Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 79

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

KHOA KẾ HOẠCH & PHÁT TRIỂN

--------o0o--------

BÁO CÁO BÀI TẬP NHÓM MÔN KINH TẾ HỌC SO SÁNH

ĐỀ TÀI

TÁC ĐỘNG CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU TỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ
HỘI TẠI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN TỪ 2010 ĐẾN NAY

Giáo viên hướng dẫn: Lê Huỳnh Mai

Lớp tín chỉ: PTKT1126(223)_ 02

Nhóm: 5

Năm học: 2023 - 2024

Hà Nội – Tháng 4/2024


THÀNH VIÊN NHÓM

Tên thành viên Mã sinh viên

Ngô Việt Hà (nhóm trưởng) 11211895

Trần Đức Hiếu

Trần Thế Việt Anh

Phạm Văn Tiến

Vũ Huyền Linh
MỤC LỤC
DANH MỤC HÌNH, BẢNG, BIỂU ĐỒ..................................................................5

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT................................................................................. 6

LỜI MỞ ĐẦU.................................................................................................. 1

CHƯƠNG 1: THỰC TRẠNG CỦA BĐKH TẠI VIỆT NAM.......................................2

1.1. Thực trạng BĐKH tại Trung du và miền núi phía Bắc...............................2
1.1.1. Khí hậu..................................................................................................2
1.1.2. Thiên tai................................................................................................2

1.2. Thực trạng BĐKH tại Đồng bằng sông Hồng...........................................6


1.2.1. Khí hậu..................................................................................................6
1.2.2. Thiên tai................................................................................................7

1.3. Thực trạng BĐKH tại Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung..................8
1.3.1. Khí hậu..................................................................................................8
1.3.2. Thiên tai................................................................................................9

1.4. Thực trạng BĐKH tại Tây Nguyên.........................................................11


1.4.1. Khí hậu................................................................................................11
1.4.2. Thiên tai..............................................................................................11

1.5. Thực trạng BĐKH tại Đông Nam Bộ......................................................13


1.5.1. Khí hậu................................................................................................13
1.5.2. Thiên tai..............................................................................................14

1.6. Thực trạng BĐKH tại Đồng bằng sông Cửu Long...................................16
1.6.1. Khí hậu................................................................................................16
1.6.2. Thiên tai..............................................................................................17

CHƯƠNG 2: TÁC ĐỘNG CỦA BĐKH TỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI TẠI VIỆT
NAM............................................................................................................. 20

2.1. Tác động của BĐKH tới tăng trưởng kinh tế Việt Nam..........................20
2.2. Tác động của BĐKH tới chuyển dịch cơ cấu ngành của Việt Nam..........22
2.2.1 Tác động của BĐKH đến khu vực nông nghiệp....................................24
2.2.2. Tác động của BĐKH đến khu vực công nghiệp....................................32
2.2.3 Tác động của BĐKH tới khu vực dịch vụ..............................................43

2.3. Tác động của BĐKH tới tiến bộ xã hội tại Việt Nam..............................46
2.3.1. Mục tiêu giảm nghèo..........................................................................46
2.3.2. Cơ hội phát triển con người................................................................50
2.3.3. Mục tiêu bảo đảm việc làm, thu nhập thường xuyên và mục tiêu giảm
bất bình đẳng thu nhập................................................................................52
2.3.4. Mục tiêu bình đẳng giới, tăng quyền và tạo cơ hội cho phụ nữ và trẻ
em gái...........................................................................................................55

CHƯƠNG 3: ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG PHÒNG CHỐNG THIÊN TAI VÀ ĐỐI PHÓ
VỚI BĐKH TẠI VIỆT NAM...............................................................................57

3.1. Thành tựu của Việt Nam trong việc giảm thiểu tác động của BĐKH......57

3.2. Hạn chế của Việt Nam trong việc giảm thiểu tác động của BĐKH..........59

3.3. Nguyên nhân tồn tại những hạn chế trong việc giảm thiểu tác động của
BĐKH......................................................................................................... 61

CHƯƠNG 4: KHUYẾN NGHỊ ỨNG PHÓ VỚI BĐKH TẠI VIỆT NAM....................63

4.1. Về phía nhà nước................................................................................ 63

4.2. Về phía doanh nghiệp..........................................................................64

4.3. Về phía các tổ chức phi chính phủ........................................................65

4.4. Liên hệ với sinh viên............................................................................66

KẾT LUẬN...................................................................................................... 68
DANH MỤC HÌNH, BẢNG, BIỂU ĐỒ

Bảng 1: Tỷ trọng cơ cấu ngành trong GDP qua một số năm (đơn vị: %)..............21

Bảng 2: Thống kê thiệt hại do thiên tai ở ngành nông-lâm-ngư nghiệp năm 2023
............................................................................................................................ 24

Bảng 3: Diện tích đất trồng lúa của Việt Nam giai đoạn 2015 - 2020..................25

Biểu đồ 1: Diện tích đất gieo trồng một số loại cây (đơn vị: nghìn ha)................25

Biểu đồ 2: Tỷ lệ nghèo đa chiều theo vùng năm 2023.........................................43


Biểu đồ 3: Tỷ trọng cơ cấu ngành trong GDP tại Việt Nam giai đoạn 2010 - 2023
(đơn vị: %)………………………………………………………………………23

Hình 1: Ước tính thiệt hại do thiên tai 2010 - 2020 khu vực MNPB (triệu đồng). .2

Hình 2: Bản đồ xâm nhập mặn những năm gần đây ở ĐBSCL.............................26

Hình 3: Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến các ngành công nghiệp khai thác. 32

Hình 4: Dự báo tác động của dâng mực nước biển 1m đến GDP (tỷ lệ thiệt hại
GDP)....................................................................................................................34

Hình 5: Sơ đồ quá trình phát triển của ngành công nghiệp hỗ trợ......................36
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Biến đổi khí hậu BĐKH
Đồng bằng sông Hồng ĐBSH
Đồng bằng sông Cửu Long ĐBSCL
LỜI MỞ ĐẦU
Biến đổi khí hậu là một vấn đề có tầm quan trọng toàn cầu. Biến đổi khí
hậu đã và đang tiếp tục tác động trực tiếp đến đời sống kinh tế - xã hội và môi
trường toàn cầu. Trong những năm qua, nhiều nơi trên thế giới đã phải hứng
chịu nhiều thảm họa thiên nhiên nguy hiểm, bao gồm các trận bão lớn, đợt nắng
nóng gay gắt, lũ lụt, hạn hán và các hiện tượng thời tiết cực đoan, gây thiệt hại
lớn cho người và động vật. Những nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng 90%
nguyên nhân của biến đổi khí hậu là từ các hoạt động sản xuất, sinh hoạt của
con người. Vì vậy con người cần phải có những hành động thiết thực để ngăn
chặn những biến đổi đó bằng chính những hoạt động phù hợp của con người.
Việt Nam là một trong những quốc gia dễ bị tổn thương nhất trên thế giới trước
biến đổi khí hậu. Nhận thức rõ tác động của biến đổi khí hậu, Chính phủ Việt
Nam đã xây dựng và triển khai thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia ứng
phó với biến đổi khí hậu. Các Bộ, ngành và địa phương đã và đang xây dựng kế
hoạch hành động để ứng phó với những tác động cấp bách trước mắt và những
tác động tiềm tàng lâu dài của biến đổi khí hậu; nhiều nghiên cứu đã được thực
hiện ở các mức độ khác nhau. Biến đổi khí hậu được dự đoán sẽ tác động không
nhỏ tới đời sống kinh tế-xã hội của thế giới nói chung cũng như Việt Nam nói
riêng. Xuất phát từ những thực trạng này cùng kiến thức của học phần Kinh tế
học so sánh, nhóm 5 chúng em quyết định lựa chọn đề tài “Tác động của biến
đổi khí hậu đến phát triển kinh tế Việt Nam” để nghiên cứu về biến đổi khí hậu,
tác động của nó tới kinh tế, xã hội, nhằm nghiên cứu nền kinh tế hiện nay cũng
như đề ra các giải pháp thích hợp ứng phó.
Nhằm đảm bảo các mục tiêu và yêu cầu của bài tập nhóm, bài báo cáo
được tiến hành với nội dung 4 chương chính:
Chương 1: Thực trạng của BĐKH tại Việt Nam
Chương 2: Tác động của BĐKH tới phát triển kinh tế - xã hội tại Việt Nam
Chương 3: Đánh giá hoạt động phòng chống thiên tai và ứng phó tại
BĐKH của Việt Nam

1
Chương 4: Khuyến nghị ứng phó với BĐKH tại Việt Nam

2
CHƯƠNG 1: THỰC TRẠNG CỦA BĐKH TẠI VIỆT NAM

1.1. Thực trạng BĐKH tại Trung du và miền núi phía Bắc

1.1.1. Khí hậu

1.1.1.1. Nhiệt độ

Trong những năm gần đây, biến đổi khí hậu tiếp tục diễn ra nhanh với
mức tăng nhiệt độ trung bình năm là khoảng 2,2oC. Thời tiết có khuynh hướng
chuyển từ bốn mùa thành hai mùa, mùa hè nhiệt độ ngày càng cao, mùa mưa
ngắn hơn, mùa khô kéo dài, mùa đông rét đậm rét hại và sương muối. Vùng
trung du và miền núi Bắc Bộ có khí hậu thuộc dạng khí hậu ôn đới nhiệt đới,
chịu ảnh hưởng của bốn mùa gió. Mùa đông kéo dài từ tháng 11 đến tháng 3
năm sau, lạnh và khô, ngày càng có xu hướng bắt đầu muộn hơn và kết thúc
sớm hơn. Trong khi đó, mùa hè kéo dài từ tháng 5 đến tháng 9, ngày càng có xu
hướng kéo dài hơn. Nhiệt độ trung bình trong năm dao động từ 18 đến 25 độ
C, thường có sương mù nhiều vào mùa đông. Nhiệt độ thấp nhất tăng lên rất
nhiều so với hiện nay và không mấy nơi có nhiệt độ dưới 0 oC. Mùa mưa cũng
như mùa khô trở nên thiếu quy luật hơn.

1.1.1.2. Lượng mưa

Trong giai đoạn 2010 đến nay, lượng mưa có xu thế tăng với mức phổ
biến trong khoảng từ 6 đến 12% hàng năm. Ví dụ năm 2023, ở khu vực vùng núi
và trung du Bắc Bộ có mưa rào và dông, cục bộ có mưa to đến rất to với lượng
mưa 20 - 40mm, có nơi trên 100mm, lưu lượng mưa lớn hơn 11% so với năm
2022. Nhiều địa phương của tỉnh phải hứng chịu những đợt mưa dông kéo dài
vào những mùa mưa cao điểm ngày càng nghiêm trọng trong những năm gần
đây. Các kỷ lục của mưa đều tăng lên đồng thời với gia tăng tần số các đợt
mưa lớn diện rộng cũng như các đợt hạn hán khốc liệt, mưa phùn trở nên
hiếm hoi hơn.

3
1.1.2. Thiên tai

Trong vùng Trung du và Miền núi phía Bắc của Việt Nam, BĐKH không chỉ
đơn giản là sự biến đổi về thời tiết mà nó còn kèm theo nhiều thiên tai nguy
hiểm gây ra thiệt hại nặng nề đối với cuộc sống và tài sản của người dân. Trong
đó hiện tượng thiên tai phổ biến nhất là lũ lụt, sạt lở và hạn hán. Với sự biến đổi
khí hậu khó kiểm soát, nguy cơ từ những hiện tượng này gây ra ngày càng trở
nên nghiêm trọng.

Hình 1: Ước tính thiệt hại do thiên tai 2010-2020 khu vực MNPB (triệu đồng)

Nguồn: Báo điện tử của bộ Tài nguyên và môi trường

Qua hình 1 ta có thể thấy thiệt hại do thiên tai tại các tỉnh trong khu vực
MNPB hầu như có xu hướng tăng dần qua 2 giai đoạn từ năm 2010 - 2014, 2015
- 2020. Trong đó thiệt hại nặng nề nhất tại tỉnh Sơn La với hơn 3500 tỷ đồng
trong giai đoạn 2010 - 2020 và chỉ riêng trong giai đoạn 2015 - 2020 tỉnh Yên Bái
thiệt hại hơn 3 nghìn tỷ đồng.

Sạt lở

Sạt lở đất là hiện tượng nguy hiểm và thường xuyên xảy ra ở các khu vực
trung du và miền núi phía Bắc Việt Nam. Theo số liệu của Tổ chức Y tế Thế giới
(WHO), nguyên nhân chính dẫn đến hiện tượng sạt lở, xói mòn được cho là do

4
thời gian gần đây thiên tai diễn biến không tuân theo quy luật, cực đoan, khó
lường và là hậu quả trực tiếp của quá trình biến đổi khí hậu. Tại các khu vực
trung du và miền núi phía Bắc, địa hình đa dạng với dãy núi non cao, đồi núi đứt
đoạn và thung lũng sâu. Những yếu tố địa hình này, kết hợp với sự ảnh hưởng
của các yếu tố tự nhiên như mưa lớn, độ dốc của địa hình, và đất đá dễ bị xói
mòn, tạo ra điều kiện lý tưởng cho sạt lở đất xảy ra. Bên cạnh đó, khi mưa lớn
đổ xuống khu vực này, lượng nước lớn và áp lực mạnh từ mưa gây ra sự mềm
dẻo của đất đá, đồng thời cũng làm cho lớp đất trên bề mặt trở nên không ổn
định. Khi áp lực của nước và đất tăng lên, sự mất cân bằng xảy ra và có thể dẫn
đến sạt lở đất. Sự sạt lở đất không chỉ gây ra thiệt hại về người và tài sản mà
còn ảnh hưởng đến cơ sở hạ tầng, nông nghiệp, và môi trường tự nhiên. Nó gây
ra thiệt hại về người và tài sản, đặc biệt là trong các khu vực dân cư ven đèo,
thung lũng hoặc các trang trại nông nghiệp. Sự di chuyển đất đá mạnh mẽ có
thể làm sập nhà cửa, đập phá hạ tầng giao thông, và làm mất mát mùa vụ nông
sản. Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển kinh tế và công nghiệp đi
kèm với sự biến mất của thảm thực vật, mức độ sạt lở đất ở các khu vực trung
du và miền núi phía Bắc đang trở nên ngày càng nghiêm trọng.

Tiêu biểu là sự kiện sạt lở đất ở Yên Bái năm 2018 đã gây ra thiệt hại
nặng nề cho đường xá và nhà cửa, cũng như gây ra mất mát về tính mạng con
người. Theo thống kê: Toàn tỉnh có 186 ngôi nhà bị thiệt hại, trong đó có 2 ngôi
nhà bị sập, đổ hoàn toàn ở huyện Trấn Yên và Văn Chấn; 2 nhà bị thiệt hại nặng
tại huyện Trấn Yên và Văn Yên; 5 nhà phải di dời khẩn cấp do sạt lở đất ở các
huyện Trấn Yên, Văn Chấn, Thị xã Nghĩa Lộ; 70 ngôi nhà phải di dời người và tài
sản để đảm bảo an toàn; 107 ngôi nhà bị ngập, tốc mái hư hỏng. Ngoài ra, nhiều
tuyến đường thuộc các huyện, thành phố bị sạt lở, ngập úng và nhiều công trình
thủy lợi bị hư hỏng ước tính thiệt hại trên 1000 tỷ đồng.

Lũ lụt

Lũ lụt ở vùng trung du và miền núi phía Bắc Việt Nam là một hiện tượng
tự nhiên phổ biến gây ra nhiều thiệt hại đối với cộng đồng dân cư sinh sống và

5
môi trường tự nhiên. Khu vực này thường chịu ảnh hưởng của mùa mưa kéo dài
và mưa lớn, đặc biệt là trong các thung lũng và vùng sát sông. Sự kết hợp giữa
địa hình dốc đứt, dòng sông và sự tập trung dân cư là nguyên nhân chính gây ra
sự nguy hiểm từ lũ lụt. Khi mưa lớn đổ xuống, lượng nước lớn từ dòng sông và
các suối đổ về, kết hợp với đất đá mềm dẻo do mưa, tạo nên điều kiện cho lũ lụt
xảy ra. Trong những năm gần đây, vùng Trung du và miền núi phía Bắc đang
phải hứng chịu những trận lũ lụt ngày càng nặng nề do ảnh hưởng của BĐKH,
khiến cho mưa lớn xảy ra thường xuyên hơn. Theo các nhà khoa học, điều này
chủ yếu bắt nguồn với việc phát thải khí nhà kính như khí CO2 và khí mê-tan. Khi
con người tiếp tục đốt nhiên liệu hóa thạch, bầu khí quyển ngày càng nóng lên.
Không khí nóng đó giữ nhiều hơi nước hơn. Ví vậy, mưa lớn sẽ phổ biến hơn khi
nhiệt độ trái đất tăng lên.

Trong đó đợt lũ nghiêm trọng nhất phải kể đến lũ lụt ở Hà Giang năm
2019 đã gây ra ngập úng dẫn tới sạt lở đất khiến hàng trăm ngôi nhà bị phá hủy
và kèm theo mất mát về tài sản và con người. Cụ thể, theo báo cáo của tỉnh:
Mưa lũ đã làm 2 nhà bị sập, cuốn trôi; 57 nhà bị thiệt hại; 524 nhà bị ngập; 215
ha lúa và hoa màu, 5 ha cây lâm nghiệp, 24 ha ao cá, 11 con gia súc và nhiều gia
cầm bị thiệt hại. Bên cạnh đó, có 5 trường hợp tử vong do sạt lở đất và lũ cuốn
trôi.

Hạn hán

Hạn hán là một hiện tượng tự nhiên đe dọa sự phát triển và sinh kế của
cộng đồng địa phương, đặc biệt là ở vùng trung du và miền núi phía Bắc Việt
Nam. Với sự biến đổi khí hậu và tăng cường của hiện tượng El Nino, hạn hán đã
trở nên phổ biến hơn và gây ra những tác động nghiêm trọng đối với đời sống
và sản xuất nông nghiệp. Hạn hán ảnh hưởng đến nguồn cung cấp nước cho
sinh hoạt và sản xuất, gây ra khó khăn trong việc cung cấp nước cho những khu
vực đang phát triển. Kèm theo đó là sự giảm bớt của nguồn nước ngầm và
nguồn nước sông, làm suy giảm nguồn cung cấp nước cho các vùng đất khô cằn.

6
Đợt hạn gần đây nhất là vào cuối tháng 5 năm 2023, tại tỉnh Hà Giang
trong số 4/11 huyện, thành phố đã có hơn 2.000 ha lúa, ngô, đậu tương, lạc, rau
vụ xuân bị nắng nóng, khô hạn, ảnh hưởng đến năng suất. Trong khi đó tại tỉnh
Bắc Kạn, hiện có khoảng 880 ha trong tổng số 8.500 ha lúa đang thiếu nước
nghiêm trọng. Ngoài ra, hơn 600 ha ngô cùng một số diện tích cây công nghiệp
ngắn ngày khác cũng bị ảnh hưởng do hạn hán với các mức độ thiệt hại từ giảm
40% năng suất đến mất trắng.

1.2. Thực trạng BĐKH tại Đồng bằng sông Hồng

1.2.1. Khí hậu

1.2.1.1. Nhiệt độ

Trong thời kỳ 2010 – 2020, nhiệt độ trung bình ở ĐBSH có xu hướng tăng
lên khoảng 0,5oC. Nhiệt độ trung bình tháng cao nhất dao động trong khoảng 29
o
C đến 32oC. Đáng chú ý là nhiệt độ trung bình tháng thấp nhất chỉ dao động
trong xung quanh 15 oC trong giai đoạn 2010 – 2013, nhưng thời kỳ 2014 – 2020,
nhiệt độ trung bình tháng thấp nhất có xu hướng tăng dần từ 15 oC lên khoảng
17.5 oC. Những con số thống kế này cho thấy nhìn chung nhiệt độ ở ĐBSH có xu
hướng tăng lên nhẹ qua các năm.

1.2.1.2. Về lượng mưa:

7
Có thể thấy lượng mưa trung bình tháng chỉ dao động quanh mức
khoảng 120mm đến 190mm. Tuy nhiên, lượng mưa trung bình tháng cao nhất
có sự biến thiên rất mạnh và có xu hướng tăng dần qua thời gian. Từ hình trên
cho thấy lượng mưa tháng cao nhất có xu hướng tăng đạt 600mm trong năm
2018. Lượng mưa trung bình qua các năm từ 1600 – 2000mm và từ 2000 –
2400mm. Các kỷ lục về lượng mưa ngày, lượng mưa tháng và lượng mưa năm
đều cao hơn và ngược lại, thời gian không mưa hoặc mưa không đáng kể có
thể dài hơn. Mưa phùn tiếp tục giảm đi góp phần gia tăng hạn hán vào mùa
xuân.

1.2.2. Thiên tai

Hiện tượng thiên tai phổ biến nhất tại khu vực Đồng bằng sông Hồng là
hạn hán, giá rét và mưa bão.

Hạn hán

Liên tiếp trong những năm gần đây, vùng đồng bằng sông Hồng - Thái
Bình chịu tác động nặng nề của những trận hạn lớn, xảy ra trên diện rộng, liên
tục và kéo dài từ năm 2010 - 2021 gây ra những tác động tiêu cực ảnh hưởng
lớn đến đến đời sống, kinh tế xã hội và môi trường. Theo số liệu thống kê trong
27 năm, tại trạm Sơn Tây có 6 năm và Hà Nội có 1 năm xảy ra hạn nặng, trong
khi đó trạm Thượng Cát có tới 8 năm, những năm hạn này chủ yếu tập trung vào
những năm khi chưa có hồ Hòa Bình. Các năm kể trên diện tích bị hạn mỗi vụ
sản xuất từ 30.000 - 140.000 ha và diện tích mất trắng từ 1000 – 2000 ha. Năm
2011, hạn hán được đánh giá là khốc liệt nhất trong vòng 20 năm trở về trước,
mặc dù đã triển khai nhiều biện pháp khắc phục nhưng diện tích bị hạn vẫn lên
tới 233.400 ha.

Giá rét

Cùng với đó là hiện tượng thời tiết cực đoan như rét hại vào mùa đông
lạnh. Theo thống kê từ năm 1961 đến nay ở Đồng bằng sông Hồng có trên 65
đợt rét hại nhiệt độ dưới 13°C kéo dài trên 3 ngày liên tục, những đợt dài nhất
kéo dài tới 10 ngày (bình quân 1 năm có 2 đợt rét hại). Phân bố các đợt rét hại

8
từ tuần đầu tháng XII đến tuần đầu tháng 3, trong đó tháng 1 chiếm 43%, tháng
II chiếm 36,5%, hai tuần cuối tháng XII chiếm 17,5%. Ở Việt Nam giá rét thường
kèm theo sương muối. Những đợt rét hại này làm chết mạ và lúa mới cấy. Đây là
yếu tố hạn chế thường gặp hàng năm của thời tiết đối với sản xuất nông nghiệp.

Mưa bão

Đồng bằng sông Hồng bị ảnh hưởng đặc biệt về thiệt hại do bão và mưa
lớn gây ra. Bão đổ bộ vào Đồng bằng sông Hồng trong thời gian từ tháng 7 đến
tháng 9 hằng năm. Gió lớn và ngập lụt làm thiệt hại mùa màng và tài sản. Tính
chung trong giai đoạn 2010 đến nay có 72% số năm có bão gây ra lụt, 33% số
năm có lụt to gây thiệt hại cho sản xuất vụ mùa. Chỉ riêng trong tháng 8/2016, 3
cơn bão số 1, 2 và 3 đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất và đời sống
dân cư làm thiệt hại gần 8700 tỷ đồng cùng với 30 người chết, mất tích và 87
người bị thương; gần 500 ngôi nhà bị sập đổ, cuốn trôi và 41,3 nghìn ngôi nhà bị
sạt lở, tốc mái; hơn 170 nghìn ha lúa, 29,7 nghìn ha hoa màu và gần 8 nghìn ha
cây lâm nghiệp, cây ăn quả bị hư hỏng.

1.3. Thực trạng BĐKH tại Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung

1.3.1. Khí hậu

1.3.1.1. Nhiệt độ

Nhiệt độ nắng nóng có xu hướng xuất hiện sớm và kết thúc muộn, số
đợt nhiều hơn, xảy ra cục bộ và phức tạp hơn, số ngày nắng nóng gay gắt nhiều
hơn. Điển hình là đợt nắng nóng gay gắt kéo dài gần 30 ngày của năm 2010 với
nhiệt độ cao tuyệt đối dao động từ 40 đến 43 oC. Không khí lạnh có nhiều biểu
hiện bất thường, mùa lạnh đến sớm hơn (cuối tháng 8 đã xuất hiện), số đợt
nhiều hơn, cường độ không mạnh như nhiều năm trước đây xong lại có những
năm xuất hiện rất đậm rất hại kéo dài mang tính lịch sử như năm 2010 - 2011 và
2013.

9
1.3.1.2. Lượng mưa

Lượng mưa ở Bắc Trung Bộ khá lớn, trung bình năm từ 1.500 - 3.000
mm, nhưng phân bố không đều giữa hai mùa và lớn dần từ Nam ra Bắc, từ tây
sang đông. Mùa khô (tháng 11- 4) lượng mưa rất ít, chỉ chiếm 15- 20% lượng
mưa cả năm, khô hạn nhất là tháng 1- 2. Ngược lại mùa mưa (tháng 5- 10) tập
trung tới 80- 85% lượng mưa cả năm. Mưa nhiều nhất vào tháng 8 đến tháng 10
có 15 - 19 ngày mưa trên tháng. Ngoài ra trong mùa này thường có giông bão
kèm theo mưa lớn trên diện rộng gây lũ lụt. Lượng mưa từ tháng 9 đến tháng
11 tăng lên 1,7 và lượng mưa mùa xuân giảm đi 1,9 % vào năm 2020. Các kỷ lục
về lượng mưa ngày, lượng mưa tháng, lượng mưa năm chắc chắn còn cao hơn,
mùa mưa ngày càng thất thường hơn và xu hướng chính là nắng và mưa lớn
dồn dập hơn trong mùa thu. Lượng bốc hơi chắc chắn tăng lên, tình trạng hạn
hán trong các tháng giữa mùa hè sẽ ngày càng khốc liệt hơn.

1.3.2. Thiên tai

Vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung là khu vực có điều kiện
thiên nhiên khắc nghiệt, chịu tác động của nhiều loại thiên tai, hiểm họa. Những
năm gần đây, miền Trung là một trong những nơi thường xuyên phải đối mặt
với nắng nóng, hạn hán, xâm nhập mặn và chịu ảnh hưởng rất lớn từ biến đổi
khí hậu, bão, lũ lụt, đe dọa cuộc sống con người và tác động xấu đến quá trình
phát triển kinh tế - xã hội trong khu vực.

Bão lũ

Vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung là dải đất dài và hẹp, độ dốc
lớn, bị chia cắt mạnh bởi các dãy núi thông ra biển. Do cấu tạo địa chất ở vùng
này, dãy Trường Sơn chạy song song với biển, có nơi sát biển, nên hệ thống
sông ngòi thường ngắn, độ dốc cao và không có đê ngăn lũ, không có các hồ
chứa nước lớn ở vùng thượng lưu để điều tiết nhằm giảm thiểu lũ lụt ở vùng
đồng bằng, vì vậy các khu dân cư ở hai bên bờ sông bị ngập tràn mỗi khi có mưa
to. Vùng Duyên hải miền Trung chịu ảnh hưởng của bão nhiều nhất cả nước,

10
hàng năm số cơn bão đổ bộ vào miền Trung chiếm 43,6% tổng số cơn bão trong
cả nước.

Thiên tai đã gây thiệt hại nặng nề về người và tài sản cho người dân,
đồng thời gây trở ngại cho việc thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội
của các địa phương trong vùng. Tổng hợp báo cáo của các địa phương cho thấy:
trong 5 năm gần đây (2018 - 2022), tại khu vực này, lũ lụt đã làm chết trên 1.500
người; nhiều tài sản, tư liệu sản xuất thiết yếu, lương thực, thực phẩm... bị phá
hủy; trong đó trên 500.000 căn nhà bị hư hỏng, hơn 42.000 căn nhà bị sập đổ
hoặc nước cuốn trôi. Riêng năm 2010 thiên tai các loại làm 282 người chết, trên
87.000 căn nhà bị hư hỏng và trên 3.500 căn nhà bị sập đổ cùng nhiều tài sản
thiết yếu khác. Hơn 500 xã bị ngập sâu trên 1,5 m, trong đó nhiều xã bị chia cắt,
cô lập hoàn toàn, gây khó khăn cho việc ứng cứu, hỗ trợ của chính quyền. Lũ lụt
là một trong những thảm họa gây thiệt hại lớn nhất mà người dân miền Trung
đang phải đối mặt.

Hạn hán

Tình trạng hạn hán và thiếu nước xảy ra thường xuyên trong mùa khô,
gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất và kinh tế của các địa phương. Do
nắng nóng và giảm lượng mưa hằng năm, dòng chảy tại các sông ở vùng duyên
hải miền Trung bị suy giảm nghiêm trọng khiến cho hiện tượng xâm nhập mặn
ngày càng lan rộng và tiến sâu vào đất liền. Năm 2019, nước sông trong khu vực
duyên hải miền Trung giảm và thấp hơn so với nhiều năm trước, các sông chính
có lượng dòng chảy giảm từ 16% đến 57% so với mức trung bình nhiều năm. Do
nước sông giảm thấp, tại dọc sông Thu Bồn nồng độ mặn lên đến 21‰, gấp 12 -
13 lần so với mức cho phép, khiến nhiều trạm bơm không thể hoạt động, nước
mặn tràn vào đồng ruộng làm khô cháy cây trồng.

Xâm nhập mặn

Vùng cửa sông khu vực Bắc Trung Bộ (các sông như Mã, Cả, Hương…) với
tình hình xâm nhập mặn không nghiêm trọng như ở đồng bằng sông Hồng và
đồng bằng sông Cửu Long. Trên sông Mã, mặn lên đến khu vực Hàm Rồng;

11
Quang Lộc, Phà Thắm trên sông Lèn; Cự Đà trên sông Lạch Trường. Cửa sông Cả
mặn xâm nhập khá sâu vào nội địa do tác động thủy triều, nhất là vào mùa khô
khi lượng nước ngọt phía thượng lưu nhỏ, ranh giới xâm nhập mặn vào đến Chợ
Tràng cách cửa biển 32km; Bến Thủy, Hưng Hòa, Rào Đừng, Nghi Thọ trên sông
Lam. Trên sông Hương (thuộc vùng biển có chế độ bán nhật triều đều), mặn
xâm nhập vào trong sông theo dòng triều nên diễn biến của mặn cũng mang
tính chất chu kỳ, độ mặn tăng lên trong thời kỳ nước cường và giảm dần trong
thời kỳ nước kém. Do lưu lượng nước nguồn bé và thuỷ triều biến đổi không lớn
nên sự xâm nhập mặn ở vùng cửa sông Hương mang tính chất phân tầng khá rõ
và mặn lên đến Ngã Ba Tuần.

Tuy nhiên hiện nay tại lưu vực sông Mã, Cả, hiện tượng xâm nhập mặn có
chiều hướng gia tăng tại các khu vực Thanh Hóa, Hà Tĩnh, đặc biệt là tại Nghệ
An. Một số khu vực thuộc vùng nước mặn nhưng hàm lượng vẫn có xu hướng
tăng theo thời gian như: Sầm Sơn, Thanh Hoá (QT9a-TH) tăng với tốc độ
11,67mg/l.năm; Nga Sơn, Thanh Hoá (QT13a-TH) tăng 409,16mg/l.năm; Quỳnh
Lưu, Nghệ An (QT2b-NA) tăng 167,52 mg/l.năm; Nghi Lộc, Nghệ An (QT9b-NA)
tăng 258,16 mg/l.năm.

1.4. Thực trạng BĐKH tại Tây Nguyên

1.4.1. Khí hậu

1.4.1.1. Nhiệt độ

Nhiệt độ trung bình mùa khô, mùa mưa và cả năm đều có xu thế tăng với
tốc độ lần lượt là 0.028 oC/năm, 0.016 oC/năm và 0.019 oC/năm. Nhiệt độ trung
bình mùa khô tăng nhanh hơn nhiệt độ trung bình mùa mưa và cả năm. Tốc độ
tăng của nhiệt độ trong mùa khô cao hơn so với trong mùa mưa và cả năm. Các
chỉ số cực đoan liên quan đến nhiệt độ tối thấp tăng nhanh hơn so với các chỉ số
cực đoan liên quan đến nhiệt độ tối cao, dẫn đến biên độ nhiệt độ có xu thế
giảm. Mặc dù, nhiệt độ tối cao tuyệt đối không có dấu hiệu tăng nhưng số ngày
nắng nóng, nắng nóng gay gắt, số ngày có đêm nóng tăng lên đáng kể.

12
1.4.1.2. Lượng mưa

Lượng mưa hàng năm có xu hướng ít đi, do mùa khô kéo dài. Tình trạng
mất rừng và sự thay đổi nhanh chóng của lớp phủ bề mặt trên thành tạo địa
chất, mà cụ thể là trên đất (vì mục đích quy hoạch trồng hoa màu, cây công
nghiệp và nhiều dự án nông, lâm nghiệp khác) đã làm cho mực nước ngầm sụt
giảm. Thông thường, mùa mưa hằng năm ở Tây Nguyên còn kéo dài đến hết
tháng 10, mùa lũ là tháng 11. Xem xét dưới góc độ quy luật chung, trong các
tháng 9, tháng 10, dù tổng lượng mưa/tháng có xu hướng giảm so với thời kỳ
cao điểm (tháng 7, tháng 8) nhưng vẫn còn khá cao và thường mưa thành từng
đợt tập trung nên có xác suất gây thiên tai cao hơn các tháng khác trong năm.
Trung bình hằng năm lượng mưa ở Tây Nguyên đạt từ 250 – 350mm trong
tháng 9 và từ 150 - 250mm trong tháng 10; năm có mưa nhiều về cuối mùa như
năm 2010, 2011 lượng mưa có thể đạt từ 550 – 700mm trong tháng 9, từ 350 –
500mm trong tháng 10; nhưng cũng có những năm mưa rất ít, chỉ đạt dưới
250mm trong tháng 9 và dưới 150mm trong tháng 10.

1.4.2. Thiên tai

Sự phân hóa sâu sắc theo không gian và thời gian của chế độ khí hậu thủy
văn kết hợp với tính chất phức tạp của địa hình ở Tây Nguyên, những hoạt động
thái quá của con người và đặc biệt là sự tác động mạnh mẽ của biến đổi khí hậu
toàn cầu đã làm cho thiên tai có nguồn gốc từ khí hậu thủy văn ở nơi đây đang
ngày một khốc liệt và có chiều hướng gia tăng. Khô hạn trong mùa khô và lũ lụt
trong mùa mưa hằng năm đã gây thiệt hại trực tiếp hàng trăm tỷ đồng, hàng
chục người thiệt mạng, để lại những hậu quả xấu về môi trường. Ngoài ra, các
biến động khác như sạt lở đất, lốc tố, mưa đá, dông sét, gió tây nắng nóng,
sương mù, sương giá,... cũng đã gây ra không ít khó khăn trở ngại cho đời sống
sinh hoạt và sản xuất của nhân dân Tây Nguyên.

Sạt lở đất

Những năm gần đây, tình trạng sạt lở đất trong mùa mưa diễn ra ngày
càng phức tạp và nghiêm trọng tại địa bàn các tỉnh Tây Nguyên. Nhiều vụ sạt lở

13
đã gây ra hậu quả đặc biệt nghiêm trọng làm nhiều người chết, gây thiệt hại tài
sản hàng trăm tỷ đồng. Nguyên nhân các vụ sạt lở trên được đánh giá một phần
do thiên nhiên, nhưng cũng một phần do "nhân tai”. Thống kê của Sở Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Kon Tum cho thấy, vào mùa mưa, trên địa
bàn tỉnh có hàng trăm điểm sạt lở, có nguy cơ sạt lở cao tại các khu vực dân cư,
vườn rẫy tại nhiều xã thuộc các huyện Tu Mơ Rông, Kon Plông, Đăk Glei. Ngoài
ra, các tuyến Tỉnh lộ 673 (huyện Đăk Glei), 676 (huyện Kon Plông); 672, 678
(huyện Tu Mơ Rông), các tuyến Quốc lộ 24, 40B cũng thường xuyên xảy ra sạt
lở. Trong khi đó, ở phía Nam Tây Nguyên cũng đang đối mặt với tình trạng sạt
lở, sụt lún đất nhiều chưa từng có. Tại địa bàn Lâm Đồng, sạt lở là tình trạng
thường thấy khi mùa mưa đến, đặc biệt tại các tuyến đường đèo, vùng đồi núi
có độ dốc lớn. Điển hình trong mùa mưa năm 2023, số vụ sạt lở đất gây hậu quả
nghiêm trọng có xu hướng gia tăng so với những năm trước đây. Trong đó có
thể kể đến vụ sạt lở đất trên đèo Bảo Lộc làm 4 người thiệt mạng vào cuối tháng
7 vừa qua. Đáng chú ý, trong dịp cao điểm mưa lũ cuối tháng 6/2023, toàn
thành phố Đà Lạt có 13 điểm sạt lở chỉ trong 1 ngày khiến 2 người thiệt mạng, 3
người bị thương và nhiều tài sản bị thiệt hại. Không dừng lại ở đó,trên địa bàn
tỉnh Đắk Nông tiếp tục ghi nhận nhiều điểm sạt lở, sụt trượt mới. Có thể kể đến
Tỉnh lộ 1, nối liền 2 huyện Đắk R’lấp - Tuy Đức.

Hạn hán

Thiên tai xảy ra thường xuyên; hạn hán, nắng nóng vào mùa khô; các hiện
tượng thời tiết nguy hiểm khác như dông, lốc xoáy, mưa đá xuất hiện ngày càng
nhiều và bất thường hơn. Sự gia tăng biên độ nhiệt, độ ẩm ngày đêm, khiến một
số nơi đang mất dần tính ôn hòa vốn có của nó. Trong một vài tháng của mùa
khô, hiện tượng nhiệt độ tăng cao, gây nắng nóng hơn bình thường đã xuất hiện
ở một vài nơi. Hiện tượng El Nino gây hạn hán kéo dài làm giảm 20-25% lượng
mưa từ đó làm thiếu nước trầm trọng ở khu vực Tây Nguyên. Điển hình là đầu
tháng 4, Tây Nguyên sẽ vào giai đoạn cao điểm mùa khô, dự báo hạn hán năm
nay khốc liệt hơn mọi năm. Mực nước và lưu lượng trên các sông suối giảm dần

14
và duy trì ở mức thấp hơn trung bình nhiều năm. Hàng nghìn hecta cây trồng
héo rũ vì thiếu nước. Tình trạng ít mưa, khô hạn, thiếu nước trong các tháng
mùa khô năm 2020 tác động lớn đến các hoạt động sản xuất và sinh hoạt của
người dân. Tổng diện tích cây trồng bị khô hạn, thiếu nước trên 1.700 ha.

Lũ lụt

Sự phân bố lượng mưa theo không gian và thời gian cũng có những dấu
hiệu thay đổi. Trong đó, đáng lưu ý nhất là hiện tượng mưa lớn gia tăng khiến lũ
quét xuất hiện nhiều hơn. Do ảnh hưởng mưa bão kéo dài, nhiều nơi ở Tây
Nguyên ngập lụt trong nước. Hàng trăm ngôi nhà bị ngập sâu, hàng ngàn héc ta
lúa và hoa màu bị hư hại. Điển hình năm 2023, Theo báo cáo nhanh của Ban Chỉ
huy phòng, chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn tỉnh Đắk Lắk, mưa lớn khiến
một số huyện như Lắk, Krông Ana, Ea Súp, Krông Bông ngập lụt tại một số khu
vực trũng thấp. Hơn 4.000 héc ta cây trồng bị ngập lụt, trong đó có hơn 3.000
héc ta lúa. Đặc biệt, mưa lớn khiến quốc lộ 14C ngập sâu trên 1m, hiện chưa lưu
thông được.

1.5. Thực trạng BĐKH tại Đông Nam Bộ

1.5.1. Khí hậu

1.5.1.1. Nhiệt độ

Vùng Đông Nam Bộ đến nay vẫn còn chịu những tác động và hậu quả kéo
dài của hiện tượng EL Nino qua 2 đợt gia tăng nhiệt độ kỷ lục vào giai đoạn 2015
- 2016 và 2019 - 2020. Trong 10 năm từ 2010 - 2020, nhiệt độ gia tăng trung
bình trong tháng 1 là 0.9 oC, trong tháng 7 là 0.4 oC, cả năm là 0.6oC và đang có
xu hướng tăng dần. Dự kiến trong năm 2024 nhiệt độ trung bình năm tăng
khoảng 0,8 oC.

1.5.1.2. Lượng mưa

Về chế độ mưa, vùng này có lượng mưa trung bình năm giai đoạn 2015-
2020 là 1500mm cao hơn 200mm so với giai đoạn 2010-2015 với chỉ 1300mm,
số ngày mưa trung bình năm kéo dài trong khoảng 100 – 160 ngày nhưng lại

15
đang có xu hướng giảm dần từ năm 2020 do ảnh hưởng của hiện tượng nắng
nóng kéo dài. Mùa khô rõ rệt hơn, hạn hán trong vụ đông xuân càng trở nên
thường xuyên hơn, khắc nghiệt hơn.

1.5.1.3. Mực nước biển

Biến đổi khí hậu đang làm cho các đại dương ấm lên. Nhiệt độ tăng làm
cho tăng dung tích nước vốn có của các đại dương đồng thời làm cho băng tan
từ các vùng cực Bắc và Nam cực, từ các khối băng tiềm tàng trên các núi cao. Hệ
quả của các hiện tượng này là quá trình nước biển dâng.

Theo Trung tâm Dự báo khí tượng thủy văn Quốc gia dự báo, mực nước
tại ven biển phía Đông Nam bộ có xu hướng tăng, độ cao lớn nhất tại trạm Vũng
Tàu có thể đạt từ 4 đến 4,05m. Do ảnh hưởng của triều cường, các vùng trũng,
thấp, ven sông, vùng ngoài đê bao khu vực ven biển phía Đông Nam bộ có khả
năng ngập úng trong khoảng thời gian sáng sớm và buổi chiều làm tăng nguy cơ
xâm nhập mặn trên các sông ở khu vực phía Đông Nam bộ. Dự đoán rằng vào
năm 2045, với mực nước biển dâng 25 cm, tỷ lệ diện tích ngập sẽ lên đến 12,6%
ở thành phố Hồ Chí Minh; 0,4% ở Bà Rịa – Vũng Tàu.

1.5.2. Thiên tai

Đông Nam Bộ là khu vực có đặc điểm khí hậu cận xích đạo với nền nhiệt
độ cao và phân hoá sâu sắc theo mùa. Khí hậu của vùng tương đối điều hoà, ít
có thiên tai. Tuy vậy, trong những năm gần đây do tác động của biến đổi khí hậu
đến lượng mưa thay đổi, lưu lượng nước tăng vào mùa mưa và suy giảm vào
mùa khô, gây hoang hóa đất, gia tăng hạn hán làm thiệt hại tới đời sống kinh tế
của địa phương. Bên cạnh đó, biến đổi khí hậu cũng khiến cho mực nước biển
dâng, gia tăng tình trạng ngập lụt và xâm nhập mặn.

Hạn hán

Hiện tượng nắng nóng và lượng mưa phân bố không theo quy luật đã gây
hạn hán cục bộ ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất nông-ngư nghiệp và đời
sống sinh hoạt của người dân trong vùng Đông Nam bộ. Nguồn nước suy kiệt

16
trong mùa khô khiến không đủ nước tưới và làm cho các vùng trồng lúa, bắp ở
các tỉnh bị thiệt hại nặng. Tình trạng thiếu nước sinh hoạt và sản xuất trong mùa
khô ngày càng gia tăng. Điển hình là từ đầu năm 2016, lưu lượng nước về hồ Trị
An bị suy giảm. Tổng lượng nước về hồ trong 3 tháng đầu năm chỉ đạt 480 triệu
m3, bằng 53% so với cùng kỳ năm 2015 và bằng 64% trung bình nhiều năm.
Cũng do thời tiết nắng nóng kéo dài khiến mực nước phục vụ tưới tiêu trên địa
bàn huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai đã bị sụt giảm nghiêm trọng. Ngay cả những
xã nằm cạnh bên sông Đồng Nai cũng đang đứng trước nguy cơ thiệt hại hàng
trăm ha cây trồng vì thiếu nước. Các địa phương đang phải chịu cảnh khô hạn là
xã Đắk Lua, xã Phú Bình của huyện Tân Phú. Tại đây có hàng trăm ha ngô và lúa
của nông dân thiếu nước trầm trọng.

Lũ lụt

Đông Nam Bộ cũng phải hứng chịu ảnh hưởng của những đợt lũ lụt và
ngập mặn kéo dài. Khu vực ven biển do chịu ảnh hưởng của bão lũ, sạt lở vùng
ven bờ và nước biển dâng đã khiến tài nguyên đất bị suy giảm nghiêm trọng.
Theo Sở Tài nguyên và Môi trường, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, ngoài việc thu hẹp
diện tích đất nông nghiệp do nhiễm mặn, tỉnh còn phải đối mặt với tình trạng
xói lở bờ biển nghiêm trọng do nước biển dâng. Ngoài ra, các khu vực nông
nghiệp ngoại thành TP. Hồ Chí Minh và các tỉnh lân cận nằm trong vùng thấp
nên cũng phải chịu nhiều ảnh hưởng của triều cường và mưa lớn. Bên cạnh đó,
việc xả lũ của các hồ chứa nước trên sông Đồng Nai, sông Sài Gòn… đã làm vỡ
đê bao, tạo nên ngập úng sâu và kéo dài gây ra thiệt hại lớn cho sản xuất nông
nghiệp và đời sống của người dân.

Ngập mặn

Xâm nhập mặn là một vấn đề nghiêm trọng đối với khu vực Đông Nam
Bộ, đặc biệt là các tỉnh ven biển như Bến Tre, Sóc Trăng và Cà Mau. Đây là một
hiện tượng tự nhiên chịu sự tác động của biến đổi khí hậu và hoạt động con
người. Với sự tăng lên của mực nước biển, nước mặn từ biển có xu hướng xâm
nhập sâu vào đất liền, gây ra sự suy giảm của chất lượng đất và nước ngầm. Đối

17
với người dân địa phương, xâm nhập mặn là một thách thức lớn, làm giảm năng
suất nông nghiệp và gây ra thiệt hại cho nền kinh tế địa phương.

Theo số liệu của Đài Khí tượng Thủy văn khu vực Nam Bộ, xâm nhập mặn
mùa khô năm 2023 - 2024 đến sớm và sâu hơn trung bình những năm trước.
Đợt xâm nhập mặn xuất hiện từ ngày 8/3 đến ngày 13/3 với ranh mặn 4‰ lấn
sâu vào các dòng sông từ 40-66km, có nơi sâu hơn. Riêng tại Bến Tre, có nơi
xâm nhập mặn còn sâu hơn ranh mặn kỷ lục ở ĐBSCL năm 2016. Tổng mức thiệt
ở khu vực này khoảng 70.168 tỉ đồng/năm. Đây là thiệt hại gây ra với hoạt động
sản xuất gồm cây ăn quả, hoa màu, lúa và thủy sản.

1.6. Thực trạng BĐKH tại Đồng bằng sông Cửu Long

1.6.1. Khí hậu

1.6.1.1. Nhiệt độ

Trong giai đoạn từ 2010 đến nay, nhiệt độ trung bình năm tại vùng ĐBSCL
có xu hướng ngày càng tăng cao. Vùng ĐBSCL vốn có một nền nhiệt cao, phần
lớn trong khoảng 25 - 27 oC giai đoạn trước năm 2010 và tăng lên từ 29 – 31 oC
giai đoạn từ 2010 đến nay. Thời điểm nóng nhất trong năm là tháng 3, tháng 4,
nhiệt độ ban ngày 28°C - 35°C; từ tháng 6 đến tháng 2 có nhiệt độ thấp nhất
nhưng hiếm khi dưới 20°C. Xu hướng những năm gần đây là mùa nóng kéo dài
và nhiệt độ tăng cao, trong khi đó mùa lạnh rút ngắn lại và ấm lên.

Lượng mưa

Vùng ĐBSCL có lượng mưa trung bình khoảng 1.600 - 1.800 mm, ven biển
Tây từ 2.000 - 2.400 mm và ven biển Đông từ 1.400 - 1.600 mm. Mưa được
phân thành 2 mùa: mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10, mùa khô từ tháng 11 đến
tháng 4 năm sau. Từ năm 2010 – 2020, lượng mưa mùa hè tăng lên không đến
2% lượng mưa mùa thu tăng lên 2,6%. Lượng mưa ngày, lượng mưa tháng,
lượng mưa năm tăng lên không đáng kể. Mùa khô rõ rệt hơn, hạn hán trong vụ
đông – xuân trở nên khốc liệt hơn.

Mực nước biển

18
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) chịu sự tác động của hai khối nước lớn
là nước sông Mê Công và thủy triều của biển; do đó chế độ thủy văn của khu
vực phức tạp, chịu ảnh hưởng đồng thời của dòng chảy thượng lưu sông Mê
Công và thủy triều biển Đông và biển Tây. Trong mùa cạn, khi nước từ thượng
nguồn về thấp, thủy triều xuất hiện mang nước mặn xâm nhập sâu vào nội đồng
gây khó khăn cho sinh hoạt và sản xuất và đặc biệt trong bối cảnh biến đổi khí
hậu (BĐKH), mực nước biển có thể dâng cao dẫn đến nguy cơ một phần lớn
đồng bằng sẽ bị ngập lụt và nhiễm mặn do chịu tác động của hiện tượng El Nino
nên khu vực ĐBSCL hầu như không mưa, ngày nắng kéo dài, nắng nóng đã xuất
hiện và còn xuất hiện nhiều đợt trên khu vực cho đến tháng 5/2024. Cùng với
đó là lượng dòng chảy từ thượng nguồn Mê Kông về ĐBSCL thiếu hụt từ 5 - 12%
so với trung bình nhiều năm.

1.6.2. Thiên tai

Khu vực Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) có khả năng xảy ra hạn hán,
thiếu nước, xâm nhập mặn. Độ mặn tại các sông trong mùa khô 2023 - 2024 ở
mức cao và hầu hết đều ở mức cao hơn trung bình nhiều năm. Lũ lụt là một
hiện tượng thiên nhiên xảy ra hàng năm, thậm chí nhiều nơi đe dọa đến cả sự
tồn tại của đồng bằng sông Cửu Long. Các hiện tượng mưa, nắng thất thường,
nước biển lấn sâu vào nội đồng, cùng với sạt lở bờ sông, xói lở bờ biển thường
xuyên xảy ra đã và đang tạo nhiều áp lực cho chính quyền và người dân nơi đây.

Hạn hán

Những ngày qua, các tỉnh Nam Bộ đã xảy ra nắng nóng kéo dài, tại một số
địa phương ở Đồng bằng sông Cửu Long xảy ra hạn hán, xâm nhập mặn, ảnh
hưởng trực tiếp đến sản xuất và đời sống của người dân, nhiều hộ dân đã gặp
khó khăn về nước sinh hoạt. Trong những năm gần đây, ĐBSCL đã trải qua các
đợt hạn hán nghiêm trọng nhất trong vòng 100 năm qua — đặc biệt là vào năm
2015 – 2016 và thậm chí còn tàn khốc hơn vào năm 2019 – 2020. Hạn hán mùa
khô ngày càng trở nên nghiêm trọng qua từng năm, buộc Chính phủ phải ban bố
tình trạng khẩn cấp và kêu gọi sự hỗ trợ của quốc tế. Hạn hán kéo dài gây khó

19
khăn lớn đến 10 trên 13 tỉnh ở ĐBSCL trong vụ mùa 2019 – 2020, ảnh hưởng
đến 58.000 ha lúa, 6.650 ha cây ăn quả, 1.241 ha rau màu và 8.715 ha nuôi
trồng thủy sản. Có tới 96.000 hộ gia đình tương đương 430.000 người phải đối
mặt với tình trạng thiếu nước sinh hoạt. Thêm vào đó, hàng nghìn điểm sụt lún
đã được ghi nhận xung quanh khu vực ĐBSCL, gây thiệt hại đáng kể về đường xá
và nhà cửa.

Xâm nhập mặn

Trong các tháng mùa khô, nhiều tỉnh, thành vùng ĐBSCL bị nước biển
xâm nhập sâu làm thiệt hại cho sản xuất nông nghiệp, nhiều khu vực thiếu nước
ngọt phục vụ sinh hoạt. Số lượng các cơn bão hướng vào vùng ĐBSCL, khu vực
trong quá khứ rất ít khi hứng chịu bão, ngày càng nhiều với cường độ khá lớn,
gây hậu quả nặng nề tới phát triển kinh tế và đời sống của người dân địa
phương. Đợt hạn mặn năm 2015 - 2016 được xem là đợt mặn kỷ lục, 100 năm
mới lặp lại thì đợt hạn mặn năm 2019 - 2020 đã phá vỡ mọi kỷ lục được xác lập.
Mùa khô năm 2019 - 2020, xâm nhập mặn đã ảnh hưởng đến 10/13 tỉnh ĐBSCL
với phạm vi ảnh hưởng của xâm nhập mặn với ranh 4 g/L là 1.688.600 ha, chiếm
42,5% diện tích tự nhiên toàn vùng, cao hơn năm 2016 là 50.376 ha. Cà Mau là
địa phương bị ảnh hưởng nặng nhất với 16.500 ha/176.700 ha diện tích gieo
trồng trong vụ mùa bị ảnh hưởng, trong đó diện tích bị thiệt hại trắng từ 70%
trở lên là 14.000 ha. Đối với vụ đông xuân 2019 - 2020, ở ĐBSCL có 6 tỉnh (Trà
Vinh, Tiền Giang, Sóc Trăng, Kiên Giang, Long An và Cà Mau) bị ảnh hưởng của
hạn hán, xâm nhập mặn với tổng diện tích khoảng 41.900 ha, trong đó, có
26.000 ha thiệt hại mất trắng và Trà Vinh là tỉnh có diện tích thiệt hại nhiều nhất
với 14.300 ha.

Lũ lụt

Hàng năm lũ sông Mê Kông tràn về gây ngập lụt trên diện tích rộng cho
vựa lúa lớn nhất nước ta: Ngập lụt gần 2 triệu ha, kéo dài 4 - 6 tháng, ngập sâu
0,5 - 4,0m. Lũ ở ĐBSCL là hiện tượng tự nhiên và xảy ra hàng năm, đem lại
không ít nguồn lợi cho người dân trong khu vực: Cung cấp nguồn lợi thủy sản,

20
bồi đắp phù sa cho vùng châu thổ, rửa mặn phèn và độc chất tích tụ ở những
vùng trũng. Bên cạnh những lợi ích, lũ lụt gây ra mất mát không nhỏ về người và
của cho người dân như: Cướp đi sinh mạng của nhiều người, mất mùa và giảm
năng suất cây trồng vật nuôi, phá hoại các công trình công cộng, nhà dân, làm
ảnh hưởng đến đời sống của nhân dân và các hoạt động kinh tế - xã hội
khác.Mùa lũ thường kéo dài từ cuối tháng 6 cho đến cuối tháng 12 và được chia
ra ba giai đoạn. Trong giai đoạn 1, từ tháng 7 đến tháng 8, nước lũ chảy vào các
kênh và các mương rạch vùng Đồng Tháp Mười và Tứ giác Long Xuyên. Điển
hình năm 2016, ĐBSCL có khoảng 1,4 triệu ha bị ngập lụt vào năm lũ nhỏ và 1,9
triệu ha vào năm lũ lớn, thời gian ngập lụt từ 3-6 tháng, muộn hơn so với
thượng lưu khoảng 1 tháng. Lũ ĐBSCL mỗi ngày lên (cường suất) trung bình 5-
7cm/ ngày, lúc cao nhất có thể đạt 20-30cm/ngày. Đỉnh lũ lớn nhất có thể xảy ra
vào cuối tháng 9, đầu tháng 10 và vào tháng 8 thường xảy ra 1 đỉnh phụ, đỉnh
phụ thấp hơn đỉnh chính.

21
CHƯƠNG 2: TÁC ĐỘNG CỦA BĐKH TỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI TẠI VIỆT
NAM

2.1. Tác động của BĐKH tới tăng trưởng kinh tế Việt Nam

Đôi nét về bối cảnh thế giới

Trong các thập niên gần đây, nhiều báo cáo của Liên hợp quốc cũng như
các tổ chức quốc tế, các nghiên cứu độc lập đánh giá về biến đổi khí hậu và tác
động của nó đối với tăng trưởng kinh tế và an sinh xã hội, tuy có khác nhau về
số liệu cụ thể, nhưng đều phản ánh một xu thế chung thống nhất, đó là biến đổi
khí hậu có ảnh hưởng tiêu cực đối với an sinh xã hội và tăng trưởng kinh tế toàn
cầu.

Năm 2006, một báo cáo về “Kinh tế học biến đổi khí hậu” do nhà kinh tế
học Nicholas Stern đệ trình Chính phủ Anh đã mô tả BĐKH như một thất bại thị
trường lớn nhất và sâu rộng nhất mà thế giới phải trải qua. Báo cáo cho rằng,
nếu không có những biện pháp giảm nhẹ hiệu quả, tổng chi phí do BĐKH gây ra
sẽ tương đương với việc mất đi ít nhất 5% GDP toàn cầu mỗi năm, trong khi chi
phí nhằm cắt giảm lượng phát thải khí nhà kính chỉ giới hạn ở mức 1% GDP toàn
cầu mỗi năm. Xét trên phạm vi toàn thế giới, BĐKH sẽ làm giảm tốc độ tăng
trưởng kinh tế và tạo nên các chu kỳ tăng trưởng không bền vững. Sử dụng các
mô hình đánh giá hiệu ứng kinh tế toàn cầu, các nghiên cứu chỉ ra rằng, BĐKH sẽ
tác động nghiêm trọng đến năng suất, sản lượng và làm giảm tốc độ tăng
trưởng ở các nước chịu tác động mạnh của BĐKH, đặc biệt ở các nước đang
phát triển.

Trở lại với bối cảnh của Việt Nam

Ở Việt Nam, thiên tai đang ngày càng gia tăng cả về quy mô cũng như chu
kỳ lặp lại, từ đó làm mất đi nhiều thành quả của quá trình phát triển kinh tế - xã
hội của cả nước. Thực tế, trong những năm trở lại đây, biến đổi khí hậu đã gây
thiệt hại hàng tỷ USD và trong tương lai, tổn thất còn lớn hơn rất nhiều. Điều đó
đòi hỏi Việt Nam và toàn thế giới cần nỗ lực ứng phó.

22
Trong giai đoạn 2002 - 2010, thiệt hại do thiên tai gây ra trên phạm vi cả
nước thấp nhất là 0,14% GDP (năm 2004) và cao nhất là 2% GDP (năm 2006)
(Phan Sỹ Mẫn và Hà Huy Ngọc, 2013). Tính bình quân trong 15 năm qua, thiên
tai đã gây tổn hại khoảng 1,5% GDP hàng năm (Bộ Tài Nguyên và Môi trường,
2012).

Cũng theo Bộ Tài Nguyên và Môi Trường, theo tính toán, trong giai đoạn
2011-2020, khí hậu cực đoan đã gây thiệt hại nghiêm trọng về kinh tế, với tổng
thiệt hại rơi vào khoảng 229.958 tỷ VNĐ (tương đương khoảng 10 tỷ USD tương
đương 3,2% GDP, theo tỷ giá năm 2022).

Thiệt hại trực tiếp đối với tài sản công và tư, trung bình mỗi năm Việt
Nam bị thiệt hại khoảng 2,4 tỷ USD (tương đương 0,8% GDP) do các hiện tượng
thời tiết cực đoan. Hơn nữa, nếu tính theo chi phí suy thoái môi trường nói
chung, thiệt hại do biến đổi khí hậu sẽ rơi vào khoảng 10 tỷ USD vào năm 2020,
tương đương 3,2% GDP. Trong các năm 2011, 2012, 2018 và 2020 đã có 5.929
phòng học và nhà chức năng bị phá hủy và hư hại, 2.723 điểm trường bị ảnh
hưởng. Hơn 204 nghìn ha rừng bị thiệt hại trong các năm 2012, 2018, 2020-
2021.

Theo các kịch bản BĐKH của Bộ Tài nguyên và Môi trường, đến cuối thế
kỷ 21, sự gia tăng 1m của mực nước biển có thể gây ảnh hưởng trực tiếp đến
đời sống và sinh kế của khoảng 20% dân số và tổn thất có thể lên tới 10% GDP
mỗi năm. Báo cáo kết quả nghiên cứu về tính dễ bị tổn thương do BĐKH của tổ
chức DARA International Chỉ ra rằng, BĐKH có thể làm Việt Nam thiệt hại
khoảng 15 tỷ USD mỗi năm, tương đương khoảng 5% GDP. Cụ thể là, hàng năm,
nước biển dâng gây thiệt hại khoảng 4 tỷ USD, thiệt hại năng suất lao động là
khoảng 8 tỷ USD, thiệt hại của ngành ngư nghiệp là 1,5 tỷ USD, của ngành nông
nghiệp là 0,5 tỷ USD, do lũ lụt và sạt lở đất là 200 triệu USD, và chi phí hạ nhiệt
do nhiệt độ tăng là khoảng 150 triệu USD. Nếu Việt Nam không có giải pháp ứng
phó kịp thời, nhiệt độ tăng 1,0℃ và 1,5 ℃ có thể gây tổn thất lần lượt khoảng
1,8% GDP và 4,5% GDP; thiệt hại kinh tế khoảng 4,3 tỷ USD trong 10 năm tới,

23
các con số về thiệt hại sẽ còn tăng cao hơn nữa khi dự báo cho thấy rằng sẽ
thiệt hại về tăng trưởng kinh tế sẽ tiếp tục rơi vào khoảng 12% đến 14,5% GDP
mỗi năm vào năm 2050 và có thể khiến tới một triệu người vào tình trạng nghèo
cùng cực vào năm 2030. Bên cạnh đó, nếu nước biển dâng và nhiệt độ tăng lên
theo kịch bản xấu nhất, ước tính đến năm 2050, Việt Nam có khoảng 3,1 triệu
người phải di cư nội địa, ảnh hưởng tới nguồn lao động và cơ cấu lao động của
nước ta.

2.2. Tác động của BĐKH tới chuyển dịch cơ cấu ngành của Việt Nam

Năm Nông - lâm - Công nghiệp & Dịch vụ Thuế sản phẩm
ngư nghiệp xây dựng trừ trợ cấp sản
phẩm
2010 16,4 42,0 41,6 0
2011 16,1 41,8 42,1 0
2012 15,8 41,6 42,6 0
2013 18,38 38,31 43,31 0
2014 18,82 38,5 43,38 0
2015 17,0 33,25 39,73 10,02
2016 16,32 32,72 40,92 10,04
2017 15,34 33,34 41,32 10,0
2018 14,57 34,28 41,17 9,98
2019 13,96 34,49 41,64 9,91
2020 14,85 33,72 41,63 9,8
2021 12,36 37,86 40,95 8,83
2022 11,88 38,26 41,33 8,53
2023 11,96 37,12 42,54 8,38

24
Bảng 1: Tỷ trọng cơ cấu ngành trong GDP tại Việt Nam giai đoạn 2010 - 2023
(đơn vị: %)

Biểu đồ 3: Tỷ trọng cơ cấu ngành trong GDP tại Việt Nam giai đoạn 2010 - 2023
(đơn vị: %)
Nhận xét chung: Cơ cấu ngành kinh tế của Việt Nam giai đoạn 2010 -2023
đã chuyển dịch theo đúng quy luật của chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xu hướng chung là giảm tỉ trọng khu
vực I và tăng dần tỉ trọng khu vực II và III. Tuy nhiên, việc chuyển dịch này vẫn
còn khá chậm. Một số điểm nhấn đáng chú ý trong quá trình chuyển dịch cơ cấu
đó là: Trong nội bộ ngành Nông nghiệp đã chuyển dịch từ loại cây trồng, vật
nuôi có hiệu quả kinh tế thấp sang loại cây trồng, vật nuôi có hiệu quả kinh tế
cao hơn. Trong nội bộ nhóm ngành Công nghiệp - xây dựng thì tỷ trọng ngành
Công nghiệp chế biến, công nghiệp điện tử - cơ khí - luyện kim - năng lượng
ngày càng được đầu tư lớn. Cơ cấu nội bộ nhóm ngành dịch vụ trong giai đoạn
nghiên cứu đã chuyển dịch theo hướng hiện đại, hợp lý và hiệu quả, cụ thể là tỷ
trọng trong GDP của ngành Vận tải, Kho bãi; Thông tin và Truyền thông; Khoa
học công nghệ; Giáo dục và Đào tạo; Y tế đều có xu hướng tăng lên. Trái lại, tỷ
trọng các ngành bán buôn và bán lẻ; dịch vụ lưu trú và ăn uống; hoạt động kinh

25
doanh bất động sản lại có xu hướng tăng giảm không ổn định, điều này cũng
phụ thuộc nhiều vào biến động kinh tế và các tác động khách quan đến từ bên
ngoài.

2.2.1 Tác động của BĐKH đến khu vực nông nghiệp

Nông nghiệp đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với kinh tế, xã hội của
Việt Nam. Nông nghiệp bao gồm trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản và lâm nghiệp.
Khí hậu nhiệt đới, đất đai màu mỡ, nguồn nước dồi dào và đa dạng sinh học
phong phú là những điều kiện quan trọng để sau 40 năm “Đổi mới” thực hiện
cải cách kinh tế, ngành nông nghiệp Việt Nam đã phát triển theo hướng thương
mại đa dạng, đáp ứng nhu cầu trong nước và thế giới. Hiện nay, Chính phủ đang
đẩy mạnh chương trình tái cơ cấu toàn diện ngành nông nghiệp trong bối cảnh
nông nghiệp Việt Nam đang đứng trước ngã rẽ của cả cơ hội và thách thức.

Về kinh tế, tỷ trọng đóng góp của ngành nông nghiệp tới GDP của Việt
Nam đã giảm khá đáng kể xuống còn khoảng 11,96% tổng GDP năm 2023, số
liệu này cho thấy sự chuyển đổi sâu sắc của nền kinh tế Việt Nam.

Các nông sản xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam là gạo, cà phê, hạt tiêu,
chè, hạt điều, cao su, sắn, thủy sản, và đồ nội thất. Thị trường xuất khẩu nông
sản của Việt Nam chủ yếu là Trung Quốc, Châu Âu, Mỹ, ASEAN, Nhật Bản và Hàn
Quốc. Tuy nhiên, hoạt động sản xuất nông nghiệp phụ thuộc nhiều vào các yếu
tố tự nhiên như: đất đai, nguồn nước, khí hậu, chế độ thủy văn, nhiệt độ, độ
ẩm... nên sẽ là ngành bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi BĐKH ở Việt Nam. Do đó
việc Biến đổi khí hậu đang xảy ra trong những năm gần đây đã và đang mang
đến những thay đổi đáng kể trong nền Nông nghiệp nước nhà.

Biến đổi khí hậu không chỉ gây ra các hiện tượng thời tiết cực đoan như
mưa đá, hạn hán, lũ lụt... mà nó còn ảnh hưởng nặng nề đến lĩnh vực nông
nghiệp, có thể còn dẫn đến mất mùa hoàn toàn. Biến đổi khí hậu đã và đang tác
động mạnh mẽ đến ngành trồng trọt, rõ ràng nhất là làm giảm diện tích đất

26
canh tác, gây ra tình trạng hạn hán và sâu bệnh, gây áp lực lớn cho sự phát triển
của ngành trồng trọt nói riêng và ngành nông nghiệp nói chung.

Các chỉ tiêu thiệt hại Đơn vị tính Tổng số

Diện tích lúa ha 111.206

Diện tích mạ ha 411

Diện tích hoa màu, rau ha 56.727


màu

Số lượng hoa, cây cảnh chậu,cây 2.049.290


các loại

Diện tích cây trồng lâu ha 2.616


năm

Diện tích cây trồng hàng ha 12.685


năm

Diện tích cây ăn quả tập ha 1.503


trung

Diện tích rừng hiện có ha 4.024

Cây bóng mát, cây xanh cây 2.840


đô thị bị đổ, gãy

Gia súc bị chết, cuốn trôi con 3.414

Gia cầm bị chết, cuốn trôi con 82.073

Diện tích nuôi cá truyền ha 4.005


thống

27
Diện tích nuôi tôm ha 11

Lồng, bè nuôi thủy, hải 100m3/ lồng 104


sản các loại

Phương tiện khai thác chiếc 43


thuỷ, hải sản

Bảng 2: Thống kê thiệt hại do thiên tai ở ngành nông-lâm-ngư nghiệp năm
2023

Nguồn: công bố hàng năm của Cục quản lý đê điều và phòng, chống
thiên tai

Thứ nhất, lũ lụt và nước biển dâng sẽ làm mất đất canh tác trong nông
nghiệp

Tổng diện tích đất đai của Việt Nam là 33.2 triệu ha. Đất nông nghiệp đã
tăng lên từ 21.5 triệu ha năm 2000 và đến cuối năm 2006 thì đạt 24.7 triệu ha
(chiếm 75% tổng diện tích Việt Nam). Trong nội bộ ngành nông nghiệp, thay đổi
chủ yếu là sự giảm đi của đất lúa từ 7666,3 nghìn ha xuống 7489,4 nghìn ha năm
2010. Tuy nhiên, đến những năm sau 2015 đến năm 2020 thì đất trồng trọt
giảm đáng kể, đặc biệt là diện tích đất trồng lúa, chúng ta có thể thấy sự thay
đổi đó qua bảng sau:

28
Bảng: Diện tích đất trồng lúa của Việt Nam giai đoạn 2015-2020
Nguồn: Tạp chí tài nguyên và môi trường

Biểu đồ 1: Diện tích đất gieo trồng một số loại cây (đơn vị: nghìn ha)

Biến đổi khí hậu gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến đất sử dụng cho nông
nghiệp: mất diện tích do nước biển dâng: theo tính toán, nếu mực nước biển
dâng thêm 1m, khoảng 40% diện tích đồng bằng sông Cửu Long, 11% diện tích
đồng bằng sông Hồng và 3% diện tích của các tỉnh khác thuộc vùng ven biển sẽ
bị ngập. Ngoài ra nền nông nghiệp nước ta cũng chịu tổn thất do các tác động
trực tiếp và gián tiếp khác của BĐKH: hạn hán, lũ lụt, sạt lở, hoang mạc hóa…
Theo phân tích của Viện Tài nguyên thế giới về ảnh hưởng của lũ lụt đến GDP,
Việt Nam đứng thứ 4 trong số 164 quốc gia được khảo sát về tác hại nghiêm
trọng của lũ lụt đến toàn nền kinh tế; làm thiệt hại 2,3% GDP của Việt Nam mỗi
năm…

29
Thứ hai, tình trạng xâm nhập mặn cũng sẽ làm thu hẹp diện tích đất
nông nghiệp, nhất là các vùng ven biển

Xâm nhập mặn làm cho diện tích đất canh tác giảm, từ đó hệ số sử dụng
đất có thể giảm từ 3-4 lần/năm xuống còn 1-1,5 lần/năm. Ngập mặn sẽ đặc biệt
nghiêm trọng ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Một phần diện tích đáng kể đất
trồng trọt ở vùng ĐBSH và ĐBSCL sẽ bị nhiễm mặn vì 2 đồng bằng này đều là
những vùng đất thấp so với mực nước biển. Điều này ảnh hưởng không nhỏ tới
kinh tế địa phương và đời sống người nông dân.

Hình 2: Bản đồ xâm nhập mặn những năm gần đây ở ĐBSCL

Mất đất canh tác trong nông nghiệp và năng suất cây trồng suy giảm sẽ
đặt ra những thách thức và đe dọa đến đời sống của nông dân, vấn đề xuất
khẩu gạo và an ninh lương thực quốc gia đối với một quốc gia mà nông nghiệp
đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân như Việt Nam: nông nghiệp
chiếm hơn 30% lực lượng lao động và gần 12% GDP của cả nước năm 202. Dự
báo đến năm 2100, nếu mực nước biển dâng 1m, vựa lúa ở Đồng bằng sông
Cửu Long và TP. Hồ Chí Minh có nguy cơ bị ngập 89.473 ha và mất đi khoảng 7,6
triệu tấn lúa/năm, tương đương với 40,5% sản lượng lúa của cả vùng. Do đó,

30
Việt Nam Sẽ có nguy cơ đối mặt với tình trạng thiếu lương thực trầm trọng vào
năm 2100 vì mất đi khoảng 21,39% sản lượng lúa (mới tính riêng cho vùng đồng
bằng sông Cửu Long).

Thứ ba, nhiệt độ tăng, hạn hán sẽ ảnh hưởng đến sự phân bố của cây
trồng, đặc biệt làm giảm chất lượng và năng suất cây trồng

Cụ thể là năng suất lúa của vụ xuân có xu hướng giảm mạnh hơn so với
năng suất lúa của vụ mùa; năng suất ngô vụ đông có xu hướng tăng ở Đồng
bằng Bắc Bộ và giảm ở Trung Bộ và Nam Bộ trong giai đoạn năm 2010 đến nay.
Những đợt hạn hán và nóng kéo dài liên tiếp xảy ra ở khắp các vùng trong cả
nước những năm gần đây cho thấy mức độ gia tăng ngày càng lớn của tình trạng
BĐKH. Hạn hán có năm làm giảm 20- 30% năng suất cây trồng, giảm sản lượng
lương thực, ảnh hưởng nghiêm trọng tới chăn nuôi và sinh hoạt của người dân.
Hạn hán kéo dài sẽ dẫn đến nguy cơ hoang mạc hóa ở một số vùng, đặc biệt là
vùng Nam Trung Bộ, vùng cát ven biển và vùng đất dốc thuộc trung du, miền
núi, gây ra những hệ lụy đáng kể đối với phát triển bền vững ở Việt Nam. Điều
này sẽ gây trì trệ sản xuất, giảm năng suất và sản lượng của ngành.

Theo kết quả nghiên cứu của Viện Môi trường nông nghiệp (Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn), BÐKH làm giảm năng suất một số loại cây trồng
chủ lực. Cụ thể, năng suất lúa vụ xuân sẽ giảm 0,41 tấn/ha vào năm 2030 và
0,72 tấn vào năm 2050. Năng suất cây ngô có nguy cơ giảm 0,44 tấn/ha vào năm
2030 và 0,78 tấn vào năm 2050… Theo đánh giá của ADB, nếu nhiệt độ tăng
thêm 1 độ C, năng suất lúa sẽ giảm 10%, thực trạng trên sẽ đe dọa nghiêm trọng
đến an ninh lương thực quốc gia và ảnh hưởng đến hàng chục triệu người dân.

BĐKH cũng gây nhiều khó khăn cho công tác thủy lợi: Khả năng tiêu thoát
nước ra biển giảm đi rõ rệt, mực nước các sông dâng lên, đỉnh lũ tăng thêm, uy
hiếp các tuyến đê sông ở các tỉnh phía Bắc, đê bao và bờ bao ở các tỉnh phía
Nam. Diện tích ngập úng mở rộng, thời gian ngập úng kéo dài. Nhu cầu tiêu
nước và cấp nước gia tăng vượt khả năng đáp ứng của nhiều hệ thống thủy lợi.

31
Mặt khác, dòng chảy lũ gia tăng có khả năng vượt quá các thông số thiết kế hồ,
đập, tác động tới an toàn hồ đập và quản lý tài nguyên nước…

Những tháng mùa khô năm 2024, các tỉnh Nam Trung bộ và Tây Nam bộ
lượng mưa rất thấp; đặc biệt khu vực tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận, Đồng Nai,
Cà Mau, Kiên Giang, … 4 tháng đầu mùa khô không có mưa, tổng lượng mưa
khu vực Nam Trung bộ thấp hơn TBNN từ 20-40%; lượng dòng chảy thiếu hụt từ
40-70%, một số sông nhỏ đã tắt dòng. Nắng nóng, mưa ít đã xảy ra đợt hạn hán
nghiêm trọng, nhiều địa phương đã phải công bố cấp độ rủi ro hạn hán cấp độ
2-3. Các hồ chứa nước và hồ thuỷ lợi cũng về tới mực nước chết, người dân thì
thiếu nước sinh hoạt. Tình trạng này được báo đài đưa tin rất nhiều trong thời
gian gần đây với mức nhiệt độ tăng cao kỉ lục.

BĐKH cũng làm thay đổi tính thích hợp của nền sản xuất nông nghiệp với
nền khí hậu. Sự giảm dần cường độ lạnh trong mùa đông, tăng cường thời gian
nắng nóng dẫn đến tình trạng mất dần hoặc triệt tiêu tính phù hợp giữa các loại
cây trồng trên các vùng sinh thái. Làm chậm đi quá trình phát triển nền nông
nghiệp hiện đại sản xuất hàng hóa và đa dạng hóa cũng như làm biến dạng nền
nông nghiệp truyền thống. Ở mức độ nhất định, BĐKH làm mất đi một số đặc
điểm quan trọng của các vùng nông nghiệp ở phía Bắc, ảnh hưởng tới chất
lượng cây trồng. Điều này ảnh hưởng tới cơ cấu các mặt hàng nông sản trong
nước và hàng xuất khẩu, đã dẫn tới suy giảm lợi thế cạnh tranh của vùng, của
quốc gia ở mức độ nhất định.

Thứ tư, tác động của BĐKH đối với tài nguyên rừng và hệ sinh thái

Thời gian qua, do những nguyên nhân khác nhau, đa dạng sinh học, các
hệ sinh thái, đặc biệt là các hệ sinh thái rừng bị suy thoái trầm trọng: Nước biển
dâng lên làm giảm diện tích rừng ngập mặn ven biển tác động xấu đến hệ sinh
thái rừng tràm và rừng trồng trên đất bị nhiễm phèn ở ĐBSCL; Nhiệt độ và
lượng nước bốc hơi tăng làm hạn hán kéo dài sẽ làm ảnh hưởng tới khả năng
sinh trưởng của các loài thực vật và động vật rừng. BĐKH đang làm thay đổi

32
điều kiện sinh sống của các loài sinh vật, dẫn đến tình trạng biến mất của một số
loài và ngược lại, xuất hiện nguy cơ gia tăng các loại "thiên địch".

Trong thời gian nhiều năm trở lại đây, dịch rầy nâu, vàng lùn, lùn xoắn lá
ở ĐBSCL diễn biến ngày càng phức tạp, ảnh hưởng đến khả năng thâm canh,
tăng vụ và làm giảm sản lượng lúa. BĐKH có thể tác động đến thời vụ, làm thay
đổi cấu trúc mùa, quy hoạch vùng, kỹ thuật tưới tiêu, sâu bệnh, năng suất, sản
lượng; làm suy thoái tài nguyên đất, đa dạng sinh học bị đe dọa, suy giảm về số
lượng và chất lượng do ngập nước và do khô hạn, tăng thêm nguy cơ diệt chủng
của động, thực vật, làm biến mất các nguồn gen quý hiếm.

Thứ năm, tác động của BĐKH đối với ngành thủy sản

Đối với ngành thuỷ sản, Việt Nam hiện có khoảng 480.000 người trực tiếp
tham gia vào đánh bắt; 100.000 người làm việc ở ngành chế biến thủy sản và
khoảng 2.140.000 người tham gia vào các dịch vụ nghề cá. Các sinh kế thủy sản,
bao gồm đánh bắt và nuôi trồng, là những sinh kế phụ thuộc vào nguồn nước và
sự phong phú của nguồn lợi ven biển, nên là một trong những lĩnh vực nhạy
cảm nhất và dễ bị tổn thương nhất trước tác động của biến đổi khí hậu.

Nghiên cứu của Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thuỷ sản đã chỉ ra rằng
Việt Nam là quốc gia đứng thứ 27 trong nhóm 33 quốc gia trên thế giới có nền
kinh tế bị tổn thương cao nhất trước tác động của biến đổi khí hậu đối với hoạt
động khai thác và nuôi trồng thủy sản, đồng thời Việt Nam cũng được xếp hạng
là một trong những quốc gia trên thế giới có khả năng thích ứng thấp trước các
tác động này. Tổ chức DARA ước tính sự mất mát từ biến đổi khí hậu đối với
ngành thủy sản có thể lên đến gần 2% GDP vào năm 2030, bên cạnh đó mức
nước tăng 2-2,5 m được dự báo sẽ ảnh hưởng đến 62% ao nuôi cá tra ở An
Giang. Lũ gia tăng cần có bờ kè cao hơn, chi phí xây dựng và bảo trì trang trại do
đó cũng tăng. Tại Hội nghị Tổng kết công tác phòng chống thiên tai, tìm kiếm
cứu nạn chuyên ngành thủy sản do Tổng cục Thuỷ sản tổ chức ở Hải Phòng năm
2021 đã tổng kết: “do các đợt bão, lũ lớn xuất hiện liên tiếp với cường độ mạnh
đã vượt mức lũ lịch sử. Ngập lụt đã xảy ra trên diện rộng, ngập lụt nhiều nơi

33
trên nửa tháng đã gây ảnh hưởng rất nặng nề đối với lĩnh vực nuôi trồng và khai
thác thủy sản, theo thống kê tổng diện tích nuôi trồng thủy sản bị thiệt hại là
12.672ha/27.660 ha (chiếm 45,8% diện tích đang nuôi); 828 ô, lồng (ước khoảng
49.740 m3 lồng nuôi); 88 tàu thuyền khai thác hải sản bị hư hại, trong đó 69 tàu
bị chìm, tổng thiệt hại kinh tế đối với lĩnh vực thủy sản khoảng 1.151 tỷ đồng.”

Nhìn chung, biến đổi khí hậu có xu hướng làm thay đổi môi trường sống
(nhiệt độ, mức nước, nồng độ O2, …) của các loài thuỷ sản, dẫn đến thay đổi trữ
lượng các loài thuỷ hải sản do di cư hoặc do chất lượng môi trường sống bị suy
giảm; từ đó làm thu hẹp ngư trường đánh bắt, sản lượng đánh bắt và sản lượng
nuôi trồng. Do hạn chế về vốn đầu tư và kiến thức/kỹ thuật nên hoạt động nuôi
trồng thủy sản của người dân hầu như phụ thuộc vào môi trường tự nhiên, thời
tiết,… Thiệt hại trong nuôi trồng thủy sản có xu hướng gia tăng trong những
năm gần đây do ảnh hưởng của nước biển dâng, khô hạn, xâm nhập mặn, mưa
lũ trái mùa, thay đổi môi trường nước. Thiệt hại về sản lượng nuôi trồng thủy
sản ở một số tỉnh, ví dụ như Bạc Liêu, Bến Tre, Cà Mau,… đã tăng tới
30-40%/năm, điều này tác động không nhỏ tới việc duy trì và phát triển ngành
thuỷ sản trong nước cũng như là xuẩt khẩu và thương mại quốc tế.

2.2.2. Tác động của BĐKH đến khu vực công nghiệp

Công nghiệp là ngành kinh tế quan trọng, những năm gần đây có đóng
góp lớn nhất cho ngân sách nhà nước, trở thành ngành xuất khẩu chủ đạo với
tốc độ tăng trưởng ở mức cao. Cơ cấu các ngành công nghiệp có sự chuyển biến
tích cực, một số ngành công nghiệp như: điện, điện tử, công nghệ thông tin và
viễn thông, chế tạo thiết bị năng lượng, dệt may, da giày, xây dựng… đã có
những bước phát triển mạnh mẽ, góp phần tích cực trong giải quyết việc làm,
chuyển dịch cơ cấu lao động, tăng năng suất và nâng cao đời sống của nhân
dân.

Tuy nhiên, Việt Nam đang nằm trong vùng ảnh hưởng nặng nề của biến
đổi khí hậu trong những năm gần đây. Do đó ngành công nghiệp ở nước ta cũng
chịu ảnh hưởng một cách đáng kể như các ngành công nghiệp chế biến, khai

34
thác khoáng sản, đặc biệt là khu công nghiệp ven biển đang bị ảnh hưởng nặng
nề bởi sự sụt giảm sản lượng và chất lượng của các nguyên liệu đầu vào ảnh
hưởng đến năng suất lao động ở đây hoặc làm tăng chi phí đầu vào.

Thứ nhất, biến đổi khí hậu làm ảnh hưởng đến chi phí đầu vào và các
nguyên liệu sản xuất của các ngành công nghiệp.

Đầu tiên, ở ngành công nghiệp khai thác, biến đổi khí hậu đã làm ảnh
hưởng đến số lượng và chất lượng của các sản phẩm của ngành này. Biển đổi
khí hậu kèm theo nước biển dâng dẫn đến dòng chấy thay đổi, thay đổi chất
lượng khoáng sản, một số thân quặng có thể bị xâm thực phá hủy. Thực tế trong
thời gian qua có không ít điểm khoáng sản bị thiên nhiên tân phá, nhiêu hâm
mỏ bị vùi lấp, sập gây thiệt hại về người và tài nguyên khoáng sản. Khi nhiệt độ
trái đất tăng cao, mưa bão thường xuyên với cường độ lớn sẽ làm tăng chi phí
tháo khô mỏ hay làm mát và thông khí hầm lò.

Khi khai thác khoáng sản sẽ làm mất đất trồng rừng, phải phá rừng phục
vụ khai thác dẫn đến cây cối bị chặt đốn làm tăng lượng khí CO, trong không khí,
tạo điều kiện nhiệt độ trái đất tăng lên. Nước biển dâng có thể làm đất đá và
quặng bị ngập nước, bị nhiễm mặn, nhiêm phèn dẫn đên quy trình phân tích
mẫu phải có những điều chỉnh thích hợp, làm tăng chi phí trong sản xuất. Khi
khai thác khoáng sản phải đào bởi lượng đất lớn lảm tăng nguy cơ phân tán chất
độc hại ra môi trường xung quanh. Ngoài ra khi nước biển dâng, một trọng
lượng lớn chất tải lên mặt đất có thể cho một số đứt gãy tái hoạt động kích
thích các đới đập vỡ thành đường dẫn nước vào làm thay đổi đặc điểm địa chất
thủy văn, địa chất công trình của mỏ dẫn đến điều kiện khai thác khoáng sản
khó khăn và phức tạp hơn.

Việc gia tăng số ngày nắng nóng do nhiệt độ ngày càng tăng góp phần
làm cho hạn hán xảy ra với cường độ mạnh hơn, gay gắt và thời gian kéo dài
hơn trong mùa khô, dẫn đến hiện tượng xâm nhiễm mặn diễn ra tại một số nơi.
Do đặc thù của quá trình khai thác và tuyển quặng cần sử dụng một lượng nước
tương đối lớn cho vận chuyển quặng, tuyển rửa, phân cấp. Do đó, nhiệt độ tăng

35
với cường độ mạnh và kéo dài về mùa khô hạn, cùng với tình trạng hạn hán gia
tăng đã dẫn đến việc cấp nước cho hoạt động khai thác và tuyển quặng thêm
khó khăn và tốn kém. Việc sử dụng lượng nước lớn còn làm ảnh hưởng tới cân
đối nước trong vùng (đặc biệt ở những khu vực khai thác và tuyển quặng vùng
cát đỏ ven biển huyện Bắc Bình - Bình Thuận; Ninh Phước - Ninh Thuận), vốn đã
khan hiếm nước.

BĐKH làm mưa lũ gia tăng vào mùa mưa, khi có mưa lớn sẽ làm giảm
khoảng 20 - 30 % sản lượng khai thác. Mưa nhiều gây ngập úng các đường nội
bộ và cơ sở hạ tầng khu vực, khó khăn cho công tác vận chuyển tinh quặng, sản
phẩm; gây hư hại cơ sở hạ tầng của khu vực (làm tốc mái nhà xưởng, hoen rỉ các
chân đế thiết bị, máy móc...), làm xói mòn, thất thoát nguồn tài nguyên sa
khoáng titan ven biển, làm tăng khả năng phát tán các chất phóng xạ có trong
nước thải của khu vực khai trường, khu xưởng tuyển ra ngoài môi trường, đặc
biệt là gây ô nhiễm nguồn nước do phóng xạ. Tuy nhiên, những tác động này
không xảy ra thường xuyên, chỉ bị ảnh hưởng vào mùa mưa bão (từ tháng 8 đến
tháng 12 hàng năm).

Biểu hiện của nước biển dâng và xâm nhiễm mặn ở các khu vực điều tra
là chưa rõ rệt và chưa có số liệu thống kê cụ thể. Tuy nhiên, tại các vùng này đã
có biểu hiện của nước biển dâng và xâm nhiễm mặn, xu hướng diễn biến ngày
càng gia tăng và thường xuyên hơn. Mực nước biển dâng của vùng biểu hiện
qua các hình thái như: dâng do thủy triều, dâng do bão lũ và dâng do BĐKH….
Bên cạnh đó, vấn đề được đặt ra khiến cho nhiều doanh nghiệp quan tâm hiện
nay, đó là hệ thống các đê bao ngăn mặn ven biển đang có nguy cơ sạt lở rất
nghiêm trọng, nhiều đoạn đê bị ăn sâu vào cả thân đê, điều này dẫn đến nguy
cơ xâm nhiễm mặn sẽ ăn sâu vào trong vùng đất liền (Bình Định, Quảng Nam),
nguy cơ nhiễm mặn quặng là rất lớn, ảnh hưởng đến chất lượng quặng, ảnh
hưởng đáng kể đến hoạt động sản xuất và kinh doanh của các doanh nghiệp.

Trong bối cảnh BĐKH chung của toàn quốc, dự báo trong thời gian tới các
hiện tượng thiên tai, cực đoan có xu hướng gia tăng cả về tần suất lẫn cường độ

36
tại vùng ven biển miền Trung. Nếu không có các giải pháp nhằm thích ứng và
giảm thiểu tác động của BĐKH thì ngành Công nghiệp khai khoáng Việt Nam sẽ
đứng trước những nguy cơ bị đe dọa do tác động của BĐKH và NBD.

Hình 3: Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến các ngành công nghiệp khai thác

Nguồn: Sepehr Estami

BĐKH đã gây nhiều khó khăn cho hệ thống khai thác các nguồn tài
nguyên, nhất là ngành công nghiệp nặng. Tăng khả năng hao hụt, tổn thất sản
lượng tài nguyên do tần suất, cường độ mưa bão và lũ lụt gia tăng. Tăng thêm
chi phí sản xuất, chi phí xây dựng vận hành, duy tu các dàn khoan, các phương
tiện. Nhiều hải cảng, bao gồm cầu tàu, bến bãi, nhà kho thiết kế theo mực nước
cuối thế kỷ 20 sẽ phải cải tạo lại, thậm chí phải di dời; các công trình xây dựng
mới tốn kém hơn về chi phí xây lắp cũng như chi phí vận hành.

Bên cạnh những ngành công nghiệp khai thác, BĐKH còn ảnh hưởng đến
đầu vào của các ngành công nghiệp khác như dệt may, công nghiệp chế biến,
thực phẩm và các ngành công nghiệp khác cần đầu vào từ nông nghiệp. Tương
tự như nông nghiệp, đầu vào của các ngành công nghiệp nói trên sẽ bị gián
đoạn hoặc làm tăng chi phí do điều kiện tự nhiên khó khăn làm ảnh hưởng đến
sản lượng và chất lượng những đầu vào cần thiết. Do vậy việc sản xuất sẽ bị ảnh
hưởng một phần đáng kể từ đó làm giảm cung và doanh thu của các ngành công
nghiệp này.

Theo đánh giá của Bộ Tài nguyên và Môi trường vào năm 2012, các
ngành công nghiệp bị ảnh hưởng nặng nề bởi BĐKH: Nước biển dâng khoảng 1m

37
vào cuối thế kỷ 21 sẽ làm cho hầu hết các khu công nghiệp bị ngập, thấp nhất là
trên 10% diện tích, cao nhất là khoảng 67% diện tích. Nguồn nguyên liệu cho
công nghiệp, đặc biệt là nguyên liệu cho công nghiệp chế biến lương thực thực
phẩm, dệt, may mặc sẽ bị suy giảm đáng kể vì không được tiếp ứng từ các vùng
nguyên liệu ở các tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long vốn bị ngập lụt nặng nề
nhất ở Việt Nam. Điều này càng gây sức ép đến việc chuyển dịch cơ cấu các
ngành công nghiệp về loại hình công nghiệp, tỷ lệ công nghiệp chế biến, công
nghệ cao. Nhiệt độ tăng làm tăng tiêu thụ năng lượng trong các ngành công
nghiệp: tăng chi phí thông gió, làm mát hầm lò khai thác và làm giảm hiệu suất,
sản lượng của các nhà máy điện. Tiêu thụ điện cho sinh hoạt gia tăng và chi phí
làm mát trong các ngành công nghiệp thương mại cũng gia tăng đáng kể khi
nhiệt độ có xu hướng ngày càng tăng.

Mưa bão thất thường và nước biển dâng sẽ tác động tiêu cực đến quá
trình vận hành, khai thác hệ thống truyền tải và phân phối điện, dàn khoan, Số
193 tháng 7/2013 18 đường ống dẫn dầu và khí vào đất liền, cấp dầu vào tàu
chuyên chở dầu; làm gia tăng chi phí bảo dưỡng và sửa chữa các công trình
năng lượng; ảnh hưởng tới việc cung cấp, tiêu thụ năng lượng, an ninh năng
lượng quốc gia. Một số ngành công nghiệp bị ảnh hưởng điển hình như:

Ngành đóng tàu: Biến đổi khí hậu làm tăng nguy cơ xuất hiện các trận
bão và sóng biển lớn, gây khó khăn cho việc đóng tàu và khai thác biển. Điều
này ảnh hưởng đến sản xuất và xuất khẩu tàu của Việt Nam, gây ảnh hưởng đến
ngành đóng tàu.

Ngành dệt may: Biến đổi khí hậu cũng làm tăng chi phí sản xuất của
ngành dệt may, do các thay đổi về nhiệt độ và độ ẩm làm ảnh hưởng đến chất
lượng của vải và làm tăng chi phí sử dụng điều hòa không khí. Điều này làm
giảm tính cạnh tranh của ngành dệt may của Việt Nam trên thị trường quốc tế.

Ngành điện tử: Việc sản xuất các linh kiện điện tử tại Việt Nam phụ thuộc
nhiều vào các tài nguyên thiên nhiên, bao gồm nước và điện. Sự cạn kiệt tài

38
nguyên nước và các trận bão lớn có thể làm gián đoạn sản xuất, gây ảnh hưởng
đến ngành công nghiệp điện tử của Việt Nam.

Trong một nghiên cứu tác động của biến đổi khí hậu đối với các nước
đang phát triển của Ngân hàng thế giới đưa ra những nhận định dự báo từ năm
2007 cho thấy Việt Nam là nước chịu thiệt hại nặng nề nhất của biến đổi khí
hậu, căn cứ vào kịch bản nước biển dâng một trong những yếu tố cơ bản của
biến đổi khí hậu, thể hiện rõ nhất thông qua Hình 2.5 dưới đây của tác giả Đỗ
Nam Thắng dựa trên nghiên cứu của Dasgupta et al 2007 cho thấy so sánh với
10 nước đang phát triển chịu tác động của biến đổi khí hậu thì Việt Nam là quốc
gia chịu thiệt hại tính trên GDP cao nhất.

Hình 4: Dự báo tác động của dâng mực nước biển 1m đến GDP (tỷ lệ thiệt hại
GDP)

Nguồn: Đỗ Nam Thắng trích từ nghiên cứu của Dasgupta et al. 2007

Theo kịch bản phân tích đối với BĐKH. Kết quả tính toán dự báo thể hiện
thông qua bảng 1 dưới đây cho thấy nếu mực nước biển dâng cao thêm 1m sẽ
có 10,8 triệu người ở đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng sông Hồng chịu

39
ảnh hưởng, có khoảng 10,21% GDP; 7,14% diện tích đất nông nghiệp; 28,67%
diện tích đất ngập nước và 10,74% diện tích đô thị sẽ bị ảnh hưởng.

Còn thời điểm hiện sau năm 2010 cho đến nay: Theo Tạp chí Khoa học
biến đổi khí hậu Số 17 tháng 3/2021, BĐKH có tác động đa diện và rõ rệt lên các
hoạt động sản xuất kinh doanh cụ thể của doanh nghiệp. Tỷ lệ doanh nghiệp lựa
chọn bị tác động tương đối nhiều/rất nhiều cao nhất trong việc bị gián đoạn sản
xuất kinh doanh (56%). Cũng có tỷ lệ đáng kể doanh nghiệp phản ánh về bị gián
đoạn kênh vận chuyển (41%) và tăng chi phí sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp (39%). Tiếp đến, có tỷ lệ không nhỏ doanh nghiệp cho biết có tác động
tương đối nhiều/rất nhiều về khía cạnh mạng lưới phân phối bị đình trệ (30%),
giảm chất lượng sản phẩm, dịch vụ (38%), thiệt hại cơ sở vật chất (25%) và thiếu
hụt nhân lực (23%). Cuối cùng, có 22% doanh nghiệp được hỏi cho biết chịu tác
động tương đối nhiều/ rất nhiều của việc thiếu nguồn cung nguyên vật liệu sản
xuất. Theo báo cáo “Thích ứng để thành công: Đánh giá tác động của biến đổi
khí hậu đối với doanh nghiệp Việt Nam” do Phòng Thương mại và Công nghiệp
Việt Nam (VCCI), Quỹ châu Á tại Việt Nam, với sự hỗ trợ của Tập đoàn Chuyển
phát nhanh toàn cầu (UPS) thực hiện, biến đổi khí hậu có tác động tiêu cực
mang tính đa diện đối với các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Báo cáo chỉ ra nhiều doanh nghiệp đã nhận thức được tính cần thiết của việc
ứng phó với rủi ro thiên tai và biến đổi khí hậu thông qua nhiều giải pháp đa
dạng từ đơn giản đến phức tạp.

Điều đáng mừng là một số lượng đáng kể doanh nghiệp đã điều chỉnh
phương thức kinh doanh, nâng cấp công nghệ sản xuất và mua bảo hiểm để
phòng ngừa rủi ro thiên tai. Kết quả điều tra cho thấy, 44,5% doanh nghiệp cho
biết họ đang sử dụng một loại sản phẩm bảo hiểm nhất định để phòng ngừa rủi
ro thiên tai và biến đổi khí hậu; loại sản phẩm bảo hiểm phổ biến mà các doanh
nghiệp hiện đang sử dụng là bảo hiểm cơ sở vật chất, máy móc và hàng hóa. Tỷ
lệ doanh nghiệp sử dụng bảo hiểm tương quan thuận với quy mô của doanh
nghiệp. Cùng với đó, đa số doanh nghiệp còn nhận thức biến đổi khí hậu ngoài

40
tạo ra những thách thức còn đem lại cơ hội cho việc tái cơ cấu, sắp xếp lại sản
xuất, tạo ra sản phẩm và công nghệ mới, đồng thời xây dựng thương hiệu cho
doanh nghiệp. Vì thế, trung bình, các doanh nghiệp sẵn sàng chi trả lên tới
7,32% chi phí hoạt động cho việc thân thiện hơn với môi trường; chi trả 7,44%
chi phí hoạt động để cải thiện mức độ tuân thủ.

Thứ hai, biến đổi khí hậu ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất của công
nghiệp chế biến, chế tạo

Công nghiệp chế biến, chế tạo (CBCT) một bộ phận của khu vực công
nghiệp - xây dựng, là những ngành tham gia vào việc biến đổi hàng hoá, nguyên
liệu hoặc các chất liệu khác nhau thành những sản phẩm mới. Vật liệu, chất liệu,
hoặc các thành phần biến đổi là nguyên liệu thô từ các sản phẩm nông nghiệp,
lâm nghiệp, thuỷ sản, khai thác mỏ hoặc quặng cũng như các sản phẩm khác của
hoạt động CBCT.

Thực tế đã cho thấy, biến đổi khí hậu có tác động tiêu cực mang tính đa
diện đối với các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong lĩnh vực
này. Đó là tình trạng gián đoạn sản xuất kinh doanh, giảm năng suất lao động,
giảm doanh thu, gián đoạn kênh vận chuyển, tăng chi phí sản xuất, đình trệ
mạng lưới phân phối, giảm chất lượng sản phẩm, thiệt hại cơ sở vật chất, thiếu
hụt nhân lực và gây thiếu nguồn cung nguyên vật liệu, đặc biệt đối với ngành
công nghiệp chế biến, chế tạo. Với việc không được tiếp ứng từ các vùng nguyên
liệu, chẳng hạn như ở các tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long vốn bị ngập lụt
nặng nề nhất ở Việt Nam. Điều này càng gây sức ép đến việc chuyển dịch cơ cấu
các ngành công nghiệp về loại hình công nghiệp, tỷ lệ công nghiệp chế biến,
công nghệ cao.

41
Hình 5: Sơ đồ quá trình phát triển của ngành công nghiệp hỗ trợ

Nguồn: World Bank

Tuy vậy nhờ những thích ứng nhanh chóng và sự chuyển dịch mạnh mẽ,
tỷ trọng giá trị tăng thêm trong GDP toàn nền kinh tế của ngành công nghiệp
khai khoáng và công nghiệp CBCT đã có những kết quả chuyển biến tích cực
trong những năm gần đây, sự gia tăng mạnh mẽ của ngành công nghiệp CBCT là
ưu điểm nổi bật của nền kinh tế trong giai đoạn 2011 - 2020, sự giảm dần vai trò
của ngành khai khoáng trong nền kinh tế để hướng đến phát triển bền vững hơn
trong tương lai là hướng đi tích cực và đúng đắn của nền kinh tế Việt Nam. Năm
2020, tỷ trọng giá trị tăng thêm của ngành CBCT sơ bộ chiếm 16,7% trong GDP,
tăng 3,35 điểm phần trăm so với năm 2011.

Thứ ba, biến đổi khí hậu ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu công
nghiệp.

Từ những ảnh hưởng ở trên chúng ta có thể thấy được biến đổi khí hậu
đang gây ra một sức ép rất lớn đối với công nghiệp để chuyển đổi cơ cấu ngành
phù hợp với điều kiện tự nhiên hiện nay. Xu hướng chung đó chính là, cơ cấu
ngành công nghiệp đang dần chuyển dần từ các ngành công nghiệp nặng và độc
hại, sang các ngành công nghiệp xanh và thân thiện hơn với môi trường.

42
Cơ cấu các ngành công nghiệp có sự chuyển dịch kịp thời phù hợp với
mọi biến động về tự nhiên cũng như về kinh tế xã hội trong nước và ngoài nước.
Buộc phải cải cách cơ cấu công nghệ theo hướng thay đổi hoặc bổ sung công
nghệ nhằm hoàn thiện hiệu suất năng lượng và giảm tổng lượng phát thải khí
nhà kính. Phát triển năng lượng tái tạo, tổ chức sản xuất năng lượng từ rác thải,
sản xuất năng lượng sinh học, thu hồi nhiệt dư trong nhà máy sản xuất xi măng
và nhà máy thủy điện.

Bên cạnh đó cũng đang phát triển các ngành công nghiệp áp dụng công
nghệ cao để thay thế những nguồn năng lượng độc hại như nhiên liệu khí đốt
bằng những nguồn nhiên liệu sạch từ gió , nước và năng lượng mặt trời. BĐKH
kéo theo gia tăng cường độ lũ, cả đỉnh lũ và trong một số trường hợp cực đoan,
các nhà máy thủy điện buộc phải xả lũ và các sông đang ở mức báo động rất
cao. Hạn hán làm giảm thời gian phát điện và hiệu suất điện năng trong trường
hợp hạn hán khốc liệt. Sa sút về tiềm năng điện gió. Có khả năng làm giảm tiềm
năng của những nguồn năng lượng khác trong tương lai. Đặc biệt, việc cung ứng
và nhu cầu năng lượng khó khăn hơn cho hệ thống vận chuyển dầu và khí từ
giàn khoan trên biển đến các nhà máy hóa – lọc dầu; làm trội thêm chi phí thông
gió và làm mát hầm lò khai thác than và làm giảm hiệu suất của các nhà máy
điện. Nhiệt độ tăng làm tăng tiêu thụ năng lượng trong các ngành công nghiệp:
tăng chi phí thông gió, làm mát hầm lò khai thác và làm giảm hiệu suất, sản
lượng của các nhà máy điện. Tiêu thụ điện cho sinh hoạt gia tăng và chi phí làm
mát trong các ngành công nghiệp thương mại cũng gia tăng đáng kể khi nhiệt độ
có xu hướng ngày càng tăng. Tiêu thụ điện cho các thiết bị sinh hoạt như điều
hòa nhiệt độ, quạt điện, bảo quản lương thực, thức ăn gia tăng theo nhiệt độ.
Chi phí tưới và tiêu trong sản xuất lúa, cây công nghiệp gia tăng.

Về công nghiệp xây dựng, ngoài việc ảnh hưởng đến kết cấu của công
trình xây dựng, các hiện tượng tự nhiên do biến đổi khí hậu gây ra như gió lớn,
bão lũ thường xuyên cũng gây khó khăn cho hoạt động xây dựng ngoài trời.
Công nhân xây dựng có khả năng phải đối mặt với những vấn đề sức khỏe do

43
nhiệt độ trái đất tăng, ô nhiễm môi trường. Nhưng về xu hướng chung thì các
công trình xây dựng đang dần phải chuyển hướng sang các vật liệu thân thiện
hơn, thiết kế “xanh”, tốn kém ít năng lượng hơn và phát thải ít hơn.

Nhiệt độ cao ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng và độ bền của bê tông.
Gạch và gỗ cũng dễ bị phân hủy và nứt nhanh hơn. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra
rằng nồng độ CO2 trong khí quyển tăng lên do biến đổi khí hậu đặc biệt ở khu
vực thành thị cũng gây ảnh hưởng đến chất lượng bê tông khi thâm nhập vào
bên trong công trình xây dựng. Kết quả là nhu cầu về vật liệu xây dựng mới để
sửa chữa, thay mới bê tông cho các tòa nhà cũng tăng cao, gây áp lực lớn lên
các nguồn tài nguyên thiên nhiên vốn đã dần cạn kiệt của trái đất.

Ngành Công nghiệp xây dựng còn phải đối mặt với những thách thức
trong việc thiết kế, thi công các tòa nhà và cơ sở hạ tầng khi khí hậu thay đổi.
Điều này đòi hỏi các công trình xây dựng cần đạt được những tiêu chuẩn ngày
càng cao hơn. Ở những khu vực chịu nhiều ảnh hưởng của các hiện tượng thời
tiết tiêu cực như lũ lụt ở miền Trung, hạn hán ở miền Tây nước ta thì các công
trình xây dựng cần hướng đến tiêu chuẩn bền vững và kiên cố hơn nữa.

Bên cạnh đó, các tòa nhà dân cư có thể được điều chỉnh để nổi khi nước
lũ dâng cao, bãi đỗ xe trong tòa nhà cũng cần thích ứng khi nước lũ tràn vào.
Các tòa nhà cần được xây dựng bền vững hơn với mái nhà được phủ xanh bởi
thảm thực vật cùng một hệ thống tiêu thụ và tự sản sinh năng lượng một cách
hiệu quả hơn nhằm giảm các tác động từ môi trường.

Không thể thiếu việc phát triển các chiến lược và kỹ thuật thiết kế sáng
tạo hơn giúp đảm bảo an toàn cho công trình đồng thời đảm bảo sự an toàn cho
người lao động. Đối với những công trình giao thông như các con đường thì
nguy cơ từ biến đổi khí hậu như lượng mưa lớn, bão lũ hay hạn hán cũng đặt ra
những thách thức lớn. Một hệ thống thoát nước hiệu quả phải được đầu tư xây
dựng nhằm giảm tác động xấu của nước mưa, nước lũ đến bề mặt của các con
đường.

44
Trước năm 2010, tác động của biến đổi khí hậu đến ngành công nghiệp ở
Việt Nam chưa được quan tâm nhiều và chưa có các chính sách, giải pháp cụ thể
để ứng phó. Các ngành công nghiệp phát triển tập trung vào việc tăng sản
lượng, tăng năng suất và tăng hiệu quả sản xuất mà chưa quan tâm đến tác
động của các hoạt động sản xuất đến môi trường và biến đổi khí hậu.

Sau năm 2010, tác động của biến đổi khí hậu đến ngành công nghiệp đã
được nhận thức rõ hơn và chính phủ Việt Nam đã đưa ra nhiều chính sách, giải
pháp nhằm giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu đến sản xuất và môi
trường. Chẳng hạn như việc tăng cường phát triển năng lượng tái tạo, sử dụng
các công nghệ tiết kiệm năng lượng và tài nguyên, xây dựng các kế hoạch trồng
trọt và sản xuất phù hợp với điều kiện thời tiết hiện tại.

Bên cạnh đó, việc giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu đến ngành
công nghiệp cũng đòi hỏi các doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm hơn trong việc
giảm thiểu khí thải và tác động đến môi trường. Nhiều doanh nghiệp đã sử dụng
các công nghệ mới để tiết kiệm năng lượng và tài nguyên, tăng cường sử dụng
năng lượng tái tạo và giảm thiểu khí thải, tăng cường quản lý và sử dụng tài
nguyên một cách bền vững.

Thứ tư, tác động của biến đổi khí hậu đến hạ tầng kĩ thuật và công trình
xây dựng

BĐKH ảnh hưởng xấu đến cơ sở hạ tầng giao thông vận tải

Nhiều đoạn đường sắt, quốc lộ, đường giao thông nội bộ, cảng biển và
cảng hàng không có thể bị ngập. Xói lở nền móng, phá vỡ kết cấu cầu đường,
nhất là ở vùng núi, các công trình giao thông đường bộ, đường sắt cũng như
đường ống. Thúc đẩy sự thoái hóa và hư hại của các công trình giao thông vận
tải các loại và tăng chi phí bảo trì, tu bổ các công trình và phương tiện giao
thông vận tải.

BĐKH ảnh hưởng xấu đến hệ thống đê điều và các công trình cấp thoát
nước của quốc gia, gây ra nhiều khó khăn trong đời sống sinh hoạt và quá trình

45
sản xuất. Ngoài ra, cơ sở hạ tầng đô thị cũng không tránh khỏi việc bị ảnh
hưởng, xuống cấp

BĐKH tác động tiêu cực đến hoạt động giao thông vận tải

Tăng nguy cơ rủi ro đối với giao thông vận tải gây ra bởi thiên tai, gây
thiệt hại về người vả của. Đặc biệt có 1 loại chi phí vô hình đó chính là chi phí cơ
hội gây ra bởi BĐKH mỗi khi hệ thống giao thông vận tải bị trì trệ, ách tắc. BĐKH
cũng ảnh hưởng đến nhiều hoạt động giao thông bao gồm thiết bị, động cơ và
phương tiện. Tăng chi phí duy trì hoạt động cũng như là bảo trì và sửa chữa.

Tóm lại, sau năm 2010, tác động của biến đổi khí hậu đến ngành công
nghiệp ở Việt Nam đã được quan tâm nhiều hơn và có nhiều giải pháp cụ thể để
giảm thiểu tác động đó. Tuy nhiên, vẫn cần có sự cố gắng từ các doanh nghiệp
và chính phủ để đạt được mục tiêu bền vững và thích ứng với tình hình biến đổi
khí hậu.

2.2.3 Tác động của BĐKH tới khu vực dịch vụ

Du lịch là một trong những ngành dịch vụ chịu ảnh hưởng nhiều nhất bởi
tác động của BĐKH và được thể hiện ở nhiều mặt.

Trước hết, biến đổi khí hậu toàn cầu đã và đang làm mực nước biển và
các đại dương dâng cao. Theo các các kịch bản dự báo đến năm 2100, mực
nước biển ở bờ biển Việt Nam có thể dâng lên 0,75m – 1m dẫn đến làm ngập
một diện tích lãnh thổ rất lớn của nước ta. Việt Nam có đường bờ biển dài 3260
km, trên dọc bờ biển có hàng trăm (đã có 125 bãi biển được xác định, xếp loại
có giá trị du lịch) bãi biển đẹp tầm cỡ khu vực và thế giới như Trà Cổ, Sầm Sơn,
Lăng Cô, Hội An, Nha Trang, Vũng Tàu, Phú Quốc, Cù Lao Chàm .... Với đặc điểm
là địa hình ven biển thấp, nhất là hai đồng bằng sông Hồng (vùng ven biển Nam
Định, Thái Bình, Hải Phòng..), sông Cửu Long (Bán đảo Cà Mau, Sóc Trăng,...) và
các vũng vịnh, đầm phá, vùng cửa sông và bãi cát bồi ven biển (khu vực miền
Trung từ Thanh Hóa vào đến Vũng Tàu), khi mực biển dâng sẽ nhấn chìm nhiều
bãi biển (nhiều bãi biển sẽ biến mất), thu hẹp diện tích hầu hết các bãi biển (ảnh

46
hưởng tới gần 100% số bãi biển và trên 85% diện tích các bãi biển), các hệ sinh
thái có giá trị du lịch (rừng ngập mặn khu vực cửa sông, vùng đồng bằng sông
Cửu Long, sông Hồng, rạn san hô khu vực miền Trung...) và các cảnh quan du
lịch ven biển - đảo (vịnh Hạ Long, Cù Lao Chàm, Phú Quốc, Côn Đảo,..).

Điều này làm cho khả năng khai thác các bãi biển vào mục đích du lịch sẽ
bị hạn chế, giảm sút, thậm chí là không thể khai thác. Các cảnh quan và hệ sinh
thái trên và ven biển sẽ bị thu hẹp, thậm chí là biến mất không thể khai thác vào
mục đích du lịch. Khu vực miền Trung có số lượng bãi biển có giá trị cho phát
triển du lịch nhiều nhất nước, mặc dầu độ cao trung bình của các bãi biển là
tương đối cao (0-3m) nhưng do đường đẳng sâu 20m đi sát bờ, nên khi mực
biển dâng làm cho diện tích các bãi biển vốn đã hẹp sẽ càng bị thu hẹp, độ sâu ở
các bãi biển sẽ tăng lên làm cho giá trị, độ hấp dẫn và khả năng khai thác vào các
hoạt động du lịch bị giảm sút hoặc không thể diễn ra, độ rủi ro khi tắm biển sẽ
tăng (do độ sâu tăng và diện tích bãi tắm hẹp). Những tác động này sẽ buộc các
dự án du lịch ven biển cần phải thiết kế phù hợp để thích ứng do đó sẽ dẫn đến
làm tăng chi phí đầu tư và tăng độ rủi ro trong quá trình thiết kế, vận hành, khai
thác. Trong khi đó, nhu cầu du lịch biển và tắm biển là một xu hướng phát triển
mạnh của du khách trên thế giới trong thế kỷ 21, điều này làm cho quy mô và
hiệu quả của ngành du lịch sẽ bị ảnh hưởng rất lớn.

BĐKH tác động trực tiếp tới tài nguyên du lịch, hạ tầng du lịch và hoạt
động lữ hành. Các công trình dịch vụ du lịch bị hư hỏng hoặc xuống cấp dưới tác
động của bão, lũ. Bão, mưa, gió, nắng gắt hay nhiệt độ tăng cao cũng làm cho
vật liệu kiến trúc nhanh xuống cấp, hư hỏng gây ảnh hưởng đến hệ thống giao
thông, cơ sở lưu trú, khu vui chơi giải trí. Biến đổi khí hậu còn tác động gián tiếp
lên hoạt động du lịch qua các lĩnh vực khác như giao thông, năng lượng, quản lý
nước, sử dụng đất cho dịch vụ du lịch… Theo SmartDestination, một trang mạng
chuyên về du lịch, ngành công nghiệp không khói phụ thuộc vào tình trạng ổn
định của khí hậu hơn nhiều ngành kỹ nghệ khác. Khí hậu khắc nghiệt có ảnh

47
hưởng trực tiếp đến các trải nghiệm của du khách và cơ sở hạ tầng du lịch, cũng
như có thể gây thiệt hại kinh tế đáng kể cho các điểm du lịch và cư dân tại chỗ.

Ngoài du lịch thì ngành Logistics (tức ngành Vận tải và chuỗi cung ứng)
cũng là một ngành dịch vụ chịu nhiều ảnh hưởng từ biến đổi khí hậu. Biến đổi
khí hậu có thể gây ra các hiện tượng thời tiết cực đoan như cơn bão, hạn hán,
và lũ lụt. Điều này có thể làm tăng nguy cơ trục trặc trong việc vận chuyển hàng
hóa, làm chậm lại quá trình di chuyển và tăng chi phí cho chi phí bảo hiểm và
cho việc bảo dưỡng và sửa chữa phương tiện vận chuyển, thậm chí là gây mất
hàng hoá trong quá trình vận chuyển và lưu kho. Ngoài ra, việc hư hại và phá vỡ
hạ tầng giao thông, bao gồm đường bộ, đường sắt, cảng biển và cảng hàng
không do biến đổi khí hậu có thể gây ra còn làm gián đoạn hoạt động logistics và
yêu cầu sự đầu tư lớn vào việc cập nhật và nâng cấp hạ tầng, nhất là hệ thống
cảng biển, nơi thường xuyên phải đối mặt với các cơn bão lớn và hiện tượng
nước biển dâng. Theo đánh giá của Bộ Tài nguyên và Môi trường vào năm 2020,
ngành đường bộ được xác định là chịu tác động nặng nề của biến đổi khí hậu,
tiếp đó là đường sắt và đường thủy nội địa. Gia tăng lượng mưa sẽ làm cho
8,8% tổng chiều dài mạng lưới đường sắt có nguy cơ cao bị sạt lở, chủ yếu tập
trung ở tuyến đường sắt Bắc - Nam, đoạn miền Trung. Nếu mực nước biển dâng
100 cm thì có khoảng trên 4% hệ thống đường sắt, hơn 9% hệ thống quốc lộ và
khoảng 12% hệ thống tỉnh lộ bị ảnh hưởng.

Ngành logistics Việt Nam cũng đang định hướng với sự phát triển bền
vững, xanh hóa trong sự biến đổi chung này. “Chúng tôi hi vọng các doanh
nghiệp logistics Việt Nam được tiếp cận các xu hướng mới và có những giải pháp
thích ứng với sự biến đổi khí hậu, môi trường kinh doanh hiện nay. Đây cũng là
dịp để doanh nghiệp giao lưu, kết nối và hợp tác phát triển những lĩnh vực phù
hợp”, trích lời ông Đặng Vũ Thành - Phó Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp dịch vụ
Logistics Việt Nam (VLA), dẫn đầu đoàn đại biểu doanh nghiệp Việt Nam tham
dự Đại hội Liên đoàn các Hiệp hội Giao nhận Vận tải Quốc tế (FIATA) – FIATA
World Congress 2023 được tổ chức tại Thủ đô Brussels của Bỉ.

48
Nhìn chung, trong thời gian qua, tuy ảnh hưởng của BĐKH là rất đáng kể
nhưng để ứng phó với BĐKH, chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành của Việt Nam đã
dần đi theo hướng phát triển bền vững, bảo đảm có được sự tăng trưởng kinh
tế dương, hiệu quả, ổn định và đạt ở mức cao; đảm bảo sự vững chắc cần thiết
của hệ thống kinh tế, tránh và giảm thiểu rủi ro và tổn thương từ những thay
đổi ở bên ngoài, nhất là các biến động kinh tế và vấn đề biến đổi khí hậu mà
nhóm đang nghiên cứu; tác động vào tới môi trường tự nhiên ít nhất có thể đặc
biệt là hướng tới mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Theo TS Vũ Tiến
Lộc, Chủ tịch VCCI, chúng ta đang ở trong thời điểm mà cách hành xử với môi
trường sẽ có ý nghĩa quyết định đến tương lai của chính chúng ta và các thế hệ
mai sau. Tất cả cần hành động để hướng tới một nền kinh tế Việt Nam nói riêng
và nền kinh tế toàn cầu nói chung xanh hơn, sạch hơn và bền vững hơn.

2.3. Tác động của BĐKH tới tiến bộ xã hội tại Việt Nam

2.3.1. Mục tiêu giảm nghèo

Nhiều nghiên cứu gần đây đều cho thấy rằng Việt Nam là một trong
những quốc gia dễ bị tổn thương nhất trên thế giới do sự biến đổi của khí hậu.
Những thành tựu đầy ấn tượng của Chính phủ Việt Nam trong việc đưa hàng
triệu người thoát nghèo hiện đang bị đe dọa một cách nghiêm trọng bởi các
hiện tượng thời tiết khắc nghiệt gia tăng do biến đổi khí hậu gây ra.

Tác động của BĐKH đến nghèo đói thường được đánh giá dựa vào khung
sinh kế bền vững. Sinh kế bền vững là phương thức để người dân dựa vào đó để
có thu nhập tốt, sống khỏe mạnh, ít bị tổn thương và thích ứng được với những
cú sốc về kinh tế, xã hội, môi trường, BĐKH. Theo tác giả Neefjes (2009), những
sinh kế mà người nghèo chỉ biết dựa vào là nguồn lực tự nhiên như sản xuất
nông nghiệp, đánh bắt nuôi trồng thủy sản. Các hộ gia đình nghèo phụ thuộc
không giống nhau vào tài nguyên thiên nhiên và môi trường cho sinh kế và có
thu nhập của họ. Người nghèo được xem là đối tượng dễ bị tổn thương nhất đối
với những tác động của môi trường bên ngoài bởi vì họ có ít nguồn lực và điều
kiện duy trì và thích ứng sinh kế.

49
Tác động của BĐKH tới nghèo đói có thể được chia ra thành tác động
trực tiếp và tác động gián tiếp. Tác động trực tiếp của BĐKH là tác động tới tài
sản, sinh kế bao gồm nhà cửa, nguồn cấp nước, sức khỏe và hạ tầng kĩ thuật.
Những tác động này có thể làm suy giảm khả năng của con người trong việc
đảm bảo cuộc sống vượt qua đói nghèo. Tác động gián tiếp gồm có (i) Giảm sản
lượng nông nghiệp, ảnh hưởng tới an ninh lương thực; (ii) Thay đổi trong hệ
thống tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên, hạ tầng kĩ thuật và năng suất lao động
có thể làm giảm các cơ hội thu nhập và ảnh hưởng tới phát triển kinh tế; (iii) Các
sức ép xã hội có nguồn gốc từ sử dụng tài nguyên thiên nhiên có thể dẫn tới
xung đột, mất ổn định cuộc sống và sinh kế buộc các cộng đồng phải di cư.

Những năm gần đây, do biến đổi khí hậu, Việt Nam thường xuyên xuất
hiện hiện tượng thời tiết cực đoan, như: bão, hạn hán, giông, lốc, lũ ống, lũ
quét, sạt lở đất…, tàn phá nghiêm trọng cây lương thực và tài sản của người
dân; đồng thời, gây khó khăn trong quá trình trồng lúa và các cây lương thực,
gia tăng chi phí cho sản xuất nông nghiệp. Điều này, xét theo mặt lý thuyết và
thực tiễn, có ảnh hưởng nặng nề lên sinh kế của người dân, từ đó kéo theo hệ
lụy về nghèo đói gia tăng.

50
Biểu đồ So sánh tỷ lệ hộ nghèo giữa các tỉnh bị ảnh hưởng và các tỉnh không bị
ảnh hưởng bởi thiên tai tại Việt Nam giai đoạn 2012 – 2018

Nguồn: Ảnh hưởng của thiên tai đến thu nhập và tỷ lệ nghèo tại Việt Nam -
Nguyễn Khắc Hiếu

Nhìn vào biểu đồ trên, có thể thấy được rằng tỷ lệ hộ nghèo tại Việt Nam
có xu hướng giảm qua các năm và các tỉnh bị ảnh hưởng bởi thiên tai tỷ lệ hộ
nghèo có xu hướng cao hơn các tỉnh không bị ảnh hưởng bởi thiên tai.

Biểu đồ 2: Tỷ lệ nghèo đa chiều theo vùng năm 2023

Nguồn: Tổng cục Thống kê

Nếu xét theo tỷ lệ nghèo đa chiều theo vùng, qua biểu đồ trên, ta cũng có
thể thấy rằng khu vực Trung du và miền núi phía Bắc và khu vực Tây Nguyên là
nơi có tỷ lệ nghèo đa chiều cao nhất cả nước. Điều này có thể được lý giải do
đây chính là 2 thường xuyên có thiên tai xảy ra (do địa hình hoặc là vùng đồi núi

51
hoặc là vùng ven biển). Người dân ở hai khu vực này phần lớn lao động trong
lĩnh vực nông nghiệp, do đó phải hứng chịu ảnh hưởng nặng nề từ thiên tai như
lở đất, xói mòn, thay đổi lượng mưa hoặc nhiệt độ và hạn hán. Qua bảng dưới,
ta cũng có thể thấy được rằng hầu hết các địa phương có tỷ lệ nghèo đa chiều
cao nhất cả nước giai đoạn 2016 - 2022 đều thuộc khu vực Trung du và miền núi
phía Bắc và khu vực Tây Nguyên.

Trong giai đoạn 2010 đến nay, tỷ lệ nghèo đa chiều đã giảm đáng kể từ
15,9% (năm 2012) xuống còn 5,7% năm 2023. Đây là một thành tựu đầy ấn
tượng trong nỗ lực giảm nghèo của Việt Nam. Nhưng dù tốc độ giảm nghèo của
Việt Nam đạt nhanh nhưng vẫn thiếu bền vững, tỷ lệ hộ cận nghèo khá đông rất
dễ tái nghèo.

Trong giai đoạn từ 2010 đến nay, mức độ thiệt hại do thiên tai ngày càng
trầm trọng, nhất là năm 2013 (giá trị thiệt hại là 19.601 tỷ đồng; 6.518 nhà sập,
cuốn trôi; 114.844 ha lúa, 155.708 ha hoa màu bị thiệt hại) và năm 2016 (giá trị
thiệt hại là 39.726 tỷ đồng; 5.431 nhà sập; 134.517 ha lúa, 130.678 ha hoa màu).

Sau những đợt thiên tai, bão lũ, nhiều hộ gia đình đã rơi vào cảnh “trắng
tay”, nợ nần, thiếu đói; đồng thời, tỷ lệ tái nghèo diễn ra mạnh hơn. Cứ 3 người
thoát nghèo lại có 1 người tái nghèo, chủ yếu do hậu quả thiên tai. Hiện nay, 12
tỉnh có tỷ lệ tái nghèo tăng rõ rệt (tăng từ 0,03% trở lên). Số hộ tái nghèo bằng
khoảng 1/20 số hộ thoát nghèo, số hộ nghèo mới phát sinh bằng khoảng 1/4 số

52
hộ thoát nghèo, nhiều tỉnh thuộc khu vực bị thiên tai, lũ lụt nghiêm trọng có tỷ
lệ phát sinh hộ nghèo mới hàng năm rất cao. Nhiều tỉnh ở khu vực gặp nhiều
thiên tai, lũ lụt nghiêm trọng khác cũng có tỷ lệ phát sinh hộ nghèo mới hàng
năm rất cao cùng với số hộ dân tái nghèo cũng tăng lên đáng kể. Do đó, khi
những vùng này bị thiệt hại nghiêm trọng do thiên tai, nguồn cung lương thực
sẽ phải chịu nhiều tác động tiêu cực, bóp méo giá cả hàng hóa, từ đó cản trở
phân phối lương thực, gây ảnh hưởng bất lợi đến khả năng phục hồi sau thiên
tai của người nghèo và làm gia tăng đói nghèo.

Lấy ví dụ là thực trạng đời sống người dân trong các trận lũ đang diễn ra
tại Quảng Bình và Hà Tĩnh cũng thấy được điều này. Theo Bí thư Đảng ủy xã Tân
Hóa (huyện Minh Hóa, Quảng Bình): Tân Hóa là hình mẫu trong xóa đói giảm
nghèo, làm ăn kinh tế của huyện Minh Hóa, là xã đầu tiên trong huyện xin rút
khỏi Chương trình 135 của Chính phủ, nhưng sau 2 trận lũ lụt, nay Tân Hóa trở
lại thời kỳ 100% hộ đói. Xã Tân Hóa nếu muốn khôi phục lại trình độ phát triển
kinh tế trước thiên tai thì phải mất đến 5 năm.

2.3.2. Cơ hội phát triển con người

2.3.2.1. Về sức khỏe

Theo các nhà nghiên cứu, biến đổi khí hậu gây ra rất nhiều tác động đáng
lo ngại cho sức khỏe con người. Có thể kể đến một số hậu quả thường gặp như
tăng nhiệt độ cơ thể, kiệt sức, sự gia tăng các bệnh truyền nhiễm và bệnh mãn
tính liên quan đến đường hô hấp như phổi, huyết áp, tim mạch, sốt rét, đột
quỵ... Cạnh đó, còn có sự phát triển của côn trùng, vi sinh vật, cỏ dại gây hủy
hoại mùa màng, ảnh hưởng đến an ninh lương thực, các dịch bệnh cũ bùng
phát, dịch bệnh mới xuất hiện, hiện tượng bão, lũ lụt gây thiệt hại sinh mạng
con người…

Tại Việt Nam, theo phân tích của các nhà nghiên cứu, biến đổi khí hậu
dẫn đến thời tiết cực đoan sẽ gây ra nguy cơ ngập mặn tại khu vực Đồng bằng
sông Cửu Long. Khu vực miền núi phía Bắc và miền Trung chịu nhiều rủi ro do lũ
quét và sạt lở đất. Vùng duyên hải Trung Bộ và Nam Trung Bộ, đồng bằng Bắc

53
Bộ, các vùng trung du và Tây Nguyên chịu rủi ro do hạn hán, thiếu nước và gia
tăng hoang mạc hoá. Nhóm người nghèo, dân tộc thiểu số, người cao tuổi, phụ
nữ, trẻ em, người bị bệnh tật là các nhóm có mức tổn thương cao nhất do biến
đổi khí hậu.

Còn theo bài phân tích “Fast Facts on Climate and Health” từ
www.cdn.who.int, thì biến đổi khí hậu gây ra ô nhiễm không khí, hiện tượng
thời tiết khắc nghiệt, tình trạng mất an ninh lương thực, áp lực lên sức khỏe tâm
thần, bệnh tật… tác động trực tiếp đến sức khỏe người dân.

Hiện nay, hơn 90% người dân hít thở không khí ở mức độ ô nhiễm không
tốt cho sức khỏe, phần lớn là do đốt nhiên liệu hóa thạch gây ra biến đổi khí
hậu. Bên cạnh đó, giao thông vận tải tạo ra khoảng 20% lượng khí thải carbon
toàn cầu. Hệ thống sản xuất công nghiệp tạo ra một phần ba lượng khí thải gây
hiệu ứng nhà kính có thể gây nguy cơ dẫn đến 11 triệu ca tử vong sớm mỗi năm.

2.3.2.2. Về giáo dục

Mới đây, một nghiên cứu vừa kết luận rằng, ở các nước nhiệt đới, việc
tiếp xúc với nhiệt độ cực đoan và mưa nhiều ở những năm trước khi sinh cũng
như trong thời thơ ấu, có thể làm cho trẻ em khó khăn hơn để đạt được giáo
dục trung học, ngay cả đối với các gia đình khá giả.

Theo báo cáo đánh giá, cách thức mà BĐKH tác động đến lĩnh vực giáo
dục khá phức tạp. BĐKH có thể tác động trực tiếp, khiến trường học bị phá hủy,
thời gian học tập của trẻ em bị trì hoãn do thiên tai như lũ lụt và mưa bão gây
ra. Mặt khác, BĐKH có thể gây ra tác động ở mức độ gián tiếp, ví dụ, nhiệt độ
tăng và thay đổi về xu hướng lượng mưa có thể tạo ra những tác động tiêu cực
đến sinh kế nông nghiệp, tạo thêm áp lực tài chính cho các hộ gia đình dễ bị tổn
thương, từ đó đẩy họ đến lựa chọn để cho con cái đi làm kiếm thu nhập thay vì
đi học.

Bằng chứng từ nhiều quốc gia đã chứng minh rằng cứ mỗi năm đi học
tăng thêm có thể làm tăng thu nhập của một cá nhân khoảng 8 - 10% . Ngược
lại, thu nhập cả đời của một người có thể giảm 3% nếu họ mất đi một phần ba

54
thời gian của một năm học, theo kết quả các phân tích toàn cầu về giáo dục bị
bỏ lỡ. Cái giá của việc không được đi học không chỉ nằm ở việc thu nhập của
một lứa học sinh bị giảm sút trong tương lai mà nhìn rộng hơn, một phần lực
lượng lao động kỹ năng kém sẽ làm chậm tốc độ tăng trưởng của cả một quốc
gia.

Theo nghiên cứu của Đại học Maryland, công bố vào ngày 15/4, được
đăng tải trên tạp chí Proceedings của Viện Hàn lâm Khoa học quốc gia Hoa Kỳ,
ông Heather Randell - tác giả chính - của Đại học Maryland đã thực hiện nghiên
cứu tổng hợp, với tư cách là nghiên cứu sinh sau tiến sĩ tại Trung tâm Tổng hợp
Môi trường Xã hội quốc gia, cùng đồng tác giả Clark Gray - thuộc Đại học Bắc
Carolina - nhận thấy rằng điều kiện khí hậu ảnh hưởng bất lợi đến triển vọng đạt
được mục tiêu giáo dục, theo nhiều cách khác nhau.

Ở Đông Nam Á, việc tiếp xúc với nhiệt độ cao hơn mức trung bình trong
thời kỳ tiền sản và thời thơ ấu sẽ ảnh hưởng có hại đến việc đi học và có liên
quan đến việc đi học ít hơn.

Đặc biệt, ở Việt Nam, trẻ em thuộc các hộ gia đình nghèo nhất có nguy cơ
bị thấp còi cao gấp 3 lần so với trẻ em thuộc các gia đình khá giả, trong đó Tây
Nguyên, Trung du và Miền núi phía Bắc là những vùng bị ảnh hưởng nặng nề
nhất. Báo cáo ghi nhận các trường hợp trẻ em không đủ thức ăn đầy đủ dinh
dưỡng, thay vào đó, em bé phải ăn thức ăn rắn từ khá sớm theo bữa ăn chung
của bố mẹ. Thực hành nuôi dưỡng trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ không đầy đủ khiến trẻ
có nguy cơ phát triển trí não kém, khả năng học tập yếu, khả năng miễn dịch
thấp, gia tăng các bệnh nhiễm trùng.

2.3.3. Mục tiêu bảo đảm việc làm, thu nhập thường xuyên và mục tiêu giảm
bất bình đẳng thu nhập

2.3.3.1. Mục tiêu bảo đảm việc làm, thu nhập

Biến đổi khí hậu là một trong những thách thức lớn nhất mà nhân loại
phải đối mặt trong thế kỷ 21. Nó không chỉ ảnh hưởng đến môi trường, sinh thái
và sức khỏe của con người, mà còn tác động đến lao động và việc làm của hàng

55
triệu người trên toàn cầu. Theo báo cáo của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO)
năm 2018, biến đổi khí hậu có thể gây mất khoảng 72 triệu việc làm vào năm
2030 do tăng nhiệt độ và giảm năng suất lao động. Đồng thời, biến đổi khí hậu
cũng tạo ra những cơ hội mới cho việc chuyển đổi sang nền kinh tế xanh và thúc
đẩy sự phát triển bền vững.

Biến đổi khí hậu tác động đến lao động và việc làm theo nhiều cách khác
nhau. Một số ngành nghề có liên quan trực tiếp đến thiên nhiên như nông
nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, du lịch và xây dựng sẽ bị ảnh hưởng nặng nề nhất
do thay đổi khí hậu gây ra các hiện tượng thiên tai, hạn hán, ngập lụt, xâm nhập
mặn và biến dạng mùa vụ. Những người lao động trong những ngành này sẽ
phải đối mặt với nguy cơ mất thu nhập, mất việc làm hoặc phải di cư để tìm
kiếm cơ hội mới. Một số ngành nghề khác như sản xuất, vận tải, năng lượng và
dịch vụ cũng sẽ bị ảnh hưởng gián tiếp do biến đổi khí hậu gây ra sự gián đoạn
trong chuỗi cung ứng, tăng chi phí sản xuất và tiêu thụ, giảm cầu của người tiêu
dùng và doanh nghiệp. Những người lao động trong những ngành này sẽ phải
thích ứng với những thay đổi trong công nghệ, kỹ năng và yêu cầu lao động.

Tuy nhiên, biến đổi khí hậu cũng mang lại những cơ hội cho việc tạo ra
những việc làm mới và bền vững trong khuôn khổ của nền kinh tế xanh. Nền
kinh tế xanh là một mô hình kinh tế dựa trên việc giảm thiểu tác động tiêu cực
của hoạt động kinh tế lên môi trường và xã hội, trong khi vẫn duy trì sự tăng
trưởng và phát triển. Theo ILO, Việt Nam có thể tạo ra khoảng 24 triệu việc làm
mới vào năm 2030 bằng cách chuyển đổi sang các ngành nghề thân thiện với
môi trường như tái chế, tái tạo năng lượng, hiệu quả năng lượng và công nghệ
xanh.

2.3.3.2. Mục tiêu giảm bất bình đẳng thu nhập

Biến đổi khí hậu gây ra bất bình đẳng thu nhập bằng nhiều cách.
Một cách là qua ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến năng suất lao động và nông
nghiệp. Biến đổi khí hậu làm tăng nhiệt độ, thay đổi lượng mưa, gây ra thiên tai
và dịch bệnh, ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe và hiệu suất lao động của người

56
dân, đặc biệt là những người làm việc ngoài trời hoặc trong các ngành có liên
quan đến tài nguyên thiên nhiên. Biến đổi khí hậu cũng làm giảm năng suất và
chất lượng của các sản phẩm nông nghiệp, ảnh hưởng đến thu nhập và an ninh
lương thực của người nông dân. Những người có thu nhập thấp và phụ thuộc vào
nông nghiệp sẽ chịu ảnh hưởng nặng nề hơn so với những người có thu nhập cao
và làm việc trong các ngành ít bị ảnh hưởng bởi biến đổi khí hậu.

Một cách khác là qua ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến chi phí chống
chịu và thích ứng, chi phí sinh hoạt và tiêu dùng. Biến đổi khí hậu yêu cầu phải
bỏ ra nhiều chi phí để phòng ngừa, giảm nhẹ và khắc phục những thiệt hại do
biến đổi khí hậu gây ra. Tuy nhiên, không phải ai cũng có khả năng và điều kiện
để chống chịu và thích ứng với biến đổi khí hậu. Những chi phí này sẽ chiếm một
tỷ lệ cao hơn trong tổng chi tiêu của những người có thu nhập thấp so với những
người có thu nhập cao, làm giảm khả năng tiết kiệm và đầu tư của họ. Đồng thời,
biến đổi khí hậu cũng làm giảm giá trị của các tài sản của người dân, như nhà
cửa, ruộng đất, cơ sở hạ tầng và các dịch vụ. Những quốc gia và cá nhân giàu có
có nhiều nguồn lực, công nghệ và thông tin để ứng phó với biến đổi khí hậu hơn
so với những quốc gia và cá nhân nghèo. Do đó, biến đổi khí hậu làm tăng
khoảng cách giàu nghèo giữa các quốc gia và trong nội bộ mỗi quốc gia.

Để có cái nhìn trực quan hơn về tác động của BĐKH làm gia tăng bất bình
đẳng thu nhập tại Việt Nam, nghiên cứu Ảnh hưởng của thiên tai đến thu nhập
và tỷ lệ nghèo tại Việt Nam của tác giả Nguyễn Khắc Hiếu đã so sánh thu nhập
các tỉnh bị ảnh hưởng và không bị ảnh hưởng bởi thiên tai tại Việt Nam. Ta có
thể thấy được rằng thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam tăng đều qua các
năm và các tỉnh bị ảnh hưởng bởi thiên tai thu nhập có xu hướng bé hơn các tỉnh
không bị ảnh hưởng bởi thiên tai.

57
Biểu đồ: So sánh thu nhập các tỉnh bị ảnh hưởng và các tỉnh không bị ảnh
hưởng bởi thiên tai tại Việt Nam giai đoạn 2012 – 2018

Nguồn: Ảnh hưởng của thiên tai đến thu nhập và tỷ lệ nghèo tại Việt Nam -
Nguyễn Khắc Hiếu

2.3.4. Mục tiêu bình đẳng giới, tăng quyền và tạo cơ hội cho phụ nữ và trẻ em
gái

Biến đổi khí hậu không chỉ là một vấn đề môi trường mà còn là một vấn
đề xã hội và nhân quyền. Phụ nữ và nam giới có những vai trò, nhu cầu và khả
năng khác nhau trong việc ứng phó và thích ứng với biến đổi khí hậu. Tuy nhiên,
phụ nữ thường bị bỏ quên hoặc bị phân biệt trong các chính sách và hoạt động
liên quan đến biến đổi khí hậu. Điều này không chỉ làm tăng thêm sự bất công
giới mà còn làm giảm hiệu quả của các giải pháp chống lại biến đổi khí hậu.

Biến đổi khí hậu gây ra những tác động khác nhau đối với phụ nữ và nam
giới. Các nghiên cứu cho thấy, khoảng 80% số người chịu các tác động tiêu cực
của tình trạng biến đổi khí hậu là phụ nữ. Các nhà nghiên cứu cũng chỉ ra rằng,
số phụ nữ và trẻ em tử vong bởi các thảm họa thiên nhiên cao hơn 14 lần so với
nam giới. Biến đổi khí hậu tác động lên cuộc sống và sinh kế của người dân theo

58
những cách thức khác nhau và phụ nữ luôn được coi là một trong những đối
tượng dễ bị tổn thương nhất do biến đổi khí hậu. Trên thực tế, biến đổi khí hậu
có thể làm tồi tệ thêm những bất bình đẳng giới, tạo thêm gánh nặng cho phụ
nữ. Báo cáo thảo luận chính sách của Liên hợp quốc khẳng định, nhiều thiên tai
xảy ra do biến đổi khí hậu dẫn đến di cư tăng lên ở Việt Nam. Phụ nữ di cư
thường kiếm được việc làm ít hơn nam giới và nếu họ ở lại khi các thành viên
khác trong gia đình di cư thì họ sẽ phải gánh vác trách nhiệm của nam giới.

Một tình trạng phổ biến khác là nam giới trong gia đình thường làm việc
xa nhà, nên khi thiên tai tàn phá thì phụ nữ buộc phải gánh vác hầu hết các hậu
quả của rủi ro thiên tai. Vào năm 2022, phụ nữ chiếm 50,7% tổng dân số Việt
Nam, trong đó tỷ lệ phụ nữ ở thành thị và nông thôn lần lượt là 34,5% và 65,5%.
Lao động nữ trong ngành nông nghiệp chiếm 63%, nhiều hơn so với nam giới
(57%). Sinh kế của người nghèo, trong đó có nhiều phụ nữ và trẻ em nông thôn,
phụ thuộc vào khai thác tự nhiên, sản xuất nông nghiệp, đánh bắt hải sản gần
bờ. Cuộc sống của họ phụ thuộc khá nhiều vào các hệ sinh thái có sẵn trong tự
nhiên. Nhưng biến đổi khí hậu đang làm mất đi nhiều khu rừng tự nhiên, hệ sinh
thái và đa dạng sinh học. Điều này ảnh hưởng đến phụ nữ, trẻ em, vốn cuộc
sống chủ yếu dựa vào các nguồn tài nguyên thiên nhiên có sẵn trong tự nhiên.
Hơn nữa, phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ nông thôn, thường phải gánh vác nhiều
công việc nặng nhọc, đóng vai trò người chủ gia đình và lao động chính ở những
nơi khí hậu khắc nghiệt, tài nguyên khan hiếm, các vùng bị nhiều thiên tai, trong
bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng gia tăng, khiến họ bị giảm cơ hội được giải
phóng và bình đẳng.

Ngoài ra, biến đổi khí hậu làm giảm chất lượng nước và trữ lượng nước
sạch, nguy cơ gia tăng các bệnh truyền nhiễm và đây chính là các yếu tố đe dọa
sức khỏe sinh sản, điều kiện nuôi dưỡng, chăm sóc bà mẹ và trẻ em.

Điển hình như tỉnh Khánh Hoà là tỉnh ven biển Nam Trung Bộ với khoảng
84,1% dân cư sống ở khu vực ven biển, 4,7% dân số thuộc dân tộc thiểu số (theo
niên giám thống kê năm 2010), đây cũng là khu vực dễ chịu ảnh hưởng của

59
BĐKH và nước biển dâng. Theo số liệu thống kê trung bình mỗi năm dân số tỉnh
Khánh Hoà tăng thêm khoảng trên 10.000 người. Trong những năm gần đây do
tác động của BĐKH, các loại hình thiên tai như: bão, lũ, hạn hán, nắng nóng ...
xảy ra với tần suất và cường độ ngày càng nhiều gây thiệt hại lớn đối với kinh tế
và sự phát triển của tỉnh: năm 2007 thiệt hại khoảng 56 tỷ đồng; năm 2008: 100
tỷ đồng; năm 2009: khoảng 450 tỷ đồng; năm 2010 thiệt hại khoảng 450 tỷ
đồng.

60
CHƯƠNG 3: ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG PHÒNG CHỐNG THIÊN TAI VÀ ĐỐI PHÓ
VỚI BĐKH TẠI VIỆT NAM

3.1. Thành tựu của Việt Nam trong việc giảm thiểu tác động của BĐKH

Tích cực tham gia vào các hợp đồng và thỏa thuận quốc tế về biến đổi
khí hậu

Việt Nam là một trong những quốc gia tích cực tham gia vào các hợp
đồng và thỏa thuận quốc tế về biến đổi khí hậu, như Hiệp định Paris về Biến đổi
Khí hậu và Hiệp định Thủy sản bền vững của Liên Hợp Quốc. Việt Nam đã ký kết
và công bố Hiệp định Paris vào tháng 9 năm 2016 và cam kết giảm lượng khí thải
nhà kính ở mức tối đa vào năm 2030.

Ngoài ra, Việt Nam cũng tham gia và hỗ trợ thỏa thuận quốc tế về biến
đổi khí hậu, như Thỏa thuận Paris về Đánh bắt thủy sản bền vững của Liên Hợp
Quốc. Thỏa thuận này được ký kết vào tháng 11 năm 2015 và nhằm mục đích
bảo vệ và phát triển nguồn tài nguyên thủy sản bền vững.

Việt Nam cũng tham gia vào các diễn đàn và tổ chức quốc tế về biến đổi
khí hậu, như Diễn đàn Khí hậu Thế giới (Global Climate Action Summit) và Đại
hội đồng Liên Hợp Quốc về Biến đổi Khí hậu (UNFCCC). Ngoài ra, Việt Nam cũng
tham gia vào các hoạt động và chương trình quốc tế như Chương trình phát
triển của Liên Hợp Quốc (UNDP), Chương trình Môi trường Liên Hợp Quốc
(UNEP), Chương trình hợp tác của Liên hợp quốc nhằm thực hiện sáng kiến
“Giảm phát thải khí nhà kính thông qua các nỗ lực hạn chế mất rừng và suy
thoái rừng tại các nước đang phát triển” (UN- REDD+)...

Cam kết mạnh mẽ trong việc giảm thiểu lượng phát thải khí nhà kính

Việt Nam đã thực hiện các chính sách và hành động nhằm giảm thiểu khí
thải gây ra bởi các hoạt động sản xuất, vận tải và năng lượng. Chẳng hạn như
Quyết định 942/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Kế hoạch
hành động giảm phát thải khí metan đến năm 2030.

61
Trong NDC (Nationally Determined Contribution - cam kết quốc gia) được
nộp lên UNFCCC, bằng nguồn lực trong nước, đến năm 2030 Việt Nam sẽ giảm
9% tổng lượng phát thải khí nhà kính so với kịch bản phát triển thông thường
(tương đương 83,9 triệu tấn CO2) và tăng đóng góp lên tới 27% (tương đương
250,8 triệu tấn CO2) khi có hỗ trợ quốc tế thông qua hợp tác song phương, đa
phương và thực hiện các cơ chế mới theo Thỏa thuận Paris.

Tại Hội nghị lần thứ 27 các Bên tham gia Công ước khung của Liên Hợp
Quốc về Biến đổi khí hậu, Việt Nam đã nộp Báo cáo Đóng góp do quốc gia tự
quyết định (NDC) cập nhật tới Ban thư ký Công ước. So với NDC năm 2020, NDC
cập nhật 2022 đã tăng mức đóng góp giảm phát thải không điều kiện đến năm
2030 từ 9% lên 15,8%; và đóng góp có điều kiện từ 27% lên 43,5% (so với kịch
bản phát triển thông thường BAU).

Để đạt được những mục tiêu này, Chính phủ Việt Nam đã đưa ra nhiều
chính sách, bao gồm đầu tư vào các nguồn năng lượng tái tạo, thúc đẩy sử dụng
phương tiện giao thông công cộng và sử dụng xe điện, nâng cao hiệu quả năng
lượng trong các ngành công nghiệp và tiết kiệm năng lượng trong các hộ gia
đình. Trong kịch bản NZ, điều này sẽ giúp tổng mức phát thải CO2 giảm 11% vào
năm 2030, 56% vào năm 2040 và 91% vào năm 2050 so với kịch bản BSL. Tác
động chính là từ ngành điện với lượng phát thải giảm 24% vào năm 2030, 81%
vào năm 2040 và 100% vào năm 2050 so với kịch bản BSL.

Nâng cao năng lực chống chịu của các cộng đồng đối với biến đổi khí
hậu

Theo Báo cáo năm 2020 của Ban Chỉ đạo Quốc gia về ứng phó với biến
đổi khí hậu tại Việt Nam, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu trong việc nâng
cao năng lực chống chịu của các cộng đồng đối với các biến đổi khí hậu, bao
gồm xây dựng hệ thống cảnh báo sớm và ứng phó với các thiên tai, nâng cao
hiệu quả sử dụng nguồn nước, tăng cường bảo vệ và phục hồi đất đai, và giảm
thiểu sự phụ thuộc vào nguồn nước dưới đất.

62
Hệ thống quan trắc khí tượng thủy văn đã được quan tâm đầu tư, nâng
cấp; các công nghệ dự báo khí tượng thủy văn dần tiếp cận trình độ các nước
tiên tiến trong khu vực Đông Nam Á, đặc biệt là trong dự báo, cảnh báo bão, áp
thấp nhiệt đới, mưa lớn, rét đậm, rét hại, lũ lụt và nắng nóng. Hệ thống báo tin
động đất và cảnh báo sóng thần đã bắt đầu hình thành.

Quy hoạch các khu dân cư ứng phó với biến đổi khí hậu, hệ thống cụm
tuyến dân cư vượt lũ tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long đã được thực hiện. Đã
đầu tư nâng cấp đê biển, đê sông xung yếu, xây dựng các công trình thủy lợi.
Triển khai nhiều dự án chống ngập do triều cường, xâm nhập mặn ở thành phố
Hồ Chí Minh và Đồng bằng sông Cửu Long.

Về công tác đảm bảo an toàn hồ chứa, cả nước hiện có khoảng 7.160 hồ
chứa thủy lợi, thủy điện, trong đó có khoảng 6.660 hồ chứa và khoảng 500 hồ
chứa thủy điện với trên 2.300 hồ chứa có dung tích từ 0,2 triệu m³ trở lên.

Tăng cường và thúc đẩy sử dụng năng lượng tái tạo (NLTT)

Việt Nam giai đoạn 2011 - 2021 đã tăng cường phát triển NLTT nói chung
và điện từ NLTT nói riêng. Điều đó được thể hiện qua các chỉ tiêu chủ yếu sau:

- Về tiêu thụ NLTT, đã tăng từ mức không đáng kể năm 2011 lên 0,27 EJ
năm 2021, tăng bình quân 73,1%/năm, chiếm tỉ trọng 0,7% toàn thế giới và
1,57% của châu Á-TBD.

-Về phát điện từ NLTT, đã tăng từ 0,1 TWh năm 2011 lên 28,3 TWh năm
2021, tăng bình quân 75,4%/năm. Theo đó, tỉ trọng trên toàn thế giới đã tăng từ
mức không đáng kể năm 2011 lên 0,8% năm 2021.

- Về cơ cấu sản lượng điện phát ra từ NLTT năm 2020 - 2021 chủ yếu là
điện mặt trời 25,8 TWh, chiếm tới hơn 91%, điện gió chỉ chiếm 8,5-9%, còn lại
không đáng kể là điện từ các loại NLTT khác.

Trong những năm gần đây, các dự án năng lượng tái tạo ở Việt Nam đã
thu hút được nhiều vốn đầu tư FDI và đầu tư tư nhân trong những. Trong năm
2021, việc thu hút được nhiều dự án mới và quy mô lớn với 5,7 tỷ USD, chiếm

63
18.3% tổng vốn đầu tư đăng ký đã giúp ngành sản xuất và phân phối điện xếp
thứ 2 trong số các ngành thu hút FDI.

3.2. Hạn chế của Việt Nam trong việc giảm thiểu tác động của BĐKH

Thiếu vốn đầu tư cho các giải pháp giảm thiểu tác động của BĐKH

Việt Nam là một quốc gia đang phát triển, với nhiều thách thức về tài
chính và vốn đầu tư. Chỉ tính phần kinh phí cần thiết để triển khai các dự án
nhằm giảm khoảng 8% tổng lượng phát thải vào năm 2030, Việt Nam cần
khoảng 3,2 tỷ USD. Nhưng để đạt mức giảm lượng phát thải lên 25%, nguồn
kinh phí cần có vào khoảng 21 tỷ USD. Trong đó, Việt Nam chủ động được
khoảng 3,2 tỷ USD; gần 18 tỷ USD còn lại cần sự hỗ trợ từ quốc tế thông qua các
hợp tác song phương, đa phương.

Việc triển khai chính sách và quản lý môi trường còn gặp nhiều khó
khăn

Việt Nam đã có nhiều chính sách nhằm giảm thiểu tác động của BĐKH
đến phát triển kinh tế, tuy nhiên việc triển khai và quản lý môi trường vẫn còn
nhiều khó khăn. Theo Báo cáo năm 2020 của Tổ chức Bảo vệ Môi trường và Đổi
mới (ICLEI) về việc thực hiện cam kết giảm thiểu khí thải nhà kính ở các thành
phố Việt Nam, các chính sách và quy định về môi trường vẫn chưa được áp dụng
một cách hiệu quả và thống nhất trên toàn quốc, còn việc giám sát và xử lý các
vi phạm về môi trường cũng còn nhiều hạn chế. Ngoài ra, các tổ chức và cộng
đồng dân cư cũng chưa có được sự tham gia và tác động tích cực trong việc
giảm thiểu tác động của BĐKH đến phát triển kinh tế.

Thiếu nhận thức và ý thức cộng đồng về BĐKH

Theo nghiên cứu “Nhận thức về biến đổi khí hậu của người dân Thành
phố Hồ Chí Minh” (2019), người dân tiếp cận được các thông tin về BĐKH còn
quá ít, chỉ có một bộ phận quan tâm chủ yếu từ các phương tiện truyền thông
đại chúng và một phần từ chính quyền địa phương. Sự chia sẻ thông tin tại cộng

64
đồng còn khá rời rạc, thụ động. Từ đó, hành động của người dân còn mang tính
tự phát, đơn lẻ và chưa tạo được sức mạnh của cộng đồng.

Bên cạnh các hoạt động tích cực của người dân và cộng đồng trong công
tác ứng phó với BĐKH, thì vẫn còn một bộ phận dân cư có phản ứng tiêu cực,
không hợp tác với cộng đồng và chính quyền. Người dân và cộng đồng thiếu đi
sự chủ động, luôn mang tâm lý lệ thuộc vào chính quyền vì chính quyền là chỗ
dựa đáng tin cậy hơn chính cộng đồng mà họ đang sinh sống.

3.3. Nguyên nhân tồn tại những hạn chế trong việc giảm thiểu tác động của
BĐKH

Điều kiện kinh tế chưa đủ thuận lợi

Việt Nam là một quốc gia đang phát triển, với nhiều thách thức kinh tế,
xã hội và môi trường. Sự phát triển kinh tế chưa đủ mạnh mẽ, đồng thời cơ sở
hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội chưa được đầu tư đúng mức, gây khó khăn
trong việc triển khai các biện pháp giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu.

Thị trường phát điện chưa cạnh tranh

Công ty Điện lực là đơn vị duy nhất phân phối điện năng tại Việt Nam và
định giá điện theo quy định của Nhà nước. Điều này khiến cho việc đầu tư và
triển khai các dự án năng lượng tái tạo khó khăn, do các nhà đầu tư gặp khó
khăn trong đàm phán giá điện và đảm bảo lợi nhuận đủ hấp dẫn cho các dự án
năng lượng tái tạo. Điều này đồng nghĩa với việc các dự án năng lượng tái tạo
gặp khó khăn trong việc thu hồi vốn và hoạt động bền vững, từ đó ảnh hưởng
đến việc triển khai rộng rãi các dự án giảm thiểu khí thải nhà kính.

Thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao trong ứng phó biến đổi khí hậu

Việt Nam đang đối mặt với thách thức trong việc đào tạo và nâng cao
trình độ chuyên môn cho nguồn nhân lực trong lĩnh vực biến đổi khí hậu, đặc
biệt là ở cấp chuyên gia và nhà quản lý. Đa số người lao động trong lĩnh vực này
chưa có trình độ đào tạo cao và chưa đáp ứng được yêu cầu của công việc trong
bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng phức tạp.

65
Nhu cầu về nguồn nhân lực trong lĩnh vực biến đổi khí hậu tại Việt Nam
đang ngày càng tăng cao, đặc biệt là trong các lĩnh vực liên quan đến nghiên
cứu, quản lý, giám sát, và ứng phó với biến đổi khí hậu. Tuy nhiên, nguồn nhân
lực đáp ứng nhu cầu thực tế vẫn còn hạn chế, đặc biệt là trong việc đáp ứng các
yêu cầu về kỹ năng, kinh nghiệm, và năng lực chuyên môn cao.

Truyền thông và năng lực cộng đồng về BĐKH chưa được chú trọng

Công tác tập huấn, truyền thông về BĐKH chưa được chính quyền phổ
biến sâu rộng và liên tục trong nhân dân. Các cơ quan chức năng và chính quyền
địa phương chưa có phương thức thích hợp trong tập huấn, truyền thông về
BĐKH phù hợp với trình độ học vấn của người dân.

Bên cạnh đó, một số người dân còn thiếu thông tin đầy đủ về BĐKH, bao
gồm cả những tác động của nó và cách ứng phó với nó. Giáo dục về BĐKH còn
chưa được đưa vào chương trình giáo dục chính thức ở nhiều cấp độ, từ mầm
non đến đại học, dẫn đến sự thiếu hiểu biết về vấn đề này.

Một số người dân có thể không nhận thức được tác động của hoạt động
cá nhân đến BĐKH, chẳng hạn việc sử dụng phương tiện cá nhân thay vì phương
tiện công cộng, không tiết kiệm năng lượng trong sinh hoạt hàng ngày, hoặc
không quan tâm đến nguồn gốc của các sản phẩm tiêu dùng và tác động của
chúng đến môi trường.

66
CHƯƠNG 4: KHUYẾN NGHỊ ỨNG PHÓ VỚI BĐKH TẠI VIỆT NAM

4.1. Về phía nhà nước

Về công tác tuyên truyền: cần tiếp tục tuyên truyền, nâng cao nhận
thức của các cấp, các ngành và toàn xã hội về vấn đề biến đổi khí hậu, hình
thành quyết tâm và hành động mạnh mẽ trong ứng phó với biến đổi khí hậu.
Mỗi cấp, mỗi ngành, địa phương cần có sự quan tâm chỉ đạo, tích cực lồng ghép
vấn đề ứng phó với biến đổi khí hậu vào các chương trình, kế hoạch cụ thể theo
chức năng, nhiệm vụ, địa bàn quản lý để thực hiện tốt, vừa góp phần phát triển
kinh tế - xã hội, vừa hướng tới các mục tiêu ứng phó với biến đổi khí hậu.

Về công tác hoạch định, thực thi chính sách và quản lý môi trường:
Chính phủ cần tăng cường nguồn nhân lực, tài chính và kỹ thuật để đảm bảo
việc thực thi chính sách và quản lý môi trường được đạt được một cách hiệu
quả.Về nguồn nhân lực, chính phủ cần đào tạo và thu hút các chuyên gia về môi
trường để thực hiện các nhiệm vụ của các cơ quan liên quan. Ngoài ra, cần đảm
bảo các cơ quan liên quan có đủ nhân lực để giám sát và thực hiện việc thực thi
chính sách và quản lý môi trường. Về nguồn tài chính, chính phủ cần cung cấp
đủ nguồn lực để thực hiện các hoạt động liên quan đến môi trường, bao gồm
nguồn tài trợ cho việc thực thi chính sách và quản lý môi trường, đầu tư vào các
công nghệ thân thiện với môi trường và đào tạo nhân lực. Về kỹ thuật, chính
phủ cần đầu tư vào việc phát triển và áp dụng các công nghệ tiên tiến và thân
thiện với môi trường, như công nghệ sạch và năng lượng tái tạo, công nghệ xử
lý nước thải, công nghệ xử lý chất thải và công nghệ giảm thiểu khí thải.

Về công tác hợp tác quốc tế: Việt Nam cần tích cực, chủ động tăng
cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực ứng phó với biến đổi khí hậu. Tăng cường
hợp tác, học tập kinh nghiệm của các nước trong các vấn đề cụ thể, như ứng
phó với nước biển dâng; vấn đề quy hoạch, tái cấu trúc nền kinh tế và các ngành
sản xuất hướng tới giảm phát khí thải; vấn đề phát triển thị trường mua bán khí
thải carbon mà một số nước đã thực hiện. Tăng cường hợp tác chia sẻ, sử dụng
các dữ liệu quan trắc môi trường, tài nguyên nước sông Hồng, sông Mekong với

67
các quốc gia liên quan. Đặc biệt, cần tích cực tham gia các diễn đàn, hội nghị
quốc tế về biến đổi khí hậu, tăng cường hợp tác trong các khuôn khổ song
phương và đa phương, qua đó tranh thủ các nguồn lực quốc tế để phục vụ công
tác ứng phó với biến đổi khí hậu.

Thúc đẩy sử dụng năng lượng tái tạo: Chính phủ có thể đưa ra các
chính sách khuyến khích sử dụng năng lượng tái tạo như hỗ trợ giảm giá, giảm
thuế và cung cấp các khoản tài trợ để khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư
vào các dự án năng lượng tái tạo. Điều này có thể giúp tăng cường sản xuất và
phân phối các sản phẩm năng lượng tái tạo, làm giảm chi phí và tăng cường tính
cạnh tranh của chúng.

4.2. Về phía doanh nghiệp

Tối ưu hóa sử dụng năng lượng và đầu tư phát triển công nghệ xanh:
Các doanh nghiệp có thể chuyển sang sử dụng năng lượng tái tạo như năng
lượng mặt trời, gió, thủy điện để giảm lượng khí thải CO2 phát ra từ việc sử
dụng năng lượng hóa thạch. Đồng thời, tối ưu hóa quá trình sản xuất để tiết
kiệm năng lượng và giảm phát thải. Các doanh nghiệp biết tận dụng các cơ hội
từ biến đổi khí hậu sẽ tiếp nhận được các các mô hình kinh tế, tài chính mới
đồng thời có cơ hội tham gia vào thị trường carbon. Tiếp đó là phát triển thị
trường và điểm then chốt nhất là sự đổi mới về công nghệ, phát triển sản xuất,
kinh doanh phát thải thấp để tăng sức cạnh tranh, tạo lợi nhuận bền vững.

Xây dựng hệ thống vận chuyển và giao hàng hiệu quả hơn: Cải thiện quy
trình vận chuyển và giao hàng để giảm thiểu lượng khí thải phát ra từ phương
tiện vận chuyển. Điều này có thể bao gồm sử dụng phương tiện vận chuyển sạch
sẽ hơn như xe điện hoặc sử dụng công nghệ thông minh để tối ưu hóa tuyến
đường và tải trọng qua đó giảm thiểu được chi phí vận chuyển.

Thiết kế xanh cho doanh nghiệp: Thiết kế xanh và bền vững trong văn
phòng doanh nghiệp là một chiến lược quan trọng nhằm tối ưu hóa môi trường
làm việc, giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường và tăng cường hiệu suất
và sự bền vững của doanh nghiệp. Điểm chính của chiến lược này bao gồm sử

68
dụng vật liệu và nguồn năng lượng thân thiện với môi trường, thiết kế thông
thoáng và sử dụng ánh sáng tự nhiên, hệ thống quản lý năng lượng thông minh,
xây dựng không gian xanh, quản lý chất thải hiệu quả, sử dụng nước và vật liệu
tái chế, và tuân thủ các tiêu chuẩn và chứng nhận xanh. Đối với doanh nghiệp,
việc áp dụng chiến lược này không chỉ mang lại môi trường làm việc lành mạnh
và thú vị cho nhân viên mà còn đóng góp vào việc bảo vệ môi trường và tăng sự
uy tín và giá trị của doanh nghiệp trong cộng đồng.

Chứng nhận và quảng bá: Đầu tư vào các chứng nhận và tiêu chuẩn môi
trường để thể hiện cam kết của doanh nghiệp đối với bảo vệ môi trường và thu
hút khách hàng quan tâm đến vấn đề này. Việc hướng đến mô hình kinh tế xanh
không chỉ giúp giảm thiểu tác động đến biến đổi khí hậu mà còn mang lại nhiều
lợi ích khác cho doanh nghiệp như giảm chi phí vận hành, tạo ra cơ hội kinh
doanh mới, tăng cường uy tín và danh tiếng của doanh nghiệp trong cộng đồng
và thị trường.

4.3. Về phía các tổ chức phi chính phủ

Xây dựng và thúc đẩy chính sách và quy định môi trường: Tổ chức phi
chính phủ có thể đề xuất và thúc đẩy việc xây dựng các chính sách và quy định
môi trường cứng cáp hơn, bao gồm việc thiết lập tiêu chuẩn về khí thải, quản lý
tài nguyên tự nhiên và bảo vệ đất đai.

Hỗ trợ và khuyến khích nghiên cứu và phát triển công nghệ xanh: Tổ
chức phi chính phủ có thể cung cấp hỗ trợ tài chính và chính sách khuyến khích
cho các dự án nghiên cứu và phát triển công nghệ xanh, bao gồm cả việc tạo
điều kiện thuận lợi cho việc chuyển giao công nghệ và triển khai các giải pháp
mới.

Thúc đẩy hợp tác đa phương: Tổ chức phi chính phủ có thể đóng vai trò
trung tâm trong việc tạo điều kiện và khuyến khích hợp tác đa phương giữa các
tổ chức quốc tế, chính phủ và doanh nghiệp để chia sẻ kinh nghiệm, công nghệ
và tài nguyên để đối phó với biến đổi khí hậu.

69
Hỗ trợ và tăng cường nhận thức cho cộng đồng: Tổ chức phi chính phủ
có thể tổ chức các chiến dịch giáo dục và tăng cường nhận thức cộng đồng về
biến đổi khí hậu, tác động của nó và những biện pháp có thể được thực hiện để
giảm thiểu tác động. Hỗ trợ cộng đồng nghèo và dễ bị tổn thương thích ứng với
biến đổi khí hậu; giảm nhẹ biến đổi khí hậu thông qua các dự án đa lợi ích, hỗ
trợ các hoạt động thích ứng; vận động chính sách giảm nhẹ biến đổi khí hậu và
hỗ trợ các hoạt động thích ứng của cộng đồng nghèo; bắt đầu các hoạt động
chuyển đổi tổ chức, điều chỉnh chính sách và quy định phù hợp với thực tế biến
đổi khí hậu

Hỗ trợ tài chính và kỹ thuật cho các dự án chống biến đổi khí hậu: Cung
cấp hỗ trợ tài chính và kỹ thuật cho các dự án và chương trình có mục tiêu giảm
thiểu tác động của biến đổi khí hậu, bao gồm cả việc xây dựng hệ thống cảnh
báo và ứng phó với thảm họa tự nhiên.

4.4. Liên hệ với sinh viên

Là sinh viên của trường Đại học Kinh tế Quốc dân, chúng tôi nhận thức rõ
tầm quan trọng của việc giảm những ảnh hưởng tiêu cực do biến đổi khí hậu.
Mặc dù không thể thực hiện những điều to lớn, nhưng chúng tôi tin rằng mỗi
hành động nhỏ của từng cá nhân cũng có thể góp phần làm cho môi trường
sống trở nên tốt hơn. Để thực hiện điều này, chúng tôi sẽ thiết lập những thói
quen tốt, thực hiện các biện pháp dù nhỏ nhưng có tác động tích cực đến môi
trường và nhận thức của những người xung quanh như. Chúng tôi sẽ chia những
hành động này thành hai nhóm: Nhóm hành động hướng tới giảm thiểu tác
động của BĐKH và nhóm hành động hướng tới thích ứng với BĐKH.

Nhóm hành động hướng tới giảm thiểu tác động của BĐKH

- Tiết kiệm năng lượng bằng cách tắt đèn và các thiết bị điện khi không
sử dụng, cả ở trường và ở nhà. Ưu tiên sử dụng phương tiện giao thông công
cộng như xe buýt hoặc xe đạp thay vì sử dụng xe máy cá nhân để giảm lượng khí
thải.

70
- Lựa chọn sử dụng các sản phẩm và dịch vụ có tính bền vững, như sử
dụng túi đựng có thể tái sử dụng thay vì túi nilon và hạn chế sử dụng
các sản phẩm một lần như hộp xốp hay bát đũa giấy,...
- Sử dụng sách và tài liệu điện tử thay vì sách giấy để giảm lượng giấy in
ấn và tiết kiệm tài nguyên. Chúng tôi khuyến khích việc sử dụng thư
viện điện tử và các ứng dụng như NEUReader.
- Nâng cao ý thức về biến đổi khí hậu bằng cách tìm hiểu và chia sẻ
thông tin với bạn bè và gia đình, tham gia các hoạt động như cuộc thi
về bảo vệ môi trường và biến đổi khí hậu.
- Tham gia các hoạt động tình nguyện như thu gom chất thải, trồng cây,
và tổ chức các hoạt động nhằm tăng cường nhận thức và kêu gọi cộng
đồng thực hiện các biện pháp giảm thiểu tác động của biến đổi khí
hậu.

Nhóm hành động hướng tới thích ứng với BĐKH

- Rèn luyện sức khỏe thể chất để tăng cường sức chịu đựng với sự thay
đổi thời tiết thất thường hoặc khí hậu ngày càng trở nên khắc nghiệt.
- Trong những mùa khô, nóng, sử dụng điều hòa hoặc các thiết bị làm
mát khác ở mức độ vừa phải, tránh dẫn tới tình trạng sốc nhiệt.
- Rèn luyện thói quen uống nhiều nước, chống nắng cẩn thận khi ra
ngoài trong những mùa khô, nóng.
- Trong bối cảnh biến đổi khí hậu, sinh viên chúng ta có thể lựa chọn
làm những công việc từ xa hoặc những công việc văn phòng để tránh
những sự ảnh hưởng của thay đổi thời tiết.
- Trong tương lai, những ngành nghề liên quan đến môi trường hoặc
công nghệ xanh sẽ là xu hướng phát triển mới. Sinh viên có thể định
hướng làm việc hoặc học hỏi thêm kiến thức liên quan tới những lĩnh
vực này.

Chúng tôi tin rằng bằng cách hành động cùng nhau, chúng ta có thể tạo
ra những thay đổi tích cực cho môi trường và cộng đồng của chúng ta, và đó

71
cũng là cách để chúng ta đóng góp vào cuộc chiến chống lại biến đổi khí hậu
toàn cầu.

KẾT LUẬN

Biến đổi khí hậu là một trong những thách thức lớn nhất đối với nhân loại
trong thế kỷ 22. Các tác động của biến đổi khí hậu là nghiêm trọng nhưng không
phân bổ một cách đồng đều, các nước nghèo nhất cùng với những người dân
của mình sẽ phải chịu ảnh hưởng sớm nhất và nặng nề nhất. Trong bài nghiên
cứu này, đã nêu lên được tác động của biến đổi khí hậu đến các lĩnh vực kinh tế
và xã hội.

Biến đổi khí hậu đã và đang có tác động đáng kể tới phát triển kinh tế
Việt Nam. Những tác động này bao gồm những thảm họa tự nhiên như mưa lũ,
hạn hán, sương muối và sóng đe dọa, làm giảm sản lượng nông nghiệp, đánh
mất nguồn tài nguyên nước, gây tổn thất cho kinh tế. Đồng thời, biến đổi khí
hậu cũng tác động đến ngành công nghiệp và dịch vụ, gây ra các thay đổi về cầu
và cung cả trong kinh tế.

Tuy nhiên, Việt Nam đang nỗ lực để đối phó với tác động của biến đổi khí
hậu bằng cách đưa ra các chính sách và giải pháp để thích ứng và giảm thiểu tác
động. Mong muốn một tương lai phát triển bền vững. Do đó, trong quá trình
nghiên cứu đề tài này, đã giúp nhóm nghiên cứu chúng em tìm hiểu được nhiều
khía cạnh cũng như các vấn đề liên quan đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam bởi
ảnh hưởng của biến đổi khí hậu là như nào, qua đó đánh giá sự ảnh hưởng, sự

72
cần thiết của vấn đề đi vào thực tiễn và đánh giá giải pháp, đánh giá tình hình
thực tế. Bài nghiên cứu của chúng em chắc chắn sẽ còn nhiều thiếu sót không
tránh khỏi, chúng em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp từ cô để có
thể hoàn thiện hơn nữa.

Chúng em chân thành cảm ơn cô.

73

You might also like