Professional Documents
Culture Documents
Tiểu luận 09
Tiểu luận 09
1
Tạc Thị Minh Huyền (2017), “Tổng thuật các công trình nghiên cứu về ứng dụng công nghệ thông tin trong công
tác lưu trữ ở Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Lưu trữ học, chương 2, trang 47.
2
http://luutruvn.com/index.php/2018/09/20/phat-trien-nguon-nhan-luc-luu-tru-dap-ung-yeu-cau-ky-nguyen-cong-
nghiep-4-0/
3
https://www.moha.gov.vn/tin-tuc-su-kien/tin-hoat-dong-cua-bo-noi-vu/cu-ng-co-van-thu-luu-tru-truye-n-tho-ng-
35118.html
thông tin vào các hoạt động nghiệp vụ của ngành Văn thư và Lưu trữ là một nhiệm
vụ và sẽ tạo nên một phương cách hoạt động mới” 4.
Mục tiêu cao nhất của ngành văn thư và lưu trữ chính là tìm mọi cách để
phát huy giá trị đặc biệt vốn có của tài liệu lưu trữ, do đó việc ứng dụng công nghệ
thông tin để phát huy giá trị tài liệu lưu trữ đang trở nên quan trọng hơn bao giờ
hết, nhấn mạnh vào việc ứng dụng công nghệ thông tin trong đa dạng hóa các hình
thức tổ chức khai thác và sử dụng tài liệu lưu trữ ở bốn Trung tâm Lưu trữ quốc
gia.
Theo tác giả Tạc Thị Minh Huyền:
“Tổ chức khai thác và sử dụng tài liệu lưu trữ là quá trình tổ chức khai thác
thông tin cần thiết từ tài liệu lưu trữ, nhằm phục vụ cho mục đích chính trị, kinh tế,
văn hóa, khoa học và các lợi ích chính đáng của công dân. Trong cuộc cách mạng
số hiện nay, nhu cầu khai thác thông tin nhanh chóng, chính xác và thuận tiện ở
mọi nơi và mọi lúc ngày càng cao”.5
Tác giả Tạc Thị Minh Huyền tổng hợp được 5/50 công trình nghiên cứu
khoa học có nội dung liên quan đến tầm quan trọng của việc ứng dụng công nghệ
thông tin trong đa dạng hóa các hình thức tổ chức khai thác và sử dụng tài liệu lưu
trữ và tác giả Tạc Thị Minh Huyền đã đưa ra một nhận định như sau:
“Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong tổ chức khai thác và sử dụng tài
liệu lưu trữ đã góp phần đáp ứng nhu cầu khai thác thông tin trong tài liệu lưu trữ
ngày càng đa dạng của con người. Với xu hướng khai thác tài liệu lưu trữ trực
tuyến thì chúng ta có thể tìm kiếm, khai thác và sử dụng tài liệu lưu trữ cho dù
đang ở bất cứ đâu, vào bất cứ thời gian nào. Đây là một xu hướng tất yếu và cũng
là bài toán khó đặt ra với các cơ quan tổ lưu trữ ở Việt Nam, bởi thực tế các biện
pháp tổ chức khai thác tài liệu lưu trữ hiện đại vẫn chưa được áp dụng phổ biến ở
các Trung tâm lưu trữ quốc gia cũng như các lưu trữ lịch sử tỉnh”.6
4
https://moha.gov.vn/kiemsoatthutuchanhchinh/tintuc/cu-ng-co-van-thu-luu-tru-truye-n-tho-ng-da-y-ma-nh-u-ng-
du-ng-cong-nghe-thong-tin-do-i-mo-i-phuong-thu-c-pha-t-huy-gia-tri-ta-i-lie-u-sa-n-sa-ng-35118.html.
5
Tạc Thị Minh Huyền 2017, ‘Tổng thuật các công trình nghiên cứu về ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác
lưu trữ ở Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Lưu trữ học (2017), chương 2, trang 56.
6
Tạc Thị Minh Huyền (2017), “Tổng thuật các công trình nghiên cứu về ứng dụng công nghệ thông tin trong công
tác lưu trữ ở Việt”, Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Lưu trữ học (2017), chương 2, trang 57.
2. Mục đích quản lý
Ví dụ về việc tổ chức khai thác và sử dụng tài liệu lưu trữ để thực hiện
chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan tại tỉnh Quảng Trị:
Những năm qua, UBND tỉnh Quảng Trị đã ban hành nhiều văn bản quản lý
nhà nước đối với hoạt động văn thư, lưu trữ; các cấp, các ngành đã có nhận thức,
hành động tích cực do đó công tác quản lý, khai thác, sử dụng tài liệu lưu trữ trên
địa bàn tỉnh bước đầu đã có những chuyển biến tốt, kịp thời cung cấp thông tin
phục vụ đắc lực cho công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của các cơ quan, tổ
chức, góp phần nâng cao chất lượng nền hành chính nhà nước và năng lực cạnh
tranh cấp tỉnh.
Tuy nhiên, một thời gian dài việc thực hiện quy định của Nhà nước về công
tác văn thư, lưu trữ tại các cơ quan, tổ chức trên địa bàn tỉnh đang đặt ra yêu cầu
cấp bách, cần được khắc phục, đặc biệt là công tác quản lý, khai thác, sử dụng tài
liệu lưu trữ ở một số cơ quan, tổ chức, địa phương còn nhiều bất cập, thực hiện
chưa nghiêm túc. Một số đơn vị, cá nhân khai thác tài liệu lưu trữ tại cơ quan, tổ
chức chưa đúng quy trình, chưa được sự cho phép của người đứng đầu cơ quan, tổ
chức, tài liệu sau khi khai thác không trả lại đúng vị trí ban đầu, đặc biệt tài liệu
của HĐND, UBND nhiều xã, phường, thị trấn và một số cơ quan, tổ chức trong
toàn tỉnh không được lưu trữ đầy đủ hoặc tự ý tiêu hủy trái phép khi hết nhiệm kỳ
công tác dẫn đến tình trạng tài liệu thất lạc, mất mát gây khó khăn cho công tác
quản lý, tra tìm tài liệu.
Phần lớn hồ sơ, tài liệu hiện đang lưu giữ tại các cơ quan, tổ chức còn trong
tình trạng lộn xộn, bó gói, tích đống, tài liệu có giá trị chưa được lựa chọn nộp lưu
vào lưu trữ lịch sử tỉnh theo đúng quy định của pháp luật. Nguyên nhân của hạn
chế nêu trên là do nhận thức, trách nhiệm và công tác tuyên truyền phổ biến các
văn bản pháp luật về văn thư, lưu trữ ở một số cơ quan, tổ chức còn nhiều hạn chế,
chậm triển khai hoặc triển khai còn chung chung, hình thức; công tác khai thác, sử
dụng hồ sơ tài liệu còn tùy tiện, thiếu nghiêm túc, chưa tuân thủ quy trình, quy
định của pháp luật; việc đầu tư cơ sở vật chất kinh phí nhằm bảo quản an toàn tài
liệu chưa được quan tâm đúng mức; việc ứng dụng công nghệ tin học vào công tác
lưu trữ, tu bổ, phục chế tài liệu thiếu đồng bộ.
Để công tác quản lý, khai thác, sử dụng tài liệu lưu trữ tại các cơ quan, tổ
chức trên địa bàn tỉnh thực hiện đúng quy định pháp luật, đồng thời tiếp tục nâng
cao trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức và ý thức, trách nhiệm của
cán bộ, công chức, viên chức đối với việc bảo vệ an toàn tài liệu lưu trữ, phát huy
giá trị của tài liệu lưu trữ, phục vụ sự nghiệp bảo vệ, xây dựng và phát triển đất
nước, thiết nghĩ các cơ quan, tổ chức trên địa bàn tỉnh cần thực hiện tốt các nội
dung sau: Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quán triệt, phổ biến, nâng cao nhận
thức trong cán bộ, công chức, viên chức và người trực tiếp làm công tác văn thư,
lưu trữ hiểu rõ các quy định của pháp luật về văn thư, lưu trữ; về giá trị của tài liệu
lưu trữ.
Từ đó xác định trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức trong việc
chỉ đạo thực hiện nghiêm túc quy định của pháp luật về tài liệu lưu trữ và công tác
quản lý, bảo quản, khai thác, sử dụng tài liệu lưu trữ thuộc phông lưu trữ quốc gia
Việt Nam. Tiến hành chỉ đạo cán bộ, công chức của đơn vị rà soát, thống kê số
lượng hồ sơ, tài liệu đang lưu trữ của cơ quan, tổ chức, thu thập, chỉnh lý hoàn
chỉnh số hồ sơ, tài liệu đưa vào lưu trữ cơ quan và lựa chọn tài liệu có giá trị nộp
vào lưu trữ lịch sử tỉnh theo quy định của Luật Lưu trữ.
Cán bộ, công chức, viên chức và người trực tiếp làm công tác văn thư, lưu
trữ phải thực hiện chặt chẽ các quy trình nghiệp vụ về lưu trữ, thực hiện các biện
pháp kỹ thuật đầu tư các thiết bị, phương tiện cần thiết để bảo vệ, bảo quản an toàn
tài liệu; xây dựng nội quy, quy chế, quản lý, khai thác, sử dụng tài liệu lưu trữ, bảo
đảm cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền tiếp cận thông tin, khai thác, sử
dụng tài liệu lưu trữ để phục vụ nghiên cứu khoa học, lịch sử và các nhu cầu chính
đáng khác.
Ví dụ về việc tổ chức khai thác và sử dụng tài liệu lưu trữ kế toán để
thực hiện việc quản lý tài sản:
Đối với việc lưu trữ tài liệu kế toán, Điều 41 Luật Kế toán sửa đổi năm 2015
quy định, tài liệu kế toán phải được đơn vị kế toán bảo quản đầy đủ, an toàn trong
quá trình sử dụng và lưu trữ. Tài liệu kế toán phải đưa vào lưu trữ trong thời hạn
12 tháng, kể từ ngày kết thúc kỳ kế toán năm hoặc kết thúc công việc kế toán.
Người đại diện theo pháp luật của đơn vị kế toán chịu trách nhiệm tổ chức bảo
quản, lưu trữ tài liệu kế toán.
Để hướng dẫn rõ hơn về quy định lưu trữ tài liệu kế toán tại Luật Kế toán
sửa đổi năm 2015, Chính phủ ban hành Nghị định số 174/2016/NĐ-CP ngày
30/12/2016 quy định chi tiết một số điều của Luật Kế toán. Trong đó, tại Điều 8
quy định, loại tài liệu kế toán phải lưu trữ bao gồm: Chứng từ kế toán; Sổ kế toán
chi tiết, sổ kế toán tổng hợp; báo cáo tài chính (BCTC); báo cáo quyết toán ngân
sách; báo cáo tổng hợp quyết toán ngân sách.
Bên cạnh đó, còn có các tài liệu khác có liên quan đến kế toán bao gồm các
loại hợp đồng; báo cáo kế toán quản trị; hồ sơ, báo cáo quyết toán dự án hoàn
thành, dự án quan trọng quốc gia; báo cáo kết quả kiểm kê và đánh giá tài sản; các
tài liệu liên quan đến kiểm tra, thanh tra, giám sát, kiểm toán; biên bản tiêu hủy tài
liệu kế toán; quyết định bổ sung vốn từ lợi nhuận, phân phối các quỹ từ lợi nhuận;
các tài liệu liên quan đến giải thể, phá sản, chia, tách, hợp nhất sáp nhập, chấm dứt
hoạt động, chuyển đổi hình thức sở hữu, chuyển đổi loại hình doanh nghiệp (DN)
hoặc chuyển đổi đơn vị...
Tài liệu kế toán lưu trữ phải là bản chính theo quy định của pháp luật cho
từng loại tài liệu kế toán trừ một số trường hợp được quy định tại Nghị định số
174/2016/NĐ-CP như: Tài liệu kế toán bị tạm giữ, tịch thu; Tài liệu kế toán bị mất,
bị hủy hoại do nguyên nhân khách quan… Tài liệu kế toán phải được đơn vị kế
toán bảo quản đầy đủ, an toàn trong quá trình sử dụng. Đơn vị kế toán phải xây
dựng quy chế về quản lý, sử dụng, bảo quản tài liệu kế toán trong đó quy định rõ
trách nhiệm và quyền đối với từng bộ phận và từng người làm kế toán. Trường hợp
đơn vị kế toán là DN siêu nhỏ theo quy định của pháp luật về hỗ trợ DN nhỏ và
vừa thì không bắt buộc phải xây dựng quy chế về quản lý, sử dụng, bảo quản tài
liệu kế toán nhưng vẫn phải có trách nhiệm bảo quản đầy đủ, an toàn tài liệu kế
toán theo quy định. Đơn vị kế toán phải đảm bảo đầy đủ cơ sở vật chất, phương
tiện quản lý, bảo quản tài liệu kế toán. Người làm kế toán có trách nhiệm bảo quản
tài liệu kế toán của mình trong quá trình sử dụng.
Người đại diện theo pháp luật của đơn vị kế toán quyết định việc bảo quản,
lưu trữ tài liệu kế toán bằng giấy hay trên phương tiện điện tử. Việc bảo quản, lưu
trữ tài liệu kế toán phải đảm bảo an toàn, đầy đủ, bảo mật và cung cấp được thông
tin khi có yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Tài liệu kế toán đưa vào
lưu trữ phải đầy đủ, có hệ thống, phải phân loại, sắp xếp thành từng bộ hồ sơ riêng
theo thứ tự thời gian phát sinh và theo kỳ kế toán năm. Ngay cả các cơ quan được
cung cấp tài liệu kế toán cũng phải có trách nhiệm giữ gìn, bảo quản tài liệu kế
toán trong thời gian sử dụng và phải hoàn trả đầy đủ, đúng hạn tài liệu kế toán đã
sử dụng.
Ví dụ về việc tổ chức khai thác và sử dụng tài liệu lưu trữ nhân sự để
quản lý nhân sự:
Lưu trữ hồ sơ nhân viên là yêu cầu bắt buộc của pháp luật mà bất kỳ doanh
nghiệp nào cũng cần phải tuân thủ. Bộ phận hành chính nhân sự phải có trách
nhiệm ghi chép và lưu trữ thông tin cá nhân của người lao động tại công ty. Việc
lưu hồ sơ cán bộ nhân viên giúp doanh nghiệp quản lý tốt hơn năng lực nhân sự.
Nhằm đưa ra những quyết định kịp thời trong việc phát triển nhân sự. Lưu hồ sơ
nhân sự chính xác còn giúp doanh nghiệp tránh được các tình trạng tranh chấp với
người lao động khi có trường hợp ngoài ý muốn xảy ra.
Ví dụ về việc tổ chức khai thác và sử dụng tài liệu lưu trữ để hỗ trợ ban
hành quyết định quản lý:
Bất kỳ một ngành, lĩnh vực hoạt động nào, tổ chức bộ máy được xây dựng
hợp lý, ổn định sẽ tạo điều kiện cho ngành, lĩnh vực phát triển, ngược lại, nếu tổ
chức bộ máy không ổn định, thường xuyên có sự thay đổi thì ít nhiều sẽ ảnh
hưởng đến sự phát triển của ngành, lĩnh vực đó. Đối với địa phương, tổ chức bộ
máy ổn định, hợp lý sẽ góp phần tổ chức quản lý công tác lưu trữ và tài liệu lưu
trữ đã, đang và ngày càng được củng cố nhằm đáp ứng những yêu cầu của thực
tiễn đặt ra.
Ngày 24 tháng 01 năm 1998, Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ ban hành
Thông tư số 40/1998/TT-TCCP về việc hướng dẫn tổ chức lưu trữ ở cơ quan Nhà
nước các cấp đã đánh dấu một bước ngoặt về sự phát triển tổ chức lưu trữ địa
phương. Từ đây, hệ thống tổ chức bộ máy quản lý tài liệu lưu trữ đã được hình
thành tạo tiền đề cho công tác lưu trữ có bước phát triển mới. Tuy nhiên, từ đó đến
nay tổ chức bộ máy quản lý tài liệu lưu trữ địa phương thường xuyên có sự thay
đổi và đã ít nhiều ảnh hưởng đến hiệu quả và chất lượng của công tác này.
Riêng đối với cấp huyện, sau khi Luật Lưu trữ được ban hành, theo quy định
tại Khoản 1, Điều 19 “Lưu trữ lịch sử được tổ chức ở trung ương và cấp tỉnh để
lưu trữ tài liệu có giá trị bảo quản vĩnh viễn thuộc Danh mục tài liệu nộp lưu vào
Lưu trữ lịch sử”, đây là điểm mới của Luật Lưu trữ, với quy định này, Lưu trữ lịch
sử không còn được tổ chức ở cấp huyện như trước đây. Đây là sự thay đổi lớn, có
nhiều tác động đến tổ chức quản lý tài liệu lưu trữ ở địa phương và là vấn đề còn
nhiều vướng mắc cần có sự hướng dẫn cụ thể của nhà nước.