Professional Documents
Culture Documents
Chiến tranh thế giới thứ II kết
Chiến tranh thế giới thứ II kết
1
MỤC LỤC
III. KẾT
LUẬN……………………………………………
………………………………………………14
2
I. KHÁI QUÁT CHIẾN TRANH LẠNH
Chiến tranh thế giới thứ II kết thúc, giữa bối cảnh Châu Âu bị tàn phá nặng nề
và suy yếu trong hệ thống quốc tế. Vai trò của Anh, Pháp trở nên lu mờ cùng với một
nước Đức đổ nát, trên bờ vực bị chia cắt, thì Mỹ và Liên Xô vươn lên với vai trò là
siêu cường thế giới - giàu có và hùng mạnh. Chính vì thế, hai quốc gia này nhanh
chóng dẫn đầu và nắm quyền chi phối toàn bộ hệ thống chính trị quốc tế. Thế nhưng,
Liên Xô và Mỹ với sự lựa chọn hai ý thức hệ đối lập nhau, đã đứng trên hai chiến
tuyến hoàn toàn trái ngược nhau. Điều này khiến cho viễn cảnh hoà hợp thời hậu
chiến tranh trở nên xa rời hiện thực, kéo theo đó là những cuộc xung đột liên tiếp
bùng nổ. Tuy đây không phải là đối đầu trực tiếp, nhưng lại là khởi đầu cho một giai
đoạn lịch sử mới được biết đến với tên gọi “Chiến tranh Lạnh”.
Trên thực tế, trong giai đoạn này cả thế giới không chỉ chứng kiến một cuộc
chiến tranh lạnh giữa Liên Xô và Mỹ, mà còn là cuộc đối đầu không trực tiếp giữa
Liên Xô - Trung Quốc (1959 - 1989) và Trung Quốc - Mỹ (1953 - 1973). Trong đó,
bài luận này sẽ tập trung phân tích vào mối quan hệ của Mỹ - Trung thời kỳ Chiến
3
Theo đó, Chiến tranh Lạnh được hiểu là thời kỳ căng thẳng về mặt chính trị và
quân sự giữa Mỹ và Liên Xô sau khi kết thúc Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Yếu tố
“chiến tranh” ở đây thể hiện sự đối đầu sâu sắc về mặt quyền lực và ý thức hệ giữa hai
nước; trong khi đó “lạnh” phản ánh việc Liên Xô và Mỹ không sử dụng vũ khí “nóng”
trong mối quan hệ kình địch này, mà thay vào đó là cuộc chạy đua vũ trang, nổi bật là
vũ khí hạt nhân.1 Trên thực tế, Chiến tranh lạnh là giai đoạn đầu tiên trong lịch sử tồn
tại hệ thống lưỡng cực, mà Mỹ và Liên Xô là đại diện; và mâu thuẫn giữa hai nước
cũng đại diện cho mâu thuẫn giữa phe Tư bản chủ nghĩa (do Mỹ đứng đầu) và phe Xã
hội chủ nghĩa (do Liên Xô khởi xướng). Chiến tranh Lạnh do đó tác động toàn diện
với tất cả các mặt trong đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá và xã hội của các quốc gia
khi mà các nước tự xác định con đường đi của mình dựa trên sự định hình ý thức hệ.
Trước hết, đó là sự đối lập về mục tiêu và chiến lược giữa hai cường quốc. Liên
Xô chủ trương duy trì hòa bình, an ninh thế giới, bảo vệ những thành quả của chủ
nghĩa xã hội và đẩy mạnh phong trào cách mạng thế giới. Ngược lại, Mỹ ra sức chống
phá Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa, đẩy lùi phong trào cách mạng nhằm thực
hiện mưu đồ bá chủ thế giới. Mỹ hết sức lo ngại trước ảnh hưởng to lớn của Liên Xô
cùng những thắng lợi của các cuộc cách mạng dân chủ nhân dân ở các nước Đông Âu,
đặc biệt là sự thành công của cách mạng Trung Quốc với sự ra đời của nước Cộng hòa
Nhân dân Trung Hoa. Từ đó, chủ nghĩa xã hội đã trở thành một hệ thống thế giới, trải
4
Nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ra đời và bước vào thời kỳ cách mạng Xã
hội chủ nghĩa, thực hiện nhiệm vụ đưa Trung Quốc từ một nước công nghiệp nghèo
nàn lạc hậu, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Cùng với sự ra đời của nước Cộng hòa nhân
dân Trung Hoa, tương quan lực lượng giữa hai phe có những thay đổi quan trọng và
cũng chính từ đây quan hệ giữa Trung quốc và Mỹ luôn có những diễn biến phức tạp.
Vào giai đoạn 1949 - 1969, đây là giai đoạn đối đầu căng thẳng giữa hai nước
Mỹ - Trung. Trong giai đoạn đầu, Trung Quốc chủ trương “nhất biển đảo”, dựa hẳn
vào Liên Xô, ký Hiệp ước đồng minh tương trợ Xô - Trung (14/2/1950). Trong khi
đó, Mỹ xem Trung Quốc là mối đe dọa cộng sản ở Châu Á nên đã thực hiện một
chính sách đối ngoại thù địch với Trung Quốc. Sau khi Trung Quốc tham gia chiến
tranh Triều Tiên, ủng hộ cách mạng Việt Nam, thử thành công bom nguyên tử. Ngoại
trưởng Mỹ Dean Rusk ngày 16/3/1966 trong bài phát biểu trước Ủy ban các vấn đề
Viễn Đông thuộc Hạ viện Mỹ, đã tuyên bố “cần thiết phải kiềm chế sự xâm lược của
Trung Quốc ở Châu Á cũng như sự xâm lược của Liên Xô ở Châu Âu”. Do vậy, Mỹ
đã tiến hành bao vây, phong tỏa Trung Quốc, ngăn không cho Trung Quốc vào Liên
Về phía Trung Quốc, với chiến lược ngoại giao “nhất biển đảo” - ngả hoàn toàn
về phía Liên Xô trong cùng hệ thống xã hội chủ nghĩa, đối lập với khối tư bản chủ
nghĩa do Mỹ đứng đầu. Do vậy, Trung Quốc coi Mỹ là đế quốc đầu sỏ, là “trở ngại
chính trong việc thực hiện các mục tiêu của Trung Quốc trên thế giới và là mối đe dọa
đối với Trung Quốc và Chủ tịch Mao Trạch Đông khi đó đã dự đoán “một cuộc đụng
đầu quân sự với Mỹ hoặc ở Việt Nam, Đài Loan hay Triều Tiên là không thể tránh
khỏi. Và thực tế, Mỹ và Trung Quốc đã đụng đầu với nhau trên bán đảo Triều Tiên
(1950 - 1953), mở đầu giai đoạn đối đầu trong quan hệ giữa Trung Quốc và Mỹ.
5
Sự căng thẳng trong quan hệ Trung - Mỹ ở giai đoạn này là do cả hai nước tiếp
tục duy trì thái độ thù địch với nhau. Trung Quốc quyết liệt chống Mỹ, giương cao
ngọn cờ là nước “cách mạng duy nhất” để thực hiện ý đồ nắm lấy phong trào giải
phóng dân tộc. Về phần Mỹ, Mỹ coi Trung Quốc là mối đe dọa đối với hòa bình, sự
ổn định toàn cầu, nhất là sau những đả kích tuyên truyền mạnh mẽ của Trung Quốc
đối với “chủ nghĩa xét lại Liên Xô”, cùng với đó là “sự hòa dịu Xô - Mỹ” thì Mỹ lại
càng có lý do để xem Trung Quốc là nguồn gốc chính của chủ nghĩa bành trường cách
mạng. Mối quan hệ đối đầu này kéo dài cho đến cuối những năm 60 của thế kỷ XX.
Vào cuối những năm 60 của thế kỷ XX, lãnh đạo mới của Liên Xô bắt đầu có
những bài phát biểu cùng những động thái muốn được chung sống hòa bình giữa cộng
sản và tư bản, đây là điều Trung Quốc không thể chấp nhận vì nó ảnh hưởng trực tiếp
đến chính sách “nhất biển đảo” mà Trung Quốc theo đuổi từ khi thành lập nước. Các
biểu hiện không giữ đúng cam kết của Liên Xô khi năm lần bảy lượt không giúp
Trung Quốc phát triển vũ trí hạt nhân, từ chối hỗ trợ Trung Quốc trong cuộc tranh
chấp biên giới với Ấn Độ. Từ những điều trên, Trung Quốc có cơ sở tin rằng Liên Xô
không còn sẵn lòng giúp đỡ Trung Quốc và chắc chắn thái độ đối với Trung Quốc sẽ
là “sống chết mặc bay”. Chính vì vậy, giữa Trung Quốc và Liên Xô bắt đầu xảy ra
những mâu thuẫn, quan hệ đồng minh giữa hai nước dần trở nên rạn nứt và chuyển
sang thành quan hệ đối đầu. Cùng lúc đó, quan hệ Mỹ - Trung vẫn giậm chân tại chỗ,
không có bước tiến triển mới. Nhận thấy tình hình bất lợi về phía mình, Trung Quốc
thực hiện chiến lược “giương cung bắn cả hai phía”, tiến hành cuộc đấu tranh trên hai
mặt trận vừa chống đế quốc (Mỹ) vừa “chống xét” lại (Liên Xô). Chiến lược này
không những không giúp tình hình trong ngoài nước của Trung Quốc trở nên khả
quan hơn mà còn đẩy Trung Quốc rơi vào tình trạng cô lập trên vũ đài quốc tế. Phía
Mỹ vẫn tiếp tục thực hiện phong tỏa, bao vây và trực tiếp can thiệp vào Trung Quốc.
6
2. Giai đoạn hòa hoãn (1969 - 1989)
Trong những năm 1970-1971, cách mạng Việt Nam đã giành nhiều thắng lợi
trên chiến trường, gây khó khăn và tổn thất lớn cho quân đội của Mỹ. Để cứu vãn tình
hình cũng như danh dự trong cuộc chiến tranh xâm lược ở Việt Nam, Mỹ tiến hành
ngoại giao tay ba: Mỹ - Liên Xô - Trung Quốc nhằm gián tiếp kiềm chế, giữ chân
Liên Xô và Trung Quốc, không cho hai quốc gia này can thiệp vào cuộc chiến.
Trước khi bước chân vào Nhà Trắng, “Nixon tin rằng Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa là một quốc gia độc lập với những mục tiêu cứng nhắc nên không thể giao thiệp
với họ mà thành công trong việc cứu Việt Nam Cộng hòa, trừ khi tranh thủ những
người ủng hộ là Liên Xô và Trung Quốc, cùng với Mỹ gây sức ép”. Từ đó, Nixon đã
“xem thế tam giác của mối quan hệ Mỹ - Xô - Trung là con đường có thể để gây sức
ép đối với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”. Mỹ cũng tin rằng, bằng cách ngoại giao tay
ba này, qua đầu Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có thể trực tiếp đe dọa leo thang chiến
tranh ồ ạt đối với miền Bắc và đẩy mạnh những nỗ lực Việt Nam hóa chiến tranh.
Điều này sẽ đưa lại thành công cho Mỹ trong vấn đề Việt Nam. Mỹ cũng nhận thức
rằng, trong việc giúp Việt Nam kháng chiến, Liên Xô và Trung Quốc có thể sẽ tiếp
cận riêng với Mỹ. Tuy nhiên, trong những năm 1969 - 1970, cũng vì do chiến tranh
Việt Nam mà quan hệ giữa Liên Xô và Mỹ không được ổn định. Năm 1972, Nixon
muốn đẩy mạnh quan hệ với Liên Xô cùng lúc đó hòa hoãn với Trung Quốc. Liên Xô
cũng muốn tăng cường quan hệ với Mỹ để ngăn chặn Mỹ và Trung Quốc hòa hoãn
Đối với Trung Quốc, quan hệ Mỹ - Trung căng thẳng từ chiến tranh Triều Tiên.
Mỹ xâm lược Việt Nam, đưa chiến tranh đến sát biên giới Trung Quốc, uy hiếp an
ninh Trung Quốc từ phía Nam. Việt Nam là đồng minh thân thiết của Trung Quốc,
giúp Việt Nam không chỉ là nghĩa vụ của đồng minh phải làm mà còn là lợi ích của
7
chiến lược kiềm chế, ngăn chặn Mỹ, làm cho Mỹ suy yếu để có thể đảm bảo nền an
ninh của chính mình. Sau xung đột biên giới Trung - Xô (Tháng 3 - 1969). Trung
Năm 1969, Tân Tổng thống Mỹ Nixon công khai ngỏ ý muốn cải thiện quan hệ
với Trung Quốc nhằm tạo dựng liên minh đối kháng Liên Xô, Nixon nhận định rằng
“mở con đường với Trung Quốc, có thể lợi dụng mâu thuẫn Xô - Trung để làm suy
yếu Liên Xô, gây sức ép buộc Liên Xô phải giúp Mỹ thoát khỏi hoàn cảnh khó khăn
trong vấn đề Việt Nam và rút khỏi Đông Dương trong danh dự”. Nhưng chủ tịch Mao
Trạch Đông lại phớt lờ lời đề nghị này, vì nghĩ nếu chấp thuận hòa giải với Mỹ sẽ làm
ảnh hưởng xấu đến hình ảnh “Lãnh tụ phản đế” của mình. Sau khi bản tuyên bố chống
Mỹ ngày 20/5/1970 không gây ra ảnh hưởng gì, liên kết với Mỹ để chống Liên Xô
Có nhiều yếu tố khiến Trung Quốc phải cân nhắc lại mối quan hệ với Mỹ. Giới
lãnh đạo Trung quốc mong muốn Trung Quốc tạo nên một thế đối trọng trong mối
quan hệ Nga - Trung. Ngoài ra, lợi ích về thương mại của Mỹ cũng là một nhân tố
khác đưa Trung Quốc đến với quyết định tái thiết lập quan hệ ngoại giao với siêu
cường này. Chính vì vậy, Chủ tịch Trung Quốc Mao Trạch Đông đã triển khai “ngoại
giao bóng bàn”, dùng “quả cầu nhỏ” để kích đẩy “quả cầu lớn’ nhằm khơi thông kênh
đối thoại Trung - Mỹ. Lời mời gửi đến đội bóng bàn Mỹ vào tháng 04 năm 1971
chính là một động thái hòa hiếu hàm ý rằng Trung Quốc đã sẵn sàng giảm bớt những
căng thẳng giữa hai nước. Tháng 7 - 1971, Mỹ và Trung Quốc đã thống nhất những
nội dung sẽ đưa ra tại cuộc đàm phán cấp cao giữa hai nhà nước về các vấn đề: chính
sách đối với Đài Loan; Trung Quốc vào Liên hợp quốc; việc rút quân của Mỹ ra khỏi
cuộc chiến tranh Việt Nam. Sau đó chính thức vào tháng 2 - 1972, Tổng thống Mỹ
Richard Nixon đã có chuyến công du lịch sử đến Trung Quốc để mở đầu các trao đổi
8
về tái thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước. Hai bên đã ra Thông cáo chung
Thượng Hải nêu rõ các nội dung: Hai nước chấm dứt tình trạng thù địch; Mỹ công
nhận chính sách một nước Trung Quốc, thừa nhận Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là
đại diện duy nhất của Trung Quốc tại Liên Hợp Quốc, thay thế vị trí của Đài Loan;
Mỹ sẽ thiết lập cơ quan đại diện thương mại Mỹ để thúc đẩy quan hệ kinh tế – thương
mại Mỹ – Trung; Mỹ sẽ giảm dần việc rút quân và bán vũ khí cho Đài Loan. Ngoài ra,
trong đó còn có nội dung về việc Hoa Kỳ sẽ rút quân khỏi Đài Loan nếu Trung Quốc
có thể ép Hà Nội thỏa hiệp tạo điều kiện để Mỹ rút quân khỏi chiến tranh Việt Nam
trong danh dự. Thủ tướng Chu Ân Lai đã nói :“Mỹ không được thua ở Việt Nam và
không được rút khỏi Đông Nam Á”. Vậy là khoảng cách giữa Trung Quốc và Mỹ đã
được thu gần lại. Trung Quốc đã phá được thế cô lập trên vũ đài quốc tế, đối trọng với
Liên Xô, giải quyết được những yêu cầu cấp thiết cho sự nghiệp phát triển đất nước;
vừa phá thế bao vây cấm vận của Mỹ, vừa lấy lại được vị thế chính đáng trong Liên
hợp quốc, đồng thời cũng đặt được khuôn khổ đầu tiên cho quan hệ Mỹ - Trung.
Chuyến thăm của Nixon đã mở màn cho ngoại giao ba bên, tác động nhiều hướng đến
quan hệ quốc tế và quan hệ Xô - Mỹ, sự kiện này còn mở ra thời kì “hòa hoãn mới”
giữa Trung Quốc và Mỹ, mở ra một cánh cửa mới cho việc Mỹ công nhận và bình
thường hóa quan hệ với Trung Quốc. Điều này tạo ra bước ngoặt mới trong quan hệ
tay ba Mỹ - Trung - Xô trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh. Xét trong bối cảnh quan hệ
giữa các nước lớn và quan hệ quốc tế trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, chuyến thăm đã
giúp “phá băng” một cuộc “chiến tranh lạnh”. Đồng thời, Trung Quốc được thừa nhận
như một cực, một nước lãnh đạo của Thế giới thứ Ba. Thêm nữa, chuyến thăm này đặt
nền tảng cho việc bình thường hóa mối quan hệ giữa hai nước về sau, cũng như là một
bước đệm cho sự thành công của công cuộc cải cách và mở cửa sau này của Trung
Quốc.
9
Dù khoảng cách giữa Mỹ và Trung Quốc đã được thu gần lại nhưng phải đến
năm 1978 thì việc bình thường hóa quan hệ giữa Trung Quốc và Mỹ mới chính thức
được ký kết nhờ nghệ thuật ngoại giao của Đặng Tiểu Bình - Phó Thủ tướng Quốc vụ
viện Trung Quốc lúc bấy giờ. Tại Bắc Kinh ngày 16/12/1978 (tại New York là
15/12/1978), quan hệ ngoại giao Mỹ - Trung chính thức được công bố tại thủ đô của
mỗi nước.
Có thể nhận thấy rằng ngoại giao Trung Quốc 30 năm trước cải cách là một sự
lựa chọn rằng Trung Quốc sẽ theo phe của Liên Xô hoặc Mỹ. Thời điểm đó Trung
Quốc chưa đủ mạnh để tự phát triển bằng tiềm lực của chính mình. Chính vì vậy nên
khi Liên Xô hoặc Mỹ có biểu hiện bất ổn, không thể tiếp tục bảo trợ, hỗ trợ cho Trung
Quốc thì Trung Quốc lại bắt đầu hoang mang, thay đổi chính sách với một trong hai
bên hoặc nghi ngờ với cả hai bên, không ủng hộ bên nào dẫn đến hệ quả bị cô lập trên
hệ thống quốc tế. Nhưng chính sách cải cách của Trung Quốc đã đưa Trung Quốc
Tại Trung Quốc, sau Hội nghị TW 3 khóa XI (1978), Trung Quốc tiến vào giai
đoạn lịch sử mới, tiến hành “cải cách và mở cửa” nhằm thực hiện thành công 4 hiện
đại hóa đất nước. Từ đây, chiến lược ngoại giao của Trung Quốc được điều chỉnh
thành “hòa bình, độc lập, tự chủ” cùng với đó là “kiên định chính sách mở cửa với
Tháng 1 - 1977, lãnh đạo đảng Dân chủ Jimmy Carter được bầu làm Tổng thống
thứ 39 của Mỹ. Lúc này tình hình đấu tranh để tranh giành quyền lãnh đạo thế giới
giữa Mỹ và Liên Xô diễn ra ngày càng ác liệt, trong khi đó Đại cách mạng văn hóa vô
sản ở Trung Quốc đã kết thúc. Trung Quốc bắt đầu cuộc trường chinh mới nhằm xây
dựng đất nước theo hướng hiện đại hoá. Một số thương nhân Mỹ đã chú ý tới thị
trường khổng lồ, chưa được khai phá là Trung Quốc nên họ đã đệ đơn lên Tổng
10
Thống Carter, yêu cầu bình thường hóa quan hệ Mỹ - Trung. Xuất phát từ lợi ích
chiến lược chống Liên Xô và nhu cầu lợi ích kinh tế, Tổng Thống Mỹ đã quyết định
cải thiện quan hệ giữa hai nước Mỹ - Trung. Ngày 22/8/1977, Carter đã cử Quốc vụ
khanh Vans thăm Trung Quốc và đưa ra bản dự thảo về những điều kiện để thiết lập
quan hệ giữa Mỹ và Trung Quốc. Ngày 24/8, trong cuộc Đặng Tiểu Bình lúc đó đã
đưa ra ba nguyên tắc thiết lập quan hệ ngoại giao Trung - Mỹ đó là: Mỹ phải cắt đứt
quan hệ ngoại giao với Đài Loan; huỷ bỏ “Hiệp ước phòng vệ chung Mỹ - Tưởng”,
rút quân đội Mỹ đóng tại Đài Loan. Đây là những nguyên tắc chỉ đạo xuyên suốt quá
trình thiết lập quan hệ ngoại giao Trung - Mỹ của Trung Quốc. Do có sự bất đồng sâu
sắc về dự thảo lập quan hệ ngoại giao, nên hai bên chưa đạt được hiệp định. Tuy
chuyến thăm Trung Quốc lần này không thành công, nhưng đã giúp chính phủ Mỹ
hiểu rõ hơn lập trường của Trung Quốc trong thiết lập quan hệ với Mỹ.
Dưới sự lãnh đạo của Đặng Tiểu Bình, Trung Quốc đã xác định rõ lấy xây dựng
kinh thế làm quốc sách cơ bản. Chính sách đối nội, đối ngoại của Trung Quốc đã có
sự điều chỉnh lớn. Về đối nội lấy xây dựng kinh tế làm trung tâm, lấy tăng cường sức
mạnh quốc gia, xây dựng hiện đại hoá xã hội chủ nghĩa hưng thịnh đất nước làm mục
tiêu. Về chính sách đối ngoại, Trung Quốc chủ trương mở rộng cửa ra bên ngoài,
bước ra thế giới, tăng cường trao đổi với các nước trên thế giới trong các lĩnh vực
chính trị, kinh tế. Trong khi tranh chấp và mâu thuẫn giữa Mỹ và Trung Quốc vẫn còn
gay gắt trong nhiều vấn đề quốc tế và song phương, nhưng nhận thấy những thay đổi
trước tình hình quốc tế và khu vực nên Mỹ đã có những điều chỉnh chính sách đối với
Trung Quốc, nhằm giành vị trí có lợi hơn trong tranh giành với Liên Xô, đồng thời
tranh thủ thị trường tiềm năng to lớn Trung Quốc. Phía Trung Quốc thấy cần phải
thiết lập quan hệ ngoại giao bình thường với Mỹ, tận dụng những lợi thế của Mỹ về
khoa học kỹ thuật, vốn, thị trường,...để phát triển kinh tế.
11
Tháng 5/1978, Tổng thống Mỹ Carter đã cử cố vấn an ninh quốc gia Brzezinski
bí mật sang thăm Trung Quốc, với hy vọng chuyến thăm Trung Quốc lần này sẽ đạt
được nhiều nội dung thực chất về cải thiện quan hệ Trung - Mỹ. Brzezinski chuyển tới
Đặng Tiểu Bình chỉ thị của Tổng thống Carter: Mỹ chấp nhận ba điều kiện cơ bản về
bình thường hóa quan hệ của Trung Quốc. Mỹ mong muốn bình thường hóa quan hệ
Mỹ - Trung, đồng thời tìm biện pháp thúc đẩy việc thực hiện bình thường hóa quan
hệ.
Ngày 28/1/1979, Đặng Tiểu Bình đã cùng phu nhân bắt đầu hành trình thăm
Mỹ. Trước đó, ngày 5/1, khi tiếp các nhà báo Mỹ đến thăm Trung Quốc, phóng viên
một tờ báo Mỹ hỏi Đặng Tiểu Bình có kỳ vọng gì vào chuyến thăm này? Đặng trả lời:
chuyến thăm Mỹ lần này là niềm hy vọng 9 năm. mục đích là hiểu biết Mỹ, học tập
những thứ tiến bộ của Mỹ, trao đổi ý kiến về các vấn đề chúng tôi quan tâm với các
nhà chính trị Mỹ, đặc biệt là Tổng thống Carter. Ngày 25/1, trả lời phỏng vấn của
phóng viên Đài truyền hình Trung ương Trung Quốc, Tổng thống Carter nói rằng,
chuyến thăm hữu nghị chính thức của Đặng Tiểu Bình tới Mỹ sẽ thể hiện rõ với toàn
thế giới tình hữu nghị giữa hai nước Trung Quốc và Mỹ cũng như giữa nhân dân hai
nước.
Từ giữa những năm 1980, Trung Quốc thi hành chính sách ngoại giao “toàn
phương vị”, cân bằng hơn trong quan hệ với Mỹ và Liên Xô. Trung Quốc nhận thấy
việc nghiêng về hẳn phía Mỹ sau một thời gian đã không đem lại nhiều kết quả trong
khi đó nếu bình thường hóa quan hệ với Liên Xô có thể sẽ thu được những lợi ích to
lớn không chỉ về an ninh, kinh tế mà cả về chiến lược. Mặt khác sự thay đổi tình hình
nội bộ ở Liên Xô từ sau năm 1985 với việc Gorbachev lên nắm quyền, tiến hành cải
tổ và mong muốn bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc đã tạo điều kiện thuận lợi
12
Tuy nhiên cũng phải thấy rằng, do nhu cầu thực hiện công cuộc “bốn hiện đại
hoá”, Trung Quốc rất cần vốn, công nghệ và kỹ thuật cao của phương Tây, đặc biệt là
từ Mỹ. Vì vậy, Trung Quốc vẫn duy trì quan hệ hợp tác với Mỹ, quan hệ Trung - Mỹ
tiếp tục được phát triển, nhất là sau khi Bush (cha) trúng cử Tổng thống Reagan vào
năm 1988 (Bush cha trước đây đã làm Trưởng văn phòng đại diện của Mỹ ở Bắc
Kinh). Tuy nhiên, mối quan hệ này hoàn toàn đổ vỡ sau sự kiện Thiên An Môn tháng
6 - 1989. Sau sự kiện này, Mỹ thi hành chính sách bao vây, cấm vận đối với Trung
Quốc, khiến cho quan hệ giữa hai nước trở nên căng thẳng. Nhưng sau 10 năm tiến
hành cải cách mở cửa, sức mạnh của Trung Quốc đã không ngừng tăng lên, điều này
cũng đã gây lo ngại cho Mỹ về nhiều mặt từ chính trị, kinh tế đến an ninh quốc
phòng…
Có thể thấy rằng, chính sách của Mỹ đối với Trung Quốc cũng như chính sách
Trung Quốc và Mỹ chỉ hợp tác với nhau khi cùng hướng tới một kẻ thù chung là Liên
Xô. Trung Quốc nhận thấy Mỹ chỉ xem Trung Quốc là con bài trong quan hệ đối
trọng với Liên Xô, trong khi Mỹ vẫn coi trọng quan hệ với Liên Xô. Mỹ cũng nhận
thấy Trung Quốc chỉ muốn lợi dụng Mỹ trong quan hệ đối trọng với Liên Xô và vấn
đề lợi dụng kỹ thuật, công nghệ, thị trường..của Mỹ Chính vì vậy khi Liên Xô tan rã,
mối quan hệ này trở nên mất ổn định. Mâu thuẫn giữa hai nước lại nổi lên với những
vấn đề cố hữu như vấn đề Đài Loan, vấn đề dân chủ, nhân quyền,..đặc biệt là cả hai
nước Trung Quốc và Mỹ đều muốn tranh giành và mở rộng ảnh hưởng của mình tại
III. TÁC ĐỘNG CỦA CHIẾN TRANH LẠNH ĐẾN BỐI CẢNH CHUNG
Sự chấm dứt Chiến tranh Lạnh là một trong những sự kiện dẫn tới những thay
đổi lớn trong thế kỷ 20. Nó cũng tương đương với Chiến tranh thế giới lần thứ II nếu
13
xét về tác động đối với cấu trúc của hệ thống quốc tế, nhưng lại diễn ra mà không có
chiến tranh. Với “cực” Liên Xô tan rã, hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới không còn
tồn tại và trật tự thế giới hai cực Ianta sụp đổ. Thế “hai cực” của hai siêu cường không
còn nữa và Mỹ là “cực” duy nhất còn lại. Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, thế giới
luôn ở trong tình trạng căng thẳng. Từ sau năm 1991, xu thế thế giới có những thay
đổi lớn. Một là, trật tự thế giới “hai cực” đã sụp đổ nhưng trật tự thế giới “đa cực”
đang dần được hình thành, với sự vươn lên của các cường quốc như Mỹ, Liên minh
châu Âu, Nhật Bản, Liên bang Nga, Trung Quốc. Hai là, sau Chiến tranh lạnh hầu
như các quốc gia đều điều chỉnh chiến lược phát triển, tập trung cải thiện phát triển
kinh tế để xây dựng sức mạnh thật sự của một quốc gia. Ba là, sự tan rã của Liên Xô
đã tạo cho Mỹ một lợi thế tạm thời, Mỹ tham vọng làm bá chủ thế giới nhưng không
dễ gì thực hiện tham vọng đó. Bốn là, sau Chiến tranh Lạnh tình hình hòa bình thế
giới ổn định. Tuy nhiên ở một số khu vực vẫn còn xảy ra nội chiến, xung đột quân sự
Tóm lại, mối quan hệ Trung - Mỹ trong thời kỳ chiến tranh lạnh đã chịu sự tác
động của nhiều nhân tố: bối cảnh và trào lưu trên thế giới và khu vực, nhân tố nội bộ
từng nước, đặc biệt là sự tác động của cục diện thế giới 2 cực Xô - Mỹ… Nhưng xét
cho đến cùng, lợi ích chiến lược của mỗi bên là nhân tố chính chi phối quan hệ giữa
hai nước, khiến cho mối quan hệ giữa hai nước, khiến cho mối quan hệ giữa Trung
Quốc và Mỹ lúc lên lúc xuống, trải qua nhiều thăng trầm.
14
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1,TS. Lê Văn Mỹ, Viện Nghiên cứu Trung Quốc, Những chiến lược và chính sách
ngoại giao của Trung Quốc đối với Mỹ, truy cập ngày 14/9/2020
http://www.vnics.org.vn/Default.aspx?ctl=Introduce&aID=338
2. Yafeng Xia (2006), “China’s Elite Politics and Sino-American Rapprochement,
January 1969–February 1972”, Journal of Cold War Studies, Vol. 8, No. 4, Fall 2006,
pp. 3–28
3. Xiaoming Zhang (2010). “Deng Xiaoping and China’s Decision to go to War with
Vietnam”, Journal of Cold War Studies, Volume 12, Number 3 (Summer), pp. 3-29
4. Bùi Thị Thuỳ Linh, Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Chính sách của Hoa Kỳ đối với
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa trong cuộc chiến tranh Triều Tiên (1950 – 1953), truy
cập ngày 18/9/2020
https://tailieu.vn/doc/luan-van-thac-si-lich-su-chinh-sach-cua-hoa-ky-doi-voi-cong-
hoa-nhan-dan-trung-hoa-trong-cuoc-chien-1878434.html
5. “U.S. table tennis team visits communist China“, History.com, truy cập ngày
15/9/2020
6. Jung Chang & Jon Halliday, Đằng sau chuyến thăm Trung Quốc của Nixon, tuy
cập ngày 15/9/2020
https://nghiencuuquocte.org/2017/01/03/dang-sau-chuyen-tham-trung-quoc-cua-
nixon/
7. Hoàng Anh Tuấn, Ý nghĩa lịch sử chuyến thăm Trung Quốc của TT Nixon, truy
cập ngày 19/9/2020
https://nghiencuuquocte.org/2015/02/21/y-nghia-lich-su-chuyen-tham-trung-quoc-
cua-tt-nixon/
8. Medeiros, Evan S. & M. Taylor Fravel[1] (2003). “China’s New
Diplomacy”, Foreign Affairs (November-December), pp. 22-35.
15
16