Professional Documents
Culture Documents
MBA-TRIẾT HỌC MÁC LÊNIN
MBA-TRIẾT HỌC MÁC LÊNIN
com
TRIẾT HỌC
3
MBA023A – Tô Vĩnh Hải Trang trang.tovinhhai@gmail.com
- Nghiên cứu di sản lý luận và cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh chúng ta
thấy rõ những tư tưởng triết học sâu sắc.
- Thế giới quan Hồ Chí Minh là thế giới quan khoa học. Trong đó, thế giới quan triết học
Mác-Lênin đóng vai trò quyết định bản chất khoa học, cách mạng trong thế giới quan triết
học của Người.
- Tính khoa học, cách mạng, nhân văn trong triết học Mác – Lênin định hướng con đường
cứu nước, giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa, cộng
sản chủ nghĩa của Hồ Chí Minh.
- Hồ Chí Minh đã vận dụng, phát triển triết học Mác – Lênin về phương pháp cách mạng, chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, đại đoàn kết dân tộc, nhà nước, đạo đức
cách mạng, …
- Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh đứng vững trên lập trường duy vật biện chứng, duy vật lịch
sử, lấy cái cốt lõi là giải phóng con người khỏi ách áp bức, bóc lột, bất công, đem lại cuộc
sống hoà bình, tự do, ấm no, hạnh phúc cho đồng bào làm mục đích hướng tới.
- Có thể nêu lên những cống hiến của Hồ Chí Minh trong việc phát triển triết học Mác-Lênin
là tư tưởng về giải phóng dân tộc; về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa Xã
Hội; về phương pháp cách mạng và nghệ thuật chỉ đạo cách mạng; về Đảng kiểu mới của
giai cấp công nhân Việt Nam; về nhà nước kiểu mới ở Việt Nam; về đại đoàn kết và mặt
trận thống nhất; về quân sự và xây dựng lực lượng vũ trang; khởi nghĩa vũ trang và chiến
tranh cách mạng; về đạo đức cách mạng…
- Trong thế giới quan triết học của HCM, vấn đề con người chiếm vị trí hết sức quan trọng.
Đặc trưng và phương pháp luận của tư tưởng triết học Hồ Chí Minh
- Có thể thấy tư tưởng triết học Hồ Chí Minh có một số đặc trưng sau:
● Trước hết, tư duy triết học HCM là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tính khoa học và tính
cách mạng, kiên định về lập trường, mềm dẻo về phương pháp nhận thức, hành động.
Sự kết hợp này vừa là đặc trưng tư duy triết học Hồ Chí Minh vừa là nguyên tắc chỉ
đạo Hồ Chí Minh nhận thức và hành động, thể hiện sự nhất quán trong tư tưởng triết
học của Người.
● Thứ hai, tư duy triết học HCM là tư duy độc lập, sáng tạo thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn, suy nghĩ và hành động, giữa lời nói và việc làm thể hiện sự hoàn chỉnh chu kỳ
vận động: Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực
tiễn.
● Thứ ba, tư duy triết học Hồ Chí Minh được thể hiện bằng ngôn ngữ trong sáng, giản dị,
phổ thông, dễ hiểu, dễ thâm nhập vào quần chúng. Có thể coi đây là đặc trưng đặc sắc,
độc đáo của tư duy triết học Hồ Chí Minh.
- Phương pháp luận Hồ Chí Minh là phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử.
Về thực chất, đó là phép biện chứng Hồ Chí Minh.
● Tư tưởng Hồ Chí Minh thuộc hệ tư tưởng Mác-Lênin. Tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ
là sự tiếp thu, vận dụng sáng tạo triết học Mác-Lênin mà còn có sự phát triển triết học
Mác-Lênin, nhất là một số vấn đề chủ nghĩa duy vật lịch sử. Nhờ đó Hồ Chí Minh đã
góp phần làm phong phú, giàu có thêm kho tàng lý luận Mác - Lênin nói chung, triết
học Mác-Lênin nói riêng.
4
MBA023A – Tô Vĩnh Hải Trang trang.tovinhhai@gmail.com
● Cùng với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh mà hạt nhân là thế giới quan,
phương pháp luận duy vật biện chứng luôn là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành
động của Đảng và nhân dân Việt Nam.
b. Sự vận dụng sáng tạo tư tưởng triết học Hồ Chí Minh của Đảng Cộng sản Việt Nam
trong thực tiễn cách mạng
Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân tiến hành đấu
tranh lâu dài giành độc lập, từng bước xây dựng chủ nghĩa xã hội. Mối quan hệ giữa tư tưởng
Hồ Chí Minh với thế giới quan và phương pháp luận khoa học, cách mạng của Đảng Cộng sản
Việt Nam là mối quan hệ thống nhất biện chứng.
Những quan điểm mới của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng và bảo vệ Tổ quốc từ sau Đại
hội VI (12/1986) cho đến nay là kết quả đổi mới tư duy, vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận
khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh hợp thành hệ thống lý luận và
phương pháp.
Những luận giải triết học của Đảng Cộng sản Việt Nam về chủ nghĩa xã hội, con đường đi lên
CNXH có nhiều chuyển biến mới. Đó là:
1) Chuyển từ chế độ sở hữu công hữu thuần nhất với kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể
là chủ yếu, sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước giữ
vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân;
2) Chuyển từ cơ chế quản lý tập trung, quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường hướng xã
hội chủ nghĩa;
3) Chuyển từ cơ cấu sản xuất thiên về coi trọng sản xuất nông nghiệp, thực hiện ba chương
trình kinh tế lớn: lương thực, thực phẩm; hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu;
4) Chuyển từ việc hợp tác chủ yếu với các nước xã hội chủ nghĩa sang chính sách mở cửa
rộng rãi, từ chỗ muốn làm bạn với các nước sang thế chủ động sẵn sàng làm bạn với các
nước, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển trên cơ sở của nguyên tắc độc lập, tự
chủ, bình đẳng, cùng có lợi;
5) Gắn liền chính sách kinh tế với chính sách xã hội, coi con người vừa là mục tiêu vừa là
động lực của sự phát triển xã hội theo hướng xã hội chủ nghĩa.
Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định rõ quan điểm: Nhân tố con người là nhân tố quyết định sự
thành công của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đồng thời xác định, cùng với
khoa học, công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục, đào tạo
là đầu tư cho phát triển; đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, trước hết là công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn.
Đảng Cộng sản Việt Nam thể hiện nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam qua quan
niệm: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh, do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực
lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn
diện; các dân tộc trong cộng đồng người Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ
nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế
giới ”. Đồng thời, Đảng nhấn mạnh rằng một số vấn đề trong Cương lĩnh còn phải tiếp tục
nghiên cứu, bổ sung, phát triển cùng với sự phát triển sau này của thực tiễn và tư duy lý luận.
5
MBA023A – Tô Vĩnh Hải Trang trang.tovinhhai@gmail.com
Chương 2. Bản thể luận (vật chất và ý thức)
1. Khái niệm “bản thể luận” và nội dung bản thể luận trong lịch sử triết học
a. Khái niệm “bản thể luận”
- Lý luận về sự tồn tại của đối tượng nghiên cứu nhằm trước hết trả lời cho những câu hỏi:
● Nó là gì ?
● Bản chất của nó là gì ?
- Với tư cách là “hệ thống tri thức chung nhất của con người về thế giới …”, tiếp cận ở góc độ
bản thể luận, triết học phải trả lời cho câu hỏi:
● Thế giới này là gì ?
● Bản chất của thế giới là gì ?
b. Một số nội dung về bản thể luận thời cổ đại
- Bản thể luận của Ấn Độ giáo
● Bản nguyên thế giới là “Linh hồn vũ trụ” (Brahman) - một lực lượng siêu tự nhiên, biểu
hiện ra hình thái của các thần và vạn vật.
● Ba thần tối cao của vũ trụ (Tam vị nhất thể - Trimurti) là: Thần Sáng tạo (Brahma), Thần
gìn giữ vũ trụ (Vishnu), Thần phá hoại và xây dựng lại (Shiva). Dưới “Tam vị nhất thể”
còn rất nhiều thần cai quản từng phần của vũ trụ.
- Bản thể luận của Phật giáo: Phật giáo phủ nhận sự sáng tạo thế giới, khẳng định tính tự thân
sinh thành, “vô thường”, “vô ngã” của vạn vật theo luật nhân – quả nhưng thừa nhận quan
điểm về “nghiệp”, về “luân hồi”.
- Bản thể luận của Kinh Dịch
● Những quan niệm khác nhau về bản nguyên của vũ trụ trong các học thuyết Triết học
Trung Quốc cổ đại nhìn chung là có nguồn gốc hoặc liên quan đến bản nguyên của vũ trụ
trong Kinh Dịch.
● Thái cực là bản nguyên của vũ trụ. Thái cực sinh Lưỡng nghi (Âm – Dương). Lưỡng nghi
sinh Tứ tượng (Thiếu âm, Thái âm, Thiếu dương, Thái dương). Tứ tượng sinh Bát quái
(Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài) – 8 dạng của mọi tồn tại trong vũ trụ.
- Bản thể luận của Democritus (460 TCN - 370 TCN): Bản nguyên của vũ trụ là nguyên tử và
chân không. Nguyên tử là phần tử nhỏ bé nhất, vĩnh cửu. Chân không là cái không có gì tồn
tại. Vạn vật đều do nguyên tử tạo thành và tồn tại trong chân không. “Nothing exists except
atoms and empty space; everything else is opinion” - DEMOCRITUS
- Bản thể luận của Plato (427 TCN - 347 TCN): Ý niệm – một dạng phi vật chất – là bản
nguyên của vũ trụ, là nguyên lý của mọi tồn tại. Thế giới ý niệm nằm ngoài thế giới vật chất.
Thế giới vật chất chỉ là bản sao của thế giới ý niệm.
c. Bản thể luận tiêu biểu trong triết học thời trung cổ
- Bản thể luận của Thomas Aquinas (1225-1274): Thượng đế là bản nguyên của vũ trụ.
Thượng đế là lực thúc đẩy cho mọi vận động, là hữu thể đầu tiên, nguyên nhân đầu tiên, là sự
hoàn mỹ nhất, có lý tính cao nhất của mọi tồn tại.
d. Một số bản thể luận tiêu biểu trong triết học thời cận đại
- Bản thể luận của Francis Bacon (1561-1626): Thế giới vật chất do các phân tử mang tính vật
chất tạo thành. Giới tự nhiên vận động theo quy luật. Con người có thể nhận thức được hình
thức và bản chất của giới tự nhiên.
- Bản thể luận của René Descartes (1596 – 1605): Nhà triết học nhị nguyên. Một mặt, về tự
nhiên, thừa nhận thực thể vật chất là duy nhất, cơ sở duy nhất của mọi tồn tại. Một mặt, quan
niệm thực thể tinh thần độc lập với vật chất. Ngoài ra còn thực thể thứ ba, tối cao, tồn tại
6
MBA023A – Tô Vĩnh Hải Trang trang.tovinhhai@gmail.com
không phụ thuộc vào bất cứ cái gì, đấy là Thượng đế.
đ. Bản thể luận của Hegel và Feuerbach trong triết học cổ điển Đức
- Bản thể luận của Friedrich Hegel (1770-1831): “Ý niệm tuyệt đối” là bản nguyên của vũ trụ,
“Ý niệm tuyệt đối” tha hóa thành giới tự nhiên, giới tự nhiên tha hóa để trở về với “Ý niệm
tuyệt đối”
- Bản thể luận của Ludwig Feuerbach (1804-1872): Bản nguyên của thế giới là vật chất. Thế
giới vật chất tự tồn tại khách quan. Ý thức chỉ có ở con người và chính ý thức sản sinh ra thần
thánh. Tình yêu có sức mạnh tuyệt đối trong việc giải quyết các vấn đề trong xã hội.
2. Nội dung bản thể luận của triết học Mác – Lênin
a. Nội dung cơ bản - Cách tiếp cận giải quyết vấn đề bản thể luận trong triết học Mác-
Lênin
- Triết học Mác – Lênin nhận thức sự tồn tại của thế giới như một chỉnh thể mà bản chất của
sự tồn tại này chính là vật chất. => Thế giới này là thế giới vật chất
- Triết học Mác – Lênin chứng minh bản chất của thế giới là vật chất, thế giới thống nhất ở
tính vật chất. Điều này thể hiện qua những điểm cơ bản:
● Thứ nhất, chỉ có một thế giới duy nhất và thống nhất là thế giới vật chất. Thế giới vật
chất tồn tại khách quan, có trước và độc lập với ý thức của con người.
● Thứ hai, mọi bộ phận của thế giới vật chất đều có mối liên hệ thống nhất với nhau, biểu
hiện ở chỗ: chúng hoặc là những dạng cụ thể của vật chất, hoặc do vật chất sinh ra và
chịu sự chi phối của các quy luật khách quan, phổ biến của thế giới vật chất.
● Thứ ba, thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô tận, vô hạn. Vật chất không được sinh ra,
không bị mất đi mà chỉ chuyển hóa từ dạng này sang dạng khác. Trong thế giới không có
gì khác ngoài những quá trình vật chất đang vận động và chuyển hóa lẫn nhau, là nguồn
gốc, là nguyên nhân và kết quả của nhau.
b. Quan điểm của Triết học Mác-Lênin về vật chất
- Định nghĩa vật chất của Lênin “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách
quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp
lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”
● Phạm trù: là khái niệm cơ bản không thể thiếu được trong ngành khoa học nào đó. Nó
phản ánh được đặc trưng chung nhất của một nhóm đối tượng.
○ Khái niệm là một hình thức của tư duy (nhận biết) nó phản ánh được đặc trưng chung
nhất của một nhóm đối tượng. Hay căn cứ vào đặc trưng chung nhất của một nhóm
đối tượng tạo nên khái niệm). VD: Mỹ thuật phải có khái niệm đẹp - xấu, đạo đức
phải có khái niệm thiện - ác…
● Thực tại khách quan: là tất cả những gì tồn tại bên ngoài ý thức, và không phụ thuộc vào
ý thức (của con người).
7
MBA023A – Tô Vĩnh Hải Trang trang.tovinhhai@gmail.com
8
MBA023A – Tô Vĩnh Hải Trang trang.tovinhhai@gmail.com
Trong triết học duy vật biện chứng, cùng với phạm trù vận động thì phạm trù không gian và
thời gian cũng là những phạm trù đặc trưng cho phương thức tồn tại của vật chất.
- Không gian:
● Phạm trù chỉ vị trí, quảng tính của các dạng vật chất.
● Không gian có 3 chiều: chiều cao, chiều rộng, chiều dài.
● Không gian là phương thức tồn tại của vật chất.
● Là phương thức tồn tại của vật chất nên ko gian tồn tại khách quan, vô tận, vô hạn.
- Thời gian: Phạm trù chỉ độ dài tồn tại của các dạng vật chất, độ dài diễn biến của quá trình.
● Thời gian có 1 chiều: Từ quá khứ đến tương lai.
● Thời gian là phương thức tồn tại của vật chất.
● Là phương thức tồn tại của vật chất nên thời gian tồn tại khách quan, không điểm
khởi đầu, không điểm kết thúc.
Không gian, thời gian và thời gian có những tính chất sau đây:
● Thứ nhất: tính khách quan
● Thứ hai: tính vĩnh cửu và vô tận
● Thứ ba: Tính ba chiều của không gian (dài - rộng - cao) và một chiều của thời gian (quá
khứ đến tương lai).
- Vận động, không gian, thời gian là những phương thức tồn tại của vật chất nên vật chất,
vận động, không gian, thời gian không tách khỏi nhau. “ Trong thế giới, không có gì ngoài
vật chất đang vận động và vật chất đang vận động không thể vận động ở đâu ngoài không
gian và thời gian”
d. Quan điểm của triết học Mác – Lênin về ý thức
- Khái niệm “ý thức”:
● Ý thức là toàn bộ đời sống tinh thần của con người.
● Ý thức là sự phản ánh sáng tạo thế giới khách quan vào bộ óc của con người và có sự
cải biến và sáng tạo.
● Ý thức là hình ảnh chủ quan về thế giới khách quan.
- Nguồn gốc của ý thức Ý thức có 2 nguồn gốc: Nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội.
● Nguồn gốc tự nhiên: Bộ não người thế giới khách quan tác động vào các giác quan gây
nên hiện tượng phản ánh.
○ Bộ não người:
■ Bộ não người là một dạng vật chất đặc biệt có tổ chức cao, phức tạp; là sản phẩm
quá trình phát triển lâu dài của vật chất
■ Ý thức là thuộc tính của bộ não, là kết quả hoạt động sinh lý thần kinh của bộ não
và phụ thuộc vào mức độ hoàn thiện bộ não
○ Phản ánh:
■ Các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan tác động vào các giác quan gây
nên hiện tượng phản ánh
■ Hiện tượng sự vật này khi nhận sự tác động của sự vật khác sẽ tác động ngược trở
lại sự vật đã tác động đến nó, đồng thời nó giữ lại ở nó một số dấu vết mang nội
dung của sự vật tác động đến nó.
● Nguồn gốc xã hội: Điều kiện quyết định cho sự ra đời của ý thức là những tiền đề,
nguồn gốc xã hội. Ý thức ra đời cùng với quá trình hình thành bộ óc người nhờ lao
động, ngôn ngữ và những quan hệ xã hội.
9
MBA023A – Tô Vĩnh Hải Trang trang.tovinhhai@gmail.com
○ Lao động:
■ Lao động là quá trình con người tác động vào giới tự nhiên làm thay đổi giới tự
nhiên cho phù hợp với nhu cầu sống của mình.
■ Lao động đã thay đổi cấu trúc cơ thể người, phát triển những bộ phận trực tiếp liên
quan đến quá trình ra đời của ý thức.
■ Từng bước, lao động đã tạo ra sự tiến hóa để con vật trở thành con người với đầy
đủ ya nghĩa của nó.
■ Lao động làm các sự vật, hiện tượng bộc lộ kết cấu, thuộc tính của mình. Bằng
hoạt động của các giác quan và não bộ, phản ánh năng động, sáng tạo từng bước
được hình thành, củng cố và phát triển.
○ Ngôn ngữ
■ Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu chứa đựng nội dung thông tin mà con người sử dụng
trong các quan hệ.
■ Ngôn ngữ ra đời do nhu cầu của lao động, cùng lao động.
■ Mối quan hệ giữa ngôn ngữ với ý thức là mối quan hệ biện chứng và song trùng.
● Tư duy bộc lộ qua ngôn ngữ
● Ngôn ngữ là cái vỏ vật chất của ý thức.
■ Vai trò của ngôn ngữ
● Lưu giữ, truyền đạt, tiếp nhận, phát triển thông tin.
● Tổng kết, đúc kết, khái quát thực tiễn.
● Nhận thức đối tượng một cách gián tiếp.
● Phát triển năng lực tư duy.
● V.v.
- Bản chất của ý thức: là sự phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc người một cách năng
động, sáng tạo.
● Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách quan vào bộ não của con
người – ý thức là hình ảnh chủ quan về thế giới khách quan.
● Tính năng động, sáng tạo của phản ánh
○ Khả năng tiếp nhận thông tin;
○ Khả năng xử lý thông tin để phát hiện ra ý nghĩa của nó;
○ Khả năng lưu giữ thông tin;
● Khả năng liên kết các thông tin cũ để tạo ra các thông tin mới; Nhấn mạnh tính chất
năng động, sáng tạo của hình thức phản ánh này, con người gọi nó là ý thức
● Kết cấu của ý thức: phức tạp, gồm nhiều thành tố quan hệ với nhau. Có thể phân tích
theo hai chiều:
○ Chiều ngang: gồm các yếu tố cấu thành như tri thức, tình cảm, niềm tin, lý trí, ý
chí… trong đó tri thức là nhân tố cốt lõi
○ Chiều dọc: gồm ý thức, tiềm thức, vô thức… và các yếu tố khác quy định tính
phong phú, phức tạp trong thế giới tinh thần và hoạt động tinh thần.
10
MBA023A – Tô Vĩnh Hải Trang trang.tovinhhai@gmail.com
đạo hoạt động cải tạo thế giới trong hiện thực theo nhu cầu của con người. Sự tác động trở
lại này diễn ra theo 2 hướng: Thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của thế giới vật chất.
Sự đối lập giữa vật chất và ý thức vừa có tính tuyệt đối, vừa có tính tương đối.
- Tính tuyệt đối thể hiện ở nhận thức luận: Vật chất và ý thức không đồng nhất.
- Tính tương đối thể hiện ở mối quan hệ giữa vật chất và ý thức: Ý thức có nguồn gốc là vật
chất, là thuộc tính của một dạng vật chất.
3. Mối quan hệ giữa khách quan và chủ quan
- Khách quan và chủ quan được xét trong mối quan hệ giữa hoàn cảnh hiện thực mà con người
sống với bản thân con người với tư cách là chủ thể đang thực hiện những hoạt động nhất
định, nhằm những mục tiêu nhất định.
● Phạm trù “khách quan” (yếu tố vật chất) dùng để chỉ tất cả những gì tồn tại không phụ
thuộc vào ý thức của chủ thể xác định, hợp thành hoàn cảnh hiện thực, thường xuyên tác
động đến việc xác định mục tiêu, nhiệm vụ và phương thức để chủ thể thực hiện nhiệm vụ
để đạt đến mục tiêu đó.
● Phạm trù “chủ quan” (yếu tố ý thức) dùng để chỉ tất cả những gì cấu thành phẩm chất và
năng lực của một chủ thể nhất định, phản ánh vai trò của chủ thể ấy đối với hoàn cảnh
hiện thực khách quan trong hoạt động nhận thức và cải tạo khách thể. Để xác định mục
tiêu, nhiệm vụ và lựa chọn phương thức thực hiện nhiệm vụ để đạt đến mục tiêu đó.
- Mối quan hệ biện chứng giữa khách quan & chủ quan
● Vai trò của khách quan: Khách quan & chủ quan là 2 mặt không tách rời nhau trong hoạt
động của chủ thể. Suy đến cùng khách quan bao giờ cũng là cơ sở, tiền đề, giữ vai trò
quyết định đối với chủ quan và quy định nội dung của chủ quan.
● Tuy vậy, trong khi khẳng định khách quan là nhân tố có vai trò quyết định, triết học Mác-
Lênin không những không phủ nhận mà còn đánh giá cao vai của trò tính năng động chủ
quan.
● Nói đến vai trò của nhân tố chủ quan là nói đến vai trò con người trong hoạt động cải biến
và thống trị thế giới của họ.
● Vai trò của chủ quan: Những yếu tố chủ quan – năng lực và phẩm chất của chủ thể - có
khả năng vận dụng các quy luật, các điều kiện và các khả năng khách quan khác trong hoạt
động nhận thức và thực tiễn để biến khả năng thành hiện thực nhằm thỏa mãn nhu cầu của
chủ thể - khi đó, cái khách quan đã được chủ quan hóa.
- Ý nghĩa phương pháp luận
1) Khách quan là yếu tố giữ vai trò quyết định nên trong nhận thức và thực tiễn con người phải
nắm vững một vấn đề có ý nghĩa phương pháp luận khoa học là Nguyên tắc khách quan. Phải
luôn tôn trọng khách quan, xuất phát từ thực tế khách quan; đồng thời phát huy tính năng động,
sáng tạo chủ quan trong nhận thức và thực tiễn.
Một số biểu hiện của tôn trọng nguyên tắc khách quan: Phải lấy thực tế khách quan làm cơ sở
cho mọi hoạt động, phải tôn trọng các quy luật khách quan, tôn trọng sự thật đồng thời phải
chống tư tưởng chủ quan, nóng vội; chống thái độ định kiến, giả dối, thiếu trung thực.
Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan.
Phải biết “khơi dậy trong nhân dân lòng yêu nước, ý chí quật cường, phát huy tài trí của người
Việt Nam (tính chủ quan).
2) Chủ quan là yếu tố vận dụng các quy luật, các điều kiện và các khả năng khách quan để biến
“xu hướng có thể” thành hiện thực nên phải phát huy tính năng động chủ quan.
11
MBA023A – Tô Vĩnh Hải Trang trang.tovinhhai@gmail.com
Một số biểu hiện của phát huy tính năng dộng chủ quan: Tôn trọng tri thức khoa học, làm chủ tri
thức khoa học, truyền bá tri thức khoa học vào quần chúng, vận dụng tri thức khoa học cho phù
hợp với từng hoàn cảnh lịch sử - cụ thể, rèn luyện quyết tâm, ý chí, nghị lực; đồng thời phải
chống tư tưởng thụ động, trông chờ,ỷ lại, bảo thủ, trì trệ.
Tôn trọng khách quan, phát huy tính năng động chủ quan là những yêu cầu có tính nguyên tắc
trong nhận thức và thực tiễn, góp phần để con người có thể đạt được kết quả tối ưu trong quá
trình cải tạo thế giới, thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
Một số biểu hiện của phát huy mặt tích cực của ý thức trong cuộc sống:
Con người phải tôn trọng tri thức khoa học → phải từng bước làm chủ tri thức khoa học → phải
có trách nhiệm truyền bá tri thức vào quần chúng để trở thành sức mạnh của cộng đồng → định
hướng cho cộng đồng hành động → định hướng cho cộng đồng hành động.
12
MBA023A – Tô Vĩnh Hải Trang trang.tovinhhai@gmail.com
Chương 3. Phép biện chứng
1. Khái niệm “biện chứng” và khái quát lịch sử phép biện chứng
13
MBA023A – Tô Vĩnh Hải Trang trang.tovinhhai@gmail.com
b. Những hình thức lịch sử của phép biện chứng
Phép biện chứng là học thuyết về các mối liên hệ, về sự vận động và phát triển. Học thuyết là
sản phẩm của nhận thức (con người nhận thức về các mối liên hệ, về sự vận động và phát triển
nhưng thế nào thì xây dựng học thuyết như thế đấy), tuy nhiên nhận thức không cố định mà biến
đổi theo thời gian, chính vì nhận thức của con người vận động biến đổi nên phép biện chứng tức
học thuyết về các mối liên hệ, về sự vận động và phát triển cũng biến đổi.
Căn cứ vào sự biến đổi đó, cho đến nay phép biện chứng thể hiện theo 3 hình thức lịch sử hay
còn gọi là hình thức cơ bản:
○ Phép biện chứng tự phát là các học thuyết về các mối liên hệ, về sự vận động và phát triển
nặng tính chất phác trong triết học thời ra đời ở thời kỳ cổ đại, với đặc trưng quan trọng nhất
là tính chất ngây thơ, chất phát.
■ Tiêu biểu cho phép biện chứng chất phác thời cổ đại ở phương Đông là thuyết Âm dương -
Ngũ hành ở Trung Quốc, được thể hiện trong tác phẩm thành văn tối cổ là Kinh Dịch.
■ Tiêu biểu cho phép biện chứng chất phác thời cổ đại ở phương Tây được thể hiện trong
triết học của Heraclitus ở Hy Lạp. Phép biện chứng của Heraclitus thể hiện rõ nét trong
quan niệm của ông về Logos – học thuyết về những quy luật chi phối “dòng chảy” không
ngưng nghỉ của vũ trụ.
○ Phép biện chứng duy tâm (xem thêm tại trang 106 SGK) là các học thuyết về các mối liên
hệ, về sự vận động phát triển của các nhà triết học duy tâm. Đỉnh cao của phép biện chứng
duy tâm được thể hiện trong triết học của Hegel vào thế kỷ XIX, đặc trưng quan trọng nhất là
tính chất duy tâm.
■ Mặc tiêu cực là tính chất duy tâm, thể hiện ở các nhà triết học duy tâm gồm Hegel quan
niệm rằng bản thân mối liên hệ, bản thân sự vận động và phát triển tồn tại trong thế giới
tinh thần trước, sau đó mới chuyển hoá thành các mối liên hệ, chuyển hoá thành sự vận
động và phát triển trong thế giới vật chất. Điều này phản ánh không đúng hiện thực.
■ Mặt tích cực thể hiện ở chỗ: mặc dù xuất phát từ “ý niệm” nhưng lần đầu tiên Hegel đã
nhận thức được toàn bộ giới tự nhiên, lịch sử và tinh thần trong một quá trình vận động,
phát triển không ngừng và thể hiện được quá trình ấy qua những nguyên lý, quy luật, phạm
trù… những nội dung cơ bản của phép biện chứng dưới dạng lý luận một cách chặt chẽ. Và
đó là tiền đề để ra đời hình thức lịch sử cao nhất của phép biện chứng đó là phép biện
chứng duy vật.
○ Phép biện chứng duy vật (Trang 109 SGK) là học thuyết về các mối liên hệ, về sự vận động
và phát triển do Marx và Engels xây dựng trên cơ sở kế thừa trực tiếp những nội dung hợp lý
trong phép biện chứng của Hegel; sau đó được Lênin bảo vệ và phát triển đầu thế kỷ XX.
Phép biện chứng này ra đời trên cơ sở kế thừa những nội dung hợp lý trong phép biện chứng
của Hegel.
○ Đặc trưng cơ bản của phép biện chứng duy vật
■ Phép biện chứng duy vật được xây dựng trên nền tảng của thế giới quan duy vật triệt để,
khoa học.
■ Phép biện chứng duy vật không chỉ giải thích các mối liên hệ, sự vận động, phát triển
mà nó còn là công cụ để nhận thức và cải tạo thế giới.
2. Những nội dung cơ bản của phép biện chứng duy vật:
Nội dung của phép biện chứng duy vật được khái quát thành 2 nguyên lý:
- Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
14
MBA023A – Tô Vĩnh Hải Trang trang.tovinhhai@gmail.com
- Nguyên lý về sự phát triển
=> Hai nguyên lý được cụ thể hóa qua các quy luật, phép biện chứng duy vật có 6 quy luật
không cơ bản (6 cặp phạm trù cơ bản) và 3 quy luật cơ bản
a. Hai nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật
- Nguyên lý là những tư tưởng mang tính chất nền tảng, định hướng trên nền tảng này thì các
vấn đề khác được xây dựng và giải quyết.
- Nguyên lý rất đơn giản và dễ hiểu.
i. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến (Trang 111 SGK): Không có sự vật, hiện tượng
nào tồn tại cô lập tách khỏi những sự vật, hiện tượng khác và luôn nằm trong những mối liên hệ
với nhau.
- Mối liên hệ: là khái niệm dùng để chỉ sự tác động qua lại lẫn nhau, ảnh hưởng nhau, ràng
buộc nhau, góp phần quy định sự tồn tại của nhau, chuyển hóa nhau của các sự vật, hiện
tượng.
- Tính chất của mối liên hệ: tính phổ biến, tính khách quan, tính đa dạng - phong phú.
● Tính khách quan: Các mối liên hệ tồn tại ngoài ý thức, không phụ thuộc vào ý thức của
con người.
● Tính phổ biến: Bất kỳ sự vật nào, hiện tượng nào cũng có mối liên hệ; ở đâu (về không
gian) cũng có mối liên hệ; lúc nào (về thời gian) cũng có mối liên hệ.
● Tính đa dạng, phong phú: sự vật khác nhau, không gian khác nhau, thời gian khác nhau
thì các mối liên hệ khác nhau.
- Ý nghĩa phương pháp luận:
● Thứ nhất, nếu các mối liên hệ có tính khách quan, tính phổ biến thì trong hoạt động của
mình, con người phải tôn trọng nguyên tắc toàn diện, đồng thời phải chống quan điểm
phiến diện.
Nguyên tắc toàn diện đòi hỏi: Khi nhận thức một đối tượng nào đó phải tìm hiểu tất cả
những mối liên hệ mà nó có, phải phân loại được các mối liên hệ đồng thời phải chống tư
tưởng phiến diện. Con người càng hiểu về mối liên hệ chi tiết bao nhiêu thì sai lầm nó
giảm bấy nhiêu.
● Thứ hai, nếu các mối liên hệ có tính đa dạng, phong phú thì trong hoạt động của mình,
con người phải tôn trọng nguyên tắc lịch sử – cụ thể, đồng thời phải chống tư tưởng qua
loa, hời hợt.
Nguyên tắc lịch sử - cụ thể đòi hỏi: Khi nhận thức một đối tượng nào đó phải đặt đối
tượng ấy vào đúng không gian, đúng thời gian và đúng mối liên hệ của nó đồng thời phải
chống tư tưởng qua loa, hời hợt.
ii. Nguyên lý về sự phát triển (Trang 115 SGK):
Mọi sự vật không ngừng vận động trong khuynh hướng chung là phát triển.
- Khái niệm “vận động” & “phát triển”:
● Vận động là khái niệm chỉ mọi sự biến đổi; đây là sự biến đổi chưa xác định chiều
hướng.
● Phát triển là quá trình vận động theo hướng từ trình độ thấp đến trình độ cao, từ chưa
hoàn thiện cho đến hoàn thiện.
- Tính chất của sự phát triển: tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng - phong phú.
- Ý nghĩa phương pháp luận
15
MBA023A – Tô Vĩnh Hải Trang trang.tovinhhai@gmail.com
● Nếu phát triển có tính khách quan, tính phổ biến, tính đa dạng phong phú thì trong cuộc
sống, con người phải tôn trọng nguyên tắc phát triển.
Nguyên tắc phát triển đòi hỏi: Khi nhận thức một đối tượng nào đó phải nhận thức đối
tượng đó ở trạng thái động nằm trong khuynh hướng chung là phát triển; phải tìm ra
nguồn gốc, cách thức, khunh hướng cụ thể của sự phát triển đó; đồng thời phải chống lại
tư tưởng bảo thủ, trì trệ.
● Những nguyên tắc phương pháp luận cơ bản của phép biện chứng duy vật và sự vận dụng
trong quá trình đổi mới ở VN
b. Các cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật (các quy luật không cơ bản)
Khái niệm “phạm trù” Phạm trù là những khái niệm cơ bản trong một ngành khoa học nào đó,
nó phản ánh những thuộc tính, những mối liên hệ chung nhất, những đặc trưng cơ bản nhất của
một lĩnh vực nhất định
i) Cái riêng - cái chung (Trang 124 SGK)
- Phạm trù “cái riêng” và “cái chung”
● Cái riêng là phạm trù dùng để chỉ một sư vật, một hiện tượng hay một quá trình nhất định.
● Cái chung là phạm trù dùng để chỉ những thành phần, những thuộc tính, v.v. tồn tại phổ
biến ở nhiều cái riêng (nhiều sư vật, hiện tượng hay nhiều quá trình riêng lẻ).
- Những tính chất cơ bản: Tính khách quan; Tính phổ biến; Tính đa dạng, phong phú
- Mối quan hệ biện chứng giữa cái riêng và cái chung
● Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu hiện mình.
● Cái riêng chỉ tồn tại trong mối quan hệ với cái chung.
● Cái riêng là cái toàn bộ so với cái chung, cái chung là cái bộ phận của cái riêng.
● Cái riêng phong phú hơn cái chung; cái chung bản chất hơn cái riêng.
- Cái đơn nhất, mối quan hệ giữa cái chung với cái đơn nhất
● Cái đơn nhất Cái đơn nhất là phạm trù dùng để chỉ những đặc trưng, tính chất, v.v. chỉ
tồn tại ở một sư vật, một hiện tượng hay một quá trình nhất định.
● Mối quan hệ giữa cái chung và cái đơn nhất Trong những điều kiện nhất định, cái chung
và cái đơn nhất có thể chuyển hóa cho nhau.
- Ý nghĩa phương pháp luận của việc nghiên cứu phạm trù cái riêng, cái chung, cái đơn
nhất
● Muốn nhận thức về cái chung phải xuất phát tư cái riêng.
● Phải vận dụng cái chung vào cái riêng cho phù hợp với từng hoàn cảnh cụ thể.
● Phải tạo những điều kiện cần thiết để cái chung và cái đơn nhất chuyển hóa nhau nếu nó
phù hợp với mục đích của con người.
ii) Nguyên nhân - kết quả (Trang 127 SGK)
- Phạm trù “nguyên nhân” và “kết quả”
● Nguyên nhân là phạm trù dùng để chỉ sư tác động lẫn nhau giữa các sư vật, hiện tượng
hay giữa các thành phần, yếu tố của sư vật, hiện tượng tạo ra những biến đổi nhất định.
● Kết quả là phạm trù dùng để chỉ những biến đổi do nguyên nhân tạo ra.
- Tính chất của nguyên nhân và kết quả: Tính khách quan; Tính phổ biến; Tính đa dạng,
phong phú.
16
MBA023A – Tô Vĩnh Hải Trang trang.tovinhhai@gmail.com
- Mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả
● Nguyên nhân nào cũng sinh ra kết quả, kết quả nào cũng có nguyên nhân sinh ra.
● Nguyên nhân có trước, kết quả có sau.
● Một nguyên nhân có thể sinh ra một hoặc nhiều kết quả.
● Một kết quả có thể do một hoặc nhiều nguyên nhân sinh ra.
● Trong những mối liên hệ nhất định, nguyên nhân và kết quả có thể chuyển hóa cho nhau.
- Ý nghĩa phương pháp luận của việc nghiên cứu cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả
● Vì mối liên hệ nguyên nhân và kết quả là mối liên hệ tất yếu nên muốn hiểu đúng, sâu sắc
kết quả phải tìm hiểu nguyên nhân đã sinh ra nó cũng như khi biết về nguyên nhân phải
tìm hiểu kết quả mà nguyên ấy sinh ra.
● Vì một nguyên nhân có thể sinh ra nhiều kết quả và một kết quả có thể do nhiều nguyên
nhân sinh ra nên phải triệt để tuân thủ quan điểm toàn diện, lịch sử – cụ thể trong hoạt
động nhận thức và thực tiễn.
iii) Tất nhiên - ngẫu nhiên (Trang 130 SGK)
- Phạm trù “tất nhiên” và “ngẫu nhiên”
● Tất nhiên là phạm trù dùng để chỉ những cái do nguyên nhân bên trong quyết định và
trong những điều kiện nhất định nó phải xảy ra như thế chự không thể khác được.
● Ngẫu nhiên là phạm trù dùng để chỉ những cái do nguyên nhân bên ngoài quyết định, do
đó nó có thể xuất hiện hoặc không xuất hiện, có thể xảy ra như thế này hoặc như thế
khác.
- Tính chất của tất nhiên và ngẫu nhiên: tính khách quan; tính phổ biến; tính đa dạng, phong
phú.
- Mối quan hệ biện chứng giữa tất nhiên và ngẫu nhiên
● Cái tất nhiên bao giờ cũng thể hiện mình thông qua rất nhiều cái ngẫu nhiên. + Ngẫu
nhiên là hình thức biểu hiện tất nhiên.
● Trong những mối liên hệ nhất định, tất nhiên và ngẫu nhiên có thể chuyển hóa cho nhau.
- Ý nghĩa phương pháp luận của việc nghiên cứu cặp phạm trù tất nhiên và ngẫu nhiên
● Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn phải lấy cái tất nhiên làm cơ sở .
● Muốn nhận thức được cái tất nhiên phải xuất phát từ những cái ngẫu nhiên.
● Cần tạo ra những điều kiện cần thiết để tất nhiên và ngẫu nhiên chuyển hóa nhau nếu nó
phù hợp với mục đích của con người.
iv) Nội dung - hình thức (Trang 134 SGK)
- Phạm trù “nội dung” và “hình thức”
● Nội dung là phạm trù dùng để chỉ sự tổng hợp tất cả những yếu tố, những quá trình tạo
nên sự vật, hiện tượng.
● Hình thức là phạm trù dùng để chỉ phương thức tồn tại và phát triển của sự vật, hiện
tượng; là hệ thống các mối liên hệ chứa đựng và biểu hiện nội dung.
- Tính chất của nội dung và hình thức: Tính khách quan; Tính phổ biến; Tính đa dạng, phong
phú.
- Mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức
● Không có một hình thức nào lại không chứa đựng nội dung và cũng không có nội dung
nào lại không tồn tại trong một hình thức nhất định.
17
MBA023A – Tô Vĩnh Hải Trang trang.tovinhhai@gmail.com
● Một nội dung có thể tồn tại trong nhiều hình thức, một hình thức có thể chứa đựng nhiều
nội dung.
● Nội dung quyết định hình thức song hình thức có thể tác động trở lại nội dung.
- Ý nghĩa phương pháp luận của việc nghiên cứu cặp phạm trù nội dung và hình thức
● Nội dung quyết định hình thức nên trong hoạt động nhận thức và thực tiễn phải lấy nội
dung làm cơ sở.
● Phải phát huy sự tác động tích cực của hình thức đối với nội dung trên cơ sở thay đổi
hình thức để hình thức phù hợp với nội dung hoặc tạo điều kiện để đảm bảo sự phù hợp
giữa hình thức và nội dung.
v) Bản chất - hiện tượng (Trang 136 SGK)
- Phạm trù “bản chất” và “hiện tượng”
● Bản chất là phạm trù dùng để chỉ tổng hợp tất cả những yếu tố, những mối liên hệ tất
nhiên, tương đối ổn định ở bên trong sự vật, hiện tượng, quy định sự vận động và phát
triển của sự vật hiện tượng đó.
● Hiện tượng là phạm trù dùng để chỉ những biểu hiện của bản chất.
- Tính chất của bản chất và hiện tượng: tính khách quan; tính phổ biến; tính đa dạng, phong
phú.
- Mối quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng
● Bản chất bộc lộ qua hiện tượng, hiện tượng là sự biểu hiện của bản chất.
● Một bản chất có thể bộc lộ qua nhiều hiện tượng, một hiện tượng có thể là sự biểu hiện
của nhiều bản chất.
● Bản chất là cái bên trong, sâu sắc; hiện tượng là cái bên ngoài, đa dạng, phong phú.
● Bản chất là cái tương đối ổn định, hiện tượng là cái thường xuyên biến đổi.
- Ý nghĩa phương pháp luận của việc nghiên cứu cặp phạm trù bản chất và hiện tượng
● Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn phải lấy bản chất làm cơ sở.
● Muốn nhận thức đúng bản chất phải nhận thức thông qua nhiều hiện tượng; phải xác định
được những mức độ khác nhau trong việc biểu hiện bản chất của hiện tượng.
vi) Khả năng - hiện thực (Trang 131 SGK)
- Phạm trù “khả năng” và “hiện thực”
● Khả năng là phạm trù dùng để chỉ những cái tồn tại nhưng đã có mầm mống, tiền đề của
cái mới và cái mới sẽ xuất hiện khi đủ những điều kiện cần thiết.
● Hiện thực là phạm trù dùng để chỉ cái đang tồn tại, đang hiện có.
- Tính chất của khả năng và hiện thực: tính khách quan; tính phổ biến; tính đa dạng, phong phú.
- Mối quan hệ biện chứng giữa khả năng và hiện thực:
● Hiện thực chứa đựng khả năng.
● Một dạng tồn tại của hiện thực có thể có nhiều khả năng.
● Trong những điều kiện nhất định, khả năng chuyển hóa thành hiện thực và hiện thực lại
chứa đựng những khả năngmới.
- Ý nghĩa phương pháp luận của việc nghiên cứu cặp phạm trù khả năng và hiện thực:
● Phải lấy hiện thực làm cơ sở để nhận thức và hành động; đồng thời phải nắm được tất cả
những khả năng tự hiện thực để có thể xây dựng chương trình hành động mang tính chiến
lược.
18
MBA023A – Tô Vĩnh Hải Trang trang.tovinhhai@gmail.com
● Phải phát huy tính năng động chủ quan để khả năng trở thành hiện thực nếu nó phù hợp
với mục đích của con người.
c. Các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật (trang 119 SGK).
- Khái niệm “quy luật”: Quy luật là khái niệm dùng để chỉ những mối liên hệ khách quan,
bản chất, tất nhiên, tương đối ổn định, được lặp đi lặp lại.
- Phân loại quy luật Tùy vào mục đích nghiên cứu, có thể phân quy luật thành nhiều loại
khác nhau.
● Phân theo phạm vi tác động của quy luật: quy luật riêng; quy luật chung; quy luật phổ
biến
● Phân theo lĩnh vực tác động của quy luật: quy luật tự nhiên; quy luật xã hội; quy luật tư duy.
i) Quy luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ngược lại
- Được gọi tắt là “Quy luật lượng – chất”;
- Là quy luật về cách thức của sự vận động và phát triển.
- Nội dung của quy luật: Mọi sự vật, hiện tượng đều có chất và lượng Chất tương đối ổn
định, lượng thường xuyên biến đổi. Lượng biến đổi đến một mức độ nhất định và trong
những điều kiện nhất định thì chất sẽ thay đổi. Khi đó sự vật, hiện tượng chuyển hoá. Sự
vật, hiện tượng mới ra đời có chất mới, lượng mới.
Lượng vẫn thường xuyên biến đổi, nhưng sự biến đổi của lượng mới khác sự biến đổi của
lượng cũ. Sự khác nhau này do chất quy định.
Như vậy, từ những thay đổi về lượng đã dẫn đến sự thay đổi về chất; và, từ những thay đổi
về chất lại đã dẫn đến sự thay đổi về lượng. Đây là cách thức của sự vận động và phát triển.
- Khái niệm “chất”: Chất là khái niệm dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự
vật, hiện tượng; là sự thống nhất hữu cơ các thuộc tính cấu thành nó, làm cho nó là nó, nó
phân biệt được với những cái khác.
- Khái niệm “lượng”: Lượng là khái niệm dùng để chỉ tính khách quan vốn có về số lượng
nhiều hay ít, quy mô lớn hay nhỏ, tốc độ nhanh hay chậm, trình độ cao hay thấp, v.v. của sự
vật, hiện tượng song lượng chưa là cơ sở để phân biệt sự vật, hiện tượng này với sự vật, hiện
tượng khác.
- Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng: Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng có chất
và lượng; trong đó chất tương đối ổn định, còn lượng thường xuyên biến đổi.
Lúc đầu, lượng biến đổi nhưng chất chưa thay đổi. Song, nếu lượng biến đổi đến một mức
độ nhất định và trong những điều kiện nhất định thì chất sẽ thay đổi. Khi đó, sự vật, hiện
tượng này sẽ chuyển hoá sang sự vật, hiện tượng khác. Lượng không thay đổi thì sẽ không
bao giờ có sự thay đổi về chất.
● Giới hạn mà lượng biến đổi nhưng chất chưa thay đổi gọi là “độ”.
● Nơi diễn ra sự thay đổi về chất gọi là “điểm nút”.
● Sự chuyển hoá từ chất cũ sang chất mới gọi là “bước nhảy”.
● Bước nhảy thể hiện đa dạng: nếu bước nhảy diễn ra cực nhanh gọi là bước nhảy đột
biến, bước nhảy diễn ra từ từ gọi là bước nhảy tiệm tiến, toàn thể hay cục bộ, liên tục
hay đứt đoạn, v.v.
19
MBA023A – Tô Vĩnh Hải Trang trang.tovinhhai@gmail.com
Sự thay đổi về chất làm sự vật, hiện tượng này chuyển hoá thành sự vật hiện tượng khác. Ở
sự vật, hiện tượng mới, lượng vẫn thường xuyên biến đổi nhưng sự biến đổi của lượng mới
khác sự biến đổi của lượng cũ cả về quy mô, tốc độ, chiều hướng, v.v. Sự khác nhau này do
chất mới quy định.
Như vậy: Từ những thay đổi về lượng đã dẫn đến sự thay đổi về chất; và, từ những thay đổi
về chất cũng đã dẫn đến sự thay đổi về lượng (và ngược lại). Đây chính là cách thức của sự
vận động và phát triển.
- Ý nghĩa phương pháp luận
● Vì từ những thay đổi về lượng mới dẫn đến sự thay đổi về chất nên muốn có sự thay đổi
về chất phải tự giác, tích cực tích luỹ về lượng.
● Vì lượng thay đổi đến điểm nút mới dẫn đến sự thay đổi về chất nên cần tránh nôn
nóng, tránh đốt cháy giai đoạn, tránh muốn có sự thay đổi về chất khi lượng chưa thay
đổi đến mức cần thiết.
● Vì điều kiện ảnh hưởng trực tiếp đến bước nhảy nên phải tạo ra hoặc xóa bỏ những điều
kiện cần thiết để bước nhảy được hay không được thực hiện.
ii) Quy luật thống nhất và đấu tranh về các mặt đối lập nguồn gốc của vận động và phát
triển.
- Được gọi tắt là “Quy luật mâu thuẫn”.
- Là quy luật về nguồn gốc của sự vận động và phát triển.
- Là “hạt nhân” của phép biện chứng duy vật.
- Nội dung của quy luật: Mỗi sự vật, hiện tượng là một thể thống nhất bao gồm những yếu
tố khác nhau, liên kết với nhau tạo thành; trong đó có những yếu tố vận động ngược chiều
nhau, gọi là những mặt đối lập 2 mặt đối lập tạo nên 1 mâu thuẫn.
Những mặt đối lập vừa thống nhất với nhau, vừa đấu tranh với nhau. Đấu tranh của các mặt
đối lập phát triển đến một mức độ nhất định thì mâu thuẫn được giải quyết. Khi đó sự vật,
hiện tượng chuyển hóa. Sự vật mới ra đời.
Sự vật mới tự có những mặt đối lập mới, những mâu thuẫn mới, những quá trình thống nhất
và đấu tranh mới của các mặt đối lập để đến một lúc nào đó mâu thuẫn lại được giải quyết,
sự vật lại chuyển hóa.
Như vậy, mâu thuẫn là nguồn gốc của sự vận động và phát triển.
- Khái niệm “Mặt đối lập” là khái niệm dùng để chỉ những mặt có khuynh hướng vận động
ngược chiều nhau nhưng là điều kiện, là tiền đề tồn tại của nhau.
- Khái niệm “Mâu thuẫn” là khái niệm dùng để chỉ mối liên hệ của 2 mặt đối lập
- Tính chất cơ bản: Tính khách quan; Tính phổ biến; Tính đa dạng phong phú.
- Thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập: Các mặt đối lập vừa thống nhất với nhau lại
vừa đấu tranh với nhau.
● Thống nhất của các mặt đối lập: các mặt đối lập cùng tồn tại ; các mặt đối lập ràng buộc
nhau.
● Đấu tranh của các mặt đối lập: Các mặt đối lập chuyển hóa nhau, phủ định nhau.
Đấu tranh của các mặt đối lập phát triển là mâu thuẫn càng trở nên sâu sắc.
Đấu tranh của các mặt đối lập phát triển đến một mức độ nhất định và trong những điều
kiện nhất định thì mâu thuẫn được giải quyết, khi đó sự vật, hiện tượng chuyển hóa.
20
MBA023A – Tô Vĩnh Hải Trang trang.tovinhhai@gmail.com
Sự vật mới ra đời tự nó lại có những mặt đối lập mới, những mâu thuẫn mới, những quá
trình thống nhất và đấu tranh mới của các mặt đối lập. Đấu tranh của các mặt đối lập lại
phát triển để đến một lúc nào đó mâu thuẫn lại được giải quyết, sự vật, lại chuyển hóa.
Như vậy, đấu tranh giữa các mật đối lập để giải quyết mâu thuẫn là nguồn gốc của sự
vận động và phát triển.
- Ý nghĩa phương pháp luận
● Vì mâu thuẫn là nguồn gốc của sự phát triển nên muốn có sự phát triển trước hết phải
tìm ra mâu thuẫn, phân loại mâu thuẫn và đánh giá đúng tầm quan trọng của từng mâu
thuẫn.
● Mâu thuẫn chỉ được giải quyết trong những điều kiện nhất định nên phải chủ động tạo
ra những điều kiện cần thiết để mâu thuẫn được giải quyết.
iii) Quy luật phủ định của phủ định: khuynh hướng của vận động, phát triển.
- Là quy luật về khuynh hướng của sự vận động và phát triển.
- Nội dung của quy luật: Vận động, phát triển không diễn ra theo đường thẳng mà là quá trình
quanh co, phức tạp được biểu diễn bằng hình xoáy ốc đi lên. Đây là quá trình phủ định của
phủ định; trong đó cái mới ra đời thay thế cái cũ và hết mỗi một chu kỳ sự vật, hiện tượng
lặp lại như cái ban đầu nhưng phát triển hơn.
- Khái niệm “phủ định”: “Phủ định” là khái niệm dùng đề chỉ sự thay thế trạng thái tồn tại
này bằng một trạng thái tồn tại khác trong quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện
tượng.
- Phân loại phủ định Phủ định có thể phân thành 2 loại:
● Phủ định sạch trơn là phủ định:
○ Do nguyên nhân bên ngoài gây nên.
○ Không có tính kế thừa nên không tạo được tiền đề cho sự phát triển.
● Phủ định biện chứng (Phủ định của phủ định – Phủ định cái phủ định):
○ Là phủ định của sự phát triển.
○ Có thể thấy phủ định biện chứng là phủ định của sự phát triển qua ví dụ sau: từ hạt
lúa, sau khi gieo lên thành cây con, sau quá trình trưởng thành trở thành cây lúa và
cho nhiều hạt lúa. Ví dụ trên cho thấy: Phủ định biện chứng – phủ định của sự phát
triển là phủ định: 1). Mang tính khách quan. 2). Do nguyên nhân bên trong, do năng
lực nội tại. 3). Thực hiện được tính kế thừa. 4). Có chu kỳ, có cái mới ra đời thay
thế cái cũ. 5). Có sự đào thải, sàng lọc.
- Ý nghĩa phương pháp luận
● Phải thấy vai trò quyết định của nguyên nhân bên trong để phát huy nội lực.
● Phải thấy tầm quan trọng của tính kế thừa để tự giác, tích cực, chọn lọc trong kế thừa.
● Phải có thái độ đúng đối với cái đang được khẳng định và cái mới.
● Phải thấy tính chất phức tạp của quá trình phát triển để không bi quan trước những khúc
quanh trong quá trình phát triển. …
3. Những nguyên tắc phương pháp luận cơ bản cho phép biện chứng duy vật và sự vận
dụng trong quá trình đổi mới ở Việt Nam.
(Xem thêm ở trang 153 - 159 SGK)
Mỗi nguyên lý, mỗi quy luật, mỗi cặp phạm trù của phép biện chứng duy vật đều cho ta rút ra
những ý nghĩa phương pháp luận cụ thể; song nhìn chung, phép biện chứng duy vật đòi hỏi;
Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, con người phải tôn trọng 3 nguyên tắc cơ bản:
- Nguyên tắc toàn diện
21
MBA023A – Tô Vĩnh Hải Trang trang.tovinhhai@gmail.com
- Nguyên tắc lịch sử - cụ thể;
- Nguyên tắc phát triển
Sự vận dụng các nguyên tắc phương pháp luận của phép biện chứng duy vật vào quá trình đổi
mới ở Việt Nam
- Vận dụng vào việc giải quyết các vấn đề phát triển kinh tế, chính trị và văn hóa, xã hội.
- Vận dụng vào việc nhận thức CNXH và con đường xây dựng CNXH ở Việt Nam.
- Vận dụng vào từng ngành nghề, từng hoạt động của mỗi người trong quá trình đổi mới.
22
MBA023A – Tô Vĩnh Hải Trang trang.tovinhhai@gmail.com
Chương 4. Nhận thức luận
I. Một số vấn đề nhận thức cơ bản của nhận thức luận
1. Khái niệm “nhận thức”, nguồn gốc, bản chất của nhận thức
- Khái niệm: Nhận thức là quá trình phản ánh sáng tạo thế giới khách quan vào bộ não con
người trên cơ sở thực tiễn nhằm tìm ra những tri thức mới về thế giới khách quan.
- Quan niệm về nhận thức trên cho thấy:
● Cơ sở của nhận thức là thực tiễn.
● Bản chất của nhận thức là quá trình phản ánh tích cực, tự giác và sáng tạo thế giới khách
quan vào bộ não người trên cơ sở thực tiễn.
● Mục đích trực tiếp của nhận thức là tri thức mới; mục đích cuối cùng của nhận thức là
phục vụ cho sự phát triển của thực tiễn.
2. Chủ thể nhận thức, khách thể nhận thức và đối tượng nhận thức
Hoạt động nhận thức bao giờ cũng diễn ra trong 3 đối tượng chủ thể nhận thức, khách thể nhận
thức và đối tượng nhận thức.
- Chủ thể nhận thức: Con người đang thực
hiện hoạt động nhận thức. Tri
thức
- Khách thể nhận thức: Một lĩnh vực vật
chất hoặc tinh thần mà chủ thể nhận thức nhận
hướng đến để nhận thức một bộ phận của thức
Lĩnh
nó. vực
- Đối tượng nhận thức: Một phần thuộc
khách thể nhận thức mà chủ thể nhận thức
trực tiếp hướng đến để nhận thức.
Chủ thể Đối Khách
nhận tượng thể nhận
thức nhận thức
thức
3. Biện chứng của quá trình nhận thức:
“Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn –
đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức thực tại khách quan”
23
MBA023A – Tô Vĩnh Hải Trang trang.tovinhhai@gmail.com
Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn
Khái niệm
Nhận thức cảm tính Nhận thức lý tính
Hình
Cảm giác Khái niệm thức
dẫn đến Vai trò
Tri giác Phán đoán
Biểu tượng Suy lý
tài liệu
- Giai đoạn đầu tiên, - Giai đoạn cao của quá
thấp nhất, trình nhận thức gián tiếp
- Nhận thức trực tiếp, - Phản ánh nội dung, bản
Đúng
mang tính chất thu nhận chất của đối tượng
tư liệu => xây dựng nên học
- Chỉ dừng lại ở bề ngoài thuyết, lý luận (định lý, Sai
nhận thức đối tượng định đề, học thuyết)
c. Mối quan hệ giữa nhận thức cảm tính và lý tính: hai giai đoạn nhận thức có mối quan hệ
mật thiết với nhau, thống nhất với nhau:
- Nhận thức lý tính phải dựa trên kết quả của nhận thức cảm tính.
- Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính thẩm thấu vào nhau, ranh giới giữa chúng chỉ là
tương đối.
- Cơ sở của mối quan hệ và sự thống nhất giữa nhận thức cảm tính và lý tính là thực tiễn.
+ Điều kiện để nhận thức cảm tính phát triển lên nhận thức lý tính là chủ thể nhận
thức phải có một năng lực tư duy nhất định; phải thâm nhập thực tiễn để thu thập
tư liệu; phải học tập, nghiên cứu, tổng kết, đúc kết có hiệu quả.
+ Kết quả của nhận thức lý tính phải đưa vào thực tiễn để thực tiễn kiểm tra kết luận
đó đúng hay sai.
+ Kết quả của nhận thức lý tính phải được vật chất hóa thông qua các hoạt động thực
tiễn của quần chúng.
- Sự lặp lại và phát triển vô hạn trong sự vận động của nhận thức:
Thực tiễn là cơ sở của nhận thức. Trên cơ sở thực tiễn, nhận thức đi từ trực quan sinh
động đến tư duy trừu tượng, và từ tư duy trừu tượng lại đến thực tiễn. Đây là quá trình
tuần hoàn lặp đi lặp lại vô cùng tận làm nhận thức ngày càng sâu sắc hơn, thúc đẩy sự
phát triển của hoạt động nhận thức và thực tiễn ngày càng mạnh mẽ hơn.
d. Chân lý:
- Chân lý là khái niệm dùng để chỉ những tri thức có nội dung phù hợp với thực tế khách
quan, đã được thực tiễn chứng minh, kiểm nghiệm.
- Các tính chất của chân lý: tính khách quan, tính cụ thể, tính tương đối, tính tuyệt đối
II. Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận với thực tiễn
Nhận thức luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng đòi hỏi con người phải tôn trọng nguyên tắc
thống nhất giữa lý luận với thực tiễn mà tư tưởng cơ bản của nó là: Lý luận và thực tiễn phải
gắn bó với nhau, trong đó, thực tiễn phải có lý luận dẫn đường, còn lý luận phải lấy thực tiễn
làm cơ sở, là động lực, là mục đích và là nơi kiểm tra mình đúng hay sai.
a. Kinh nghiệm:
- Khái niệm: kinh nghiệm là loại tri thức được hình thành từ quá trình con người thực hiện một
hoạt động nào đó hay quan sát một hiện tượng nào đó lặp đi lặp lại nhiều lần.
- Một số mặt tích cực, hạn chế của kinh nghiệm
+ Có thể hình thành ở nhiều đối tượng với những trình độ, tuổi tác, điều kiện sống, v.v. khác
nhau.
+ Có hiệu quả cao khi điều kiện không thay đổi.
● Chưa phản ánh được nội dung, bản chất của đối tượng nhận thức.
● Còn ít hoặc không còn tác dụng khi điều kiện thay đổi.
b. Lý luận
- Khái niệm: lý luận là hệ thống tri thức phản ánh những mối liên hệ bản chất, tất nhiên của đối
tượng; phản ánh những quy luật chi phối quá trình hình thành, phát sinh, phát triển và chuyển
hóa của đối tượng đó.
25
MBA023A – Tô Vĩnh Hải Trang trang.tovinhhai@gmail.com
- Điều kiện ra đời lý luận Con người:
+ Phải có một vốn kiến thức nhất định.
+ Phải có một năng lực tư duy nhất định.
+ Phải thâm nhập thực tiễn và tiến hành các hoạt động nghiên cứu, tổng kết, đúc kết thực tiễn
nghiêm túc.
- Đặc trưng của lý luận
+ Về nội dung: Lý luận phản ánh các mối liên hệ bản chất, tất nhiên, các quy luật chi phối sự
vận động của đối tượng.
+ Về hình thức: Lý luận thể hiện nội dung bằng các khái niệm, phạm trù, phán đoán.
+ Về tính chất: Lý luận có tính hệ thống, trừu tượng, khái quát cao.
- Một số mặt tích cực của lý luận
+ Tri thức lý luận là tri thức sâu sắc.
+ Từ tính sâu sắc trên nên tri thức lý luận:
● Giúp con người khả năng dự báo chính xác.
● Giúp con người thành công ngay khi hoạt động trong những điều kiện đã hoàn toàn thay
đổi.
● V.v.
- Vai trò của lý luận
Lý luận có vai trò định hướng, dẫn đường cho hoạt động của con người thông qua việc giúp con
người: Định hướng mục tiêu; xác định chiến lược, sách lược, đường lối, chủ trương, chính sách;
xác định lực lượng, phương pháp, biện pháp thực hiện; dự báo (thành quả, hậu quả, rủi ro, v.v.)
để con người chuẩn bị ứng phó; v.v.
- Một số mặt hạn chế của lý luận
+ Giữa lý luận và hiện thực bao giờ cũng có một khoảng cách.
+ Mặc dù lý luận có thể vượt trước hiện thực nhưng nó là kết quả phản ánh hiện thực nên lý
luận cũng có thể mang tính cách mạng, cũng có thể mang tính bảo thủ.
+ Ngay khi con người vừa xây dựng nên lý luận thì tự bản thân lý luận có thể đúng, có thể sai
nên lý luận phải được đưa vào thực tiễn để kiểm nghiệm.
2. Thực tiễn:
Lênin: “Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý
luận về nhận thức”.
- Khái niệm: Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất có mục đích, mang tính lịch sử -
xã hội của con người nhằm cải biến tự nhiên và xã hội.
● Hoạt động vật chất: Hoạt động vật chất là hoạt động con người sử dụng lực lượng vật
chất, công cụ vật chất tác động vào những đối tượng vật chất nhằm cải tạo chúng theo
nhu cầu của mình.
● Tính lịch sử - xã hội: mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau con người tiến hành hoạt động này
khác nhau. - Xã hội quy định mục đích, lực lượng, công cụ, v.v. của hoạt động.
● Nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội: mục đích của thực tiễn là chinh phục và cải biến tự
nhiên, xã hội để đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát triển của con người, xã hội loài người.
- Hình thức: Thực tiễn biểu hiện rất đa dạng với nhiều hình thức ngày càng phong phú, song
có ba hình thức cơ bản là: hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động chính trị xã hội và hoạt
động thực nghiệm khoa học.
26
MBA023A – Tô Vĩnh Hải Trang trang.tovinhhai@gmail.com
Ba hình thức trên có quan hệ biện chứng với nhau, trong đó hoạt động sản xuất vật chất là cơ
sở của sự tồn tại và phát triển của Xã hội.
c. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức nói chung, lý luận nói riêng:
Thực tiễn có vai trò to lớn đối với nhận thức nói chung, lý luận nói riêng, trong đó thực tiễn là
cơ sở của nhận thức, là động lực của nhận thức, là mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn để
kiểm tra chân lý.
● Thực tiễn là cơ sở của nhận thức nói chung, lý luận nói riêng
Vì hoạt động nhận thức, xây xây dựng lý luận được thực hiện trên nền tảng của thực tiễn. Quá
trình thực hiện các hoạt động thực tiễn là quá trình con người tích luỹ tri thức để xây dựng nên
lý luận.
● Thực tiễn là động lực của nhận thức nói chung, lý luận nói riêng
Thực tiễn thúc đẩy lý luận phát triển. Sở dĩ như vậy vì thực tiễn luôn đặt ra những vấn đề buộc
con người phải nhận thức để giải quyết. Quá trình giải quyết những vấn đề đó làm nhận thức, lý
luận ngày càng hoàn thiện.
● Thực tiễn là mục đích của nhận thức nói chung, lý luận nói riêng
Vì suy cho cùng mọi kết quả của nhận thức phải hướng đến qúa trình sản xuất vật chất, đến xây
dựng xã hội tốt đẹp hơn. Những mục đích đó đều trực tiếp hoặc gián tiếp gắn với thực tiễn.
● Thực tiễn là tiêu chuẩn của nhận thức nói chung, lý luận nói riêng
Mục đích của nhận thức, của lý luận là thực tiễn. Khi đưa kết quả của nhận thức (trong đó có lý
luận) vào thực tiễn thì thực tiễn là nơi kiểm nghiệm chúng có phản ánh đúng hiện thực không,
có đáp ứng được nhu cầu của thực tiễn không.
Những nội dung trên cho thấy: Giữa lý luận và thực tiễn có mối quan hệ biện chứng với nhau,
trong đó:
- Lý luận có vai trò dẫn đường cho thực tiễn;
- Thực tiễn là cơ sở của lý luận, là động lực của lý luận, là mục đích của lý luận và là nơi
kiểm tra lý luận đúng hay sai.
Điều ấy đòi hỏi trong cuộc sống con người phải tôn trọng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn.
3. Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
a. Nội dung của nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
Thực tiễn phải có lý luận dẫn đường còn lý luận phải xuất phát từ thực tiễn, phải lấy thực tiễn
làm cơ sở, là động lực, là mục đích và là nơi kiểm tra mình đúng hay sai.
b. Một số yêu cầu của nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn:
- Chống bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều.
- Lý luận phải xuất phát từ thực tiễn để nắm bắt bối cảnh, yêu cầu của thực tiễn.
- Lý luận phải phản ánh trung thực, phải phù hợp, phải không ngừng được bổ sung, phát triển
để giải quyết nhu cầu của thực tiễn.
- Lý luận phải được vận dụng vào thực tiễn, phải thâm nhập được vào quần chúng.
- Thực tiễn phải được lý luận khoa học dẫn đường.
4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
“ Thống nhất giữa lý luận với thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác-Lênin.
Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ
với thực tiễn là lý luận suông”.
- Kinh nghiệm tuy tốt nhưng chẳng qua chỉ là từng bộ phận mà thôi, chỉ thiên về một mặt mà
thôi. Có kinh nghiệm mà không có lý luận cũng như một mắt sáng, một mắt mờ.
27
MBA023A – Tô Vĩnh Hải Trang trang.tovinhhai@gmail.com
- Lý luận “như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho chúng ta trong công việc thực tế.
Không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi”.
- “Làm mà không có lý luận thì không khác gì đi mò trong đêm tối, vừa chậm chạp, vừa hay
vấp váp”.
- “Lý luận cũng như cái tên (hoặc viên đạn). Thực hành cũng như cái đích để bắn. Có tên mà
không bắn, hoặc bắn lung tung cũng như không có tên”.
- V.v.
5. Sự vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn ở Việt Nam
Sau năm 1975, do nhiều nguyên nhân, trong đó có có nguyên nhân Việt Nam mắc “bệnh chủ
quan, duy ý chí”, “giáo điều” nên sự phát triển của xã hội bị kìm hãm.
Thực hiện công cuộc đổi mới, bám sát thực tiễn ở trong nước và trên thế giới, Việt Nam đã từng
bước khắc phục được những căn bệnh trên, đã nhận thức đầy đủ hơn mô hình xã hội XHCN mà
nhân dân Việt Nam đang xây dựng, phát hiện ra những mối quan hệ cơ bản mà cách mạng Việt
Nam phải giải quyết, v.v. và đã đạt được nhiều thành tựu rất đáng khích lệ.
Tuy nhiên, nhìn chung, Việt Nam chưa đáp ứng được trình độ và phương pháp tư duy biện
chứng - yêu cầu rất cao về khoa học - nên hiệu quả tổng kết thực tiễn còn bị hạn chế, chưa đủ
khả năng xây dựng lý luận mới, chưa rũ bỏ hẳn được tư duy kinh nghiệm và thói quen kinh
nghiệm trong hoạt động ở những lĩnh vực khác nhau.
Điều này đòi hỏi mỗi người phải ý thức đầy đủ hơn trách nhiệm của mình trong việc học tập,
nghiên cứu, tham gia vào các hoạt động thực tiễn, tổng kết thực tiễn và tuân thủ nguyên tắc
thống nhất giữa lý luận và thực tiễn ./.
28
MBA023A – Tô Vĩnh Hải Trang trang.tovinhhai@gmail.com
Chương 5. Học thuyết hình thành kinh tế – xã hội
3. Biện chứng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
29
MBA023A – Tô Vĩnh Hải Trang trang.tovinhhai@gmail.com
i) Lực lượng sản xuất
- Là toàn bộ các yếu tố tham gia vào quá trình sản xuất, biểu hiện mối quan hệ giữa người với
giới tự nhiên trong quá trình sản xuất.
b. Quy luật của quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất biểu hiện qua Quy luật của quan hệ
sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, là cách sở hữu tư liệu sản xuất,
cách quản lý và phân công lao động, cách phân phối sản xuất phải phù hợp với trình độ của lực
lượng sản xuất.
Trình độ của lực lượng sản xuất được xét ở sức khỏe và trí tuệ của người lao động, hàm lượng
khoa học trong công cụ lao động và phương tiện lao động và tính hợp lý trong khai thác đối
tượng lao động.
Tóm tắt nội dung quy luật.
Trình độ của lực lượng sản xuất thường xuyên phát triển; lực lượng sản xuất phát triển đến một
mức độ nhất định thì quan hệ sản xuất phải thay đổi cho phù hợp với trình độ mới của lực lượng
sản xuất. Khi đó, phương thức sản xuất mới ra đời. Trong toàn bộ quá trình này, nếu quan hệ
sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất thì nó sẽ thúc đẩy lực lượng sản xuất phát
triển, sản xuất phát triển, xã hội phát triển; nếu không, nó sẽ kìm hãm toàn bộ sự phát triển ấy.
Nội dung trên thể hiện:
- Trình độ của lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất:
● Trình độ của lực lượng sản xuất thế nào sẽ tạo ra một quan hệ sản xuất tương ứng.
● Trình độ của lực lượng sản xuất luôn phát triển nhưng khi nó phát triển đến một mức độ
nhất định thì quan hệ sản xuất phải thay đổi cho phù hợp với trình độ mới của lực lượng
sản xuất.
- Quan hệ sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất
● Nếu quan hệ sản xuất phù hợp lực lượng sản xuất sẽ thúc đẩy lực lượng sản xuất phát
triển, sản xuất phát triển, xã hội phát triển.
31
MBA023A – Tô Vĩnh Hải Trang trang.tovinhhai@gmail.com
● Nếu quan hệ sản xuất không phù hợp lực lượng sản xuất sẽ kìm hãm sự phát triển của lực
lượng sản xuất, kìm hãm sản xuất, kìm hãm sự phát triển của xã hội.
c. Ý nghĩa phương pháp luận của việc nghiên cứu quy luật về lực lượng sản xuất – quan hệ
sản xuất
Để sản xuất phát triển, xã hội phát triển:
- Phải đầu tư vào sự phát triển của lực lượng sản xuất; trong đó, trước hết và quan trọng nhất
phải đầu tư vào sự phát triển của người lao động và công cụ lao động.
- Phải từng bước hoàn thiện tất cả các quan hệ của quan hệ sản xuất (đặc biệt là quan hệ sở
hữu tư liệu sản xuất) để quan hệ sản xuất có thể tác động tích cực trở lại lực lượng sản xuất)
4. Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
a. Khái niệm “Cơ sở hạ tầng” và “Kiến trúc thượng tầng”
i) Cơ sở hạ tầng
Là toàn bộ những quan hệ sản xuất tạo nên kết cấu kinh tế xã hội.
Những quan hệ sản xuất bao gồm:
- Quan hệ sản xuất thống trị
- Quan hệ sản xuất tàn dư
- Quan hệ sản xuất mầm mống.
Mỗi loại quan hệ sản xuất gồm 3 yếu tố: quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất, quan hệ quản lý và
phân công lao động, quan hệ phân phối sản phẩm.
Trong 3 loại quan hệ sản xuất này, quan hệ sản xuất thống trị giữ vai trò thống trị. Nó chi
phối 2 loại quan hệ sản xuất còn lại.
33
MBA023A – Tô Vĩnh Hải Trang trang.tovinhhai@gmail.com
KTTTA
KCKT = CSHT A
HT KT - XH A -------------
LLS A QHS
- - -A
XH A X
LLSX : X
A
động
LLSX QHS
A A
- X
- - - - ----B ---------------–
B
---- A KTT
CSHT T A
B B
HT KT - XH
- - - - - - - -A
-------
\ XH B
----- A
B
Lực lượng sản xuất là yếu tố thường xuyên phát triển nhưng khi nó phát triển đến một mức độ
nhất định thì quan hệ sản xuất phải thay đổi theo.
Quan hệ sản xuất thay đổi sẽ làm cơ sở hạ tầng thay đổi.
Cơ sở hạ tầng thay đổi thì sẽ dẫn đến sự thay đổi của kiến trúc thượng tầng.
Đến đây, tất cả các yếu tố tạo nên một hình thái kinh tế - xã hội đã thay đổi. Hình thái kinh tế xã
hội này chuyển sang một hình thái kinh tế - xã hội khác cao hơn, xã hội này chuyển sang xã hội
khác phát triển hơn.
6. Ý nghĩa phương pháp luận của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội
- Xã hội là một chỉnh thể có cấu trúc phức tạp, các lĩnh vực của xã hội có vị trí, vai trò
khác nhau song có mối quan hệ mật thiết với nhau, trong đó sản xuất vật chất là cơ sở tồn
tại và phát triển của xã hội; phương thức sản xuất giữ vai trò quyết định đối với toàn bộ
đời sống xã hội.
- Sự phát triển của các Hình thái kinh tế - xã hội (cũng là sự phát triển của xã hội) là quá
trình lịch sử – tự nhiên; tức là sự phát triển này không tuân theo ý muốn chủ quan của
con người mà tuân theo những quy luật khách quan, trong đó, trước hết và quan trọng
nhất là quy luật về lực lượng sản xuất – quan hệ sản xuất, quy luật về cơ sở hạ tầng –
kiến trúc thượng tầng.
- Đối với nhận thức và thực tiễn
● Đối với nhận thức: muốn rút ra những kết luận về đời sống xã hội không được xuất
phát từ ý tưởng chủ quan của mình mà phải xuất phát từ hiện thực khách quan, phải
tìm nguồn gốc sâu xa của các hiện tượng xã hội từ đời sống vật chất, từ quá trình sản
xuất vật chất.
● Đối với thực tiễn
○ Để cải tạo xã hội phải tiến hành cải tạo đồng bộ cả lực lượng sản xuất, quan hệ sản
xuất và kiến trúc thượng tầng.
○ Để xã hội phát triển thì trước hết phải đầu tư vào sự phát triển của lực lượng quan
trọng nhất là phải đầu tư vào người lao động và công cụ lao động. Đồng thời phải
từng bước hoàn thiện các quan hệ của quan hệ sản xuất và hoàn thiện các yếu tố
của kiến trúc thượng tầng.
34
MBA023A – Tô Vĩnh Hải Trang trang.tovinhhai@gmail.com
7. Nhận thức về Chủ nghĩa Xã hội & thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam
35
MBA023A – Tô Vĩnh Hải Trang trang.tovinhhai@gmail.com
Vật chất Ý thức
tồn tại khách quan phản ánh sáng tạo
thế giới khách quan
XÃ HỘI
b. Ý thức xã hội
- Khái niệm “ý thức xã hội”
● Ý thức xã hội là khái niệm dùng để chỉ đời sống tinh thần của xã hội.
● Ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội được thể hiện qua tâm tư, tình cảm, nguyện vọng,
phong tục, tập quán, tín ngưỡng, v.v. của đời sống xã hội.
- Tính chất của ý thức xã hội
Ý thức xã hội có nhiều tính chất, trước hết là tính giai cấp, tính dân tộc, tính vùng, tính nhân loại
phổ biến.
● Tính giai cấp của ý thức xã hội phản ánh đặc trưng đời sống tinh thần của mỗi giai cấp và lợi
ích của giai cấp mà cộng hướng đến để phục vụ. Trong xã hội có giai cấp, ý thức của các giai
cấp có sự thâm nhập nhau, ảnh hưởng nhau nhưng ý thức của giai cấp thống trị luôn giữ vai
trò thống trị.
● Tính vùng, tính dân tộc của ý thức xã hội phản ánh đặc trưng đời sống tinh thần của mỗi
vùng, mỗi dân tộc trong mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể.
36
MBA023A – Tô Vĩnh Hải Trang trang.tovinhhai@gmail.com
● Tính nhân loại phổ biến của ý thức xã hội phản ánh những đặc trưng chung về đời sống tinh
thần của nhân loại.
- Cấp độ phản ánh của ý thức xã hội
Trong quá trình phát triển, ý thức xã hội thể hiện qua nhiều cấp độ khác nhau nhưng có thể khái
quát thành 2 cấp độ, thể hiện 2 trình độ phản ánh cơ bản của ý thức xã hội: Tâm lý xã hội & hệ
tư tưởng
● Tâm lý xã hội:
○ Trình độ thấp của đời sống tinh thần xã hội.
○ Tâm lý xã hội thể hiện qua tâm tư, tình cảm, nguyện vọng, phong tục, tập quán, thói quen,
v.v. của con người; là kết quả sự phản ánh trực tiếp, tự phát những biểu hiện bề ngoài của
tồn tại xã hội thông qua điều kiện sống hàng ngày của những cộng đồng người. Tâm lý xã
hội chưa phản ánh được rõ ràng, sâu sắc bản chất các quan hệ xã hội.
● Hệ tư tưởng xã hội
○ Trình độ cao của đời sống tinh thần xã hội.
○ Hệ tư tưởng xã hội thể hiện qua hệ thống các quan điểm được khái quát thành các học
thuyết, lý luận; là kết quả sự phản ánh tồn tại xã hội gián tiếp, tự giác; kết quả nghiên cứu,
tổng kết, đúc kết kinh nghiệm, tổng kết thực tiễn của một số người và đã thâm nhập vào
cộng đồng người.
○ Tính chất khoa học hay không khoa học của hệ tư tưởng phụ thuộc vào nhiều yếu tố như:
Năng lực nhận thức; năng lực hệ thống hóa, khái quát hóa; địa vị xã hội, lợi ích giai cấp,
v.v. của những người xây dựng và của cộng đồng tiếp nhận hệ tư tưởng.
38
MBA023A – Tô Vĩnh Hải Trang trang.tovinhhai@gmail.com
- Thứ nhất, ý thức xã hội thường lạc hậu hơn tồn tại xã hội.
● Tính lạc hậu của ý thức xã hội biểu hiện:
● Ý thức xã hội biến đổi không kịp so với sự biến đổi của tồn tại xã hội. Tồn tại xã hội đã biến
đổi rồi nhưng ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội cũ vẫn tồn đọng trong cuộc sống một
thời gian nhất định.
● Một trong những nguyên nhân dẫn đến tính lạc hậu này là do sức mạnh thói quen, tập quán
của những cộng đồng người.
- Thứ hai, ý thức xã hội có thể tiên tiến hơn tồn tại xã hội
● Tính tiên tiến của ý thức xã hội là sự vượt trước của ý thức xã hội so với tồn tại xã hội. Điều
này biểu hiện: Ý thức xã hội có thể dự báo được tương lai của tồn tại xã hội.
● Tính vượt trước của ý thức xã hội bắt nguồn từ sự hiểu biết về các quy luật vận động của tồn
tại xã hội.
- Thứ ba, ý thức xã hội có tính kế thừa: tính kế thừa của ý thức xã hội thể hiện:
● Các cộng đồng người tiếp thu một số yếu tố thuộc đời sống tinh thần của những thế hệ trước
hoặc của những cộng đồng người khác trong quá trình giao lưu giữa các cộng đồng.
● Tính kế thừa của ý thức xã hội cho thấy, đời sống tinh thần của một cộng đồng vừa là sự
phản ánh tồn tại xã hội đương thời của cộng đồng đó, vừa là kết quả kế thừa những yếu tố
tinh thần của quá khứ và của những cộng đồng người khác.
● Điều này làm sự tồn tại và vận động của ý thức xã hội không hoàn toàn phụ thuộc vào tồn
tại xã hội mà có tính độc lập tương đối của nó.
- Thứ tư, ý thức xã hội có tính tương tác giữa các yếu tố cấu thành nó.
● Tính tương tác giữa các yếu tố cấu thành ý thức xã hội thể hiện ở sự thâm nhập vào nhau,
ảnh hưởng nhau giữa tâm lý xã hội và hệ tư tưởng; giữa hình thái ý thức xã hội này với các
hình thái ý thức xã hội khác.
● Tính tương tác của ý thức xã hội cho thấy, đời sống tinh thần của một cộng đồng vừa là sản
phẩm của phản ánh tồn tại xã hội, của tính kế thừa, vừa là sản phẩm của sự tác động qua lại
lẫn nhau giữa các yếu tố cấu thành nó.
● Điều này làm sự tồn tại và vận động của ý thức xã hội không hoàn toàn phụ thuộc vào tồn
tại xã hội mà có tính độc lập tương đối của mình.
- Thứ năm, ý thức xã hội có thể tác động trở lại tồn tại xã hội thông qua hoạt động của con người
● Tự bản thân ý thức xã hội không làm thay đổi được tồn tại xã hội nhưng ý thức xã hội chỉ
đạo hành động của con người; bằng hành động của mình, con người làm thay đổi tồn tại XH
● Tùy vào tính khoa học, tính cách mạng, tính nhân văn và những tính chất khác của ý thức xã
hội mà ý thức xã hội có thể tác động trở lại tồn tại xã hội theo 2 hướng: Hoặc thúc đẩy, hoặc
kìm hãm sự phát triển của tồn tại xã hội
3. Xây dựng nền tảng văn hóa tinh thần trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam hiện nay
Cách mạng XHCN là cuộc cách mạng phải tiến hành đồng bộ nhiều nhiệm vụ trên tất cả các lĩnh
vực của đời sống, trong đó thực hiện công tác tư tưởng văn hóa nhằm tạo lập nền tảng tinh thần
cho xã hội luôn phải đi trước mở đường.
a. Đặc trưng của nền tảng tinh thần của xã hội Việt nam hiện nay
Đời sống tinh thần của xã hội Việt Nam mang đặc trưng của ý thức hệ xã hội chủ nghĩa, trên nền
tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, có nội dung cơ bản là ý thức hệ của giai cấp
công nhân được thể hiện trong các quan điểm về chính trị và pháp quyền của Đảng Cộng sản Việt
39
MBA023A – Tô Vĩnh Hải Trang trang.tovinhhai@gmail.com
Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
b. Tư tưởng chủ đạo và những nhiệm vụ cơ bản trong tiến trình xây dựng nền tảng tinh thần
của Việt Nam
- Tư tưởng chủ đạo: Thực hiện nhiệm vụ xây dựng, phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh
thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời
sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của sự phát
triển.
- Nhiệm vụ cơ bản:
● Thứ nhất, kế thừa và phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc
Việt Nam, tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại.
● Thứ hai, xây dựng và phát triển con người xã hội chủ nghĩa.
● Thứ ba, phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ đáp ứng nhu cầu bảo vệ và xây
dựng đất nước.
● Thứ tư, thực hiện chính sách công bằng xã hội, xây dựng xã hội văn minh và đoàn kết các dân
tộc, tôn trọng tự do tín ngưỡng của nhân dân.
- Để đảm bảo thành công sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, hiện nay cách mạng Việt Nam phải
thực hiện thành công các nhiệm vụ trên 3 lĩnh vực cơ bản: Phát triển kinh tế, hoàn thiện hệ thống
chính trị, xây dựng và phát triển nền văn hóa xã hội chủ nghĩa; trong đó xây dựng và phát triển
nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là xác lập nền tảng tinh thần của xã hội, là điều kiện tất yếu để thực
hiện các nhiệm vụ khác trong giai đoạn hiện nay./.
40
MBA023A – Tô Vĩnh Hải Trang trang.tovinhhai@gmail.com
Chương 8. Triết học về con người
1. Khái lược các quan điểm triết học về con người trong lịch sử
a. Một số quan điểm về con người trong triết học phương Đông
Trong triết học Phương Đông, tính người là một khía cạnh thuộc bản chất con người được quan
tâm bàn đến.
- Ở Ấn độ
● Ấn Độ giáo: Con người là hiện thân của “Linh hồn vũ trụ”, bản tính của con người phụ thuộc
vào đẳng cấp mà mình tồn tại.
● Phật giáo: Con người là “duyên hợp của ngũ uẩn”, tính người có hai thuộc tính: “phật tính”
và “trần tục tính”.
- Ở Trung Quốc: Vấn đề tính người được Nho giáo quan tâm và giải thích theo các
khuynh hướng khác nhau.
● Âm - dương gia: Con người là nơi hội tụ của âm – dương, ứng với ngũ hành.
● Nho gia: Con người do “khí” tạo thành (Tuân Tử), có “định mệnh”, bản tính con người là gần
nhau nhưng do tập nhiễm mà xa nhau (Khổng Tử); bản tính con người là thiện (Mạnh Tử); là
ác (Tuân Tử); toàn thiện, có thiện - có ác, toàn ác (Đổng Trọng Thư); v.v.
● Đạo gia: Con người là một phần của vũ trụ, là sản phẩm của chịu sự chi phối của “đạo” (Lão
Tử)
● Pháp gia: Bản tính của con người là ích kỷ (Hàn Phi Tử).
Mặc dù quan điểm về nguồn gốc và bản tính của con người khác nhau nhưng nhìn chung các
học thuyết triết học phương Đông cổ đại đều cho rằng giáo dục, tu dưỡng có thể cải hóa được
bản tính người.
b. Một số quan điểm về con người trong triết học phương Tây:
- Thời cổ đại: quan niệm về con người trong triết học phương Tây thể hiện rõ nét qua 2
trường phái: Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.
● Chủ nghĩa duy vật: Khi khẳng định bản nguyên của vũ trụ là vật chất thì các nhà duy vật
cũng quan niệm con người có cội nguồn từ vật chất. Tuy nhiên, cách hiểu về vật chất của mỗi
người khác nhau nên cội nguồn cụ thể của con người cũng được thể hiện qua các quan điểm
khác nhau.
Tiêu biểu cho quan điểm của các nhà triết học tự nhiên thời kỳ này là Democritus: Cội nguồn
của con người là nguyên tử, linh hồn của con người cũng được cấu thành từ nguyên tử.
● Chủ nghĩa duy tâm: Từ quan niệm tinh thần là cái có trước, vật chất là cái có sau nên các
nhà triết học duy tâm đều tìm nguồn gốc của con người từ giới siêu tự nhiên, từ “thế giới ý
niệm” (Plato), con số (Pythagore),... và khẳng định con người có linh hồn bất tử.
- Thời trung cổ: Giáo hội Cơ đốc giáo giữ vai trò thống trị xã hội. Triết học kinh viện
được coi là chính thống, có nội dung phù hợp với tư tưởng của Kinh Thánh.
Theo đó, con người cũng như vạn vật trong vũ trụ do Chúa sáng tạo ra. Con người phải hướng
về Chúa, chăm lo linh hồn của mình để sau khi chết linh hồn có thể về cõi Chúa.
- Thời Phục hưng và cận đại: đây là thời kỳ khoa học từng bước thoát khỏi ách thống trị
của thần học nên nhận thức về con người nói riêng, về giới tự nhiên, về xã hội nói chung
có bước phát triển mạnh mẽ.
41
MBA023A – Tô Vĩnh Hải Trang trang.tovinhhai@gmail.com
Trong các yếu tố cấu thành ý thức, các nhà duy vật đánh giá rất cao vai trò của tư duy, trí tuệ
cũng như vai trò của giáo dục đối với quá trình hình thành, phát triển tư duy, trí tuệ của con
người (F.Bacon, Descartes, Diderot, Helvetius, v.v.)
- Triết học cổ điển Đức: Thế kỷ XIX, triết học Đức thể hiện rõ 2 khuynh hướng đối lập
nhau về con người - khuynh hướng duy tâm và duy vật - tiêu biểu qua quan điểm của
Hegel và Feuerbach.
● Hegel: Con người là kết quả “tha hóa của ý niệm tuyệt đối”.
● Feuerbach: Con người không là sản phẩm của bất kỳ lực lượng siêu tự nhiên nào mà chính ý
thức - sản phẩm của bộ não người - mới tạo ra nhiều hình ảnh về lực lượng siêu tự nhiên
trong cuộc sống, v.v.
- Một số quan điểm phi mác xít thời đương đại:
● Đặc điểm Triết học về con người ở phương Tây đương đại
○ Thứ nhất, trong khi vẫn tiếp tục giải quyết các vấn đề truyền thống mang tính hàn lâm thì
nhiều trào lưu cố gắng tiếp cận gần hơn các vấn đề đời thường của con người.
○ Thứ hai, có khuynh hướng hướng về cá thể.
○ Thứ ba, nặng tính đa nguyên, phi truyền thống.
○ Thứ tư, có sự gắn kết, đan xen giữa các khuynh hướng, các trường phái triết học.
● Một số quan điểm về con người trong Triết học phương Tây đương đại
○ Chủ nghĩa nhân bản (Anthropologist): một hình thức biến tướng của chủ nghĩa Darwin
xã hội. Chủ nghĩa nhân bản giải thích tất cả những đặc điểm, tính chất, bản chất của con
người bằng nguồn gốc tự nhiên của con người, khẳng định nhân bản phải là điểm xuất
phát và là vấn đề cơ bản của tư duy triết học.
Một số đại diện: Arthur Schopenhauer, Odo Marquard, Helmuth Plessner.
○ Chủ nghĩa hiện sinh (Existentialism): trào lưu triết học thực tồn. Theo chủ nghĩa hiện
sinh, đối tượng của khoa học là “cái tồn tại”, còn đối tượng của triết học là “cái thực tại”.
“Hiện sinh” là ý thức thuần túy về bản thân, là sống cái sống đang diễn biến trong thực
tại, là hoàn toàn “tự do” hành động, không chịu sự chi phối bởi một “bản chất” nào có
sẵn.
Một số đại diện: Nietzsche, Kierkegaard, Karl Jaspers, Martin Heidegger, Jean Paul
Sartre.
○ Chủ nghĩa Freud (Freudianism) và chủ nghĩa Freud mới (Neo Freudianism): trào
lưu triết học do Freud khởi xướng, tuyệt đối hóa những hiện tượng tâm lý và bản năng
tính dục của con người nên giải phóng con người là giải phóng bản năng tính dục. Chủ
nghĩa Freud mới không quy tất cả hoạt động của con người vào bản năng tính dục nhưng
vẫn tuyệt đối hóa những hiện tượng tâm lý.
Một số đại diện Sigmund Freud, Erich Fromm, Karen Horney.
2. Quan điểm triết học Mác – Lênin về con người
a. Khái niệm “con người”:
Con người là thực thể sinh vật – xã hội.
- Là thực thể sinh vật: Con người là thực thể sống, là một động vật. Tiếp cận ở góc độ
sinh vật, con người có bản chất tự nhiên của con người, thể hiện rõ nét nhất ở các nhu cầu
có tính chất bản năng.
- Là thực thể xã hội:
42
MBA023A – Tô Vĩnh Hải Trang trang.tovinhhai@gmail.com
● Hoạt động xã hội (hoạt động lao động sản xuất) đã làm cho con người trở thành “con
người” với đầy đủ ý nghĩa của nó.
● Toàn bộ cuộc sống của con người tạo nên xã hội loài người.
● Là một thành viên của xã hội, con người không tách khỏi cộng đồng xã hội.
Tiếp cận ở góc độ xã hội, con người có bản chất xã hội của con người. Nổi bật nhất là trong khi
con người thực hiện các nhu cầu có tính bản năng thì con người luôn chú ý để đáp ứng nhu cầu
của cộng đồng, của xã hội. Tính người và động vật cao hay thấp sẽ thể hiện ở điểm này. Vì vậy,
nhiều khi con người không thực hiện theo nhu cầu bản năng để thực hiện nhu cầu xã hội.
- Mối quan hệ giữa yếu tố sinh vật và xã hội:
Yếu tố sinh vật và yếu tố xã hội không tách khỏi nhau song. Yếu tố sinh vật là tiền đề, trên tiền
đề ấy yếu tố xã hội tồn tại và phát triển. Yếu tố xã hội làm cho con người từ động vật mà ra
nhưng khác về chất so với các loài động vật khác.
- Con người vừa là sản phẩm của lịch sử, vừa là chủ thể của lịch sử:
● Con người là sản phẩm của quá trình phát triển của giới tự nhiên trải qua hàng triệu năm
con người ra đời.
● Sự ra đời của con người là kết quả quá trình phát triển lâu dài của giới tự nhiên, của lịch sử
- Con người là sản phẩm của lịch sử.
● Tất cả các hoạt động của con người, các quan hệ của con người tạo nên lịch sử xã hội loài
người - Con người là chủ thể của lịch sử.
b. Bản chất con người
Theo quan điểm của Mác nói riêng, khoa học tự nhiên nói chung: “ … bản chất con người không
phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất của
con người là tổng hòa các quan hệ xã hội”
- Trong tính hiện thực của nó …: Bản chất con người hình thành và thể hiện ở những con người
hiện thực. Đấy là những con người cụ thể, sống trong những điều kiện cụ thể với những quan hệ
cụ thể. Trong những điều kiện và những quan hệ cụ thể đó bản chất con người bộc lộ ở những
góc độ cụ thể, với những mức độ cụ thể.
- Bản chất của con người là tổng hòa các quan hệ xã hội: Tất cả các quan hệ xã hội đều góp
phần hình thành nên bản chất của con người, những quan hệ này thâm nhập vào nhau, ảnh
hưởng nhau, ràng buộc nhau nhưng có vị trí, vai trò khác nhau trong quá trình hình thành nên
bản chất của con người.
Một số cách tiếp cận các quan hệ xã hội góp phần hình thành bản chất của con người:
- Tiếp cận khái quát ở góc độ là thực thể sinh vật
Con người là sản phẩm của giới tự nhiên; con người, xã hội loài người tồn tại trong giới tự nhiên
nên các quan hệ xã hội và các quan hệ với giới tự nhiên không tách khỏi nhau. Các quan hệ này
đều góp phần hình thành nên bản chất con người.
- Tiếp cận khái quát ở góc độ là thực thể xã hội
Tất cả các hoạt động, các quan hệ, các lợi ích, v.v. trong xã hội đều góp phần hình thành nên
bản chất con người, trong đó suy cho cùng hoạt động sản xuất vật chất, quan hệ vật chất (trong
đó quan trọng nhất là quan hệ quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất), lợi ích vật chất giữ vai trò quyết
định.
- Tiếp cận ở góc độ tính chất của các quan hệ
43
MBA023A – Tô Vĩnh Hải Trang trang.tovinhhai@gmail.com
Tất cả các quan hệ trực tiếp hay gián tiếp, tất nhiên hay ngẫu nhiên, lâu dài hay thoáng qua, v.v.
đều góp phần hình thành nên bản chất của con người; trong đó suy cho cùng, những quan hệ
trực tiếp, tất nhiên, lâu dài, v.v. giữ vai trò quyết định.
- Tiếp cận ở góc độ thời gian
Các quan hệ quá khứ, hiện tại, tương lai đều góp phần hình thành nên bản chất của con người;
trong đó, suy cho cùng quan hệ hiện tại giữ vai trò quyết định.
Nhìn một cách tổng quát và cơ bản thì bản chất của con người là tổng hòa các quan hệ xã hội nên về
cơ bản, bản chất của con người không phải được sinh ra mà bản chất của con người được sinh thành.
Nghĩa là bản chất con người được hình thành và thay đổi theo sự hình thành và thay đổi của các
quan hệ xã hội. Trong đó, trước hết và quan trọng nhất là quan hệ thuộc lĩnh vực kinh tế - quan hệ
sở hữu tư liệu sản xuất.
c. Giải phóng con người
Chủ nghĩa Mác Lênin chủ tâm đến giải phóng con người. Xóa bỏ hiện tượng lao động bị tha hóa,
con người bị tha hóa để con người phát huy tối ưu khả năng của mình trong xã hội “sự phát triển tự
do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”.
Các quan hệ xã hội chi phối năng lực con người, hoặc mở đường cho năng lực phát triển hoặc ghì
chặt năng lực con người. Trong tất cả quan hệ xã hội suy cho đến cùng những quan hệ kinh tế giữ
vai trò quyết định. Trong quan hệ kinh tế suy cho đến cùng chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất là chế
độ cản trở sự phát triển của con người nhất. Để phát huy hết năng lực phải xoá bỏ chế độ tư hữu về
tư liệu sản xuất.
- Một số biểu hiện của lao động bị tha hóa, con người bị tha hóa
● Con người mất nhu cầu lao động.
● Con người đánh mất mình trong “hoạt động người”, chỉ tìm được mình trong “hoạt động vật”.
● Trong lao động, các quan hệ bị đảo lộn.
● Lao động làm con người phát triển què quặt.
- Nguyên nhân của lao động bị tha hóa, con người bị tha hóa
Do người bóc lột người mà nguyên nhân trực tiếp dẫn đến hiện tượng này là chế độ tư hữu về tư
liệu sản xuất cơ bản.
- Con đường giải phóng con người
Để giải phóng con người phải từng bước xóa bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất cơ bản để xóa
bỏ hoàn toàn chế độ người bóc lột người, xóa bỏ hiện tượng lao động bị tha hóa, con người bị
tha hóa, tạo điều kiện tối ưu cho con người phát huy tối ưu của mình trong xã hội bình đẳng,
nhân ái.
4. Vấn đề phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay
Phát huy vai trò nhân tố con người để đáp ứng nhu cầu cách mạng Việt Nam giai đoạn hiện nay là
công việc của từng cá nhân, từng gia đình, từng tổ chức và cả hệ thống chính trị-xã hội.
- Về nhận thức
● Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển của cách mạng Việt Nam.
● Phát huy vai trò nhân tố con người vừa là nhiệm vụ thường xuyên, vừa là chiến lược lâu dài
của quốc gia; là nhiệm vụ của từng cá nhân, từng gia đình, từng tổ chức và cả hệ thống chính
trị-xã hội.
● Trong nền kinh tế tri thức, thời đại khoa học – công nghệ phát triển mạnh mẽ thì cùng với
phát triển khoa học và công nghệ, giáo dục là quốc sách hàng đầu.
● Dân chủ xã hội chủ nghĩa là vừa là tiền đề, vừa là cơ sở, nền tảng, động lực để phát huy vai
trò nhân tố con người.
● Nhận thức rõ tính chất phức tạp của cuộc đấu tranh giai cấp; nắm vững đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng, Nhà nước để xử lý đúng những thông tin đa chiều, trái chiều
trên những phương tiện thông tin đa dạng hiện nay.
- Về hành động
● Xây dựng hệ tiêu chí, tạo cơ sở tiền đề để thực hiện xây dựng con người toàn diện “vừa hồng,
vừa chuyên”.
● Xây dựng các chính sách xã hội khoa học, nhân văn phù hợp điều kiện của đất nước và triển
khai có hiệu quả các chính sách này.
● Củng cố, phát huy dân chủ ở tất cả các cấp, các ngành, các nghề, các tổ chức chính trị-xã hội.
● Đảm bảo tính khoa học trong tuyển dụng, sử dụng, giáo dục, đào tạo, dưỡng con người cho
hiện tại và chuẩn bị cho thế hệ kế cận.
● Thực thi những biện pháp thích hợp trong việc chống lại những tư tưởng, hành động phi nhân
đạo, phản nhân văn về con người; những tư tưởng, hành động chống phá sự nghiệp xây dựng
một quốc gia dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh của cách mạng Việt Nam
45