Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 16

TÀI LIỆU HƯỚNG DẪN PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC KHỐI ⑫ #Tự_học_theo_vấn_đề

VỢ CHỒNG A PHỦ (Tô Hoài)


Vấn đề 1: Khái quát tác giả và tác phẩm
Cuối năm 1952, nhà văn Tô Hoài có chuyến đi thực tế cùng bộ đội trong chiến dịch Tây Bắc. Sau
khi tìm hiểu chung về tình hình, Tô Hoài quyết định đi sâu vào những khu du tích của đồng bào các dân
tộc thiểu số trên vùng núi cao. Chuyến đi kéo dài tám tháng đã để lại những ấn tượng sâu sắc và tình cảm
tốt đẹp cho nhà văn. Tô Hoài kể lại: “Cái kết quả lớn nhất và trước nhất của chuyến đi tám tháng ấy là đất
nước và con người miền Tây đã để thương để nhớ cho tôi nhiều quá, tôi không thể bao giờ quên. Tôi không
thể bao giờ quên được lúc vợ chồng A Phủ tiễn tôi khỏi dốc núi làng Tà Sùa rồi cùng vẫy gọi theo: “Chéo lù!
Chéo lù!”. Hai tiếng: “Trở lại! Trở lại!” chẳng những nhắc tôi có ngày trở lại, phải đem trở lại cho những
người thương ấy của tôi một kỉ niệm tấm lòng mình, một cái gì làm hiển hiện lại cả cuộc đời người Mèo
(Mông) trung thực, chí tình, dù gian nan đến thế nào bao giờ cũng đợi cán bộ, đợi bộ đội, bao giờ cũng
mong anh em trở lại [...]. Hình ảnh Tây Bắc đau thương và dũng cảm lúc nào cũng thành nét, thành người,
thành việc trong tâm trí tôi. [...] Ý thiết tha với đề tài là một lẽ quyết định. Vì thế tôi viết Truyện Tây Bắc”.
Truyện Vợ chồng A Phủ cũng như hai truyện khác của tập Truyện Tây Bắc, đều thể hiện số phận
đau khổ của người dân lao động miền núi dưới ách phong kiến, thực dân và con đường giải phóng của
họ trong cách mạng và kháng chiến. Chủ đề này cũng gặp ở nhiều tác phẩm của nền văn học giai đoạn
1945 – 1975. Điều đặc sắc ở truyện này là ngòi bút miêu tả tâm lý nhân vật, khắc họa tính cách con người
miền núi, cùng với những bức tranh thiên nhiên, sinh hoạt đậm màu sắc phong tục – đây vốn là sở trường
của cây bút Tô Hoài.
Vấn đề 2: SỐ PHẬN BI THƯƠNG - Phần mở đầu & cách giới thiệu nhân vật Mị
a/ Về nội dung
Tác giả kể về việc Mị phải về làm dâu trừ nợ cho nhà Pá Tra. Câu chuyện đau buồn của Mị nói lên
thân phận đau khổ của người nông dân nghèo, người phụ nữ nghèo ở miền núi (món nợ truyền kiếp từ
đời cha mẹ đến Mị phải trả bằng cả tuổi trẻ và cuộc sống tự do của mình). Đồng thời, qua đoạn kể cũng
cho thấy những nét tốt đẹp của Mị: có nhan sắc và tâm hồn, yêu đời, khao khát hạnh phúc, chăm chỉ và
hiếu thảo. Tóm lại, Mị có đủ những phẩm chất để đáng được sống cuộc đời hạnh phúc.
Lúc đầu, bị bắt về làm dâu nhà Pá Tra, Mị phản kháng quyết liệt (đêm nào cũng khóc rồi định ăn lá
ngón tự tử), nhưng lòng hiếu thảo không cho phép Mị quyên sinh. Ách áp bức nặng nề, dai dẳng của thế
lực phong kiến và “thần quyền” ở miền núi đã làm cho Mị tê liệt, sống mà như chết (“Ở lâu trong cái khổ,
Mị quen khổ rồi. Bây giờ thì Mị tưởng mình là con trâu, mình cũng là con ngựa”; Mị dường như không có
ý niệm về thời gian, không hi vọng, không mong đợi cái gì, suốt ngày “lũi thũi như con rùa trong xó cửa”;
căn buồng âm u nơi Mị nằm và cái cửa sổ bằng bàn tay gợi không khí một nhà tù).
b/ Về nghệ thuật
- Kết hợp miêu tả và kể chuyện: mở đầu bằng việc miêu tả Mị trong không gian đặc trưng: cô thường
“ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa cạnh tàu ngựa” nhà thống lí Pá Tra. Tiếp đó mới kể về lai lịch
của Mị và việc Mị bị bắt về làm dâu trừ nợ. Trong mạch kể có xen vào những đoạn miêu tả. (Cảnh A
Sử lừa bắt Mị, cảnh căn buồng của Mị…).
- Kết hợp miêu tả ngoại cảnh với miêu tả ngoại hình và tâm trạng nhân vật.
- Lời trần thuật ở ngôi thứ ba từ điểm nhìn bên ngoài, nhưng có nhiều đoạn nhập vào ý nghĩa và lời độc
thoại của nhân vật Mị.
- Nhịp điệu trần thuật chậm, trầm lặng với giọng điệu xót xa thương cảm thể hiện sự đồng cảm với tình
cảnh và số phận của nhân vật Mị.
Vấn đề 3: PHẨM CHẤT TỐT ĐẸP của Mị
a/ Sức sống tiềm tàng trong đêm tình mùa xuân
Phân tích nghệ thuật miêu tả tâm lý tinh tế và sâu sắc trong đoạn tả đêm Tết, Mị muốn đi chơi và
bị trói vào cột:

TH.S NGUYỄN NGỌC ĐOAN TRANG – GV CHUYÊN VĂN THPT NGUYỄN THƯỢNG HIỀN & PHỔ THÔNG NĂNG KHIẾU ĐHQG.TPHCM
TÀI LIỆU HƯỚNG DẪN PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC KHỐI ⑫ #Tự_học_theo_vấn_đề

- Tác động của ngoại cảnh, mùa xuân đến, tiếng sao gọi bạn tình, bữa rượu bên bếp lửa, người ốp đồng.
- Sự thức tỉnh của Mị giống như một sự sống lại, bắt đầu từ sự thức dậy trong tiềm thức những hồi ức,
kỉ niệm quá khứ, rồi Mị sống với tiếng sáo trong lòng, ý thức về thời gian đã trở lại, cùng với nó là
khát vọng sống và ý thức về thân phận của mình.
- Từ ý thức tới hành động (thắp đèn sáng lên, quấn lại tóc, rút váy hoa, chuẩn bị đi chơi).
- Mị vẫn còn sống với những khao khát cháy bỏng ngay cả khi đã bị A Sử trói đứng vào cột.
b/ Sức mạnh phản kháng trong đêm lạnh mùa đông
- Thể hiện qua hành động cắt dây trói cứu A Phủ và tự giải thoát của nhân vật Mị. Phân tích đoạn tả tâm
trạng của Mị trước tình cảnh A Phủ bị trói vào cọc.
- Lúc đầu, A Phủ bị trói, Mị vẫn thản nhiên như một người đã quá quen với mọi cảnh ngang trái trong
nhà Pá Tra, Mị vẫn chìm trong trạng thái gần như “vô cảm”.
- Nhưng rồi một đêm, qua ánh lửa bếp, nhìn sang thấy “một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm
má đã xám đen lại” – biểu hiện sự đau đớn tuyệt vọng của chàng trai gan góc, khỏe mạnh, thì Mị chợt
xúc động, trào lên một nỗi đồng cảm với thân phận của A Phủ, rồi tình thương đã thắng mọi sự sợ hãi.
(Mị nghĩ mình có thể trói thay vào đấy, chết trên cái cọc ấy, nhưng cũng không thấy sợ).
- Tình thương và sự đồng cảm giai cấp đã dẫn đến hành động táo bạo: cắt dây trói cứu A Phủ. Đúng lúc
ấy, khi đã cứu được A Phủ, một hi vọng và khát khao sống lại bừng lên trong Mị và Mị đã chạy theo,
cùng trốn đi với A Phủ, tự giải thoát cho cuộc đời mình.
 Mị vốn là một cô gái trẻ, đẹp, hồn nhiên và giàu sức sống. Khi bị đẩy vào tình trạng làm làm con dâu
trừ nợ cho nhà Pá Tra, Mị đã phản kháng quyết liệt nhưng rồi kiếp sống nô lệ triền miên dường như
đã làm cho cô tê liệt mọi sức phản kháng và chỉ còn cam chịu số phận.
 Tuy vậy, ở Mị vẫn tiềm tàng một sức sống mạnh mẽ, cùng với khát vọng yêu đương và tự do. Sức sống
của nhân vật này ẩn giấu ở bên trong nội tâm, chỉ được bùng lên trong những thời điểm nhất
định, được biểu hiện ra thành những hành động quyết liệt, táo bạo. Trong suốt nửa đầu của
truyện, hầu như tác giả không để cho nhân vật này có lời đối thoại nào (ngoại trừ câu nói với cha được
dẫn lại trong lời người kể). Nhưng đều càng cho thấy Mị là con người có sức sông nội tâm âm thầm
mà mạnh mẽ.
Vấn đề 4: A Phủ
- A Phủ, người ở trừ nợ nhà thống lí Pá Tra
+ Cũng như Mi, A Phủ được tác giả giới thiệu bằng sự xuất hiện đột ngột, gây chú ý cho người đọc,
rồi mới kể về lai lịch của anh. A Phủ xuất hiện trong cuộc đánh nhau của trai làng bên với bọn A
Sử, A Phủ xuất hiện đối đầu với A Sử thật hiên ngang và trận đòn đánh mới áp đảo và hả hê làm
sao! (Chú ý câu văn mô tả cảnh này bằng một loạt từ chỉ hành động với nhịp nhanh, mạnh, dồn
dập: chạy vạt ra, vung tay ném, xộc tới, nắm, kéo dập đầu, xé, đánh tới tấp).
+ A Phủ là một thanh niên nghèo, suốt đời đi làm thuê làm mướn, không có ruộng, không có cả đến
cái vòng bạc đeo cổ để đi chơi Tết. Cha mẹ đã chết cả trong một trận dịch đậu mùa, A Phủ cũng đã
từng bị bắt bán xuống vùng người Thái,….. Chính cuộc sống cùng cực ấy đã hun đúc thêm ở A Phủ
một sức sống mạnh mẽ, lòng ham chuộng tự do và tính cách thật gan góc, cùng với tài năng lao
động đáng quý, A Phủ thạo và ham thích những công việc lao động nặng nhọc mà khó khăn, nguy
hiểm: “biết đúc lưỡi cày, biết đục cuốc, lại cày giỏi và đi săn bò tót rất bạo”, “Đốt rừng, cày nương,
cuốc nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa, quanh năm một thân một mình bôn ba rong
ruổi ngoài gò ngoài rừng”. A Phủ là đứa con của núi rừng tự do. Cuộc sống phóng khoáng, ưa tự
do, gần gũi thiên nhiên và chất phác của A Phủ cũng là một nét tính cách đặc trưng của người Mông.
- Việc A Phủ bị bắt làm người ở trừ nọ càng làm tăng thêm sức tố cáo của tác phẩm: một chàng trai
khỏe mạnh, gan góc, vốn không nợ nần gì nhà Pá Tra, lại lao động giỏi, sống tự do như chim trời giữa
núi rừng, vậy mà cuối cùng cũng không thoát khỏi ách áp bức của chúa đất, phải rơi vào thân phận kẻ
nô lệ suốt đời trong nhà Pá Tra. Hơn thế nữa, cho đến cả đời con, đời cháu cũng vậy, bao giờ trả hết
nợ mới thôi !

TH.S NGUYỄN NGỌC ĐOAN TRANG – GV CHUYÊN VĂN THPT NGUYỄN THƯỢNG HIỀN & PHỔ THÔNG NĂNG KHIẾU ĐHQG.TPHCM
TÀI LIỆU HƯỚNG DẪN PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC KHỐI ⑫ #Tự_học_theo_vấn_đề

+ Cảnh bọn chức việc trong làng xử kiện A Phủ lại thêm một bức tranh cụ thể, sống động, giàu sức
tố cáo về một tập tục là hiện thân của ách áp chế kiểu trung cổ ở miền núi. Cuộc xử kiện diễn ra
trong khói thuốc phiện mù mịt “tuôn ra các lỗ cửa sổ tun hút xanh như khói bếp” và “Người thì
đánh người thì quỳ lạy, kể lể, chửi bới. Xong một lượt đánh, kể, chửi, lại hút”, cứ thế suốt từ trưa
cho đến hết đêm. Còn A Phủ gan góc, quỳ chịu đòn chỉ im như tượng đá.
+ Khi đi chăn bò, để hổ bắt mất một con, A Phủ vẫn rất thật thà và bộc trực xin với Pá Tra cho
mượn súng đi bắn hổ. Suốt mấy ngày đêm bị trói đứng vào cọc chờ chết, người con trai gan góc,
đầy sức vóc ấy cũng đã phải tuyệt vọng : “một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã
xám đen lại”. Sau khi được Mi cắt dây trói, A Phủ khuỵu xuống, nhưng rồi khát vọng sống lại
khiến anh “quật sức vùng lên, chạy”
+ A Phủ và Mị có số phận tương đồng, có những nét tính cách gần nhau, nhưng vẫn là hai nhân
vật có tính cách riêng. Nếu Mị thiên về đời sống nội tâm, sức sống ẩn vào bên trong, thì A Phủ
lại là con người bộc trực, thẳng thắng, hồn nhiên, ham hoạt động.
Vấn đề 5: Giá trị nhân đạo
Tác giả thể hiện tư tưởng nhân đạo tích cực, mang ý thức giai cấp: lên án những thế lực phong kiến,
thực dân áp bức tàn bạo, thông cảm với số phận đau khổ của người nông dân nghèo miền núi, khẳng
định phẩm chất tốt đẹp, những khát vọng và con đường đi tới cách mạng của họ. Đặc biệt, cũng như nhiều
tác phẩm thành công ở giai đoạn này, truyện Vợ chồng A Phủ đề cao tình hữu ái giai cấp, sự đồng cảm
của những con người nghèo khổ cùng cảnh ngộ.
Vấn đề 6: Giá trị nghệ thuật
- Về nghệ thuật xây dựng nhân vật: Mị và A Phủ (đặc biệt là Mị trong phần 1 của truyện) là những nhân
vật được khắc họa sinh động, đã có cá tính rõ nét. Hai nhân vật có số phận giống nhau nhưng tính
cách khác nhau đã được tác giả thể hiện bằng những thủ pháp thích hợp. Mị được miêu tả bằng rất ít
hành động (lặp đi lặp lại những công việc lao động của người phụ nữ trong cuộc sống tù hãm ở nhà
Pá Tra) và một số nét chân dung cũng được nhắc đi nhắc lại gây ấn tượng đậm (cúi mặt, mặt buồn
rười rượi, lùi lũi,….). Đặc biệt, nhân vật này được thể hiện chủ yếu qua dòng ý nghĩ, tâm tư, nhiều khi
là tiềm thức chập chờn. Giọng trần thuật của tác giả nhiều chỗ nhập vào dòng tâm tư của nhân vật,
diễn tả được những ý nghĩ, tâm trạng và cả trạng thái mơ hồ, lờ mờ của tiềm thức nhân vật. Còn A
Phủ là một tính cách gan góc, bộc trực, táo bạo thì lại được thể hiện bằng nhiều hành động, công việc
và vài lời đối thoại rất ngắn, giản đơn.
- Ngòi bút tả cảnh của Tô Hoài rất đặc sắc. Cảnh miền núi hiện ra với những nét sinh hoạt, phong tục
riêng. Tô Hoài vốn là cây bút có sở trường về tả phong tục sinh hoạt (những truyện trước Cách mạng
như Quê người, tập truyện ngắn Nhà nghèo). Đoạn tả cuộc xử kiện là một bức tranh phong tục sinh
động; những cảnh mùa xuân, ngày Tết trên vùng núi cao có sức hấp dẫn, vừa là phong tục vừa là bức
tranh thiên nhiên mơ mộng; những nét chấm phá cảnh thiên nhiên miền núi, với màu sắc và đường
nét giàu chất tạo hình (“những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ”,…)
- Nghệ thuật kể chuyện cũng rất thành công. Cách giới thiệu nhân vật tạo được sự chú ý, cách kể ngắn
gọn mà gây được ấn tượng về lai lịch của nhân vật, việc dẫn dắt các tình tiết khéo léo làm mạch truyện
liên tục biến đổi, hấp dẫn mà không rối, không trùng lặp.
- Ngôn ngữ của Tô Hoài sinh động và chọn lọc, có sáng tạo. Lối văn giàu tính tạo hình, có chỗ như cách
quay cận cảnh, viễn cảnh của điện ảnh. Tô Hoài vận dụng cách nói của người miền núi (hồn nhiên,
giàu hình ảnh) nhưng không quá câu nệ, sa vào sự sao chép tự nhiên chủ nghĩa (như ở một vài truyện
ngắn viết về miền núi trước đó của chính tác giả), mà nâng cao lên, nhập vào ngôn ngữ văn học có
tính chuẩn mực.
- Giọng trần thuật ăn nhập với tư tưởng của truyện và nội dung từng đoạn. Nhịp kể chậm, giọng trầm
lắng đầy sự cảm thông, yêu mến hai nhân vật chính. Giọng trần thuật nhiều chỗ hòa vào dòng ý nghĩ
và tiếng nói bên trong của nhân vật, vừa bộc lộ trực tiếp đời sống nội tâm nhân vật vừa tạo được sự
đồng cảm.

TH.S NGUYỄN NGỌC ĐOAN TRANG – GV CHUYÊN VĂN THPT NGUYỄN THƯỢNG HIỀN & PHỔ THÔNG NĂNG KHIẾU ĐHQG.TPHCM
TÀI LIỆU HƯỚNG DẪN PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC KHỐI ⑫ #Tự_học_theo_vấn_đề

VỢ NHẶT (Kim Lân)


Vấn đề 1: Khái quát tác giả và tác phẩm
Kim Lân là cây bút chuyên viết truyện ngắn hàng đầu của nền văn học hiện đại Việt Nam. Thế giới
nghệ thuật của ông chủ yếu tập trung ở khung cảnh nông thôn và hình tượng người nông dân. Ông hiểu
sâu sắc cảnh ngộ và tâm lý của người dân quê – những con người gắn bó tha thiết với quê hương và cách
mạng; do vậy, ông viết rất chân thật và xúc động về họ.
“Vợ nhặt” là truyện ngắn xuất sắc nhất của Kim Lân, in trong tập “Con chó xấu xí” (1962). Truyện
ngắn có tiền thân là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” – được viết ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công,
lấy bối cảnh nạn đói năm 1945, nhưng dang dở và bị mất bản thảo. Sau khi hòa bình lập lại (1954), ông
dựa vào một phần cốt truyện cũ để viết truyện ngắn này.
Vấn đề 2: Tình huống truyện đặc sắc
a) Giải thích khái niệm “tình huống truyện”
­ Tình huống truyện là sự kiện có ý nghĩa bộc lộ mối quan hệ, bộc khả năng ứng xử, thử thách phẩm
chất, tính cách, đôi khi tạo ra những bước ngoặt trong tư tưởng, tình cảm, trong cuộc đời con người..
­ Việc sáng tạo nên tình huống độc đáo biểu hiện tài năng của nhà văn trong việc quan sát, khám phá
bản chất cuộc sống, bản chất con người.
b) Gọi tên tình huống
Tình huống độc đáo của truyện ngắn này được bộc lộ ngay trong nhan đề: “Vợ nhặt”.
­ Đây không phải cảnh lấy vợ đàng hoàng, có ăn hỏi, cưới xin theo phong tục truyền thống của người
Việt, mà là “nhặt vợ”. Một thứ “vợ” do “nhặt” được, nhặt một cách ngẫu nhiên (chứ không phải “vợ
cưới”). Đúng là Tràng đã nhặt được vợ chỉ bằng mấy lời bông đùa tầm phào và vài bát bánh đúc, và
“tổ chức đám cưới” trong không khí chết chóc ám ảnh.
­ Chỉ riêng hai chữ “vợ nhặt” cũng đã nói lên khá nhiều về cảnh ngộ, số phận của Tràng và của cả người
đàn bà xa lạ nữa. Cái giá của con người chưa bao giờ lại rẻ rúng đến như vậy! Chuyện Tràng nhặt được
vợ đã nói lên tình cảnh thê thảm và thân phận tủi nhục của người nông dân nghèo trong nạn đói
khủng khiếp năm 1945.
→ Đây là một tình huống vừa kỳ quặc, vừa oái oăm, vừa vui mừng, vừa bi thảm.
c) Diễn biến tình huống
Đây quả là một cuộc “hỏi vợ” và “cưới vợ” chóng vánh, lạ thường:
­ Lời dạm hỏi chỉ là vài câu bông đùa tầm phào của Tràng khi đẩy xe bò
­ Lời chấp nhận dễ dàng từ người phụ nữ. Lễ vật chỉ là bốn bát bánh đúc, người phụ nữ nhận lễ vật một
cách sỗ sàng, kém tế nhị, mất sĩ diện.
­ Hình ảnh cô dâu ngày vu quy thật đáng thương.
­ Con đường rước dâu bị cái đói, cái chết ám ảnh.
­ Cảnh đón dâu hiu hắt, bà mẹ chồng vừa mừng vừa ai oán xót xa.
­ Đêm tân hôn, lẫn trong niềm hạnh phúc là tiếng khóc đến từ phía những nhà có người chết đói.
­ Bữa cơm sáng sau ngày cưới “thật thảm hại” với tiếng trống thúc thuế.
d) Tính chất tình huống
­ Đây là một tình huống lạ lùng, bất ngờ:
+ Tràng là một anh nông dân xấu trai, nghèo xác xơ, lại là dân ngụ cư (bị khinh bỉ), bỗng nhiên có vợ
theo về chỉ cần mấy lời bông đùa tầm phào và vài bát bánh đúc.
+ Hành động “nhặt vợ” của Tràng đã gây ngạc nhiên cho nhiều người trong xóm.
­ Đây cũng là một tình huống trớ trêu, éo le:
TH.S NGUYỄN NGỌC ĐOAN TRANG – GV CHUYÊN VĂN THPT NGUYỄN THƯỢNG HIỀN & PHỔ THÔNG NĂNG KHIẾU ĐHQG.TPHCM
TÀI LIỆU HƯỚNG DẪN PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC KHỐI ⑫ #Tự_học_theo_vấn_đề

+ Tràng có vợ giữa lúc cái đói đang đe dọa.


+ Các nhân vật đã bộc lộ thái độ vừa mừng vừa lo, vừa hạnh phúc vừa xót xa: cư dân xóm ngụ cư, bà
cụ Tứ, bản thân Tràng.
­ Đây còn là một tình huống cảm động lòng người: Từ khi Tràng có vợ, mọi người, từ Tràng, đến cô “vợ
nhặt”, đến bà mẹ chồng đều có những thay đổi về suy nghĩ lẫn hành động.
e) Ý nghĩa tình huống
­ Về nội dung: góp phần khắc họa được tính cách nhân vật & thể hiện tư tưởng nhân đạo của tác phẩm
­ Về nghệ thuật: tình huống truyện được tạo dựng một cách độc đáo bởi sự kết hợp những nét đặc sắc
nghệ thuật khác.
→ Có cái tài ấy, trước hết là có cái “tâm” của nhà văn: lòng thương cảm, sự thấu hiểu và khẳng định con
người, niềm tin ở con người.
Vấn đề 3: Các nhân vật
Người vợ nhặt (thị)
Trước khi theo về làm vợ Tràng Từ khi theo về làm vợ Tràng
1. Lai lịch: 5 không (không tên, không nhà, - Có khát vọng sống mãnh liệt:
không quá khứ, không quê hương, + Quyết định theo Tràng về làm vợ dù không biết về
không của cải) Tràng, chấp nhận theo không về không cần sính lễ
­ Không tên tuổi “cô ả, thị, người đàn bà” và vì thị sẽ không phải sống cảnh lang thang đầu
qua tên gọi “vợ nhặt”: thấy được sự rẻ đường xó chợ.
rúng của con người trong cảnh đói. + Khi đến nhà thấy hoàn cảnh nghèo khổ, thị “nén một
­ Không có gia đình quê hương, không quá tiếng thở dài”, dù ngao ngán nhưng vẫn chịu đựng
khứ: “nhặt thóc rơi vãi kiếm sống” có thể để có cơ hội sống.
thấy nạn đói năm 1945 đã khiến biết bao - Có ý tứ và nết na:
con người bị dứt khỏi quê hương, gia + Trên đường về, thị cũng rón rén e thẹn đi sau Tràng,
đình. đầu hơi cúi xuống, thị ngại ngùng cho thân phận vợ
­ Không của cải: ngồi vêu ở nhà kho nhặt nhặt của mình.
hạt rơi, hạt vãi hay ai có việc gì thì gọi đến + Khi vừa về đến nhà, Tràng đon đả mời ngồi, “chị ngồi
làm. mớm ở mép giường, hai tay ôm khư khư cái thúng,
2. Chân dung: ngoại hình là “người đàn bà mặt bần thần” thể hiện sự ý tứ khi chưa xác lập được
vêu vao, ngực gầy lép”, “quần áo tả tơi vị trí trong giá đình, thế ngồi chông chênh rụt rè
như tổ đỉa”, “gầy sọp”, “khuôn mặt lưỡi cũng chính là tâm trạng ngổn ngang trăm mối của
cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”. chị.
3. Phẩm chất, tính cách → thông qua ngôn + Khi gặp mẹ chồng, ngoài câu chào thị chỉ cúi đầu,
ngữ, hành động: “chao chát, chỏng lỏn” “hai tay vân vê tà áo đã rách bợt”, thể hiện sự lúng
­ Lần thứ nhất: khi nghe câu hò vui của túng ngượng nghịu.
Tràng, thị vùng dậy, chạy theo Tràng. + Sáng hôm sau, thị dậy sớm quét tước nhà cửa, “hiền
­ Lần thứ hai: hậu đúng mực không còn vẻ gì chao chát, chỏng lỏn
+ Thị “sưng sỉa, cong cớn” mắng Tràng, từ như mấy lần gặp Tràng ngoài tỉnh”.
chối ăn trầu để được ăn một thứ có giá + Lúc ăn cháo cám, mới nhìn “mắt thị tối lại”, nhưng
trị hơn, khi được mời ăn thì không hề ý vẫn điềm nhiên và vào miệng thể hiện sự nể nang, ý
tứ, ngượng ngùng mà “đôi mắt trũng tứ trước người mẹ chồng, không buồn làm bà buồn.
hoáy của thị tức thì sáng lên rồi ngồi xà - Có niềm tin vào tương lai:
xuống ăn thật”, “ăn một chặp bốn bát + Không buông xuôi số phận, chăm lo, thu vén lại cuộc
bánh đúc”. sống “Nhà cửa, sân vườn đều được quét tước, thu
+ Khi nghe Tràng nói đùa “đằng ấy có về dọn sạch sẽ gọn gàng. Mấy chiếc quần áo rách như tổ
với tớ ... cùng về”, thị đã theo về thật bởi đỉa … đã thấy đem ra sân hong. Hai cái ang nước vẫn
trong cái đói khổ, đó là cơ hội để thị bấu để khô cong ở dưới gốc ổi…đã đầy ăm ắp. Đống rác
víu lấy sự sống. mùn tung bành ngay lối đi đã hót sạch.”
 Trơ trẽn, thiếu lòng tự trọng + Kể chuyện phá kho thóc trên Thái Nguyên, Bắc
 Thân phận bèo bọt, vất vưởng, liều Giang để thắp lên hi vọng cho cả gia đình, đặc biệt là
lĩnh. cho Tràng.

TH.S NGUYỄN NGỌC ĐOAN TRANG – GV CHUYÊN VĂN THPT NGUYỄN THƯỢNG HIỀN & PHỔ THÔNG NĂNG KHIẾU ĐHQG.TPHCM
TÀI LIỆU HƯỚNG DẪN PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC KHỐI ⑫ #Tự_học_theo_vấn_đề

Đánh giá chung


- Về nội dung: thị là nạn nhân của nạn đói, bị cái đói làm biến dạng về nhân hình và nhân cách, nhưng
chỉ trong khoảnh khắc chứ không bị cướp đi vĩnh viễn về nhân tình, nhân tính. → Bóng dáng thị
không lộng lẫy nhưng gợi lên sự ấm áp, chị vô danh nhưng không vô nghĩa, chị mang đến làn gió
tươi mát cho cuộc sống tăm tối bên bờ cái chết.
- Về nghệ thuật: tâm lý, tính cách của nhân vật thị được khắc họa một cách sinh động, chân thực chủ
yếu qua cử chỉ, hành động, lời nói (những yếu tố bên ngoài).
Tràng
Trước khi nhặt vợ Từ khi nhặt vợ
1. Lai lịch: Hiện thân * Khi quyết định “nhặt” thị về làm vợ
của cái nghèo túng, ­ Không phải không có chút phân vân do dự, lo sợ nhưng rồi Tràng quyết định
bị coi khinh lấy vợ trong sự lạc quan, liều lĩnh táo bạo của mình. Ban đầu cũng “chợn”
­ Mang tên một thứ nhưng sau đó “Chậc, kệ!”.
đồ vật của thợ mộc ­ Là một người chu đáo, rất lo lắng cho người vợ mới: bỏ tiền mua cho thị cái
­ Nghèo khổ: dân thúng con đựng vài thứ lặt vặt; ra hàng đánh một bữa thật no nê rồi cùng đẩy
xóm ngụ cư, làm xe bò về. → Quyết định và hành động của Tràng thể hiện niềm khao khát
nghề đẩy xe bò hạnh phúc gia đình, dù trong hoàn cảnh đói khổ vẫn hướng đến ánh sáng,
thuê, nơi ở chỉ là vẫn tin vào sự sống và vẫn hi vọng, lạc quan vào tương lai.
“tấm phên rách * Khi dẫn vợ qua xóm ngụ cư về nhà
che nhà, căn nhà ­ Tràng trở thành một con người khác, rất hớn hở, tự đắc, hạnh phúc, vui
rúm ró trên mảnh sướng lạ lùng.
vườn lổn nhổn đầy ­ Khi về đến nhà, Tràng có chút sợ, bối rối, vui sướng, hạnh phúc, lo lắng bởi
cỏ dại”, nuôi mẹ cái cảm giác được làm chồng, tất cả được thể hiện qua hành động đầy phức
già. tạp, rối bời.
2. Chân dung: Xấu xí, + “Tràng xăm xăm bước vào nhà” dọn dẹp sơ qua, thanh minh về sự bừa
thô kệch bộn vì thiếu bàn tay của đàn bà. Hành động ngượng nghịu nhưng chân
3. Tính cách, phẩm thật, mộc mạc.
chất: + Khi bà cụ Tứ chưa về, Tràng có cảm giác “sờ sợ” vì lo rằng người vợ sẽ
­ Gần gũi, thân thiết bỏ đi vi gia cảnh quá khó khăn, sợ hạnh phúc sẽ tuột khỏi tay.
với dân làng và trẻ + Sốt ruột chờ mong bà cụ Tứ về để thưa chuyện vì trong cảnh đói khổ vẫn
nhỏ → đôn hậu, vui phải nghĩ đến quyết định của mẹ. Đây là biểu hiện của đứa con biết lễ
vẻ, tốt bụng. nghĩa.
­ Lúc đầu lời hò của + Khi bà cụ Tứ về: “Hắn lật đật chạy ra đón”, thưa chuyện một cách trịnh
Tràng chỉ là lời nói trọng, biện minh lí do lấy vợ là “phải duyên”, căng thẳng mong mẹ vun
đùa của người lao đắp. Khi bà cụ Tứ tỏ ý mừng lòng Tràng thở phào, ngực nhẹ hẳn đi.
động chứ không có - Trong đêm tân hôn, Tràng rất hào phóng thắp sáng căn nhà tối tăm của mình
tình ý gì với cô gái bằng ngọn đèn dầu vàng đục.
đẩy xe cùng mình. + Ngọn đèn là niềm yêu thương, cảm thông lẫn nhau để cùng vượt lên số
­ Ngạc nhiên, bất ngờ phận buồn thương của họ.
khi thị đến tìm + Ngọn đèn vừa mang biểu tượng cho một niềm tin, niềm hi vọng tương
Tràng. Khi bị thị lai tươi sáng, vừa liên kết gắn bó ba người lại với nhau – ba con người
mắng, Tràng chỉ đói rách.
cười toét miệng và * Trong buổi sáng đầu tiên sau khi có vợ
mời cô ta ăn dù ­ Tràng thực sự thấy cuộc đời mình thay đổi hẳn, vui sướng, hạnh phúc: Trong
không dư dả gì. → người êm ái lơ lửng như người trong giấc mơ đi ra.. Chợt nhận ra, xung quanh
Đó là hành động của có cái gì vừa thay đổi mới mẻ, khác lạ… Hắn thấy thương yêu, gắn bó bó với
người nông dân cái nhà của hắn lạ lùng.
hiền lành tốt bụng. ­ Lạc quan hơn vào tương lai, ý thức về bổn phận, trách nhiệm: Hắn sẽ cùng
vợ sinh con, đẻ cái ở đây… Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, há thấy hắn
có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này.
Đánh giá chung
- Về nội dung: Tràng là nạn nhân của nạn đói. Tuy vậy, nhưng ở Tràng vẫn sáng ngời những phẩm
chất tốt đẹp: vô tư, nhân hậu, bao dung, có trách nhiệm, niềm tin, niềm lạc quan, khát vọng hạnh
phúc gia đình…
- Về nghệ thuật: tâm lý, tính cách của nhân vật Tràng được khắc họa một cách sinh động, chân thực
chủ yếu qua cử chỉ, hành động, lời nói (những yếu tố bên ngoài).
TH.S NGUYỄN NGỌC ĐOAN TRANG – GV CHUYÊN VĂN THPT NGUYỄN THƯỢNG HIỀN & PHỔ THÔNG NĂNG KHIẾU ĐHQG.TPHCM
TÀI LIỆU HƯỚNG DẪN PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC KHỐI ⑫ #Tự_học_theo_vấn_đề

Bà cụ Tứ
Đêm hôm trước Sáng hôm sau
1. Lai lịch: Là một bà mẹ nghèo, già nua, dân ngụ cư. *** Không chỉ chấp nhận, cụ còn bày
2. Chân dung: Dáng đi lọng khọng, chậm chạp, run rẩy, vừa đi tỏ niềm vui, niềm cảm thông và trân
vừa ho húng hắng; “lẩm nhẩm tính toán theo thói quen trọng đối với người con dâu nhặt,
người già”. bày tỏ thái độ vun đắp của bà với
3. Phẩm chất, tính cách: thương con & nhân hậu. hạnh phúc của con:
Khi nhìn người phụ nữ mà con mình đưa về làm vợ, ­ Niềm vui thể hiện trong nét mặt:
tâm trạng bà cụ Tứ diễn biến thật phức tạp: “Cái mặt bủng beo u ám của bà rạng
­ Bà sững sờ không hề hay biết chuyện anh con trai đã nhặt rỡ hẳn lên”.
một người vợ về, thấy người đàn bà lạ trong nhà, bà rất ngạc ­ Niềm vui thể hiện trong suy nghĩ:
nhiên: “quái, sao lại có một người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ?” thu xếp cửa nhà cho quang quẻ, nền
“người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình nếp thì cuộc đời họ có thể khác đi,
thế kia?”, “sao lại chào mình bằng u?” làm ăn có cơ khấm khá hơn (“ai
­ Sau tất cả sự ngạc nhiên, bà đã hiểu ra “biết bao nhiêu cơ giàu ba họ, ai khó ba đời… Có ra thì
sự”, “Bà lão hấp háy mắt cho đỡ nhoèn vì tự dung bà thấy mắt con cái chúng mày về sau.”)
mình nhoèn ra thì phải…” ­ Niềm vui thể hiện trong hành động:
­ Bà thương, buồn tủi cho con trai phải lấy vợ nhặt, mà trong + Bà lão xăm xăm thu dọn, quét
cảnh đói khát mới lấy được vợ “Chao ôi”, “người ta dựng vợ tước nhà cửa”.
gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm làm nổi... còn + Làm bữa cơm sáng, bữa cơm
mình thì ...”. đầu tiên có con dâu như một
­ Bà cũng thấy hờn tủi cho chính mình, có lỗi với con trai bởi bữa “tiệc” với món cháo loãng
không thể lo được chuyện dựng vợ gả chồng cho con chu và món “chè khoán” đắng chát –
đáo. một bữa ăn ngày đói rất thảm
­ Bà cảm thương cho người đàn bà khốn khổ cùng đường mới hại nhưng bà cụ cố tạo ra niềm
phải lấy con trai bà, thương cho cả sự ngờ nghệch của đứa vui để động viên an ủi con trai,
con trai: “Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người con dâu.
ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được ... ” ­ Niềm vui thể hiện trong lời nói:
­ Bà mừng vì con trai đã yên bề gia thất: “các con đã phải + Bà cụ “nói toàn chuyện vui, toàn
duyên phải kiếp... u cũng mừng lòng” chuyện sung sướng sau này’’.
­ Bà dần lo lắng cho cuộc sống các con sau này: “chúng nó có + Bà bảo ban các con làm ăn: “khi
nuôi nhau sống qua được cơn đói khát này không”, “vợ chồng nào có tiền ta mua lấy đôi gà,
chúng nó lấy nhau, cuộc đời chúng nó liệu có hơn bố mẹ trước ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy
kia không” mà có đàn gà cho xem”.
­ Bà đối xử tốt với nàng dâu mới bằng sự cảm thông, trân  Trải qua những thăng trầm của
trọng: cuộc đời nghèo khổ, bên bờ vực
+ Ân cần quan tâm con: “Con ngồi đây ... đỡ mỏi chân” thẳm của cái đói, cái chết, bà cụ
+ Bà nghĩ trong lòng với niềm trìu mến “nó bây giờ đã là Tứ vẫn có niềm tin vào tương lai.
dâu, là con trong gia đình” Đó là nét lạc quan cố hữu của
+ Bà nói với con: “Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương người nông dân.
quá!” Lời nói giản dị mà sâu đậm.
Đánh giá chung
- Về nội dung: Bà cụ Tứ là hiện thân của những người mẹ nghèo khổ mà từng trải, hiểu biết, hết lòng
thương yêu con, yêu thương những cảnh đời tội nghiệp, oái oăm. Bà nung nấu một khát vọng về cuộc
sống gia đinh hạnh phúc. Trong cái thân hình khẳng khiu, tàn tạ, với “cái mặt bủng beo, u tối” bà vẫn
nung nấu một ý chí sống mãnh liệt.
- Về nghệ thuật: tâm lý tâm lý, tính cách của nhân vật bà cụ Tứ được khắc họa một cách sinh động,
chân thực, khi thì hướng nội (độc thoại nội tâm), khi thì hướng ngoại (qua những yếu tố bên ngoài).
Vấn đề 4: Giá trị hiện thực
Truyện ngắn là bức tranh hiện thực cô đúc mà đầy đủ, khái quát mà cụ thể, khắc sâu thành ấn tượng rõ
nét, về nạn đói năm 1945 ở nông thôn miền Bắc trước Cách mạng.
­ Bức tranh toàn cảnh: Cái đói bao trùm con người (người dân xóm ngụ cư – người sống cũng như
người chết), không gian (mùi tử khí, âm thanh ghê rợn – tiếng quạ gào và tiếng người khóc), thời gian
(tác phẩm mở đầu bằng một buổi chiều chạng vạng).

TH.S NGUYỄN NGỌC ĐOAN TRANG – GV CHUYÊN VĂN THPT NGUYỄN THƯỢNG HIỀN & PHỔ THÔNG NĂNG KHIẾU ĐHQG.TPHCM
TÀI LIỆU HƯỚNG DẪN PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC KHỐI ⑫ #Tự_học_theo_vấn_đề

­ Bức tranh cận cảnh: Cái đói đến với số phận từng con người không chừa một ai, đẩy họ đến bờ vực
thẳm của cái chết (người dân xóm ngụ cư, bà cụ Tứ, Tràng, cô vợ nhặt).
­ Bức tranh dự báo: Cái đói sẽ bị xua tan với hình ảnh lá cờ đỏ của Việt Minh hiện lên trong óc Tràng ở
cuối tác phẩm
Vấn đề 5: Giá trị nhân đạo
Truyện ngắn là:
- Tiếng nói thương cảm: cho những con người trong nạn đói, đặc biệt là người phụ nữ (bị biến hình về
nhân dạng và nhân cách; bị biến thành người “vợ nhặt”).
- Tiếng nói tố cáo: tội ác của thực dân Pháp, phát xít Nhật đã gây ra nạn đói khủng khiếp, đẩy con người
đến chỗ thân phận rẻ mạt.
- Tiếng nói ca ngợi vẻ đẹp của con người: những tình cảm cao đẹp (tình mẫu tử, tình người) và những
khát vọng chân chính (khát vọng hạnh phúc gia đình, khát vọng đổi đời).
- Qua đó, mở ra hướng đi cho con người: dù trong hoàn cảnh khốn khó nhất, vẫn hãy cố giữ tình người
và đừng đánh mất đi niềm tin, niềm lạc quan vào tương lai.
Vấn đề 6: Nghệ thuật
a) Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện: Tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn
b) Nghệ thuật xây dựng nhân vật: Thể hiện chân thực, sinh động diễn biến tâm lý nhân vật.
c) Nghệ thuật trần thuật:
­ Đảo lộn trật tự thời gian, không gian một cách hợp lý, hấp dẫn.
­ Đối thoại tự nhiên, hóm hỉnh, vừa có tác dụng dẫn dắt câu chuyện, vừa góp phần thể hiện tính cách,
tâm lý nhân vật.
­ Kết hợp hài hòa giữa lời kể trực tiếp và nửa trực tiếp.
­ Hình ảnh sinh động, độc đáo, giàu ý nghĩa biểu trưng.

TH.S NGUYỄN NGỌC ĐOAN TRANG – GV CHUYÊN VĂN THPT NGUYỄN THƯỢNG HIỀN & PHỔ THÔNG NĂNG KHIẾU ĐHQG.TPHCM
TÀI LIỆU HƯỚNG DẪN PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC KHỐI ⑫ #Tự_học_theo_vấn_đề

CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA (Nguyễn Minh Châu)


Vấn đề 1: Khái quát tác giả và tác phẩm
Nguyễn Minh Châu “thuộc một trong số nhà văn mở đường tinh anh và tài năng nhất của văn học
ta hiện nay”. Sự tinh anh và tài năng ấy trước hết thể hiện ở quá trình đổi mới tư duy nghệ thuật. Trong
văn học cách mạng trước năm 1975, thước đo giá trị chủ yếu của nhân cách là sự cống hiến, hi sinh cho
cách mạng, là các tiêu chuẩn đạo đức cách mạng được thể hiện chủ yếu trong mối quan hệ với kẻ thù, với
đồng chí, đồng bào. Sau năm 1975, văn chương trở về với đời thường và Nguyễn Minh Châu là một trong
số nhà văn đầu tiên của thời kì đổi mới đã đi sâu khám phá sự thật đời sống ở bình diện đạo đức thế sự.
Khi làm cho người đọc ý thức về sự thật, có khả năng nhìn thẳng vào sự thật, phát hiện nhiều mối quan
hệ xã hội phức tạp, chằng chịt, thì văn chương đã ít nhiều đáp ứng được cái nhu cầu nhìn nhận và hoàn
thiện nhiều mặt nhân cách con người.
Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa là phát hiện về đời sống và con người theo hướng đó. Bao
nghịch lý đời thường được mở ra: một người trưởng phòng thông minh muốn có tờ lịch “tĩnh vật hoàn
toàn” nhưng thực tế không thể tước bỏ hình ảnh con người; một nghệ sĩ săn được cảnh thuyền và biển
thật đẹp thì chính từ cảnh đó lại xuất hiện những cái thật xấu; một người đàn bà bị chồng hành hạ vô lý
nhưng không bao giờ muốn từ bỏ kẻ độc ác ấy; những chiến sĩ nhiệt thành từng chiến đấu giải phóng
miền Nam khỏi nanh vuốt quân xâm lược nhưng lại không thể làm thế nào để giải thoát cho một người
đàn bà bất hạnh,... Đấy là những minh chứng sinh động cho cách nhìn đa diện của Nguyễn Minh Châu,
như chính ông từng khẳng định: “Nhà văn có quyền nhìn sự vật một cách đơn giản,và nhà văn cần phấn
đấu để đào xới bản chất con người vào các tầng sâu lịch sử”.
Vấn đề 2: Hai phát hiện của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng
Phát hiện thứ nhất đầy thơ mộng: Vẻ đẹp của chiếc thuyền ngoài xa.
Để có tấm lịch nghệ thuật về thuyền và biển theo yêu cầu của trường phòng, Phùng đã tới một
vùng biển từng là chiến trường cũ của anh, đã dự tính bố cục, đã “phục kích” mấy buổi sáng để “chộp”
được một cảnh thật ưng ý. Giây phút ấy đã tới, đôi mắt nhà nghề của người nghệ sĩ đã phát hiện ra một
vẻ đẹp “trời cho” trên mặt biển mờ sương, vẻ đẹp mà cả đời bấm máy có lẽ anh chỉ có diễm phúc bắt gặp
được một lần: “… trước mặt tôi là một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một
nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù màu trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời
chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang
hướng mặt vào bờ. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua cái mắt lưới… toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến
ánh sáng đều hoài hóa và đẹp… tôi tưởng chính mình vừa khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện,
khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”.
Niềm hạnh phúc của người nghệ sĩ chính là cái hạnh phúc trong khám phá và sáng tạo, của sự cảm
nhận cái đẹp tuyệt diệu. Dường như trong hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa giữa trời biển mờ sương, anh
đã bắt gặp cái tận Thiện, tận Mĩ, thấy tâm hồn mình như được gột rửa, trở nên thật trong trẻo, tinh khôi
bởi cái đẹp hài hòa, lãng mạn của cuộc đời.
Phát hiện thứ hai đầy nghịch lý: sự việc ở gia đình hàng chài.
Phùng đã từng có “cái khoảnh khắc hạnh phúc tràn ngập tâm hồn mình, do cái đẹp tuyệt đỉnh của
ngoại cảnh vừa mang lại”, anh đã từng chiêm nghiệm “bản thân cái đẹp chính là đạo đức”, vậy mà hóa ra
đằng sau cái đẹp “toàn bích, toàn thiện” mà anh vừa bắt gặp trên mặt biển xa lại chẳng phải là “đạo đức”,
là “chân lí của sự toàn thiện”. Anh đã chứng kiến từ chiếc thuyền ngư phủ đẹp như trong mơ ấy bước ra
một người đàn bà xấu xí, mệt mỏi và cam chịu; một lão đàn ông thô kệch, dữ dằn, độc ác, coi việc đánh
vợ như một phương cách để giải tỏa những uất ức, khổ đau. Phùng đã từng là người lính cầm súng chiến
đấu để có vẻ đẹp thanh bình của thuyền biển mênh mông, anh không thể chịu được khi chứng kiến cảnh
lão đàn ông đánh vợ một cách vô lí và thô bạo. Nhưng anh chưa kịp xông ra thì thằng Phác, con trai lão,
đã kịp tới để che chở cho người mẹ đáng thương. Chỉ đến lần thứ 2, khi lại phải chứng kiến cảnh ấy,
Phùng mới thể hiện được bản chất người lính là không thể làm ngơ trước sự bạo hành của cái ác.
Phùng cay đắng nhận thấy những cái ngang trái, xấu xa, những bị kịch trong gia đình thuyền chài
kia đã là thứ thuốc rửa quái đản làm những thước phim huyền diệu mà anh dày công chụp được bỗng
hiện hình thật khủng khiếp, ghê sợ.

TH.S NGUYỄN NGỌC ĐOAN TRANG – GV CHUYÊN VĂN THPT NGUYỄN THƯỢNG HIỀN & PHỔ THÔNG NĂNG KHIẾU ĐHQG.TPHCM
TÀI LIỆU HƯỚNG DẪN PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC KHỐI ⑫ #Tự_học_theo_vấn_đề

Vấn đề 3: Ý nghĩa đằng sau câu chuyện của người đàn bà ở tòa án
Câu chuyện của người đàn bà hàng chài ở tòa án huyện là câu chuyện về sự thật cuộc đời, nó giúp
những người như Phùng và Đẩu hiểu được nguyên do của những điều tưởng như vô lý.
Bề ngoài, đó là một người đàn bà quá nhẫn nhục, cam chịu, bị chồng thường xuyên hành hạ, đánh
đập thật khốn khổ “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”, vậy mà vẫn nhất quyết gắn bó với
lão đàn ông vũ phu ấy. Chỉ qua những lời giãi bày thật tình người mẹ đáng thương đó mới thấy nguồn
gốc mọi sự chịu đựng, hi sinh của bà là tình thương vô bờ đối với những đứa con: “… đám đàn bà hàng
chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng
đặng một sắp con nhà nào cũng trên dưới chục đứa… phải sống cho con chứ không thể sống cho mình…”
Nếu hiểu sự việc một cách đơn giản, chỉ cần yêu cầu người đàn bà bỏ chồng là xong. Nhưng nếu nhìn vấn
đề một cách thấu suốt sẽ thấy suy nghĩ và xử sự của bà là không thể khác được. Trong khổ đau triền
miên, người đàn bà ấy vẫn chắt lọc được những niềm hạnh phúc nhỏ nhoi: “Vui nhất là lục ngồi nhìn đàn
con chúng tôi nó ăn no…”, “trên chiếc thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận, vui
vẻ”; “Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn...”.
Qua câu chuyện của người đàn bà, ta càng thấy rõ: không thể dễ dãi, đơn giản trong việc nhìn nhận
mọi sự việc, hiện tượng của cuộc sống.
Vấn đề 4: Các nhân vật
Tác giả chỉ gọi là “người đàn bà” một cách phiếm định. Tuy không có tên tuổi cụ thể, một người vô
danh như biết bao người đàn bà vùng biển khác, nhưng số phận con người ấy được tác giả tập trung thể
hiện và được người đọc quan tâm nhất trong truyện ngắn này. Trạc ngoài 40, thô kệch, rỗ mặt, lúc nào
cũng xuất hiện với “khuôn mặt mệt mỏi”, người đàn bà ấy gợi ấn tượng về một cuộc đời nhọc nhằn, lam
lũ. Bà thầm lặng chịu đựng mọi đớn đau, khi bị chồng đánh “không hề kêu lên một tiếng, không chống
trả, cũng không tìm cách chạy trốn”, bà coi đó là lẽ đương nhiên, chỉ đơn giản bởi trong một cuộc mưu
sinh đầy cam go, trên chiếc thuyền kiếm sống ngoài biển xa cần có một người đàn ông khỏe mạnh và biết
nghề, chỉ vì những đứa con của bà cần được sống và lớn lên. “… tình thương con cũng như nỗi đau, cũng
như cái sự thâm trầm trong việc hiểu thấu các lẽ đời hình như mụ chẳng bao giờ để lộ rõ rệt ra bề ngoài”
– một sự cam chịu nhẫn nhục như thế thật đáng chia sẻ, cảm thông. Thấp thoáng trong người đàn bà ấy
là bóng dáng của biết bao người phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, lòng vị tha, đức hi sinh.
Hệ thống luận điểm phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài
Số ­ Dáng vẻ thô kệch, lam lũ: Người đàn bà trạc ngoài bốn mươi tuổi, khuôn mặt rỗ, mệt mỏi,
phận tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới.
bi ­ Hoàn cảnh đau khổ: Người đàn bà thường xuyên bị người chồng vũ phu đánh đập tàn bạo,
thương nhưng lại chịu đựng một cách nhẫn nhục.
­ Giàu tình thương yêu, giàu đức hi sinh thầm lặng:
+ Vì cuộc sống của con mà người đàn bà hàng chài nhẫn nhục chịu đựng những trận đòn
vũ phu của người chồng (cần chỗ dựa kiếm sống để nuôi con khôn lớn).
+ Vì con, không muốn con nhìn thấy cảnh mình phải chịu đựng những trận đòn nên người
Phẩm đàn bà xin chồng có đánh mình thì “lên bờ mà đánh” và đánh ở chỗ khuất, không đánh
chất trước mặt con.
cao + Người đàn bà hàng chài van xin con đừng căm thù bố, mong muốn tình phụ tử không bị
đẹp đổ vỡ.
­ Khao khát và luôn hướng tới hạnh phúc gia đình:
+ Kiên quyết không li dị chồng vì thương con, vì mái ấm gia đình.
+ Nâng niu những niềm vui hiếm hoi, niềm hạnh phúc nhỏ bé trong cuộc sống gia đình: lúc
vợ chồng con cái sống hòa thuận, lúc các con được ấm no.
Ý nghĩa ­ Qua nhân vật người đàn bà hàng chài, tác giả làm nổi bật vẻ đẹp của tình mẫu tử và khát
tư vọng được sống trong tình yêu thương, trong hạnh phúc gia đình của người phụ nữ.
tưởng ­ Với nhân vật người đàn bà hàng chài, tác phẩm làm sáng rõ nhận thức về con người, về đời
được sống: không đơn giản, không một chiều mà đa diện, phức tạp; vẻ đẹp phẩm chất khuất lấp
gửi bên trong vẻ ngoài lam lũ, thô kệch.
gắm

TH.S NGUYỄN NGỌC ĐOAN TRANG – GV CHUYÊN VĂN THPT NGUYỄN THƯỢNG HIỀN & PHỔ THÔNG NĂNG KHIẾU ĐHQG.TPHCM
TÀI LIỆU HƯỚNG DẪN PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC KHỐI ⑫ #Tự_học_theo_vấn_đề

Vốn là người lính chiến từng vào sinh ra tử, Phùng căm ghét mọi sự áp bức bất công, sẵn sàng làm
tất cả vì điều thiện, lẽ công bằng. Anh thực sự xúc động, ngỡ ngàng trước vẻ đẹp tinh khôi của thuyền
biển trước bình minh. Một người nhạy cảm như anh tránh sao khỏi nỗi tức giận khi phát hiện ra ngay
sau cảnh đẹp chiếc thuyền ngoài xa là sự bạo hành của cái xấu, cái ác. Mới đầu, chứng kiến cảnh ông lão
đánh vợ và người vợ nhẫn nhục chịu đựng, Phùng hết sức “kinh ngạc”, anh “há mồm ra mà nhìn”, rồi sau
một phản xạ tự nhiên, anh “vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới”. Hành động ấy nói được nhiều
điều. Chiếc thuyền nghệ thuật thì ở ngoài xa, một khoảng cách đủ để tạo nên vẻ đẹp huyền ảo, nhưng sự
thật cuộc đời lại rất gần. Đừng vì nghệ thuật và quên cuộc đời, bởi lẽ nghệ thuật chân chính luôn là cuộc
đời và vì cuộc đời. Trước khi là một nghệ sĩ biết rung động trước cái đẹp, hãy là một con người biết yêu
ghét, vui buồn trước mọi lẽ đời thường tình, biết hành động để có một cuộc sống xứng đáng với con
người.
Hệ thống luận điểm phân tích nhân vật nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng
Vai trò, ­ Là nhân vật chính, là người kể chuyện, kể lại sự việc mà mình chứng kiến.
vị trí ­ Cái nhìn của nhân vật Phùng cũng là cái nhìn của tác giả.
Phẩm - Phùng với tư cách một nghệ sĩ:
chất cao + Phùng say mê đi tìm cái đẹp (công phu, kiên trì, lang thang hàng tuần trên biển để tìm
đẹp & ý cảnh đẹp), rung cảm trước vẻ đẹp của thiên nhiên và cuộc sống (xúc động khi nhìn
nghĩa cảnh “chiếc thuyền ngoài xa”), biết phát hiện, lựa chọn cái đẹp (chụp bức ảnh có sự hài
tư hòa về đường nét, màu sắc), mang cái đẹp đến cho đời.
tưởng + Phùng nhận ra giữa nghệ thuật và đời sống còn khoảng cách, có độ vênh (nghệ thuật
được mang vẻ đẹp huyền ảo, thơ mộng; còn đời sống thì trần trụi, khắc nghiệt).
gửi gắm + Phùng thấy mình cần phải nhìn thẳng vào sự thực đời sống dù sự thực đó hết sức đắng
cay; cần phải xóa đi khoảng cách giữa nghệ thuật với đời sống, nghệ thuật chân chính
không xa lạ với số phận con người, đừng vì nghệ thuật mà quên cuộc đời.
- Phùng với tư cách một công dân:
+ Phùng từng là người lính trong trong thời kháng chiến chống Mĩ. Sau chiến thắng giặc
ngoại xâm, vẫn còn cuộc chiến đấu mới là chống đói nghèo, lạc hậu, trong đó có bạo
lực gia đình. Với bản chất của người lính, Phùng không thể làm ngơ trước cái ác, anh
đã đánh nhau với gã chồng vũ phu và bị thương nhẹ.
+ Phùng có nhận thức mới về cuộc sống: Cuộc sống đa dạng, phức tạp, không đơn giản,
một chiều. Vì vậy, cần giải quyết những vấn đề của đời sống không chỉ bằng sách vở
mà còn phải xuất phát từ thực tế. Cần có giải pháp thiết thực để nâng cao cả nhân cách
người và mức sống người.
Có lẽ cuộc sống đói nghèo, vất vả, quẩn quanh bao nhiêu lo toan, cực nhọc đã biến “ anh con trai
cục tính, hiền lành” xưa kia thành một người chồng vũ phu, một lão đàn ông độc ác. Cứ khi nào thấy khổ
quá là lão đánh vợ, đánh như để giải tỏa uất ức, để trút cho sạch nỗi tức tối, buồn phiền: “lão trút cơn
giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà”. Trong đời vẫn có
những kẻ như thế, nói như Nam Cao trước kia, chỉ để thỏa mãn lòng ích kỉ, chúng tự cho mình cái quyền
hành hạ mọi người. Lão đàn ông “mái tóc tổ quạ”, “chân chữ bát”, “hai con mắt đầy vẻ độc dữ” vừa là nạn
nhân của cuộc sống khốn khổ, vừa là thủ phạm gây nên bao đau khổ cho chính những người thân của
mình. Phải làm sao để nâng cao cái phần thiện, cái phần người trong những kẻ thô bạo ấy.
Trong một gia đình mà bố mẹ có chuyện lục đục, đáng thương nhất là những đứa trẻ. Chúng bị đẩy
vào tình thế thật khó xử: biết đứng về phía ai, biết làm thế nào để trọn đạo làm con? Chị thằng Phác, một
cô bé yếu ớt mà can đảm, đã phải vật lộn để tước con dao của thằng em trai, không cho nó làm một việc
trái với luân thường đạo lý. Chắc trong lòng cô bé tan nát vì đau đớn: bố điên cuồng hành hạ mẹ; chỉ vì
thương mẹ mà thằng em định cầm dao ngăn bố. Cô bé lúc ấy là điểm tựa vững chắc của người mẹ đáng
thương, cô đã hành động đúng đắn khi cản được việc làm dại dột của đứa em, lại biết chăm sóc, lo toan
khi mẹ phải đến tòa án huyện. Còn thằng Phác lại thương mẹ theo kiểu một đứa con còn nhỏ, theo cái
cách một đứa con trai vùng biển; “nó lặng lẽ đưa mấy ngón tay khẽ sờ trên khuôn mặt người mẹ, như
muốn lau đi những giọt nước mắt chứa đầy trong những nốt rỗ chằng chịt”, nó “tuyên bố với các bác ở
xưởng đóng thuyền rằng nó còn có mặt ở dưới biển này thì mẹ nó không bị đánh”. Mặc dù thật khó chấp
nhận kiểu bảo vệ mẹ của nó, nhưng hình ảnh thằng Phác vẫn khiến người ta cảm động vì tình thương mẹ
dạt dào.

TH.S NGUYỄN NGỌC ĐOAN TRANG – GV CHUYÊN VĂN THPT NGUYỄN THƯỢNG HIỀN & PHỔ THÔNG NĂNG KHIẾU ĐHQG.TPHCM
TÀI LIỆU HƯỚNG DẪN PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC KHỐI ⑫ #Tự_học_theo_vấn_đề

Vấn đề 5: Ý nghĩa tư tưởng của tác phẩm


a) Tư tưởng nhân đạo
­ Lên án thói vũ phu tàn bạo, báo động về tình trạng bạo lực gia đình:
+ Tác giả miêu tả hành động vũ phu của người chồng với thái độ lên án, miêu tả người đàn ông này
như một con thú dữ không còn nhân tính (chứ không dửng dưng, khách quan).
+ Thái độ lên án thói vũ phu còn được thể hiện qua những hành động ngăn cản sự vũ phu (hành
động của Phác ngăn cản cha, căm giận cha; hành động của Phùng đánh nhau với người chồng vũ
phu và bị thương nhẹ).
­ Phát hiện, ca ngợi vẻ đẹp người còn tiềm ẩn.
Ca ngợi vẻ đẹp của tình mẫu tử: Người đàn bà hàng chài nhẫn nhục chịu đựng sự vũ phu của người
chồng, tất cả là vì con. Cậu bé Phác vì thương mẹ mà căm giận cha, phản ứng lại cha (dù là phản ứng
tự nhiên, bộc phát).
­ Lên tiếng bảo vệ khát vọng được sống trong tình yêu thương, yên bình của trẻ thơ, hướng tới giải
pháp xã hội:
+ Nhà văn thấu hiểu vết thương lòng của những đứa trẻ do bạo lực gia đình gây ra.
+ Nỗi lo âu đầy trách nhiệm của tác giả được thể hiện qua nỗi băn khoăn cậu bé Phác sẽ thành người
như thế nào nếu môi trường sống không được thay đổi.
­ Từ đó tác giả hướng tới giải pháp xã hội: Để con người thoát khỏi cảnh đau khổ, tăm tối, man rợ, để
chấm dứt tình trạng bạo hành thì vừa phải nâng cao nhân cách người, vừa phải nâng cao mức sống
người.
b) Cách nhìn cuộc sống và con người, mối quan hệ giữa nghệ thuật với đời sống
­ Cách nhìn cuộc sống và con người:
+ Cuộc sống phong phú, phức tạp chứ không đơn giản, một chiều. Trong cái tưởng chừng như nghịch
lí lại chứa đựng những điều hữu lí (chánh án Đẩu không chấp nhận sự chịu đựng phi lí của người
đàn bà hàng chài, nhưng sau đó anh đã nhận ra cái lí sâu sắc: người vợ cần có chỗ dựa trong cuộc
sống mưu sinh, tất cả vì các con).
+ Không nên có cái nhìn hời hợt mà phải nhìn sâu vào bản chất đời sống để có những giải pháp xuất
phát từ thực tế và phù hợp với thực tế.
­ Mối quan hệ giữa nghệ thuật với đời sống. Mối quan hệ giữa nghệ thuật với đời sống gợi lên từ nhan
đề “Chiếc thuyền ngoài xa” và toàn bộ nội dung tác phẩm:
+ Nhan đề “Chiếc thuyền ngoài xa” như một gợi ý về khoảng cách, về cự li nhìn nhận đời sống. Chiếc
thuyền nghệ thuật thì ở xa, một khoảng cách đủ để tạo nên vẻ đẹp huyền ảo, nhưng sự thực đời
sống lại ở rất gần mà nhiều khi ta không nhận ra.
+ Giữa nghệ thuật và đời sống có khoảng cách, có độ chênh. Đó là độ chênh giữa cái đẹp tuyệt đỉnh
ở ngoại cảnh và sự thật trần trụi, khắc nghiệt của đời sống. (Chiếc thuyền ngoài xa đẹp như mơ,
khi vào bờ thì từ đó bước ra một người đàn bà xấu xí, mệt mỏi và cam chịu, một lão đàn ông dữ
dằn, độc ác, coi việc đánh vợ như một phương cách để giải tỏa những nỗi uất ức, bế tắc, khổ đau).
+ Người nghệ sĩ đừng vì nghệ thuật mà quên cuộc đời. Nghệ thuật chân chính luôn vì cuộc đời, vì con
người. (Được thể hiện qua ý nghĩa chi tiết nghệ thuật ở phần cuối tác phẩm: Nhìn bức ảnh lịch,
nghệ sĩ Phùng nhớ lại cảnh biển đẹp, nên thơ, nhưng nếu nhìn lâu hơn, anh thấy người đàn bà đau
khổ, lam lũ bước ra từ tấm ảnh và rồi người đàn bà ấy hòa lẫn vào trong đám đông).

TH.S NGUYỄN NGỌC ĐOAN TRANG – GV CHUYÊN VĂN THPT NGUYỄN THƯỢNG HIỀN & PHỔ THÔNG NĂNG KHIẾU ĐHQG.TPHCM
TÀI LIỆU HƯỚNG DẪN PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC KHỐI ⑫ #Tự_học_theo_vấn_đề

Vấn đề 6: Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện độc đáo
Tình huống truyện là sự kiện có ý nghĩa bộc lộ mối quan hệ, bộc khả năng ứng xử, thử thách phẩm
chất, tính cách, đôi khi tạo ra những bước ngoặt trong tư tưởng, tình cảm, trong cuộc đời con người.
Với Phùng, việc chứng kiến lão đàn ông đánh vợ là một sự kiện như thế. Trước đó, Phùng nhìn đời
bằng con mắt nghệ sĩ, anh rung động, say mê trước vẻ đẹp “trời cho” của thuyền biển sớm mai. Chính
trong giây phút tâm hồn thăng hoa những cảm xúc lãng mạn nhất, anh bất ngờ chứng kiến đôi vợ chồng
từ con thuyền “thơ mộng” bước xuống, rồi lão đàn ông đánh vợ một cách dã man và vô lí. Tình huống đó
được lặp lại một lần nữa, Phùng không chỉ chứng kiến người đàn bà nhẫn nhục chịu đựng mà còn thấy
được thái độ, hành động của chị em thằng Phác trước sự hung bạo của cha với mẹ. Từ đó đến cuối truyện,
Phùng đã có một cách nhìn đời khác hẳn. Anh thấy rõ những cái ngang trái trong gia đình thuyền chài
ấy, hiểu sâu thêm tính cách người đàn bà, chị em thằng Phác, hiểu sâu thêm bản chất người đồng đội của
anh (Đẩu) và hiểu thêm chính mình.
Tình huống truyện mang ý nghĩa khám phá, phát hiện về đời sống, được tác giả đẩy lên cao trào và
ngày càng xoáy sâu hơn để phát hiện tính cách con người và sự thật cuộc đời.
Vấn đề 7: Ngôn ngữ người kể chuyện và ngôn ngữ nhân vật
Ngôn ngữ kể chuyện và ngôn ngữ nhân vật trong truyện ngắn này cũng rất đáng chú ý.
Người kể chuyện ở đây là nhân vật Phùng, hay nói đúng hơn, đó là sự hóa thân của tác giả vào nhân
vật Phùng. Việc chọn người kể chuyện như thế đã tạo nên một điểm nhìn trần thuật sắc sảo, tăng cường
khả năng khám phá đời sống của tình huống truyện. Lời kể chuyện trở nên khách quan, chân thật, giàu
sức thuyết phục.
Ngôn ngữ các nhân vật phù hợp với đặc điểm tính cách của từng người: giọng điệu lão đàn ông
thật thô bỉ, tàn nhẫn với những từ ngữ đầy vẻ tục tằn, hung bạo; những lời của người đàn bà thật dịu
dàng và xót xa khi nói với con, thật đớn đau và thấu trải lẽ đời khi nói về thân phận của mình; những lời
của Đẩu ở tòa án huyện rõ là giọng điệu của một người tốt bụng, nhiệt tình…
Việc sử dụng ngôn ngữ rất linh hoạt, sáng tạo như thế đã góp phần khắc sâu thêm chủ đề - tư tưởng
của truyện ngắn.

TH.S NGUYỄN NGỌC ĐOAN TRANG – GV CHUYÊN VĂN THPT NGUYỄN THƯỢNG HIỀN & PHỔ THÔNG NĂNG KHIẾU ĐHQG.TPHCM
TÀI LIỆU HƯỚNG DẪN PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC KHỐI ⑫ #Tự_học_theo_vấn_đề

HỒN TRƯƠNG BA, DA HÀNG THỊT (Lưu Quang Vũ)


Vấn đề 1: Khái quát tác giả và tác phẩm
Lưu Quang Vũ (1948-1988) được coi là một trong những nhà soạn kịch tài năng nhất của nền văn
học nghệ thuật Việt Nam hiện đại với hàng loạt những vở kịch gây chấn động dư luận. Tác phẩm là một
trong những vở kịch đặc sắc nhất của ông. Vở kịch được sáng tác năm 1981, đến năm 1984 mới ra mắt
công chúng. Đoạn trích nằm ở cảnh VII và màn kết của tác phẩm.
Hồn Trương Ba, da hàng thịt được viết năm 1981 và ra mắt công chúng năm 1984. Công cuộc đổi
mới đất nước đã làm thay đổi đời sống xã hội và đời sống văn học. Không khí đổi mới đất nước đã tạo
điều kiện thuận lợi để phát huy tài năng sáng tạo của Lưu Quang Vũ. Khát vọng về cái đẹp, cái thiện, khát
vọng về sự hoàn thiện nhân cách con người vừa là ý thức công dân, vừa là nhiệt hứng sáng tạo của Lưu
Quang Vũ. Lúc ấy, với Lưu Quang Vũ, viết kịch chính là sự tham dự, góp phần vào công cuộc đổi mới
nhanh nhạy và có hiệu quả.
Tóm tắt diễn biến vở kịch:
a) Nguồn gốc: Do sự tắc trách của quan thiên đình và sự vội vàng của Đế Thích.
b) Phát triển: Trương Ba dằn vặt, đau khổ nhưng đành chấp nhận sự thật trong đớn đau, ngậm ngùi
thấm thía khi nhận thức rằng phải thoả hiệp cùng xác hàng thịt để tồn tại.
c) Đỉnh điểm: Con người vốn nhân hậu, yêu vợ, quý con thương cháu bị đẩy vào một cảnh ngộ đau xót:
bị người thân xa lánh, chối bỏ.
d) Giải quyết: Trước cái chết của cu Tị, Trương Ba từ chối quyền được tái sinh một lần nữa, nhường
quyền sống cho cụ Tị và ra đi mãi mãi, thoát khỏi kiếp “sống nhờ” với nghịch cảnh “bên trong một
đằng, bên ngoài một nẻo”.
Vấn đề 2: Tình huống kịch
- Tình huống kịch diễn biến qua các bước:
+ Hồn Trương Ba cảm thấy không thể sống trong thân xác hành thịt. Hồn muốn tách ra khỏi thân xác
kềnh càng, thô lỗ ấy.
+ Cuộc đối thoại giữa Hồn và Xác với sự giễu cợt tự đắc của Xác khiến Hồn càng khổ đau và cảm thấy
bế tắc.
+ Thái độ cư xử của những người thân trong gia đình: không tin, không thừa nhận Trương Ba, khiến
nhân vật Hồn Trương Ba càng đau khổ, tuyệt vọng, từ đó đi đến quyết định giải thoát.
+ Cuộc gặp gỡ, đối thoại cuối cùng của Hồn Trương Ba với tiên Đế Thích và quyết định dứt khoát
chấm dứt nghịch cảnh đau khổ của Hồn Trương Ba.
- Tình huống kịch nói trên thể hiện những mâu thuẫn, xung đột ở nhân vật Hồn Trương Ba và cách giải
quyết mâu thuẫn ở nhân vật này. Qua đó toát lên ý nghĩa tư tưởng sâu sắc của đoạn trích và cũng là ý
nghĩa tư tưởng chung của vở kịch.
Vấn đề 3: Những mâu thuẫn xung đột ở nhân vật Hồn Trương Ba (Bi kịch của nhân vật)
a) Mâu thuẫn, xung đột giữa Hồn Trương Ba và Xác hàng thịt
(Bi kịch tâm hồn thanh cao phải sống trong thân xác phàm tục)
Có thể nói Trương Ba đã chết một cách vô lí. Ai cũng biết cái chết cái chết của Trương Ba là do sự
vô tâm và tắc trách của Nam Tào. Nhưng sự “sửa sai” của Nam Tào và Bắc Đẩu theo lời khuyên của Đế
Thích nhằm trả lại công bằng cho Trương Ba lại đẩy Trương Ba vào một nghịch cảnh vô lí hơn: linh hồn
mình phải trú nhờ trong thân xác của kẻ khác. Do phải sống nhờ trong thể xác anh hàng thịt, hồn Trương
Ba đành phải chiều theo một số nhu cầu hiển nhiên của xác thịt. Linh hồn nhân hậu, trong sạch, bản tính
ngay thẳng của Trương Ba xưa kia, nay vì phải sống mượn, gá lắp, tạm bợ và lệ thuộc nên chẳng những
đa không sai khiến được xác thịt thô phàm của anh hàng thịt mà trái lại còn bị cái xác thịt ấy điều khiển..
đáng sợ hơn, linh hồn Trương Ba dần dần bị nhiễm độc bởi cái tầm thường của xác thịt anh đồ tể. Ý thức
được điều đó, linh hồn Trương Ba dằn vặt đau khổ và quyết định chống lại bằng cách tách ra khỏi xác
thịt để được tồn tại độc lập, không lệ thuộc vào thể xác. Xác hàng thịt biết rõ những cố gắng đó là vô ích,
đã cười nhạo hồn Trương Ba, tuyên bố về sức mạnh âm u, đui mù ghê gớm của mình, ranh mãnh dồn
hồn Trương Ba và thế đuối lí và hơn nữa, ve vãn hồn Trương Ba thỏa hiệp, vì theo lí lẽ của xác thịt là
“chẳng còn cách nào khác đâu”, vì cả hai “đã hòa vào nhau làm một rồi”. Trước những “lí lẽ ti tiện” của

TH.S NGUYỄN NGỌC ĐOAN TRANG – GV CHUYÊN VĂN THPT NGUYỄN THƯỢNG HIỀN & PHỔ THÔNG NĂNG KHIẾU ĐHQG.TPHCM
TÀI LIỆU HƯỚNG DẪN PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC KHỐI ⑫ #Tự_học_theo_vấn_đề

xác thịt, Trương Ba đã nổi giận đã kinh bỉ, đã mắng mỏ xác thịt hèn hạ nhưng cũng đồng thời ngậm ngùi
thấm thía nghịch cảnh mà mình đã lâm vào, đành nhập trở lại vào xác thịt trong yên lặng.
 Màn đối thoại này cho thấy: ① Trương Ba được trả lại cuộc sống nhưng là một cuộc sống đáng
hổ thẹn vì phải sống chung với sự dung tục và bị sự dung tục đồng hóa. ② Không chỉ dừng lại ở đó, tác
giả cảnh báo: khi con người phải sống trong dung tục thì tất yếu cái dung tục sẽ ngự trị, sẽ thắng thế, sẽ
lấn át và tàn phá những gì trong sạch, đẹp đẽ, cao quý trong con người.
b) Mâu thuẫn, xung đột giữa Hồn Trương Ba và những người thân trong gia đình
(Bi kịch sống giả dối với người thân, không nhận được sự tin yêu của người thân)
Không phải ngẫu nhiên, tác giả không đưa anh con trai thực dụng của Trương Ba vào cuộc đối thoại
của Trương Ba đối với những người thân. Các cuộc đối thoại với vợ, con dâu, con gái càng làm cho Trương
Ba đau khổ hơn. Ông hiểu những gì đã, đang và sẽ gây ra cho người thân là rất tệ hại mặc dù ông không
hề muốn điều đó.
Cũng cần phân tích kĩ sự khác nhau trong thái độ vợ Trương Ba, con dâu và cháu gái trước sự biến
đổi và tha hóa của Trương Ba. Vợ Trương Ba buồn bã, đau khổ nhưng vốn bản tính vị tha nên định
nhường Trương Ba cho cô vợ hàng thịt; con dâu Trương Ba thấu hiểu hoàn cảnh trớ trêu của bố chồng
nhưng là người con hiếu thảo nên chỉ thông cảm và xót xa mà thôi; trái lại, cái Gái, cháu Trương Va thì
phản ứng quyết liệt và dữ dội. Tâm hồn tuổi thơ vốn trong sạch, không chấp nhận sự tầm thường, dung
tục nên không chấp nhận người ông trong thể xác anh hàng thịt thô lỗ. Tuy nhiên, họ chỉ là những người
dân thường, họ không giúp gì được cho tình trạng hiện tại của Trương Ba.
Tình huống kịch thúc đẩy Trương Ba phải lựa chọn và sau màn độc thoại nội tâm (hồn Trương Ba
thách thức xác anh hàng thịt: “Có thật là không còn cách nào khác?” và phản kháng quyết liệt: “Không
cần đến đời sống do mày mang lại. Không cần!”)
c) Cách giải quyết mâu thuẫn, xung đột (con đường giải thoát khỏi bi kịch)
Gặp lại Đế Thích, Trương Ba thể hiện thái độ kiên quyết chối từ, không chấp nhận cái cảnh phải
sống “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo” nữa và muốn mình được là mình một cách “toàn vẹn”.
Lúc đầu đế Thích ngạc nhiên nhưng khi hiểu ra thì khuyên Trương Ba nên chấp nhận vì thế giới vốn
không toàn vẹn” dưới đất, trên trời đều thế cả”. Nhưng Trương Ba không chấp nhận lí lẽ đó. Trương Ba
thẳng thắn chỉ ra sai lầm của Đế Thích: “Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, còn sống như thế nào thì
ông chẳng cần biết”.Lòng tốt hời hợt thực sự chẳng đem lại điều gì tốt cho ai mà sự vô tâm còn tệ hại
hơn, nó đẩy người khác vào nghịch cảnh, bi kịch!
Đế Thích tiếp tục việc “sửa sai” của mình và của Tây Vương Mẫu bằng một giải pháp khác, tệ hại ít
hơn là cho hồn Trương Ba nhập vào xác cu Tị nhưng Trương Ba đã kiên quyết chối từ, không chấp nhận
cảnh sống giả tạo, mà theo ông là chỉ có lợi cho đám chức sắc tức lão lí trưởng và đám trương tuần, không
chấp nhận cái cuộc sống mà theo ông là”khổ hơn là cái chết”. Trương Ba kêu gọi Đế Thích là hãy sửa sai
bằng một việc làm đúng, đó là trả lại linh hồn cho bé Tị. Đế Thích cuối cùng cũng thuận theo lời đề nghị
của Trương Ba với lời nhận xét: “Con người hạ giới các ông thật là kì lạ.”
 Qua màn đối thoại, có thể thấy tác giả gửi gắm nhiều thông điệp vừa trực tiếp vừa gián tiếp, vùa
mạnh mẽ, vừa quyết liệt vừa kín đáo và sâu sắc về thời chúng ta đang sống. Tuy vậy, chỉ cần nhấn mạnh
ở đây vẻ đẹp tâm hồn của con người trong cuộc đấu tranh chống lại sự dung tục, giả tạo để bảo vệ quyền
sống toàn vẹn, hợp với lẽ tự nhiên cùng sự hoàn thiện nhân cách. Chất thơ của kịch Lưu Quang Vũ cũng
được bộc lộ ở đây.
d) Màn kết
Trương Ba trả xác lại cho anh hàng thịt, chấp nhận cái chết để linh hồn được trong sạch và hóa
thân vào các sự vật thân thương, tồn tại vĩnh viễn cạnh những người thân yêu của mình. Cuộc sống lại
tuần hoàn theo quy luật của muôn đời.. Màn kết với chất thơ sâu lắng đã đem lại âm hưởng thanh thoát
cho một bi kịch lạc quan đồng thời truyền đi thông điệp về sự chiến thắng của cái Thiện, cái Đẹp và của
sự sống đích thực.
 Đoạn kết của vở kịch mang không khí ấm áp, toát lên niềm vui của sự đoàn tụ, tiếp nối:
- Ý nghĩa của sự sống và cái chết: Khi Trương Ba chết hẳn, không phải ở trong tình trạng “bên trong
một đằng, bên ngoài một nẻo” nữa lại là lúc ông được sống trong sự gần gũi, tình yêu thương của
những người thân. Những con người cao quý như Trương Ba vẫn có mặt giữa cuộc sống hằng ngày
của gia đình, của mỗi chúng ta.

TH.S NGUYỄN NGỌC ĐOAN TRANG – GV CHUYÊN VĂN THPT NGUYỄN THƯỢNG HIỀN & PHỔ THÔNG NĂNG KHIẾU ĐHQG.TPHCM
TÀI LIỆU HƯỚNG DẪN PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC KHỐI ⑫ #Tự_học_theo_vấn_đề

- Giá trị của những hành động, những lời nói tốt đẹp: Những việc làm, lời nói của những con người như
Trương Ba có ý nghĩa giáo dục các thế hệ sau. Điều tốt lành sẽ được tiếp nối, phát huy mãi mãi qua
các thế hệ.
Vấn đề 4: Ý nghĩa tư tưởng sâu sắc của trích đoạn nói riêng, của vở kịch nói chung
a) Cuộc sống hạnh phúc, có ý nghĩa phải là sự kết hợp hài hòa giữa linh hồn và thể xác (qua cuộc
đối thoại giữa Hồn và Xác)
- Sự tồn tại "hồn này", "xác kia" không những phiền toái mà còn đâu khổ. Không thể có một tâm hồn
thanh cao trong một thể xác phàm tục, tội lỗi.
- Ở trong con người luôn tồn tại cuộc đấu tranh giữa khát vọng vươn lên sự cao thượng, đẹp đẽ với sự
níu kéo của dục vọng, bản năng tầm thường, thấp kém. Chiến thắng cái bản năng, cái giải đối trong
mỗi con người là điều vô cùng khó khăn.
- Khi con người sống chung với sự dung tục sẽ bị sự dung tục lấn ất, chế ngự (sự chế giễu, bỡn cợt Hồn
Trương Ba của Xác hàng thịt; Hồn Trương Ba được trả lại cuộc sống nhưng đó là cuộc sống đáng thổ
hẹn vì Hồn trở nên tầm thường, dung tục trong Xác hàng thịt).
b) Cuộc sống thật đáng quý nhưng không phải là sống bằng bất cứ cách nào, bằng bất cứ kiểu sống
nào (qua cuộc đối thoại giữa Hồn Trương Ba với người thân, với tiên Đế Thích)
- Sống mà đánh mất bản thân, sống giải dối với người và giải dối với mình thì thà chết còn hơn:
+ Hồn Trương Ba tồn tại trong thân xác anh hàng thịt là sống giả dối với người thân trong gia đình
(mọi người đều không nhận ra Hồn Trương Ba, không thừa nhận Hồn Trương Ba).
+ Hồn Trương Ba đánh mất bản thân mình (không còn là Trương Ba trước đây nữa: làm gãy cái chồi
non, giẫm nát cây sâm quý mới ươm, làm gãy nan điều của cu Tị...).
- Sống nhờ, sống gửi, sống chắp vá...thì dù có tồn tại cũng không phải là sống theo đúng nghĩa.
c) Khát vọng vươn tới sự hoàn thiện về nhân cách
- Sống chân thật, sống vì mọi người (Hồn Trương Ba xin cho cu Tị được sống lại, xin trả lại thân xác cho
anh hàng thịt).
- Sự hoàn thiện nhân cách khi con người được là chính mình: "Không thể bên trong một đằng, bên ngoài
một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn".
d) Phê phán một số biểu hiện tiêu cực trong lối sống lúc bấy giờ
- Chạy theo những ham muốn vật chất tầm thường, chỉ thích hưởng thụ, trở thành thô thiển, phàm tục.
- Nhấn mạnh đời sống tinh thần một cách cực đoan: lấy cớ tâm hồn là quý, đời sống tinh thần là đáng
trọng mà không chăm lo thích đáng đến đời sống vật chất, làm cho cuộc sống thiếu thốn, nghèo khổ,
không phấn đấu vì hạnh phúc toàn vẹn (thực chất đây là sự duy ý chí, duy tâm chủ quan).
- Tình trạng con người phải sống giả dối, không dám và không được là chính bản thân mình (bên trong
một đằng, bên ngoài một nẻo).
Vấn đề 5: Đặc sắc nghệ thuật
1. Tình huống kịch phát triển tự nhiên, hợp lí: Mâu thuẫn giữa Hồn và Xác được đẩy tới đỉnh cao, cần
giải quyết. Cái chết của cu Tị có ý nghĩa đẩy nhanh diễn biến kịch đến chỗ "mở nút" (Hồn Trương Ba
phải nhanh chóng, dứt khoát chọn cách giải quyết bởi lẽ cu Tị mới chết, hồn cần nhập luôn vào thể
xác để cu Tị sống lại).
2. Sự kết hợp giữa diễn biến hành động bên ngoài và bên trong: Cùng với diễn biến hành động bên
ngoài (hướng ngoại) là những diễn biến hành động bên trong (hướng nội) thể hiện qua cuộc đối thoại
giữa Hồn và Xác.
3. Ngôn ngữ giàu triết lí: Lời nhân vật với những câu, những đoạn là những châm ngôn mang tính triết
lí, có ý nghĩa như chân lí: "Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là
tôi toàn vẹn", "Có những cái sai không thể sửa được. Chắp vá gượng ép chỉ càng làm sai thêm. Chỉ có
cách là đừng bao giờ sửa sai nữa, hoặc phải bù lại bằng một việc đúng khác"...

TH.S NGUYỄN NGỌC ĐOAN TRANG – GV CHUYÊN VĂN THPT NGUYỄN THƯỢNG HIỀN & PHỔ THÔNG NĂNG KHIẾU ĐHQG.TPHCM

You might also like