Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 45

I.

TÁC GIẢ
1. Cuộc đời và con người

Nguyễn Bính sinh 1918- Nửa đầu thế kỉ - tại Nam Định. Cha Nguyễn Bính tên là
Nguyễn Đạo Bình, làm nghề dạy học, còn mẹ ông là bà Bùi Thị Miện, con gái một gia
đình khá giả. Sinh ra và lớn lên trong một vùng đất giàu văn hóa cùng với gia đình căn
bản có vốn tri thức lớn, ông bén duyên với thơ ca từ rất nhỏ và bộc lộ tài năng từ sớm.

Trớ trêu thay, chỉ sau 3 tháng ra đời, bà Miện bị rắn độc cắn rồi mất. Có lẽ vì ra đi
quá sớm của mẹ đã là định mệnh buồn đau nhất đời Nguyễn Bính (3 tháng tuổi, nào đã
biết gì). Chính định mệnh khủng khiếp ấy đã tạo tác một Nguyễn Bính chan chứa bản
năng thi nhân, như thể bị/được “giời đày làm thơ”. Bởi vậy, không những Nguyễn Bính
tự mình vào đời thi sĩ từ rất sớm mà còn với tâm hồn nhạy cảm, nỗi buồn thương đẫm
đầy về số kiếp đàn bà Việt, thường là bạc phận.

Nguyễn Bính là một thi sĩ “giang hồ” từng dạo khắp đó đây trên cả nước, lập
nghiệp văn chương cả ở hai miền Nam – Bắc (đã từng tham gia kháng chiến chống Pháp
ở Nam Bộ, 1954 tập kết ra Bắc, tham gia công tác văn nghệ và làm báo ). Cuộc đời ông là
sự long đong, đi khắp nơi, nay đây mai đó, bất định và nghèo khổ.

Cuộc đời nhà thơ là hòa quyện một cách lạ lùng của sự gian truân, cơ cực và mang
đậ mhuyền thoại với bốn vợ, bốn con và cái chết trong gió rét, cô đơn ở tuổi 48.

Nguyễn Bính là một người thông minh, nhạy cảm với thời đại đầy biến động, luôn
muốn bảo tồn và duy trì những giá trị truyền thống của dân tộc.

2. Sự nghiệp sáng tác


Nguyễn Bính có 40 năm sáng tác văn học, thể loại chính của ông là mảng thơ ca.
Riêng về thơ có thể nói rằng ông là cây bút sung sức của phong trào Thơ Mới.
Chỉ trong một thời gian ngắn (1940-1945) Nguyễn Bính đã cho ra đời những tập
thơ có giá trị : Tâm hồn tôi (1940) ; Lỡ bước sang ngang (1940) ; Hương cố nhân (1941) ;
Một nghìn cửa sổ (1941) ; Người con gái ở lầu hoa (1942) ; Mười hai bến nước
(1942) ; Mây tần (1942) ; Bóng giai nhân (Kịch thơ – 1942) ; Truyện tỳ bà
(truyện thơ – 1944).
Sau cách mạng tháng 8, Nguyễn Bính lại cho ra mắt các tập thơ : Ông lão mài
gươm (1947) ; Đồng tháp mười (1955) ; Trả ta về (1955) ; Gửi người vợ miền Nam

1
(1955) ; Trông bóng cờ bay (1957) ; Tiếng trống đêm xuân (1958) ; Tình nghĩa đôi ta
(1960) ; Đêm sao sáng (1962).
Nhìn chung cuộc đời Nguyễn Bính tuy ngắn ngủi nhưng sự nghiệp sáng tác của
Nguyễn Bính rất phong phú và đa dạng. Mỗi chặng đường sáng tác của ông đều có vẻ
riêng song sức mạnh và tâm huyết sáng tác của nhà thơ có lẽ dồn vào giai đoạn trước
cách mạng.
3. Đặc điểm phong cách nghệ thuật thơ Nguyễn Bính trước CMTT.
3.1 Sự giao thoa giữa truyền thống và hiện đại (Điểm tiếp xúc giữa hai nền văn hóa
phương Đông và phương Tây)

3.1.1 Lý giải hình thành

Trước CMTT, Nguyễn Bính là một trong những cây bút tiêu biểu trong cuộc cách
mạng thơ ca những năm 1932- 1945. Tại thời gian này, Văn hóa phương Tây theo chân
thực dân Pháp từng bước thấm nhập vào mọi bình diện của đời sống, làm thay đổi cấu
trúc xã hội đồng thời thúc đẩy tiến trình hiện đại hóa văn học. Kết quả là sự hình thành và
phát triển của phong trào thơ mới song hành quá trình gặp gỡ giữa văn hóa-xã hội Việt
Nam truyền thống, đậm màu sắc phương Đông với những sắc thái mới, hiện đại đến từ
phương Tây.

Đó là một cuộc biến thiên tầm cỡ, và như vậy bao giờ cũng vừa là một cơn bão tàn
phá vừa là một cơn trở dạ của lịch sử. Nghĩa là bao giờ cũng có hai mặt biện chứng: huỷ
diệt và sinh thành. Sức mạnh phá hoại sẽ phá vỡ và phế bỏ nhiều cái cũ, mặt khác cũng
nhân đó mà nhiều cái mới nảy nở sinh sôi. Phá huỷ dọn đường cho sinh thành, sinh thành
biện minh cho huỷ diệt. Nó chi phối thực tại đời sống như một qui luật không thể cưỡng
được. Tất cả đều bị cuốn vào quĩ đạo vừa vô hình vừa hữu hình của nó. Cuộc biến thiên
đó muốn đập vỡ một thế giới cũ để cho một thế giới mới ra đời. Nên điều thật khó tránh
là, trong những cái bị tàn phá một cách say sưa, sẽ lẫn vào không ít những giá trị thiêng
liêng thuộc vào hàng bảo vật của giống nòi.

Không chỉ trên qui mô toàn xã hội, mà ngay trong mỗi một con người cũng đương diễn ra
một cuộc biến thiên ngấm ngầm: con người mới đang đòi phải phế bỏ con người cũ. Mà
chia lìa con người cũ bao giờ cũng đau đớn. Bởi thế trong xã hội cũng như trong mỗi cá
thể, đều hình thành hai thế lực: cách tân và bảo thủ, hai ham muốn: một đằng quyết giành
quyền sống một đằng quyết giữ quyền sống . Tương ứng với nó là hai thái độ, hai tâm thế

2
thời đại: háo hức cái mới và lưu luyến cái cũ. Trong cái háo hức, bên cạnh sự táo bạo
nhạy bén, có cả những nôn nóng vội vàng. Trong niềm lưu luyến, song hành với thái độ
thủ cựu khư khư ôm lấy những phản giá trị đã cổ hủ, lỗi thời, kệch cỡm, là nỗi thiết tha
đến day dứt khắc khoải trước những giá trị có nguy cơ bị phá phách, tiêu huỷ, biến suy.

Nguyễn Bính là một bản thể của thời đại biến thiên, chịu sự chi phối, kéo giãn, biến động
của vòng xoáy biến thiên của thời đại (xét theo cả khía cạnh đời sống lẫn đời thơ). Bởi
thế mà sinh ra cuộc tình đương dang dở giữa Đô thị và thôn quê, chạy theo sự cưu mang
của từng phía, nhưng cả hai đều chối bỏ, mỗi bên phụ phàng theo một cách riêng. Đích
đến của một “tiểu nông” truyền thống đất Việt hay anh chàng chí khí Nho đạo không còn
chỗ đứng, tại thời điểm nghệ thuật thẩm mỹ lên ngôi, họ đành chạy theo chốn mới mà
ngao du giang hồ tìm kiếm một “gien” thi sĩ lãng tử, một thứ vốn không thuộc về bản
chát thuần phác của hai lứa đối tượng trên. Vốn là thân phận chất xưa lại cải cách đột
ngột, thì hành trình ấy mỗi bước lênh đênh là một bước long đong. Đó là một bi kịch. Bi
kịch loay hoay, tò vò không lối thoát khi không còn đường về chốn cũ dẫu còn vấn
vương, nỗi bất an mất đi giá trị xưa cũ giữa sự hòa nhập, cưỡng cầu thu nhận theo thời
đại về một nét mới trong tâm tưởng, một cuộc cải cách từ con người đến nghệ thuật. Một
nỗi day dứt “Mới không được, cũ chẳng xong”. Nguyễn Bính là tiếng lòng héo hắt của
cuộc biến thiên kia.

Và cứ như thế, hình thành một Nguyễn Bính - con đẻ của cuộc hôn nhân đầy lỡ dở giữa
nền văn minh đô thị hiện đại với văn minh thôn dã cổ truyền. Khác xa với những cái tôi
thuần đô thị, Nguyễn Bính là cái tôi - phản - đô - thị. Lúc nào cũng mang nặng mối “sầu
đô thị”. Cứ tưởng Nguyễn Bính chỉ là đứa con ra đời từ cuộc hôn phối giữa làn mưa xuân
trong lành với giậu mồng tơi dân dã. Nào ngờ lẫn trong làn mưa kia có chút bụi kinh
thành. Cái chút bụi mơ hồ đã âm thầm lớn lên thành ý hướng giang hồ.(Sự pha trộn,hòa
hợp giữa cũ và mới)

3.1.2 Thể thơ lục bát dân gian theo phong cách riêng

Không thể phủ nhận ảnh hưởng của thể lục bát trong ca dao đến lục bát của Nguyễn
Bính. Sinh ra và lớn lên vào giai đoạn Nho học đã bước vào tàn cục, từ nhỏ, Nguyễn
Bính đã không được đến trường mà chỉ ở nhà học với cha là ông đồ Nguyễn Đạo Bình,
sau được cậu ruột là ông Bùi Trình Khiêm nuôi dạy. Không gian sống từ bé của Nguyễn

3
Bính là không gian của làng quê Vụ Bản, Nam Định. Đến năm 13 tuổi, Nguyễn Bính
được trao giải nhất trong cuộc thi hát trống quân đầu xuân ở hội làng với bài thơ:

“… Anh đố em này:

Làng ta chưa vợ mấy người ?

Chưa chồng mấy ả, em thời biết không

Đố ai đi khắp tây đông,

Làm sao kiếm nổi tấm chồng như chúng anh đây?

Làm sao như rượu mới say,

Như giăng mới mọc, như cây mới trồng ?

Làm sao như vợ như chồng ?

Làm sao cho thỏa má hồng răng đen

Làm sao cho tỏ hơi đèn ?

Làm sao cho bút gần nghiên suốt đời ?

Làm sao? Anh khen em tài ?

Làm sao? Em đáp một lời làm sao… ?”

Ngay từ lúc này, tài năng thơ của Nguyễn Bính đã được bộc lộ, đặc biệt là tài năng lục
bát. Sống ở làng quê, lục bát vốn đã là “món ăn tinh thần” cho cậu trai Nguyễn Bính.
Chính vì tiếp xúc với lục bát từ khi còn nhỏ, lại thể hiện rõ khả năng thiên phú trong việc
sáng tác thể thơ này, Nguyễn Bính và lục bát tựa như một mối lương duyên, mà ở đó, nhờ
lục bát, Nguyễn Bính được tha hồ thử nghiệm và biểu lộ cảm xúc mình, còn lục bát, nhờ
Nguyễn Bính, mà được cách tân mới mẻ hơn so với lục bát cổ truyện.

Nhưng dù có sáng tạo, cách tân, thì vẫn có những yếu tố thuộc về tư duy lục bát cổ truyền
tác động đến hồn thơ Nguyễn Bính. Nguyễn Bính viết tổng cộng 133 bài lục bát, và luôn

4
dùng thể thơ lục bát để khắc họa cảnh quê hương và kể chuyện. Thi pháp ca dao người
Việt đã được Nguyễn Bính kế thừa và sáng tạo như sau:

 Nhịp thơ – Giai điệu riêng của nhân vật trữ tình

Nhắc đến thơ là nhắc đến nhịp điệu. Trong nghĩa rộng nhất ngày nay, thơ có thể không
cần hiệp vần chặt chẽ, nhưng chắc chắn phải chứa trong đó nhịp điệu. Nếu thể lục bát cổ
truyền thường được biết đến với các nhịp chẵn như 2/2/2, 4/4, đôi khi là 2/2/4, thì ở trong
thơ lục bát của Nguyễn Bính, người đọc lại bắt gặp những câu thơ mang nhịp điệu khác
thường.

Trong bài thơ Thời trước, Nguyễn Bính đã mượn lời người vợ trẻ có chồng đi thi để viết:

“Chồng tôi thi đỗ khoa này

Bõ công đèn sách từ ngày lấy tôi

Kẻo không rồi chúng bạn cười

Rằng tôi nhan sắc cho người say sưa”

Trong đó, ở cặp lục bát sau, người viết ngắt nhịp như dưới đây:

“Kẻo không / rồi / chúng bạn cười

Rằng / tôi nhan sắc / cho người say sưa”

Đây là một trường hợp đặc biệt trong thơ Nguyễn Bính với cách ngắt nhịp 2/1/3 và 1/3/4.
Cách ngắt nhịp lẻ này mang lại giai điệu hoàn toàn mới mẻ cho cảm xúc thơ, cũng đưa
điệu nói trong thơ đến gần hơi với lời đối thoại thường ngày, nhưng vẫn giữ nguyên được
tính nhịp nhàng của thơ ca. Cách ngắt nhịp này cũng khiến cho người đọc cảm nhận rõ
hơn ý tứ, thậm chí có chút tự kiêu, của người vợ trẻ xinh đẹp mới có chồng đỗ đạt. Nhân
vật trữ tình này cũng thể hiện cảm xúc và nhận thức về giá trị bản thân rất rõ ràng qua hai
câu ngay sau:

“Tôi hằng khuyên sớm khuyên trưa

‘Anh chưa thi đỗ thì chưa động phòng”

5
Hay như trong bài thơ Người hàng xóm, Nguyễn Bính cũng đưa vào những câu thơ ngắt
nhịp lẻ mang nặng sắc thái đối thoại:

“Cái gì như thể nhớ mong?

Nhớ nàng? Không! Quyết là không nhớ nàng!”

Câu thơ “Nhớ nàng? Không! Quyết là không nhớ nàng!” được ngắt nhịp 2/1/5, vừa dứt
khoát, nhưng lại vừa mang lại nỗi buồn, niềm nhớ mênh mang, bởi dù nhịp lẻ, dù dứt
khoát, song lại có đến 5/8 thanh bằng xuất hiện trong câu thơ, tạo cảm giác dù nhân vật
trữ tình nói “Không nhớ” đấy, nhưng tình cảm thì lại dịu dàng và vẫn nhung nhớ người
thương. Dù cách ngắt nhịp này rất mới và thể hiện sáng tạo về luật thơ của Nguyễn Bính,
song đây cũng là một minh chứng cho thấy, với thể thơ lục bát, dù có cố gắng đến mấy
thì người viết cũng không thể tạo ra được hiệu ứng âm hanh rắn rỏi, sắt đá, quyết tuyệt
được, bởi đặc trưng của lục bát là cách sử dụng thanh bằng và hiệp vần bằng. Chính vì
thế, với những câu thơ muốn tỏ ý muốn dứt khoát, Nguyễn Bính chỉ có thể chọn biến đổi
nhịp thơ.

Sắc thái đối thoại của lục bát Nguyễn Bính cũng được thể hiện rất rõ ở những câu thơ
ngắt nhịp 3/5 trong Lỡ bước sang ngang:

“Mẹ ngồi bên cửi xe tơ

Thời thường nhắc: – Chị mày giờ ra sao?”

Cũng trong Lỡ bước sang ngang, nhịp thơ 3/5 không chỉ được dùng để ngắt nhịp câu
thoại, mà còn được Nguyễn Bính sử dụng như một cách để bẻ ngang câu thơ, đem lại sự
đứt gãy về mặt cảm xúc. Đó là khi nhà thơ muốn thể hiện một điềm báo hoặc một sự cố
bất ngờ, tác động trực tiếp đến cuộc đời nhân vật:

“Tuổi son nhạt thắm phai đào

Đầy thuyền hận, có biết bao nhiêu người!”

Và:

“Nhưng em ơi! Một đêm hè

Hoa xoan nở, xác con ve hoàn hồn”

6
Như vậy, chỉ riêng trong bài thơ Lỡ bước sang ngang, nhịp lẻ 3/5 mà Nguyễn Bính sử
dụng vừa có thể khắc họa hội thoại, lại vừa đóng vai trò như dấu hiệu dẫn tới biến cố
cuộc đời nhân vật, cũng là một mạch ngừng đầy bất ngờ cho chính độc giả khi đọc thơ.
Chính cách tân táo bạo này của nhà thơ đã tạo nên một bức tường ngăn cách giữa lục bát
Nguyễn Bính và lục bát ca dao, khiến cho phong vị ca dao có thể đi vào thơ Nguyễn
Bính, nhưng thơ Nguyễn Bính lại khó có thể trở thành ca dao.

Với lối ngắt nhịp linh hoạt phá cách không tuân theo những quy tắc truyền thống mà tuân
theo tần số dao động của tình cảm, Nguyễn Bính đã tạo cho thơ lục bát của ông những
dấu ấn riêng độc đáo khác với ca dao, đem lại những xúc cảm mới mẻ cho người đọc.

Việc biến đổi nhịp thơ đối với Nguyễn Bính thực chất không phải những hành động vô
tình. Trên thực tế, Nguyễn Bính biến đổi nhịp thơ rất nhiều, và mỗi lần biến đổi nhịp thơ
đều mang lại hiệu ứng khác nhau trong biểu đạt và khơi gợi cảm xúc.

 Gieo vần – Âm thanh riêng của cảm xúc

Ngoài phá cách ở nhịp thơ, Nguyễn Bính cũng không hoàn toàn tuân thủ theo luật gieo
vần của thể thơ lục bát. Thơ ông thường có sự đan xen giữa gieo vần và không gieo vần:

“Chị tôi nước mắt đầm đìa

Chào hai họ để đi về nhà ai

Mẹ trông theo, mẹ thở dài

Dây pháo đỏ bỗng vang trời nổ ran

Tôi ra đứng tận đầu làng

Ngùi trông theo chị khuất ngàn dâu thưa…”

(Lỡ bước sang ngang)

Trong trường hợp này hai câu đầu, Nguyễn Bính gieo vẫn dựa trên sự gần âm của “đìa”
và “đi”; còn trong hay câu tiếp theo, giữa “dài” và “trời” lại không hề hợp vần với nhau.
Tuy nhiên, dù không có được sự chặt chẽ trong hợp vần, song việc sử dụng thanh bằng
vẫn được Nguyễn Bính tuân thủ triệt để.

7
Trong một trường hợp khác, Nguyễn Bính hoàn toàn không gieo vần tiếng thứ sáu của
câu sáu với tiếng thứ sáu của câu tám, hoặc với tiếng thứ tư của câu tám như truyền thống
ca dao. Thay vào đó, ông gieo vần ở tiếng thứ ba của câu tám:

“Phường chèo đóng ‘Nhị độ mai’

Sao em lại đứng với người đi xem?”

Hai câu thơ này cũng đặc biệt ở chỗ dù có hiệp vần với nhau, nhưng thanh điệu lại có sự
khác biệt: “mai” – thanh không (bằng) và “lại” thanh nặng (trắc). Nhưng dù không có sự
đồng nhất trong thanh điệu, song thơ Nguyễn Bính vẫn có được cái tình, bởi xét đến
cùng, thơ là tiếng nói của cảm xúc, và đối với Nguyễn Bính, cảm xúc dẫn dắt từ ngữ để
thành lời thơ. Thơ ông vì thế mà trọng nhịp điệu hơn vần điệu, trọng lối nói, kể hơn là tả.
Cũng chính vì tự do trong vần điệu, nên cảm xúc trong lục bát của Nguyễn Bính được
tuôn chảy một cách tự nhiên, không bó buộc.

Bên cạnh đó, khuôn khổ của mỗi câu ca dao hay mỗi bài ca dao cổ truyền thường bắt đầu
từ hai câu và có thể kéo dài đến vô tận. Tuy nhiên, Nguyễn Bính đã có sự kế thừa và sáng
tạo khi ông tách khổ bốn câu, tách đoạn cho các bài thơ của mình. Chính sự tách khổ,
tách đoạn này khiến cho đôi khi, các câu thơ ở khác đoạn không nhất thiết phải hợp vần
với nhau. Điều này cũng được thể hiện rõ trong Lỡ bước sang ngang và trong nhiều bài
thơ lẻ khác của Nguyễn Bính.

Nhìn chung, vần điệu trong thơ lục bát của Nguyễn Bính không hoàn toàn là dấu hiệu của
thể thơ, mà còn là dấu hiệu tuôn trào của cảm xúc, của lời tự sự mà nhân vật trữ tình
muốn gửi gắm đến người đọc. Về cơ bản, Nguyễn Bính vẫn đi theo cách gieo vần truyền
thống của lục bát ca dao, song lại phát triển cách gieo vần gần âm và đảo trật tự gieo vần,
nhằm phục vụ triệt để cho mục đích kể chuyện hoặc tâm tình của nhân vật trữ tình.

 Hoài niệm ca dao cổ truyền trong thơ lục bát của Nguyễn Bính

Nếu nhìn nhận ở khía cạnh hình ảnh, biểu tượng, có thể thấy rằng thơ Nguyễn Bính tràn
ngập khung cảnh làng quê, biểu tượng quê, con người quê. Nhưng nếu xét đến các yếu tố
thuộc về thể thơ, lục bát của Nguyễn Bính lại có sự khác biệt nhất định với lục bát ca dao
cổ truyền. Trong lục bát Nguyễn Bính, những yếu tố thuộc vể thể lục bát cổ truyền chỉ
còn lại trong hoài niệm, được ông vận dụng tinh tế, khiến cho thơ ông vẫn phảng phất

8
được phong vị của thi ca xưa. Hoài niệm về ca dao cổ truyền ấy được thể hiện ở ba khía
cạnh trong thơ Nguyễn Bính: Công thức mở đầu, sóng đôi và đối ngẫu.
Công thức mở đầu

Ca dao Việt Nam có rất nhiều câu ca được mở đầu bằng công thức như “Chiều chiều…”,
“Thân em như…”, “Ai đem/ ai làm/ ai mang…”, “Vắng em/ Xa em…”,… Chẳng hạn
như:

“Thân em như hạt mưa sa


Hạt vào đài các hạt ra ruộng cày”

Hoặc:

“Ai đem con sáo sang sông


Để cho con sáo xổ lồng nó bay”
Hay:
“Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều”

Nếu trong ca dao, những cụm từ trên thường được người nữ dùng để bắt đầu cho một lời
than thân trách phận, thì với thơ Nguyễn Bính, ông lại để cho người nam sử dụng để bộc
bạch nỗi lòng, và thậm chí còn đảo cả trật tự từ:
“Năm xưa chở chiếc thuyền này,
Cho cô sang bãi tước đay chiều chiều.
Để tôi mơ mãi, mơ nhiều:
Tước đay se võng nhuộm điều ta đi”
(Giấc mơ anh lái đò)

Giờ đây, “chiều chiều” không còn là khoảng thời gian của con gái đi lấy chồng nhớ mẹ
nữa, mà đã được chuyển thành khoảng thời gian của người lái đò nhớ người thương, nhớ
lại cả những ngày tháng chở người con gái mình tương tư qua sông, âm thầm ước mơ một
ngày sẽ cưới nàng làm vợ. Vẫn là “chiều chiều”, vẫn để chỉ thời gian gửi gắm tâm trạng,
nhưng nhân vật trong thơ Nguyễn Bính không mang nỗi lòng nhớ quê, nhớ mẹ, mà lại

9
nặng tình với bóng giai nhân hơn. Đây chính là điểm khác biệt trong lục bát của Nguyễn
Bính. Đọc thơ lên, vẫn là cặp lúc bát, vẫn có những công thức quen thuộc, hình ảnh quen
thuộc, nhưng thực chất thì tình cảm trong thơ đã thay đổi, giai điệu cũng thay đổi theo.

Sóng đôi và đối ngẫu

Chúng ta cũng có thể bắt gặp những hình thức sóng đôi và đối ngẫu quen thuộc của lục
bát trong thơ Nguyễn Bính. Trong bài thơ Thời trước, Nguyễn Bính viết

“Vì tằm tôi phải chạy dâu

Vì chồng tôi phải qua cầu đắng cay”

Hai câu thơ này gợi nhớ đến câu ca dao:

“Vì chàng thiếp phải bắt cua

Những như thân thiếp thiếp mua ba đồng

Vì chàng thiếp phải long đong

Những như thân thiếp cũng xong một bề”

Dù gợi nhớ, nhưng sóng đôi của Nguyễn Bính cũng vẫn có sự phá cách. Hay như cách
viết sóng đôi trong bài Thư cho chị dưới đây, Nguyễn Bính không chỉ tái hiện lại cấu trúc
sóng đôi, mà còn dễ khiến độc giả liên tưởng đến những câu ca dao quen thuộc: “Ai làm
cho bể kia đầy…”:

“Làm sao giấc ngủ không dài?

Mà đêm không ngắn, mà trời cứ mưa?

Làm sao em sống như thừa?

Cố đem men rượu tẩm vừa lòng đau”

Bên cạnh sóng đôi, thơ Nguyễn Bính cũng sử dụng nhiều cặp đối ngẫu. Chẳng hạn:

“Bao giờ bến mới gặp đò

Hoa khuê các bướm giang hồ gặp nhau

10
Hay:

“Con đi mười mấy năm trời

Một thân bé bỏng, nửa đời gió sương”

Như vậy, thơ Nguyễn Bính vẫn có thấp thoáng bóng dáng của những câu ca dao cổ
truyền. Nếu trong ca dao, những cặp sóng đôi, đối ngẫu có thể xuất hiện ở cả những bài
miêu tả phong cảnh, thì ở thơ lục bát Nguyễn Bính, chúng thường sử dụng để diễn tả số
phận bi thương hoặc cảm xúc đau khổ của một kiếp người. Cấu trúc sóng đôi và đối ngẫu
vừa tạo cảm giác trùng trùng điệp điệp của những biến động trong cuộc sống, lại vừa đem
đến cảm giác đau buồn vì một tình thế trái ngang của tình duyên lỡ dở hoặc của một cuộc
đời “lỡ bước sang ngang”.

Qua khảo sát, có thể thấy rằng, những yếu tố thuộc về lục bát cổ truyền đã được Nguyễn
Bính biến đổi và vận đụng vào thơ lục bát của chính ông theo cách vô cùng tinh tế.
Những công thức mở đầu, sóng đôi, đối ngẫu đều xuất hiện, nhưng lại thể hiện một “bản
dạng” khác của nhân vật trữ tình. Đọc thơ Nguyễn Bính, độc giả nhận ra một “người
thơ”: Một con người tình cảm, đầy ắp những cách tân, nhưng vẫn luôn nặng lòng với lục
bát cổ truyền; cũng là con người từ tốn làm mới lục bát cổ truyền, để đưa thể thơ lục bát
đến những giới hạn mới.

3.1.3 Cổ mẫu kết tinh từ những mô thức tâm lý được thể hiện đặc sắc

 Lý giải thuật ngữ

Từ điển văn học giải thích: “Cổ mẫu là khái niệm dùng để chỉ những mẫu của các biểu
tượng, các cấu trúc tinh thần bẩm sinh, trong tưởng tượng của con người, chứa đựng
trong vô thức tập thể của cộng đồng nhân loại” [10, tr.972]. Nói cách khác, cổ mẫu là
những biểu tượng bền vững, bắt nguồn từ vô thức tập thể, chất chứa chiều sâu tâm lý,
cảm xúc được chiêm nghiệm qua các thời đại khác nhau của cộng đồng. “Kho báu của
nhân loại nằm trong tính đa dạng sáng tạo, nhưng nguồn gốc của tính sáng tạo lại nằm
trong tính thống nhất sinh thành của nhân loại” [9, tr. 103].

=>Người đọc văn học theo lý thuyết cổ mẫu thường dõi theo những biểu tượng, những
motif lặp đi lặp lại nhiều lần, có ý nghĩa phổ quát trong các tác phẩm để thấy những ý

11
nghĩa điển hình của nó trong văn hóa, văn chương nhân loại và dân tộc cũng như những ý
nghĩa chuyển dịch, xung năng, tương tác của nó trong các tác phẩm, tác giả cụ thể.

 Cổ Mẫu- Nguyễn Bính

Trước hết là cổ mẫu Hành trình( cuộc du hành bản thân), cụ thể thêm: cổ mẫu Đi
và Lỡ bước (biểu hiện thành chủ đề tình yêu).

Hành trình, theo cách nhìn của lý thuyết cổ mẫu, “là tìm kiếm, tìm chân lý, sự bất tử và
phát hiện một trung tâm tinh thần”. Hành trình “trở thành dấu hiệu và biểu tượng của sự
luôn luôn chối từ bản thân…, và cần kết luận rằng cuộc du hành duy nhất có giá trị là
cuộc du hành của con người bên trong bản thân mình” .Nhân loại đã có bao nhiêu cuộc
hành trình, đớn đau và vĩ đại: hành trình của Chúa, hành trình về đất Phật, hành trình về
miền đất hứa, hành trình dời Ai Cập, hành trình của Don Quixote,vv…Nguyễn Bính đã đi
đâu, về đâu? Trở lại với không khí xã hội thời Thơ mới. Trong “cuộc biến thiên lớn nhất
trong lịch sử Việt Nam từ mấy mươi thế kỷ”, hành trình của Nguyễn Bính là hành trình
của thi sỹ “giang hồ”, cô đơn, lỡ bước, khi dấu ấn cuối cùng “giấc mơ quan trạng”,
“Ngựa bạch buông chùng áo Trạng Nguyên” (Xóm Ngự Viên) - lý tưởng của nho sỹ bình
dân một thời, đã vĩnh viễn khép lại: “Khoa cử bỏ rồi, thôi hết Trạng”.

Anh đi đấy, anh về đâu

Cánh buồm nâu, cánh buồm nâu, cánh buồm (Không đề).

Câu hỏi không lời đáp. Nhịp thơ cũng theo cánh buồm, nhỏ dần, rồi mất hút. Đến nhịp
thơ cuối, không còn thấy màu nâu của cánh buồm. Nhịp thơ điệp mà không trùng. Đi mà
không biết đi đâu! Về không biết về đâu. Như thân phận trên dòng sông cuộc đời mênh
mang, hoang vắng: “Giang hồ ai biết đi đâu mà tìm” (Giang hồ). Dễ hiểu vì sao thơ
Nguyễn Bính hay nhắc nhiều đến con đò, bến đò, “chuyến đò thân thế”, và sân ga, con
tàu: “Đò sang còn một chuyến này, Khách sang còn một người đây hỡi đò!” (Người đi),
“Đem thân đi với giang hồ, Sân ga phẳng lặng, bến đò lênh đênh” (Quê tôi). Ấy là con đò
quê, ga là ga xép. Cũng có khi là con sông trong tâm tưởng, chảy rất mạnh, rất mênh
mang trong văn hóa phương Đông: sông Tương, sông Dịch.Thời gian chủ yếu là buổi
chiều và trong đêm, thời gian mà người ta sống với mình, là chính mình nhiều nhất:
“Càng chiều anh thấy con đường càng xa” (Định mệnh), “Tàu biết bây giờ chạy đến đâu,

12
Đêm sâu hoàn trả lại đêm sâu”(Chuyến tàu đêm). Con tàu, sân ga trong thơ Nguyễn Bính
thật buồn:

- Tàu chạy hình như để chở buồn,

Chở người đi nhớ, kẻ về thương (Chuyến tàu đêm).

- Con tàu ngược, con tàu xuôi

Con tàu chẳng đợi chờ tôi bao giờ (Xa xôi).

- Những từ ga lớn, từ ga nhỏ

Đời chẳng làm cho lấy một ga (Chuyến tàu đêm).

- Ở đây…tôi ở riêng đây,

Hoa tim rớm máu rụng đầy sân ga (Rừng mai xa cách).

- Tàu đi để lại ga đơn chiếc

Đường sắt nằm chờ những chuyến qua

Có người lưu lạc bên đường sắt

Mỗi chuyến tàu đi lại nhớ nhà (Nhớ).

Nguyễn Bính cũng là một bóng người giữa “những đời phiêu bạt, thân đơn chiếc”, những
bóng người đổ bóng xuống sân ga: “bóng lẻ”, “Hai bóng chung lưng thành một bóng”,
“bóng liêu xiêu”, “bóng nhòa trong bóng tối”. Ông phân thân mình: “Một mình làm cả
cuộc phân ly” (Những bóng người trên sân ga).

Tường vàng, mái đỏ màu son

Nhà ga lại chứa linh hồn nhà ga (Nhà ga).

Cái “hiện đại”, rực rỡ bề ngoài của tường vàng, ngói đỏ không che được, mà còn tô đậm
thêm cái quẩn quanh, đơn điệu, vu vơ, sống mòn chẳng những của cuộc đời những cụ xếp
già, ông ký trẻ và thục nữ “chưa kén được người”, mà cả của những thân phận phiêu bạt,
giang hồ. Nhà ga đứng ở hai đầu câu thơ nhưng chỉ là một, cô độc; còn linh hồn của nó

13
thì ở giữa, trong chính nó, trong tâm trạng sâu thẳm của con người. Trong hai câu thơ ấy,
cái không nói ra nhiều hơn và được cảm nhận mãnh liệt hơn rất nhiều cái đã nói ra.

Chẳng ngẫu nhiên, “Lỡ bước sang ngang”, tên một bài thơ lại được đặt tên cho cả một tập
thơ! Không chỉ người con gái “lỡ bước sang ngang”, mà chính Nguyễn Bính và cả thế hệ
những người như ông “lỡ bước sang ngang”trong hành trình ấy, trên chuyến đò và sân ga
ấy:

Năm ấy sang sông lỡ chuyến đò

Đò đầy sóng lớn nước sông to

Mười hai bến nước xa lăng lắc

Lầm tự ngày xưa, lỡ đến giờ.

Trên hành trình “dan díu nợ giang hồ”, “Tự mình đắp núi khơi sông, Tự mình đày
ải tấm lòng mình đi” (Đêm nay khơi tỏ tim đèn), “tâm hồn tôi”, cái tôi đang tự tìm mình
của Nguyễn Bính đến với rất nhiều nơi. Địa danh thực là Lạng Sơn, Vinh, Huế, Sài Gòn,
ga Kép,vv…Địa danh thực mà ảo, ảo mà thực hoặc hoàn toàn ảo thì nhiều hơn rất nhiều:
Kinh thành, Xóm Ngự Viên, Mười hai bến nước, Một nghìn cửa sổ, Lầu hoa, Rừng Mơ,
Rừng mai, Bến mơ,Vườn Tiên, Suối Thiên Thai,v.v…Ông phân thân thành cặp đối lập:
Tráng sĩ - Thi sĩ. Con người “Tráng sĩ” của Ông, có lẽ, là “cái rớt”cuối cùng của kiểu nhà
nho tài tử trong văn học Việt Nam trung đại. Con người ấy vẫn có cái chất hào hoa, kiêu
bạc nhưng xuất hiện đã rất lu mờ và đầy cô đơn - cái cô đơn của tráng sĩ không còn hợp
thời, không bao giờ có “lúc khải hoàn thân gió bụi”(Lá thư về Bắc):

- Sông lạnh thấy đâu người gọi gió,

Trăng tà tìm mãi kẻ mài gươm.

- Thời chưa gặp đó nằm suông mãi,

Suông cả ân tình rượu cũng suông (Xuân vẫn tha hương).

- Hỡi người đi gió cùng mưa

14
Có xây dựng nổi cơ đồ gì không (Nam Kỳ cùng gió cùng mưa).
Con người “Thi sĩ” mới thực sự thể hiện “cái tôi”của Nguyễn Bính:
- Tôi say mơ thấy vì Tiên Trích[1],
Vua gọi mà không chạy xuống thuyền (Cho tôi ly nữa).
“Vua gọi mà không chạy xuống thuyền”, chỉ thi sĩ đích thực, đam mê đích thực và tột
cùng mới hạ bút viết được những câu thơ như vậy! Cũng như nhiều nhà thơ khác của Thơ
mới, Nguyễn Bính đến với Tình yêu - tình cảm phổ quát của con người. Nhưng khác với
nhiều nhà thơ, tiếng vọng của vô thức tập thể, của cổ mẫu luôn tự nhiên dệt thành những
vần thơ. Nguyễn Bính là một trong những nhà thơ đã cụ thể hóa được cuộc sống vô thức
của toàn nhân loại trong nhiều bài thơ tình yêu. Ông lý tưởng hóa tình yêu trong những
bồn chồn, nhớ thương, day dứt. Và, như Platon, nhà hiền triết vĩ đại, trong tác phẩm “Bữa
tiệc hay Hội thảo về Tình yêu”, đã nói: “khi tình yêu được chuyển dịch từ một lý tưởng
sang một con người bằng xương bằng thịt”, từ ý niệm vĩnh cửu đến con người cụ thể, thì
thực tế điều này lại đưa tới sự “bất cân đối với những điều thiêng liêng” Vì thế, thơ tình
của Nguyễn Bình cũng là hành trình Đi - Lỡ bước.
Nguyễn Bính có những vần thơ tương tư nổi tiếng ngay từ hồi còn rất trẻ, vì thơ ông luôn
bật lên từ cuộc hướng nội, luôn tìm tài nguyên cho thơ từ trái tim mình, luôn lui về với
những chi tiết ngày thường của chính ông cung cấp:

- Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông,

Một người chín nhớ mười mong một người (Tương tư).

- Hồn anh như hoa cỏ may

Một ngày cả gió bám đầy áo em (Hoa cỏ may).

- Em nghe họ nói mong manh

Hình như họ biết chúng mình…với nhau (Chờ nhau).

- Giếng thơi mưa ngập nước tràn

Ba gian đầy cả ba gian nắng chiều (Qua nhà).

- Cô hái mơ ơi! Cô gái ơi

Chẳng trả lời nhau lấy một lời!

15
Cứ lặng rồi đi, rồi khuất bóng

Rừng mơ hiu hắt, lá mơ rơi… (Cô hái mơ).

Nỗi nhớ, sự chờ mong tình yêu trong thơ Ông được dệt bằng bao cảm xúc, bao biểu
tượng, đi thẳng vào trái tim người:

- Ví chăng nhớ có như tơ nhỉ

Em thử quay xem được mấy vòng?

Ví chăng nhớ có như vừng nhỉ

Em thử lào xem được mấy thưng? (Nhớ).

- Anh ạ! Mùa xuân đã cạn ngày

Bao giờ em mới gặp anh đây?

Bao giờ hội Đặng đi qua ngõ

Để mẹ em rằng: Hát tối nay? (Mưa xuân).

Nguyễn Bính đi vào chính mình, nhờ đó đã nói được và nói rất hay, rất sâu những biện
chứng tâm hồn, những qui luật tình cảm, cái điều của muôn thuở, muôn người: “Mẹ cha
thì nhớ thương mình, Mình đi thương nhớ người tình xa xôi” (Thư cho thầy mẹ), “Trời
xanh còn khóc nữa là, Nhớ nhà ít, nhớ người ta thì nhiều” (Gặp nhau). Sống trong tâm lý
tình yêu, cảm nhận về thời gian, không gian trong thơ Ông rất đặc biệt, theo cách dân
gian nhưng vẫn là duy nhất của riêng Ông, độc bản: “Láng giềng đã đỏ đèn đâu, Chờ em
ăn dập miếng trầu, em sang” (Chờ nhau), “Chờ mong như suốt đêm qua, Chàng ơi! Một
tháng là ba mươi ngày”, “Cách một ngày ngựa với ba ngày đò” (Thư cho chị), “Nhà em
cách bốn quả đồi, Cách ba ngọn suối, cách đôi cánh rừng, Nhà em xa cách quá chừng,
Em van anh đấy, anh đừng yêu em” (Xa cách), “Thương như thế, nhớ làm sao, Kinh
thành biết có mưa rào đêm nay” (Thương nhớ Kinh thành).

16
Tình yêu trong thơ Nguyễn Bính phần lớn là lỡ hẹn, ly biệt. Lỡ hẹn ngay từ chờ đợi bồn
chồn, xốn xang của cuộc hẹn tình yêu đầu đời. Ông nhập thân, hóa thân thành cô gái
trong “Mưa xuân”. Mưa ấy, từ những bông hoa bụi “ phơi phới bay”, nhanh chóng
chuyển thành “mưa nặng hạt”, những hạt mưa sầu tủi, tội nghiệp, bẽ bàng. Con đường
đến với tình yêu tưởng gần, hóa ra là xa ngái:

Mình em lầm lũi trên đường về

Có ngắn gì đâu một dải đê

Áo mỏng che đầu mưa nặng hạt

Lạnh lùng thêm tủi với đêm khuya (Mưa xuân).

Tình yêu trong thơ Nguyễn Bính rất nhiều nước mắt biệt ly. Nỗi cô đơn của Ông đủ lớn
để vũ trụ hóa, vô tận hóa những nỗi đau và cô đơn của con người: “Nước mắt là cơm bữa,
Hợp tan như bèo trôi” (Đề tặng ảnh), “Đêm nay hai đứa chung tình ấy, Khóc ướt trần
gian để biệt nhau”(Bạc tình),“Cửa hàng nghìn khép lại, Tất cả một đêm nay, Có lòng ta
rồ dại, Mở ra muôn nghìn ngày” (Một nghìn cửa sổ), “Trời xanh hãy trả lời tôi, Sao người
đẹp lại là người…trời xanh”(Người con gái ấy), “Giờ này có lẽ chàng đương khóc, Cả
một mùa đông khóc ở ngoài”( Nhớ thương ai), “Có lẽ ngày mai đò ngược sớm, Thôi nàng
ở lại để…quên tôi”(Thôi nàng ở lại), “Người cách sông rồi…Tôi cách sông ”. Nhưng,
đau khổ, cô đơn nhất của Ông, có lẽ vẫn là hành trình vô vọng đi tìm cái tôi của mình:
“Tôi tìm đâu thấy mảnh trời Thần Tiên”, “Nhưng đau lòng biết bao nhiêu, Người tôi yêu
chỉ biết yêu như người” (Đào Nguyên), “Thương tôi mình hiểu cho tôi nhé, Mà chỉ mình
tôi mới hiểu tôi” (Mười hai bến nước). “Cái tôi là không thể chia sẻ được”. Và thực ra,
chính Ông cũng không hiểu bản thân mình, vì thế Ông luôn luôn đi tìm mình. Rõ ràng,
thơ Nguyễn Bính là “cuộc du hành của con người bên trong bản thân mình”. Hành trình
ấy không bao giờ tới đích, bởi vì “con người luôn là câu đố trên thế gian và có lẽ là câu
đố vĩ đại nhất…Trong tâm hồn con người có những chiều sâu mà chỉ nghi lễ mới xuống
tới được”.

Nguyễn Bính là nhân vật điển hình của cặp phạm trù gia đình - không gia đình thời
Thơ mới. Đây cũng là cổ mẫu rất tiêu biểu của văn hóa và văn học nhân loại. Gia
đình là khái niệm, tổ ấm gần gũi, thiêng liêng, con người lớn lên từ đó và luôn hướng về
nó như chỗ tựa tin cậy, an toàn, vững chắc. Bởi vậy, mỗi lần ra khỏi nhà, nhân vật truyện

17
cổ tích thần kỳ đều gặp những tai họa hoặc phải trải qua những thử thách khó khăn.
Trong văn học nước ngoài, chỉ cần nhắc tác phẩm “Không gia đình”của nhà văn Pháp
Hector Malot, thế kỷ XIX, cũng đủ thấy. Trong thơ Nguyễn Bính, mẫu đề Không gia
đình luôn song hành với mẫu đề Đi- Lỡ bước. Với Nguyễn Bính, mổ côi mẹ từ ba tháng
tuổi, “Mẹ hiền mất sớm, giời đầy làm thơ”, sự bùng nổ của cảm xúc Không gia đình càng
nhức buốt.

- Con đi mười mấy năm trời,

Một thân bé bỏng, nửa đời gió sương.

Thầy đừng nhớ, mẹ đừng thương,

Cầm như đồng kẽm qua đường đánh rơi.

- Thầy ơi! Đừng bán vườn chè

Mẹ ơi! Đừng chặt cây lê con trồng (Thư cho Thầy Mẹ).

Những câu thơ ấy như được viết bằng cô đơn, bằng nước mắt, hờn tủi và nhớ
thương nhức buốt!

Yêu gia đình, nhưng Nguyễn Bính vẫn là, nói đúng hơn, vẫn phải là “con chim lìa
đàn”:

- Lạy đôi mắt mẹ đừng buồn,

Ngày mai con lại lên đường ra đi (Lại đi).

- Hỡi ôi! Những kẻ lên đường

Đang tâm để cả cô đơn lại nhà (Chia tay).

Nguyễn Bính có gần mười bài thơ gửi chị Trúc, về chị Trúc – nhân vật có bóng dáng
trong đời thật nhưng cũng là nhân vật văn học (Lỡ bước sang ngang, Một chiều say, Xây
hồ bán nguyệt, Xây lại cuộc đời, Xuân tha hương, Xuân vẫn tha hương, Xuân lại tha
hương, Khăn hồng, Chị đã ghen). Phần vì chị Trúc đẹp, duyên dáng, gần gũi, phần nữa,
và đây mới là căn nguyên chính, nhà thơ thấy từ đây hình bóng của người mẹ, của những

18
người thân yêu, của điểm tựa tin cậy để gửi gắm, sẻ chia, tỏ bày những tâm sự, nỗi niềm
khó biết nói cùng aiCon người luôn có những mặc cảm, ẩn ức, thiếu thốn tình cảm gia
đình và luôn đẫm chất quê hương ấy làm sao không nhớ gia đình, nhớ quê hương, nhất là
những dịp xuân về. Ngày xuân, ngày tết - thời điểm của gặp gỡ, sum họp giản dị, thiêng
liêng trong mái ấm gia đình, vậy mà Ông vẫn biền biệt: “Em đi non nước xa khơi quá,
Mỗi độ xuân về bao nhớ thương!” (Xuân vẫn tha hương), “Chiều ba mươi, hết năm rồi,
Nhà tôi, riêng một mình tôi vắng nhà” (Xuân về nhớ cố hương). Chính từ tầng sâu tâm
thức của tiếng vọng Không gia đình, ông đã có những vần thơ tuyệt bút của thánh thần:

Từ nay khi nhớ quê nhà

Thấy mây Tần biết đó là thôn Vân (Anh về quê cũ).

Mây quê hương luôn bay trên đỉnh trời tha hương. Nó ngấn lệ trong thơ Ông, hay
lệ trong thơ Ông đã kết thành những đám mây trên đỉnh trời tha hương ấy? Thực mà rất
ảo! Ảo mà rất thực!

Các nhân vật trữ tình trong thơ Nguyễn Bính phần lớn cũng trong trạng thái tinh
thần Không gia đình, cô đơn. Đó là cô sư nữ trẻ đẹp “Có cô sư nữ người mong mỏng,
Buông thõng dây gầu xuống giếng thơi” (Chiều quê); cụ sư già ép thân xác đến với cô
tịch, vô thường: “Sư già quét lá sau chùa, Để thiêu xác lá trước giờ lên chuông” (Chùa
vắng). Là tráng sĩ: “Đêm nay tráng sĩ không nơi trọ, Nằm tạm qua đêm quán dọc đường”
(Quán lạnh). Đặc biệt, điển hình cho số phận, tâm trạng Không gia đình chính là người
phụ nữ “Lỡ bước sang ngang”: “Mười năm gối hận bên giường, Mười năm nước mắt bữa
thường thay canh”. Tiếng pháo, dây pháo đỏ trong ngày cưới của các cô gái luôn gắn với
tiếng thở dài của cả người trong cuộc và người ngoài cuộc. Cả đến người mẹ cũng sống
trong bồn chồn, khắc khoải lo âu với trạng thái Không gia đình của người con gái khi đứa
con bước chân về nhà chồng. Người mẹ gượng cứng cỏi, chủ động bao nhiêu trước mặt
con, thì lại yếu mềm bấy nhiêu ngay khi bàn chân con bước khỏi nhà mình. Những câu
thơ dưới đây cũng chính là “Huyền thoại mẹ”:

Đưa con ra đến cửa buồng thôi,

Mẹ phải xa con khổ mấy mươi.

19
Con ạ! Đêm nay mình mẹ khóc,

Đêm đêm, mình mẹ lại đưa thoi (Lòng mẹ).

Nhà thơ Hữu Thỉnh nhận xét: “Ở cái thời ấy, Nguyễn Bính như phần đông các thi
sĩ đều buồn. Nguyễn Bính không những buồn mà còn thêm vị đắng cay của kẻ lưu lạc.
Nhưng thơ ông không có cái buồn tan rã, đẩy người ta tới chỗ tuyệt vọng, trong nỗi buồn
ấy vẫn thấy ấm nóng, khắc khoải tình yêu sự sống” .

=>Chỉ dẫn một vài cổ mẫu trong thơ Nguyễn Bính, đủ thấy thơ Ông có những tầng sâu,
ma lực thế nào! Càng thể hiện cái nhìn độc nhất, Nguyễn Bính càng đến gần và tôn cao vị
trí danh dự của nghệ thuật. Thơ Nguyễn Bính luôn là độc đáo, của riêng Ông nhưng vì
thế cũng là tâm trạng phổ quát, tiếng lòng của nhiều cá nhân không hề quen biết. Thơ
Nguyễn Bính là thơ của nhiều người, nhiều nhà, nhiều thời. Những cổ mẫu thức dậy, đan
dệt độc đáo trong thơ Ông đã góp phần làm cho thơ Nguyễn Bính không chỉ ở tầm dân
tộc mà còn thuộc tầm nhân loại.

=>Thơ Nguyễn Bính đặc rệt truyền thống, mà vẫn mới, vẫn riêng. Ông đã làm mới mê
hồn thơ lục bát và thơ thất ngôn theo cách của ông. Nói về những nhà thơ tiêu biểu cho
thơ lục bát, người ta sẽ, ngay lập tức, đi thẳng từ ca dao, Nguyễn Du đến Nguyễn Bính,
như một mặc định. Đặc biệt, cùng với các nhà Thơ mới khác, Nguyễn Bính đã đưa cái tôi
cá nhân, cũng là cái tôi của thời đại, cái tôi của nhân loại vào thơ, tự nhiên nhi nhiên,
góp phần quan trọng đưa văn học Việt Nam “thực hiện một chuyển dịch quan trọng: vượt
khỏi phạm vi khu vực để tiến vào thế giới”. Cái tôi ấy, vào những năm tháng đất nước
dồn tất cả sức mạnh vào cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, tất nhiên sẽ không phù
hợp.

3.1.4 Hình thức kết cấu

Nguyễn Bính là nhà thơ "chân quê" và cũng là một nhà thơ mới cho nên trên con đường
tìm tòi phương thức biểu hiện để diễn tả những ý tưởng và cảm xúc mới mẻ, Nguyễn
Bính còn sử dụng những kiểu kết cấu đang xuất hiện thường xuyên trong thơ hiện đại.
Kiểu kết cấu theo sự kiện được dùng trong những tác phẩm giống như những truyện thơ
(Cô gái vườn Thanh, Mười hai bến nước, Hoa với rượu); nó cho phép hình dung số phận
những con người, những cảnh ngộ, những diễn biến chuyện đời, do vậy tác phẩm vừa có
bề dày về thời gian, vừa có bề rộng về không gian. Ở kiểu kết cấu tâm trạng, những nỗi

20
niềm sâu kín của cái tôi cá nhân được bày tỏ dễ dàng, tạo ra sự gần gũi, cảm thông giữa
người đọc thơ với các nhân vật, các chủ thể trữ tình (Lỡ bước sang ngang, Mưa xuân,
Lòng mẹ, Tương tư). Kiểu kết cấu trùng điệp được Nguyễn Bính sử dụng rất biến hoá,
sáng tạo: điệp từ, điệp ngữ, điệp cầu... cho phép xoáy vào những chủ âm của tứ thơ, tạo
khí thơ mạnh, tạo âm điệu, âm hưởng phù hợp với tâm trạng, cảm xúc của con người
(Mắt nhung, Trở lại Hà Đông, Vàng) v.v...

Nếu hiểu kết cấu không chỉ đơn thuần là sự bố cục câu chữ, khổ thơ, đoạn thơ, mà còn là
cách sắp xếp, tổ chức tình ý, hình ảnh, hình tượng thơ, là cách triển khai tứ thơ thì những
hình thức kết cấu trong thơ Nguyễn Bính đã cho thấy một ngòi bút rất linh động, biến
hoá, tài hoa trong việc kiến tạo từng bài thơ thành từng chỉnh thể chặt chẽ, thống nhất, hài
hoà.

3.1.5 Thời gian và không gian nghệ thuật.

 Thời gian

Thời gian trong thế giới nghệ thuật của Nguyễn Bính cũng in đậm sắc thái dân gian của
thơ ca truyền thống. Nơi xóm mạc dân dã, tâm hồn con người không bị ràng buộc bởi
những so đếm tính toán chi li, kể cả về thời gian - chịu ảnh hưởng sâu sắc điều đó, thời
gian nghệ thuật trong thơ Nguyễn Bính là thời gian của tâm tưởng, không phụ thuộc vào
thế giới bên ngoài, công thức thời gian, cách tính thời gian là hoàn toàn ước lệ. Nguyễn
Bính rất hay dùng những từ: thuở ấy, năm xưa, cái ngày, mới rồi, một buổi... đấy là
những khoảng thời gian chung dễ giao cảm với mọi tâm hồn. Chính sự ước lệ trong xác
định thời gian vừa khái quát hoá được hoàn cảnh vừa vĩnh cửu hoá được thời điểm sự
việc, dễ được chấp nhận trong tư duy người bình dân ở mọi thời. Chẳng hạn: "Láng giềng
đã đỏ đèn đâu - Chờ em ăn dập bã giàu em sang" (Chờ nhau). Trong khi đó ở thơ tha
hương của Nguyễn Bính, thời gian nghệ thuật lại không còn tính chất ước lệ, tượng trưng,
khoảng chừng theo kiểu dân gian, trái lại rất cụ thể, chính xác do sự chi phối của nếp
sống hiện đại: "Nàng hãy vui đi dẫu một ngày - Dẫu phần ba phút, góc tư giây" (Cầu
nguyện).

 Không gian

Đặc điểm chủ yếu của không gian nghệ thuật trong thơ Nguyễn Bính là tính ước lệ, giàu
sức tượng trưng, điển hình - đó là không gian nghệ thuật của tâm tưởng, của mộng tưởng.

21
Không gian nghệ thuật này gói gọn trong những chất liệu của thôn quê hàng nghìn năm
nay: ruộng dâu, ao bèo, giếng thời, hoa cải vàng v.v... rồi "mưa thưa mưa bụi" của mùa
xuân, "hương sen" của mùa hạ, "giời cao gió cả giăng như ban ngày" của mùa thu... Một
điều nữa cũng cần nhấn mạnh là không gian nghệ thuật trong thơ Nguyễn Bính không hề
tĩnh tại mà đang thay đổi, vận động, hoặc tiềm ẩn sự biến thiên (Chân quê). Thơ tha
hương của Nguyễn Bính lại mở ra một không gian rộng lớn với nhiều nẻo đường đất
nước, ở đó hợp với nỗi u buồn của người xa quê là không gian mùa xuân, không gian
màn đêm (Xuân về nhớ cố nhân, Lá thư về Bắc). Thêm nữa, không gian con tàu và nhà
ga đã mang lại cho thơ tha hương dáng vẻ hiện đại, mới mẻ (Nhà ga, Những bóng người
trên sân ga).

=> Nhìn chung, thời gian và không gian nghệ thuật, với tư cách là những thành tố quan
trọng của thi pháp, đã góp phần đắc lực giúp Nguyễn Bính biểu đạt cái hồn quê trong
sáng cũng như cái tôi trữ tình nhiều tâm sự của thi nhân trong một thời đại phức tạp, đầy
biến động.

3.2 Cái tôi trong thơ Nguyễn Bính

3.2.1 Cái tôi thôn dân

 Lý giải nguồn gốc:

Nguyễn Bính sinh ra trong một gia đình nhà nho nghèo; tuy gốc gác không phải là một
nông dân nhưng Nguyễn Bính vẫn luôn là một thôn dân bởi lẽ ở tuổi thơ, Nguyễn Bính
đã tiếp thu sâu sắc tinh hoa của văn minh thôn dã, văn hoá xóm làng, ở tuổi hoa niên,
Nguyễn Bính phiêu bạt giang hồ khắp nơi trên đất nước, Nguyễn Bính sống ở chốn thị
thành mà tâm hồn bao giờ cũng hướng về nơi xóm mạc thôn quê. Gương mặt thơ ca của
Nguyễn Bính được khẳng định rõ nét trong Phong trào Thơ mới trước hết chính là nhờ
nét độc đáo của cái tôi thôn dân ấy.

 Hình ảnh gần gũi, gắn bó với làng quê Việt

Trong thơ Nguyễn Bính, ta bắt gặp rất rất nhiều những hình ảnh vô cùng quen thuộc như
hàng cau và giàn trầu, như dậu mùng tơi, ao muống vạt cần, hay những con đò, những
bến bãi, những bờ sông với sắc cải nở vàng… Điều quan trọng là ông đã gửi vào thơ trọn

22
cuộc sống, tâm hồn của mình, cho nên phong cảnh làng quê hằng ngày vốn quen thuộc
qua những dòng thơ của Nguyễn Bính đã trở lên có hương, có sắc, có linh hồn và trở nên
vô cùng thân thiết. Bên cạnh đó yếu tố văn hóa cũng được nhà thơ coi trọng, nâng niu.
Lòng người lại xốn xang với “Hội làng mở giữa mùa thu” (Đêm cuối cùng)… Có điều
Nguyễn Bính không chỉ tài hoa khi dựng cảnh những ngày hội làng quê mà ông còn rất
am hiểu và khéo léo khi đặc tả những nét văn hóa làng quê qua cách ăn mặc, qua những
dáng bề ngoài của người nhà quê. Đấy là một chú bé mà người ta có thể bắt gặp dâu đó
trên đường thôn: “Tuổi thơ tóc để gáo dừa/Tuổi thơ mẹ bắt deo bùa cần cong” (Tiền và
lá). Còn đây là những trang phục của các cô gái trong ngày đi lấy chồng: “Này áo đồng
lầm, quần lĩnh tía/Này gương, này lược, này hoa tai” (Lòng mẹ)… Ông không chỉ tả cảnh
quê mà còn gợi lên một cách thấm thía cái hồn quê, cái chân quê. Vì vậy, có thể nói, thi
nhân đã tìm được mảnh đất nương náu cho tâm hồn mình trong cơn gió bụi cuộc đời.

 Tình quê, duyên quê thấm nhuần, đậm đặc (Hồn thơ chủ đạo)

Tình quê trong thơ Nguyễn Bính là tình cảm hướng về cái đẹp và cải thiện, khao khát trở
về hồn cốt thiêng liêng của đời sống dân tộc. Điều quan trọng là Nguyễn Bính đã biết
cách cụ thể hóa cái gọi là hồn quê trừu tượng kia bằng những biểu hiện của tình quê chân
thực, đằm thắm. Một người mẹ nghèo khổ tiễn con gái về nhà chồng, một cô thôn nữ
ngây thơ và e thẹn trong đêm hát chèo, một anh trai làng lo sợ và ghen bóng ghen gió khi
đón người yêu đi tỉnh về, nỗi cô đơn của người hàng xóm, giấc mơ quan trọng huy hoàng
ăn sâu vào tiềm thức từ gã thư sinh tới anh lái đò... Trong thơ Nguyễn Bính còn hiện ra
hàng loạt cách ứng xử giữa những người trong cộng đồng làng xã Việt Nam. Đó là những
quan hệ hàng xóm, quan hệ lứa đôi, gia đình dòng tộc… Những điều vừa nêu sơ lược này
có thể coi như những minh chứng khẳng định thêm rằng: “Nguyễn Bính là một nhà thơ
về làng quê và là một nhà văn hóa làng Việt Nam”.

 Ngôn ngữ thơ

Đến với thế giới ngôn từ của Nguyễn Bính cũng là đến với nguồn mạch ngôn ngữ trong
sáng, giản dị, giàu màu sắc dân gian dân tộc. Vào vườn thơ của ông ta thấy xuất hiện đậm
đặc những cách nói mang hình bóng của ca dao, của những bài hát ru hát ví, những câu
mộc mạc và đầy ẩn ý tế nhị, những từ ngữ thông dụng trong cuộc sống hàng ngày (Đại
áo). Cũng như ngôn ngữ dân gian, ngôn ngữ thơ Nguyễn Bính rất giàu màu sắc, hình ảnh,
nhạc điệu. Cả cảnh trong mơ và trong đời thực đều được thi nhân thêu dệt bằng những

23
màu sắc tươi thắm (Không đề), bao cảm nghĩ chua chát về thế thái nhân tình cũng hiển
hiện toàn bằng màu sắc (Lại đi). Thơ Nguyễn Bính được mến mộ còn nhờ ngôn ngữ của
nội tâm, câu chữ nhiều khi chẳng có gì mà chất chồng những đau đớn, xót xa (Vẩn vơ,
Rượu xuân). Đáng phải chú ý là những từ có vùng mờ nghĩa như ai, người, mình, ta,
người ấy, bên ấy, bên này đã hoà hợp vào thơ Nguyễn Bính một cách nhuần nhuyễn, tự
nhiên, làm tăng khả năng đồng cảm giữa những con người khác nhau (Một mình, Một
chiều say). Nguyễn Bính còn làm tăng sắc thái biểu hiện của ngôn ngữ thơ bằng việc sử
dụng thành thạo các biện pháp tu từ mà thơ dân gian hay dùng; với năng lực tưởng tượng,
liên tưởng rất dồi dào, Nguyễn Bính đã tạo ra những hình ảnh ví von, so sánh, nhân hoá
đầy sức sống - đó thực sự là những kết hợp mới lạ, bất ngờ như những phát hiện riêng
của tác giả luôn làm người đọc thích thú. Thiên nhiên ở đây như cũng có tính người: tơ
gạo lẳng lơ, những cành cây nó cưới nhau, giới đi đưa đám tang... Nguyễn Bính sử dụng
rất thành thực lối đan chữ kiểu: chín nhớ mười mong, bảy nổi ba chìm, một nắng hai
sương, trăm cay nghìn đẳng, đón bạc dưa vàng, đi gió về mưa... ở đó từ ngữ không còn ý
nghĩa thường có của chúng bởi vì chính khi tư duy theo kiểu đan lồng những từ tương
hợp, ý nghĩa của từ đã được nhân lên gấp bội. Trong việc dùng các số đếm, Nguyễn Bính
càng tỏ rõ cái tài hoa biến ảo của mình; chỉ với những con số rất thông thường nhưng nhà
thơ đã gợi được bao tình ý sâu xa (Vài nét rừng, Giấc mơ anh lái đò).

3.2.2 Cái tôi phản-thành-thị

Đầu thế kỉ 20, sự xâm nhập của văn hóa phương Tây theo bước chân thực dân đã thúc
đẩy thành thị phát triển mạnh mẽ ở Việt Nam. Sự hiện diện của thành phố mang tính hiện
đại thời kì đó đã tác động nhiều chiều đến tâm lí người dân, đặc biệt là tầng lớp trí thức.
Có những người coi thành thị là chốn phồn hoa, văn minh, thanh lịch; có người lại thấy
đó là chốn lai căng, tha hóa, cạm bẫy… Từ đó dẫn đến những phản ứng tâm lí khác nhau,
có người dấn thân vào chốn phồn hoa, có người lại tìm về với miền yên ả, về những miền
quê, hoài niệm “ngày xưa”. So với “nông thôn”, thành thị trong thơ Nguyễn Bính có tần
số xuất hiện không nhiều, nhưng nó lại thể hiện rất rõ biến động của thời đại khắc in
trong một bộ phận trí thức.

24
Mộng Huy Hoàng Chốn lưu lạc Tìm về nông thôn

Men theo lời mời Loay hoay, vò vẽ Kết cục làm nên
gọi hòa nhập đầy chạy về nơi một kẻ mang một
say mê của chốn mới,mặc lòng nặng nỗi sầu thành thị,
phồn hoa hấp dẫn. nỗi vấn vương. chưa thể hòa hợp
mà tìm về giá trị
xưa cũ.

 Thành thị - “Mộng huy hoàng”

Mặc dù rất ít khi trực tiếp nói đến sức cám dỗ của thành thị, nhưng trong thơ ông, thành
thị vẫn hiện lên với sức hấp dẫn ngấm ngầm. Nhân vật trữ tình trong thơ từng hăm hở
bước vào không gian thị thành: “Rồi men tráng lệ châu thành ấy/ Từ đấy in thêm một
bóng người/ Bóng một nhà thơ đầy nguyện vọng/ Giầu lòng tin tưởng bước tương lai”(Lá
thư về Bắc). Ở không gian đó có những gì khiến nhân vật trữ tình phải “Bỏ lại vườn cảm
bỏ mái gianh/ Tôi đi dan díu với kinh thành”(Hoa với rượu)? Trong thơ Nguyễn Bính,
thành thị chỉ được nhắc đến như một ý niệm rất mơ hồ: “Rộn những phồn hoa”(Lá thư về
Bắc), “Phồn hoa thôi hết mộng huy hoàng”(Sao chẳng về đây). Thành thị gắn với giấc
mơ thay đổi cuộc sống, dù nhà thơ chỉ thoảng nhắc đến: “Gia đình thiên cả lên thành thị/
Buôn bán loanh quanh bỏ cấy cày”(Giời mưa ở Huế). “Giấc mơ thành thị” đã trở thành
giấc mơ phổ biến của những người ở nông thôn khi thành phố phát triển. Nó gắn với sự
day dứt về cái nghèo hiện có và mơ ước giàu sang. Giấc mơ về sự giàu sang được gửi
gắm kín đáo trong những câu chuyện tình yêu, hôn lễ, đón rước. Chẳng hạn như bài Quan
trạng: “Quan Trạng đi bốn lọng vàng/Cờ thêu tám lá qua làng Trang Nghiêm/Mọi người
hớn hở ra xem/Chỉ duy có một cô em chạnh buồn./Từ ngày cô chửa thành hôn,/Từ ngày
anh khoá hãy còn hàn vi./Thế rồi vua mở khoa thi,/Thế rồi quan Trạng vinh quy qua
làng”. Giấc mơ đó có nét giống với niềm day dứt: “Có những mâm cau phủ lụa điều/ Đi
vào trong gió lạnh hiu hiu/ Những xe hoa cưới, sao mà đẹp!/ Cửa kính huy hoàng vạt áo

25
thêu…./ Châu ngọc làm sao hái được nhiều/ Tôi là thi sĩ của thương yêu/ Lấy đâu xe cưới
ngời hoa trắng/ Với những mâm cau phủ lụa điều”(Một trời quan tái). Nỗi niềm trong bài
Quan trạng là nỗi niềm tiếc nuối của cô gái, còn nỗi niềm trong bài Một trời quan tái lại
là nỗi niềm day dứt buồn bã bất lực của người con trai về sự nghèo túng của mình. “Phồn
hoa” là ý niệm khá sâu đậm trong thơ Nguyễn Bính khi nói về thành thị, ý niệm này bắt
nối với ý niệm về thành thị - kinh kì trong truyền thống, nó cũng là suy nghĩ của không ít
người hồi đó. Thạch Lam cũng từng ghi lại ý niệm về chốn thành thị “lấp lánh ánh sáng
và rộn rã âm thanh” khác với sự tù túng tĩnh lặng ở vùng quê (Hai đứa trẻ).

Ấn tượng khá đậm của thành thị không chỉ với Nguyễn Bính mà với nhiều nhà văn thời
đầu thế kỉ 20 là hình ảnh cô gái tân thời. Hình ảnh này trở thành biểu tượng cho sự đổi
mới, đối lập với hình ảnh những cô gái truyền thống ở nông thôn. Phụ nữ tân thời nhàn
nhã ngồi trên ghế xích đu đọc sách cũng từng là hình ảnh trong mơ của nhà văn Điền
trong Giăng sáng của Nam Cao. Là “thi sĩ của thương yêu”, Nguyễn Bính cũng dành
không ít sự quan tâm đến hình ảnh từng trở thành trung tâm diễn ngôn về đấu tranh giữa
cũ và mới, diễn ngôn giải phóng phụ nữ đương thời. Nguyễn Bính đã trực tiếp khắc họa
nét đẹp “tân thời” của thiếu nữ kinh thành Huế: “Những nàng thiếu nữ sông Hương/ Da
thơm là phấn môi hường là son/ Tựu trường san sát chân thon/ Lao xao nón mới màu sơn
sáng ngời/ Gió thu cứ mãi trêu ngươi/ Đôi thân áo mỏng tơi bời bay lên/ Dịu dàng đôi
ngón tay tiên/Giữ hờ mép áo làm duyên qua đường” (Tựu trường). Bài thơ thiên sang
miêu tả từ làn da, nét môi, chân thon, ngón tay với son, với áo, với nón và cử chỉ “giữ hờ
mép áo”. Thiên sang đặc tả cũng chính là nhấn mạnh sự quan sát, sự cảm nhận của nhân
vật trữ tình. Với “thi sĩ của thương yêu” dường như hình ảnh cô gái tân thời là trung tâm
của thành thị: “Cả kinh thành có những ai?/Cả kinh thành có một người mắt nhung!
…../Đêm qua buồn quá tôi say/ Đã mơ một giấc mơ đầy mắt nhung!” (Mắt nhung). Trên
các phương tiện truyền thông hiện nay, hình ảnh những cô gái xinh đẹp cũng được khắc
họa như là biểu tượng cho sự hấp dẫn của thành phố.

Có thể thấy “phồn hoa” dường như là một ý niệm xuất hiện trong tâm thức của con
người ngay từ khi thành thị ra đời. Và khi “thành thị” trở thành không gian đối lập với
“nông thôn” thì ước mơ thay đổi không gian từ nông thôn lên thành thị chưa bao giờ vơi
cạn. Ở Việt Nam những năm đầu thế kỉ 20, thành thị hiện đại xuất hiện và phát triển
nhanh khiến không ít người muốn tìm đến thị thành với giấc “mộng phồn hoa”, và cũng
chính giấc mộng đó đã kéo theo không ít hệ lụy tinh thần khi va đập với thực tế. Mọi

26
người đều chung một giấc mộng phồn hoa, nhưng những hệ quả của sự va đập với thực tế
in hằn trong tâm tư mỗi người thì có thể lại rất khác nhau. Với cá nhân mỗi người cũng
vậy, giấc mộng đó chỉ có một nhưng những chấn động, những day dứt trong sự va đập
với hiện thực thị thành lại rất đa dạng. Có lẽ vì thế mà khi viết về thành thị, Nguyễn Bính
dành nhiều trang viết về sự va chạm với thực tế chốn đô thành.

 Thành thị - chốn lưu lạc

Trong thơ Nguyễn Bính in hằn một mâu thuẫn lớn, đó là nhân vật trữ tình từng hăm hở
bước vào chốn phồn hoa; nhưng lại không thể thích ứng được với nơi ấy, lúc nào cũng
cảm giác nơi ấy không thuộc về mình; tuy cảm nhận nơi ấy không thuộc về mình nhưng
vẫn không rời nơi ấy được. Chính vì thế, những trang thơ viết về thành thị của Nguyễn
Bính hầu hết là những trang đượm buồn, nhuốm đầy biệt li tang tóc, đầy cảm giác lạc
loài.

Đến nay, hình ảnh con tàu và sân ga không còn xa lạ với chúng ta, nhưng những năm đầu
thế kỉ 20, khi lần đầu tiên đường tàu được xây dựng ở Việt Nam, thì con tàu và sân ga lại
hiện diện như một sự kiện lớn, trở thành thứ làm thay đổi, nếu không muốn nói là làm
đảo lộn cuộc sống vốn ở trạng thái tĩnh ở các vùng nông thôn. Dù đây không phải là biểu
tượng của thành thị, nhưng nó gắn với văn minh hiện dại, là phương tiện giao nối giữa
các vùng miền, trong đó có giao nối giữa nông thôn và thành thị. Không phải ngẫu nhiên
mà Thạch Lam chú trọng khắc họa tâm trạng mong ngóng chuyến tàu đêm kết nối vùng
quê tăm tối với Hà Nội “lấp lánh ánh sáng và rộn rã âm thanh”. Nguyễn Bính đã tập trung
khắc họa sân ga gắn với các cuộc chia lìa, chia lìa giữa những người bạn, giữa vợ và
chồng, giữa những người yêu nhau, giữa mẹ và con, giữa một người với quê hương gia
đình mình: “Những cuộc chia lìa khởi tự đây/Cây đàn sum họp đứt từng dây/Những đời
phiêu bạt thân đơn chiếc/Lần lượt theo nhau suốt tối ngày” (Những bóng người trên sân
ga). Trong chuỗi những cuộc ra đi đó, có không ít người hướng tới thành thị.

Mang theo “mộng phồn hoa”, nhưng khi đến chỉ thấy sự ngột ngạt: “Hà Nội cơ hồ loạn
tiếng ve/ Nắng dâng làm lụt cả trưa hè” (Nhớ người trong nắng); ở đó chỉ có bụi bặm đa
đoan: “Hồn cô cát bụi kinh thành/ Đa đoan vó ngựa chung tình bánh xe”(Tình tôi); ở đó
chỉ có sự tàn phai: “Lá úa kinh thành rơi ngập đất” (Một trời quan tái); ở đó không có
mùa xuân: “Giữa nơi thành thị gió mưa phai/ Chết dần từng nấc, rồi mai mốt/ Chết cả
mùa xuất, chết cả đời/…/ Kinh kì bụi quá xuân không đến” (Sao chẳng về đây); ở đó tràn

27
ngập màu tang tóc: “Tôi thấy quanh tôi và tất cả/ Kinh thành Hà Nội chít khăn xô”(Viếng
hồn trinh nữ). Nhân vật trữ tình không tìm thấy niềm vui, không tìm thấy sự sẻ chia,
không tìm sự bình yên trong tâm hồn khi ở thành thị. Thành thị “phồn hoa” còn luôn nhắc
nhở những người tìm cơ hội nơi thành thị về thân phận “tha hương” của mình: “Ở mãi
kinh kỳ với bút nghiên,/Đêm đêm quán trọ thức thi đèn/Làm thơ mang bán cho thiên
hạ,/Thiên hạ đem thơ đọ với tiền”.

Bước từ truyền thống thơ văn là thú chơi thanh cao, viết để tặng nhau, để thù tác sang
thời kì thơ văn trở thành một loại hàng hóa, các nhà thơ khó có thể thích ứng ngay được.
Đó là sự chuyển đổi lớn trong xã hội, cũng là cú sốc tinh thần của văn sĩ. Chuyện cơm áo
gạo tiền trở thành nỗi ám ảnh của không ít văn sĩ thời bấy giờ. Xuân Diệu từng viết: “Nỗi
đời cay cực đang giơ vuốt,/Cơm áo không đùa với khách thơ”, các nhân vật văn sĩ trong
sáng tác của Nam Cao cũng cay đắng với chuyện áo cơm (Đời thừa, Giang sáng, Sống
mòn). Cho nên, thành thị phồn hoa lại trở thành thứ gợi nhắc nỗi ám ảnh, sự tự ti trong
những người ôm “mộng phồn hoa”: “Châu ngọc làm sao hái được nhiều/ Tôi là thi sĩ của
thương yêu/ Lấy đâu xe cưới ngời hoa trắng/ Với những mâm cau phủ lụa điều” (Một trời
quan tái).

 Tìm về nông thôn

Trong thơ Nguyễn Bính, tâm lí tìm về nông thôn như một hệ quả tất yếu khi vỡ “mộng
phồn hoa”, “sực tỉnh sầu đô thi”. Theo lẽ thông thường, người ta chỉ khao khát những gì
hiện tại mình không có. Khi ở nông thôn thì mơ về phồn hoa, khi ở chốn phồn hoa thấy
thiếu vắng nhiều thứ quan trọng cho đời sống tinh thần của mình thì luôn khao khát tìm
về. Trong văn học Việt Nam, phần lớn các nhà văn nhìn thành thị bằng trải nghiệm nông
thôn, vì thế, thành thị trở thành “kẻ khác”, ý niệm về thành thị là “ý niệm về kẻ khác”.
Những gì không thể chấp nhận được ở “kẻ khác” đều do họ lấy thước đo từ trải nghiệm
nông thôn của mình. Vì thế, trong thơ Nguyễn Bính, khi “sực tỉnh sầu đô thị”, khi cảm
thấy bơ vơ lạc loài ở chốn thành thị thì nhân vật trữ tình thường tiếc nuối, dằn vặt vì đã
bỏ lại quê nhà những điều quý giá mà họ không thể tìm thấy ở thị thành. Điều nhân vật
trữ tình thèm khát nhất trong chốn bơ vơ là thèm khát tình người, trước hết là tình cảm
gia đình, sự sẻ chia an ủi. Nhân vật trữ tình trong thơ Nguyễn Bính luôn dằn vặt day dứt,
tự trách bản thân vì đã “Bỏ lại vườn cam bỏ mái gianh. Tôi đi dan díu với kinh thành”
(Hoa với rượu); “Không còn ai nữa? để hoa đầy vườn” (Anh về quê cũ). Bỏ lại tất cả như
vậy để dấn thân vào chốn thị thành, nhưng cái thu được chỉ là “Lẽo đẽo đi trong gió bụi
28
đời/ Gian nan vất vả quá anh ơi/ Lắm khi thấy thiếu lời an ủi/ Nhưng kiếm đâu ra dẫu
một lời” (Lá thư về Bắc). Thấy thiếu trong hiện tại thị thành và mơ về ngày xưa nông
thôn chính là đã lấy những trải nghiệm ở nông thôn làm tiêu chuẩn, và cũng do lấy những
trải nghiệm đó làm tiêu chuẩn nên mới không thể hòa nhập được với chốn thị thành. Lấy
chuẩn về không gian sống thoáng đãng yên ả nên mới thấy thành thị ngột ngạt “loạn tiếng
ve”; lấy chuẩn về không gian sống trong lành hòa với thiên nhiên nên mới không thể
thích ứng được với thành thị “cát bụi”; lấy chuẩn là cuộc sống chan hòa tình cảm nên
thấy lẻ loi chốn thị thành… Nguyễn Bính viết nhiều bài thơ day dứt về thân lưu lạc muốn
trở về với gia đình, quê hương, với nông thôn, nơi ấy có những thứ đã lắng đọng trong
tâm hồn, kí ức, tiềm thức. Bài thơ Sao chẳng về đâyđã khắc họa sâu đậm nỗi day dứt tìm
về đó: “Sao chẳng về đây múc nước sông/ Tới cho những luống có hoa trồng/ Xuân sang
hoa nụ rồi hoa nở/ Phô nhụy vàng hây với cánh nhung” .

=> Có thể nói, Nguyễn Bính viết về thành thị từ điểm nhìn nông thôn và viết về nông thôn
sau khi đã dấn thân vào thành thị nhưng không tìm được sự hòa hợp. Nếu chỉ gắn
Nguyễn Bính với “chân quê” thì chưa đủ, và nếu nói “ông như người lái đò qua lại giữa
hai bờ nông thôn và thành thị” cũng chỉ lột tả được phần nào vấn đề ám ảnh nhất trong
thơ Nguyễn Bính.

3.3 Tính tự sự

Có nhiều nguyên nhân tạo nên khả năng cộng hưởng, lan tỏa trong sưc hút của thơ
Nguyễn Bính, trong đó không thể không kể đến sự có mặt dày đặc của các yếu tố tự sự,
tạo nên tính tự sự đậm nét trong thơ ông. Chính sự góp mặt của tính tự sự này khiến thơ
Nguyễn Bính gần với văn học dân gian, gần với truyện nôm, khiến những bài thơ của ông
có dạng một câu chuyện nhỏ dễ đi vào lòng người.

Sự gia tăng của yếu tố tự sự trong thơ trữ tình giai đoạn này có nhiều lí do, trong đó có lí
do quan trọng là sự hạn chế của những hình thức nghệ thuật cũ trong việc biểu đạt những
nội dung cảm xúc mới. Thơ mới ngày càng có xu hướng thoát khỏi thơ điệu ngâm truyền
thống để hướng đến lối thơ điệu nói hiện đại, yếu tố “kể” vì thế đóng vai trò đắc lực trong
việc dịch chuyển thơ về gần với đời sống, là một dấu hiệu quan trọng trong tiến trình hiện
đại hoá thơ ca. Yếu tố kể không chỉ dừng lại ở những chi tiết cụ thể mà thậm chí ở một số
bài thơ trữ tình, chúng được phân bố xuyên suốt theo mạch cảm xúc của chủ thể. Cách

29
đưa yếu tố tự sự vào thơ trữ tình cũng ngày càng tự nhiên, linh hoạt; làm cho tác phẩm
trở nên chân thực, gần gũi với đời sống và dễ đi vào lòng người.

Nguyễn Bính kể bằng thơ những câu chuyện thấm đượm hồn quê, tình quê mộc mạc,
nhuần nhị và đưa vào thơ những nét đẹp đặc trưng của làng thôn nước Việt với nguồn
mạch của ca dao, dân ca ngọt ngào, đằm thắm.

3.3.1 Sự kiện và nhân vật

Trong thơ ca nói chung, thơ Nguyễn Bính nói riêng, sự kiện và nhân vật mang dấu ấn của
loại tác phẩm tự sự, nhưng nó đã không hoàn toàn giống với sự kiện, nhân vật trong tác
phẩm tự sự, mà là sự kiện, nhân vật của thơ trữ tình. Sự kiện trong thơ Nguyễn Bính đã là
sự kiện của tâm trạng, không có những sự kiện thuần túy thúc đẩy tiến trình phát triển của
cốt truyện như trong tác phẩm tự sự, mà giữ chức năng biểu hiện tâm tư tình cảm của
nhân vật trữ tình.

 Sự kiện

Yếu tố sự kiện được Nguyễn Bính sử dụng đưa vào thơ có nội dung khá đa dạng. Ông
huy động nhiều chi tiết hiện thực, lấy chất liệu của đời sống với những câu chuyện nhỏ
xinh, dung dị trong cuộc sống sinh hoạt nơi thôn xóm; cũng không thiếu những sự kiện
hư cấu, tưởng tượng được “biên soạn” bởi một tâm hồn đa sầu đa cảm. Những sự kiện
được đưa vào thơ ông đôi khi là những sự kiện rất cụ thể, riêng tư của những con người
đã rõ danh tính, thân phận hoặc thậm chí của chính tác giả, nhưng nhiều khi lại là tiếng
lòng chung, câu chuyện chung của nhiều người chứ chẳng của riêng ai . Các sự kiện đó
được tổ chức thành cốt truyện, tạo ra câu chuyện bằng thơ.

Trong thơ, Nguyễn Bính “kể” nhiều câu chuyện, có thể khái quát thành các chuyện tình
yêu, chuyện tình cảm gia đình, chuyện tha hương và chuyện thế sự nhân sinh. Trong đó,
sự kiện đóng vai trò là hạt nhân để tạo dựng nên những câu chuyện ấy.

 Nhân vật
Khái quát về thế giới nhân vật trong thơ Nguyễn Bính, đặt trong tương quan so sánh với
các tác giả Thơ mới khác, ta nhận thấy nhận thấy nhân vật của Nguyễn Bính có số lượng
lớn hơn và cũng đa dạng hơn xét trên nhiều góc độ. Chẳng hạn, trong thơ Thế Lữ, Xuân
Diệu, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng,… nhân vật trữ tình
hầu như chỉ có “tôi” và “em”. Ngoài “tôi”, “em”, các dạng nhân vật khác cũng có xuất
30
hiện nhưng còn khá mờ, khá đơn lẻ chứ chưa tạo dựng được một hệ thống nhân vật có
yếu tố lặp lại bền vững. Còn Nguyễn Bính thì khác, ông đã kiến tạo nên cả một thế giới
nhân vật phong phú, với đầy đủ già trẻ, gái trai, trẻ thơ, người lớn, anh lái đò, cô hàng
xóm, bà tiên trong truyện cổ, người con gái ở lầu hoa,… Việc xây dựng hệ thống nhân
vật đầy sống động như vậy đã minh chứng hiện tượng giao thoa thể loại trong thơ
Nguyễn Bính, là một đặc điểm nổi bật trong thơ Nguyễn Bính so với các nhà thơ cùng
thời. Trên cơ sở khái quát đó, có thể phân chia hệ thống nhân vật của Nguyễn Bính thành
nhân vật trữ tình có vai trò kể chuyện và nhân vật trong thơ trữ tình.

Thâm nhập vào những bài thơ của Nguyễn Bính, ta thấy kiểu vai mà các nhân vật trữ tình
đóng phần nhiều là vai những chàng trai, cô gái chân quê. Họ kể chuyện bằng tâm hồn
mộc mạc, trong sáng, tinh tế và sâu sắc. (Tương tư,…)
Một số bài thơ của Nguyễn Bính như “Tết của mẹ tôi”, “Thư gửi thày mẹ”,… có chủ thể
trữ tình trong vai người con. Qua đó, tình cảm chủ yếu mà nhà thơ muốn gửi gắm là lòng
biết ơn và lòng kính yêu vô hạn dành cho bậc sinh thành.

Mỗi nhân vật trong thơ trữ tình Nguyễn Bính được khắc họa thường gắn với một hoàn
cảnh, một tình huống cụ thể nào đó trong đời sống nhằm dẫn dắt câu chuyện. Những
nhân vật này có thể là cô gái thi nhân mới gặp gỡ lần đầu, cũng có thể là người đã quen
biết từ lâu, hay thậm chí là người trong giấc mộng, trong trí tưởng tượng của thi nhân. Họ
không được tả quá cụ thể dù là nhân vật trữ tình có vai trò kể chuyện, hay nhân vật trong
thơ trữ tình thì cũng chỉ được hiện ra thấp thoáng qua đôi nét ngoại hình, như ánh mắt,
bàn tay,…. Hay nhân vật chỉ hiện lên qua vài hành động đơn giản, chẳng hạn như hành
động đem quần áo ra phơi của bà lão lưng còng xóm Tây trong bài “Không đề”. Tất cả
những tình huống, chi tiết miêu tả ngoại hình, hành động đó đều là cái cớ để miêu tả
tâm trạng. Mỗi nhân vật gắn với một tình huống, sự kiện, câu chuyện cụ thể trong
đời sống tạo chất xúc tác cho nhà thơ bộc lộ tâm trạng.
3.3.2 Sắp xếp sự kiện và nhân vật trong thơ Nguyễn Bính
 Sự kiện

Sự sắp xếp các sự kiện là một trong những phương pháp quan trọng trong nghệ thuật kể
chuyện của tác phẩm tự sự. Có điều, khác với tác phẩm tự sự, mục đích của sự sắp xếp sự
kiện trong thơ ca nói chung, thơ Nguyễn Bính nói riêng , không nhằm gây kịch tính, tái
hiện số phận, tính cách, mà nhiệm vụ chủ yếu của sự sắp xếp này là kể chuyện tâm trạng,
31
bộc lộ những suy tư của nhân vật. Nguyễn Bính sắp xếp các sự kiện trong thơ theo nhiều
dạng khác nhau, trong đó nổi bật là ba dạng: sắp xếp theo trình tự thời gian tuyến tính,
sắp xếp theo hồi tưởng và sắp xếp theo lối song hành.

Trình tự thời gian tuyến tính (chủ yếu)

Sắp xếp sự kiện theo trình tự thời gian tuyến tính là một lối tổ chức sự kiện khá phổ biến.
Nhiều bài thơ của Nguyễn Bính cũng tuân theo trình tự này, sự việc xảy ra trước nói
trước, xảy ra sau nói sau. Trình tự này được thể hiện rất rõ nét qua bài “Mưa xuân”.

Sắp xếp theo dòng hồi tưởng (chủ yếu)

Trong thơ Nguyễn Bính, chúng ta còn thấy sự lặp lại khá nhiều của cấu trúc tổ chức sự
kiện như sau: nhân vật trữ tình hồi tưởng về những việc đã diễn ra trong quá khứ, lang
thang trên mảnh đất hồi ức màu mỡ, đẹp tươi rồi ngây ngất, đắm chìm trong đó; rồi sực
tỉnh khi quay trở về đối diện với thực tại dẫn đến nỗi thất vọng, buồn bã. Chẳng hạn như
trong bài “Trường huyện”, nhân vật trữ tình từ thực tại hoài niệm về quá khứ, về những
kỉ niệm ngày “anh” và “em” còn đi học chung – những kỉ niệm tươi đẹp, trong trẻo tuổi
thần tiên nhưng không kém phần mộng mơ.

Lối song hành

Một lối sắp xếp sự kiện nữa mà Nguyễn Bính sử dụng đó là đặt các sự kiện (thường là hai
sự kiện) ở thế song hành, đăng đối để bổ sung cho nhau hoặc đối nghịch nhau. Theo đó,
nhân vật trữ tình có “đất” để bộc lộ những trạng thái tình cảm, cảm xúc cũng trái chiều,
đối lập rất phong phú, phức tạp của mình. Khi đó, bài thơ cũng được chia ra làm các phần
rõ ràng tương ứng với các sự kiện. Ví dụ, trong bài “Qua nhà”, tâm tư của chàng trai với
người con gái mình thầm thương trộm nhớ được thể hiện qua hai mốc sự kiện: trước và
sau khi nàng đi lấy chồng.

 Nhân vật
Quan hệ đối chiếu, bổ sung
Đối với những bài có từ hai nhân vật trong thơ trữ tình trở lên, mối quan hệ giữa các nhân
vật này thường là quan hệ bổ sung, hỗ trợ nhau. Chằng hạn như trong những bài thơ viết
về tình cảm gia đình của Nguyễn Bính thường xuất hiện những nhân vật thành viên trong
gia đình như bà, cha, mẹ, cô,…

32
Nếu có hai nhân vật trong thơ trữ tình, họ thường có mối quan hệ đối chiếu để làm nổi bật
cảm xúc, thái độ và dụng ý nghệ thuật của tác giả. Thi nhân từng nhắc đến hai người phụ
nữ là cô Oanh và chị Trúc trong đôi câu thơ của mình:“Nghỉ học, cô Oanh lòa một mắt/
Lấy chồng, chị Trúc bó hai tay”. Một người đại diện cho mối tình đắm say nhưng nhiều
phần chua xót của tác giả, một người là người chị mà tác giả vẫn quý mến, cảm thương.
Ở đây, câu chuyện những người phụ nữ hồng nhan bạc mệnh, tình duyên lỡ dở đã bổ trợ
cho nhau góp phần thể hiện một nét giá trị nhân đạo trong thơ Nguyễn Bính. Mối quan hệ
đối chiếu, bổ sung còn được thể hiện qua nhân vật người cha và người mẹ (tên Dung)
trong bài “Oan nghiệt”. Tác giả chua xót khi nhắc đến cảnh ngộ bi thương của những
người cùng hội cùng thuyền: thi nhân – ca xướng.
Quan hệ đối lập
Bên cạnh đó, Nguyễn Bính còn sắp xếp nhân vật theo quan hệ đối lập. Thơ ông thường
viết về những nhân vật có sự đối lập nông thôn – thành thị, hiện đại – truyền thống.
Trong bài “Tình tôi”, tình cảm của “tôi” thì luôn mặn mà, vẹn tròn, thủy chung trước mọi
sóng gió cuộc đời, trái lại, “tình cô” sớm nở chóng tàn, dễ dàng đổi thay, phôi pha:

“Tình tôi là giọt thủy ngân


Dù nghiền chẳng nát dù lăn vẫn tròn
Tình cô là đóa hoa đơn
Bình minh nở để hoàng hôn mà tàn.”

Nguyễn Bính đã rất khéo léo, tinh tế trong việc lựa chọn hình ảnh, sử dụng ngôn
từ tạo ra sự đối lập. Cặp nhân vật “tôi” – “cô” không chỉ tương phản trong chuyện tình
cảm mà còn hiện lên như hai đại diện của tư tưởng nông thôn và thành thị, của truyền
thống và hiện đại:

“Hồn tôi giếng ngọt trong veo


Trăng thu trong vắt biển chiều trong xanh
Hồn cô cát bụi kinh thành
Đa đoan vó ngựa chung tình bánh xe.”

Nếu như chàng trai giữ tâm hồn mộc mạc, dung dị, trong sáng của hồn quê thì cô gái bị
hấp dẫn bởi lối sống chốn phồn hoa kinh kì.

33
Thơ Nguyễn Bính còn xây dựng những cặp nhân vật đối lập trong quan niệm, tư tưởng
giữa hiện đại và truyền thống, đối lập trong lối sống thành thị và nông thôn. Sự tổ chức
nhân vật theo quan hệ tương phản ở đây tuy không đẩy hai nhân vật về hai cực quá đối
nghịch nhau nhưng lại có hiệu quả trong việc thể hiện thông điệp của tác giả: hãy giữ lấy
hồn cốt dân tộc đang dần phôi pha.

II. GIỚI THIỆU MỘT SỐ TÁC PHẨM TIÊU BIỂU


1. CHÂN QUÊ

Chân quê là một tuyên ngôn nghệ thuật của Nguyễn Bính được viết bằng thơ. Xét toàn
diện trên bề mặt câu chữ, dấu răng Nguyễn Bính ẩn hiện tất thảy, kể cả ngay tiêu đề đã
nói lên một tình yêu quen thuộc của thi sĩ nhà quê, bài thơ rằng: “Chân quê”. . Tất cả bày
tỏ một điều: :Chân quê” - chính là những cái gốc gác của quê hương. Đó là những cái
móng rễ, của quên hương mà mỗi người sinh ra trên đời đều được thừa hưởng. Một cái
tôi thôn dã đã được bộc lộ rõ và sau đó một cái tôi mang “nỗi sầu thành thị” cũng đồng
thời được biểu đạt với một loạt các biểu hiện nghệ thuật đặc trưng.

Hôm qua em đi tỉnh về,


Đợi em ở mãi con đê đầu làng.
Khăn nhung, quần lĩnh rộn ràng.
Áo cài khuy bấm, em làm khổ tôi!

Nào đâu cái yếm lụa sồi?


Cái dây lưng đũi nhuộm hồi sang xuân?
Nào đâu cái áo tứ thân?
Cái khăn mỏ quạ, cái quần nái đen?
Nói ra sợ mất lòng em,
Van em! Em hãy giữ nguyên quê mùa.
Như hôm em đi lễ chùa,
Cứ ăn mặc thế cho vừa lòng anh.

34
Hoa chanh nở giữa vườn chanh
Thầy u mình với chúng mình chân quê
Hôm qua em đi tỉnh về
Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều

“Chân quê” thấm đẫm nét văn hóa truyền thống Việt Nam chỉ qua bề mặt câu từ. Không
phải ngẫu nhiên văn học dân gian với các điệu hò, ca dao lục bát len lỏi vào sâu tâm
khảm mà ăn sâu đến từng lời ăn tiếng nói của cư dân máu đỏ da vàng này đến thế. Một
cái hay là, chúng đều có tính đại chúng- dễ nghe, dễ nhớ, dễ phổ biến. Vì thế, “chân quê”
gần gũi và thân thiện hơn với đối tượng trước tiên phải kể đến giá trị của việc lựa chọn
thể thơ lục bát. Phàm thứ gì đã là truyền thống, thói quen ăn sâu thì thường được tôi
luyện nhuần nhuyễn đến đỉnh cao. Nguyễn Bính là giữ nguyên luật lục bát truyền thống:
nhịp đi đều 2/2 nhịp nhàng, dàn trải các cung bậc cảm xúc khác nhau. Là nhịp đều, rải
vần thường thấy, ngôn ngữ giản dị nhưng đọc lại thổn thức, xao động tâm can. Thật ra,
với “chân quê”, sử dụng hình thức truyền thống ấy lại càng khắc sâu tình cảm của nhân
vật trữ tình trước về tình quê, nét “hương đồng gió nội”. Ngôn ngữ giản dị làm nên điệu
nói, thơ không chỉ còn là thơ mà là tiếng nói tâm hồn tha thiết của nhân vật “tôi” (chàng
trai). Không rõ đó là lời tự sự cho thỏa lòng bản thân hay vấn đáp với cô nàng mới về
tỉnh. Nhưng dẫu sao, tất cả đều là biểu hiện cho sự chua xót, tiếc nuối trong bàn cân “quê
cũ” và “thành thị”. Đối chọi với sự thay đổi từ phố phồn hoa “khăn nhung, quần lĩnh, áo
cài khuy bấm” là hình ảnh quê chân chất của “yếm lụa sồi, dây lưng đũi nhuộm, áo tứ
thân, khăn mỏ quạ, quần nái đen”. Rồi là hình ảnh “con đê” của quê hương một lòng thủy
chung đợi em. Dấu ấn thôn dã xuất hiện dày đặc như thế cộng hưởng với một loạt câu hỏi
tu từ chất vấn, chỉ là một niềm hi vọng nhỏ nhoi, mong ước vẹn nguyên về chất “quê
mùa". Và ở đây, ta thấy rõ rằng, một cái tôi thôn dã đang chưa thể chấp nhận cái tôi thành
thị. Cô gái tân thời và chàng trai làng quê chỉ là biểu tượng cho một thông điệp, tấm lòng
lớn lao hơn.

Nguyễn Bính có thực sự chối bỏ cái mới như nhiều nhà nghiên cứu đã nhận xét khi phân
tích bài thơ Chân quê không? Nhiều người khẳng định Nguyễn Bính muốn giữ nét “chân
quê” căn cứ vào câu: “Nào dâu cái yếm lụa sồi/ Cái dây lưng đũi nhuộm hồi sang xuân?/

35
Nào dâu cái áo tứ thân/ Cái khăn mỏ quạ, cái quần nái đen? Nói ra sợ mất lòng em/ Van
em em hãy giữ nguyên quê mùa”. Thực ra Nguyễn Bính không kì thị với những thứ “tân
”. Điều mà bài Chân quê muốn chối bỏ là sự không phù hợp, không hòa hợp chứ không
phải dấu ấn thị thành nhuốm trên cô gái. Điều mà nhân vật trữ tình trong bài thơ đó theo
đuổi là “Hoa chanh nở giữa vườn chanh”. Cô gái đi tỉnh về mang theo hơi hướng thị
thành đã không còn là “hoa chanh nở giữa vườn chanh” nữa, “khăn nhung quần lĩnh”,
“áo cài khuy bấm” không phù hợp với không gian “con đê đầu làng”, không phù hợp với
hoàn cảnh “thầy u mình với chúng mình chân quê”, và rất có thể, nhân vật trữ tình cảm
thấy mình không theo kịp sự đổi mới đó nên muốn kéo cô gái trở về với “áo lụa sồi, khăn
mỏ quạ”.thời”. Chỉ là vì vấn vương mà e rằng cho là chưa hòa hợp được cái đô thị kì khôi
ấy. Xét về thời điểm ra đời bài thơ, làn sóng Tây Âu xâm chiếm mạnh đến tạo ra bước
ngoặt trong văn hóa, một sự khởi đầu mới đồng thời cũng mang một dấu chấm hết cũ.
Vậy “Chân quê” đặt ra một vấn đề “nỗi lo âu về sự mai một văn hóa truyền thống”. Một
vấn đề xuất phát từ tâm cảm cá nhân, nhưng phóng rộng, đã là một vấn đề của chung.

2. TƯƠNG TƯ

Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông,

Một người chín nhớ mười mong một người.

Gió mưa là bệnh của giời,

Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.

Hai thôn chung lại một làng,

Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này?

Ngày qua ngày lại qua ngày,

Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng.

Bảo rằng cách trở đò giang,

Không sang là chẳng đường sang đã đành.

Nhưng đây cách một đầu đình,

36
Có xa xôi mấy mà tình xa xôi...

Tương tư thức mấy đêm rồi,

Biết cho ai, hỏi ai người biết cho!

Bao giờ bến mới gặp đò?

Hoa khuê các bướm giang hồ gặp nhau?

Nhà em có một giàn giầu,

Nhà anh có một hàng cau liên phòng.

Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông,

Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?

Cho tôi hỏi, tình yêu là gì? Phải chăng là nỗi khoắc khoải chờ mong đáp lại từ hai trái tim
thổn thức? Hay vốn dĩ là tình yêu đơn thuần của chàng trai thôn quê đáp nhìn cô càng
thôn cạnh. “Tương tư” của Nguyễn Bính là khúc hát yêu, một chủ đề quen thuộc thế kỷ
cơ lại xoay vần đa diện. Vậy điểm nhấn của Nguyễn Bính được khắc trong bài thơ này là
gì? Trước tiên lại nói về hình thức thơ, lục bát. Cái cũ nhưng huyền thoại, dễ ăn sâu vào
tiềm thức cũng không kém phần tình cảm trong giọng điệu. Cái cũ này không cũ theo lối
của ca dao dân gian, có điểm khác không trộn lẫn, nhà thơ mới Nguyễn Bính đưa nhịp và
vần ngắt nghỉ theo cảm xúc của chính chủ thể trữ tình chứ chẳng theo khuôn phép truyền
thống. “Ngày qua ngày/ lại qua ngày”, là nhịp 3/3 không là nhịp chẵn truyền thống, là
mới. Chưa kể, không là cấu kết motip quen thuộc nào, Nguyễn Bính tự tào cho mình một
kết cấu đầu cuối tương ứng đầy duyên dáng: “Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông”. Cơ mà dẫu
sao, cái nét thôn dã của Nguyễn Bính vẫn đặc sệt. Đó là những hình tượng bến, đò, hoa,
bướm được dùng nhiều trong văn học dân gian, ẩn dụ biểu tượng cho đôi lứa trai gái
trong tình yêu. Hay trầu cau là những vật chung đôi truyền thống, là biểu tượng cho mối
tình trăm năm kết tóc se duyên chẳng đổi dời. Trầu – cau có ý nghĩa vô cùng đặc biệt
trong mỗi cuộc vui hạnh phúc, vì vậy, Nguyễn Bính là sử dụng hình ảnh này như một sự

37
hy vọng cho mối tình đơn phương này có một cái kết hạnh phúc viên mãn. Tinh tế của
nghệ thuật là sắp xếp hình ảnh tương xứng, đối trên đối dưới hòa hợp mà gợi mong ước,
tình cảm lứa đôi. Không chỉ thế, sự so sánh kệch cỡm giữa tình yêu con người với cảnh
vật quê hương gợi một thứ hồn quê âm ỉ mà mãnh liệt, vị thế của quê hương hay tình yêu
chúng ta lớn lao hơn bao giờ hết.

Tình yêu của chàng trai sao mà thổ lộ khéo léo mà thiết tha đến thế. Mới đầu vào đã vòng
vo, quanh quẩn gợi làng này làng kia, chưa xuất đầu lộ diện. Ngay sau đó đã lộ ra cái tình
ý của mình mà đổi sang khát khao, hi vọng, bộc lộ dồn dập. Đây cũng là một điều cách
tân trong việc thổ lộ tình cảm truyền thống, e lệ còn chi mà chủ động bày tỏ. Lúc này,
tình cảm trìu mến cứ chạy dọc xuyên suốt bài thơ, vì quá yêu mà rối rắm, mọi cũng bậc
cảm xúc cứ lần lượt ẩn hiện. Để rồi dòng suối tình cảm ấy dịu ngọt, chạy qua không chỉ
một người mà nhiều người, thứ tình cảm của người nhà quê thủy chung, đơn thuần mà
đẹp đẽ biết bao! Nguyễn Bính – một thi sĩ đồng quê dạt dào tình yêu quê hương đất nước.
Những chất liệu dân gian từ hình thức đến cảm hứng được nhà thơ vận dụng vào bài đầy
sáng tạo. Đó là một tư duy nghệ thuật vô cùng văn minh, một tư tưởng mới được bộc lộ
quá những tinh hoa, cốt cách văn học dân tộc, ngôn ngữ giản dị mà ý tứ sâu lắng, cảm
xúc chân thành.

3. MƯA XUÂN

38
Có ai đó đã từng nói “Cảm hứng thơ là sức sống bên trong đã tích tụ, ấp ủ lên men sáng
tạo, thời điểm mà ngọn lửa thơ ca bùng cháy”. Cảm hứng trong bài thơ “Mưa xuân” là

39
nỗi tủi phận, tủi duyên, là nỗi lỡ làng của cô gái dưới đêm mưa. Mạch cảm xúc đó được
thể hiện qua diễn biến tâm trạng của nhân vật trữ tình: Ban đầu là háo hức, mê say, là
“xăm xăm băng nẻo”, là “đánh đường tìm hoa”. Phần sau là lỡ dở, buồn thương, tủi
phận…Ngày xuân đọc “Mưa xuân” của Nguyễn Bính, ta như được thả hồn mình về với
một miền quê Bắc Bộ yên vui thanh bình, có mưa xuân, hoa xoan, rộn rã tiếng trống chèo
và một tình yêu đầu trong sáng, nhẹ nhàng, man mác. Thời gian, không gian tràn đầy tiết
xuân, địa danh phiếm chỉ “Hội chèo làng Đặng”, “Thôn Đoài hát tối nay”như “Thôn Đoài
ngồi nhớ thôn Đông”…mang nét làng quê Bắc Bộ, thể thơ lục bát mang âm hưởng ca
dao, dân ca, từ láy gợi hình, gợi cảm “phơi phới”, “lớp lớp”, “rụng rơi”, thành ngữ “năm
tao bảy tuyết”, “thi trung hữu họa”, “tả cảnh ngụ tình”, “ý tại ngôn ngoại”…Bài thơ thấm
đậm tình quê, hồn quê của “nhà thơ chân quê” tài hoa Nguyễn Bính. “Nhà thơ này yêu
thôn quê một cách kỳ lạ, cái tình yêu ấy làm cho thơ ông, ở những câu bình dị nhất, vẫn
có sức lôi cuốn, vẫn có cái duyên xao động lòng người. Dưới mắt, những cảnh sắc thật
thông thường ở thôn quê cũng gợi cảm, đâu chỉ ánh trăng mới đẹp mà cảnh mưa phùn,
hoa xoan…vẫn làm ta xúc động nhớ thương. Ngôn từ trong bài thơ giàu có, sáng tạo và
tinh luyện, đậm đà màu sắc đồng quê: thoi xinh / thoi ngà; khung cửi/ giường cửi; thôi
đê / dải đê; Năm tao bảy tuyết anh hò hẹn; Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy / Hoa xoan đã
nát dưới chân giày; v.v…Nhiều câu thơ tác giả nhập thân vào nhân vật, nên ngôn ngữ thể
hiện rõ nét những cung bậc tâm trạng cô gái, bài thơ như lời tự tình của cô gái vậy.

Bên cạnh đó, Nét đặc sắc và độc đáo của bài thơ Mưa xuân là nghệ thuật lấy cảnh vật để
diễn tả tâm trạng nhân vật trữ tình trong quá trình vận động, biến đổi. Năm lần Nguyễn
Bính nói đến mưa xuân, nhưng mỗi lần một vẻ, mang sắc thái biểu cảm vui, buồn khác
nhau theo mạch thời gian và tâm trạng:

- Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay

- Mưa chấm bàn tay từng chấm lạnh

- Mưa bụi nên em không ướt áo

- Áo mỏng che đầu mưa nặng hạt

- Bữa ấy mưa xuân đã ngại bay

40
Chữ "chấm" được điệp lại hai lần trong câu thơ "Mưa chấm bàn tay từng chấm lạnh" hay
hơn, hình tượng hơn, biểu cảm hơn chữ "thấm" in trong một văn bản khác: "Mưa thấm
bàn tay từng chấm lạnh".

Nguyễn Bính không viết như các thi sĩ khác: xuân mạt hạ sơ, xuân hướng lão, xuân già,
xuân tàn, mùa xuân chín..., mà ông lại có cách nói khác:

- Mẹ bảo: "Mùa xuân đã cạn ngày"

- Anh ạ! "Mùa xuân đã cạn ngày".

Chữ "cạn" trong tục ngữ, ca dao đã nhập hồn vào câu thơ Nguyễn Bính, tạo nên phong
cách ngôn ngữ dân dã, bình dị mà tài hoa.

Bài thơ thể hiện diễn biến tâm trạng của cô gái thôn Đông lần đầu tiên hẹn hò tìm nhau
với chàng trai thôn Đoài trong đem hát chèo của làng. Cô đã xốn xang chờ đợi, bươn bả
đến nơi hẹn, đã hồi hộp bồn chồn ngóng tìm … Nhưng cuối cùng chàng trai kia quên mất
lời hẹn. Cô gái một mình trở về dưới đêm mưa trong nỗi sầu tủi. Lấy mùa xuân hòa trộn
cùng tình yêu, một sắc thái rất riêng của Nguyễn Bính. Mùa xuân trong thơ ông dù ở
cung bậc cảm xúc nào cũng đều mê hoặc và quyến rũ lòng người: Những nỗi lòng, khắc
khoải chờ mong, sự nhớ thương da diết. Những xúc cảm đó hòa vào cảnh sắc và bóng
dáng con người trong thơ ông thấm đượm tình quê, duyên quê, phảng phất ý vị và vẻ đẹp
“chân quê”. Mùa xuân không chỉ là ám ảnh mà còn trở thành định mệnh trong đời thơ
Nguyễn Bính. Vì thế, có lẽ không ai viết về mùa xuân nhiều như Nguyễn Bính và cũng
không ai viết buồn như Nguyễn Bính. Nguyễn Bính ra đi ở tuổi 48 vào 29 Tết xuân Bính
Ngọ (1966). Cái buồn và mùa xuân trong thơ của ông dường như được vận vào cả cuộc
ông vậy: “Năm mới tháng Giêng mùng Một Tết/ Còn nguyên vẹn cả một mùa xuân”
(Nhạc xuân).

III. TỔNG HỢP Ý KIẾN ĐÁNH GIÁ VỀ NGUYỄN BÍNH


1. ĐÁNH GIÁ VỀ TÁC GIẢ

Người nhà quê của Nguyễn Bính vẫn ngang nhiên sống như thường. – Hoài Thanh

Thơ Nguyễn Bính còn sống mãi, làm việc mãi cho tương lai, người Việt Nam còn yêu thơ
Nguyễn Bính mãi, càng văn minh hiện đại lại càng trân trọng. – Vũ Quần Phương

41
So với các nhà thơ lãng mạn trước đây, Nguyễn Bính đứng riêng một cõi. – Lê Đình Kỵ.

Thơ và cuộc đời ràng buộc nhà thơ. Trước sau và mãi mãi, Nguyễn Bĩnh vẫn là thi sĩ của
chân quê, hồn quê.- Tô Hoài

Thơ Nguyễn Bính có cái thi pháp trời cho những bậc thiên tài có tên gọi là tự nhiên như
thở- Nguyễn Duy

Tôi tìm về thơ ông như tìm về xứ sở bởi thơ ông có đủ tất cả những gì mà làng quê ta có.
Mưa bụi, bờ đê, vườn cau, bến nước… Vì thế nó “đánh thức” người nhà quê vẫn ẩn náu
trong lòng ta (Hoài Thanh - Hoài Chân).

Và thơ Nguyễn Bính đã đánh thức người nhà quê vẫn ẩn náu trong lòng ta (Hoài Thanh)

Những câu thơ ấy như được viết cho con người ở nhiều thời khác nhau. Nghĩa là những
cá nhân con người khác biệt vẫn tìm được những điều chung cho chính họ từ thơ Nguyễn
Bính để bày tỏ tình yêu, sự nhớ thương, chia sẻ, nỗi buồn, cái đẹp. –Nguyễn Quang Thiều

Nguyễn Bính đã và sẽ là nhà thơ của nhiều thời! Với ý nghĩa và tầm vóc thơ Nguyễn
Bính, việc dịch và giới thiệu rộng rãi thơ Nguyễn Bính với cộng đồng quốc tế là rất cần
thiết. Để nhân loại hiểu Việt Nam hơn!- Bùi Mạnh Nhị

2. ĐÁNH GIÁ VỀ MỘT BÀI THƠ, CÂU THƠ, HÌNH ẢNH…TRONG


THƠ NGUYỄN BÍNH
Tiếc thay Nguyễn Bính lại không phải là người thời xưa! Cái đẹp kín đáo của những vần
thơ Nguyễn Bính tuy cảm được một số đông công chúng mộc mạc, khó lọt vào con mắt
các nhà thông thái thời nay. Tình cờ có đọc thơ Nguyễn Bính họ sẽ bảo: "Thơ như thế
này thì có gì?". Họ có ngờ đâu đã bỏ rơi một điều mà người ta không thể hiểu được bằng
lý trí, một điều quý vô ngần: hồn xưa của đất nước.
Kể, một phần cũng là lỗi thi nhân. Ai bảo người không nhà quê hẳn? Người đã biết trách
người gái quê:

Hoa chanh nở ở vườn chanh,


Thầy u mình với chúng mình chân quê
Hôm qua em đi tỉnh về,
Hương đồng, gió nội bay đi ít nhiều.

42
Thế mà chính người cũng đã "đi tỉnh" nhiều lắm. Dấu thị thành chẳng những người mang
trên quần áo, nó còn in vào tận trong hồn. Khi người than:
Đời có gì tươi đẹp nữa,
Buồn thì đến khóc, chết thì chôn.
Khi người tả cảnh xuân:
Đã thấy xuân về với gió đông,
Với trên màu má gái chưa chồng.
Bên hiên hàng xóm, cô hàng xóm
Ngước mắt nhìn trời đôi mắt trong.
ta thấy người không còn gì quê mùa nữa.
Thế thì những câu trên này nên bỏ đi ư? Ai nỡ thế. Nhưng có những câu ấy mà người ta
khó nhận thấy cái đặc sắc của Nguyễn Bính, chỗ Nguyễn Bính thì hơn các nhà thơ khác,
ít được người ta nhìn thấy, Đó là một điều đáng vì Nguyễn Bính phàn nàn. Đáng trách
chăng là giữa những bài giống hệt ca dao người bỗng chen vào một đôi lời quá mới. Ta
thấy khó chịu như khi vào một ngôi chùa có những ngọn đèn điện trên bàn thờ. Cái lối
gặp gỡ ấy của hai thời đại rất dễ trở nên lố lăng.

Nguyễn Bính viết về những người phụ nữ nông thôn trước cách mạng với nỗi đau khổ,
tủi hờn, vất vả rất chân thật và xót xa, nếu không có một tình yêu cũng như sự gắn bó với
quê hương thì có lẽ ông không thể chắp bút nên những vần thơ hay và day dứt đến thế.
“Em ơi em ở lại nhà
Vườn dâu em đốn mẹ già em thương
Mẹ già một nắng hai sương
Chị đi một bước trăm đường xót xa.”
– Lỡ bước sang ngang

So sánh mình với giời, ngông là thế mà thấy cũng chấp nhận được. Bởi cả hai có cùng
một căn bệnh. “Tôi” và “giời” hoá ra là hai kẻ đồng bệnh. Thế mà chưa hết đâu, cái tôi này còn
toan tính hạ thấp cả giời trong so sánh đó nữa. “Gió mưa là bệnh của giời”, thì bệnh đó là một
thứ tật, một thói hư, giời giở chứng ra – một thứ bệnh nội sinh có sẵn! Còn “Tương tư là bệnh
của tôi yêu nàng” thì là căn bệnh mắc phải do “ngoại nhập”. Từ ngày yêu nàng, “tôi” mới mắc
bệnh này. Coi tương tư là một thứ “bệnh”, mới kể lể được những khổ sở của cái Tôi mang bệnh.
Mà bệnh nay đa mắc thì… phi em vô phương cứu chữa. Trong câu thơ, thấy có cái giọng chấp

43
nhận một thực tế, một quy luật tất yếu không cưỡng lại nổi. Cái “Tôi hiện ra vừa như một tình
nhân đắm đuối vừa như một nạn nhân tự nguyện rước bệnh, rước khổ sở vào thân. Có phải khi
yêu, lời chân thành nào cũng hoá khôn ngoan thế chăng? Có phải thế là sự khôn ngoan… dễ
thương?
Tất cả đã sẵn sàng và đang nóng lòng chờ đợi. Chỉ còn em nữa thôi! Thôn Đoài đã hằn là nhớ
thôn Đông, điều ấy không còn nghi ngờ bàn cãi nữa rồi. Vậy thì, cau thôn Đoài còn biết nhớ
giầu không thôn nào nữa đây. Câu thơ chứa trong nó một lôgic thật… nguy hiểm!
Vậy là, trong thẳm sâu tâm lí, Tương tư chính là khao khát hạnh phúc.
(…)Giờ thống kê kĩ hơn, mới thấy nhiều cặp đôi hơn ẩn náu khắp bài thơ
“Thôn Đoài – Thôn Đông
Một người – Một người
Tôi – Nàng
Bên ấy – Bên này
Bến – Đò
Hoa khuê các – Bướm giang hồ
Nhà anh – Nhà em
Và cuối cùng lầ:
Trầu-Cau
Kết như thế thật khéo!”
Vòng vo, xa gần, cuối cùng vẫn cứ tụ lại ở điều cần nhất, khắc khoải nhất: ấy là trầu – cau!

Cảm và nói cho hết cái hay cái đẹp ở thơ là một vấn đề thật không đơn giản. Tôi nghĩ rằng, điều
quan trọng nhất của công việc bình văn, bình thơ là hướng ngòi bút của mình vào, khơi đúng
“mạch ngầm” ẩn dưới lớp vỏ ngôn ngữ, âm thanh. May mắn thay trong thơ Nguyễn Bính, cái
ranh giới giữa bề mặt, bề sâu hầu như bị phá vỡ. Trong thơ ông, cảnh quê, hồn quê, tình quê hòa
quyện vào nhau. Khi viết về đồng quê, nhà thơ không chỉ cảm nhận, miêu tả cảnh vật thiên
nhiên một cách tinh tế mà thi sĩ còn nhập tâm vào, âm thầm lắng nghe những rung động thiết
tha, những nỗi lòng rạo rực, lắng sâu, rồi lại cất lên trong “gió nội hương đồng”. Ở đó, có nỗi
ngậm ngùi của tuổi học trò lần về kỷ niệm (Trường quê), có sự trách móc đáng yêu “bõ ghét” và
nỗi tương tư của chàng, của nàng khi đành “lỗi hẹn” (Mưa xuân, Tương tư). Có cả tấm lòng
người mẹ xa con (Lòng mẹ) và chất chân quê con người thôn dã (Chân quê, Thanh đạm, Trưa
hè)

44
Cách nhau cái dậu mùng tơi xanh rờn
Cái chi tiết này đắt lắm. Ngày xưa Thúy Kiều phải dũng cảm khó khăn
“xăm xăm băng lối vườn khuya một mình” sang nhà Kim Trọng, nay hai người
này có mỗi cái bờ rào, mà cũng không phải làm bằng thứ cây rậm cứng như cây
duối hay cây dâm bụt, nó chỉ là “dậu mùng tơi”, giống cây thân leo lá mềm, yếu
ớt thế, đâu có ăn nhằm chi. Chắc là họ sẽ đến với nhau rất dễ dàng - ta nghĩ vậy,
và ta chờ đợi.

Nét đặc trưng trong lối Kể chuyện của Nguyễn Bính, nói nôm na là
“chuyện cũ viết lại”, nghĩa là cái đã xảy ra trong đời ông hay đời ai đó nay được
ông nhớ lại và trần thuật chúng: cái “Nàng - Người hàng xóm” chỉ là một hoài
niệm, một hồi ức buồn; cái chuyện “em đi tỉnh về” cũng là chuyện “hôm qua”
bữa nay Nguyễn Bính nói lại mà thôi; cái “anh lái đò” cũng thế, với “giấc mơ
năm xưa chở thuyền” cho cô gái, bây giờ nghe “đồn rằng” nàng đi lấy chồng rồi,
mới buồn lòng mà ôn lại chuyện cũ; và cái chuyện “tương tư” của thôn Đoài với
thôn Đông thì cũng “thức mấy đêm rồi”…

Khảo sát thơ Nguyễn Bính, chúng ta dễ dàng nhận thấy, ông viết rất nhiều và rất hay về
mùa xuân: “Xuân về”, “Gái xuân”, “Mưa xuân”, “Thơ xuân”, “Xuân”, “Mùa xuân xanh”,
“Xuân tha hương”, “Xuân vẫn tha hương”, “Xuân về nhớ cố hương”, “Tết”, “Tết của mẹ
tôi”, “Tết biên thùy” … Nhưng khác với mọi nhà thơ, thơ xuân Nguyễn Bính không đơn
thanh mà đa thanh, đa giọng, đa sắc thái, đa hình ảnh. Xưa nay như một sự mặc định, thơ
xuân, thơ Tết là phải mang âm hưởng vui tươi thì trong thơ Nguyễn Bính, đề tài này luôn
song hành hai mạch cảm xúc buồn – vui mà cái sự vui buồn của ông cũng rất khác trước.
Căn cốt của vấn đề là bởi đối tượng đã được ông tiếp cận chủ yếu từ góc nhìn văn hóa,
qua con mắt của kẻ tha hương, mùa xuân luôn gắn với những hoài niệm nhớ thương, còn
Tết được nhìn qua cái nhìn thân phận khổ đau xa cách nên thơ về mùa xuân và Tết của
Nguyễn Bính không chỉ mang âm hưởng tươi vui, không chỉ là bức tranh tươi sáng mà
xuất hiện rất nhiều nỗi buồn ly biệt.

45

You might also like