Professional Documents
Culture Documents
Tóm-tắt-bài-học-4-tác-phẩm-12-HK2
Tóm-tắt-bài-học-4-tác-phẩm-12-HK2
TH.S NGUYỄN NGỌC ĐOAN TRANG – GV CHUYÊN VĂN THPT NGUYỄN THƯỢNG HIỀN & PHỔ THÔNG NĂNG KHIẾU ĐHQG.TPHCM
TÀI LIỆU HƯỚNG DẪN PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC KHỐI ⑫ #Tự_học_theo_vấn_đề
- Tác động của ngoại cảnh, mùa xuân đến, tiếng sao gọi bạn tình, bữa rượu bên bếp lửa, người ốp đồng.
- Sự thức tỉnh của Mị giống như một sự sống lại, bắt đầu từ sự thức dậy trong tiềm thức những hồi ức,
kỉ niệm quá khứ, rồi Mị sống với tiếng sáo trong lòng, ý thức về thời gian đã trở lại, cùng với nó là
khát vọng sống và ý thức về thân phận của mình.
- Từ ý thức tới hành động (thắp đèn sáng lên, quấn lại tóc, rút váy hoa, chuẩn bị đi chơi).
- Mị vẫn còn sống với những khao khát cháy bỏng ngay cả khi đã bị A Sử trói đứng vào cột.
b/ Sức mạnh phản kháng trong đêm lạnh mùa đông
- Thể hiện qua hành động cắt dây trói cứu A Phủ và tự giải thoát của nhân vật Mị. Phân tích đoạn tả tâm
trạng của Mị trước tình cảnh A Phủ bị trói vào cọc.
- Lúc đầu, A Phủ bị trói, Mị vẫn thản nhiên như một người đã quá quen với mọi cảnh ngang trái trong
nhà Pá Tra, Mị vẫn chìm trong trạng thái gần như “vô cảm”.
- Nhưng rồi một đêm, qua ánh lửa bếp, nhìn sang thấy “một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm
má đã xám đen lại” – biểu hiện sự đau đớn tuyệt vọng của chàng trai gan góc, khỏe mạnh, thì Mị chợt
xúc động, trào lên một nỗi đồng cảm với thân phận của A Phủ, rồi tình thương đã thắng mọi sự sợ hãi.
(Mị nghĩ mình có thể trói thay vào đấy, chết trên cái cọc ấy, nhưng cũng không thấy sợ).
- Tình thương và sự đồng cảm giai cấp đã dẫn đến hành động táo bạo: cắt dây trói cứu A Phủ. Đúng lúc
ấy, khi đã cứu được A Phủ, một hi vọng và khát khao sống lại bừng lên trong Mị và Mị đã chạy theo,
cùng trốn đi với A Phủ, tự giải thoát cho cuộc đời mình.
Mị vốn là một cô gái trẻ, đẹp, hồn nhiên và giàu sức sống. Khi bị đẩy vào tình trạng làm làm con dâu
trừ nợ cho nhà Pá Tra, Mị đã phản kháng quyết liệt nhưng rồi kiếp sống nô lệ triền miên dường như
đã làm cho cô tê liệt mọi sức phản kháng và chỉ còn cam chịu số phận.
Tuy vậy, ở Mị vẫn tiềm tàng một sức sống mạnh mẽ, cùng với khát vọng yêu đương và tự do. Sức sống
của nhân vật này ẩn giấu ở bên trong nội tâm, chỉ được bùng lên trong những thời điểm nhất
định, được biểu hiện ra thành những hành động quyết liệt, táo bạo. Trong suốt nửa đầu của
truyện, hầu như tác giả không để cho nhân vật này có lời đối thoại nào (ngoại trừ câu nói với cha được
dẫn lại trong lời người kể). Nhưng đều càng cho thấy Mị là con người có sức sông nội tâm âm thầm
mà mạnh mẽ.
Vấn đề 4: A Phủ
- A Phủ, người ở trừ nợ nhà thống lí Pá Tra
+ Cũng như Mi, A Phủ được tác giả giới thiệu bằng sự xuất hiện đột ngột, gây chú ý cho người đọc,
rồi mới kể về lai lịch của anh. A Phủ xuất hiện trong cuộc đánh nhau của trai làng bên với bọn A
Sử, A Phủ xuất hiện đối đầu với A Sử thật hiên ngang và trận đòn đánh mới áp đảo và hả hê làm
sao! (Chú ý câu văn mô tả cảnh này bằng một loạt từ chỉ hành động với nhịp nhanh, mạnh, dồn
dập: chạy vạt ra, vung tay ném, xộc tới, nắm, kéo dập đầu, xé, đánh tới tấp).
+ A Phủ là một thanh niên nghèo, suốt đời đi làm thuê làm mướn, không có ruộng, không có cả đến
cái vòng bạc đeo cổ để đi chơi Tết. Cha mẹ đã chết cả trong một trận dịch đậu mùa, A Phủ cũng đã
từng bị bắt bán xuống vùng người Thái,….. Chính cuộc sống cùng cực ấy đã hun đúc thêm ở A Phủ
một sức sống mạnh mẽ, lòng ham chuộng tự do và tính cách thật gan góc, cùng với tài năng lao
động đáng quý, A Phủ thạo và ham thích những công việc lao động nặng nhọc mà khó khăn, nguy
hiểm: “biết đúc lưỡi cày, biết đục cuốc, lại cày giỏi và đi săn bò tót rất bạo”, “Đốt rừng, cày nương,
cuốc nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa, quanh năm một thân một mình bôn ba rong
ruổi ngoài gò ngoài rừng”. A Phủ là đứa con của núi rừng tự do. Cuộc sống phóng khoáng, ưa tự
do, gần gũi thiên nhiên và chất phác của A Phủ cũng là một nét tính cách đặc trưng của người Mông.
- Việc A Phủ bị bắt làm người ở trừ nọ càng làm tăng thêm sức tố cáo của tác phẩm: một chàng trai
khỏe mạnh, gan góc, vốn không nợ nần gì nhà Pá Tra, lại lao động giỏi, sống tự do như chim trời giữa
núi rừng, vậy mà cuối cùng cũng không thoát khỏi ách áp bức của chúa đất, phải rơi vào thân phận kẻ
nô lệ suốt đời trong nhà Pá Tra. Hơn thế nữa, cho đến cả đời con, đời cháu cũng vậy, bao giờ trả hết
nợ mới thôi !
TH.S NGUYỄN NGỌC ĐOAN TRANG – GV CHUYÊN VĂN THPT NGUYỄN THƯỢNG HIỀN & PHỔ THÔNG NĂNG KHIẾU ĐHQG.TPHCM
TÀI LIỆU HƯỚNG DẪN PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC KHỐI ⑫ #Tự_học_theo_vấn_đề
+ Cảnh bọn chức việc trong làng xử kiện A Phủ lại thêm một bức tranh cụ thể, sống động, giàu sức
tố cáo về một tập tục là hiện thân của ách áp chế kiểu trung cổ ở miền núi. Cuộc xử kiện diễn ra
trong khói thuốc phiện mù mịt “tuôn ra các lỗ cửa sổ tun hút xanh như khói bếp” và “Người thì
đánh người thì quỳ lạy, kể lể, chửi bới. Xong một lượt đánh, kể, chửi, lại hút”, cứ thế suốt từ trưa
cho đến hết đêm. Còn A Phủ gan góc, quỳ chịu đòn chỉ im như tượng đá.
+ Khi đi chăn bò, để hổ bắt mất một con, A Phủ vẫn rất thật thà và bộc trực xin với Pá Tra cho
mượn súng đi bắn hổ. Suốt mấy ngày đêm bị trói đứng vào cọc chờ chết, người con trai gan góc,
đầy sức vóc ấy cũng đã phải tuyệt vọng : “một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã
xám đen lại”. Sau khi được Mi cắt dây trói, A Phủ khuỵu xuống, nhưng rồi khát vọng sống lại
khiến anh “quật sức vùng lên, chạy”
+ A Phủ và Mị có số phận tương đồng, có những nét tính cách gần nhau, nhưng vẫn là hai nhân
vật có tính cách riêng. Nếu Mị thiên về đời sống nội tâm, sức sống ẩn vào bên trong, thì A Phủ
lại là con người bộc trực, thẳng thắng, hồn nhiên, ham hoạt động.
Vấn đề 5: Giá trị nhân đạo
Tác giả thể hiện tư tưởng nhân đạo tích cực, mang ý thức giai cấp: lên án những thế lực phong kiến,
thực dân áp bức tàn bạo, thông cảm với số phận đau khổ của người nông dân nghèo miền núi, khẳng
định phẩm chất tốt đẹp, những khát vọng và con đường đi tới cách mạng của họ. Đặc biệt, cũng như nhiều
tác phẩm thành công ở giai đoạn này, truyện Vợ chồng A Phủ đề cao tình hữu ái giai cấp, sự đồng cảm
của những con người nghèo khổ cùng cảnh ngộ.
Vấn đề 6: Giá trị nghệ thuật
- Về nghệ thuật xây dựng nhân vật: Mị và A Phủ (đặc biệt là Mị trong phần 1 của truyện) là những nhân
vật được khắc họa sinh động, đã có cá tính rõ nét. Hai nhân vật có số phận giống nhau nhưng tính
cách khác nhau đã được tác giả thể hiện bằng những thủ pháp thích hợp. Mị được miêu tả bằng rất ít
hành động (lặp đi lặp lại những công việc lao động của người phụ nữ trong cuộc sống tù hãm ở nhà
Pá Tra) và một số nét chân dung cũng được nhắc đi nhắc lại gây ấn tượng đậm (cúi mặt, mặt buồn
rười rượi, lùi lũi,….). Đặc biệt, nhân vật này được thể hiện chủ yếu qua dòng ý nghĩ, tâm tư, nhiều khi
là tiềm thức chập chờn. Giọng trần thuật của tác giả nhiều chỗ nhập vào dòng tâm tư của nhân vật,
diễn tả được những ý nghĩ, tâm trạng và cả trạng thái mơ hồ, lờ mờ của tiềm thức nhân vật. Còn A
Phủ là một tính cách gan góc, bộc trực, táo bạo thì lại được thể hiện bằng nhiều hành động, công việc
và vài lời đối thoại rất ngắn, giản đơn.
- Ngòi bút tả cảnh của Tô Hoài rất đặc sắc. Cảnh miền núi hiện ra với những nét sinh hoạt, phong tục
riêng. Tô Hoài vốn là cây bút có sở trường về tả phong tục sinh hoạt (những truyện trước Cách mạng
như Quê người, tập truyện ngắn Nhà nghèo). Đoạn tả cuộc xử kiện là một bức tranh phong tục sinh
động; những cảnh mùa xuân, ngày Tết trên vùng núi cao có sức hấp dẫn, vừa là phong tục vừa là bức
tranh thiên nhiên mơ mộng; những nét chấm phá cảnh thiên nhiên miền núi, với màu sắc và đường
nét giàu chất tạo hình (“những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ”,…)
- Nghệ thuật kể chuyện cũng rất thành công. Cách giới thiệu nhân vật tạo được sự chú ý, cách kể ngắn
gọn mà gây được ấn tượng về lai lịch của nhân vật, việc dẫn dắt các tình tiết khéo léo làm mạch truyện
liên tục biến đổi, hấp dẫn mà không rối, không trùng lặp.
- Ngôn ngữ của Tô Hoài sinh động và chọn lọc, có sáng tạo. Lối văn giàu tính tạo hình, có chỗ như cách
quay cận cảnh, viễn cảnh của điện ảnh. Tô Hoài vận dụng cách nói của người miền núi (hồn nhiên,
giàu hình ảnh) nhưng không quá câu nệ, sa vào sự sao chép tự nhiên chủ nghĩa (như ở một vài truyện
ngắn viết về miền núi trước đó của chính tác giả), mà nâng cao lên, nhập vào ngôn ngữ văn học có
tính chuẩn mực.
- Giọng trần thuật ăn nhập với tư tưởng của truyện và nội dung từng đoạn. Nhịp kể chậm, giọng trầm
lắng đầy sự cảm thông, yêu mến hai nhân vật chính. Giọng trần thuật nhiều chỗ hòa vào dòng ý nghĩ
và tiếng nói bên trong của nhân vật, vừa bộc lộ trực tiếp đời sống nội tâm nhân vật vừa tạo được sự
đồng cảm.
TH.S NGUYỄN NGỌC ĐOAN TRANG – GV CHUYÊN VĂN THPT NGUYỄN THƯỢNG HIỀN & PHỔ THÔNG NĂNG KHIẾU ĐHQG.TPHCM
TÀI LIỆU HƯỚNG DẪN PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC KHỐI ⑫ #Tự_học_theo_vấn_đề
TH.S NGUYỄN NGỌC ĐOAN TRANG – GV CHUYÊN VĂN THPT NGUYỄN THƯỢNG HIỀN & PHỔ THÔNG NĂNG KHIẾU ĐHQG.TPHCM
TÀI LIỆU HƯỚNG DẪN PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC KHỐI ⑫ #Tự_học_theo_vấn_đề
Bà cụ Tứ
Đêm hôm trước Sáng hôm sau
1. Lai lịch: Là một bà mẹ nghèo, già nua, dân ngụ cư. *** Không chỉ chấp nhận, cụ còn bày
2. Chân dung: Dáng đi lọng khọng, chậm chạp, run rẩy, vừa đi tỏ niềm vui, niềm cảm thông và trân
vừa ho húng hắng; “lẩm nhẩm tính toán theo thói quen trọng đối với người con dâu nhặt,
người già”. bày tỏ thái độ vun đắp của bà với
3. Phẩm chất, tính cách: thương con & nhân hậu. hạnh phúc của con:
Khi nhìn người phụ nữ mà con mình đưa về làm vợ, Niềm vui thể hiện trong nét mặt:
tâm trạng bà cụ Tứ diễn biến thật phức tạp: “Cái mặt bủng beo u ám của bà rạng
Bà sững sờ không hề hay biết chuyện anh con trai đã nhặt rỡ hẳn lên”.
một người vợ về, thấy người đàn bà lạ trong nhà, bà rất ngạc Niềm vui thể hiện trong suy nghĩ:
nhiên: “quái, sao lại có một người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ?” thu xếp cửa nhà cho quang quẻ, nền
“người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình nếp thì cuộc đời họ có thể khác đi,
thế kia?”, “sao lại chào mình bằng u?” làm ăn có cơ khấm khá hơn (“ai
Sau tất cả sự ngạc nhiên, bà đã hiểu ra “biết bao nhiêu cơ giàu ba họ, ai khó ba đời… Có ra thì
sự”, “Bà lão hấp háy mắt cho đỡ nhoèn vì tự dung bà thấy mắt con cái chúng mày về sau.”)
mình nhoèn ra thì phải…” Niềm vui thể hiện trong hành động:
Bà thương, buồn tủi cho con trai phải lấy vợ nhặt, mà trong + Bà lão xăm xăm thu dọn, quét
cảnh đói khát mới lấy được vợ “Chao ôi”, “người ta dựng vợ tước nhà cửa”.
gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm làm nổi... còn + Làm bữa cơm sáng, bữa cơm
mình thì ...”. đầu tiên có con dâu như một
Bà cũng thấy hờn tủi cho chính mình, có lỗi với con trai bởi bữa “tiệc” với món cháo loãng
không thể lo được chuyện dựng vợ gả chồng cho con chu và món “chè khoán” đắng chát –
đáo. một bữa ăn ngày đói rất thảm
Bà cảm thương cho người đàn bà khốn khổ cùng đường mới hại nhưng bà cụ cố tạo ra niềm
phải lấy con trai bà, thương cho cả sự ngờ nghệch của đứa vui để động viên an ủi con trai,
con trai: “Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người con dâu.
ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được ... ” Niềm vui thể hiện trong lời nói:
Bà mừng vì con trai đã yên bề gia thất: “các con đã phải + Bà cụ “nói toàn chuyện vui, toàn
duyên phải kiếp... u cũng mừng lòng” chuyện sung sướng sau này’’.
Bà dần lo lắng cho cuộc sống các con sau này: “chúng nó có + Bà bảo ban các con làm ăn: “khi
nuôi nhau sống qua được cơn đói khát này không”, “vợ chồng nào có tiền ta mua lấy đôi gà,
chúng nó lấy nhau, cuộc đời chúng nó liệu có hơn bố mẹ trước ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy
kia không” mà có đàn gà cho xem”.
Bà đối xử tốt với nàng dâu mới bằng sự cảm thông, trân Trải qua những thăng trầm của
trọng: cuộc đời nghèo khổ, bên bờ vực
+ Ân cần quan tâm con: “Con ngồi đây ... đỡ mỏi chân” thẳm của cái đói, cái chết, bà cụ
+ Bà nghĩ trong lòng với niềm trìu mến “nó bây giờ đã là Tứ vẫn có niềm tin vào tương lai.
dâu, là con trong gia đình” Đó là nét lạc quan cố hữu của
+ Bà nói với con: “Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương người nông dân.
quá!” Lời nói giản dị mà sâu đậm.
Đánh giá chung
- Về nội dung: Bà cụ Tứ là hiện thân của những người mẹ nghèo khổ mà từng trải, hiểu biết, hết lòng
thương yêu con, yêu thương những cảnh đời tội nghiệp, oái oăm. Bà nung nấu một khát vọng về cuộc
sống gia đinh hạnh phúc. Trong cái thân hình khẳng khiu, tàn tạ, với “cái mặt bủng beo, u tối” bà vẫn
nung nấu một ý chí sống mãnh liệt.
- Về nghệ thuật: tâm lý tâm lý, tính cách của nhân vật bà cụ Tứ được khắc họa một cách sinh động,
chân thực, khi thì hướng nội (độc thoại nội tâm), khi thì hướng ngoại (qua những yếu tố bên ngoài).
Vấn đề 4: Giá trị hiện thực
Truyện ngắn là bức tranh hiện thực cô đúc mà đầy đủ, khái quát mà cụ thể, khắc sâu thành ấn tượng rõ
nét, về nạn đói năm 1945 ở nông thôn miền Bắc trước Cách mạng.
Bức tranh toàn cảnh: Cái đói bao trùm con người (người dân xóm ngụ cư – người sống cũng như
người chết), không gian (mùi tử khí, âm thanh ghê rợn – tiếng quạ gào và tiếng người khóc), thời gian
(tác phẩm mở đầu bằng một buổi chiều chạng vạng).
TH.S NGUYỄN NGỌC ĐOAN TRANG – GV CHUYÊN VĂN THPT NGUYỄN THƯỢNG HIỀN & PHỔ THÔNG NĂNG KHIẾU ĐHQG.TPHCM
TÀI LIỆU HƯỚNG DẪN PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC KHỐI ⑫ #Tự_học_theo_vấn_đề
Bức tranh cận cảnh: Cái đói đến với số phận từng con người không chừa một ai, đẩy họ đến bờ vực
thẳm của cái chết (người dân xóm ngụ cư, bà cụ Tứ, Tràng, cô vợ nhặt).
Bức tranh dự báo: Cái đói sẽ bị xua tan với hình ảnh lá cờ đỏ của Việt Minh hiện lên trong óc Tràng ở
cuối tác phẩm
Vấn đề 5: Giá trị nhân đạo
Truyện ngắn là:
- Tiếng nói thương cảm: cho những con người trong nạn đói, đặc biệt là người phụ nữ (bị biến hình về
nhân dạng và nhân cách; bị biến thành người “vợ nhặt”).
- Tiếng nói tố cáo: tội ác của thực dân Pháp, phát xít Nhật đã gây ra nạn đói khủng khiếp, đẩy con người
đến chỗ thân phận rẻ mạt.
- Tiếng nói ca ngợi vẻ đẹp của con người: những tình cảm cao đẹp (tình mẫu tử, tình người) và những
khát vọng chân chính (khát vọng hạnh phúc gia đình, khát vọng đổi đời).
- Qua đó, mở ra hướng đi cho con người: dù trong hoàn cảnh khốn khó nhất, vẫn hãy cố giữ tình người
và đừng đánh mất đi niềm tin, niềm lạc quan vào tương lai.
Vấn đề 6: Nghệ thuật
a) Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện: Tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn
b) Nghệ thuật xây dựng nhân vật: Thể hiện chân thực, sinh động diễn biến tâm lý nhân vật.
c) Nghệ thuật trần thuật:
Đảo lộn trật tự thời gian, không gian một cách hợp lý, hấp dẫn.
Đối thoại tự nhiên, hóm hỉnh, vừa có tác dụng dẫn dắt câu chuyện, vừa góp phần thể hiện tính cách,
tâm lý nhân vật.
Kết hợp hài hòa giữa lời kể trực tiếp và nửa trực tiếp.
Hình ảnh sinh động, độc đáo, giàu ý nghĩa biểu trưng.
TH.S NGUYỄN NGỌC ĐOAN TRANG – GV CHUYÊN VĂN THPT NGUYỄN THƯỢNG HIỀN & PHỔ THÔNG NĂNG KHIẾU ĐHQG.TPHCM
TÀI LIỆU HƯỚNG DẪN PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC KHỐI ⑫ #Tự_học_theo_vấn_đề
TH.S NGUYỄN NGỌC ĐOAN TRANG – GV CHUYÊN VĂN THPT NGUYỄN THƯỢNG HIỀN & PHỔ THÔNG NĂNG KHIẾU ĐHQG.TPHCM
TÀI LIỆU HƯỚNG DẪN PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC KHỐI ⑫ #Tự_học_theo_vấn_đề
Vấn đề 3: Ý nghĩa đằng sau câu chuyện của người đàn bà ở tòa án
Câu chuyện của người đàn bà hàng chài ở tòa án huyện là câu chuyện về sự thật cuộc đời, nó giúp
những người như Phùng và Đẩu hiểu được nguyên do của những điều tưởng như vô lý.
Bề ngoài, đó là một người đàn bà quá nhẫn nhục, cam chịu, bị chồng thường xuyên hành hạ, đánh
đập thật khốn khổ “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”, vậy mà vẫn nhất quyết gắn bó với
lão đàn ông vũ phu ấy. Chỉ qua những lời giãi bày thật tình người mẹ đáng thương đó mới thấy nguồn
gốc mọi sự chịu đựng, hi sinh của bà là tình thương vô bờ đối với những đứa con: “… đám đàn bà hàng
chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng
đặng một sắp con nhà nào cũng trên dưới chục đứa… phải sống cho con chứ không thể sống cho mình…”
Nếu hiểu sự việc một cách đơn giản, chỉ cần yêu cầu người đàn bà bỏ chồng là xong. Nhưng nếu nhìn vấn
đề một cách thấu suốt sẽ thấy suy nghĩ và xử sự của bà là không thể khác được. Trong khổ đau triền
miên, người đàn bà ấy vẫn chắt lọc được những niềm hạnh phúc nhỏ nhoi: “Vui nhất là lục ngồi nhìn đàn
con chúng tôi nó ăn no…”, “trên chiếc thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận, vui
vẻ”; “Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn...”.
Qua câu chuyện của người đàn bà, ta càng thấy rõ: không thể dễ dãi, đơn giản trong việc nhìn nhận
mọi sự việc, hiện tượng của cuộc sống.
Vấn đề 4: Các nhân vật
Tác giả chỉ gọi là “người đàn bà” một cách phiếm định. Tuy không có tên tuổi cụ thể, một người vô
danh như biết bao người đàn bà vùng biển khác, nhưng số phận con người ấy được tác giả tập trung thể
hiện và được người đọc quan tâm nhất trong truyện ngắn này. Trạc ngoài 40, thô kệch, rỗ mặt, lúc nào
cũng xuất hiện với “khuôn mặt mệt mỏi”, người đàn bà ấy gợi ấn tượng về một cuộc đời nhọc nhằn, lam
lũ. Bà thầm lặng chịu đựng mọi đớn đau, khi bị chồng đánh “không hề kêu lên một tiếng, không chống
trả, cũng không tìm cách chạy trốn”, bà coi đó là lẽ đương nhiên, chỉ đơn giản bởi trong một cuộc mưu
sinh đầy cam go, trên chiếc thuyền kiếm sống ngoài biển xa cần có một người đàn ông khỏe mạnh và biết
nghề, chỉ vì những đứa con của bà cần được sống và lớn lên. “… tình thương con cũng như nỗi đau, cũng
như cái sự thâm trầm trong việc hiểu thấu các lẽ đời hình như mụ chẳng bao giờ để lộ rõ rệt ra bề ngoài”
– một sự cam chịu nhẫn nhục như thế thật đáng chia sẻ, cảm thông. Thấp thoáng trong người đàn bà ấy
là bóng dáng của biết bao người phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, lòng vị tha, đức hi sinh.
Hệ thống luận điểm phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài
Số Dáng vẻ thô kệch, lam lũ: Người đàn bà trạc ngoài bốn mươi tuổi, khuôn mặt rỗ, mệt mỏi,
phận tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới.
bi Hoàn cảnh đau khổ: Người đàn bà thường xuyên bị người chồng vũ phu đánh đập tàn bạo,
thương nhưng lại chịu đựng một cách nhẫn nhục.
Giàu tình thương yêu, giàu đức hi sinh thầm lặng:
+ Vì cuộc sống của con mà người đàn bà hàng chài nhẫn nhục chịu đựng những trận đòn
vũ phu của người chồng (cần chỗ dựa kiếm sống để nuôi con khôn lớn).
+ Vì con, không muốn con nhìn thấy cảnh mình phải chịu đựng những trận đòn nên người
Phẩm đàn bà xin chồng có đánh mình thì “lên bờ mà đánh” và đánh ở chỗ khuất, không đánh
chất trước mặt con.
cao + Người đàn bà hàng chài van xin con đừng căm thù bố, mong muốn tình phụ tử không bị
đẹp đổ vỡ.
Khao khát và luôn hướng tới hạnh phúc gia đình:
+ Kiên quyết không li dị chồng vì thương con, vì mái ấm gia đình.
+ Nâng niu những niềm vui hiếm hoi, niềm hạnh phúc nhỏ bé trong cuộc sống gia đình: lúc
vợ chồng con cái sống hòa thuận, lúc các con được ấm no.
Ý nghĩa Qua nhân vật người đàn bà hàng chài, tác giả làm nổi bật vẻ đẹp của tình mẫu tử và khát
tư vọng được sống trong tình yêu thương, trong hạnh phúc gia đình của người phụ nữ.
tưởng Với nhân vật người đàn bà hàng chài, tác phẩm làm sáng rõ nhận thức về con người, về đời
được sống: không đơn giản, không một chiều mà đa diện, phức tạp; vẻ đẹp phẩm chất khuất lấp
gửi bên trong vẻ ngoài lam lũ, thô kệch.
gắm
TH.S NGUYỄN NGỌC ĐOAN TRANG – GV CHUYÊN VĂN THPT NGUYỄN THƯỢNG HIỀN & PHỔ THÔNG NĂNG KHIẾU ĐHQG.TPHCM
TÀI LIỆU HƯỚNG DẪN PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC KHỐI ⑫ #Tự_học_theo_vấn_đề
Vốn là người lính chiến từng vào sinh ra tử, Phùng căm ghét mọi sự áp bức bất công, sẵn sàng làm
tất cả vì điều thiện, lẽ công bằng. Anh thực sự xúc động, ngỡ ngàng trước vẻ đẹp tinh khôi của thuyền
biển trước bình minh. Một người nhạy cảm như anh tránh sao khỏi nỗi tức giận khi phát hiện ra ngay
sau cảnh đẹp chiếc thuyền ngoài xa là sự bạo hành của cái xấu, cái ác. Mới đầu, chứng kiến cảnh ông lão
đánh vợ và người vợ nhẫn nhục chịu đựng, Phùng hết sức “kinh ngạc”, anh “há mồm ra mà nhìn”, rồi sau
một phản xạ tự nhiên, anh “vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới”. Hành động ấy nói được nhiều
điều. Chiếc thuyền nghệ thuật thì ở ngoài xa, một khoảng cách đủ để tạo nên vẻ đẹp huyền ảo, nhưng sự
thật cuộc đời lại rất gần. Đừng vì nghệ thuật và quên cuộc đời, bởi lẽ nghệ thuật chân chính luôn là cuộc
đời và vì cuộc đời. Trước khi là một nghệ sĩ biết rung động trước cái đẹp, hãy là một con người biết yêu
ghét, vui buồn trước mọi lẽ đời thường tình, biết hành động để có một cuộc sống xứng đáng với con
người.
Hệ thống luận điểm phân tích nhân vật nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng
Vai trò, Là nhân vật chính, là người kể chuyện, kể lại sự việc mà mình chứng kiến.
vị trí Cái nhìn của nhân vật Phùng cũng là cái nhìn của tác giả.
Phẩm - Phùng với tư cách một nghệ sĩ:
chất cao + Phùng say mê đi tìm cái đẹp (công phu, kiên trì, lang thang hàng tuần trên biển để tìm
đẹp & ý cảnh đẹp), rung cảm trước vẻ đẹp của thiên nhiên và cuộc sống (xúc động khi nhìn
nghĩa cảnh “chiếc thuyền ngoài xa”), biết phát hiện, lựa chọn cái đẹp (chụp bức ảnh có sự hài
tư hòa về đường nét, màu sắc), mang cái đẹp đến cho đời.
tưởng + Phùng nhận ra giữa nghệ thuật và đời sống còn khoảng cách, có độ vênh (nghệ thuật
được mang vẻ đẹp huyền ảo, thơ mộng; còn đời sống thì trần trụi, khắc nghiệt).
gửi gắm + Phùng thấy mình cần phải nhìn thẳng vào sự thực đời sống dù sự thực đó hết sức đắng
cay; cần phải xóa đi khoảng cách giữa nghệ thuật với đời sống, nghệ thuật chân chính
không xa lạ với số phận con người, đừng vì nghệ thuật mà quên cuộc đời.
- Phùng với tư cách một công dân:
+ Phùng từng là người lính trong trong thời kháng chiến chống Mĩ. Sau chiến thắng giặc
ngoại xâm, vẫn còn cuộc chiến đấu mới là chống đói nghèo, lạc hậu, trong đó có bạo
lực gia đình. Với bản chất của người lính, Phùng không thể làm ngơ trước cái ác, anh
đã đánh nhau với gã chồng vũ phu và bị thương nhẹ.
+ Phùng có nhận thức mới về cuộc sống: Cuộc sống đa dạng, phức tạp, không đơn giản,
một chiều. Vì vậy, cần giải quyết những vấn đề của đời sống không chỉ bằng sách vở
mà còn phải xuất phát từ thực tế. Cần có giải pháp thiết thực để nâng cao cả nhân cách
người và mức sống người.
Có lẽ cuộc sống đói nghèo, vất vả, quẩn quanh bao nhiêu lo toan, cực nhọc đã biến “ anh con trai
cục tính, hiền lành” xưa kia thành một người chồng vũ phu, một lão đàn ông độc ác. Cứ khi nào thấy khổ
quá là lão đánh vợ, đánh như để giải tỏa uất ức, để trút cho sạch nỗi tức tối, buồn phiền: “lão trút cơn
giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà”. Trong đời vẫn có
những kẻ như thế, nói như Nam Cao trước kia, chỉ để thỏa mãn lòng ích kỉ, chúng tự cho mình cái quyền
hành hạ mọi người. Lão đàn ông “mái tóc tổ quạ”, “chân chữ bát”, “hai con mắt đầy vẻ độc dữ” vừa là nạn
nhân của cuộc sống khốn khổ, vừa là thủ phạm gây nên bao đau khổ cho chính những người thân của
mình. Phải làm sao để nâng cao cái phần thiện, cái phần người trong những kẻ thô bạo ấy.
Trong một gia đình mà bố mẹ có chuyện lục đục, đáng thương nhất là những đứa trẻ. Chúng bị đẩy
vào tình thế thật khó xử: biết đứng về phía ai, biết làm thế nào để trọn đạo làm con? Chị thằng Phác, một
cô bé yếu ớt mà can đảm, đã phải vật lộn để tước con dao của thằng em trai, không cho nó làm một việc
trái với luân thường đạo lý. Chắc trong lòng cô bé tan nát vì đau đớn: bố điên cuồng hành hạ mẹ; chỉ vì
thương mẹ mà thằng em định cầm dao ngăn bố. Cô bé lúc ấy là điểm tựa vững chắc của người mẹ đáng
thương, cô đã hành động đúng đắn khi cản được việc làm dại dột của đứa em, lại biết chăm sóc, lo toan
khi mẹ phải đến tòa án huyện. Còn thằng Phác lại thương mẹ theo kiểu một đứa con còn nhỏ, theo cái
cách một đứa con trai vùng biển; “nó lặng lẽ đưa mấy ngón tay khẽ sờ trên khuôn mặt người mẹ, như
muốn lau đi những giọt nước mắt chứa đầy trong những nốt rỗ chằng chịt”, nó “tuyên bố với các bác ở
xưởng đóng thuyền rằng nó còn có mặt ở dưới biển này thì mẹ nó không bị đánh”. Mặc dù thật khó chấp
nhận kiểu bảo vệ mẹ của nó, nhưng hình ảnh thằng Phác vẫn khiến người ta cảm động vì tình thương mẹ
dạt dào.
TH.S NGUYỄN NGỌC ĐOAN TRANG – GV CHUYÊN VĂN THPT NGUYỄN THƯỢNG HIỀN & PHỔ THÔNG NĂNG KHIẾU ĐHQG.TPHCM
TÀI LIỆU HƯỚNG DẪN PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC KHỐI ⑫ #Tự_học_theo_vấn_đề
TH.S NGUYỄN NGỌC ĐOAN TRANG – GV CHUYÊN VĂN THPT NGUYỄN THƯỢNG HIỀN & PHỔ THÔNG NĂNG KHIẾU ĐHQG.TPHCM
TÀI LIỆU HƯỚNG DẪN PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC KHỐI ⑫ #Tự_học_theo_vấn_đề
Vấn đề 6: Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện độc đáo
Tình huống truyện là sự kiện có ý nghĩa bộc lộ mối quan hệ, bộc khả năng ứng xử, thử thách phẩm
chất, tính cách, đôi khi tạo ra những bước ngoặt trong tư tưởng, tình cảm, trong cuộc đời con người.
Với Phùng, việc chứng kiến lão đàn ông đánh vợ là một sự kiện như thế. Trước đó, Phùng nhìn đời
bằng con mắt nghệ sĩ, anh rung động, say mê trước vẻ đẹp “trời cho” của thuyền biển sớm mai. Chính
trong giây phút tâm hồn thăng hoa những cảm xúc lãng mạn nhất, anh bất ngờ chứng kiến đôi vợ chồng
từ con thuyền “thơ mộng” bước xuống, rồi lão đàn ông đánh vợ một cách dã man và vô lí. Tình huống đó
được lặp lại một lần nữa, Phùng không chỉ chứng kiến người đàn bà nhẫn nhục chịu đựng mà còn thấy
được thái độ, hành động của chị em thằng Phác trước sự hung bạo của cha với mẹ. Từ đó đến cuối truyện,
Phùng đã có một cách nhìn đời khác hẳn. Anh thấy rõ những cái ngang trái trong gia đình thuyền chài
ấy, hiểu sâu thêm tính cách người đàn bà, chị em thằng Phác, hiểu sâu thêm bản chất người đồng đội của
anh (Đẩu) và hiểu thêm chính mình.
Tình huống truyện mang ý nghĩa khám phá, phát hiện về đời sống, được tác giả đẩy lên cao trào và
ngày càng xoáy sâu hơn để phát hiện tính cách con người và sự thật cuộc đời.
Vấn đề 7: Ngôn ngữ người kể chuyện và ngôn ngữ nhân vật
Ngôn ngữ kể chuyện và ngôn ngữ nhân vật trong truyện ngắn này cũng rất đáng chú ý.
Người kể chuyện ở đây là nhân vật Phùng, hay nói đúng hơn, đó là sự hóa thân của tác giả vào nhân
vật Phùng. Việc chọn người kể chuyện như thế đã tạo nên một điểm nhìn trần thuật sắc sảo, tăng cường
khả năng khám phá đời sống của tình huống truyện. Lời kể chuyện trở nên khách quan, chân thật, giàu
sức thuyết phục.
Ngôn ngữ các nhân vật phù hợp với đặc điểm tính cách của từng người: giọng điệu lão đàn ông
thật thô bỉ, tàn nhẫn với những từ ngữ đầy vẻ tục tằn, hung bạo; những lời của người đàn bà thật dịu
dàng và xót xa khi nói với con, thật đớn đau và thấu trải lẽ đời khi nói về thân phận của mình; những lời
của Đẩu ở tòa án huyện rõ là giọng điệu của một người tốt bụng, nhiệt tình…
Việc sử dụng ngôn ngữ rất linh hoạt, sáng tạo như thế đã góp phần khắc sâu thêm chủ đề - tư tưởng
của truyện ngắn.
TH.S NGUYỄN NGỌC ĐOAN TRANG – GV CHUYÊN VĂN THPT NGUYỄN THƯỢNG HIỀN & PHỔ THÔNG NĂNG KHIẾU ĐHQG.TPHCM
TÀI LIỆU HƯỚNG DẪN PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC KHỐI ⑫ #Tự_học_theo_vấn_đề
TH.S NGUYỄN NGỌC ĐOAN TRANG – GV CHUYÊN VĂN THPT NGUYỄN THƯỢNG HIỀN & PHỔ THÔNG NĂNG KHIẾU ĐHQG.TPHCM
TÀI LIỆU HƯỚNG DẪN PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC KHỐI ⑫ #Tự_học_theo_vấn_đề
xác thịt, Trương Ba đã nổi giận đã kinh bỉ, đã mắng mỏ xác thịt hèn hạ nhưng cũng đồng thời ngậm ngùi
thấm thía nghịch cảnh mà mình đã lâm vào, đành nhập trở lại vào xác thịt trong yên lặng.
Màn đối thoại này cho thấy: ① Trương Ba được trả lại cuộc sống nhưng là một cuộc sống đáng
hổ thẹn vì phải sống chung với sự dung tục và bị sự dung tục đồng hóa. ② Không chỉ dừng lại ở đó, tác
giả cảnh báo: khi con người phải sống trong dung tục thì tất yếu cái dung tục sẽ ngự trị, sẽ thắng thế, sẽ
lấn át và tàn phá những gì trong sạch, đẹp đẽ, cao quý trong con người.
b) Mâu thuẫn, xung đột giữa Hồn Trương Ba và những người thân trong gia đình
(Bi kịch sống giả dối với người thân, không nhận được sự tin yêu của người thân)
Không phải ngẫu nhiên, tác giả không đưa anh con trai thực dụng của Trương Ba vào cuộc đối thoại
của Trương Ba đối với những người thân. Các cuộc đối thoại với vợ, con dâu, con gái càng làm cho Trương
Ba đau khổ hơn. Ông hiểu những gì đã, đang và sẽ gây ra cho người thân là rất tệ hại mặc dù ông không
hề muốn điều đó.
Cũng cần phân tích kĩ sự khác nhau trong thái độ vợ Trương Ba, con dâu và cháu gái trước sự biến
đổi và tha hóa của Trương Ba. Vợ Trương Ba buồn bã, đau khổ nhưng vốn bản tính vị tha nên định
nhường Trương Ba cho cô vợ hàng thịt; con dâu Trương Ba thấu hiểu hoàn cảnh trớ trêu của bố chồng
nhưng là người con hiếu thảo nên chỉ thông cảm và xót xa mà thôi; trái lại, cái Gái, cháu Trương Va thì
phản ứng quyết liệt và dữ dội. Tâm hồn tuổi thơ vốn trong sạch, không chấp nhận sự tầm thường, dung
tục nên không chấp nhận người ông trong thể xác anh hàng thịt thô lỗ. Tuy nhiên, họ chỉ là những người
dân thường, họ không giúp gì được cho tình trạng hiện tại của Trương Ba.
Tình huống kịch thúc đẩy Trương Ba phải lựa chọn và sau màn độc thoại nội tâm (hồn Trương Ba
thách thức xác anh hàng thịt: “Có thật là không còn cách nào khác?” và phản kháng quyết liệt: “Không
cần đến đời sống do mày mang lại. Không cần!”)
c) Cách giải quyết mâu thuẫn, xung đột (con đường giải thoát khỏi bi kịch)
Gặp lại Đế Thích, Trương Ba thể hiện thái độ kiên quyết chối từ, không chấp nhận cái cảnh phải
sống “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo” nữa và muốn mình được là mình một cách “toàn vẹn”.
Lúc đầu đế Thích ngạc nhiên nhưng khi hiểu ra thì khuyên Trương Ba nên chấp nhận vì thế giới vốn
không toàn vẹn” dưới đất, trên trời đều thế cả”. Nhưng Trương Ba không chấp nhận lí lẽ đó. Trương Ba
thẳng thắn chỉ ra sai lầm của Đế Thích: “Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, còn sống như thế nào thì
ông chẳng cần biết”.Lòng tốt hời hợt thực sự chẳng đem lại điều gì tốt cho ai mà sự vô tâm còn tệ hại
hơn, nó đẩy người khác vào nghịch cảnh, bi kịch!
Đế Thích tiếp tục việc “sửa sai” của mình và của Tây Vương Mẫu bằng một giải pháp khác, tệ hại ít
hơn là cho hồn Trương Ba nhập vào xác cu Tị nhưng Trương Ba đã kiên quyết chối từ, không chấp nhận
cảnh sống giả tạo, mà theo ông là chỉ có lợi cho đám chức sắc tức lão lí trưởng và đám trương tuần, không
chấp nhận cái cuộc sống mà theo ông là”khổ hơn là cái chết”. Trương Ba kêu gọi Đế Thích là hãy sửa sai
bằng một việc làm đúng, đó là trả lại linh hồn cho bé Tị. Đế Thích cuối cùng cũng thuận theo lời đề nghị
của Trương Ba với lời nhận xét: “Con người hạ giới các ông thật là kì lạ.”
Qua màn đối thoại, có thể thấy tác giả gửi gắm nhiều thông điệp vừa trực tiếp vừa gián tiếp, vùa
mạnh mẽ, vừa quyết liệt vừa kín đáo và sâu sắc về thời chúng ta đang sống. Tuy vậy, chỉ cần nhấn mạnh
ở đây vẻ đẹp tâm hồn của con người trong cuộc đấu tranh chống lại sự dung tục, giả tạo để bảo vệ quyền
sống toàn vẹn, hợp với lẽ tự nhiên cùng sự hoàn thiện nhân cách. Chất thơ của kịch Lưu Quang Vũ cũng
được bộc lộ ở đây.
d) Màn kết
Trương Ba trả xác lại cho anh hàng thịt, chấp nhận cái chết để linh hồn được trong sạch và hóa
thân vào các sự vật thân thương, tồn tại vĩnh viễn cạnh những người thân yêu của mình. Cuộc sống lại
tuần hoàn theo quy luật của muôn đời.. Màn kết với chất thơ sâu lắng đã đem lại âm hưởng thanh thoát
cho một bi kịch lạc quan đồng thời truyền đi thông điệp về sự chiến thắng của cái Thiện, cái Đẹp và của
sự sống đích thực.
Đoạn kết của vở kịch mang không khí ấm áp, toát lên niềm vui của sự đoàn tụ, tiếp nối:
- Ý nghĩa của sự sống và cái chết: Khi Trương Ba chết hẳn, không phải ở trong tình trạng “bên trong
một đằng, bên ngoài một nẻo” nữa lại là lúc ông được sống trong sự gần gũi, tình yêu thương của
những người thân. Những con người cao quý như Trương Ba vẫn có mặt giữa cuộc sống hằng ngày
của gia đình, của mỗi chúng ta.
TH.S NGUYỄN NGỌC ĐOAN TRANG – GV CHUYÊN VĂN THPT NGUYỄN THƯỢNG HIỀN & PHỔ THÔNG NĂNG KHIẾU ĐHQG.TPHCM
TÀI LIỆU HƯỚNG DẪN PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC KHỐI ⑫ #Tự_học_theo_vấn_đề
- Giá trị của những hành động, những lời nói tốt đẹp: Những việc làm, lời nói của những con người như
Trương Ba có ý nghĩa giáo dục các thế hệ sau. Điều tốt lành sẽ được tiếp nối, phát huy mãi mãi qua
các thế hệ.
Vấn đề 4: Ý nghĩa tư tưởng sâu sắc của trích đoạn nói riêng, của vở kịch nói chung
a) Cuộc sống hạnh phúc, có ý nghĩa phải là sự kết hợp hài hòa giữa linh hồn và thể xác (qua cuộc
đối thoại giữa Hồn và Xác)
- Sự tồn tại "hồn này", "xác kia" không những phiền toái mà còn đâu khổ. Không thể có một tâm hồn
thanh cao trong một thể xác phàm tục, tội lỗi.
- Ở trong con người luôn tồn tại cuộc đấu tranh giữa khát vọng vươn lên sự cao thượng, đẹp đẽ với sự
níu kéo của dục vọng, bản năng tầm thường, thấp kém. Chiến thắng cái bản năng, cái giải đối trong
mỗi con người là điều vô cùng khó khăn.
- Khi con người sống chung với sự dung tục sẽ bị sự dung tục lấn ất, chế ngự (sự chế giễu, bỡn cợt Hồn
Trương Ba của Xác hàng thịt; Hồn Trương Ba được trả lại cuộc sống nhưng đó là cuộc sống đáng thổ
hẹn vì Hồn trở nên tầm thường, dung tục trong Xác hàng thịt).
b) Cuộc sống thật đáng quý nhưng không phải là sống bằng bất cứ cách nào, bằng bất cứ kiểu sống
nào (qua cuộc đối thoại giữa Hồn Trương Ba với người thân, với tiên Đế Thích)
- Sống mà đánh mất bản thân, sống giải dối với người và giải dối với mình thì thà chết còn hơn:
+ Hồn Trương Ba tồn tại trong thân xác anh hàng thịt là sống giả dối với người thân trong gia đình
(mọi người đều không nhận ra Hồn Trương Ba, không thừa nhận Hồn Trương Ba).
+ Hồn Trương Ba đánh mất bản thân mình (không còn là Trương Ba trước đây nữa: làm gãy cái chồi
non, giẫm nát cây sâm quý mới ươm, làm gãy nan điều của cu Tị...).
- Sống nhờ, sống gửi, sống chắp vá...thì dù có tồn tại cũng không phải là sống theo đúng nghĩa.
c) Khát vọng vươn tới sự hoàn thiện về nhân cách
- Sống chân thật, sống vì mọi người (Hồn Trương Ba xin cho cu Tị được sống lại, xin trả lại thân xác cho
anh hàng thịt).
- Sự hoàn thiện nhân cách khi con người được là chính mình: "Không thể bên trong một đằng, bên ngoài
một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn".
d) Phê phán một số biểu hiện tiêu cực trong lối sống lúc bấy giờ
- Chạy theo những ham muốn vật chất tầm thường, chỉ thích hưởng thụ, trở thành thô thiển, phàm tục.
- Nhấn mạnh đời sống tinh thần một cách cực đoan: lấy cớ tâm hồn là quý, đời sống tinh thần là đáng
trọng mà không chăm lo thích đáng đến đời sống vật chất, làm cho cuộc sống thiếu thốn, nghèo khổ,
không phấn đấu vì hạnh phúc toàn vẹn (thực chất đây là sự duy ý chí, duy tâm chủ quan).
- Tình trạng con người phải sống giả dối, không dám và không được là chính bản thân mình (bên trong
một đằng, bên ngoài một nẻo).
Vấn đề 5: Đặc sắc nghệ thuật
1. Tình huống kịch phát triển tự nhiên, hợp lí: Mâu thuẫn giữa Hồn và Xác được đẩy tới đỉnh cao, cần
giải quyết. Cái chết của cu Tị có ý nghĩa đẩy nhanh diễn biến kịch đến chỗ "mở nút" (Hồn Trương Ba
phải nhanh chóng, dứt khoát chọn cách giải quyết bởi lẽ cu Tị mới chết, hồn cần nhập luôn vào thể
xác để cu Tị sống lại).
2. Sự kết hợp giữa diễn biến hành động bên ngoài và bên trong: Cùng với diễn biến hành động bên
ngoài (hướng ngoại) là những diễn biến hành động bên trong (hướng nội) thể hiện qua cuộc đối thoại
giữa Hồn và Xác.
3. Ngôn ngữ giàu triết lí: Lời nhân vật với những câu, những đoạn là những châm ngôn mang tính triết
lí, có ý nghĩa như chân lí: "Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là
tôi toàn vẹn", "Có những cái sai không thể sửa được. Chắp vá gượng ép chỉ càng làm sai thêm. Chỉ có
cách là đừng bao giờ sửa sai nữa, hoặc phải bù lại bằng một việc đúng khác"...
TH.S NGUYỄN NGỌC ĐOAN TRANG – GV CHUYÊN VĂN THPT NGUYỄN THƯỢNG HIỀN & PHỔ THÔNG NĂNG KHIẾU ĐHQG.TPHCM