và nhân sinh, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà
Nội.
105. Trần Đình Sử, La Khắc Hòa, Phùng Ngọc Kiếm, Nguyễn Xuân Nam
(2012), Lý luận Văn học, tập 2, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
158
106. Đỗ Tiến Sỹ (2012), Phong cách nhà văn và tìm hiểu tác phẩm văn học, Nxb
Văn học, Hà Nội.
107. Tạ Ngọc Tấn (1995), Tác phẩm báo chí, tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

108. Tạ Ngọc Tấn (1999), Từ lý luận đến thực tiễn báo chí, Nxb Văn hóa -
Thông tin, Hà Nội.
109. Tạ Ngọc Tấn (2000), Tiểu phẩm báo chí Hồ Chí Minh, Nxb Văn hóa thông
tin, Hà Nội.
110. Tạ Ngọc Tấn, Trịnh Đình Thắng, Đinh Thế Huynh, Lê Mạnh Bình (1999),
Cơ sở lý luận báo chí, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
111. Tạ Ngọc Tấn (2018), Ngô Tất Tố - cây câu nối giữa báo chí với văn
chương, Tạp chí Người làm báo, số 01/2018.
112. Nguyễn Thị Minh Thái (2011), Phê bình tác phẩm văn học nghệ thuật trên
báo chí, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
113. Phan Đăng Thanh, Trương Thị Hòa (2017), Lịch sử các chế độ báo chí ở
Việt Nam, tập 1, Nxb Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh.
114. Hữu Thọ (2000), Công việc của người viết báo, Nxb Đại học quốc gia Hà
Nội.
115. Võ Văn Thưởng (2017), Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công tác báo chí
và truyền thông (http://www.nhandan.com.vn/chinhtri).
116. Ngô Tất Tố (1931), Mình cũng muốn xin một tờ báo, Báo Đông phương, số
452, 1931.
117. Ngô Tất Tố (1940), Hán học cuối năm Kỷ Mão, Hà Nội Tân văn, số 5, ngày
6/2/1940.
118. Ngô Tất Tố (1962), Tắt đèn, Nxb Văn hóa, Viện Văn học, Hà Nội.
119. Ngô Tất Tố (2005), Tiểu phẩm báo chí, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
120. Nguyễn Khánh Toàn, Nguyễn Công Bình, Văn Tạo, Phạm Xuân Nam, Bùi
Đình Thanh (1985), Lịch sử Việt Nam, tập II, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
121. Huỳnh Văn Tòng (2016), Báo chí Việt Nam từ khởi thủy đến 1945, Nxb
Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh.
122. Trần Thị Trâm (2003), Văn học và báo chí từ một góc nhìn, Nxb Thanh
niên, Hà Nội.
123. Hà Xuân Trường (1994), Tuyển tập, Nxb Văn học, Hà Nội.
124. Nguyễn Văn Tu, Nguyễn Kim Thản (1976), Từ và vốn từ tiếng Việt hiện
đại, Nxb Đại học và trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
125. Nguyễn Thanh Tú (2011), Tiếng cười trào phúng Hồ Chí Minh, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
126. Tủ sách lịch sử và văn hóa (2000), Tạp trí Tri tân 1941 - 1946, tập 1, Trung
tâm Unesco, Thông tin tư liệu lịch sử và văn hóa Việt Nam, Hà Nội.
127. Tạ Quốc Tuấn (2005), Tản văn hiện đại Trung Quốc, Tạp chí Văn học, số
228, 2005.
128. Trần Minh Tước (1939), Một nhà văn của dân quê, Ngô Tất Tố trong Tắt
đèn, báo Mới, ngày 15/6/1939.
159
129. Văn kiện Đảng (2007), Nghị quyết số 16-NQ/TW, ngày 01/8/2007, Hội
nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương (khóa X) về công tác tư
tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới.
130. Viện Văn học (1964), Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam 1930 - 1945, Nxb
Văn học, Hà Nội, 1964.
131. Viện Ngôn ngữ học, Hoàng Phê chủ biên (2001), Từ điển tiếng Việt, Nxb
Đà Nẵng.
132. Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Sử học (2007), Lịch sử Việt Nam, tập
VIII (1919-1930), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
133. Viện Ngôn ngữ học (2001), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.

134. Viện Ngôn ngữ học (2003), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng và Trung tâm
Từ điển học, Hà Nội.
Tiếng Anh

135. CPA (1990), The Community Newspaper, Communication Assistance


Foundation The Netherlands (10)
136. Marcel Danesi (2010), Dictionary of Media and Communications, Taylor
and Francis Ltd, London (bản gốc tiếng Anh) (132)
137. Brynildssen, Shawna (2002), A Review of Trends in Journalism
Education, ERIC Digest.
Tiếng Pháp

138. Jean Luc Martin Lagardette (2003), Le guide de l’écriture journalistique, La


Découverte, Paris.
139. Gergeley T. (1992), Information et persuation ecrire, De Boeck Université.

You might also like