https:repository.vnu.edu.vn:bitstream:VNU_123:79060:1:V_L2_01722

You might also like

Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 105

1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI


TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------

NGÔ MINH THUẬN

TÌM HIỂU TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH


VỀ ĐOÀN KẾT TÔN GIÁO Ở TỈNH THÁI BÌNH
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SỸ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI – 2009
2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI


TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------

NGÔ MINH THUẬN

TÌM HIỂU TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH


VỀ ĐOÀN KẾT TÔN GIÁO Ở TỈNH THÁI BÌNH
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Chuyên ngành: Triết học


Mã số: 60.22.80

LUẬN VĂN THẠC SỸ TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn khoa học:


TS. TRẦN THỊ KIM OANH

HÀ NỘI - 2009
3

Lời cảm ơn!


Tác giả xin trân trọng cảm ơn tới cô giáo TS. Trần Thị Kim Oanh, khoa
Triết học của trường Đại học khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc
gia Hà Nội đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tác giả hoàn thành đề tài nghiên
cứu khoa học.
Xin trân trọng cảm ơn tới các thầy, cô giáo trong khoa Triết học của
trường Đại học khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội đã
định hướng, giúp đỡ tác giả trong việc lựa chọn đề tài khoa học trên để nghiên
cứu. Đề tài bước đầu đã đáp ứng đúng nhiệm vụ học tập, nghiên cứu của nhà
trường đề ra cũng như tình hình thực tiễn ở địa phương tỉnh Thái Bình đặt ra
trong giai đoạn hiện nay.
Xin chân thành cảm ơn tới tập thể lớp cao học triết khoá K.15 đã cộng
tác, giúp đỡ và có nhiều đóng góp quan trọng giúp tác giả hoàn thành đề tài.
4

LỜI CAM ĐOAN.

- Tôi xin cam đoan công trình nghiên cứu khoa học: Tìm hiểu tư tưởng
Hồ Chí Minh về đoàn kết tôn giáo ở tỉnh Thái Bình trong giai đoạn hiện nay,
dưới sự hướng dẫn của TS. Trần Thị Kim Oanh là hoàn toàn mới, không có
sự trùng lặp với các công trình nghiên cứu khác.

- Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của
luận văn chưa từng được công bố trong bất cứ công trình khoa học nào.

TÁC GIẢ

Ngô Minh Thuận


5

BẢNG KÝ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CNXH : Chủ nghĩa xã hội

CN : Công nguyên

CNH, HĐH : Công nghiệp hoá, hiện đại hoá

MTTQ : Mặt trận Tổ quốc

NQ : Nghị quyết

QLNN : Quản lý nhà nước

QĐ : Quyết định

UBND : Uỷ ban nhân dân

XHCN : Xã hội chủ nghĩa


6
7

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong hơn 70 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản trên nền
tảng chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh nhân dân ta đã vượt qua
nhiều khó khăn và thử thách; đồng thời thu được những thành tựu rất quan
trọng về kinh tế, chính trị – xã hội, văn hoá. Vì vậy, tại Đại hội VII, Đảng
khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm
nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động”. Thực hiện tinh thần trên,
trong những năm đổi mới tư tưởng Hồ Chí Minh được Đảng ta tiếp tục vận
dụng, phát triển sáng tạo vào trong đời sống xã hội cũng đã giành được nhiều
thắng lợi to lớn. Đến Đại hội X, Đảng tổng kết rút ra bài học kinh nghiệm:
“Trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh”.
Tại Thái Bình, nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV (năm
1991) đã xác định: “Mọi chủ trương, đường lối của Đảng bộ tỉnh trong quá
trình đổi mới cần dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và tình hình thực tiễn ở địa phương”. Quán triệt tinh thần nghị quyết
trên, Đảng bộ và chính quyền tỉnh nhiều năm qua luôn làm tốt công tác vận
dụng sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh vào quá trình lãnh đạo, chỉ đạo việc thực hiện tốt các nhiệm vụ
chính trị, trong đó có nhiệm vụ xây dựng khối đoàn kết tôn giáo. Trên thực tế
cũng chỉ ra, Thái Bình là một tỉnh đông dân trong đó đồng bào theo các tôn
giáo chiếm gần 1/3 dân số của tỉnh, chủ yếu là ba tôn giáo chính: Công giáo,
Phật giáo và Tin lành giáo. Tỉnh xác định, đây là nguồn lao động dồi dào có
tiềm năng và sức sáng tạo mạnh mẽ, sẽ góp phần quan trọng vào việc thực
hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH của địa phương. Vì vậy, một trong
những nhiệm vụ chính trị đặt ra cho Đảng bộ và chính quyền tỉnh Thái Bình
là phải xây dựng tốt khối đoàn kết toàn dân; trong đó đặc biệt chú trọng xây
8

dựng tốt khối đoàn kết tôn giáo, mục đích phát huy và tăng cường hơn nữa
sức mạnh nội lực của đồng bào tín đồ các tôn giáo nhằm tạo ra thế và lực đảm
bảo cho sự phát triển nhanh và bền vững trên các mặt: chính trị, kinh tế - xã
hội, văn hoá hiện nay.
Xuất phát từ tình hình thực tế và nhiệm vụ chính trị của địa phương, tác
giả đã mạnh dạn lựa chọn đề tài nghiên cứu: Tìm hiểu tƣ tƣởng Hồ Chí
Minh về đoàn kết tôn giáo ở tỉnh Thái Bình trong giai đoạn hiện nay -
làm luận văn thạc sỹ chuyên ngành triết học.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm qua, đã có nhiều công trình của các nhà khoa học đi
sâu nghiên cứu về vấn đề tôn giáo nói chung và tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn
giáo nói riêng với nhiều góc độ, phương pháp, phạm vi nghiên cứu cũng khác
nhau như:
Trịnh Xuân Giới, Phó Trưởng ban dân vận Trung ương với đề tài: Tôn
giáo - những chỉ dẫn về tƣ tƣởng và nhân văn trong sự nghiệp cách mạng
của dân tộc, của Đảng ta, Nxb Tôn giáo, Hà Nội, năm 2003; Hồ Trọng
Hoài, Trung tâm khoa học về tín ngưỡng và tôn giáo với đề tài: Hồ Chí Minh
về đoàn kết tôn giáo, đoàn kết dân tộc, Nxb Tôn giáo, Hà Nội, năm 2003;
Lê Quang Vịnh, Trưởng ban Tôn giáo của Chính phủ với đề tài: Tƣ tƣởng
Hồ Chí Minh về quản lý nhà nƣớc đối với tôn giáo, Nxb Tôn giáo, Hà
Nội, năm 2003; Phạm Như Cương, nguyên Viện trưởng Viện khoa học xã hội
Việt Nam với đề tài: Các Mác-Ph.Ăngghen, Hồ Chí Minh về tôn giáo -
một số vấn đề có ý nghĩa phƣơng pháp luận và quan điểm, Nxb Tôn giáo,
Hà Nội, năm 2003; Nguyễn Xuân Oánh, Viện trưởng Viện chủ nghĩa xã hội
khoa học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh với đề tài: Hồ Chí Minh
về mối quan hệ giữa tôn giáo với chủ nghĩa xã hội, Nxb Tôn giáo, Hà Nội,
năm 2003; Đỗ Quang Hưng, Viện trưởng Viện nghiên cứu Tôn giáo - Trung
tâm khoa học xã hội và nhân văn Quốc gia: Hồ Chí Minh và nền tảng luật
pháp tôn giáo ở nƣớc ta, Nxb Tôn giáo, Hà Nội, năm 2003; Đặng Nghiêm
9

Vạn, nguyên Viện trưởng Viện nghiên cứu Tôn giáo: Hồ Chủ tịch với đặc
trƣng tôn giáo Việt Nam, Nxb Tôn giáo, Hà Nội, năm 2003...
Tại tỉnh Thái Bình cũng có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về tôn
giáo như đề tài: Tình hình truyền đạo trái phép, tà đạo và mê tín dị đoan ở
Thái Bình, do Ban tôn giáo tỉnh Thái Bình thực hiện năm 1997; Di tích lịch sử
đền Trần, do Uỷ ban nhân dân tỉnh Thái Bình thực hiện năm 2001; Quản lý
nhà nƣớc về tôn giáo ở tỉnh Thái Bình; Phát triển đảng viên trong đồng bào
công giáo do trường Chính trị tỉnh Thái Bình đảm nhiệm, từ năm 2005 đến
2006... Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có đề tài khoa học nào nghiên cứu tư
tưởng Hồ Chí Minh về việc xây dựng khối đoàn kết tôn giáo ở tỉnh Thái Bình
trong giai đoạn đổi mới.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích
Thông qua việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết tôn giáo,
tác giả làm rõ việc Đảng bộ và chính quyền tỉnh Thái Bình vận dụng tư tưởng
của Hồ Chí Minh vào xây dựng khối đoàn kết tôn giáo ở địa phương giai đoạn từ
1986 đến nay.
- Nhiệm vụ
Một là; trên cơ sở làm rõ nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về
đoàn kết tôn giáo. Qua đó, tác giả thấy rõ được những nội dung, nguyên tắc và
phương pháp cơ bản về đoàn kết tôn giáo của Hồ Chí Minh.
Hai là; chỉ ra quá trình xây dựng khối đoàn kết tôn giáo ở tỉnh Thái Bình
trên cơ sở vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh giai đoạn từ 1986 đến nay.
Ba là; đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm xây dựng tốt khối đoàn
kết tôn giáo ở tỉnh Thái Bình từng bước đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn


- Đối tượng nghiên cứu
10

Quá trình xây dựng khối đoàn kết tôn giáo ở tỉnh Thái Bình vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh giai đoạn từ 1986 đến nay.
Những chủ trương, nghị quyết, chính sách và giải pháp của Đảng bộ,
UBND, Mặt trận tổ quốc, Ban tôn giáo tỉnh Thái Bình về xây dựng khối đoàn
kết tôn giáo từ năm 1986 đến nay.
- Phạm vi nghiên cứu
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc xây dựng khối đoàn kết tôn
giáo ở tỉnh Thái Bình từ năm 1986 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
- Cơ sở lý luận: đề tài thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các văn kiện, nghị quyết của Đảng, các báo cáo
tổng kết hàng năm của Tỉnh uỷ, UBND tỉnh, UBND các huyện về tôn giáo và
công tác tôn giáo.
- Phương pháp nghiên cứu: đề tài dựa trên phương pháp duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử; kết hợp với các phương pháp tổng hợp, thống kê, so
sánh... để làm rõ nội dung chủ yếu của đề tài.
6. Những đóng góp và ý nghĩa của luận văn
- Làm rõ việc Đảng bộ và chính quyền tỉnh vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh vào việc xây dựng khối đoàn kết tôn giáo ở tỉnh Thái Bình trong những
năm đổi mới vừa qua.
- Đề xuất một số bài học kinh nghiệm mang tính định hướng trong việc xây
dựng khối đoàn kết tôn giáo ở địa phương tỉnh Thái Bình những năm tiếp theo.
- Kết quả nghiên cứu đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong quá
trình nghiên cứu, giảng dạy ở trường Đảng tỉnh và các trung tâm bồi dưỡng lý
luận chính trị tại các huyện, thị...
7. Kết cấu nội dung nghiên cứu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục luận
văn gồm 2 Chương, 6 tiết.
11

NỘI DUNG
Chương 1:
NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ ĐOÀN KẾT TÔN GIÁO
TRONG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH
1.1. Cơ sở hình thành tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về đoàn kết tôn giáo
1.1.1. Cơ sở lý luận
Hồ Chí Minh đã kế thừa, tiếp thu truyền thống đoàn kết của dân tộc
Việt Nam trong suốt thời kỳ dài lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ
nước. Đây chính là hệ tư tưởng quan trọng đã giúp cho nhiều thế hệ người
Việt Nam nói chung và Hồ Chí Minh nói riêng trong việc tổ chức, xây dựng
và tập hợp lực lượng cách mạng của toàn dân nhằm bảo vệ và xây dựng Tổ
quốc; đồng thời cảnh giác với các thế lực “thù trong, giặc ngoài” cũng như
các âm mưu muốn chia rẽ, bóc lột nô dịch dân tộc Việt Nam. Ngược lại chặng
đường lịch sử, nhìn lại quá khứ bất kỳ người dân Việt Nam yêu nước nào
cũng có thể cảm nhận thấy bức tranh toàn cảnh, đậm nét, oai hùng, oanh liệt
trong chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam. Một dân tộc nhỏ bé nhưng
đã biết đoàn kết lại thành một khối thống nhất với mong muốn tạo ra một sức
mạnh tổng hợp trong toàn dân tộc, để đứng lên đấu tranh đánh bại các thế giặc
lớn từ phương Bắc tràn sang xâm lược như: triều đại nhà Hán, nhà Nguyên,
nhà Minh, nhà Thanh mà triều đại nào cũng muốn xâm lược, bóc lột, nô dịch
thống trị dân tộc Việt Nam. Bên cạnh đó, điều kiện tự nhiên cũng rất khắc
nghiệt thường xuyên ảnh hưởng lớn đến đời sống sinh hoạt sản xuất của
người dân, khi nắng “như thiêu, như đốt”, khi rét như “cắt da, cắt thịt”, không
những thế dân tộc Viêt Nam còn phải liên tục chống chọi, đối mặt với những
hiện tượng tự nhiên bất thường xảy ra như: bão gió, lũ lụt, hạn hán.., nhưng
để trường tồn và phát triển trong điều kiện như trên thì chỉ có phương thức
12

sống duy nhất đó chính là tinh thần đoàn kết toàn dân, cố kết cộng đồng của
dân tộc Việt Nam.
Vì vậy, cần khẳng định tinh thần đoàn kết dân tộc có một giá trị rất quý
báu, thiết thực mang tính sống còn đảm bảo cho sự trường tồn và phát triển
lâu dài của dân tộc Việt Nam. Tinh thần đó đã nhanh chóng trở thành truyền
thống đoàn kết, gắn bó một cách tự nhiên nối tiếp từ thế hệ này sang thế hệ
khác, ăn sâu vào tiềm thức của từng cá nhân trong cộng đồng người Việt Nam
và được hun đúc bằng nhiều câu ca dao, tục ngữ cũng như tư tưởng triết lý
nhân sinh như:
“Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước thì thương nhau cùng”
“Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”.
Trong tư tưởng triết lý nhân sinh của con người Việt Nam:
“Đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết”.
“Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”.
Đến thời đại Hồ Chí Minh, truyền thống đoàn kết của dân tộc Việt Nam
được kế thừa và nâng lên thành tư tưởng đại đoàn kết mang tính chiến lược
cách mạng. Người chỉ ra, trong thời đại mới muốn đánh đổ được các thế lực
đế quốc thực dân xâm lược nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và
giải phóng con người, nếu chỉ dựa vào số ít người lao động thì cách mạng sẽ
nhanh chóng bị thất bại. Do đó, cách mạng muốn thành công thì phải tập hợp
được tất cả mọi lực lượng yêu nước lại. Cho nên, Người nói: “Tôi khuyên
đồng bào đoàn kết chặt chẽ và rộng rãi. Năm ngón tay cũng có ngón ngắn
ngón dài. Nhưng ngắn dài đều họp nhau lại nơi bàn tay. Trong mấy mươi triệu
13

con người cũng có người thế này thế khác, nhưng thế này hay thế khác đều là
giòng dõi của tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan hồng đại độ. Ta phải nhận
rằng đã là con Lạc, cháu Hồng thì ai cũng có ít nhiều lòng ái quốc. Đối với
đồng bào lạc lối lầm đường, ta phải lấy tình thân ái mà cảm hoá họ. Có như
thế mới thành đoàn kết, có đoàn kết thì tương lai chắc chắn sẽ vẻ vang.”[39,tr.
246-247]. Ngoài truyền thống đoàn kết nêu trên thì truyền thống yêu nước
cũng đồng hành cùng dân tộc trong suốt quá trình đấu tranh dựng nước và giữ
nước. Cho nên, đối với mỗi người dân Việt Nam luôn ý thức sâu sắc về mối
quan hệ gắn bó mật thiết giữa nhà - làng – nước thành một khối thống nhất
không thể tách rời, nhờ vậy đã hình thành nên quan niệm sống “nước mất thì
nhà tan”. Vì vậy, mỗi khi có giặc ngoại bang đến xâm phạm bờ cõi, từ người
già đến người trẻ không phân biệt nam, nữ, dòng tộc, vùng, miền... đều tham
gia đánh giặc. Điển hình như trong Hội nghị Diên Hồng mọi người đều đồng
tâm, nhất trí nêu cao tinh thần yêu nước dám xả thân cho nền độc lập dân tộc
của Tổ quốc hay trong các bài thơ, bài văn chính luận của các bậc tướng lĩnh
khi ra trận như: “Hịch tướng sỹ” của Trần Quốc Tuấn; “Nam quốc sơn hà”
của Lý Thường Kiệt; “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi đều khẳng định rõ
tinh thần yêu nước nồng nàn, ý chí quyết tâm bảo vệ độc lập chủ quyền thống
nhất toàn vẹn lãnh thổ của dân tộc. Chính vì vậy, truyền thống yêu nước đã
nhanh chóng trở thành bức tường thành vững chắc nhất, kiên cố nhất trong
việc bảo vệ nền độc lập dân tộc lâu dài. Đến thời đại Hồ Chí Minh cũng đã
xuất hiện nhiều bậc tiền bối với tầm lòng yêu nước, thương dân như: Hoàng
Hoa Thám, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Lương Văn
Can, Nguyễn Thái Học, Nguyễn Quyền... đã vạch ra nhiều con đường để cứu
nước và gây dựng các phong trào cách mạng nhằm nhằm giải phóng dân tộc
thoát khỏi cảnh lầm than nô lệ của thực dân Pháp xâm lược, nhưng đều bị thất
bại do không có lý luận cách mạng soi đường. Hồ Chí Minh lớn lên chứng
kiến cảnh nước mất, nhà tan đời sống nhân dân vô cùng cực khổ, chịu cảnh áp
14

bức nô lệ “một cổ, ba chòng”. Vì vậy, Người đã quyết tâm đi sang phương
Tây tìm con đường cứu nước, cứu dân. Sau nhiều năm bôn ba ở Châu Âu,
Châu Mỹ, Châu Phi đã giúp Người tìm ra con đường cứu nước, giải phóng
cho dân tộc.
Bên cạnh những giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam nêu trên, Hồ
Chí Minh còn tích cực tiếp thu những tinh hoa văn hoá phương Đông –
phương Tây thông qua các học thuyết Nho giáo, Phật giáo, Ki tô giáo; đặc
biệt là học thuyết Mác – Lênin về tôn giáo và đoàn kết tôn giáo. Nho giáo vào
Việt Nam từ thời Bắc thuộc (đầu CN), nhưng trong suốt thời gian đầu chống
Bắc thuộc Nho giáo chưa có chỗ đứng trong xã hội Việt Nam. Vì đó là văn
hoá xâm lược áp đặt, muốn đồng hoá - Hán hoá dân tộc, nhưng về sau do yêu
cầu khách quan của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất
nước Nho giáo ngày càng chiếm vị trị quan trọng trong đời sống của dân tộc
Việt Nam. Năm 1070 với sự kiện Lý Thánh Tông cho lập Văn Miếu thờ Chu
Công (Khổng Tử), khi đó Nho giáo mới được coi là tiếp nhận chính thức, đến
thế kỷ XV Nho giáo đã trở thành quốc giáo. Người Việt Nam đã chủ động
tiếp thu những tư tưởng tiến bộ trong Nho giáo để phục vụ cho mục đích
chính trị của dân tộc như: thuyết “Tam cương”, “Ngũ thường” nhằm duy trì
tôn tư, trật tự trong xã hội cùng với các tư tưởng đạo đức như: Nhân, Nghĩa,
Lễ, Trí, Tín, “trung quân, ái quốc”; tu thân, tề gia trị quốc, bình thiên hạ với
khát vọng xây dựng một nền độc lập tự chủ thái bình thịnh trị... Đến thời đại
Hồ Chí Minh, Nho giáo vẫn giữ một vị trí quan trọng trong công cuộc giải
phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hồ Chí Minh đã tích cực tiếp
thu, chọn lọc và vận dụng sáng tạo những tư tưởng tiến bộ của Nho vào trong
sự nghiệp cứu nước, cứu dân như: tư tưởng đạo đức trung với nước, hiếu với
dân; tư tưởng cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; tư tưởng tu thân tề gia trị
quốc bình thiên hạ; tư tưởng về xây dựng một “thế giới đại đồng” của Khổng
Tử, trong đó con người phải yêu thương tôn trọng lẫn nhau, trên dưới hoà
15

thuận không phân biệt đối xử. Người nói: “Khổng Tử vĩ đại (551 trước CN)
khởi xưởng thuyết đại đồng và truyền bá sự bình đẳng về tài sản. Ông từng
nói: “Thiên hạ sẽ thái bình khi thế giới đại đồng. Người ta không sợ thiếu, chỉ
sợ không đồng đều. Bình đẳng sẽ xoá bỏ nghèo nàn..,”[36,tr.35]. Bên cạnh
những ảnh hưởng lớn của Nho giáo đến đời sống tinh thần của người dân Việt
Nam thì Phật giáo là một tôn giáo lớn trên thế giới cũng ảnh hưởng rất sâu sắc
đến đạo đức, lối sống và thực hành đạo đức xã hội của dân tộc Việt Nam,
nhưng khác với Nho giáo vào Việt Nam bằng con đường xâm lược đồng hoá
dân tộc thì ngược lại Phật giáo vào Việt Nam bằng con đường hoà bình. Theo
Đại Việt sử ký toàn thư nhận định, Phật giáo truyền vào Việt Nam đầu tiên ở
trung tâm Luy Lâu (Bắc Ninh) cùng thời với các trung tâm Bành Thành, Lạc
Dương của Trung Quốc vào cuối thế kỷ thứ II (sau CN). Phật giáo vào Việt
Nam theo hai con đường, đường thuỷ thông qua buôn bán với thương gia Ấn
Độ, đường bộ thông qua giao lưu văn hoá với Trung Quốc. Đạo Phật đến với
Việt Nam bằng con đường hoà bình, giáo lý của đạo Phật rất gần gũi với quần
chúng nhân dân lao động với các tư tưởng về tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn
kết, cứu khổ, cứu nạn, yêu thương con người...Vì vậy, Phật giáo đã sớm
chiếm được vị trị quan trọng trong đười sống tinh thần của dân tộc Việt Nam
và nhanh chóng trở thành tôn giáo của dân tộc. Đến thời đại Hồ Chí Minh,
Phật giáo đã ăn sâu vào lối sống của nhiều người dân Việt Nam trong đó có
Hồ Chí Minh; đặc biệt là các tư tưởng về tự do, từ bi, bình đẳng, bác ái, đoàn
kết, yêu thương giúp đỡ con người trong những lúc khó khăn, hoạn nạn.
Thông qua những tư tưởng tiến bộ của Phật giáo nêu trên đã góp phần hình
thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân, đoàn kết tôn giáo nhằm
giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Người nói:
“Đức Phật là đại từ, đại bi, cứu khổ, cứu nạn, muốn cứu chúng sinh ra khỏi
khổ nạn...”[40,tr.197].
16

Ngoài những yếu tố tiến bộ của Phật giáo ảnh hưởng sâu sắc đến đời
sống tinh thần và thực hành đạo đức xã hội của nhiều người dân Việt Nam nói
chung và tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo và đoàn kết tôn giáo nói riêng thì
đạo Công giáo xuất hiện muộn nhưng cũng có sự ảnh hưởng rất lớn đến đức
tin, lối sống của một bộ phận không nhỏ người dân Việt Nam, khác với Phật
giáo vào Việt Nam bằng con đường hoà bình thì Công giáo vào Việt Nam
bằng âm mưu mở rộng đất thánh của giáo sỹ phương Tây cùng với âm mưu
xâm lược của thực dân Pháp. Công giáo vào Việt Nam từ thế kỷ XVI do một
số giáo sỹ người Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và người Pháp truyền giáo.
Trong thời kỳ đầu, việc truyền đạo vào Việt Nam chưa đạt kết quả cao do
những bất đồng về ngôn ngữ. Sang thế kỷ XVII việc truyền đạo mới đem lại
hiệu quả, người đóng vai trò lớn trong việc truyền giáo vào Việt Nam là một
Linh mục người Pháp Alexandre De Rhodes thông thạo tiếng Việt lại tận tuỵ
hết mình với sứ mệnh truyền đạo. Vì vậy, công cuộc truyền giáo đã từng bước
xây dựng được những cơ ban đầu ở Hà Tiên (Thanh Hoá), lôi kéo nhân dân đi
theo số lượng ngày một đông. Quá trình truyền đạo Công giáo vào Việt Nam
có những biến động rất phức tạp, do sự khác nhau về tín ngưỡng, văn hoá đối
với dân tộc. Triều đình nhà Nguyễn đã phải ba lần xuống chiếu để cấm đạo,
nhưng được sự tiếp tay bảo hộ của thực dân Pháp đối với đạo Công giáo ở
Việt Nam. Vì vậy, đạo Công giáo vẫn tồn tại và phát triển; đồng thời cũng có
những ảnh hưởng nhất định đến một bộ phận quần chúng nhân dân lao động
về đức tin, lối sống và thực hành đạo đức xã hội. Tư tưởng của đạo Công giáo
nhìn chung phản ánh những khát vọng của quần chúng nhân dân lao động về
cuộc sống tự do, hạnh phúc, yêu thương con người, thảo kính Cha Mẹ, đoàn
kết giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống hàng ngày... Đến thời đại Hồ Chí Minh,
đạo Công giáo đã chiếm được vị trí trong đời sống tinh thần của một bộ phận
quần chúng nhân dân lao động về đức tin, lối sống và thực hành xã hội. Chính
vì vậy, Hồ Chí Minh đă tiếp thu, vận dụng sáng tạo những ưu điểm tiến bộ
17

của đạo Công giáo vào việc xây dựng cuộc sống “tốt đời, đẹp đạo”, “Kính
Chúa, yêu nước”.
Người nói: “Chúa Giê Su dạy: Đạo đức là bác ái.
Phật Thích Ca dạy: Đạo đức là từ bi.
Khổng Tử dạy: Đạo đức là nhân nghĩa”[41,tr.225].
Theo Hồ Chí Minh thì tôn giáo nào cũng đạo đức, yêu thương chia sẻ
giúp đỡ con người trong những lúc khó khăn, hoạn nạn. Cho nên, Người đã
biết chủ động tìm kiếm và khai thác những điểm tương đồng, những giá trị
đạo đức trong các tôn giáo gắn với cách mạng Việt Nam, giữa đức tin tôn
giáo với tình yêu Tổ quốc; đồng thời biết tôn trọng và loại bỏ những cái dị
biệt về thế giới quan, hệ tư tưởng, nhu cầu tín ngưỡng nhằm huy động tất cả
các lực lượng yêu nước vào trong sự nghiệp "cứu nước, cứu dân", nhưng để
đạt được mục tiêu trên đòi hỏi phải có lý luận cách mạng soi đường. Vì vậy,
trong suốt hành trang đi tìm con đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Hồ Chí
Minh đã bắt gặp chủ nghĩa Mác- Lênin, tích cực học tập và tiếp thu chủ nghĩa
Mác - Lênin về thế giới quan duy vật, phương pháp làm việc biện chứng và về
tôn giáo. Đây được coi là nguồn gốc trực tiếp hình thành tư tưởng Hồ Chí
Minh về tôn giáo và đoàn kết tôn giáo. Học thuyết Mác – Lênin đã chỉ ra tín
ngưỡng, tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội phản ánh một cách hoang
đường, hư ảo lệch lạc từ thế giới hiện thực khách quan làm nảy sinh ra tôn
giáo. Cụ thể, Ăng Ghen khi nghiên cứu về tôn giáo đã khẳng định: “Tất cả
mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo vào trong đầu óc con người –
của những lực lượng bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ, chỉ là sự
phản ánh trong đó những lực lượng của trần thế đã mang hình thức của những
lực lượng siêu trần thế”[34,tr.437]. Các ông nhận định, tôn giáo là một hiện
tượng xã hội đặc biệt mang tính lịch sử, là thế giới quan lộn ngược trong việc
giải quyết mối quan hệ giữa con người với cái thế giới siêu nhiên, trong đó
18

sức mạnh trần gian đã mang hình thức sức mạnh siêu nhiên chi phối toàn bộ
đời sống của con người và cộng đồng người. Cho nên, bản chất tôn giáo về cơ
bản là phản ánh sai lệch tồn tại xã hội. Về nguồn gốc ra đời của tôn giáo, chủ
nghĩa Mác - Lênin chỉ ra tôn giáo ra đời dựa trên ba nguồn gốc cơ bản: nguồn
gốc kinh tế - xã hội của tôn giáo, chủ nghĩa Mác- Lênin nhận định trong xã
hội cộng sản nguyên thuỷ do trình độ của lực lượng sản xuất và điều kiện sinh
hoạt vật chất thấp kém, con người yếu đuối và bất lực trước sức mạnh của
giới tự nhiên. Vì vậy, người nguyên thuỷ rất sợ hãi, sùng bái và tôn thờ những
thế lực tự phát trong tự nhiên đó là nguyên nhân kinh tế cho sự ra đời của tôn
giáo, nhưng khi lực lượng sản xuất phát triển và năng xuất lao động tăng của
cải trong xã hội dư thừa đã làm nảy sinh tư hữu về tư liệu sản xuất, giai cấp
hình thành, đối kháng giai cấp nảy sinh giữa những người đi áp bức và những
người bị áp bức; giữa kẻ giầu và người nghèo, người hạnh phúc và người khổ
đau... trong xã hội khi đó đã nảy sinh các mối quan hệ giữa người với người
diễn ra rất phức tạp, bên cạnh đó con người còn chịu những tác động từ các
yếu tố tự phát, ngẫu nhiên, may rủi... nằm ngoài ý muốn, khả năng điều chỉnh
hành vi của con người dẫn đến sự bị động, bất lực trước lực lượng tự phát nảy
sinh trong đời sống xã hội. Như vậy, chính sự bần cùng về kinh tế, nạn áp bức
về mặt chính trị, sự hiện diện của những bất công trong xã hội cùng với
những thất vọng, bất hạnh trong cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp bị trị đối
với giai cấp thống trị là nguồn gốc kinh tế - xã hội sâu xa cho sự ra đời của
tôn giáo. Bên cạnh nguồn gốc kinh tế - xã hội cho sự ra đời của tôn giáo thì
nguồn gốc nhận thức cũng đóng một vai trò quan trọng cho tôn giáo ra đời.
Theo quan điểm của chủ Mác - Lênin khẳng định, nguồn gốc nhận thức cho
sự ra đời của tôn giáo gắn liền với đặc điểm nhận thức của con người về thế
giới khách quan - đó là quá trình diễn biến rất phức tạp. Một mặt, hình thức
phản ánh phong phú, đa dạng mang tính khoa học thì khả năng nhân thức của
con người càng đầy đủ và chính xác về thế giới khách quan. Mặt khác, hình
19

thức phản ánh trừu tượng, hư ảo thì khả năng nhận thức của con người càng
xa rời và phản ánh sai lệch hiện thực khách quan, đây là cơ sở cho sự ra đời
của tôn giáo. Ngoài nguồn gốc kinh tế - xã hội, nguồn gốc nhận thức cho sự ra
đời của tôn giáo thì nguồn gốc tâm lý cũng là nguyên quan trọng cho tôn giáo
ra đời. Các nhà vô thần luận đã nhận định về các yếu tố tâm lý, trạng thái tình
cảm buồn, vui, sự sợ hãi... do những tác động của các lực lượng tự phát trong
tự nhiên và xã hội đã dẫn đến việc con người phải nhờ cậy vào thần linh,
thượng đế làm nảy sinh cho sự ra đời của tôn giáo. Lênin đã đồng ý với quan
điểm trên của các nhà vô thần luận trong đó có Mác, Ăngghen; đồng thời
phân tích thêm nguồn gốc tâm lý cho sự ra đời của tôn giáo hiện đại đó là:
"Sợ hãi mù quáng trước thế lực của tư bản - mù quáng vì quần chúng nhân
dân không đoán trước được nó - là thế lực mà bất cứ lúc nào trong đời sống
của người vô sản và người tiểu chủ, cũng đe doạ và đem lại cho họ và đang
đem lại cho họ sự phá sản"đột ngột","bất ngờ","ngẫu nhiên", làm cho họ diệt
vong, biến họ thành một người ăn xin, một kẻ bần cùng, một gái điếm, và dồn
họ vào cảnh chết đói, đó chính là nguồn gốc sâu xa của tôn giáo hiện
đại"[27,tr.515-516].
Như vậy, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin thì tôn giáo ra đời
dựa trên ba nguồn gốc cơ bản: nguồn gốc kinh tế - xã hội, nguồn gốc nhận thức
và nguồn gốc tâm lý. Bên cạnh việc các nhà Mác xít luận giải về nguồn gốc
cho sự ra đời của tôn giáo thì đồng thời cũng chỉ ra những nguyên tắc mang
tính khoa học nhằm giải quyết những vấn đề tôn giáo nảy sinh trong đời sống
xã hội. Trước hết, để giải quyết vấn đề tôn giáo cần phải hết sức thận trọng
mềm dẻo, tỉ mỉ, linh hoạt và chính xác; đặc biệt không được tuyên chiến hoặc
bài xích tôn giáo đó là những hành động dại dột, vô Chính phủ không mang lại
hiệu quả. Chính điều này Lênin đã chỉ ra:
"Những lời tuyên chiến ầm ĩ với tôn giáo là dại dột...
20

Tuyên chiến như là một phương thuốc tốt nhất làm kích động thêm sự
quan tâm của người ta đối với tôn giáo và làm cho tôn giáo đến chỗ tiêu vong
thực sự một cách khó khăn hơn"[27,tr. 511-512]. Mặt khác, các ông nhấn mạnh
khi giải quyết những vấn đề tôn giáo cần phải dựa trên quan điểm lịch sử - cụ
thể để xem xét, đánh giá và ứng xử một cách chính xác, khoa học; đồng thời
phải gắn việc giải quyết tôn giáo với công cuộc cải tạo xã hội hiện thực làm
cho xã hội ngày càng tiến bộ, không còn tình trạng áp bức, bất công trong xã
hội.., con người phải được tự do hạnh phúc ở thế giới trần tục khi đó tôn giáo
không còn lý do để tồn tại, làm được điều đó phải gắn với việc xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội trong phạm vi mỗi nước và trên toàn thế giới. Ngoài ra,
khi giải quyết vấn đề tôn giáo cần phân biệt được rõ hai mặt chính trị và tư
tưởng trong tôn giáo, nhằm đấu tranh chống lại các thế lực phản động muốn lợi
dụng tôn giáo vào mục đích chính trị phản động làm ảnh hưởng đến sự nghiệp
cách mạng và lợi ích của quần chúng nhân dân lao động.
Hồ Chí Minh đã trung thành với học thuyết Mác – Lênin trong việc giải
quyết vấn đề tôn giáo, coi đó là quá trình lâu dài, phức tạp và rất khó khăn
gắn với việc xây dựng thành công CNXH ở Việt Nam. Vì vậy, trong quá trình
hoạt động thực tiễn cách mạng, Người nhận thấy mục tiêu chung mà các tôn
giáo hướng tới hoàn toàn phù hợp với mục tiêu và công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam và nguyện vọng của số đông quần chúng nhân dân
lao động. Hồ Chí Minh chỉ ra: "Mục đích của Chính phủ ta theo đuổi chiến
đấu vì nền độc lập đem lại hạnh phúc cho nhân dân. Song để đạt đến hạnh
phúc đó cho mọi người phải xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Nếu Chúa
Giê su sinh ra vào thời đại chúng ta và phải đặt mình trước nỗi khổ đau của
người đương thời, chắc Ngài sẽ là một người xã hội chủ nghĩa đi tìm con
đường cứu khổ loài người"[69,tr.79]; nguyện vọng của đồng bào tôn giáo là:
“Phần xác no ấm, phần hồn thong dong”. Vì vậy, Người luôn mong muốn và
cố gắng hết sức cho nước nhà sớm được độc lập, đồng bào ai cũng có cơm ăn,
21

áo mặc, ai cũng được học hành, ai cũng được hưởng cuộc sống tự do, hạnh
phúc thực sự trên thế giới trần tục, nhưng để hoàn thành nguyện vọng trên
Người đã chủ động xây dựng khối đoàn kết toàn dân; trong đó đặc biệt chú
trọng đoàn kết với đồng bào theo tín ngưỡng, tôn giáo coi đó như một bộ
phận quan trọng trong chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc nhằm thực hiện
thắng lợi mục tiêu: “Độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc”.
Tóm lại: Trên phương diện lý luận, Hồ Chí Minh đã kế thừa, học tập và
tích cực vận dụng sáng tạo các giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam cùng
với các tinh hoa văn hoá phương Đông và phương Tây trong các học thuyết
Nho giáo, Phật giáo, Công giáo; đặc biệt là chủ nghĩa Mác - Lênin về thế giới
quan duy vật và phương pháp luận, về tôn giáo và đoàn kết tôn giáo vào trong
sự nghiệp đấu tranh "giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc". Vì vậy, Người
khẳng định rõ:
“Học thuyết Khổng Tử có ưu điểm của nó là tu dưỡng đạo đức cá nhân.
Tôn giáo Giê su có ưu điểm của nó là lòng nhân ái.
Chủ nghĩa Mác có ưu điểm của nó là phương pháp làm việc biện
chứng.
Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm của nó là chính sách của nó phù
hợp với điều kiện ở nước ta.
Khổng Tử, Giê Su, Các Mác chẳng có những ưu điểm đó sao? Họ là
những người mưu cầu hạnh phúc cho loài người, mưu cầu hạnh phúc cho xã hội.
Nếu hôm nay họ còn sống trên đời này, nếu họ hợp nhau thành một khối,
tôi tin rằng họ nhất định sẽ chung sống với nhau hoà bình như những người bạn
thân thiết. Tôi cố gắng làm người học trò nhỏ của các vị ấy”[54,15-16].
1.1.2. Cơ sở thực tiễn
Thực tiễn xã hội Việt Nam chỉ ra trong suốt quá trình đấu tranh dựng
nước và giữ nước, đặc biệt dưới triều đại Lý – Trần thì các tôn giáo như: Nho
22

giáo, Phật giáo cùng với các tín ngưỡng dân gian đã giữ vị trí quan trọng
trong việc củng cố, xây dựng xã hội phong kiến Việt Nam vững mạnh.
Đối với Phật giáo khi vào Việt Nam đã gắn kết giữa việc đời với việc
đạo trong suốt quá trình bảo vệ và xây dựng đất nước. Vì vậy, đã xuất hiện
nhiều nhà sư với tấm lòng yêu nước, thương dân sâu sắc đã tích cực tham gia
đấu tranh cho nền hoà bình, độc lập dân tộc tiêu biểu như: thiền sư Đỗ Thuận,
thiền sư Vạn Hạnh, thiền sư Lý Công Uẩn và hàng ngàn tăng ni, Phật tử
khác.., đã đoàn kết dốc lòng giúp nước, giúp dân. Đến đầu thế kỷ XX, xuất
hiện ngày càng nhiều các tăng ni, Phật tử hăng hái tham gia vào các hoạt động
xã hội như: cuộc vận động đòi ân xá cho Phan Bội Châu và đám tang Phan
Châu Trinh. Thời Mỹ – Diệm, các Phật tử miền Nam tham gia tích cực vào
phong trào đấu tranh đòi hoà bình và độc lập dân tộc… Như vậy, trong suốt
quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước đặc biệt dưới triều đại nhà Lý, hệ
tư tưởng Phật giáo giữ vai trò chủ đạo trong đời sống văn hoá, tinh thần của
người dân Việt Nam. Bên cạnh Phật giáo thì Nho giáo là một học thuyết
chính trị – xã hội cũng có nhiều đóng góp lớn vào trong công cuộc bảo vệ và
xây dựng đất nước. Vì vậy, xuất hiện nhiều nhà Nho có tấm lòng yêu nước
thương dân sâu sắc tiêu biểu như: Trần Nhân Tông, Trần Hưng Đạo, Chu Văn
An.., đã đứng lên tổ chức, vận động tập hợp lực lượng toàn dân đoàn kết tham
gia đấu tranh chống lại giặc Nguyên Mông nhằm bảo vệ độc lập chủ quyền,
thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của dân tộc Việt Nam. Đến triều đại nhà Lê, Nho
giáo vẫn giữ vị trí đặc biệt quan trọng trong đời sống xã hội với sự xuất hiện
của các nhà Nho yêu nước tiêu biểu như: Nguyễn Trãi, Nguyễn Bình Khiêm..,
đã góp phần quan trong vào cuộc đấu tranh chống quân Minh xâm lược dân
tộc Việt Nam. Do đó, thắng lợi của cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước
dưới triều đại Trần – Lê có sự đóng góp rất lớn của hệ tư tưởng Nho giáo Việt
Nam.
23

Như vậy, trong xã hội phong kiến Việt Nam các tôn giáo khi vào Việt
Nam đã gắn kết với vận mệnh của dân tộc, với công cuộc dựng nước và giữ
nước, giữa việc đời với việc đạo. Vì vậy, đây chính là cơ sở để lý giải cho
việc tại sao ở Việt Nam không xảy ra chiến tranh hoặc sung đột giữa các tôn
giáo mà là sự kết hợp hài hoà của tam giáo đồng nguyên Nho – Phật – Lão
thành một khối thống nhất hoà chung cùng dòng chảy chủ lưu của dân tộc
Việt Nam đó là truyền thống yêu nước, đoàn kết toàn dân tộc.
Đối với đạo Công giáo có lịch sử vào Việt Nam muộn, có sự khác biệt
cơ bản về văn hóa, đức tin, lối sống so với truyền thống của dân tộc. Vì vậy,
khi vào Việt Nam đã dẫn tới những bất đồng về hệ tư tưởng, nhận thức và lối
sống do đó nhà Nguyễn đã nhiều lần xuống chiếu cấm đạo Công giáo hoạt
động trên lãnh thổ Việt Nam. Chính vì vậy, tạo ra mâu thuẫn bất đồng giữa
đạo Công giáo với dân tộc Việt Nam, giữa những người theo đạo Công giáo
với những người không theo đạo Công giáo là một trong những nguyên nhân
gây chia rẽ khối đoàn kết toàn dân, đoàn kết tôn giáo dẫn đến tình cảnh “nước
mất, nhà tan”. Thực dân Pháp và sau này là đế quốc Mỹ đã lợi dụng những
điểm yếu trên của dân tộc Việt Nam, khoét sâu vào những bất đồng trong
nhân dân bằng việc đưa ra nhiều các chính sách như: “ngu dân”, "nô dịch”,
“chia để trị” nhằm chia rẽ giữa đồng bào theo và đồng bào không theo tôn
giáo, chia rẽ giữa các tôn giáo, giai cấp, dân tộc nhằm thống trị lâu dài ở Việt
Nam. Vì vậy, yêu cầu khách quan và cũng là nguyện vọng chung của người
dân Việt Nam là đoàn kết tôn giáo, thống nhất dân tộc nhằm xây dựng lại nền
độc lập dân tộc. Do đó, đã xuất hiện nhiều bậc tiền bối với tấm lòng yêu nước,
thương dân mong muốn củng cố, tăng cường khối đoàn kết toàn dân, đoàn kết
tôn giáo nhằm thống nhất Tổ quốc, xây dựng lại nền độc lập dân tộc tiêu biểu
như: Phan Bội Châu đã đặt vấn đề tôn giáo trong vấn đề dân tộc, tuy nhiên do
có sự hạn chế về mặt lịch sử và những quan điểm chính trị chưa đúng đường
lối. Cho nên, tư tưởng đoàn kết tôn giáo của Phan Bội Châu còn có những
24

điểm bất cập ở chỗ: không nhận thức đúng về người Công giáo yêu nước chân
chính với kẻ đội lốt Thiên Chúa cam tâm bán nước, cầu vinh.
Hồ Chí Minh lớn lên chứng kiến cảnh "nước mất, nhà tan", thực dân
Pháp đến xâm lược tàn phá gia đình, quê hương, dân tộc; ngoài ra còn dùng
nhiều chính sách và thủ đoạn chính trị phản động ở Việt Nam; trong đó đặc
biệt là chính sách "chia để trị" nhằm chia rẽ tôn giáo, giai cấp, dân tộc để
thống trị lâu dài ở Việt Nam. Từ hoàn cảnh thực tiễn nêu trên, kết hợp với óc
quan sát và năng lực nhận thức đã giúp cho Hồ Chí Minh nhanh chóng nhận
thức rõ âm mưu và thủ đoạn chính trị của thực dân Pháp xâm lược. Do đó,
Người đã chủ động nêu cao tinh thần yêu nước, đoàn kết dân tộc và đoàn kết
tôn giáo không phân biệt giàu nghèo, dòng giống, tôn giáo, giai cấp, dân tộc...
tất cả đều phải phấn đấu cho nền độc lập dân tộc, tự do hạnh phúc của nhân
dân. Cho nên, Người nói: “Toàn thể đồng bào ta, không chia lương giáo, đoàn
kết chặt chẽ, quyết lòng kháng chiến, để giữ gìn non sông Tổ quốc, mà cũng
để giữ gìn quyền tôn giáo tự do”[39,tr.490].
Trong khi tình hình thực tiễn ở Việt Nam có nhiều diễn biến không
thuận lợi thì tình hình thế giới cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX cũng diễn ra
hết sức phức tạp và có nhiều mâu thuẫn. Chủ nghĩa tư bản từ tự do cạnh tranh
đã chuyển sang chủ nghĩa đế quốc tăng cường đi xâm lược các nước thuộc địa
nhằm tìm kiếm nguồn nhân công rẻ mạt, tài nguyên thiên nhiên và thị trường
tiêu thụ sản phẩm...Việt Nam trở thành một trong những miếng mồi béo bở
của chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc. Chính tình hình thực tiễn trên, đã
làm xuất hiện nhiều mâu thuẫn lớn đó là: mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế với các
dân tộc thuộc địa và phụ thuộc; mâu thuẫn giữa các nước tư bản với nhau;
mâu thuẫn giữa các nước đi theo con đường chủ nghĩa tư bản với các nước đi
theo con đường chủ nghĩa xã hội; mâu thuẫn giữa thế giới quan duy vật và
duy tâm, giữa tôn giáo và khoa học, giữa vô thần và hữu thần...tất cả các mâu
25

thuẫn trên đã làm xuất hiện nhiều phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc,
giải phóng giai cấp, giải phóng con người diễn ra rộng khắp ở nhiều nước Á,
Phi, Mỹ latinh. Chủ tịch Hồ Chí Minh lớn lên trước hoàn cảnh nước nhà bị
chia cắt, bị biến thành nô lệ, đời sống nhân dân vô cùng cực khổ. Người đã
quyết tâm đi ra nước ngoài tìm con đường cứu nước giải phóng cho dân tộc
Việt Nam. Sau nhiều năm, Người đã tìm ra con đường cứu nước giải phóng
cho dân tộc Việt Nam đó là làm cách mạng vô sản, nhưng muốn làm cách
mạng theo Người cần phải tổ chức, xây dựng và lôi kéo được đông đảo lực
lượng yêu nước trong nhân dân tham gia làm cách mạng; tức phải xây dựng
thành công khối đại đoàn kết toàn dân, đoàn kết tôn giáo ở Việt Nam. Vì vậy,
Hồ Chí Minh xác định công tác xây dựng đoàn kết toàn dân, đoàn kết tôn giáo
là nhiệm vụ quan trọng và là nhiệm vụ chiến lược hàng đầu quyết định đến
thắng lợi của các phong trào cách mạng Việt Nam.
Tóm lại: Hồ Chí Minh đã nhận diện, đánh giá đúng đắn về tình hình
chính trị trong nước và trên thế giới; đặc biệt là những vấn đề liên quan đến
tôn giáo - một hình thái ý thức xã hội nhưng có sự ảnh hưởng rất lớn đến đời
sống tinh thần, đạo đức, văn hoá và thực hành xã hội trong nhân dân. Vì vậy,
Người đã có thái độ rất tôn trọng, chân thành, cởi mở đối với các tôn giáo và
đồng bào tín đồ các tôn giáo trên tinh thần "đoàn kết tôn giáo, hoà hợp dân
tộc" nhằm thực hiện xây dựng thành công chiến lược đại đoàn kết toàn dân
tộc trên tinh thần không phân biệt giàu - nghèo, dòng giống, tôn giáo, giai
cấp, dân tộc... đó chính là cách nhìn nhận rất khách quan, toàn diện, sâu sắc
vượt qua những hạn chế về mặt lịch sử của chủ tịch Hồ Chí Minh.
1.2. Quan điểm về đoàn kết tôn giáo trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh
Xuất phát từ nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam là giải phóng dân tộc,
thống nhất Tổ quốc. Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng khối đoàn kết dân tộc,
đoàn kết tôn giáo trên tinh thần chân thành, tích cực, cởi mở, đoàn kết hữu ái,
26

lâu dài; đặc biệt không phân biệt đối xử đối với các đồng bào có đạo, chức
sắc, nhà tu hành cũng như các tôn giáo đang tồn tại và hoạt động trong phạm
vi lãnh thổ quốc gia dân tộc Việt Nam. Vì vậy, nội dung đoàn kết tôn giáo
trong tư tưởng Hồ Chí Minh vừa mang tính dân tộc, vừa mang bản chất nhân
văn và tinh thần nhân đạo chủ nghĩa sâu sắc ở chỗ hướng vào việc giải quyết
những tồn tại, bất công trong xã hội Việt Nam như: sự áp bức dân tộc, áp bức
giai cấp, áp bức con người. Cho nên, tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết tôn
giáo có những nội dung cơ bản sau:
1.2.1. Đoàn kết đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo
Đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo khác nhau về
hệ tư tưởng, thế giới quan, đức tin, nhu cầu tín ngưỡng, thực hành đạo đức xã
hội...duy có một cái chung: Dưới ách thống trị của thực dân Pháp và sau này
là đế quốc Mỹ xâm lược thì đều bị nô dịch, chà đạp, bóc lột thậm tệ và chịu
ảnh hưởng các chính sách phản động của chủ nghĩa thực dân Pháp và sau này
là đế quốc Mỹ đó là: “ngu dân, nô dịch”,“chia để trị” nhằm chia rẽ đồng bào
theo tín ngưỡng, tôn giáo và đồng bào không theo tín ngưỡng, tôn giáo điều
này đã gây ra những tổn thất rất nghiêm trọng đến sự nghiệp cách mạng Việt
Nam. Trước tình hình thực tiễn trên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ý thức rất sâu
sắc về công tác xây dựng khối đoàn kết dân tộc, đoàn kết đồng bào theo và
không theo tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam. Người coi đồng bào tôn giáo là
một bộ phận trong chiến lược đại đoàn kết của toàn dân tộc Việt Nam, quyết
định đến thắng lợi hay thất bại của đường lối cách mạng Việt Nam. Cho nên,
đối với Hồ Chí Minh việc xây dựng tốt khối đoàn kết tôn giáo vừa có cơ sở,
vừa có điều kiện thực tế nhằm hiện thực hoá việc xây dựng thành công khối
đoàn kết toàn dân tộc. Vì vậy theo Người, dù theo tôn giáo này hay theo tôn
giáo khác hoặc không theo tôn giáo chẳng qua chỉ là sản phẩm có tính lịch sử,
là sự thay đổi về đức tin và tâm linh tôn giáo, nhưng cũng đều có cội nguồn
27

sâu xa từ dòng giống “Con Lạc”, “cháu Hồng”. Cho nên, mỗi người dân Việt
Nam dù theo theo hoặc không theo tôn giáo, tất cả đều phải có trách nhiệm
với cộng đồng, với vận mệnh của Tổ quốc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kết hợp, vận dụng rất linh hoạt giữa những
yếu tố truyền thống, lịch sử của dân tộc với bối cảnh hiện thực tôn giáo ở Việt
Nam. Người đã khái quát thành hai chữ rất gần gũi, thân thương “đồng bào”;
ở đây “đồng” với nghĩa là cùng, “bào” với nghĩa là bọc; tức đều trong bọc
trứng của Mẹ Âu Cơ mà sinh ra. Vì vậy, hễ là người Việt Nam hay có dòng
giống người Việt Nam thì bất kỳ ai cũng luôn nhớ về cội nguồn của dân tộc,
nhớ về ngày giỗ tổ 10/3 âm lịch hàng năm đã được lưu truyền từ thế hệ này
sang thế hệ khác: “Dù ai đi ngược về xuôi, nhớ ngày giỗ tổ mồng mười tháng
ba”. Vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh khi đến thăm di tích lịch sử đền Hùng,
Người đã khơi dậy truyền thống lịch sử và lòng tự hào của dân tộc của người
Việt Nam qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước thông qua câu nói:
“Các vua Hùng đã có công dựng nước
Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”.
Câu nói trên có ý nghĩa giá trị rất lớn, mang tính giáo dục nhân văn rất
cao cho những thế hệ đi sau cần phải có trách nhiệm đối với thế hệ đi trước
trong việc tiếp tục thực thi nghĩa vụ đối với dân tộc, đối với vận mệnh của đất
nước. Qua câu nói, Người như muốn nhắc nhở toàn thể chiến sĩ, đồng bào cả
nước về những giá trị truyền thống lịch sử và lòng tự hào của dân tộc Việt
Nam cần phải được bảo vệ và phát huy mạnh mẽ; đồng thời ngăn chặn không
cho bất kỳ kẻ thù nào xâm hại đến những giá trị to lớn đó. Đây không chỉ là
biểu tượng có sức mạnh quy tụ mọi tâm hồn Việt Nam dù theo hoặc không
theo tín ngưỡng, tôn giáo mà còn là lương tâm, tình cảm và trách nhiệm của
từng cá nhân người Việt Nam đối với vận mệnh của Tổ quốc. Bên cạnh đó,
trong suốt quá trình lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng Việt Nam, Người xác định
và đặt nhiệm vụ đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo lên hàng đầu và luôn
28

giành nhiều thời gian và mối quan tâm đặc biệt cho công tác xây dựng cho
khối đoàn kết tôn giáo, đoàn kết dân tộc. Thực tế cho thấy, ngay trong phiên
họp đầu tiên của Chính phủ cách mạng Việt Nam lâm thời năm 1946 khi đề
cập đến những nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hoà. Hồ Chí Minh đã khẳng định rõ lập trường của Người và Chính phủ về
vấn đề tôn giáo: “Thực dân phong kiến thi hành chính sách chia rẽ đồng bào
giáo và đồng bào lương để dễ bề cai trị. Tôi đề nghị Chính phủ tuyên bố: TÍN
NGƯỠNG TỰ DO và lương – giáo đoàn kết”[39,tr.9]. Có thể khẳng định,
quan điểm trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhất quán “trước sau như một”,
theo Người khi quyền tự do tôn giáo được đảm bảo thì mọi tín đồ tôn giáo
mới tin và đi theo cách mạng Việt Nam; đồng thời khối đại đoàn kết toàn dân
và đoàn kết tôn giáo sẽ phát huy được sức mạnh. Cho nên, ngày 19 tháng 12
năm 1946, xuất phát từ nhiệm vụ cấp bách của cuộc cách mạng dân tộc dân
chủ đứng trước nguy cơ một lần nữa cả dân tộc Việt Nam bị rơi vào tay thực
dân Pháp quay trở lại xâm lược. Hồ Chí Minh đã ra lời kêu gọi toàn quốc
kháng chiến, lay động hàng triệu người dân Việt Nam yêu nước, trong đó có
đồng bào tín đồ các tôn giáo tham gia bảo vệ Tổ quốc và thành quả cách
mạng. Người nói:
“Hỡi đồng bào toàn quốc!
Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta đã nhân nhượng. Nhưng chúng ta
càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng dã tâm cướp nước ta
một lần nữa!
Không! Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước,
nhất định không chịu làm nô lệ.
Hỡi đồng bào!
Chúng ta phải đứng lên!
Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn
giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực
29

dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm,
không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống
thực dân Pháp cứu nước”[39,tr.480]. Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ
Chí Minh, trong những ngày đầu tiên kháng chiến toàn thể dân tộc Việt Nam
đã đoàn kết, không phân biệt đồng bào theo hoặc không theo tôn giáo, giai
cấp, dân tộc đã nô nức đi theo cuộc kháng chiến, nhiều tấm gương tín đồ tôn
giáo yêu nước tiêu biểu xuất hiện như: Ngô Tử Hạ, Hồ Thành Biên, Phạm Bá
Trực… mãi mãi lưu giữ trong lòng đồng bào tôn giáo. Như vậy, có thể khẳng
định Chủ tịch Hồ Chí Minh có một tầm nhìn sâu rộng vượt qua giới hạn lịch
sử, biết tranh thủ mọi lực lượng yêu nước không phân biệt giàu - nghèo, tôn
giáo, giai cấp, dân tộc vào trong sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc với
phương châm "độc lập trên hết, Tổ quốc trên hết". Tuy nhiên, chúng ta cần
lưu ý chính sách đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo của Hồ Chí Minh không
phải vì tư lợi cá nhân hoặc thủ đoạn chính trị mà tất cả đều vì nước, vì dân.
Do đó, đầu năm 1955, trong Hội nghị Mặt trận Liên Việt toàn quốc
(10/1/1955) không ít người còn phân vân chưa rõ trong thời kỳ mới những
người hữu tín có thể đồng hành với chế độ mới được không? Hiểu được tâm
trạng đó, Hồ Chí Minh đã nói chuyện trao đổi rất thẳng thắn, thân mật với các
đại biểu trong cuộc họp. Người nói: “Đoàn kết của ta không những rộng rãi
mà còn là đoàn kết lâu dài. Đoàn kết là một chính sách dân tộc không phải là
một thủ đoạn chính trị. Ta đoàn kết để đấu tranh cho sự thống nhất và độc lập
của Tổ quốc, ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có
sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với
họ”[42,tr.438].
Tóm lại: Hồ Chí Minh đã nhận diện rất đúng về tình hình tôn giáo ở
Việt Nam. Vì vậy, Người đã có thái độ rất tôn trọng, chân thành, cởi mở, đoàn
kết hữu ái, lâu dài trên tình thần không phân biệt đối xử hoặc kỳ thị đối với
đồng bào theo và đồng bào không theo tín ngưỡng, tôn giáo cũng như các lực
30

lượng, tầng lớp khác nhau trong xã hội. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh đã biết
quy tụ được “ý Đảng, lòng dân”, xoá bỏ mọi mặc cảm, định kiến về thế giới
quan, ý thức hệ tư tưởng trong nhân dân. Nhờ đó, đã tạo nên sự thống nhất,
đoàn kết gắn bó bền chặt giữa Đảng với dân ngày càng sâu đậm, đó chính là
sự thắng lợi của chiến lược đại đoàn kết toàn dân; đặc biệt là đoàn kết tôn
giáo của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
1.2.2. Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau
Thực tế cho thấy, Việt Nam là một quốc đa tôn giáo gồm: Phật giáo,
Công giáo, Tin lành giáo, Hồi giáo kết hợp với các loại hình tín ngưỡng, tôn
giáo bản địa đã ảnh hưởng rất lớn đến đời sống tâm linh, văn hoá và xã hội
của con người Việt Nam về phương diện thế giới quan và nhận thức luận
cũng như thực hành đạo đức và đời sống xã hội. Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ
XX, thực dân Pháp và sau này là đế quốc Mỹ đã dùng chính sách “chia để trị”
nhằm phá vỡ khối đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo. Hồ Chí Minh đã sớm
nhận thức rõ ý nghĩa, tầm quan trọng của việc xây dựng khối đại đoàn kết
toàn dân, đoàn kết tôn giáo quyết định đến vận mệnh của dân tộc. Chính vì
vậy, quan điểm về đoàn kết các tôn giáo của Người được khẳng định thông
qua nhiều bài viết, bài nói và trong các bức thư gửi cho đồng bào các tôn giáo.
Hồ Chí Minh xác định đoàn kết đồng bào các tôn giáo phải dựa trên cơ sở
tương thân, tương ái, các bên cùng có lợi. Lợi ích cao nhất là độc lập cho dân
tộc và tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Cho nên, năm 1946 khi nước ta đứng
trước nguy cơ bị thực dân Pháp quay trở lại xâm lược, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã có bài đăng trên báo cứu quốc ra ngày 14 tháng 1 năm 1946 với nội dung
như sau: “Nước có độc lập thì dân mới thực sự tự do tín ngưỡng", “Nước
không độc lập thì tôn giáo không được tự do, nên chúng ta phải cho nước độc
lập đã”. Theo Hồ Chí Minh đoàn kết tôn giáo vừa đảm bảo lợi ích chung cho
cả dân tộc, vừa đảm bảo lợi ích riêng cho các tôn giáo và mọi tín đồ có đạo,
31

đây chính là phương pháp làm việc biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin
được Chủ tịch Hồ Chí Minh quán triệt vận dụng vào công tác xây dựng khối
đại đoàn kết toàn dân, đoàn kết tôn giáo. Vì vậy, thực tế trong suốt quá trình
xây dựng và tập hợp lực lượng cách mạng Việt Nam, Người đã luôn chủ động
quan tâm thăm hỏi tới các tôn giáo, các chức sắc, nhà tu hành và đồng bào có
đạo bằng nhiều hình thức khác nhau như: trong thư gửi Hội Phật tử Việt Nam
ngày 30/8/1947. Hồ Chủ tịch viết: “Từ ngày nước ta trở nên Dân chủ Cộng
Hoà, Hiến pháp ta tôn trọng tự do tín ngưỡng, thì Phật giáo cũng phát triển
một cách thuận tiện.
Thế là: Nước có độc lập, thì Phật giáo mới được mở mang.
Bọn thực dân Pháp muốn cướp nước ta... Nay đồng bào ta đại đoàn kết,
hi sinh của cải xương máu, kháng chiến đến cùng, để đánh tan thực dân phản
động, để cứu quốc dân ra khỏi khổ nạn, để giữ quyền thống nhất và độc lập
của Tổ quốc... Thế là chúng ta làm theo lòng đại từ, đại bi của Đức Phật Thích
Ca, kháng chiến để đưa giống nòi ta khỏi cái khổ ải nô lệ”[40,tr.197]. Trong
thư gửi đồng bào Công giáo nhân dịp Nôen năm 1951, Hồ Chí Minh viết:
“Tôi mong đồng bào đoàn kết thêm chặt chẽ trong công cuộc kháng chiến để
phụng sự Đức Chúa, phụng sự Tổ quốc, và để thực hiện lời Chúa dạy: “Hoà
bình cho người lành dưới thế”[41,tr.359]. Ngoài ra, trong suốt quá trình triển
khai xây dựng khối đoàn kết toàn dân, đoàn kết tôn giáo nhằm tập hợp lực
lượng cách mạng, Hồ Chí Minh nhận ra giữa các tôn giáo đều có điểm chung
giống nhau là mong muốn đem lại tự do, hạnh phúc cho nhân loại, nhưng trên
thực tế vẫn còn tồn tại những bất đồng về đức tin, đối tượng thờ cúng làm cho
kẻ địch lợi dụng, khoét sâu gây chia rẽ khối đoàn kết giữa các tôn giáo và
đoàn kết dân tộc. Chính vì vậy, Người đã chủ trương vận động đồng bào các
tôn giáo, chức sắc, nhà tu hành và các tín đồ có đạo tích cực tham gia xây
dựng tốt khối đoàn kết tôn giáo, đoàn kết dân tộc nhằm bảo vệ nền độc lập
32

dân tộc, thống nhất Tổ quốc và quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân
dân. Người nói: “Hiện nay trên toàn quốc đồng bào ta, công giáo và ngoại
công giáo, đều đoàn kết chặt chẽ, nhất trí đồng tâm như con một nhà, ra sức
đấu tranh để giữ gìn nền độc lập của Tổ quốc”[39,tr.121].
Bên cạnh việc Chủ tịch Hồ Chí Minh tích cực vận động các tôn giáo,
các chức sắc, nhà tu hành và tín đồ có đạo tham gia xây dựng tốt khối đoàn
kết toàn dân, đoàn kết tôn giáo thì Người còn sử dụng phương pháp duy vật
lịch sử - cụ thể của chủ nghĩa Mác – Lênin để soi rọi lại tình hình đoàn kết tôn
giáo từ trong lịch sử; đồng thời chỉ ra những mặt hạn chế trong các tôn giáo
nguyên nhân do không đoàn kết đã làm ảnh hưởng đến tín ngưỡng tâm linh,
đến lợi ích của Tổ quốc và nhân dân. Người nói: “Nước Phật ngày xưa có
những 4 đảng phái làm ly tán lòng dân và gây hại Tổ quốc. Nhưng nước Việt
Nam ngày nay chỉ có một đảng phái và toàn dân quyết tâm giành độc lập. Tín
đồ Phật giáo tin ở Phật; tín đồ Giatô tin ở Chúa Trời, cũng như chúng ta tin ở
đạo Khổng. Đó là những vị chí tôn nên chúng ta tin tưởng. Nhưng đối với
nhân dân, ta đừng có làm gì trái ý dân. Dân muốn gì, ta phải làm
nấy”[39,tr.148]. Ngoài ra, bằng thực tiễn hoạt động cách mạng Hồ Chủ tịch
đã lấy chính bản thân mình làm biểu tượng cho trung tâm đoàn kết giữa các
tôn giáo. “Giữa tháng 10/1945 tại chùa Quán sứ, Phật giáo yêu nước tổ chức
tuần lễ văn hoá, trong bữa cơm chay đoàn kết, Hồ Chủ tịch đã nói chuyện
thân mật với đồng bào Phật giáo và các đại biểu Công giáo về lòng từ bi nhân
đạo và tinh thần đoàn kết cứu nước của hai tôn giáo. Đồng bào các tôn giáo đã
tham gia cuộc bán đấu giá tấm ảnh của Hồ Chủ tịch để lấy tiền ủng hộ kháng
chiến. Một Phật tử đã nhường cho ông Ngô Tử Hạ - đại biểu Công giáo mua
bức tranh với giá một vạn một trăm đồng để kỷ niệm tinh thần đoàn kết giữa
hai tôn giáo”[1,tr.276]. Như vậy, ta có thể khẳng định, Chủ tịch Hồ Chí Minh
luôn quan tâm vun đắp trong việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, đoàn
kết các tôn giáo trong quốc gia dân tộc Việt Nam với mong muốn thực hiện
33

thắng lợi mục tiêu: "Độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc"; đồng thời Người
luôn chủ động giáo dục toàn dân nâng cao tinh thần cảnh giác, phát hiện và
ngăn chặn kịp thời các âm mưu muốn lợi dụng tôn giáo nhằm phá hoại khối
đoàn kết các tôn giáo làm phương hại đến sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân
tộc, thống nhất Tổ quốc. Bên cạnh đó, Người còn trực tiếp nhắc nhở chấn
chỉnh đội ngũ cán bộ làm công tác Mặt trận, công tác tôn giáo khi họ vi phạm
đường lối hoặc hiểu không đúng về chính sách tôn giáo của Đảng, đồng thời
biểu dương khen thưởng những gương “người tốt, việc tốt” qua đó nhằm giáo
dục và bồi dưỡng năng lực cho cán bộ làm tốt công tác tôn giáo trong Đảng.
Tóm lại: Trong suốt quá trình hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng
Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xây dựng thành công mối quan hệ gắn
bó mật thiết giữa Đảng với nhân dân, giữa tôn giáo với dân tộc, giữa đức tin
tôn giáo với tình yêu Tổ quốc và giữa các tôn giáo với nhau. Vì vậy, đã tránh
được những xung đột từ trong các tôn giáo và đặc biệt giữa tôn giáo với chính
quyền cách mạng Việt Nam. Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định rất
đúng về vị trí, vai trò của công tác xây dựng khối đoàn kết tôn giáo, đoàn kết
dân tộc quyết định đến sự thành công của cách mạng Việt Nam. Do đó, trong
suốt quá trình hoạt động cách mạng Hồ Chí Minh rất quan tâm chăm lo cho
công tác xây dựng khối đoàn kết toàn dân, đoàn kết tôn giáo; đồng thời trực
tiếp chỉ đạo việc thành lập Mặt trận Việt Minh nhằm huy động mọi lực lượng
yêu nước trên tinh thần không phân biệt đối xử đối với các tôn giáo, giai cấp,
dân tộc, thành phần xuất thân, địa vị xã hội vào trong sự nghiệp "giải phóng
dân tộc, thống nhất Tổ quốc". Người nói: “Ai có tài, có đức, có lòng phụng sự
Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ”[42,tr.438]. Theo Người
đoàn kết tức là không chia rẽ, không không phân biệt giầu nghèo, tuổi tác, trai
gái, tôn giáo, nghề nghiệp, giai cấp, đảng phải... trừ bọn việt gian bán nước và
bọn đế quốc xâm lược. Như vây, có thể khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh về
đoàn kết tôn giáo là bước sáng tạo độc đáo, riêng biệt về thiên tài cách mạng.
34

Đó là sự thể hiện tinh thần đoàn kết hữu ái, bao dung, độ lượng trong phong
cách lãnh đạo của Người. Cho nên, nhà nghiên cứu Trần Bạch Đằng đã có
nhận xét rất đúng về con người Hồ Chí Minh như sau: “Hồ Chí Minh cố tìm
mẫu số chung của toàn dân tộc thay vì khoét sâu sự khác biệt, đặt tiến trình đi
lên xoáy trôn ốc của lịch sử trên căn bản quy tụ thay vì loại trừ”[19,tr.59].
1.3. Một số nguyên tắc và phƣơng pháp về đoàn kết tôn giáo trong
tƣ tƣởng Hồ Chí Minh
1.3.1. Một số nguyên tắc về đoàn kết tôn giáo trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Trong quá trình vận động quần chúng nhân dân lao động tham gia xây
dựng tốt khối đoàn kết tôn giáo. Người đã đưa ra những nguyên tắc căn bản
làm nền tảng cho việc xây dựng khối đoàn kết tôn giáo được lâu dài, đồng
thời ngăn chặn được những âm mưu của thực dân Pháp và sau này là đế quốc
Mỹ muốn lợi dụng đồng bào có đạo nhằm phá vỡ khối đoàn kết toàn dân,
đoàn kết tôn giáo.
Một là; lấy lợi ích của toàn dân tộc và quyền lợi căn bản của con người
là mẫu số chung.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra và sử dụng nguyên tắc trên với mong
muốn quy tụ các tôn giáo, các chức sắc, nhà tu hành, tín đồ có đạo và mọi lực
lượng yêu nước khác nhau trong xã hội Việt Nam cùng hành động hướng tới
mục tiêu chung của dân tộc đó là: “Độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc”. Đây
là nguyên tắc rất đúng đắn, sáng tạo của Hồ Chí Minh về xây dựng khối đoàn
kết tôn giáo, đồng thời mang ý nghĩa giá trị to lớn trong việc đảm bảo thực
hiện thắng lợi sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và công cuộc xây
dựng CNXH ở Việt Nam. Hồ Chí Minh xác định đó là nguyên tắc thống nhất
biện chứng giữa cái chung và cái riêng, thực chất đó là sự thống nhất giữa lợi
ích của quốc gia dân tộc với quyền lợi riêng của mỗi con người. Như vậy, cốt
lõi của nguyên tắc trên đặt ra là xử lý một cách đúng đắn các mối quan hệ
35

biện chứng giữa hàng loạt các phạm trù, các mối quan hệ xã hội: cá nhân –
tập thể; gia đình và xã hội, bộ phận và toàn thể, giai cấp và dân tộc, vô thần và
hữu thần, quốc gia và quốc tế...Vì vậy, trong suốt quá trình vận động đồng
bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo tham gia xây dựng khối
đoàn kết toàn dân và đoàn kết tôn giáo, Người luôn chủ động tìm kiếm những
điểm tương đồng, sau đó dùng cái tương đồng để khắc phục cái dị biệt, không
đặt các sự việc trong sự đối lập hoặc loại trừ nhau, không khoét sâu cái dị biệt
về thế giới quan, hệ tư tưởng, nhu cầu tín ngưỡng...mà luôn tìm kiếm sự thống
nhất, tương đồng về lợi ích chung cho toàn thể dân tộc đó là: độc lập cho dân
tộc, thống nhất cho Tổ quốc, tự do và hạnh phúc cho đồng bào theo tôn giáo
và không theo tôn giáo. Do đó, trong suốt quá trình vận động nhân dân tham
gia xây dựng khối đoàn kết toàn dân, đoàn kết tôn giáo và tiến hành làm cách
mạng giải phóng dân tộc để tránh hiểu lầm, Người đã chỉ ra: “Chủ nghĩa duy
linh và chủ nghĩa duy vật là ngược nhau, nhưng không phải như vậy mà bài
xích nghi kỵ, đối lập nhau, cần phải tôn trọng tự do tín ngưỡng và tự do ngôn
luận”[69,tr.65]. Qua nhận định trên cho ta thấy, ở con người của Hồ Chí Minh
khác với các bậc tiền bối cách mạng đi trước đó là sự mềm dẻo, linh hoạt
khéo léo trong cách tập hợp lực lượng cách mạng toàn dân; đặc biệt là tinh
thần đoàn kết, nhân ái, bao dung rộng mở trong quá trình xây dựng khối đoàn
kết toàn dân tộc gắn với phương châm "đoàn kết tôn giáo, hoà hợp dân tộc".
Cho nên, trên thực tế Người khẳng định: “Từ Nam đến Bắc, ai là người tán
thành hoà bình, thống nhất độc lập, dân chủ thì cũng sẵn sàng đoàn kết với họ,
dù trước đến nay họ ở phe phái nào”[49,tr.75].
Tóm lại: Theo Hồ Chí Minh muốn thực hiện thắng lợi mục tiêu: "Độc
lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc", trước hết phải xây dựng thành công khối
đoàn kết tôn giáo, đoàn kết dân tộc, nhưng muốn xây dựng thành công khối
đoàn kết tôn giáo, đoàn kết dân tộc thì cần phải có nguyên tắc căn bản đó là:
lấy lợi ích của toàn dân tộc và quyền lợi căn bản của con người làm mẫu số
36

chung trên cơ sở “cầu đồng, tồn dị”. Nguyên tắc trên của Chủ tich Hồ Chí
Minh đã góp phần quan trọng trong việc huy động mọi lực lượng yêu nước
tham gia xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, trên tinh không phân biệt giàu-
nghèo, tôn giáo, giai cấp, dòng giống, dân tộc... vào mục tiêu chung đó là: giải
phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, tư do hạnh phúc cho toàn thể nhân dân.
Hai là; tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của
nhân dân.
Quyền tự do là một quyền cơ bản của con người, đây là một phạm trù
rộng lớn đã được ghi nhận trong Bản tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ năm
1776 và Bản tuyên ngôn dân quyền và nhân quyền của Pháp năm 1789. Điều
này cũng được chủ nghĩa Mác – Lênin thừa nhận trong tuyên ngôn của Đảng
cộng sản năm 1848: Sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự
phát triển tự do của toàn xã hội. Đến năm 1948, tổ chức Liên Hợp Quốc cũng
đã thừa nhận trong nhiều văn bản hiến pháp của nhiều quốc gia, trong đó có
quốc gia Việt Nam. Trong các quyền của con người có quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo; tức tự xác lập theo một đức tin tín ngưỡng, tôn giáo nhất
định hoặc không theo. Vì đây là nhu cầu tinh thần không thể thiếu đối với một
bộ phận không nhỏ quần chúng nhân dân lao động, là sự thiêng liêng trong
tâm linh con người, không được ai xâm phạm hoặc làm tổn hại đến. Do đó, để
làm cho quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân trở thành hiện thực
sinh động trong đời sống tinh thần của nhân dân, Người rất chú trọng tới pháp
luật coi đó là công cụ để thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân
dân. Cho nên, ngay sau khi cách mạng tháng tám thành công, Nhà nước Việt
Nam Dân Chủ Cộng Hoà non trẻ vừa mới ra đời, Hồ Chí Minh đã chủ trương
hiện thực hoá quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo bằng văn bản, pháp luật Việt
Nam. Cụ thể: tại Hiến pháp đầu tiên năm 1946 ở chương II, mục B đã ghi rõ:
“Mọi công dân Việt Nam có quyền tự do tín ngưỡng”. Sau này, trong suốt quá
37

trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Người đã có nhiều bài nói, bài viết và bài
phát biểu nhằm bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân như
trong bài phát biểu bế mạc buổi ra mắt của của Đảng lao động Việt Nam ngày
3/3/1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói rõ: vấn đề tôn giáo thì Đảng lao động
Việt Nam hoàn toàn tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của mọi người. Ngoài
ra, Người còn trực tiếp ký sắc lệnh đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
của nhân dân vào ngày 14/ 6/1955, tại điều 1 sắc lệnh có ghi rõ: “Chính phủ
đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng và tự do thờ cúng của nhân dân. Không ai
được xâm phạm đến quyền tự do ấy. Mọi người Việt Nam đều có quyền tự do
theo một tôn giáo hoặc không theo tôn giáo nào”. Như vậy, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã chủ động thể chế hóa các quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân
dân bằng văn bản pháp luật, đây là nguyên tắc “bất di, bất dịch”, “trước sau
như một” nhằm bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và lợi ích hợp pháp
cho đồng bào tín đồ các tôn giáo. Trên thực tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã
nhiều lần giải thích một cách trang trọng bằng nhiều hình thức về mối quan hệ
giữa Giáo hội Công giáo Việt Nam với toà thánh La Mã, Người đã tuyên bố
rõ trong sắc lệnh tôn giáo là: Chính quyền không can thiệp vào nội bộ tôn
giáo, riêng về Công giáo, quan hệ về tôn giáo giữa giáo hội Việt Nam với toà
thánh La Mã là vấn đề nội bộ của Công giáo. Bên cạnh việc Chủ tịch Hồ Chủ
tịch và Chính phủ tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của đồng bào tín
đồ các tôn giáo thì Người và Chính phủ còn đặt ra những yêu cầu đối với
đồng bào tín đồ theo các tôn giáo phải tôn trọng và thực thi theo đúng pháp
luật Việt Nam, ngoài ra Người còn yêu cầu các nhà tu hành, các chức sắc tôn
giáo như Linh mục, Giám mục khi truyền bá tôn giáo phải có nhiệm vụ giáo
dục các tín đồ lòng yêu nước, nghĩa vụ người công dân, ý thức tôn trọng
chính quyền nhân dân và pháp luật của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà.
Đáp lại tình cảm của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với đồng bào tín đồ các tôn
giáo. Linh mục Trần Tam Tỉnh thay mặt đồng bào giáo dân đã nhận xét về
38

Người như sau: “Suốt cuộc đời tham chính của Người, Cụ Hồ là một người
yêu nước trên hết mọi sự…các lời lẽ Cụ phê phán giáo hội không bao giờ
chạm tới khía cạnh đức tin, nhưng chỉ nằm trong phạm vi các vấn đề cơ chế
và chính trị”[70,tr.76]
Tóm lại: Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn có thái độ tôn trọng và đảm bảo
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân, đã phản ánh đúng đắn tinh
thần dân chủ và nhân văn sâu sắc. Đây là tư tưởng hết sức đứng đắn, vừa đảm
bảo lợi ích dân tộc vừa không làm ảnh hưởng tới tình cảm của đồng bào tôn
giáo – một hình thái ý thức xã hội rất nhạy cảm và phức tạp. Trong công cuộc
xây dựng CNH, HĐH đất nước ta hiện nay, phương pháp đoàn kết tôn giáo
nêu trên của Hồ Chí Minh vẫn còn nguyên giá trị, góp phần quan trọng vào
việc củng cố, tăng cường khối đoàn kết tôn giáo, đoàn kết dân tộc và thực
hiện thắng lợi mục tiêu chung cho toàn thể dân tộc Việt Nam đó là: “Dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh”.
Ba là; hoạt động tôn giáo phải tôn trọng và tuân theo hiến pháp, pháp
luật Việt Nam ban hành.
Trước hết, để hoạt động các tôn giáo tôn trọng và dựa trên pháp luật
Việt Nam. Hồ Chủ tịch và Chính phủ đã chủ trương ban hành các văn bản
pháp luật liên quan đến tôn giáo và hoạt động tôn giáo, trong đó có sắc lệnh
234 về tôn giáo đã quy định rõ quyền lợi, trách nhiệm và phạm vi hoạt động
của tôn giáo ở Việt Nam. Tại sắc lệnh số 234-SL ngày 16 - 6 - 1955, Hồ Chủ
tịch thay mặt Chính phủ Việt Nam đã đưa ra nhiều điều khoản phong phú có
tính chất hệ thống liên quan đến tôn giáo như: phạm vi hoạt động, quyền lợi
và trách nhiệm của các tôn giáo. Cụ thể: chương I của sắc lệnh, Hồ Chủ tịch
thay mặt Chính phủ đã chỉ ra quyền của các tôn giáo đó là: quyền “tự do
giảng đạo của các nhà tu hành tại các cơ quan tôn giáo như nhà thờ, chùa,
thánh thất, trường giáo lý..”tại (điều1), quyền được xuất bản, sử dụng sách
39

báo tôn giáo quy định tại (điều 4), quyền “được mở trường đào tạo những
người chuyên hoạt động tôn giáo” quy định tại (điều 5)... chương II, điều 9
cho phép “các tôn giáo được mở các trường tư thục theo chương trình giáo
dục của Chính phủ”.., cùng với sắc lệnh 234 – SL thì Hồ Chủ tịch và Chính
phủ Việt Nam còn chủ trương ban hành Thông tư 593 – TTg, ngày 10 – 12 –
1957 “Quy định rõ hoạt động đối với các trường lớp tôn giáo”... ngoài ra, sắc
lệnh còn nghiêm cấm và trừng trị bất kỳ ai lợi dụng vấn đề tôn giáo để truyền
đạo trái phép hoặc chống đối nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà làm vi
phạm đạo đức công dân. Cụ thể, tại điều 7, sắc lệnh 234 ghi rõ: “Pháp luật sẽ
trừng trị những kẻ nào mượn danh tôn giáo để phá hoại hoà bình, độc lập, dân
chủ, tuyên truyền chiến tranh, phá hoại khối đoàn kết, ngăn trở tín đồ làm
nhiệm vụ công dân, xâm phạm tự do tín ngưỡng và tự do tư tưởng của người
khác hoặc làm việc trái pháp luật”.
Tóm lại: Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khởi xướng và đặt nền móng vững
chắc trong việc xây dựng và hoàn thiện một hệ thống luật pháp về tôn giáo và
hoạt động tôn giáo ở Việt Nam, quy định rõ quyền lợi và nghĩa vụ, phạm vi
và khuôn khổ hoạt động đối với tín ngưỡng, tôn giáo trên tinh thần dân chủ,
bình đằng và mang tính nhân văn sâu sắc. Đây chính là nguyên tắc đúng đắn
và là cơ sở vững chắc đảm bảo cho sự đoàn kết, thống nhất gắn bó lâu dài
giữa tôn giáo với dân tộc, giữa đức tin tôn giáo với tình yêu Tổ quốc dựa trên
cơ sở pháp luật Việt Nam.
1.3.2. Một số phương pháp về đoàn kết tôn giáo trong tư tưởng Hồ
Chí Minh
Một là; tôn trọng giáo chủ, tranh thủ tình cảm giáo sỹ và quan tâm tới
toàn dân
Hồ Chí Minh không chỉ tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của
nhân dân mà còn tỏ rõ tấm lòng tôn kính đối với các Giáo chủ, Giáo sỹ, Linh
40

mục, Đức Cha và các chức sắc, nhà tu hành những người sáng lập ra học
thuyết các tôn giáo. Đây cũng là một trong những phương pháp sáng tạo lớn
của Hồ Chí Minh trong việc vận động các chức sắc, nhà tu hành và mọi tín đồ
có đạo tham gia vào việc xây dựng khối đoàn kết tôn giáo nhằm lôi kéo các
tín đồ yêu nước trong tôn giáo tích cực tham gia vào việc thực hiện thắng lợi
mục tiêu chung: "Độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc". Theo nhận định của
Hồ Chí Minh về các bậc tiền bối sáng lập các học thuyết tôn giáo, họ đều là
các bậc vĩ nhân trong lịch sử và là những người có tinh thần và đức hy sinh
cao cả nhằm giải phóng con người khỏi khổ đau, bất hạnh. Vì vậy, Người rất
tôn trọng và gọi họ là những bậc “chí tôn, chí kính”. Trong suốt quá trình hoạt
động thực tiễn vận động đồng bào tín đồ các tôn giáo tham gia xây dựng khối
đoàn kết tôn giáo, Người đã có rất nhiều bài viết, bài nói chuyện đề cập tới
công lao, đức hy sinh của những bậc tiền bối đã sáng lập ra các học thuyết tôn
giáo ở các mức độ, khía cạnh khác nhau với thái độ rất trân trọng. Người nói:
“Đức Giêsu hy sinh vì muốn loài người được tự do hạnh phúc, đồng
bào ta cả lương cả giáo cũng vì tự do hạnh phúc cho toàn dân mà hy sinh phấn
đấu”.[39,tr.50],
Phật Thích ca sinh ra đều muốn “cứu khổ, cứu nạn” cho loài người.
Hồ Chí Minh với thái độ luôn tôn trọng, khiêm tốn “tôi cố gắng làm
người học trò nhỏ của những vị ấy”, không những trực tiếp biểu thị sự tôn
trọng, tinh thần cầu thị học hỏi những ưu điểm tiến bộ của các bậc tiền bối đã
sáng tạo ra các học thuyết tôn giáo mà còn thể hiện sự tôn trọng đối với quần
chúng nhân dân đã tin và đi theo lý tưởng, niềm tin của các bậc tiền bối. Hồ
Chí Minh đã chủ động bày tỏ một thái độ thân ái, thiện chí, tôn trọng hàng
ngũ giáo sỹ và tích cực lôi kéo họ tham gia vào sự nghiệp cứu nước, cứu dân.
Người luôn xác định các giáo sỹ là những người có mối quan hệ trực tiếp với
các giáo dân thông qua các giáo lý, giáo luật, nghi lễ và tổ chức giáo hội, họ
41

không chỉ hiểu rõ giáo lý tôn giáo mà còn hiểu biết về tình hình kinh tế, chính
trị, xã hội, văn hoá của dân tộc Việt Nam; đồng thời có khả năng biết tổ chức,
lôi kéo các tín đồ yêu nước chân chính đi theo cách mạng. Cho nên, theo
Người muốn đoàn kết giáo dân thì phải tranh thủ được hàng ngũ trong giáo sỹ
vì đó là đội ngũ lãnh đạo và phụ trách các hoạt động tôn giáo, nếu không vận
động được đội ngũ này thì sẽ rất khó khăn cho công tác vận động quần chúng
có đạo đi theo cách mạng. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh đã chủ động bày tỏ thái
độ thân thiện, thân ái đoàn kết, liên hệ chặt chẽ với nhiều chức sắc tôn giáo.
Bằng chứng cho chúng ta thấy, Người đã nhiều lần gửi thư và điện thăm hỏi
hàng ngũ giáo sỹ với thái độ ân cần, tôn trọng và coi họ có cùng mục đích
phấn đấu cho hạnh phúc của đồng bào, cho độc lập của dân tộc như trong thư
gửi Giám mục Lê Hữu Từ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết những lời lẽ rất tôn
trọng và thân mật để bày tỏ tình cảm và sự quan tâm của Người với Giám
mục. Người nói:
“Cụ Giám mục Lê Hữu Từ,
Thưa cụ,
Đã lâu không được gặp cụ tôi nhớ lắm.
Từ ngày thực dân Pháp bội ước khai hấn, toàn thể đồng bào ta phải
đồng tâm nhất trí, kháng chiến cứu quốc. Lần này cũng như những lần trước
6-3 và 14-9, tôi chắc cụ đã lấy địa vị công và tư, là Cố vấn của Chính phủ và
là bạn thân của tôi, mà giải thích và kêu gọi đồng bào hăng hái tham gia
kháng chiến cứu quốc”.[40,tr.28] hay trong một lá thư khác ngày 08 tháng 12
năm 1947, Người tiếp tục bày tỏ sự kính trọng đối với Giám mục Lê Hữu Từ.
Người viết: “Nhân dịp Lễ Nôen, tôi kính chúc cụ mọi sự lành để phụng sự
Đức Chúa và để lãnh đạo đồng bào công giáo tham gia kháng chiến, đặng
tranh lại thống nhất và độc lập cho Tổ quốc. Tôi nhờ cụ chuyển lời tôi chúc
phúc cho toàn thể đồng bào công giáo”.[40,tr.312]. Mặc dù sau này Giám
42

mục Lê Hữu Từ đã đi vào miền Nam theo Mỹ Ngụy, nhưng Hồ Chí Minh
không có một sự phê phán hay công kích nào mà Người còn chủ động mềm
mỏng thuyết phục tạm dẹp sang một bên cái chất “chống cộng sản” của vị
Giám mục Lê Hữu Từ và cố gắng khơi dậy ý thức độc lập, tự chủ trong trong
con người ông ta; đồng thời Hồ Chí Minh vẫn tiếp tục kiên trì vận động vị
Giám mục Lê Hữu Từ đi theo cách mạng quay trở về với dân tộc. Người viết:
“Như Đức cha đã nhấn mạnh trong thư, tôi tin rằng vị cố vấn thân ái và đáng
kính của tôi sẽ làm hết sức mình để tạo ra sự hợp nhất giữa mọi người không
phân biệt tôn giáo, nhằm chống lại bọn giặc ngoại xâm, xin Đức cha cầu Chúa
ban phước lành cho đất nước ta để cuộc kháng chiến của chúng ta đại thắng
lợi”[70,tr.71-72]. Chính thái độ chân thành, thẳng thắn nhưng cương quyết
của Hồ Chí Minh, buộc vị Giám mục này phải có thái độ và hành động tức
thời. Cho nên, trong thư gửi cho Linh mục thì Giám mục Lê Hữu Từ đã viết:
“Hơn bao giờ hết, toàn dân phải có một lòng đoàn kết chiến đấu chống lại bọn
xâm lược. Hãy để cho vấn đề các đảng phái sang một bên, đừng bận tâm
tới”[70,tr.75-76], có thể khẳng định bằng thái độ chân thật, khôn khéo và
cương quyết của Hồ Chí Minh trong việc tranh thủ uy tín của Giám mục Lê
Hữu Từ là biểu hiện sâu sắc về tầm cao văn hoá chính trị và một tấm lòng bao
dung rộng mở trong việc tranh thủ, lôi kéo tình cảm của giáo sĩ vào trong sự
nghiệp cứu nước, cứu dân. Đây là một trong những phương pháp hữu hiệu
nhất trong việc xây dựng và tập hợp lực lượng cách mạng trong đồng bào các
tôn giáo. Ngoài ra, đối với các chức sắc tôn giáo có công với đất nước thì Chủ
tịch Hồ Chí Minh chủ động khen thưởng kịp thời và mong muốn họ đoàn kết
chặt chẽ hơn nữa để "kháng chiến, kiến quốc". Bằng chứng cho thấy, Người
đã gửi thư khen thưởng Linh mục Lê Văn Yên (Bắc Ninh): “luôn luôn ra sức
củng cố tinh thần đại đoàn kết giữa đồng bào lương và đồng bào giáo, Ngài
luôn luôn tận tâm săn sóc các anh em thương binh, Ngài lại không nhận lương
phụ cấp”.[40,tr.408]. Người đã trực tiếp ký sắc lệnh 32/SL, ngày 25/4/1949
43

thưởng Huân chương độc lập hạng nhì cho Linh mục Nguyễn Bá Luận vì
thành tích vận động và hướng dẫn đồng bào Công giáo tích cực tham gia
kháng chiến. Bên cạnh đó, đối với các vị chức sắc tôn giáo có công với đất
nước qua đời, Người chủ động gửi thư, điện chia buồn trong niềm thương tiếc
sâu sắc tới đồng bào tín đồ của họ. Chẳng hạn như lời chia buồn cùng đồng
bào Công giáo địa phận Bùi Chu:
“Kính gửi Toà Giám mục Bùi Chu – Nam Định,
Tôi rất lấy làm đau đớn được tin Đức Giám mục Hồ Ngọc Cẩn đã từ trần.
Tiếc vì chiến sự, tôi không thể về để dự đám tang Đức Giám mục.
Tôi đã nhờ Ủy ban kháng chiến hành chính Liên khu III thay mặt đến
dự lễ và chia buồn cùng đồng bào công giáo địa phận Bùi Chu”.[40,tr.537]
hay trong bức thư chia buồn gửi đồng bào Công giáo tỉnh Nam Hà, Người
viết: “Được tin buồn cụ linh mục Quang Lâm Học thọ 108 tuổi, vừa qua đời
tôi rất thương tiếc. Tôi gửi lời chân thành chia buồn với đồng bào công giáo
tỉnh nhà và Uỷ ban liên lạc Công giáo.
Tôi mong rằng đồng bào công giáo hãy noi gương tốt của cụ Lâm, đoàn
kết chặt chẽ hơn nữa, góp phần xứng đáng cùng toàn dân chống Mỹ, cứu
nước thắng lợi”[46,tr.553]. Như vậy, có thể khẳng định Chủ tịch Hồ Chí
Minh là người có tấm lòng bao dung rộng mở, luôn quan tâm và chăm lo cho
công tác xây dựng khối đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết tôn giáo không chỉ
dừng ở lời nói mà còn bằng những hành động và việc làm cụ thể; đồng thời
Người có thái độ rất tôn trọng đối với những bậc tiền bối đã sáng lập ra các
học thuyết tôn giáo cũng như các chức sắc, nhà tu hành và tín đồ có đạo với
mong muốn cùng nhau vun đắp cho “phần xác no ấm”,“phần hồn thong
dong”.
Tóm lại: Chính bằng thái độ và tình cảm tôn trọng giáo chủ, tranh thủ
tình cảm của các giáo sỹ và quan tâm tới giáo dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
44

lôi kéo đông đảo đồng bào tín đồ yêu nước tham gia xây dựng khối đoàn kết
toàn dân, đoàn kết tôn giáo góp phần quan trọng vào việc thực hiện thắng lợi
mục tiêu chung của dân tộc đó là: "Độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc".
Trong tiến trình thực hiện CNH, HĐH đất nước hiện nay, phương pháp
trên vẫn còn nguyên giá trị trong công tác vận động đồng bào tín đồ các tôn
giáo tham gia xây dựng khối đoàn kết tôn giáo; đồng thời góp phần quan
trọng vào việc đấu tranh và ngăn chặn kịp thời các âm mưu muốn lợi dụng
vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền... nhằm chia rẽ tôn giáo,
dân tộc làm tổn hại đến lợi ích của quốc gia dân tộc Việt Nam.
Hai là; tích cực tuyên truyền, khai thác các giá trị nhân bản trong các
tôn giáo nhằm tập hợp lực lượng cách mạng của toàn dân
Theo Hồ Chí Minh muốn đoàn kết tôn giáo cần phải tích cực tuyên
truyền, giáo dục vận động đồng bào các tín đồ tôn giáo đi theo cách mạng.
Trong quá trình tuyên truyền, giáo dục cần chú trọng khai thác các giá trị
nhân bản, giá trị đạo đức trong các học thuyết tôn giáo nhằm tập hợp mọi lực
lượng tín đồ yêu nước trong các tôn giáo tham gia vào xây dựng khối đoàn
kết toàn dân, đoàn kết tôn giáo. Nét nổi bật trong phương pháp cách mạng của
Người là sự tiếp thu có chọn lọc các tư tưởng nhân văn, đạo đức trong các tôn
giáo trên nền tảng chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa cộng sản nhằm hướng tới
mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Vì
vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm nhận thức rõ về ý nghĩa, tầm quan trọng
của phương pháp trên trong việc tập hợp các tín đồ tôn giáo yêu nước tham
gia vào cuộc đấu tranh "giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc". Cho nên,
trong suốt quá trình vận động đồng bào các tín đồ tôn giáo, Người luôn lấy
tấm gương và đức hy sinh của các nhà sáng lập ra học thuyết tôn giáo cùng
với nhiều bài nói, bài viết và những lời văn của các bậc thánh hiền rút ra trong
kinh Phật, kinh Thánh…trên cơ sở chọn lọc, chuyển tiếp hài hoà những ngôn
45

từ của các bậc tiền bối vào việc thực hành đạo đức trong đời sống xã hội cho
thích hợp với thời đại của dân chúng mà tinh thần cơ bản không hề thay đổi,
coi đó làm cơ sở nền tảng trong việc tập hợp lực lượng và giáo dục lòng yêu
nước đến đồng bào tín đồ các tôn giáo. Vì vậy, trong suốt quá trình vận động
đồng bào tín đồ các tôn giáo đi theo cách mạng, Người đã có nhiều bài nói,
bài viết sáng tạo như: ngày 20/9/1964 trên Báo chính nghĩa, Người lấy tinh
thần kinh Thánh để giáo dục tinh thần đoàn kết toàn dân, đoàn kết tôn giáo:
“Kinh thánh có câu: “Ý dân là ý Chúa”. Con đường yêu nước mà đồng bào
đang đi là hoàn toàn đúng.
Tôi mong các cụ phụ lão, các vị giám mục và linh mục hăng hái
khuyến khích tín đồ trong mọi công việc ích nước, lợi dân.
Lương giáo đoàn kết, cả nước đồng lòng, nhân dân ta nhất định sẽ
thắng lợi trong công cuộc đấu tranh thực hiện hòa bình thống nhất Tổ quốc và
xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu
mạnh”.[46,tr.314]. Bên cạnh đó, Người còn nêu cao tinh thần nhân văn, đạo
đức và những đức hy sinh cao cả của Đức Thiên Chúa, Đức Phật nhằm kêu
gọi giáo dân, phật tử phấn đấu noi theo và tích cực đấu tranh để giải phóng
dân tộc, thống nhất Tổ quốc. Người nói: “Chúa Cơ đốc sinh ra làm gương mọi
giống phúc đức như: hy sinh vì nước, vì dân, làm gương lao động, công bằng
ruộng đất, tin thờ Chúa bằng tinh thần”[42,tr.197]. Và “chúng ta kháng chiến
cứu nước, thi đua tăng gia sản xuất và tiết kiệm, cải cách ruộng đất làm cho
người cày có ruộng, tín ngưỡng tự do. Như thế là những việc Chính phủ và
nhân dân ta làm đều hợp với tinh thần Phúc âm”.[42,tr.197]. Những bài nói,
bài viết trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh có sức mạnh tinh thần rất to lớn đã lay
động và lôi kéo được rất nhiều hàng ngũ giáo sỹ, tu sỹ và các tín đồ tôn giáo
yêu nước chân chính đi theo cách mạng, tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh
để cứu nước, giải phóng dân tộc và thống nhất Tổ quốc.
46

Tóm lại: Hồ Chí Minh là một người chiến sỹ cộng sản tiên phong trong
công tác vận động, tuyên giáo và giáo dục đồng bào tín đồ các tôn giáo tham
gia xây dựng khối đoàn kết tôn giáo; đồng thời Người là một nhà hoạt động
cách mạng chuyên nghiệp nhưng khác với các nhà hoạt động cách mạng khác.
Người đã có sự kết hợp hài hoà giữa các giá trị tinh hoa văn hoá nhân loại ở
nhiều học thuyết tôn giáo và học thuyết xã hội, nhờ đó đã giúp Người nhanh
chóng quy tụ và phát huy được sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân,
đoàn kết tôn giáo vào trong sự nghiệp cứu nước, cứu dân. Đây chính là
phương pháp cách mạng mang đậm tính nhân văn sâu sắc của Người đã làm
thất bại mọi âm mưu, chính sách xâm lược của thực dân Pháp và sau này là đế
quốc Mỹ ở Việt Nam. Thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt
Nam, thực chất là thắng lợi của tư tưởng đại đoàn kết mang tính chiếm lược
của Hồ Chí Minh; trong đó đặc biệt là đoàn kết tôn giáo.
Ba là; phân biệt giữa tổ chức giáo dân chân chính với tổ chức và cá
nhân giả danh tôn giáo
Hồ Chí Minh nhận định đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo là một yêu
cầu tất yếu quyết định đến thành công hay thất bại của cách mạng Việt Nam.
Do đó, để làm tốt nhiệm vụ trên đòi hỏi người cách mạng phải biết phân biệt
được bạn - thù, đâu là tổ chức giáo dân chân chính và đâu là tổ chức giả danh
tôn giáo muốn lợi dụng tôn giáo nhằm chia rẽ khối đoàn kết dân tộc, đoàn kết
tôn giáo làm phương hại đến sự nghiệp cách mạng của quần chúng nhân dân.
Vì vậy, ngay từ những năm 20 của thế kỷ XX Nguyễn Ái Quốc (tức Hồ Chí
Minh) có quan điểm rất rõ ràng về vấn đề trên được thể hiện trong tác phẩm
“Bản án chế độ thực dân Pháp”, Người đã vạch trần bộ mặt giả danh của các
giáo hội Công giáo ở Đông Dương do thực dân Pháp dựng lên để làm tay sai
cho Pháp. Người nói: “Và nếu Chúa bất hạnh đã chịu đóng đanh trên cây
thánh giá trở về cõi thế này, thì chắc Ngài sẽ vô cùng ngao ngán khi thấy “các
môn đồ trung thành” của mình thực hiện đức khổ hạnh như thế nào: giáo hội
Xiêm chiếm đoạt một phần ba diện tích ruộng đất canh tác trong xứ; giáo hội
47

Nam Kỳ chiếm một phần năm, giáo hội Bắc Kỳ, chỉ riêng ở Hà Nội đã chiếm
một phần tư đất đai, cộng thêm một cái vốn bé xíu 10 triệu
phrăng”[37,tr.102]. Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh còn phân biệt rõ những người
giáo dân chân chính với những kẻ giả danh tôn giáo để có phương pháp đấu
tranh cho đúng, trong đó tiêu chí để phân biệt không phải là gì khác là quan
điểm “hãy xem họ làm, và đừng vội nghe họ nói”, tức là phải dựa và suy nghĩ,
hành động cụ thể chứ không dựa vào vài ba lời lẽ xui nịnh gây ra sự bất hoà
trong Đảng và trong nhân dân. Người khẳng định giáo dân chân chính là
những người yêu nước có tinh thần dân tộc, đoàn kết hoà mình vào cuộc
kháng chiến, kiến quốc. Kẻ giả danh tôn giáo là giả Chúa, phản quốc, cam
tâm làm tay sai cho giặc. Vì vậy, để phân biệt rõ bạn – thù, phân biệt giữa
những người giáo dân chân chính với những kẻ giả danh tôn giáo, Người luôn
nhấn mạnh tới vai trò và trách nhiệm của đội ngũ cán bộ làm công tác tôn
giáo, công tác dân vận phải có ý thức bền bỉ, kiên trì mới có thể giúp giáo dân
phân biệt được chính - tà, bạn - thù rõ ràng, dứt khoát. Thực tế trong suốt quá
trình hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh kiên đã trì đấu đấu tranh
chống lại những kẻ giả danh tôn giáo nhằm bảo vệ khối đoàn kết dân tộc,
đoàn kết tôn giáo; đồng thời “tẩy trừ những bọn phản Chúa, phản quốc, hại
dân”, Người nói: “Những người công giáo Việt Nam theo Pháp và bù nhìn,
làm hại đồng bào, chẳng những là Việt gian, mà cũng là giáo gian. Còn những
đồng bào Công giáo kháng chiến mới là tín đồ chân chính của Đức Chúa, vì
những đồng bào ấy thật thà
Phụng sự Đức Chúa,
Phụng sự Tổ quốc”.[41,tr.443]; “Cũng như Ngô Đình Diệm là người
Công giáo, cũng giống như Giuđa là người Công giáo. Ngô Đình Diệm đã lợi
dụng Chúa để làm ô danh Chúa, lợi dụng đồng bào để giết hại đồng
bào”[56,tr.25]. Cùng với việc Chủ tịch Hồ Chí Minh kiên quyết đấu tranh
vạch trần các tổ chức và cá nhân giả danh tôn giáo nhằm phá vỡ khối đoàn kết
dân tộc, đoàn kết tôn giáo thì Người còn kiên trì, nhẫn nại với những lời lẽ
48

chân tình, tha thiết và một tấm lòng nhân đạo chủ nghĩa rộng mở, vị tha cho
những kẻ lầm đường, lạc lối. Bằng chứng cho thấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
ra sức thuyết phục, động viên họ quay trở lại quê hương tham gia vào cuộc
đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc và bảo về quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo của nhân dân. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh đã là người
dân Việt Nam thì bất kỳ ai cũng có ít nhiều lòng ái quốc, nhưng do bị thực
dân Pháp lợi dụng về đức tin tôn giáo đã làm cho họ lầm đường lạc lối, sau
quá trình được giác ngộ cách mạng chắc chắn họ sẽ quay về với Tổ quốc với
nhân dân. Cho nên, Người đã khẳng định trước toàn Đảng, toàn dân tộc như
sau: “Trừ bọn rất ít đại Việt gian, đồng bào ai cùng có lòng yêu nước. Tuy có
một số đồng bào lầm lạc, qua một thời gian, những người ấy dần dần giác ngộ
và quay về với Tổ quốc”[40,tr.422].
Tóm lại: Chủ tịch Hồ Chí Minh trong suốt qúa trình vận động quần
chúng nhân dân tham gia xây dựng khối đoàn kết toàn dân, đoàn kết tôn giáo.
Người đã nghiên cứu, sáng tạo ra phương pháp cách mạng, khoa học trong
việc xây dựng và bảo vệ vững chắc khối đoàn kết tôn giáo đó là: phân biệt
giữa tổ chức giáo dân chân chính với tổ chức và cá nhân giả danh tôn giáo.
Chính nhờ phương pháp cách mạng trên, đã giúp cho Đảng và Chính phủ
phân biệt được rõ chính – tà, bạn – thù; phân biệt được đâu là tổ chức giáo
dân chân chính, đâu là tổ chức giả danh tôn giáo; đồng thời đề ra được những
biện pháp ứng xứ khoa học phù hợp với tình hình thực tiễn cách mạng Việt
Nam góp phần quan trọng vào việc thực hiện thắng lợi mục tiêu: "Độc lập dân
tộc, thống nhất Tổ quốc".
Qua nghiên cứu những nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về xây
dựng khối đoàn kết tôn giáo, giúp chúng ta nhận thức rõ về ý nghĩa, giá trị và
những đóng góp to lớn của Người trong công tác xây dựng khối đoàn kết toàn
dân, đoàn kết tôn giáo. Trên thực tế đã chứng minh, trong suốt quá trình hoạt
động và lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm
và luôn chăm lo cho công tác xây dựng khối đoàn kết toàn dân, đoàn kết tôn
49

giáo coi đó là nhiệm vụ mang tính chiến lược, hàng đầu của cách mạng Việt
Nam. Cho nên, Người đã tích cực khảo sát, nghiên cứu và đưa ra những
nguyên tắc căn bản làm nền tảng cho việc xây dựng khối đoàn kết tôn giáo;
ngoài ra Người còn sáng tạo ra những phương pháp cách mạng, khoa học vừa
mang tính chất bảo vệ, vừa mang tính chất xây dựng khối đoàn kết tôn giáo,
đoàn kết toàn dân tộc; đồng thời đưa các tôn giáo, các chức sắc, nhà tu hành
và các tín đồ có đạo hướng về dân tộc góp phần quan trọng vào việc thực hiện
thắng lợi mục tiêu: "Độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc". Trong giai đoạn
đẩy mạnh xây dựng CNH, HĐH đất nước hiện nay, đặc biệt là đấu tranh
chống lại những âm mưu "diễn biến hoà bình" muốn lợi dụng vấn đề về tự do
tín ngưỡng, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền... để chống phá Nhà nước xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn còn nguyên giá trị bởi tính
đúng đắn sáng tạo, cách mạng và khoa học về những nguyên tắc và phương
pháp nêu trên góp phần quan trọng vào việc bảo vệ và xây dựng thành công
khối đoàn kết tôn giáo, đoàn kết dân tộc và thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ
về xây dựng và phát triển chính trị, kinh tế- xã hội, văn hoá của đất nước. Từ
những căn cứ thực tiễn và bài học kinh nghiệm trong công tác xây dựng khối
đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu trên, Đảng bộ và chính quyền cùng
với các ban ngành các cấp trong tỉnh Thái Bình đã tích cực học tập, nhận thức
và quán triệt vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh vào trong công tác xây
dựng khối đoàn kết tôn giáo ở địa phương từ năm 1986 đến nay.
50

Chương 2:
VẬN DỤNG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
XÂY DỰNG KHỐI ĐOÀN KẾT TÔN GIÁO Ở TỈNH THÁI BÌNH
TỪ 1986 ĐẾN NAY
2.1. Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế, chính trị - xã hội, văn
hoá, tôn giáo ở tỉnh Thái Bình
2.1.1. Vài nét về điều kiện tự nhiên, kinh tế, chính trị - xã hội, văn hoá
* Về điều kiện tự nhiờn
Thái Bình là tỉnh đồng bằng châu thổ sông Hồng; phía Bắc giáp Hải
Phòng, phía Nam giáp Nam Định, phía Tây giáp Hưng Yên và Hải Dương,
phía Đông giáp Vịnh Bắc Bộ (biển Đông) có hơn 54 km bờ biển; diện tích tự
nhiên là 1.535 km2; ngoài ra tỉnh được bao bọc bởi các con sông lớn là: sông
Hồng, sông Hóa, sông Luộc tạo ra đất đai màu mỡ, phì nhiêu rất thuận tiện
cho việc phát triển nông nhiệp, ngư nghiệp, công nghiệp chế biến và công
nghiệp nhẹ. Trước đây, Thái Bình được ví như "một ốc đảo" ngăn cách bởi
những con sông lớn và biển, nằm tách biệt với các tỉnh lân cận rất khó khăn
cho người dân Thái Bình khi đi ra tỉnh ngoài và ngược lại người ngoài tỉnh
vào Thái Bình. Cho nên, các tôn giáo có lịch sử ra đời muộn vào tỉnh Thái
Bình sẽ gặp rất nhiều khó khăn, hoặc muốn xâm nhập vào Thái Bình phải nhờ
đến các thế lực lớn đằng sau trợ giúp.
Từ năm 2.000 đến nay, sau khi dự án quốc lộ 10 và quốc lộ 39 được
nâng cấp thỡ Thái Bình trở thành tỉnh cú mạng lưới giao thông thủy bộ khá
phát triển. Tuyến quốc lộ 10 đó nối Thái Bình với Nam Định - Ninh Bình, Hải
Phòng - Quảng Ninh; tuyến quốc lộ 39 đó nối Thái Bình với các tỉnh đồng
bằng Bắc Bộ; với Hà Nội và các tỉnh phía Bắc; các con sông lớn bao quanh
tỉnh đã tạo điều kiện cho giao thông đường sông phát triển; cảng Diêm Điền
được đầu tư trở thành một trong những cảng lớn của quốc gia là điều kiện
thuận lợi cho phát triển kinh tế biển ở Thái Bình hiện nay.
51

* Về điều kiện kinh tế - xó hội


Từ điều kiện tự nhiên như trên đã chi phối kinh tế - xã hội và dân cư ở
Thái Bình với đặc điểm là một tỉnh đồng bằng Bắc bộ bị ngăn cách bởi những
con sông lớn và được phù sa châu thổ sông Hồng bồi đắp đã tạo ra nguồn tài
nguyên đất đai mầu mỡ thuận lợi cho sự phát triển kinh tế nông nghiệp. Chính
vì vậy, Thái Bình trở thành một trong những tỉnh có nền nông nghiệp lâu đời
phát triển mạnh, gắn kết giữa nông nghiệp, nông dân và nông thôn tạo ra sự
ổn định và tính quần cư của người dân Thái Bình. Chính việc ổn định về mặt
kinh tế dựa trên cơ sở “tự cung, tự cấp” và bị ngăn cách bởi những con sông
lớn như trên, đã làm cho khả năng giao lưu về chính trị, kinh tế - xã hội, văn
hoá của người dân Thái Bình ra bên ngoài tỉnh và ngược lại người bên ngoài
tỉnh muốn vào Thái Bình không thuận lợi. Cho nên, các tôn giáo ra đời muộn
muốn xâm nhập vào tỉnh Thái Bình sẽ gặp rất nhiều khó khăn, nếu không có
sự hậu thuẫn giúp đỡ của các lực đứng sau tôn giáo.
Từ năm 2.000 đến nay, sau khi có những dự án nâng cấp đường thuỷ bộ
thì kinh tế tỉnh Thái Bình đó cú những chuyển biến tích cực. Tốc độ tăng
trưởng (GDP) liên tục tăng lên qua các năm.
Bảng 1: Tốc độ tăng trƣởng GDP của Thái Bình qua các năm.

Năm 2004 2005 2006 2007 2008


5.988 6.455 7.146,7 7.234,5 8.191.2
GDP
tỷ đồng tỷ đồng tỷ đồng tỷ đồng tỷ đồng
Tốc độ tăng trƣởng 10,25% 10,38% 10,56% 10,67% 11,23%
Tổng hợp từ các nguồn: [67];[68];[69];[70];[71];[72].

Dân số tỉnh Thái Bình hiện nay khoảng 1.860.000 người với 285 xã -
phường - thị trấn, trong đó có 7 huyện và 1 thành phố trực thuộc tỉnh Thái
Bình bao gồm: huyện Kiến Xương, huyện Tiền Hải, huyện Hưng Hà, huyện
Quỳnh Phụ, huyện Thái Thuỵ, huyện Đông Hưng, huyện Vũ Thư và thành
52

phố Thái Bình. Trong đó, dân số nông thôn là 1.723.000 người, chiếm
92,63%, dân số thành thị là 137.000 người, chiếm 7,37%; mật độ dân số
1.203 người/ km². Số người trong độ tuổi lao động khoảng 1.100.000 người,
chiếm 59,13% dân số. Lao động Thái Bình cú trình độ văn hoá khá cao, tỷ lệ
tốt nghiệp cấp II trở lên là trên 96%, tỷ lệ lao động qua đào tạo chuyên môn
khoảng 30%. Với lực lượng lao động trẻ, có trình độ văn hoá khá cao là một
lợi thế rất lớn của Thái Bình trong việc thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát
triển kinh tế, chính trị – xã hội, văn hoá hiện nay.
* Về văn hoá và con người Thái Bình
Từ những tồn tại xã hội nêu trên, đã tạo ra những sắc thái văn hoá riêng
biệt của người dân Thái Bình đó là nền văn minh nông nghiệp trồng lúa nước
tồn tại từ rất lâu đời đã ăn sâu, bám rễ vào lối sống, cách nghĩ và cách làm của
người dân. Do đó, đã hình thành nên tư tưởng bảo thủ chậm tiếp nhận các loại
hình văn hoá, tôn giáo mới du nhập vào Thái Bình. Bên cạnh đó, người dân
Thái Bình còn chịu sự tác động của mô hình thiết chế văn hoá nhà - làng -
nước khép kín và được bao bọc quanh bởi những luỹ tre làng. Chính vì vậy,
đã hình thành tư tưởng hướng nội nhiều hơn hướng ngoại.
Tóm lại: Xuất phát từ những căn cứ nêu trên cho ta thấy, trong suốt quá
trình đấu tranh “gạn đục, khơi trong”, người dân Thái Bình chỉ tiếp nhận ba
tôn giáo chính là: Phật giáo, Công giáo và Tin lành giáo tính đến thời điểm
hiện nay. Ngoài ra, chính đặc điểm tự nhiên nêu trên cùng với sự cư trú của
người dân Thái Bình gần ven biển và lưu vực các con sông lớn phải thường
xuyên đấu tranh chống chọi lại với sự hà khắc của thiên nhiên như: bão biển,
sóng biển, gió biển và sự lên xuống thất thường của nước thuỷ triều, cộng
thêm sự gia tăng về dân số tự nhiên buộc người dân Thái Bình phải tích cực
đắp đập trị thuỷ, khai hoang lấn biển. Cho nên, đã sớm hình thành lên tích tổ
chức kỷ luật, tinh thần đoàn kết tương trợ giúp đỡ lẫn nhau, dũng cảm trước
53

ngọn sóng đầu gió, cần cù trong lao động sản xuất, kiên cường bất khuất trong
đấu tranh của nhân dân Thái Bình. Vì vậy, trong suốt những năm kháng chiến
chống thực dân Pháp và sau này là đế quốc Mỹ, nhân dân Thái Bình đã chi
viện cho chiến trường lên tới hàng chục vạn chiến sỹ cách mạng, hàng nghìn
tấn lương thực và thực phẩm cho trận tuyến, là một trong những tỉnh dẫn đầu
về nhiều phong trào thi đua yêu nước như: “giết giặc lập công”,“xóa nạn mù
chữ”,“tăng gia sản xuất giỏi”.., đồng thời là một trong những tỉnh đầu tiên của
cả nước đạt năng suất lúa 5 tấn/ha vào những năm đầu xây dựng CNXH ở
miền Bắc. Trong giai đoạn đẩy nhanh tiến độ xây dựng CNH, HĐH ở tỉnh
Thái Bình hiện nay. Đảng bộ, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và Ban tôn giáo
các cấp trong tỉnh quyết tâm xây dựng tốt khối đoàn kết toàn dân nhằm thực
hiện tốt các nhiệm vụ chính trị, trong đó có nhiệm vụ xây dựng khối đại đoàn
kết đoàn kết tôn giáo; đồng thời chủ động phát huy tốt truyền thống đoàn kết
trong nhân dân; truyền thống anh hùng cách mạng trong lao động sản xuất và
trong chiến đấu, phát huy tinh thần giám nói, giám nghĩ, giám làm mạnh dạn
đổi mới, mạnh dạn áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất
nhằm phấn đấu đưa Thái Bình cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp theo hướng
hiện đại vào năm 2020.
2.1.2. Sơ lược tình hình tôn giáo và đoàn kết tôn giáo ở tỉnh Thái
Bình trước năm 1986
* Tình hình tôn giáo ở tỉnh Thái Bình
Ở tỉnh Thái Bình có ba tôn giáo chính: Công giáo, Phật giáo, Tin lành
giáo nằm rải rác ở nhiều xã trong tỉnh Thái Bình, riêng Tin lành giáo có cơ sở
thờ tự, số lượng tín đồ, quy mô hoạt động nhỏ lẻ còn lại Công giáo, Phật giáo
với hệ thống cơ sở thờ tự bề thế, khang trang và tương đối hoàn thiện (quy mô
tôn giáo lớn đứng thứ ba so với các tỉnh đồng bằng trung du và miền núi Bắc
bộ). Nếu tính cả cơ sở thờ tự tín ngưỡng dân gian truyền thống thì Thái Bình
54

là một trong những tỉnh có mật độ tín ngưỡng, tôn giáo dày. Xét về mặt lịch
sử, đạo Công giáo du nhập vào Thái Bình từ giữa thế kỷ XVII (năm 1659)
bằng nhiều con đường khác nhau (các thầy tu trực tiếp truyền đạo, buôn bán
với tỉnh ngoài, nước ngoài và dân di cư ở các nơi đến..) Ban đầu Công giáo ở
Thái Bình thuộc địa phận Bùi Chu. Đến ngày 9/3/1936, Giáo Hoàng ban sắc
chỉ phân chia thành hai địa phận: Bùi Chu và Thái Bình. Giáo hội địa phận
Thái Bình gồm hai tỉnh là Thái Bình và Hưng Yên. Trong lịch sử đạo Công
giáo ở Thái Bình từ (năm 1930 đến năm 1950), phần lớn nhà thờ bị biến thành
đồn bốt của giặc. Bọn tay sai, phản động đội lốt giáo sỹ tôn giáo điên cuồng
trực tiếp đàn áp các phong trào cách mạng, giam giữ, giết hại nhiều chiến sỹ
cách mạng; ra sức chia rẽ đồng bào có đạo và đồng bào không có đạo, gây ra
sự hận thù với chính quyền cách mạng làm ảnh hưởng tới khối đoàn kết toàn
dân, đoàn kết tôn giáo. Năm 1954, Hiệp định Giơnevơ được ký kết. Bọn phản
động tung luận điệu “Chúa vào miền Nam”, nên cả địa phận có một giám
mục, 48 linh mục, 203 thầy giảng, 122 chủng sinh, 8 vạn giáo dân di cư vào
miền Nam. Ở lại phục vụ giáo phận chỉ còn một giám quản Đinh Đức Trụ
(sau là giám mục), 11 linh mục và một số ít nữ tu. Theo thống kê của Ban tôn
giáo tỉnh Thái Bình ngày 30/3/2008 thì toàn tỉnh có 98.000 tín đồ, 56 chức
sắc, 325 cơ sở thờ tự.
Đạo Phật được truyền bá vào Thái Bình từ thế kỷ thứ IV và phát triển
mạnh vào thế kỷ XIII, XIV. Đến nay, toàn tỉnh có 11 vạn tín đồ (quy Y), 706
ngôi chùa và 323 tăng ni (trong đó có ba hoà thượng, 6 ni trưởng và 2 thượng
toạ). Về tổ chức, Ban trị sự giáo hội Phật giáo tỉnh có 21 người, Ban trị sự ở 7
huyện, 1 thành phố trực thuộc tỉnh có 24 người (mỗi huyện, thị có 3 người).
Nhìn chung, Phật giáo Thái Bình có lịch sử khá hưng thịnh, không có những
phức tạp lớn về chính trị, được nhân dân tín mộ và tự nguyện. Chức sắc của
Phật giáo xuất thân từ nhiều tầng lớp, có hoàn cảnh khác nhau, nhưng chủ yếu
xuất thân từ giai cấp nông dân. Tuy trình độ giáo lý, Phật pháp của không ít
55

tăng ni còn thấp, song đại đa số có ý thức chính trị tốt, tận tâm chăm lo “việc
đời, việc đạo” theo phương châm “Đạo pháp - Dân tộc – Chủ nghĩa xã hội).
Theo thống kê của Ban tôn giáo tỉnh Thái Bình ngày 20/4/2008 thì toàn tỉnh
có 148.540 tín đồ, 393 chức sắc, 846 cơ sở thờ tự.
Đạo Tin lành giáo ở Thái Bình hiện nay có 4 hệ phái, đang tồn tại ở 6
nơi với 2 dạng tổ chức đó là: Chi hội và điểm nhóm.
Tổ chức Tin lành được Nhà nước và UBND tỉnh Thái Bình công nhận
hoạt động hợp pháp đó là (chi hội thánh Tin lành Khả Cảnh), thời gian thành
lập vào năm 1932 tại thôn Khả Cảnh, xã Hồng Tiến, huyện Kiến Xương do
mục sư Hoàng Trọng Nhật thuộc tổ chức hệ phái "Liên hiệp cơ đốc phúc âm
và truyền giáo" gọi tắt là CMA truyền từ Nam Định sang. Chi hội thánh Khả
Cảnh là 1 trong 14 chi hội thánh hiện nay thuộc Tổng hội thánh Tin lành miền
Bắc Việt Nam. Đây là tổ chức Tin lành đầu tiên được Nhà nước công nhận
với tên thường gọi là (tổ chức Tin lành chính thống). Theo thống kê của Ban
tôn giáo tỉnh Thái Bình ngày 15/6/2008 thì toàn tỉnh có 260 tín đồ, 1 chức sắc,
1 cơ sở thờ tự. Ngoài tổ chức Tin lành chính thống nêu trên thì Thái Bình còn
có những điểm, nhóm hệ phái Tin lành chưa được Nhà nước và UBND tỉnh
Thái Bình công nhận hoặc mới xuất hiện hoạt động không hợp pháp như: 1
chi hội thuộc hệ phái CMA được hình thành từ năm 1936 đến năm 1976 thì
tan rã hẳn không còn cơ sở thờ tự và tự chấm dứt hoạt động trong suốt một
thời gian dài, đến năm 2001 thì hoạt động trở lại. Hiện nay, có 8 hộ với tổng
số 32 tín đồ, cơ sở thờ tự tại gia đình. Nhóm thứ hai là hệ phái Phúc âm ngũ
tuần xuất hiện từ năm 2001 tại Thái Bình, hình thành liên kết và hoạt động
trên địa bàn huyện Tiền Hải và Kiến Xương và thành phố Thái Bình có
khoảng 38 hộ với hơn 85 tín đồ, cơ sở thờ tự tại gia đình. Nhóm thứ ba là Tin
lành theo hệ phái Cơ đốc phúc lâm (Sabbath) xuất hiện tại Thái Bình vào năm
2002 ở xã Vũ Hội, huyện Vũ Thư gồm 4 hộ với 15 tín đồ, cơ sơ thờ tự tại gia
56

đình. Nhóm thứ tư là Tin lành theo hệ phái Chứng nhân Giê hô va xuất hiện
tại Thái Bình vào năm 2.000, tại xã Minh Quang, huyện Vũ Thư gồm 5 hộ 21
tín đồ, cơ sở thờ tự tại gia đình. Như vậy, Tin lành giáo ở tỉnh Thái Bình tồn
tại dưới hai dạng: một dạng được Nhà nước và UBND tỉnh Thái Bình công
nhận gọi là (tổ chức Tin lành chính thống) và dạng khác tồn tại không được
Nhà nước và UBND tỉnh Thái Bình công nhận và cấp phép hoạt động, nhưng
nhìn chung Tin lành giáo ở Thái Bình trong những năm qua với quy mô, số
lượng tín đồ và phạm vi hoạt động nhỏ lẻ không gây ảnh hưởng lớn đến tình
hình an ninh, chính trị và trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh Thái Bình.
* Tình hình đoàn kết tôn giáo ở tỉnh Thái Bình trước năm 1986
Giai đoạn từ 1930 đến 1954, đây là giai đoạn thành lập Đảng và đấu
tranh giành chính quyền, tiến hành kháng chiến chống thực dân Pháp xâm
lược. Tại địa bàn tỉnh Thái Bình, quần chúng nhân dân sớm được giác ngộ
cách mạng thông qua tổ chức "Việt Nam cách mạng thanh niên" và những
người trí thức yêu nước. Vì vậy, nhanh chóng thành lập được các tổ chức cơ
sở Đảng tại Thái Bình và vận động nhân dân tham gia xây dựng khối đoàn kết
toàn dân, đoàn kết tôn giáo; đồng thời dưới sự lãnh đạo, dẫn dắt của Đảng bộ
địa phương đã vận động quần chúng nhân dân lao động thực hiện được nhiều
phong trào đấu tranh cách mạng nhằm bảo vệ quyền và lợi hợp pháp cho nhân
dân Thái Bình điển hình như: phong trào tiếng trống năm 1930 nổ ra ở huyện
Tiền Hải nhằm chống sưu cao, thuế nặng cùng với những âm mưu, thủ đoạn
chính trị của thực dân Pháp và tay sai như: Chính sách “chia để trị” nhằm chia
rẽ giữa đồng bào theo và không theo tôn giáo, chia rẽ giữa tôn giáo với nhân
dân; chính sách "thống trị",“nô dich”,"bóc lột" áp đặt hàng trăm thứ thuế vô
lý buộc người dân Tiền Hải phải đứng ra đóng góp. Từ phong trào trên của
nhân dân huyện Tiền Hải đã nhanh chóng lan ra nhiều huyện, thị khác trong
tỉnh như: huyện Kiến Xương, Hưng Hà, Đông Hưng, Quỳnh Phụ.., tại các
57

huyện trên quần chúng nhân dân lao động, trong đó gồm một bộ phận không
nhỏ đồng bào có đạo khi được giác ngộ cách mạng đã đứng ra che chở, nuôi
dưỡng, giúp đỡ cán bộ cán cách mạng trong quá trình thực thi các nhiệm vụ
chính trị. Do đó, phong trào cách mạng vẫn được giữ vững, duy trì và phát
triển mạnh. Bên cạnh những mặt tích cực nêu trên, còn có những mặt hạn chế
do âm mưu và chính sách “chia để trị” của thực dân Pháp nhằm chia rẽ đồng
bào theo tôn giáo và đồng bào không theo giáo trong tỉnh Thái Bình bằng
nhiều hình thức khác nhau như: sử dụng tiền bạc, đức tin tôn giáo, gạo cứu
đói.... để mua chuộc, dụ dỗ, lôi kéo đồng bào có đạo đi chống phá các phong
trào và cơ sở cách mạng trên địa bàn tỉnh Thái Bình mục đích nhằm phá vỡ
khối đoàn kết toàn dân, đoàn kết tôn giáo.
Giai đoạn từ 1954 đến 1975, đây là giai đoạn cả dân tộc tiến hành đồng
thời hai nhiệm vụ cách mạng, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và tiến
hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam nhằm giải phóng miền
Nam, thống nhất đất nước. Để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng
trong giai đoạn trên, Đảng bộ và Mặt trận Tổ quốc tỉnh Thái Bình đã phát
động nhiều phong trào đoàn kết toàn dân nhằm làm thất bại mọi âm mưu chia
rẽ dân tộc, chia rẽ tôn giáo của các thế lực phản động; đồng thời đảm bảo thực
hiện tốt nhiệm vụ chi viện cho tiền tuyến và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc. Về mặt tích cực, thông qua các phong trào, các cuộc vận động đã
thu hút hàng vạn đồng bào, tín đồ các tôn giáo trong tỉnh tham gia thi đua sản
xuất, thi đua yêu nước. Trong sản xuất nông nghiệp, Thái Bình là tỉnh đầu
tiên của miền Bắc đạt năng suất lúa 5 tấn/ha. Ngoài ra, trong các lĩnh vực y tế,
giáo dục, văn hoá- xã hội, an ninh quốc phòng... bước đầu cũng đạt được
những thành tựu rất cơ bản, góp phần khẳng định tính ưu việt của chủ nghĩa
xã hội, vừa làm tròn vai trò của hậu phương với tiền tuyến, vừa trực tiếp chiến
đấu đánh thắng chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ. Bên cạnh đó còn tồn tại
những mặt hạn chế, biểu hiện trong những năm đầu ở miền Bắc sau khi giải
58

phóng do một số chính sách sai lầm của Đảng và Nhà nước nói chung và tại
Thái Bình nói riêng trong việc thực hiện "cải cách ruộng đất". Chính sách tôn
giáo ở nhiều nơi đã bị vi phạm, nhiều giáo dân là địa chủ, phú nông bị đem ra
đấu tố. Ruộng đất chung bị tịch thu hoặc chỉ để lại một phần rất nhỏ, đình
chùa ở nhiều cơ sở bị sử dụng làm trường học, kho tàng hoặc bị rỡ bỏ. Trước
tình hình trên đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến tư tưởng quần chúng, đến
niềm tin của đồng bào các tôn giáo gây ra nhiều trở ngại cho công tác lãnh
đạo, chỉ đạo của Đảng bộ địa phương; đặc biệt là công tác xây dựng khối
đoàn kết toàn dân, đoàn kết tôn giáo.
Giai đoạn từ 1975 đến 1986, đây là giai đoạn Đảng lãnh đạo sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước. Thực hiện đường lối Đại hội
IV của Đảng trên lĩnh vực kinh tế, Đảng bộ và chính quyền các cấp ở Thái
Bình đã huy động lực lượng toàn dân đoàn kết tham gia xây dựng và phát
triển mô hình hợp tác xã sản xuất với quy mô rộng lớn. Kết quả diện tích đất
canh tác được mở rộng, diện tích đất hoang hoá bị thu hẹp, năng suất lúa bình
quân đạt 6 tấn/ha. Các ngành nghề truyền thống, ngành công nghiệp nhẹ ở
nhiều địa phương cũng được chú trọng phát triển và từng bước đáp ứng nhu
cầu sản xuất, tiêu dùng của nhân dân. Trên lĩnh vực chính trị - xã hội, tình
hình an ninh chính trị ổn định, quyền làm chủ của nhân dân lao động từng
bước được phát huy. Trên lĩnh vực văn hoá, cuối năm 1976 toàn tỉnh đã có
260 xã, phường, thị trấn thực hiện tốt "nếp sống văn hoá" như: Bài trừ mê tín
dị đoan, chống xa hoa, lãng phí, chống các hủ tục lạc hậu trong nhân dân, xoá
bỏ từng bước các tệ nạn trong xã hội. Bên cạnh đó, còn tồn tại những mặt hạn
chế như việc thực hiện cơ chế chính sách còn mang tính cứng nhắc, chưa
mềm dẻo, linh hoạt. Nhiều cơ sở còn có những biểu hiện tư tưởng cục bộ địa
phương, tư tưởng nặng về xem xét xét nguồn gốc dòng họ, gia đình, lịch sử
bản thân gây khó khăn trong việc xây dựng khối đoàn kết toàn dân; đặc biệt là
đoàn kết tôn giáo và công tác phát triển Đảng viên đối với vùng đồng bào
59

công giáo trong tỉnh Thái Bình. Ngoài ra, các phương tiện vật chất kỹ thuật
cùng với đội ngũ cán bộ có chuyên môn, nghiệp vụ làm công tác tuyên truyền,
vận động nhân dân tham gia xây dựng khối đoàn kết toàn dân, đoàn kết tôn
giáo ở nhiều xã trong tỉnh Thái Bình còn thiếu và yếu; đặc biệt là các xã nội
đồng, các xã xa trung tâm kinh tế - văn hoá, các xã thuộc vùng ven biển. Đây
chính là một trong những khó khăn, bất cập trong công tác xây dựng khối
đoàn kết toàn dân, đoàn kết tôn giáo ở địa phương trước những năm 1986.
Xuất phát từ đặc điểm, tình hình tôn giáo và đoàn kết tôn giáo ở tỉnh
Thái Bình trước năm 1986 có những ưu điểm và hạn chế; đặc biệt là những hạn
chế từ trong lịch sử để lại. Nguyên nhân do bị thực dân Pháp và sau này là đế
quốc Mỹ đã sử dụng nhiều âm mưu và thủ đoạn chính trị thâm độc như: "ngu
dân, nô dịch", chính sách “chia để trị” nhằm chia rẽ giữa đồng bào theo và
đồng bào không theo tín ngưỡng, tôn giáo trong nhân dân; chia rẽ giữa Đảng
với nhân dân, chia rẽ giữa tôn giáo với dân tộc nhằm phá vỡ khối đoàn kết toàn
dân, đoàn kết tôn giáo làm tổn hại đến lợi ích của Tổ quốc và nhân dân. Chính
vì vậy, Đảng bộ và chính quyền các cấp trong tỉnh Thái Bình đã nhận thức rõ ý
nghĩa và vai trò của công tác xây dựng khối đoàn kết toàn dân, đoàn kết tôn
giáo trong việc thực hiện thắng lợi các mục tiêu và nhiệm vụ phát triển kinh tế,
chính trị - xã hội, văn hoá; đặc biệt là nhiệm vụ đấu tranh làm thất bại các âm
mưu như: “diễn biến hoà bình” của các thế lực phản động muốn lợi dụng vấn
đề tự do tín ngưỡng, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền.., nhằm phá vỡ thành quả
cách mạng của nhân dân. Từ tình hình thực tế nêu trên kết hợp với những bài
học kinh nghiệm đã đạt được trong công tác xây dựng khối đoàn kết toàn dân,
đoàn kết tôn giáo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đem lại. Đảng bộ, chính
quyền các cấp trong tỉnh Thái Bình đã quán triệt vận dụng sáng tạo tư tưởng
Hồ Chí Minh cùng với các chủ trương chính sách, chỉ thị, nghị quyết, nghị định
và văn bản quản của lý Nhà nước vào trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo việc
60

thực hiện tốt các nhiệm vụ chính trị trong đó có nhiệm vụ xây dựng khối đoàn
kết tôn giáo ở tỉnh Thái Bình giai đoạn từ 1986 đến nay.
2.2. Quá trình xây dựng khối đoàn kết tôn giáo vận dụng tƣ tƣởng
Hồ Chí Minh ở tỉnh Thái Bình từ năm 1986 đến nay
2.2.1. Công cuộc đổi mới và những vấn đề cấp bách đặt ra trong việc
xây dựng khối đoàn kết tôn giáo ở tỉnh Thái Bình
Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng họp (12 - 1986) đã có nhiều
quyết sách quan trọng đối với sự phát triển chính trị, kinh tế – xã hội, văn hóa
của đất nước. Đối với tôn giáo Đại hội khẳng định: “Đảng và Nhà nước ta
trước sau như một, thực hành chính sách tôn trọng tự do tín ngưỡng. Lãnh đạo
và giúp đỡ đồng bào theo tôn giáo đoàn kết xây dựng cuộc sống mới và hăng
hái tham gia bảo vệ Tổ quốc. Cảnh giác, kiên quyết và kịp thời chống lại âm
mưu, thủ đoạn của bọn đế quốc và phản động chia rẽ đồng bào có đạo với
đồng bào không có đạo, giữa đồng bào theo đạo này với đồng bào theo đạo
khác”[12,tr.117].
Quán triệt tinh thần Đại hội VI, nhận thức rõ vai trò của công tác tôn
giáo đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng, Nhà nước nói chung và đối với
địa phương tỉnh Thái Bình nói riêng. Vì vậy, tại Thái Bình nghị quyết Đại hội
Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII (năm 1986) đã xác định: "Đoàn kết toàn dân không
phân biệt tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần giai cấp nhằm phát triển toàn diện
về kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá nâng cao đời sống mọi mặt, đồng thời tạo
ra sự đồng thuận trong Đảng và trong nhân dân"[18,tr.129].
Các Đại hội Đảng bộ tỉnh Thái Bình lần thứ XIV (năm 1991), XV (năm
1996), XVI (năm 2001) tiếp tục nhấn mạnh: Cần tăng cường khối đoàn kết
toàn dân trên tinh thần không kỳ thị, không phân biệt đối xử đối với các tôn
giáo nhằm phát huy hơn nữa tiềm năng nội lực và sức sáng tạo trong nhân
dân, tạo ra bước phát triển đột phá cho kinh tế Thái Bình những năm tiếp
61

theo. Gần đây nhất là Đại hội Đảng bộ tỉnh Thái Bình lần thứ XVII (năm
2006), vấn đề đoàn kết toàn dân, đoàn kết tôn giáo lại được Đảng bộ đặc biệt
chú trọng: “Phát triến kinh tế, xây dựng tốt khối đoàn kết toàn dân, đoàn kết
tôn giáo là một trong những nhân tố đặc biệt quan trọng để giữ vững và ổn
định tình hình chính trị ở Thái Bình hiện nay”[18,tr.36].
Xuất phát từ tình hình thực tế ở Thái Bình, là một tỉnh đồng bằng với
mật độ tín ngưỡng, tôn giáo dày có cơ sở thờ tự, số lượng tín đồ, nhu cầu tín
ngưỡng đa dạng ảnh hưởng rất lớn đến đời sống sản xuất sinh hoạt vật chất,
tinh thần của nhân dân lao động. Tỉnh nhận định đây là nguồn lao động dồi
dào có tiềm năng và sức sáng tạo rất lớn sẽ góp phần quan trọng quyết định
thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới và xây dựng thành công sự nghiệp
CNH, HĐH của địa phương. Vì vậy, Đảng bộ, UBND, Mặt trận Tổ quốc, Ban
tôn giáo tỉnh Thái Bình đã nghiên cứu và đề ra những nhiệm vụ cụ thể nhằm
củng cố, tăng cường khối đoàn kết toàn dân, đoàn kết tôn giáo.
Một là; Tỉnh uỷ giao nhiệm vụ cho MTTQ, Ban tôn giáo tỉnh Thái Bình
phải tích cực, chủ động kết hợp với các tổ chức chính trị - xã hội các cấp vận
động nhân dân tham gia xây dựng tốt khối đoàn kết toàn dân, đoàn kết tôn
giáo nhằm thực hiện thắng lợi các mục tiêu về phát triển kinh tế, chính trị - xã
hội, văn hóa ở địa phương.
Hai là; Tỉnh uỷ, UBND tỉnh Thái Bình quán triệt tới các cấp, các
ngành phải tăng cường và phát huy hơn nữa khối đại đoàn kết toàn dân,
đoàn kết tôn giáo nhằm tạo ra sức mạnh và tiền đề đột phá đảm bảo cho
kinh tế tỉnh Thái Bình phát triển nhanh trong giai đoạn thực hiện xây dựng
CNH, HĐH ở địa phương.
Ba là; Tỉnh uỷ, UBND tỉnh Thái Bình chủ động quán triệt tới các cấp,
các ngành phải làm tốt công tác xây dựng khối đoàn kết tôn giáo nhằm tạo ra
sự đồng thuận trong Đảng và trong nhân dân, góp phần ngăn chặn và đẩy lùi
62

những âm mưu “diễn biến hòa bình” muốn lợi dụng những vấn đề tín
ngưỡng, tôn giáo, tự do, dân chủ, nhân quyền... nhằm phá vỡ khối đoàn kết
toàn dân, đoàn kết tôn giáo gây mất ổn định về an ninh chính trị trên địa bàn
tỉnh Thái Bình.
Bên cạnh việc xác định đúng phương hướng, nhiệm vụ chiến lược về
công tác xây dựng khối đoàn kết toàn dân, đoàn kết tôn giáo trong những năm
đổi mới. Đảng bộ, UBND, Mặt trận Tổ quốc, Ban tôn giáo tỉnh Thái Bình đã
chủ động nghiên cứu, ban hành những chủ trương, chính sách, nghị quyết,
thông tư và giải pháp phù hợp nhằm đáp ứng tình hình thực tế của địa phương
trên tình thần cụ thể hóa các chủ trương, chính sách, nghị định, sắc lệnh, pháp
lệnh chung về tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh và
Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhằm củng cố, tăng cường và
phát huy hơn nữa khối đại đoàn kết toàn dân, đoàn kết tôn giáo tạo ra sự đồng
thuận trong Đảng, trong nhân dân và trong đồng bào tín đồ các tôn giáo.
2.2.2. Những chủ trương, nghị quyết, chính sách và giải pháp của
Đảng bộ, UBND, Mặt trận Tổ quốc, Ban tôn giáo tỉnh Thái Bình về xây
dựng khối đoàn kết tôn giáo từ năm 1986 đến nay
* Chủ trương, nghị quyết, chính sách về xây dựng khối đoàn kết tôn
giáo ở tỉnh Thái Bình
Đảng bộ, UBND, Mặt trận Tổ quốc, Ban tôn giáo tỉnh Thái Bình xác
định thực tế tình hình tôn giáo ở Thái Bình là một trong những vấn đề hết sức
phức tạp và nhạy cảm. Việc giải quyết tình hình tôn giáo, đặc biệt là những
vấn đề liên quan đến quyền lợi, lợi ích cho các chức sắc, nhà tu hành và các
tín đồ có đạo đòi hỏi phải thực sự khoa học, dựa trên những quy định chung
của pháp luật Việt Nam; nếu không sẽ tạo ra những mâu thuẫn bất đồng sâu
sắc giữa một bên là Đảng bộ, chính quyền các cấp trong tỉnh với một bên là
các chức sắc, nhà tu hành và tín đồ có đạo trên các lĩnh vực: kinh tế, chính trị
63

– xã hội, văn hóa …là một trong những nguyên nhân chủ yếu gây chia rẽ khối
đoàn kết toàn dân, trong đó đặc biệt là đoàn kết tôn giáo gây mất ổn định tình
an ninh chính trị trên địa bàn tỉnh Thái Bình dẫn đến những khó khăn, phức
tạp cho Đảng bộ và chính quyền các cấp trong việc triển khai, tổ chức và đảm
bảo thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ về phát triển kinh tế, chính trị
- xã hội, văn hóa của địa phương đề ra trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH.
Xuất phát từ tình hình thực tế trên của địa phương, Đảng bộ, UBND, Mặt trận
Tổ quốc, Ban tôn giáo tỉnh Thái Bình tỉnh đã quán triệt triển khai và tổ chức
thực hiện việc học tập, nhận thức và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với các quan điểm, chính sách Đảng và
Nhà nước về tôn giáo vào việc giải quyết tình hình tôn giáo ở Thái Bình; đồng
thời tỉnh đã chủ động nghiên cứu và ban hành các nghị quyết, chỉ thị, chương
trình hành động nhằm xây dựng tốt khối đoàn kết toàn dân, đoàn kết tôn giáo
tạo ra sự đồng thuận trong Đảng và trong nhân dân như: Thông báo số
50/TB/TU ngày 23/10/1995 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ về tôn giáo và công
tác xây dựng khối đoàn kết tôn giáo, các báo cáo của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ
ngày 2/8/1999 và ngày 10/10/2001 về tình hình tôn giáo. Các quy định về xây
dựng và thực hiện nếp sống văn hoá ngày 13/12/2001 theo QĐ số 2080 của
UBND tỉnh, Thông báo ý kiến số 9, ngày 07/11/2002 của Ban Thường vụ
Tỉnh uỷ "về các nhiệm vụ chủ yếu của công tác tôn giáo", chương trình hành
động của Tỉnh uỷ số 29 ngày 29/4/2003 về việc xây dựng và triển khai các
nguyên tắc, chính sách và giải pháp đối với tôn giáo và hoạt động tôn giáo ở
địa phương. Chương trình số 30 ngày 17/12/2005 về việc triển khai thực hiện
pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo và nghị định thi hành pháp lệnh tín ngưỡng,
tôn giáo... Cụ thể như sau:
Về chủ trương, nghị quyết, chính sách đối với những người theo hoặc
không theo tín ngưỡng, tôn giáo.
64

Một là; tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng, tôn
giáo của nhân dân. Quyền theo hoặc không theo một tổ chức tôn giáo nào dựa
trên cơ sở của pháp luật Việt Nam.
Mọi hành vi, vi phạm đến quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân
dân đều bị xử lý theo đúng pháp luật Việt Nam.
Hai là; tín đồ có quyền thực hiện hoạt động tôn giáo không trái với chủ
trương, chính sách pháp luật của Nhà nước, tiến hành các nghi thức thờ cúng,
cầu nguyện tại gia đình và tham gia các hoạt động tôn giáo, học tập giáo lý,
đạo đức, phục vụ lễ nghi tôn giáo tại cơ sở thờ tự.
Ba là; tín đồ không được lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp
luật, không được hoạt động mê tín dị đoan.
Bốn là; người ngoài tỉnh và ở nước ngoài cư trú hợp pháp ở Thái Bình
được sinh hoạt tôn giáo theo pháp luật Việt Nam.
Về chủ trương, nghị quyết, chính sách đối với các tổ chức tôn giáo.
Một là; tổ chức được coi là tổ chức tôn giáo phải có tôn chỉ, mục đích,
đường hướng hành đạo, cơ cấu tổ chức phù hợp với pháp luật và được Thủ
tướng Chính phủ cho phép hoạt động thì được pháp luật bảo hộ.
Hai là; tổ chức không được coi là tổ chức tôn giáo khi hoạt động trái
với tôn chỉ, mục đích, đường hướng hành đạo của Thủ tướng Chính phủ cho
phép thì sẽ không được phép hoạt động và những những vi phạm đó sẽ bị xử
lý theo đúng tinh thần của pháp luật.
Ba là; các tổ chức tôn giáo hoạt động từ thiện phải theo quy định của
Nhà nước và UBND tỉnh Thái Bình cấp phép hoạt động. Ngoài ra các cơ sở từ
thiện do chức sắc, nhà tu hành và tổ chức tôn giáo bảo trợ hoạt động phải theo
hướng dẫn của các cơ quan chức năng Nhà nước và UBND tỉnh Thái Bình.
Về chủ trương, nghị quyết, chính sách đối với các hoạt động tôn giáo.
65

Một là; các hoạt động tôn giáo tại cơ sở thờ tự tôn giáo đã đăng ký
hàng năm và thực hiện trong khuôn viên cơ sở thờ tự thì không phải xin phép.
Hai là; các hoạt động tôn giáo vượt ra ngoài khuôn viên cơ sở thờ tự hoặc
chưa đăng ký hàng năm phải được phép của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
Ba là; các cuộc tĩnh tâm của linh mục trong giáo phận, của các tu sỹ tập
trung từ các cơ sở, dòng tu của Thiên Chúa, Tin lành, Phật giáo và những hoạt
động tương tự của các tôn giáo khác thực hiện theo quy định của cơ quan
quản lý Nhà nước cấp tỉnh Thái Bình về tôn giáo. Đại hội, hội nghị của các tổ
chức tôn giáo các cấp ở địa phương phải được phép của Chủ tịch Uỷ ban nhân
dân tỉnh Thái Bình cấp phép.
Bốn là; việc in ấn các loại kinh, sách và các xuất bản phẩm tôn giáo,
việc sản xuất, kinh doanh, xuất nhập khẩu văn hoá phẩm tôn giáo, đồ dùng
trong việc thực hiện truyền đạo, phải theo quy chế của Nhà nước và của
UBND tỉnh Thái Bình về in, xuất bản, sản xuất kinh doanh, xuất nhập khẩu
văn hoá phẩm, hàng hoá.
Năm là; nghiêm cấm việc in, ấn, kinh doanh, lưu hành tàng trữ sách
báo, văn hoá phẩm có nội dung chống lại Đảng, Nhà nước cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam và chính quyền các cấp trong tỉnh gây chia rẽ tôn giáo,
chia rẽ dân tộc làm phá vỡ khối đoàn kết trong nhân dân.
Sáu là; các đại hội, hội nghị của các tổ chức tôn giáo ở địa phương phải
được Chủ tịch UBND tỉnh Thái Bình cấp phép.
Về chủ trương, nghị quyết, chính sách đối với nơi thờ tự và tài sản của
các tổ chức tôn giáo.
Một là; Nhà nước bảo hộ nơi thờ tự của các tôn giáo. Tổ chức tôn giáo
có trách nhiệm giữ gìn, tu bổ nơi thờ tự.
66

Hai là; nhà, đất và các tài sản của các tổ chức và cá nhân tôn giáo được
cơ quan Nhà nước và chính quyền các cấp trong tỉnh Thái Bình quản lý, bảo
hộ theo pháp luật.
Ba là; việc tu bổ, sửa chữa nhỏ, không làm thay đổi cấu trúc, kiến trúc
công trình thuộc cơ sở thờ tự thì tổ chức thực hiện sau khi đã thông báo cho
UBND cấp xã sở tại.
Bốn là; việc sửa chữa làm thay đổi cấu trúc, kiến trúc công trình tại cơ
sở thờ tự; việc khôi phục công trình thờ tự bị hoang phế, bị huỷ hoại do chiến
tranh, thiên tai, rủi ro; việc tạo lập cở sở thờ tự mới, xây dựng công trình thờ
tự (nhà, tượng, bia, đài, tháp..) phải được phép của UBND tỉnh.
Năm là; tổ chức tôn giáo được tạo nguồn tài chính từ sự ủng hộ của cá
nhân, tổ chức, từ những thu nhập hợp pháp khác trong việc xây dựng, sửa
chữa cơ sở thờ tự phải được Chủ tịch UBND tỉnh Thái Bình cho phép.
Nghiêm cấm việc ép buộc tín đồ đóng góp.
Về chủ trương, nghị quyết, chính sách đối với các chức sắc, nhà tu
hành tôn giáo.
Một là; chức sắc, nhà tu hành có quyền được thực hiện chức trách,
chức vụ tôn giáo của mình trong phạm vi trách nhiệm đã được cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền chấp thuận. Được hưởng các quyền lợi chính trị, văn
hoá, xã hội, kinh tế của công dân.
Hai là; chức sắc, nhà tu hành có nghĩa vụ thực hiện đúng chức trách,
chức vụ tôn giáo trong phạm vi trách nhiệm tôn giáo đã được cơ quan quản lý
Nhà nước có thẩm quyền chấp thuận và chịu trách nhiệm trước pháp luật về
mọi hoạt động tôn giáo trong phạm vi trách nhiệm đó. Chức sắc, nhà tu hành
phải có trách nhiệm động viên các tín đồ chấp hành nghiêm chỉnh chính sách
và pháp luật của Nhà nước.
67

Ba là; các chức sắc nhà tu hành trong tỉnh Thái Bình được hưởng mọi
quyền lợi về kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá như công dân Việt Nam.
Bốn là; những người mạo danh các chức sắc, nhà tu hành tôn giáo bị xử
lý hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự. Người đang chấp hành án
phạt tù hoặc đang bị quản chế hành chính không được thực hiện chức trách,
chức vụ tôn giáo. Việc phục hồi chức trách, chức vụ tôn giáo của người đã hết
hạn chấp hành các hình phạt kể trên phải do tổ chức tôn giáo quản lý người đó
đề nghị và được cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền chấp thuận.
Năm là; việc mở trường đào tạo chức sắc, nhà tu hành tôn giáo phải
được phép của Thủ tướng Chính phủ. Tổ chức và hoạt động của các trường
phải thực hiện theo các quy định của Ban tôn giáo của Chính phủ và Bộ giáo
dục và Đào tạo. Các trường thực hiện các quy chế, chính sách, pháp luật của
Nhà nước theo sự hướng dẫn, giám sát, kiểm tra của cơ quan chức năng của
Nhà nước và UBND tỉnh Thái Bình.
Sáu là; việc phong giáo phẩm, phong chức cho chức sắc, nhà tu
hành tôn giáo; việc bổ nhiệm, thuyên chuyển những chức sắc, nhà tu
hành...phải được chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ hoặc Chủ tịch
UBND tỉnh Thái Bình.
Về chủ trương, nghị quyết, chính sách đối với hoạt động đối ngoại của
tôn giáo.
Một là; hoạt động quốc tế của tổ chức, cá nhân tôn giáo, phải tuân thủ
pháp luật và phù hợp với chính sách đối ngoại của Nhà nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền quốc gia, vì hoà
bình, ổn định, hợp tác hữu nghị.
Hai là; tổ chức cá nhân tôn giáo ở trong nước mời tổ chức, cá nhân tôn
giáo ở nước ngoài, tham gia các hoạt động tôn giáo hoặc có liên quan đến các
tôn giáo ở nước ngoài thực hiện quy định của Ban tôn giáo Chính phủ.
68

Ba là; tổ chức, cá nhân tôn giáo ở nước ngoài, kể cả tổ chức cá nhân


tôn giáo vào Việt Nam để hoạt động ở các lĩnh vực không phải là tôn giáo thì
không được tổ chức, điều hành hoặc tham gia tổ chức, điều hành các hoạt
động tôn giáo, không được truyền bá tôn giáo.
Bốn là; các tổ chức, cá nhân tôn giáo trong nước muốn nhận viện trợ
thuần tuý tôn giáo phải xin phép Thủ tướng Chính phủ.
Tóm lại: Đảng bộ, UBND, Mặt trận Tổ quốc, Ban tôn giáo tỉnh Thái
Bình một mặt quán triệt việc thực hiện đúng đường lối, chính sách và những
nguyên tắc chung của Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ về tôn
giáo; mặt khác tỉnh Thái Bình chủ động nghiên cứu, ban hành những nguyên
tắc riêng theo chương trình hành động của Tỉnh ủy nhằm giải quyết đúng đắn
tình hình thực tiễn tôn giáo ở địa phương hiện nay. Trên cơ sở đảm bảo quyền
tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng, tôn giáo của mọi công dân theo đúng
tinh thần của pháp luật Việt Nam. Ngoài ra, Tỉnh uỷ, UBND, MTTQ và Ban
tôn giáo tỉnh Thái Bình còn chủ động nghiên cứu, đề xuất những giải pháp cụ
thể nhằm xây dựng tốt khối đoàn kết tôn giáo ở tỉnh Thái Bình.
* Những giải pháp chủ yếu của Tỉnh uỷ, UBND, Mặt trận Tổ quốc, Ban
tôn giáo tỉnh Thái Bình về xây dựng khối đoàn kết tôn giáo
Xuất phát từ thực trạng tôn giáo và đoàn kết tôn giáo ở Thái Bình trước
những năm 1986 có những mặt ưu điểm và hạn chế, để khắc phục những hạn
chế tồn tại và phát huy ưu điểm tiến bộ trong việc xây dựng khối đoàn kết tôn
giáo; đồng thời quán triệt triển khai thực hiện tốt những chủ trương, chính
sách, nghị quyết về xây dựng tốt khối đoàn kết tôn giáo ở tỉnh Thái Bình
trong giai đoạn đổi mới. Tỉnh ủy, UBND, MTTQ, Ban tôn giáo tỉnh đã nghiên
cứu, đề xuất những giải pháp cụ thể dựa trên những quan điểm, chính sách
chung của Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Nhà nước cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam về tôn giáo và xây dựng khối đoàn kết tôn giáo nhằm làm tốt
69

công tác xây dựng khối đoàn kết tôn giáo ở Thái Bình trong giai đoạn xây
dựng CNH, HĐH.
- Cần tập trung nâng cao nhận thức, thống nhất quan điểm và trách
nhiệm của hệ thống chính trị ở địa phương trong việc xây dựng khối đoàn kết
tôn giáo.
Một là; thống nhất quan điểm, trách nhiệm của cả hệ thống chính trị
trong toàn tỉnh Thái Bình về xây dựng tốt khối đoàn kết tôn giáo. Gắn với
việc chủ động làm tốt công tác tuyên truyền, phổ biến các quan điểm, chủ
trương chính sách, Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo năm 2004 và Nghị định
hướng dẫn thi hành pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo năm 2005 của Nhà nước
cùng với các quan điểm, chính sách, nghị quyết của địa phương đến từng các
cán bộ, Đảng viên và nhân dân trong tỉnh; đặc biệt trong các chức sắc, nhà tu
hành và các tín đồ tôn giáo.
Hai là; Tỉnh uỷ, UBND, Mặt trận Tổ quốc, Ban tôn giáo nhấn mạnh
các tổ chức chính trị - xã hội các cấp trong tỉnh cần tích cực tuyên truyền,
giáo dục sâu rộng đến mọi người dân về truyền thống yêu nước, ý thức bảo vệ
và xây dựng Tổ quốc làm cho công tác tôn giáo gắn bó với nhân dân, gắn bó
với dân tộc với công cuộc xây dựng đất nước; đặc biệt là gắn bó với sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Ba là; Tỉnh uỷ, UBND, Mặt trận Tổ quốc, Ban tôn giáo tích cực tuyên
truyền, giáo dục đến từng cán bộ và nhân dân giữ gìn và phát huy tốt truyền
thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh và nhớ ơn những người có công với Tổ quốc
với dân tộc và nhân dân, tôn trọng tín ngưỡng truyền thống của đồng bào có
đạo về lời nói, hành động và việc làm. Nhằm tạo ra sự đồng thuận, tinh thần
đoàn kết tôn giáo trong Đảng và trong nhân dân, giữa đồng bào theo hoặc
không theo tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau trong tỉnh.
70

Bên cạnh đó, Tỉnh uỷ, UBND và Mặt trận Tổ quốc tỉnh Thái Bình đã
thống nhất, ban hành các văn bản cụ thể về xây dựng nếp sống văn hóa
theo QĐ 2080 ra ngày 13/12/ 2001 và chương trình hành động của Tỉnh ủy
số 29 năm 2003. Nghiêm cấm việc truyền đạo trái phép, hoạt động mê tín
dị đoan trái với pháp luật nhằm giữ vững nếp sống văn hoá lành mạnh
trong nhân dân; đặc biệt là để giữ vững và phát huy những giá trị và đạo
đức trong các tôn giáo.
- Tăng cường công tác vận động quần chúng nhân dân trong tỉnh Thái
Bình tham gia xây dựng khối đoàn kết tôn giáo.
Một là; Tỉnh uỷ, UBND, Mặt trận Tổ quốc, Ban tôn giáo tích cực đổi
mới nội dung, phương thức công tác vận động đồng bào tín đồ các tôn giáo
tham gia xây dựng khối đoàn kết tôn giáo, phù hợp với đặc điểm, nhu cầu đời
sống của đồng bào có đạo ở từng cơ sở, địa phương trong tỉnh.
Hai là; yêu cầu toàn dân thực hiện đúng nội quy, quy chế, pháp lệnh
dân chủ và nếp sống văn hoá ở địa phương, nhằm tạo ra sự đồng thuận nhất trí
trong nhân dân trên các lĩnh vực như: kinh tế, chính trị - xã hội, văn hoá. Qua
đó, góp phần quan trọng trong việc xây dựng tốt khối đoàn kết tôn giáo, giữ
vững ổn định tình hình chính trị ở Thái Bình hiện nay.
Ba là; mở rộng việc đề xuất, giới thiệu, kết nạp các tín đồ là quần
chúng tích cực vào trong hàng ngũ của Đảng nhằm tạo ra sự đồng thuận, tinh
thần đoàn kết, gắn bó giữa Đảng với tôn giáo với nhân dân.
Bốn là; phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc các cấp tỉnh, huyện, xã,
thôn và các đoàn thể nhân dân trong việc đẩy tuyên truyền, triển khai các
chính sách, Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo năm 2004 và Nghị định thi hành
pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo năm 2005 của Chính phủ đến các chức sắc,
nhà tu hành, các tín đồ có đạo và mọi người dân trong tỉnh nắm bắt kịp thời,
71

nhận thức và thực hiện theo đúng chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật
của Đảng và Nhà nước về tôn giáo.
- Tăng cường công tác tổ chức cán bộ của tỉnh có chuyên môn về lĩnh
vực tôn giáo làm công tác xây dựng khối đoàn kết tôn giáo.
Một là; Tỉnh uỷ, UBND, Mặt trận Tổ quốc, Ban tôn giáo từng bước
củng cố, kiện toàn bộ máy tổ chức làm công tác tôn giáo, đồng thời chỉ rõ
trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc tỉnh, huyện, xã trong việc thực thi đúng
chức năng, nhiệm vụ, mô hình quản lý Nhà nước về tôn giáo và hoạt động tôn
giáo ở từng cấp hiện nay.
Hai là; Tỉnh uỷ, UBND, Mặt trận Tổ quốc, Ban tôn giáo đẩy mạnh
công tác quy hoạch, đào tạo bồi dưỡng, sử dụng và đảm bảo chế độ đãi ngộ
phù hợp cho các cán bộ làm công tác tôn giáo ở từng cấp. Cụ thể hàng năm
(từ năm 2000 đến nay), Tỉnh uỷ đã cho mở các lớp nhằm đào tạo, bồi dưỡng
kiến thức, kỹ năng, nghiệp vụ về tôn giáo tại trường Chính trị tỉnh Thái Bình
nhằm làm tốt công tác tôn giáo ở các cấp tỉnh, huyện, xã.
- Tăng cường công tác quản lý Nhà nước của tỉnh về tôn giáo và các
hoạt động tôn giáo.
Một là; hàng năm Tỉnh uỷ, UBND, Mặt trận Tổ quốc, Ban tôn giáo tỉnh
các cấp trực tiếp tiến hành nghiệm thu các báo cáo tổng kết công tác quản lý
Nhà nước về tôn giáo, đồng thời đề xuất phương hướng xây dựng mô hình
quản lý Nhà nước về tôn giáo ở địa phương.
Hai là; UBND tỉnh Thái Bình đã ban hành văn bản chính thức nghiêm
cấm mọi hành vi lợi dụng tôn giáo và hoạt động tôn giáo nhằm chia rẽ khối
đoàn kết toàn dân, đoàn kết tôn giáo và truyền đạo trái phép trên địa bàn tỉnh.
Ba là; Tỉnh uỷ, UBND, MTTQ, Ban tôn giáo tỉnh yêu cầu chính quyền
tại các cơ sở phải thường xuyên đi sâu, đi sát và kịp thời xử lý các hành vi sai
72

phạm làm ảnh hưởng đến quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân theo
đúng Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo năm 2004 của Chính phủ.
- Tăng cường các chính sách, dự án để phát triển kinh tế nâng cao mức
sống, ổn định thu nhập cho nhân dân trong tỉnh Thái Bình.
Một là; Tỉnh uỷ, UBND, MTTQ, Ban tôn giáo tỉnh chủ động tăng
cường đầu tư và thực hiện tốt các dự án, chương trình mục tiêu mang tính
chiến lược nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế, chính trị - xã hội, văn hoá cho
7 huyện Hưng Hà, Quỳnh Phụ, Kiến Xương, Tiền Hải, Vũ Thư, Đông Hưng,
Thái Thuỵ và thành phố Thái Bình như: dự án nước sạch cho nhân dân, dự án
phát triển kinh tế nông trại, trang trại, gia trại, dự án xây dựng kết cấu hạ tầng
và đường giao thông liên xã, dự án đầu tư phát triển kinh tế biển, dự án đầu tư
phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá, dự án phát triển các khu
công nghiệp... Bên cạnh đó, tỉnh đặc biệt chú trọng xây dựng CNH, HĐH
nông nghiệp, nông thôn nhằm từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần ngày càng đầy đủ cho nhân dân.
Hai là; Tỉnh uỷ, UBND tỉnh chú trọng nghiên cứu và ban hành các
chính sách nhằm giúp đỡ đồng bào tín đồ các tôn giáo và nhân dân trong địa
phương xây dựng, phát triển kinh tế hộ gia đình thông qua các chương trình,
chính sách xã hội cụ thể như:
Ưu tiên cho đồng bào có đạo và dân nghèo được vay vốn với lãi xuất
thấp nhằm phát triển kinh tế hộ gia đình.
Chính sách phát triển nghề, làng nghề và dạy nghề theo NQ 01 nhằm
hỗ trợ vùng đồng bào giáo dân tạo công việc ổn định, nâng cao thu nhập..
Chính sách khuyến nông theo NQ 05 tới các hộ gia đình vùng giáo dân.
Chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế biển theo NQ 06 cho vùng đồng
bào giáo dân ở các xã Đông Minh, Nam Cường, Nam Phú, Nam Thịnh, Nam
73

Hồng thuộc huyện Tiền Hải; xã Thái Xuân, Thụy Hải, Thái Thượng, Thái Đô,
thị trấn Diêm Điền thuộc huyện Thái Thuỵ.
Chính sách liên kết bốn nhà: Nhà nông - Nhà doanh nghiệp - Nhà khoa
học - Nhà nước... nhằm phát triển kinh tế hộ gia đình.
Tóm lại: Tỉnh uỷ, UBND, MTTQ, Ban tôn giáo tỉnh Thái Bình trên tinh
thần tiếp thu các quan điểm, chính sách, pháp luật của Nhà nước về tôn giáo;
đồng thời đã có những giải pháp cụ thể, thiết thực nhằm xây dựng tốt khối
đoàn kết tôn giáo ở địa phương thông qua nhiều chương trình hành động và
các chính sách nhằm hỗ trợ, phát triển kinh tế - xã hội, văn hoá nâng cao thu
nhập, ổn định đời sống vật chất tinh thần cho người dân, trong đó có vũng
đồng bào giáo dân.
2.2.3. Những thành tựu và hạn chế trong việc triển khai xây dựng
khối đại đoàn kết tôn giáo ở Thái Bình qua hơn 20 năm đổi mới
* Những thành tựu đạt được trong việc xây dựng khối đại đoàn kết tôn giáo
Qua hơn 20 năm đổi mới, nhìn lại chặng đường lịch sử tổng kết những
thành tựu đã đạt được trong công tác tuyên truyền, vận động đồng bào theo và
đồng bào không theo tín ngưỡng, tôn giáo tham gia xây dựng khối đoàn kết
toàn dân, đoàn kết tôn giáo nhằm thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ
về phát triển kinh tế, chính trị - xã hội, văn hoá do Đảng bộ, MTTQ, chính
quyền các cấp triển khai xây dựng cho chúng ta thấy như sau:
Trên lĩnh vực kinh tế; quán triệt lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh về
đường lối phát triển kinh tế đó là: “Làm cho dân có ăn, làm cho dân có mặc,
làm cho dân có chỗ ở, làm cho dân có học hành”[39,tr.152]; ngoài ra Đảng
bộ, UBND, MTTQ và Ban tôn giáo tỉnh Thái Bình còn chủ động vận dụng
sáng tạo đường lối của Trung ương Đảng, xác định xây dựng kinh tế phải là
nhiệm vụ trọng tâm nhằm giải quyết những vấn đề về an sinh xã hội tạo ra sự
đồng thuận trong Đảng và trong nhân dân, góp phần quan trọng vào việc củng
74

cố, tăng cường khối đoàn kết toàn dân và đoàn kết tôn giáo trong nhân dân.
Xuất phát từ đường lối chiến lược xây dựng và phát triển kinh tế như trên,
Đảng bộ, UBND, MTTQ tỉnh Thái Bình đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ
trọng tâm của tỉnh Thái Bình đến năm 2020 phải xúc tiến xây dựng thành
công sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn góp phần vào việc thực
hiện thắng lợi mục tiêu chung: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ và văn minh”, nhưng để thực hiện thành công mục tiêu chiến lược trên
Đảng bộ, UBND, MTTQ tỉnh Thái Bình đã chủ động tuyên truyền, vận động
toàn dân tham gia xây dựng tốt khối đoàn kết toàn dân; đặc biệt chú trọng
đoàn kết các tôn giáo trên tinh thần không phân biệt đối xử thành phần xuất
thân, giàu nghèo, tôn giáo, địa vị xã hội.., nhằm tập hợp và phát huy sức mạnh
nội lực và tiềm năng sáng tạo của nhân dân, trong đó có đồng bào giáo dân
trong việc thực hiện thắng lợi các mục tiêu và nhiệm vụ về phát triển kinh tế
của tỉnh đề ra như:
Mục tiêu dồn điền đổi thửa theo NQ 07.
Mục tiêu chuyển đổi cơ cấu kinh tế cây trông con vật nuôi theo NQ 04.
Mục tiêu phát triển kinh tế biển theo NQ 06.
Mục tiêu xây dựng mô hình trang trại, gia trại theo NQ 05.
Mục tiêu phát triển các cụm công nghiệp ở địa phương NQ 07.
Mục tiêu thực hiện đồng bộ 4 hoá trong sản xuất nông nghiệp: thuỷ lợi
hoá, hoá học hóa, sinh học hoá, điện khí hoá.
Mục tiêu xây dựng cách đồng 50 tr/1ha/1năm theo NQ 08.
Mục tiêu phát triển nền nông nghiệp đấy mạnh theo hướng sản xuất
hàng hoá.
Mục tiêu phát triển kinh tế hộ gia đình theo mô hình VAC.
Mục tiêu phát triển nghề và làng nghề theo NQ 01...
75

Bên cạnh đó, Tỉnh Uỷ, Mặt trận Tổ quốc, chính quyền cùng với các ban
ngành đoàn thể các cấp chủ động khôi phục và phát triển các ngành nghề
truyền thống trong toàn tỉnh nhằm giải quyết việc làm cho người dân lao động
làm nông nghiệp lúc nông nhàn; đồng thời tạo sự ổn định và tăng thêm thu
nhập cho người dân trong địa phương thông qua đó góp phần vào việc củng
cố, tăng cường sự đoàn kết gắn bó giữa Đảng, chính quyền các cấp với nhân
dân; giữa đồng bào theo và không theo tín ngưỡng, tôn giáo trong toàn tỉnh.
Vì vậy, số làng nghề ở tỉnh Thái Bình đã được phục hồi và từng bước phát
triển khẳng định thương hiệu trên thị trường trong và ngoài nước như: ngành
mây tre đan phát triển mạnh ở huyện Kiến Xương, Đông Hưng; dệt tơ tằm
huyện Vũ Thư; thủ công mỹ nghệ, chạm bạc huyện Kiến Xương, huyện
Quỳnh Phụ; dệt chiếu cói huyện Tiền Hải. Theo báo cáo của Sở Nụng nghiệp
và phỏt triển nụng thụn Thái Bìnhnăm 2008, Thái Bình có khoảng trên 12
làng nghề đã và đang hoạt động, sản phẩm từng bước đáp ứng nhu cầu của thị
trường tiêu thụ trong và ngoài nước. Cụ thể như sau:
76

Bảng 2. Tổng hợp phân loại làng nghề theo nhóm nghề năm 2008

STT Tờn nhúm nghề ở Thái Bình Số lƣợng làng nghề Tỷ lệ %

1 Dệt vải, thêu, may, ươm tơ 39 18.57%

2 Cơ khí 6 2.8%

3 Chế biến lương thực, thực phẩm 10 4.7%

4 Dệt cúi 40 19.04%

5 Chạm bạc 4 1.9%

6 Mây tre đan 41 19.5%

7 Sản xuất đồ gỗ 8 3.8%

8 Đa nghề 19 9%

9 Chế biến thuỷ sản 13 6.19%

10 Nghề muối 1 0.47%

11 Vật liệu xõy dựng 3 1.42%

12 Bún, bánh đa 2 0.95%

13 Nghề khỏc 24 13.3%


Nguồn: Số liệu điều tra của Sở Nông nghiệp và phỏt triển nụng thụn Thái Bìnhnăm 2008.

Kết quả qua hơn 20 năm đổi mới, trên lĩnh vực kinh tế ở Thái Bình tính
đến hết năm 2008, 100% không còn hộ đói, tỷ lệ các hộ gia đình có thu nhập
khá với mức bình quân khảng 5.000.000đ/tháng chiếm 1/3 dân số toàn tỉnh.
Số làng nghề và lao động làm nghề trong làng nghề cũng phát triển mạnh
từng bước đáp ứng nhu cầu ổn định lao động việc làm tại chỗ ở tỉnh Thái
Bình. Theo báo cáo của Sở Công thương Thái Bình năm 2008 thì số lao động
làm nghề trong làng nghề đã tăng nhanh, giải quyết khoảng 1/3 lao động có
việc làm tại chỗ trong toàn tỉnh. Cụ thể dựa trên bảng số liệu thống kê sau:
77

Bảng 3. Số làng nghề và lao động làm nghề trong làng nghề năm 2008
Lao động của các làng nghề
Số
STT Đơn vị làng Tổng số Lao động
lao động làm nghề Tỷ lệ %
nghề
(người) (người)
1 Thành phố 9 1.785 1.542 86,85%
2 Vũ Thư 24 40.540 31.115 76,75%
3 Kiến Xương 37 28.764 23.744 82,54%
4 Tiền Hải 27 25.702 20.553 79,96%
5 Đông Hưng 22 32.658 23.658 72,44%
6 Hưng Hà 38 25.282 23.461 92,79%
7 Quỳnh Phụ 28 19.641 14.377 73,19%
8 Thỏi Thuỵ 25 24.459 19.150 78,29%
Cộng 210 198.831 157.600 79,29%
Nguồn: (Báo cáo của Sở Công thương Thái Bình năm 2008).

Trên lĩnh vực chính trị - xã hội; Đảng bộ, UBND, MTTQ, Ban tôn giáo
tỉnh đã xác định phát triển kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội
nhằm tạo ra sự đồng thuận trong Đảng và trong nhân dân góp phần tăng cường
khối đoàn kết toàn dân, đoàn kết tôn giáo. Vì vậy, Đảng bộ, Mặt trận Tổ quốc,
Ban tôn giáo và chính quyền các cấp trong tỉnh đã tích cực nghiên cứu, ban
hành các chương trình, chính sách và mục tiêu cụ thể nhằm đáp ứng tình hình
thực tiễn đời sống sinh hoạt vật chất cho người dân ở địa phương như:
Mục tiêu “xóa đói, giảm nghèo” theo NQ 10.
Mục tiêu “xóa nhà ở dột nát” theo NQ 09.
Mục tiêu liên kết bốn nhà: “Nhà nông, Nhà doanh nghiệp, Nhà khoa
học và Nhà nước”.
Mục tiêu xây dựng và hoàn thiện kết cấu hạ tầng liên thôn, liên xã với
phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm.
78

Mục tiêu không có người mắc các tệ nạn xã hội trong các hộ gia đình
theo QĐ 2080 của UBND tỉnh Thái Bình...
Kết qủa qua hơn 20 năm đổi mới trên lĩnh vực chính trị - xã hội tính
đến hết năm 2008, chương trình "xoá nhà tranh vách đất" cho các hộ nghèo đã
thu được kết quả cao, toàn tỉnh đã xoá được 5.338 nhà thuộc 285 xã - phường,
thị trấn, trong đó đã xoá được 87 "nhà tranh vách đất" cho vùng đồng bào
giáo dân. Cụ thể: (huyện Tiền Hải 20, huyện Thái Thuỵ 9, huyện Quỳnh Phụ
15, huyện Kiến Xương 10, huyện Hưng Hà 15, huyện Vũ Thư 11, thành phố
Thái Bình 7); 100% không còn hộ đói; 267/285 xã - phường, thị trấn kiện
toàn xong cơ bản về kết cấu hạ tầng được đánh giá là một trong những tỉnh đi
đầu trong việc xây dựng và hoàn thiện cơ bản về kết cấu hạ tầng nông nghiệp,
nông thôn; đặc biệt tỉnh không còn diễn ra tình trạng khiếu kiện tập thể đông
người hay vượt cấp so với những năm 1996, 1997,1998, 1999, 2.000.
Trên lĩnh vực văn hóa; Đảng bộ, UBND, MTTQ, Ban tôn giáo tỉnh
Thái Bình trên tinh thần quán triệt vận dụng sáng tạo lời dạy của Chủ tịch Hồ
Chí Minh trong buổi diễn văn khai mạc hội nghị văn hoá tôn giáo ngày 24
tháng 11 năm 1946 về xây dựng đời sống văn hoá tinh thần cho nhân dân.
Người nói: “Phải làm thế nào cho văn hoá vào sâu trong tâm lý của quốc dân,
nghĩa là văn hoá phải sửa đổi tham nhũng, được lười biếng, phù hoa, xa
xỉ...đồng thời văn hoá phải làm thế nào cho mỗi người dân Việt Nam từ già
đến trẻ, cả đàn ông và đàn bà ai cũng hiểu nhiệm vụ của mình và biết hạnh
phúc của riêng mình nên được hưởng. Số phận dân ta ở trong tay ta, văn hoá
phải soi đường cho quốc dân đi”. Ngoài ra, tỉnh còn quán triệt vận dụng sáng
tạo đường lối của Đảng xác định văn hoá vừa là mục tiêu, vừa là động lực cho
sự phát triển của xã hội, trong đó coi tôn giáo là một bộ phận cấu thành nên
văn hoá vừa mang tính lịch sử, vừa mang tính nhân văn, đạo đức gắn liền với
nhu cầu tinh thần không thể thiếu được của một bộ phận quần chúng nhân dân
79

lao động ở địa phương. Chính vì vậy, Đảng bộ và chính quyền chủ động kết
hợp các tổ chức chính trị - xã hội các cấp trong toàn tỉnh phát động và triển
khai nhiều phong trào nhằm xây dựng tốt khối đoàn kết toàn dân, đoàn kết tôn
giáo tăng cường sự đồng thuận trong Đảng và trong nhân dân như:
Phong trào xây dựng gia đình văn hóa theo QĐ 2080 của UBND tỉnh
Thái Bình ra ngày 13/12/2001 gồm những tiêu chí sau:
Một là; gia đình văn hoá phải hoà thuận hạnh phúc, tiến bộ giữ gìn gia
phong tốt đẹp.
Hai là; gia đình văn hoá phải làm kinh tế khá giỏi, thực hiện tốt kế
hoạch hoá gia đình và tổ chức gia đình theo khoa học, các thành viên đang
độ tuổi đi học đều được đến trường, không mắc các tệ nạn xã hội.
Ba là; đoàn kết giúp đỡ nhau xây dựng thôn làng, tổ dân phố theo nếp
sống văn hoá.
Bốn là; thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ công dân.
Bên cạnh đó, UBND tỉnh chủ động kết hợp với Ban văn hoá, MTTQ
tỉnh, huyện, xã, thôn phát động xây dựng các phong trào như: dòng họ, tổ dân
phố và làng xã văn hóa theo Quyết định 2080 ngày 13/12/2001 của UBND
tỉnh Thái Bình.
Phong trào xây dựng dòng họ văn hoá:
Một là; trong dòng họ không có người sinh con thứ ba.
Hai là; trong dòng họ không có người bị phạm tội, trọng án.
Ba là; trong dòng họ ông bà mẫu mực, con cháu thảo hiền.
Bốn là; trong dòng họ không có ai mắc tai tệ nạn xã hội
Năm là; trong dòng họ không có trẻ em bỏ học.
Phong trào xây dựng xứ họ đạo bốn gương mẫu:
Một là; gương mẫu tham gia lao động sản xuất, tham gia phong trào
xóa đói giảm nghèo.
80

Hai là; gương mẫu chấp hành các chính sách pháp luật, thực hiện
nghĩa vụ công dân.
Ba là; gương mẫu xây dựng nếp sống văn hóa trong họ giáo và gia
đình.
Bốn là; gương mẫu tham gia sinh hoạt trong các đoàn thể nhân dân và
các tổ chức chính trị - xã hội.
Đây là một trong những phong trào do MTTQ tỉnh khởi xướng vào
năm 2002, có sự phối kết hợp với các ban ngành, đoàn thể các cấp ở tỉnh,
huyện, xã, thôn nhằm xây dựng nếp sống văn hoá trong đồng bào giáo dân.
Chính cuộc vận động trên đã được đông đảo các Linh mục, các họ giáo ủng
hộ, đăng ký tham gia xây dựng. Hàng năm các họ giáo đều có các báo cáo về
những kết quả thực hiện việc xây dựng họ giáo 4 gương mẫu lên MTTQ xã.
Bên cạnh đó, MTTQ huyện cũng tổng kết công tác xây dựng họ giáo ở từng
xã để báo cáo lên MTTQ tỉnh; đồng thời tiến hành động viên khen thưởng kịp
thời cho những họ giáo, những Linh mục đạt thành tích trong công tác xây
dựng họ giáo 4 gương mẫu. Ngoài ra, MTTQ tỉnh Thái Bình còn chủ động kết
hợp với nhiều ban ngành, đoàn thể và các tổ chức giáo hội trong toàn tỉnh
phát động nhiều phong trào và khẩu hiệu thi đua trong các tôn giáo nhằm vận
động đồng bào các tín đồ có đạo tham gia xây dựng cuộc sống “tốt đời, đẹp
đạo” như:
Trong Phật giáo nêu cao tinh thần: “Đạo pháp, dân tộc, xã hội chủ nghĩa”
Trong Công giáo đề cao tinh thần: “Sống phúc âm giữa lòng dân tộc,
vì hạnh phúc đồng bào”.
Trong Tin lành giáo phát huy tinh thần “Kính Chúa, yêu nước”...
Từ các phong trào và mục tiêu đề ra như trên đã thu hút nhiều gia đình,
các tín đồ, chứa sắc, nhà tu hành tích cực tham gia xây dựng gia đình văn hóa,
nếp sống văn minh trên tinh thần “tốt đời, đẹp đạo”, “kính Chúa, yêu nước”.
81

Kết quả qua hơn 20 năm đổi mới trên lĩnh vực văn hoá tính đến hết
năm 2008, toàn tỉnh đã có 76% các gia đình đạt tiêu chuẩn gia đình văn hóa,
68% xã - phường - thị trấn đạt tiêu chuẩn văn hóa, tệ mê tín dị đoan trong đời
sống xã hội từng bước được đẩy lùi, trong đó có 4 họ giáo công bố đã xoá
xong nhà tranh vách đất đó là: Họ giáo Quan Cao xã Vân Trường, họ giáo
Tân Châu xã Nam Thắng, huyện Tiền Hải; họ giáo Trại Gạo xã Việt Thuận,
họ giáo Tân Châu xã Vũ Tiến, huyện Vũ Thư. Riêng năm 2008, UBND tỉnh
và MTTQ tỉnh đã khen thưởng và công nhận cho 6 họ giáo lên hàng giáo sứ:
Họ giáo Quan Cao xã Vân Trường, họ giáo Tân Châu xã Nam Thắng, họ giáo
Đông Phú xã Nam Trung, huyện Tiền Hải; họ giáo Tây Làng xã Hồng Giang,
huyện Đông Hưng; họ giáo Trại Gạo xã Việt Thuận, họ giáo Tân Châu xã Vũ
Tiến, huyện Vũ Thư và chấp thuận cho việc lập họ giáo mới Bạch Sa xã Nam
Trung, huyện Tiền Hải.
* Nguyên nhân đạt được những thành tựu trên trong việc xây dựng khối
đoàn kết tôn giáo
Một là; Đảng bộ, chính quyền, MTTQ và các tổ chức chính trị- xã hội
các cấp đã quán triệt việc học tập, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh
cùng với các đường lối chính sách của Đảng vào công tác xây dựng khối đoàn
kết toàn dân, đoàn kết tôn giáo ở tỉnh Thái Bình.
Hai là; công tác tham mưu, đề xuất phương hướng giải quyết tốt tình hình
tôn giáo cho Đảng bộ và UBND tỉnh. Công tác phối hợp được thực hiện nền nếp
ở ba cấp giữa các ngành chức năng liên quan; đặc biệt là các cuộc trao đổi làm
việc nghiệp vụ đối với đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo ở từng cấp.
Ba là; công tác tuyên truyền phổ biến các chính sách, pháp luật kịp thời
thường xuyên đến mọi người dân cũng như các chức sắc, nhà tu hành và tín
đồ có đạo; trong đó đặc biệt là sự phối hợp giữa các ngành, các địa phương
82

trong việc triển khai thực hiện đúng pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo và nghị
định hướng dẫn việc thi hành pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo.
Bốn là; công tác quản lý Nhà nước của Đảng bộ, UBND, MTTQ, Ban
tôn giáo tỉnh đối với họat động tôn giáo cụ thể trên hai phương diện phần lễ
và phần hội.
Công tác giải quyết đúng đắn, kịp thời những vấn đề phát sinh trong
tôn giáo và những đề nghị của các tổ chức cá nhân tôn giáo, kết hợp với
các đơn vị liên quan thống nhất chỉ đạo giúp đỡ hòa giải các mâu thuẫn đối
với các tôn giáo. Góp phần củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân,
đoàn kết tôn giáo.
Năm là; công tác thanh tra giám sát của Đảng bộ, UBND, MTTQ, Ban
tôn giáo tỉnh trong việc giải quyết đơn khiếu nại trên các lĩnh vực tôn giáo.
Công tác kiểm tra việc chấp hành các quy định của pháp luật về họat động tôn
giáo thương xuyên phát hiện và xử lý kịp thời các trường hợp vi phạm trong
lĩnh vực hoạt động tôn giáo như: xây dựng, sửa chữa công trình thờ tự, sử
dụng đất đai vào mục đích tôn giáo.
Sáu là; công tác tổ chức cán bộ của Đảng bộ, UBND, MTTQ, Ban tôn
giáo tỉnh trong việc thực hiện nghị định 22/2004/NĐ-CP ngày 12/1/2004 về
kiện toàn tổ chức bộ máy làm công tác tôn giáo ở các cấp và thông tư số
25/2004/TT-BNV ngày 19/4/2004 hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn và cơ cấu tổ chức cơ quan chuyên môn giúp UBND tỉnh quản lý nhà nước
về công tác tôn giáo ở địa phương.
Bẩy là; chương trình phối kết hợp với các ban ngành, đoàn thể ở các
cấp của Tỉnh uỷ, UBND, MTTQ và Ban tôn giáo tỉnh trong việc vận động
đoàn viên, hội viên là tín đồ các tôn giáo chấp hành tốt chính sách tôn giáo
của Đảng và Nhà nước đề ra. Do đó, đã đạt được kết quả cao trong việc xây
dựng khối đại đoàn kết tôn giáo ở Thái Bình.
83

Tám là; công tác lãnh đạo, chỉ đạo điều hành trực tiếp cụ thể đi sâu, đi
sát, chủ động kịp thời nắm bắt tâm tư, nguyện vọng trong nhân dân; đặc biệt
là đồng bào có đạo của Đảng bộ và chính quyền địa phương trong tỉnh. Do
đó, đã góp phần xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân và đoàn kết tôn giáo
ngày càng sâu, rộng trong nhân dân.
* Những hạn chế trong việc thực hiện xây dựng khối đoàn kết tôn giáo
Qua hơn 20 năm đổi mới, Đảng bộ, chính quyền kết hợp với các tổ
chức chính trị - xã hội trong tỉnh Thái Bình qua quá trình lãnh đạo, chỉ đạo và
vận động toàn dân thực hiện công cuộc đổi mới; đặc biệt là trong công tác xây
dựng khối đoàn kết toàn dân, đoàn kết tôn giáo ngoài những thành tựu đã đạt
được như trên thì còn tồn tại những bất cập, hạn chế, thiếu sót được thể hiện
cụ thể trên các lĩnh vực như: kinh tế, chính trị - xã hội, văn hoá.
Trên lĩnh vực kinh tế, do mặt trái của nền kinh tế thị trường và ảnh
hưởng của lối sống thực dụng đem lại, xuất hiện một bộ phận gia đình đã
tranh thủ và tận dụng cơ hội vươn lên làm giầu đã không chia sẻ kinh nghiệm
làm ăn hoặc giúp đỡ các gia đình còn gặp khó khăn về mặt kinh tế mà còn nảy
sinh tư tưởng “cổng cao, rào kín”. Vì vậy, làm ảnh hưởng đến công tác xây
dựng khối đoàn kết toàn dân, đoàn kết tôn giáo. Ngoài ra, do những biến động
về giá cả đất đai trong những năm 1996, 1997, 1998, 1999, 2000 đã làm xảy
ra nhiều vụ việc tranh chấp đất đai giữa những người theo tôn giáo và không
theo tôn giáo, giữa các tôn giáo với nhau... Bên cạnh đó, việc tự ý xây dựng
cơ sở thờ tự trái phép mà không tiến hành đăng ký cấp phép đã tạo ra những
mâu thuẫn bất đồng giữa Đảng bộ, chính quyền các cấp ở cơ sở với một bộ
phận không nhỏ các chức sắc, nhà tu hành và tín đồ có đạo. Theo kết quả điều
tra trong năm 2008 đã xuất hiện các vụ vi phạm như sau:
84

Bảng 4: Tên tôn giáo và những vụ vi phạm trên địa bàn tỉnh Thái Bình

Tổng số vụ Tranh chấp Xây dựng cơ sở Sinh hoạt


Tên tôn giáo
vi phạm đất đai thờ tự trái phép tôn giáo trái phép

Công giáo 46 25 12 9

Phật giáo 31 14 10 7

Tin lành 9 1 3 5
Nguồn: (Kết quả thống kê của Ban tôn giáo tỉnh Thái Bình năm 2008).

Trên lĩnh vực chính trị - xã hội, do những âm mưu và thủ đoạn chính trị
của các thế lực phản động; đặc biệt là âm mưu “diễn biến hoà bình” nhằm chia
rẽ khối đoàn kết toàn dân, đoàn kết tôn giáo làm ảnh hưởng không nhỏ đến
công tác xây dựng khối đoàn kết đoàn toàn dân, đoàn kết tôn giáo ở Thái Bình.
Mặt khác, ở địa phương phần lớn cán bộ có chuyên môn, nghiệp vụ về
lĩnh vực tôn giáo còn thiếu và yếu hoặc chưa có sự phối kết hợp chặt chẽ,
đồng bộ giữa các ban ngành, Mặt trận, đoàn thể trong việc triển khai xây dựng
khối đoàn kết tôn giáo cũng như giải quyết chưa kịp thời tình hình tôn giáo
phát sinh ở cơ sở... Vì vậy, đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến công tác vận
động quần chúng nhân dân tham gia xây dựng khối đoàn kết toàn dân, đoàn
kết tôn giáo. Ngoài ra do tình trạng thiếu dân chủ, quan liêu cửa quyền của
một bộ phận không nhỏ cán bộ dưới cơ sở không làm đúng chức năng, nhiệm
vụ hoặc chậm giải quyết công việc cho nhân dân đã dẫn đến nhiều sai phạm
về đơn từ khiếu nại, tranh chấp đất đai, giải phóng mặt bằng, đền bù giải toả,
đổi đất lấy công trình, xây dựng cơ sở thờ tự trái phép, thu chi không đúng
mục đích... là kẽ hở làm cho một bộ phận phần tử quá khích lợi dụng, kích
động lôi kéo nhân dân, trong đó có đồng bào giáo dân đi đấu tố dẫn đến tình
trạng mất dân chủ, dân chủ cực đoan hoặc dân chủ quá trớn.., diễn ra ở nhiều
cơ sở điển hình như: xã Quỳnh Hoa, An Mỹ, An Đồng, An Dục huyện Quỳnh
Phụ; xã Tây Phong, Tây Sơn, Đông Cơ, Đông Hoàng, Nam Thanh, Nam
85

Thắng, Nam Trung, Nam Hà, Nam Hải huyện Tiền Hải; xã Vũ Hội, Vũ Tiến,
Vũ Việt, Việt Hồng, Việt Thắng huyện Vũ Thư, xã Đông Lĩnh, Đông Long,
Đông Đô huyện Đông Hưng; xã Thuỵ Trình, Thụy Hải, Thái Đô, Thái
Thượng huyện Thái Thuỵ; xã Vũ Tây, An Bồi, thị trấn Thanh Nê huyện Kiến
Xương; phường Tiền Phong, phường Phúc Khánh thành phố Thái Bình...Theo
báo cáo Đại hội lần thứ XVII (năm 2006) của Tỉnh ủy, từ tháng 11/1997 đến
tháng 6/2005 đã có 242/285 xã - phường - thị trấn trong toàn tỉnh đã xảy ra
tình trạng vi phạm dân chủ dưới nhiều hình thức khác nhau, làm ảnh không
nhỏ đến công tác xây dựng khối đoàn kết toàn dân, đoàn kết tôn giáo.
Trên lĩnh vực văn hóa, từ những khó khăn trong việc xây dựng khối
đoàn kết toàn dân, đoàn kết tôn giáo trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị - xã
hội đã dẫn đến những khó khăn trong việc xây dựng khối đoàn kết toàn dân
lĩnh vực văn hóa; đặc biệt là văn hóa lối sống như: sự chung thủy, tinh thần
đoàn kết “tối lửa, tắt đèn có nhau” ở trong mỗi gia đình, các thôn, làng, tổ dân
phố đã và đang có sự rạn nứt. Chính vì vậy, Đảng bộ, UBND, MTTQ, Ban
tôn giáo tỉnh khẳng định công tác xây dựng gia đình văn hóa, dòng họ văn
hóa, làng xã văn hoá, tổ khu phố văn hoá; đặc biệt là xây dựng họ đạo bốn
gương mẫu sống theo lối sống văn hóa sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Ngoài ra,
do mặt trái của nền kinh tế thị trường với sự cạnh tranh khốc liệt đã tạo ra
nhiều khuyết tật xấu tác động đến tư tưởng, niềm tin, đạo đức, lối sống của
người dân; đồng thời theo đó đã xuất hiện nhiều loại hình mê tín dị đoan như:
tà đạo, bùa chú, bói toán, tranh giành đức tin.., làm ảnh hưởng không nhỏ đến
niềm tin tôn giáo, đạo đức, lối sống và tinh thần đoàn kết tôn giáo trong nhân
dân; đặc biệt là đoàn kết giữa các đồng bào tôn giáo dẫn đến nhiều khó khăn
cho công tác xây dựng khối đoàn kết toàn dân, đoàn kết tôn giáo ở tỉnh Thái
Bình.
86

* Nguyên nhân của những hạn chế trong việc xây dựng khối đoàn kết
tôn giáo
Một là; do sự khác biệt về nguồn gốc lịch sử bản thân, lợi ích, thu nhập,
địa vị xã hội, trình độ nhận thức giữa các gia đình, dòng họ, tôn giáo, giai cấp,
tầng lớp trong xã hội đưa đến những khó khăn trong công tác xây dựng khối
đoàn kết toàn dân, đoàn kết tôn giáo.
Hai là; do sự khác nhau về thế giới quan, nhu cầu tín ngưỡng. Trong
đó, có thế giới quan duy vật và duy tâm, có đồng bào đi theo tôn giáo này
nhưng lại có đồng bào đi theo tôn giáo khác hoặc có đồng bào không theo tôn
giáo. Điều này đã dẫn đến những trái ngược về hệ tư tưởng, về nhu cầu tín
ngưỡng, đức tin, thực hành đạo đức xã hội.., gây khó khăn trong công tác xây
dựng khối đoàn kết toàn dân, đoàn kết tôn giáo.
Ba là; do công tác vận động, tuyên truyền và sự phối kết hợp giữa các
ban ngành, Mặt trận, đoàn thể và chính quyền các cấp trong việc triển khai
học tập, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với các quan điểm
chính sách, văn bản pháp luật, nghị định của Nhà nước về tôn giáo và xây
dựng khối đoàn kết tôn giáo ở nhiều cơ sở trong tỉnh thực tế còn kém hiệu
quả, chưa có thống nhất đồng bộ. Chính vì vậy, đã dẫn đến việc nhận thức và
hiểu biết của cán bộ ở nhiều cơ sở và trong nhân dân không được thống nhất,
rõ ràng về những chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và
Nhà nước trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế - xã hội, văn hoá nói chung; đặc
biệt là những vấn đề liên quan đến tôn giáo và các hoạt động của tôn giáo.
Đây là một trong những nguyên nhân làm khó khăn cho công tác xây dựng
khối đoàn kết toàn dân, đoàn kết tôn giáo ở địa phương đã dẫn đến hàng loạt
các vi phạm xảy ra trên nhiều lĩnh vực chính trị, kinh tế - xã hội, văn hoá như:
tình trạng quan liêu, tham nhũng cửa quyền thiếu trách nhiệm của một bộ
phận không nhỏ cán bộ, Đảng viên dưới các cơ sở; tình trạng thiếu dân chủ,
87

mất dân chủ; tình trạng lấn chiếm đất đai, xây dựng cơ sở thờ tự và hành lễ tự
trái phép... điển hình qua các năm 1997, 1998, 1999, 2.000.
Bốn là; cán bộ có chuyên môn làm công tác tôn giáo ở cấp cơ sở còn
thiếu và yếu về kinh nghiệm thực tiễn và nghiệp vụ xử lý tình huống còn
kém.Vì vậy, khi phát sinh những mâu thuẫn về đất đai, xây dựng cơ sở thờ tự,
truyền đạo trái phép hoặc lôi kéo các phần tử quá khích đi đập phá chính
quyền, nhà ở của cán bộ trong xã... Trước những sự việc xảy ra như trên, cán
bộ cơ sở ở nhiều nơi đã bị động, lúng túng không thể giải quyết đúng đắn dứt
khoát, kịp thời những mâu thuẫn phát sinh. Đây là một trong những nguyên
nhân chủ yếu dẫn đến mất đoàn kết trong Đảng và trong nhân dân, trong đó
có đoàn kết tôn giáo biểu hiện cụ thể qua những năm 1997, 1998, 1999, 2000.
Năm là; cán bộ tại nhiều cơ sở thực tế vẫn chưa đi sâu, đi sát trong việc
thực hiện chức năng, nhiệm vụ QLNN về tôn giáo, nhiều xã còn buông lỏng
công tác QLNN về tôn giáo như: xã Quỳnh Hoa, Quỳnh Mỹ, Đông Hải huyện
Quỳnh Phụ, xã Nam Trung, Nam Thanh, Nam Thắng, Nam Hồng huyện Tiền
Hải; xã Vũ Hội, Vũ Việt, Vũ Tiến huyện Vũ Thư; xã Đông Lĩnh, Đông Xá,
Đông La, Đông Đô huyện Đông Hưng; xã Vũ Tây, thị trấn Thanh Nê huyện
Kiến Xương; phường Tiền Phong thành phố Thái Bình đã dẫn đến tình trạng
vi phạm dân chủ như: lấn chiếm đất đai, xây dựng cơ sở thờ tự trái phép,
tranh giành nơi thờ tự, đi đầu đơn, kiếu kiện, đấu tố... tạo ra nhiều bất đồng
trong Đảng và trong nhân dân làm suy yếu khối đoàn kết toàn dân, đoàn kết
tôn giáo dẫn đến niềm tin của người dân và một bộ phận không nhỏ đồng bào
giáo dân vào chính quyền ở dưới cơ sơ bị giảm sút.
Sáu là; do lịch sử quá khứ để lại có nhiều chuyện vui nhưng cũng có
không ít câu chuyện buồn, xuất phát từ những âm mưu và thủ đoạn chính trị
của các thế lực thù địch trong và ngoài nước muốn thống trị, bóc lột dân tộc
Việt Nam đã làm ảnh hưởng sâu đậm đến nhận thức, tư tưởng, lối sống và
88

thực hành đạo đức xã hội trong nhân dân dẫn đến những khó khăn nhất định
trong công tác xây dựng đoàn kết toàn dân, đoàn kết tôn giáo giai đoạn đẩy
mạnh CNH, HĐH của địa phương hiện nay.
Bảy là; do còn tồn tại sự phân biệt đối xử và kỳ thị đối với những người
đi theo tôn giáo này hoặc đi theo tôn giáo khác của một bộ phận cán bộ, đảng
viên và nhân dân ở dưới cơ sở gây khó khăn trong công tác xây dựng khối
đoàn kết toàn dân, đoàn kết tôn giáo.
Tám là; do “âm mưu diễn biến hoà bình” của các thế lực phản động
trong và ngoài nước đã tuyên truyền, kích động về vấn đề tự do tôn giáo, dân
chủ, nhân quyền.., đã lôi kéo một số bộ phận nhân dân trong đó có đồng bào
giáo dân đi chống phá đường lối, chính sách của Đảng và của Nhà nước làm
ảnh hưởng không nhỏ đến công tác xây dựng khối đoàn kết toàn dân, đoàn kết
tôn giáo cũng như tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trên địa
bàn tỉnh Thái Bình diễn ra vào những năm 2007, 2008 và đầu năm 2009.
2.3. Một số bài học kinh nghiệm và kiến nghị về xây dựng khối
đoàn kết tôn giáo ở tỉnh Thái Bình.
2.3.1. Một số bài học kinh nghiệm
Nghiên cứu sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng khối đoàn
kết tôn giáo ở tỉnh Thái Bình qua hơn 20 năm đổi mới trên các lĩnh vực chính
trị, kinh tế - xã hội, văn hoá với những thành tựu và hạn chế nêu trên, giúp tác
giả rút ra những bài học kinh nghiệm giá trị vào công tác xây dựng khối đoàn
kết tôn giáo ở địa phương tỉnh Thái Bình; đồng thời đó cũng là bài học kinh
nghiệm cho một số địa phương khác trong công tác xây dựng khối đoàn kết
tôn giáo những năm tiếp theo:
Một là; trong công tác xây dựng khối đoàn kết toàn dân, đoàn kết tôn
giáo muốn đạt được hiệu quả cao phải luôn tôn trọng giáo chủ, tranh thủ tình
cảm giáo sỹ và quan tâm đến lợi ích của toàn dân. Đây là bài học kinh nghiệm
89

thực sự giá trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thực hiện thành công trong công
tác xây dựng khối đoàn kết toàn dân, đoàn kết tôn giáo góp phần đánh bại âm
mưu "chia để trị" của thực dân Pháp và sau này là đế quốc Mỹ muốn lợi dụng
vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo nhằm phá vỡ sự nghiệp và thành quả cách mạng
của nhân dân. Ngày nay, bài học kinh nghiệm trên vẫn còn nguyên giá trị lịch
sử và tính khoa học, thời đại. Do đó, trong công tác xây dựng khối đoàn kết
tôn giáo, Đảng bộ và chính quyền địa phương tỉnh Thái Bình nói riêng cũng
như các địa phương khác cần tiếp tục quán triệt, vận dụng sáng tạo quan điểm
trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào công tác xây dựng khối đoàn kết toàn dân,
đoàn kết tôn giáo.
Hai là; tích cực tuyên truyền, khai thác các giá trị nhân bản trong các
học thuyết tôn giáo thông qua việc đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước,
sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật Việt Nam. Qua đó, góp phần
gắn kết giữa việc đạo với việc đời như:
Trong Phật giáo, nêu cao tinh thần: “Đạo pháp, dân tộc, xã hội chủ
nghĩa”
Trong Công giáo, đề cao tinh thần: “Sống phúc âm giữa lòng dân tộc,
vì hạnh phúc đồng bào”.
Trong Tin lành giáo phát huy tinh thần “Kính Chúa, yêu nước”.
Đây là một trong những phương pháp quan trọng mà Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã sử dụng thành công trong suốt quá trình vận động nhân dân tham gia
xây dựng khối đoàn kết toàn dân, đoàn kết tôn giáo nhằm gắn kết giữa đồng
bào theo và không theo tín ngưỡng, tôn giáo; giữa đồng bào theo tôn giáo này
nhưng không theo tôn giáo khác nhằm tạo ra sự đồng thuận trong nhân dân;
đặc biệt là trong đồng bào các tôn giáo. Thông qua công tác tuyên truyền trên
góp phần gắn kết giữa việc đời với việc đạo; giữa đức tin tôn giáo với tình
yêu Tổ quốc, đưa tôn giáo hướng về dân tộc vào sự nghiệp giải phóng dân
90

tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người khỏi áp bức bóc lột. Vì vậy,
phương pháp trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành một trong những
bài học kinh nghiệm thực sự giá trị cho những người làm công tác xây dựng
khối đoàn kết toàn dân, đoàn kết tôn giáo ở các cấp.
Ba là; trong quá trình xây dựng khối đoàn kết tôn giáo cần phải phân
biệt được đâu là tổ chức giáo dân chân chính với tổ chức và cá nhân giả
danh tôn giáo nhằm góp phần vào việc đấu tranh chống lại các âm mưu
"diễn biến hoà bình" muốn lợi dụng vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo chống phá
thành quả cách mạng của nhân dân. Đây là phương pháp quan trọng mà Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã sử dụng trong quá trình xây dựng khối đoàn kết tôn
giáo nhằm phân biệt rõ: "chính" - "tà", "bạn" - "thù" góp phần củng cố, tăng
cường khối đoàn kết toàn dân và bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng của
nhân dân. Do đó, phương pháp trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh là bài học
kinh nghiệm giá trị cho Đảng bộ và chính quyền các cấp của địa phương tỉnh
Thái Bình nói riêng và các địa phương khác nói chung trong công tác xây
dựng khối đoàn kết tôn giáo.
Bốn là; trong quá trình xây dựng khối đoàn kết tôn giáo phải vừa nắm
vững chủ trương, nghị quyết, đường lối pháp luật của Đảng và Nhà nước; vừa
phải có những biện pháp cách làm phù hợp thiết thực, hiệu quả như: "nói phải
đi đôi với làm", "học phải đi đôi với hành", kết hợp với nêu gương “người tốt,
việc tốt” trong nhân dân; đặc biệt là đồng bào giáo dân hiện nay. Đây là một
trong những phương pháp làm việc biện chứng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về
sự thống nhất giữa lý luận với thực tiễn; giữa hành động, lời nói với việc làm
cụ thể. Qua đó, góp phần tạo ra sự đồng thuận trong Đảng và trong nhân dân;
đặc biệt là trong đồng bào giáo dân. Vì vậy, phương pháp trên thực sự là một
trong những bài học kinh nghiệm giá trị cho Đảng và chính quyền các cấp ở
91

địa phương tỉnh Thái Bình nói riêng cũng như các địa phương khác nói chung
trong công tác xây dựng khối đoàn kết toàn dân, đoàn kết tôn giáo.
Năm là; phải tích cực đổi mới nâng cao hơn nữa vai trò lãnh đạo của
Đảng, MTTQ, chính quyền và các tổ chức chính trị - xã hội trong việc tổ
chức, triển khai xây dựng khối đoàn kết toàn dân, đoàn kết tôn giáo. Ngoài ra,
hàng năm phải có các báo cáo tổng kết của MTTQ ở các cấp như: thôn, xã,
huyện, tỉnh nhằm đánh giá những ưu, khuyết điểm trong công tác xây dựng
khối đoàn kết toàn dân, đoàn kết tôn giáo và đề xuất việc đổi mới phương
hướng, nội dung, chương hoạt động trong những năm tiếp theo, đáp ứng kịp
thời tình hình thực tiễn về xây dựng khối đoàn kết toàn dân, đoàn kết tôn giáo
ở Thái Bình hiện nay.
Sáu là; tích cực phổ biến tuyên truyền, giáo dục triển khai Quyết định
2080, gồm 7 chương, 34 điều ra ngày 13/12/2001 của UBND tỉnh Thái Bình
về việc thực hiện nếp sống văn hoá trong việc cưới, việc tang và trong các
hoạt động sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo.
Bảy là; cần xử lý đúng đắn, kịp thời các điểm nóng phát sinh trên các
lĩnh vực: kinh tế, chính trị - xã hội, văn hoá trong toàn tỉnh; đặc biệt những
vấn đề liên quan đến tôn giáo và hoạt động của các tôn giáo như: đất đai, cơ
sở thờ tự, hoạt động truyền đạo trái phép... theo đúng pháp luật Việt Nam.
Tám là; Đảng bộ, UBND, MTTQ tỉnh Thái Bình cần tích cực chủ động
đi sâu, đi sát nắm bắt kịp thời tình hình thực tiễn ở các cơ sở; đồng thời tích
cực nghiên cứu, ban hành các chính sách mới nhằm hỗ trợ, ưu tiên phát triển
kinh tế tới các xã còn gặp nhiều khó khăn như: các xã nội đồng; các xã xa
trung tâm kinh tế, văn hoá; các xã vùng ven biển; đặc biệt là vùng đồng bào
giáo dân ở các xã Đông Minh, Nam Cường, Nam Phú, Nam Thịnh, Nam
Hồng thuộc huyện Tiền Hải; xã Thái Xuân, Thụy Hải, Thái Thượng, Thái Đô,
thị trấn Diêm Điền thuộc huyện Thái Thuỵ nhằm tạo ra việc làm ổn định và
92

tăng thu nhập cho nhân dân, đặc biệt vùng đồng bào giáo dân. Qua đó, góp
phần tạo ra sự đồng thuận trong Đảng và trong nhân dân, tăng cường hơn nữa
khối đoàn kết toàn dân, đoàn kết tôn giáo ở Thái Bình hiện nay.
2.3.2. Một số kiến nghị
Qua nghiên cứu sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào xây dựng khối
đoàn kết tôn giáo ở tỉnh Thái Bình qua hơn 20 năm đổi mới trên các lĩnh vực
chính trị, kinh tế - xã hội, văn hoá. Tác giả đề xuất một số kiến nghị mang
tính chất xây dựng, nhằm làm tốt công tác xây dựng khối đoàn kết tôn giáo ở
địa phương tỉnh Thái Bình nói riêng cũng như một số địa phương khác trong
những năm tiếp theo:
Một là; tiếp tục chủ động đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục
sâu rộng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong toàn Đảng,
toàn dân; đồng thời tích cực vận động quần chúng nhân dân nhận thức đầy
đủ và thực hiện đúng đường lối, chính sách của Đảng về tôn giáo và đoàn
kết tôn giáo.
Hai là; Tỉnh uỷ, UBND, MTTQ tỉnh Thái Bình cần phối kết hợp với
các tổ chức chính trị - xã hội ở các cấp, tổ chức các các hội thi tìm hiểu về văn
hoá, tín ngưỡng, tôn giáo ở địa phương hàng năm nhằm tăng cường sự đồng
thuận trong Đảng và trong nhân dân, gắn kết giữa đồng bào theo và không
theo tín ngưỡng, tôn giáo ở địa phương.
Ba là; tích cực mở các cuộc thi tìm hiểu về tư tưởng, đạo đức, tác
phong, lối sống giản dị và phương pháp làm việc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Qua đó, góp phần củng cố, tăng cường khối đoàn kết trong Đảng và trong
nhân dân; đoàn kết giữa đồng bào theo và không theo tín ngưỡng, tôn giáo.
Bốn là; tích cực xem xét, giới thiệu, khuyến khích các tín đồ, chức
sắc, nhà tu hành là quần chúng tích cực tham gia học các lớp cảm tình
93

Đảng và chủ động kết nạp đảng viên cho các tín đồ, chức sắc, nhà tu hành
trong tôn giáo.
Năm là; cần tích cực đấu tranh chống lại các tư tưởng định kiến, hẹp
hòi và kỳ thị đối với các tôn giáo của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân
dân ở địa phương hiện nay.
Sáu là; kiện toàn các cơ quan chức năng và đội ngũ cán bộ chuyên
trách làm công tác tôn giáo.
Bảy là; Đảng bộ, UBND tỉnh cần tiếp tục nghiên cứu và ban hành các
chính sách mới, phù hợp với tình hình thực tiễn tại ở địa phương nhằm thúc
đẩy phát triển kinh tế, chính trị - xã hội, văn hoá nâng cao đời sống vật chất
và tinh thần của cán bộ và nhân dân; đặc biệt là đồng bào giáo dân hiện nay.
Tám là; xử lý theo đúng pháp luật đối với các tổ chức, cá nhân giả danh
tôn giáo hoạt động trái pháp luật làm ảnh hưởng đến an ninh chính trị, truyền
thống văn hoá của nhân dân và sự tôn nghiêm trong các học thuyết tôn giáo
trên địa bàn tỉnh Thái Bình hiện nay.
Chín là; cần phân cấp rõ trách nhiệm quản lý và tăng cường công tác
quản lý Nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở địa phương nhằm đảm bảo ổn
định tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh Thái
Bình hiện nay.
Mười là; Đảng bộ địa phương cần tích cực, chủ động nghiên cứu xây
dựng các chương trình, đề án, chính sách cụ thể nhằm thúc đẩy sự phát triển
kinh tế – xã hội, văn hóa ở địa phương; đặc biệt chú trọng đến các chính sách
về an sinh xã hội cho các vùng đồng bào giáo dân, vùng ven biển và các vùng
xa trung tâm kinh tế, văn hóa xã.
94

KẾT LUẬN
Đoàn kết tôn giáo là bộ phận trong chiến lược đại đoàn kết của Hồ Chí
Minh, quyết định lớn đến thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Vì vậy, trong
suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Người luôn quan tâm đến công tác xây
dựng khối đoàn kết toàn dân, đoàn kết tôn giáo.
Người nói:
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công, thành công, đại thành công”[45,607].
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết tôn giáo được hình thành trên cơ sở
kế thừa truyền thống đoàn kết, truyền thống yêu nước, lòng khoan dung và
thực tiễn đấu tranh chống giặc ngoại xâm và những âm mưu chia rẽ dân tộc,
chia rẽ tôn giáo ở Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh còn được được soi rọi
bằng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, sự tiếp thu và vận dụng sáng tạo các
nguyên lý của chủ nghĩa Mác về tôn giáo, dân tộc, thời đại... cùng với những
tinh hoa văn hoá của nhân loại phương Đông và phương Tây, đúng như nhận
định của Hêlentuốcmêrơ (Ba Lan): “Hồ Chí Minh là hình ảnh hoàn chỉnh của
sự kết hợp đức khôn ngoan của Phật, lòng bác ái của Chúa, triết học của Mác,
thiên tài cách mạng của Lênin và tình cảm của người chủ gia tộc - Tất cả đều
được hoà hợp trong một dáng dấp tự nhiên”.
Tư tưởng Hồ Chí Minh mãi là sợi chỉ đỏ xuyên suốt cho toàn Đảng,
toàn dân ta học tập, vận dụng sáng tạo vào quá trình xây dựng khối đoàn kết
toàn dân, đoàn kết tôn giáo trong giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
Đảng và Nhà nước ta luôn tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo của nhân dân trên tinh thần không phân biệt đối xử đối với đồng bào theo
hoặc không theo tín ngưỡng, tôn giáo; đồng thời xử lý nghiêm đối với những
trường hợp vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân theo đúng
pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo năm 2004 và luật pháp Việt Nam.
95

Tại tỉnh Thái Bình, trên tinh thần tiếp thu và vận dụng sáng tạo tư
tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo và đoàn kết tôn giáo. Đảng bộ và chính quyền
các cấp trong tỉnh đã tích cực chủ động vận động tuyên truyền và giáo dục
nhân dân trong tỉnh tham gia xây dựng khối đoàn kết toàn dân, đoàn kết tôn
giáo; đồng thời luôn tôn trọng và đề cao các giá trị đạo đức, văn hoá trong các
tôn giáo như: truyền thống đoàn kết, tinh thần “tốt đời, đẹp đạo”, “kính Chúa,
yêu nước”, “Đạo pháp - Dân tộc - XHCN”... trong các tôn giáo nhằm thực
hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế, chính trị- xã hội, văn hoá, an
ninh quốc phòng của tỉnh đề ra. Ngoài ra, Đảng bộ tỉnh Thái Bình còn tích
cực chủ động đi sâu, đi sát nắm bắt đúng tình hình thực tế tôn giáo dưới cơ
sở; đồng thời hàng năm đều có các báo cáo đánh giá, tổng kết rút kinh nghiệm
trong công tác xây dựng khối đoàn kết toàn dân, đoàn kết tôn giáo dựa trên
nguyên tắc tự phê bình và phê bình nhằm củng cố, tăng cường hơn nữa khối
đại đoàn kết toàn dân tạo ra sự thống nhất trong Đảng và trong nhân dân, đặc
biệt là đồng bào tín đồ các tôn giáo.
96

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Ngô Phương Bá - Nói về đồng bào các tôn giáo với cuộc kháng chiến của
Tổ quốc. Nửa thế kỷ nhìn lại toàn quốc kháng chiến 19/12/1946 -
19/12/1996.
2. Báo cáo tổng kết công tác quản lý Nhà nước về tôn giáo năm 2008, phương
hướng nhiệm vụ năm 2009 của các huyện, Hưng Hà, Vũ Thư, Kiến Xương,
Đông Hưng, Thái Thụy, Tiền Hải, Quỳnh Phụ và thành phố Thái Bình.
3. Báo cáo của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, ngày 2/8/1999 về tình hình tôn giáo.
4. Báo cáo của Ban thường vụ Tỉnh uỷ 10/10/2001.
5. Báo cáo phát triển kinh tế- xã hội từ năm 2006 đến năm 2010.
6. Báo cáo tổng kết công tác quán lý Nhà nước về tôn giáo năm 2008,
phương hướng nhiệm vụ năm 2009 của UBND tỉnh và Ban Tôn giáo tỉnh.
7. Báo cáo tổng kết công tác quán lý Nhà nước về tôn giáo năm 2008,
phương hướng nhiệm vụ năm 2009 của UBND tỉnh và Ban Tôn giáo tỉnh.
8. Báo cáo tổng kết 10 năm đồng bào công giáo xây dựng xứ họ đạo bốn
gương mẫu của UBND huyện Thái Thuỵ tháng 12/2008.
9. Các văn bản pháp luật quan hệ tín ngưỡng, tôn giáo, Nxb Tôn giáo, Hà
Nội, năm 2000.
10. Chuyên đề phân cấp quản lý Nhà nước đối với chính quyền cấp tỉnh,
huyện xã về công tác tôn giáo của UBND tỉnh và Ban Tôn giáo tỉnh,
tháng 11 năm 2004.
11. Chương trình hành động của Tỉnh uỷ số 29, ngày 29/4/2003.
12. Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VI, Nxb ST, HN, 1987.
13. Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VII, Nxb CTQG, HN, 1991.
97

14. Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII, Nxb CTQG, HN, 1996.
15. Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX, Nxb CTQG, HN, 2001.
16. Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,
Nxb CTQG, HN, 2006.
17. Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện hội nghị lần lần thứ bẩy ban chấp
hành trung ương khoá IX.
18. Đảng bộ tỉnh Thái Bình: Văn kiện Đại hội lần thứ XIII, XIV, XV, XVI,
XVII.
19. Trần Bạch Đằng: Tư tưởng Hồ Chí Minh - sinh khí của mọi học thuyết.
Nxb sự thật.
20. Phạm Văn Đồng – Hồ Chí Minh một con người, một dân tộc, một thời
đại, một sự nghiệp. Nxb sự thật 1990.
21. Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học – Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002.
22. Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh – Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006.
23. Trần Văn Giầu, Giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam, Nxb T. P Hồ
Chí Minh, năm 1993.
24. VI. Lênin Toàn tập, tập 6, Nxb tiến bộ, Matxcơva, năm 1979.
25. VI. Lênin Toàn tập, tập 12, Nxb tiến bộ, Matxcơva, năm 1979.
26. VI. Lênin Toàn tập, tập 15, Nxb tiến bộ, Matxcơva, năm 1979.
27. VI. Lênin Toàn tập, tập 17, Nxb tiến bộ, Matxcơva, năm 1979.
28. VI. Lênin Toàn tập, tập 31, Nxb Sự Thật, Hà Nội, năm 1969.
29. VI. Lênin Toàn tập, tập 36, Nxb tiến bộ, Matxcơva, năm 1979.
30. VI. Lênin Toàn tập, tập 38, Nxb biến bộ, Matxcơva, năm 1979.
31. Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thái Bình giai đoạn từ 1930 đến 2. 000.
98

32. C. Mác và Ph. Ăng Ghen: Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị Quốc gia Hà
Nội, năm 1995.
33. C. Mác và Ph. Ăng Ghen: Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, năm 1995.
34. C. Mác và Ph. Ăng Ghen: Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, năm 1995.
35. C. Mác và Ph. Ăng Ghen: Toàn tập, tập 27, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, năm 1995.
36. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 1995.
37. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 1995.
38. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 1995.
39. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 1995.
40. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 1995.
41. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 1995.
42. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 1996.
43. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 1996.
44. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 1996.
45. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 1996.
46. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 1996.
47. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 12 Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 1996.
48. Hồ Chí Minh: Vì độc lập tự do, vì CNXH, Nxb Sự Thật, Hà Nội, năm 1970.
49. Hồ Chí Minh: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết, thành công, thành công,
đại thành công, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1995.
50. Hồ Chí Minh, Về vấn đề đoàn kết tôn giáo tín ngưỡng, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội, năm 1996.
51. Hồ Chí Minh, Biên niên tiểu sử, tập 3, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994.
99

52. Hồ Chí Minh, Về vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng, Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội, năm 1998.
53. TS. Trần Chí Mỹ – Tư tưởng Hồ Chí Minh, Trích tác phẩm và văn kiện Đảng
54. Nho giáo xưa và nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, năm 1991.
55. Những đặc điểm cơ bản của một số tôn giáo lớn ở Việt Nam. Thông tin
chuyên đề, Hà Nội, năm 1997.
56. GS. TS Lê Hữu Nghĩa; PGS. TS Nguyễn Đức Lữ đồng chủ biên - Tư
tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo và công tác tôn giáo, Nxb Tôn giáo, Hà
Nội, năm 2003.
57. Nghị quyết 24, NQ TW ngày 16/10/1990.
58. Nghị quyết Hội nghị lần thứ VII, BCH TW khoá IX 13/1/2003.
59. Nghị định hướng dẫn thi hành pháp lệnh tín ngưỡng tôn giáo, 2005.
60. Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo 18/6/2004.
61. Phát triển Đảng viên cho đồng boà công giáo của trường chính trị tỉnh
Thái Bình, năm 2006.
62. Quy định về nếp sống văn hoá số 2080 của UBND tỉnh 13/12/2001.
63. Tình hình truyền đạo trái phép, tà đạo và mê tín dị đoan ở Thái Bình, giải
pháp phòng chống của UBND tỉnh và Ban Tôn giáo tỉnh năm 2005.
64. Tạp chí cộng sản số 13, tháng 7/2003.
65. Thông báo số 9 ngày 7/11/2001 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ.
66. Thông báo số 50/TB/TU ngày 23/10/1995 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ.
67. Từ điển Bách Khoa, Hà Nội, năm1995.
68. Từ điển Tiếng Việt, Nxb văn hoá thông tin, năm 1999.
69. Trần Tam Tỉnh: Thập giá và lưỡi gươm, Nxb Trẻ Thành phố Hồ Chí
Minh, năm 1988.
100

70. Trần Tam Tỉnh trong tác phẩm Thiên Chúa và Hoàng đế, Nxb Trẻ Thành
phố Hồ Chí Minh, năm 1990.
71. Tín ngưỡng Thành Hoàng Việt Nam, Nxb khoa học xã hội, Hà Nội, năm
1996.
72. Trích tác phẩm của Các Mác, Ph. Ăng Ghen, VI. Lênin và Hồ Chí Minh
về vấn đề tôn giáo.
73. Ủy ban nhõn dân tỉnh Thái Bình(2002), Bỏo cỏo tỡnh hỡnh phỏt triển
kinh tế - xó hội năm 2002 và mục tiêu nhiệm vụ chủ yếu năm 2003.
74. Ủy ban nhõn dân tỉnh Thái Bình(2003), Bỏo cỏo tỡnh hỡnh phỏt triển
kinh tế- xó hội năm 2003 và mục tiêu nhiệm vụ chủ yếu năm 2004.
75. Ủy ban nhõn dân tỉnh Thái Bình(2004), Bỏo cỏo tỡnh hỡnh phỏt triển
kinh tế - xó hội năm 2004 và mục tiêu nhiệm vụ chủ yếu năm 2005.
76. Ủy ban nhõn dân tỉnh Thái Bình(2005), Bỏo cỏo tỡnh hỡnh phỏt triển
kinh tế - xó hội năm 2005 và mục tiêu nhiệm vụ chủ yếu năm 2006.
77. Ủy ban nhõn dân tỉnh Thái Bình(2006), Bỏo cỏo tỡnh hỡnh phỏt triển
kinh tế - xó hội năm 2006 và mục tiêu nhiệm vụ chủ yếu năm 2007.
78. Ủy ban nhõn dân tỉnh Thái Bình(2007), Bỏo cỏo tỡnh hỡnh phỏt triển
kinh tế - xó hội năm 2007 và mục tiêu nhiệm vụ chủ yếu năm 2008.
79. Vấn đề tôn giáo và chính sách tôn giáo của ĐCSVN – Nxb Giáo dục, Hà
Nội, năm 2000.
80. Đặng Nghiêm Vạn: Những vấn đề về lý luận thực tiễn tôn giáo ở Việt
Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, năm 1998.
81. Về tôn giáo tập 1, Nxb khoa học xã hội, Hà Nội, năm 1994.
82. Về tôn giáo tập 2, Nxb khoa học xã hội, Hà Nội, năm 1995.
83. Xử lý các tình huống phát sinh trong tôn giáo, của trường chính trị tỉnh
Thái Bình, năm 2008.
101

Môc lôc
Më ®Çu ............................................................................................................................... 1
néi dung ......................................................................................................................... 11
Ch ¬ng 1: Nh÷ng néi dung c¬ b¶n vÒ ®oµn kÕt t«n gi¸o trong t
t ëng Hå ChÝ Minh ................................................................................................... 11
1.1. C¬ së h×nh thµnh t- t- ëng Hå ChÝ Minh vÒ ®oµn kÕt t«n gi¸o ............. 11
1.1.1. C¬ së lý luËn .................................................................................. 11
1.1.2. C¬ së thùc tiÔn ............................................................................... 21
1.2. Quan ®iÓm vÒ ®oµn kÕt t«n gi¸o trong t- t- ëng Hå ChÝ Minh ............. 25
1.2.1. §oµn kÕt ®ång bµo theo t«n gi¸o vµ ®ång bµo kh«ng theo t«n gi¸o . 26
1.2.2. §oµn kÕt ®ång bµo theo c¸c t«n gi¸o kh¸c nhau ........................... 30
1.3. Mét sè nguyªn t¾c vµ ph- ¬ng ph¸p vÒ ®oµn kÕt t«n gi¸o trong t- t- ëng
Hå ChÝ Minh ................................................................................................ 34
1.3.1. Mét sè nguyªn t¾c vÒ ®oµn kÕt t«n gi¸o trong t- t- ëng Hå ChÝ Minh .. 34
1.3.2. Mét sè ph- ¬ng ph¸p vÒ ®oµn kÕt t«n gi¸o trong t- t- ëng Hå ChÝ
Minh ........................................................................................................ 39
Ch ¬ng 2: vËn dông t t ëng Hå chÝ minh vÒ x©y dùng khèi ®oµn
kÕt t«n gi¸o ë tØnh th¸i b×nh tõ 1986 ®Õn nay ....................................... 50
2.1. Kh¸i qu¸t ®iÒu kiÖn tù nhiªn, kinh tÕ, chÝnh trÞ - x· héi, v¨n ho¸, t«n
gi¸o ë tØnh Th¸i B×nh ................................................................................... 50
2.1.1. Vµi nÐt vÒ ®iÒu kiÖn tù nhiªn, kinh tÕ, chÝnh trÞ - x· héi, v¨n ho¸ .... 50
2.1.2. S¬ l- îc t×nh h×nh t«n gi¸o vµ ®oµn kÕt t«n gi¸o ë tØnh Th¸i B×nh
tr- íc n¨m 1986 ........................................................................................ 53
2.2. Qu¸ tr×nh x©y dùng khèi ®oµn kÕt t«n gi¸o vËn dông t- t- ëng Hå ChÝ
Minh ë tØnh Th¸i B×nh tõ n¨m 1986 ®Õn nay .............................................. 60
2.2.1. C«ng cuéc ®æi míi vµ nh÷ng vÊn ®Ò cÊp b¸ch ®Æt ra trong viÖc x©y
dùng khèi ®oµn kÕt t«n gi¸o ë tØnh Th¸i B×nh ......................................... 60
102

2.2.2. Nh÷ng chñ tr- ¬ng, nghÞ quyÕt, chÝnh s¸ch vµ gi¶i ph¸p cña §¶ng
bé, UBND, MÆt trËn Tæ quèc, Ban t«n gi¸o tØnh Th¸i B×nh vÒ x©y dùng
khèi ®oµn kÕt t«n gi¸o tõ n¨m 1986 ®Õn nay .......................................... 62
2.2.3. Nh÷ng thµnh tùu vµ h¹n chÕ trong viÖc triÓn khai x©y dùng khèi
®¹i ®oµn kÕt t«n gi¸o ë Th¸i B×nh qua h¬n 20 n¨m ®æi míi ................... 73
2.3. Mét sè bµi häc kinh nghiÖm vµ kiÕn nghÞ vÒ x©y dùng khèi ®oµn kÕt
t«n gi¸o ë tØnh Th¸i B×nh. ............................................................................ 88
2.3.1. Mét sè bµi häc kinh nghiÖm.......................................................... 88
2.3.2. Mét sè kiÕn nghÞ............................................................................ 92
KÕt luËn ......................................................................................................................... 94
Danh môc tµi liÖu tham kh¶o.......................................................................... 96

Phô lôc
103

PHỤ LỤC

Bảng thống kê tên các tôn giáo được Nhà nước công nhận
đang hoạt động trên địa bàn tỉnh Thái Bình.

Tên tôn giáo Số lƣợng tín đồ Cơ sở thờ tự Chức sắc

Phật giáo 148.540 846 393

Công giáo 98.900 325 56

Tin lành 250 1 1

(Theo thống kê của Ban tôn giáo tỉnh năm 2008).


104

Bảng thống kê những tạp giáo hoạt động trái pháp luật trên địa bàn tỉnh Thái Bình.

Thanh Ngọc Long Tràng Thiên Võ đạo


Stt Huyện Thiên hải vô phật Hồ hoa di giải tiên đại phật tổ
cơ thƣợng Chí lặc thoát đạo nhƣ lai
sƣ Minh

T. phố Số tín Số tín Số tín Số tín Số tín Số tín Số tín


đồ đồ đồ đồ đồ đồ đồ

1 Thái Thuỵ 870 3 30 50

2 Hƣng Hà 10 73

3 Đông Hƣng 45 3 44

4 Quỳnh Phụ 10 20 50

5 Kiến Xƣơng 5 14 28 60

6 Tiền Hải 30 2 2 70 50

7 Vũ Thƣ 5

8 Thành phố 2

Cộng 970 97 129 120 50 60 50

(Theo thống kê Ban tôn giáo tỉnh năm 2008)


105

Bảng thống kê tình hình hoạt động Mê tín dị đoan trái pháp luật
trên địa bàn tỉnh Thái Bình.

Huyện Số ngƣời hoạt động Mê tín dị đoan Số điện thờ


Stt
Thành phố Thầy cúng Thầy bói

1 Thái Thuỵ 42 11 5

2 Hƣng Hà 80 30 27

3 Đông Hƣng 160 42 11

4 Quỳnh Phụ 112 29 23

5 Kiến Xƣơng 126 32 114

6 Tiền Hải 34 27 32

7 Vũ Thƣ 76 31 7

8 Thành phố 50 25 35

Tổng 680 227 254

(Theo thống kê Ban tôn giáo tỉnh năm 2008)

You might also like