Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 151

1

LỤC ĐỀ CƯƠNG LỊCH SỬ ĐẢNG

Câu 1: Bảng thực tiễn lịch sử từ khi Đảng Cộng sản ra đời cho đến nay hãy chứng minh “ Sự lãnh đạo
đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của Cách mạng Việt Nam” tr2

Câu 2: Phân tích các phương hướng cơ sở xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta được xác định trong
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội bổ sung năm 2011 của Đảng?
Liên hệ vai trò và trách nhiệm của sv trong việc thực hiện phương hướng: Bảo đảm vững chắc quốc
phòng và an ninh quốc gia, trật tự và an toàn xã hội?) tr109

Câu 3 (Chủ đề 8): Phân tích vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong quá trình vận động thành lập Đảng
cộng sản Việt Nam và ý nghĩa lịch sử của việc thành lập Đảng? tr13

Câu 4: Phân tích các phương hướng cơ sở xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta được xác định trong
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội bổ sung năm 2011 của Đảng?
Liên hệ vai trò và trách nhiệm của sv trong việc thực hiện đặc trưng: “ có nền kinh tế phát triển cao
dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp”?) tr109

Câu 5: Bằng thực tiễn lịch sử (1911-1930), hãy làm rõ vai trò của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - người
sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam? tr16

Câu 6: Phân tích những đặc trưng xã hội chủ nghĩa ở nước ta được xác định trong Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội bổ sung năm 2011 của Đảng? Liên hệ vai trò
và trách nhiệm của sv trong việc thực hiện đặc trưng: “có nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do ĐCS lãnh đạo”. tr116

Câu 7: Phân tích những đặc trưng xã hội chủ nghĩa ở nước ta được xác định trong Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội bổ sung năm 2011 của Đảng? Liên hệ vai trò
và trách nhiệm của sv trong việc thực hiện đặc trưng: Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân dân
chủ văn minh” tr119

Câu 8: Phân tích hệ thống quan điểm về cách mạng giải phóng dân tộc của Nguyễn ÁI Quốc được
hình thành trong những năm 1920-1930? Ý nghĩa của những quan điểm này đối với việc hình thành
nội dung “ Cương lĩnh chính trị “ đầu tiên của Đảng? tr26

Câu 9(CĐ13.2): Chứng minh rằng, đường lối “ Kháng chiến, kiến quốc” của Đảng (25/11/1945) đã
giải quyết kịp thời những vấn đề quan trọng về chỉ đạo chiến lược sách lược của Cách mạng VN”?
tr29

Câu 10: Làm rõ sự khủng hoảng về con đường cứu nước, giải phóng dân tộc ở Việt Nam cuối thế kỉ
XIX, đầu thế kỉ XX - trước khi ĐCS VN ra đời? Phân tích nguyên nhân thất bại của các phong trào
yêu nước đó và yêu cầu đặt ra của lịch sử dân tộc? tr31

Câu 11(CĐ35): Phân tích quan điểm của ĐCSVN tại Đại hội lần thứ VIII (7/1996) về Công nghiệp
hóa trong thời kỳ mới? Liên hệ vai trò của sinh viên trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước hiện nay? tr33

Câu 12: Chứng minh đường lối cách mạng được Đảng đề ra tại Đại hội III (9/1960) đã phản ánh đúng
quy luật vận động của cách mạng ở từng miền và của chung cả nước thời kỳ kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước (1954-1975)? tr38
2

Câu 13: Phân tích nội dung đường lối đổi mới toàn diện của Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VI (12/1986) và làm rõ nhận định: “ Quyết định đổi mới đất nước của Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ VI là bước ngoặt lịch sử của cách mạng VN”. tr39

CHỦ ĐỀ:
Chủ đề 4. Tại sao Nguyễn Ái Quốc lại khẳng định: muốn cứu nước và giải phóng dân tộc Việt Nam
phải đi theo con đường cách mạng vô sản. tr8
Chủ đề 5: Nội dung và ý nghĩa những tư tưởng cách mạng của Nguyễn Ái Quốc được truyền bá vào
Việt Nam từ năm 1920 đến năm 1929. tr10
Chủ đề 6: Các yếu tố dẫn tới sự ra đời của Đảng và mối quan hệ giữa các yếu tố đó. tr11
Chủ để 7: Cương lĩnh chính trị đầu tiên và ý nghĩa của sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời tr11
Chủ đề 8: Vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong trong quá trình vận động thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam. tr13

Chủ đề 9: So sánh Luận cương chính trị tháng 10-1930 với Cương lĩnh chính trị đầu tiên (6.1.1930)
của Đảng. tr18
Chủ đề 10: Chủ trương của Đảng trong cuộc vận động dân chủ 1936- 1939. Thành quả và kinh
nghiệm của cuộc vận động này. tr19
Chủ đề 11: Phân tích Chủ trương chiến lược mới của Đảng trong giai đoạn 1939-1945 tr24
Chủ đề 12. Phân nguyên nhân thắng lợi, tính chất và kinh nghiệm của Cách mạng tháng Tám năm
1945 tr24
Chương 2
Chủ đề 13: Chủ trương và diễn biến của cuộc đấu tranh bảo vệ & xây dựng chính quyền cách mạng
thời kỳ 1945 - 1946. (chủ đề 13.1.2.3) tr41
Chủ đề 14: Phân tích nội dung cơ bản của đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp
Mỹ của Đảng. tr48
Chủ đề 15: Phân tích nội dung cơ bản của Chính cương Đảng Lao động Việt Nam (2-1951) tr54
Chủ đề 16. Những diễn biến chính của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ (1945
– 1954) tr56
Chủ đề 17. Phân tích ý nghĩa lịch sử và những kinh nghiệm lãnh đạo cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp của Đảng (1945 – 1954). tr58
Chủ đề 18. Phân tích đặc điểm của miền Bắc khi bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. tr60
Chủ đề 19. Phân tích tính chất của xã hội miền Nam sau năm 1954 và nội dung cơ bản Nghị quyết 15
tháng 1/1959. Ý nghĩa của Nghị quyết này với cách mạng miền Nam. tr62
Chủ đề 20. Phân tích nội dung cơ bản đường lối chiến lược chung của cách mạng Việt Nam được Đại
hội III (9-1960) của Đảng vạch ra. tr64
Chủ đề 21. Phân tích nội dung cơ bản đường lối chung xây dựng CNXH trong thời kỳ quá độ ở miền
Bắc được Đại hội III (9/1960) của Đảng vạch ra. tr66
3

Chủ đề 22. Quá trình hình thành, phát triển và nội dung đường lối kháng chiến chống Mỹ cứu nước
tr68
Chủ đề 23. Các giai đoạn của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 – 1975) và ý nghĩa của mỗi
giai đoạn. tr74
Chủ đề 24. Ý nghĩa lịch sử và kinh nghiệm lãnh đạo thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
(1954 – 1975). tr77
Chương 3
Chủ đề 25. Phân tích nội dung cơ bản đường lối chung xây dựng XHCN trong thời kỳ quá độ được
Đại hội IV (12/1976) của Đảng vạch ra. tr79
Chủ đề 26. Phân tích nguyên nhân, diễn biến và ý nghĩa của hai cuộc chiến tranh bảo vệ chủ quyền
biên giới phía Tây Nam và phía Bắc của tổ quốc. tr80
Chủ đề 27. Phân tích nội dung công nghiệp hóa XHCN của chặng đường đầu tiên được Đại hội V
(3/1982) vạch ra. tr86
Chủ đề 28. Làm rõ những bước đột phá trong đổi mới tư duy quản lý kinh tế của Đảng từ năm 1979
đến năm 1985. tr87

Chủ đề 29. Phân tích yêu cầu và mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng thành công
CNXH và bảo vệ vững chắc tổ quốc Việt Nam XHCN của Đại hội V (3/1982). tr89
Chủ đề 30. Phân tích những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân hạn chế của thời kỳ 10 năm xây dựng
CNXH trên phạm vi cả nước (1976 – 1985) tr91
Chủ đề 31. Phân tích nội dung bốn bài học kinh nghiệm của thời kỳ xây dựng CNXH trước đổi mới
được Đại hội lần thứ VI (12/1986) của Đảng đưa ra. tr92
Chủ đề 32. Phân tích nội dung cơ bản của chủ trương đổi mới xây dựng nền kinh tế trong thời kỳ quá
độ lên CNXH của Đại hội VI (12/1986) tr95
Chủ đề 33. Phân tích những đặc trưng cơ bản của CNXH ở Việt Nam được Đại hội VII (6/1996) đưa
ra và Đại hội XI (1/2011) bổ xung, phát triển. tr98
Chủ đề 34. Phân tích những cơ hội và thách thức lớn của cách mạng Việt Nam được Hội nghị toàn
quốc giữa nhiệm ký (4/1994) đưa ra. tr100
Chủ đề 35. Phân tích quan điểm, chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước của
Đại hội VIII (7/1996). tr103
Chủ đề 36. Phân tích luận điểm “Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên
cơ sở liên minh công nông trí thức do Đảng lãnh đạo..” của Đại hội IX (4/2001). Để thực hiện được
luận điểm đó, chúng ta phải làm gì? tr104
Chủ đề 37. Phân tích những bài học lớn của 20 năm đổi mới (1986 – 2006) được Đại hội X (4/2006)
của Đảng đưa ra. tr106
Chủ đề 38. Phân tích những phương hướng cơ bản xây dựng CNXH ở Việt Nam của Cương lĩnh năm
2011 được Đại hội XI (1/2011) thông qua. tr109

Chủ đề 39. Phân tích những thành tựu và hạn chế của công cuộc đổi mới vì CNXH do Đảng khởi
xướng và lãnh đạo. tr114
Chủ đề 40. Phân tích những kinh nghiệm chủ yếu của công cuộc đổi mới vì CNXH của Đảng. tr122
4

Chủ đề 41. Phân tích những thắng lợi to lớn, có ý nghĩa thời đại của Cách mạng Việt Nam dưới sự
lãnh đạo của Đảng tr125
Chủ đề 42. Phân tích những bài học lớn về sự lãnh đạo của Đảng với Cách mạng Việt Nam từ năm
1930 đến năm 2018 tr132
5

CÂU 1: BẢNG THỰC TIỄN LỊCH SỬ TỪ KHI ĐẢNG CỘNG SẢN RA ĐỜI CHO ĐẾN NAY
HÃY CHỨNG MINH “ SỰ LÃNH ĐẠO ĐÚNG ĐẮN CỦA ĐẢNG LÀ NHÂN TỐ HÀNG ĐẦU
QUYẾT ĐỊNH THẮNG LỢI CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM”

I. Sơ lược hoàn cảnh ra đời của Đảng


Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp, cụ
thể là sự chuyển biến của chủ nghĩa tư bản, ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác lênin cũng như các cuộc cách
mạng lớn ở nước ngoài hay phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến, vô sản. Đảng ra đời là
sự khẳng định vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt Nam và hệ tư tưởng Mác-Lênin đối với cách
mạng Việt Nam. Sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đánh dấu một mốc son chói lọi trên con
đường phát triển của dân tộc ta.
Từ khi ra đời, Đảng đã lãnh đạo Nhân dân ta đấu tranh giành những thắng lợi vĩ đại: Đưa đất nước ta từ
một nước thuộc địa nửa phong kiến trở thành nước một nước độc lập; đưa nhân dân ta từ thân phận nô lệ
thành người tự do; đất nước tiến vững chắc trên con đường đã chọn - Độc lập dân tộc gắn liền Chủ
nghĩa xã hội.
Các cuộc thắng lợi của Đảng ta:
- Thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945
- Thắng lợi của các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ 1945-1975
- Thắng lợi bước đầu của công cuộc đổi mới
II. Các thắng lợi của Đảng:

1. Thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945

● Thành quả
- Đánh dấu sự kết thúc của thời kỳ thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, giành lại độc lập dân tộc
- Thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa (2/9/1945) - Đây là một bước quan trọng trong việc tổ
chức và xây dựng chính quyền Việt Nam độc lập.
- Thể hiện quyết tâm và ý chí của người Việt Nam trong việc tự quyết định về tương lai và chính trị của
đất nước. Đây là một thông điệp quan trọng về quyền tự quyết và tự do trong cuộc đấu tranh chống lại
thực dân.
- Gắn kết nhân dân Việt Nam và khơi dậy tinh thần đấu tranh dân tộc, làm nền tảng cho những cuộc
chiến đấu tiếp theo, bao gồm cuộc chiến tranh Đông Dương và cuộc chiến tranh Việt Nam, với mục tiêu
chung là độc lập, thống nhất và xây dựng một xã hội công bằng.
● Ý nghĩa lịch sử
- Đối với Việt Nam
+ Mở ra bước ngoặt lớn trong lịch sử dân tộc ta.
+ Phá tan xiềng xích nô lệ của Pháp - Nhật, lật nhào ngai vàng phong kiến. Lập ra nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa.
+ Đánh dấu bước phát triển nhảy vọt của cách mạng Việt Nam.
+ Mở ra kỷ nguyên mới độc lập, tự do. Nhân dân lao động nắm chính quyền, làm chủ đất nước, làm chủ
vận mệnh dân tộc. Kỷ nguyên giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng xã hội.
+ Đảng Cộng sản Đông Dương trở thành Đảng cầm quyền chuẩn bị điều kiện cho những thắng lợi tiếp
theo.
- Đối với thế giới
+ Góp phần vào chiến thắng chủ nghĩa phát xít trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Chọc thủng khâu yếu
nhất trong hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc.
6

+ Cổ vũ mạnh mẽ các dân tộc thuộc địa đấu tranh tự giải phóng. Có ảnh hưởng to lớn đến Lào và
Campuchia.
● Nguyên nhân thắng lợi
Đảng ta là người tổ chức và lãnh đạo cuộc Cách mạng Tháng Tám. Đảng có đường lối cách mạng đúng
đắn, dày dạn kinh nghiệm đấu tranh, đoàn kết thống nhất, nắm đúng thời cơ, chỉ đạo kiên quyết, khôn
khéo, biết tạo nên sức mạnh tổng hợp để áp đảo kẻ thù và quyết tâm lãnh đạo quần chúng khởi nghĩa
giành chính quyền. Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố chủ yếu nhất, quyết định thắng lợi của Cách mạng
Tháng Tám 1945.

2. Thắng lợi của các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ 1945-1975

● Thành quả
Thời kỳ 1945-1975 là giai đoạn quan trọng trong lịch sử Việt Nam, với cuộc chiến tranh giải phóng dân
tộc và bảo vệ Tổ quốc là tâm điểm chính:
- Thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa: Với cuộc Tổng khởi nghĩa năm 1945, Việt Nam đã
chính thức tự giác giành lại độc lập và thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, với Chủ tịch Hồ
Chí Minh là người lãnh đạo.
- Chiến thắng Điện Biên Phủ: Thành công này đánh dấu sự suy yếu của thực thể đế quốc Pháp và góp
phần quan trọng vào việc chấm dứt chế độ thuộc địa ở Đông Dương.
- Thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam (1950) và Quân đội Quốc gia Việt Nam Cộng hòa (1955):
nhằm bảo vệ chủ quyền và an ninh quốc gia.
- Chiến thắng Tết Mậu Thân (1968) và Chiến dịch Hồ Chí Minh (1972): thể hiện khả năng chiến đấu và
sự quyết tâm của cách mạng Việt Nam, gây tiếng vang lớn trên toàn thế giới. Chiến dịch Hồ Chí Minh
vào năm 1972 đã gây tổn thất nặng nề cho quân đội Mỹ và thúc đẩy quá trình đàm phán hòa bình tại
Paris.
- Thành công trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc: Chiến thắng cuối cùng trong cuộc chiến tranh Việt
Nam (1975) đã thống nhất đất nước, xóa bỏ chế độ Việt Nam Cộng hòa và đánh dấu sự thất bại của Mỹ
trong việc ngăn chặn sự thống nhất của Việt Nam.
● Ý nghĩa lịch sử
- Giành lại độc lập và chủ quyền quốc gia: Các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc đã giúp Việt Nam
giành lại độc lập và chủ quyền quốc gia từ các thực thể đế quốc và thực thể thuộc địa. Nhờ những cuộc
chiến tranh này, Việt Nam đã tự giác quyết định tương lai và phát triển đất nước theo đúng ý nguyện của
nhân dân.
- Thống nhất đất nước: Cuộc chiến tranh đã đẩy mạnh quá trình thống nhất đất nước Việt Nam, kết thúc
phân chia thành Bắc và Nam. Việt Nam đã đạt được thống nhất đất nước vào năm 1975, mở ra một
trang mới trong lịch sử quốc gia và đồng thời xóa bỏ biên giới tưởng chừng không thể thay đổi.
-Khẳng định ý chí và quyền tự quyết của nhân dân: Cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc đã thể hiện sự
quyết tâm và ý chí kiên cường của nhân dân Việt Nam trong việc tự quyết định số phận của mình. Cuộc
đấu tranh này đã ghi dấu một trang sử lớn về lòng yêu nước, sự hy sinh và tinh thần đoàn kết của người
dân Việt Nam.
- Tạo động lực cho phong trào giải phóng dân tộc toàn cầu: Cuộc chiến tranh Việt Nam đã trở thành
biểu tượng và nguồn cảm hứng cho các phong trào giải phóng dân tộc và chống đế quốc trên thế giới.
Nó đã tạo ra sự đoàn kết và ảnh hưởng rộng lớn đối với các phong trào cách mạng khác, đặc biệt ở các
nước Đông Nam Á, châu Phi và châu Mỹ Latinh.
- Góp phần vào sự phát triển và xây dựng đất nước: Thành quả của các cuộc chiến tranh đã tạo nền tảng
cho sự phát triển và xây dựng đất nước sau này. Việt Nam đã có cơ hội tập trung vào việc xây dựng nền
7

kinh tế, đảm bảo sự phát triển văn hóa, giáo dục và y tế, và nâng cao chất lượng cuộc sống cho người
dân.
=> Như vậy, các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ tổ quốc của cách mạng Việt Nam đã ghi
lại một trang sử đầy kiên cường và hy sinh, tạo ra một quốc gia độc lập, thống nhất và tự chủ, đồng thời
góp phần vào sự vươn lên của phong trào giải phóng dân tộc toàn cầu.
● Nguyên nhân thắng lợi
Lãnh đạo tài ba và sự thống nhất của cách mạng:
- Đảng ta nhận rõ sứ mệnh, trọng trách lịch sử của mình trước giai cấp, trước dân tộc và phong trào cách
mạng thế giới, đã ra sức xây dựng mình vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, theo đúng
nguyên lý xây dựng Đảng mácxít-lêninnít. Do vậy, đã đáp ứng ngày càng đầy đủ những yêu cầu rất khắt
khe về sức mạnh tiền phong chiến đấu của một đảng giữ vai trò quyết định thắng lợi của cuộc kháng
chiến vĩ đại nhất trong lịch sử dân tộc ta. Trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, Đảng ta đã kịp thời đưa ra đường lối, phương pháp cách mạng đúng đắn, sáng tạo, đồng
thời kiên quyết chỉ đạo thực hiện bằng được mục tiêu, con đường nhiệm vụ cách mạng đặt ra.
- Cách mạng Việt Nam được lãnh đạo bởi những nhà lãnh đạo tài ba như Hồ Chí Minh, Võ Nguyên
Giáp và các chỉ huy quân sự khác. Sự thống nhất và chiến lược thông minh của lãnh đạo đã góp phần
quan trọng vào chiến thắng của cách mạng.

3. Thắng lợi bước đầu của công cuộc đổi mới

● Thành quả

- Về kinh tế:

+Đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, kinh tế tăng trưởng nhanh, cơ sở vật chất – kỹ thuật
được tăng cường, đời sống nhân dân được cải thiện.
+Hình thành một số ngành kinh tế mũi nhọn: dầu khí, thủy hải sản, lương thực,... Giải quyết được vấn
đề lương thực, đưa Việt Nam trở thành nước xuất khẩu gạo thứ hai trên thế giới.
+Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa được đẩy mạnh. Phát triển mạnh mẽ các khu công nghiệp và
hình thành các vùng kinh tế trọng điểm. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện
đại hóa.
+Thiết lập được nhiều quan hệ đối tác chiến lược về kinh tế với nhiều nước, có quan hệ thương mại với
hơn 200 nước và vùng lãnh thổ, ký hiệp định thương mại song phương với hơn 100 nước; gia nhập
WTO.

- Về văn hóa, xã hội:

+Văn hóa - xã hội có tiến bộ, an sinh xã hội được bảo đảm. Đời sống vật chất và tinh thần của các tầng
lớp nhân dân được cải thiện rõ rệt.
+Chú trọng xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa dân
tộc.
+Đạt được những kết quả tốt trong công tác giải quyết việc làm và xóa đói, giảm nghèo; tỷ lệ lao động
qua đào tạo tăng; tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị luôn ở mức dưới 4%.
+Phát triển trong sự nghiệp giáo dục: năm 2000, cả nước đạt chuẩn quốc gia về xóa mù chữ và phổ cập
giáo dục tiểu học.

- Về đối ngoại:
8

+Phá thế bao vây, cấm vận, mở rộng quan hệ đối ngoại theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa, giữ
vững độc lập chủ quyền quốc gia.
+Từng bước giải quyết hòa bình các vấn đề biên giới, lãnh thổ biển, đảo với các nước liên quan như
Trung Quốc, các nước ASEAN.
+Tham gia các tổ chức kinh tế quốc tế (AFTA, APEC, WTO)
+Tăng cường đàm phán, ký kết các Hiệp ước Thương mại tự do với ASEAN, EU, Mỹ... Tranh thủ
ODA, thu hút FDI, mở rộng thị trường ngoài nước, chủ động hội nhập quốc tế.

- Về xây dựng hệ thống chính trị:

+Quốc hội đẩy mạnh xây dựng luật pháp. Nền hành chính quốc gia được cải cách một bước.
+Quốc hội đã từng bước hoàn thiện cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động theo hình thức nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa; Bộ máy Chính phủ và chính quyền địa phương được kiện toàn một bước.
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên đổi mới về tổ chức và phương thức hoạt động cho phù hợp
với tình hình mới.

- Về quốc phòng an ninh:

+Giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, bảo đảm sự lãnh đạo của
Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa, cơ bản giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội.
+Xây dựng, phát triển tiềm lực quốc phòng, an ninh của đất nước; xây dựng lực lượng vũ trang, đặc biệt
là quân đội và công an theo hướng chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; xây dựng được thế trận
quốc phòng toàn quốc gắn với thế trận an ninh nhân dân.

- Về công tác xây dựng Đảng:

+Đảng nâng cao nhận thức, đổi mới tư duy, thống nhất tư tưởng trên những vấn đề cơ bản của công
cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới; đấu tranh bảo vệ quan
điểm, đường lối đúng đắn; phê phán các quan điểm sai trái.
+Hệ thống tổ chức của Đảng và Nhà nước từng bước được kiện toàn theo hướng tinh gọn, giảm bớt đầu
mối trung gian, đổi mới phương thức lãnh đạo khắc phục tình trạng áp đặt, bao biện, làm thay.

● Ý nghĩa

- Những thành tựu chủ yếu về kinh tế, văn hóa - xã hội, hệ thống chính trị, đối ngoại, quốc phòng an
ninh và công tác xây dựng Đảng là tiền đề quan trọng để nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển trong
những năm tới, khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn của
Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử.

● Nguyên nhân thắng lợi

- Đảng có đường lối đổi mới đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với lợi ích và nguyện vọng của nhân dân,
được nhân dân ủng hộ, tích cực thực hiện.
- Sự nghiệp đổi mới được bạn bè quốc tế ủng hộ, hợp tác, giúp đỡ.

CHỦ ĐỀ 4: TẠI SAO NGUYỄN ÁI QUỐC LẠI KHẲNG ĐỊNH: MUỐN CỨU NƯỚC VÀ GIẢI
PHÓNG DÂN TỘC VIỆT NAM PHẢI ĐI THEO CON ĐƯỜNG CÁCH MẠNG VÔ SẢN

Luận điểm "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách
mạng vô sản" là một luận điểm nền tảng của cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ
9

nghĩa ở Việt Nam; định hướng phương hướng, đường lối và phương pháp cách mạng của Đảng Cộng
sản Việt Nam.

- Ngay khi thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam vào tháng 2 năm 1930, trong “Chánh cương vắn
tắt của Đảng”, Đảng đã đề ra quan điểm "làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách
mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Quan điểm này được Đảng ta phát triển trong Luận cương
chính trị tháng 10 năm 1930, đặc biệt là được thể hiện rất rõ trong Đại hội II của Đảng năm
1951, khẳng định cách mạng Việt Nam mang tính chất cách mạng dân tộc, dân chủ, nhân dân
do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo.
- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng tiếp tục khẳng định con đường cách mạng Việt
Nam là con đường cách mạng vô sản với việc xác định nhiệm vụ của cách mạng cả nước là xây
dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, giàu mạnh, giải phóng miền
Nam, đưa miền Bắc lên chủ nghĩa xã hội. Sau khi thống nhất đất nước, hoàn thành công cuộc
giải phóng dân tộc, năm 1976, tại Đại hội IV Đảng ta chủ trương đưa cả nước đi lên chủ nghĩa
xã hội.
- Trong thời kỳ đổi mới, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội năm 1991, bổ sung, phát triển năm 2011 của Đảng tiếp tục khẳng định con đường phát triển
của dân tộc Việt Nam là đi lên chủ nghĩa xã hội; khẳng định mục tiêu lớn của thời đại là độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã
hội: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh
tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có
nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no tự do hạnh phúc,
có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết,
tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và
hợp tác với các nước trên thế giới”[8]. Việc Đảng ta kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội là vì, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói, chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng
sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách
nô lệ.
- Tuy cách mạng vô sản thế giới đang đứng trước những thách thức to lớn do sự chống phá quyết
liệt của chủ nghĩa tư bản; không ít dân tộc gặp khó khăn trong việc chọn định hướng đi lên chủ
nghĩa xã hội do tác động tiêu cực của tình hình sau khi Liên Xô tan rã, chế độ xã hội chủ nghĩa
ở Đông Âu sụp đổ. Tuy vậy, nhiều nước ở châu Á, Phi, Mỹ Latinh vẫn giương ngọn cờ độc lập
dân tộc đi lên chủ nghĩa xã hội dưới nhiều hình thức. Trong khi một số mô hình chủ nghĩa xã
hội ở một số nước Đông Âu sụp đổ, một số mô hình chủ nghĩa xã hội mới - sản phẩm của quá
trình đổi mới chủ nghĩa xã hội - như Trung Quốc, Việt Nam, Cu Ba với những thành tựu to lớn,
khẳng định sức sống của chủ nghĩa xã hội đổi mới, trở thành tấm gương sáng để các dân tộc
khác noi theo. Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của các dân tộc dù có khó khăn, phức tạp,
nhưng theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định tiến tới chủ nghĩa xã hội.
- Chủ nghĩa tư bản đã từng có vai trò lịch sử trong các thế kỷ trước, cho dù hiện nay vẫn còn khả
năng tồn tại do biết lợi dụng sự phát triển khoa học kỹ thuật, công nghệ và bóc lột các nước
thuộc thế giới thứ ba, nhưng nó đã bộc lộ những khiếm khuyết và mâu thuẫn nội tại không thể
giải quyết; đã và đang bộc lộ những hạn chế không thể khắc phục nổi trong việc giải quyết các
vấn đề dân tộc, giai cấp, vấn đề xóa bỏ chế độ người bóc lột người, chiến tranh, bảo vệ môi
trường, bảo đảm công bằng, bình đẳng xã hội, chăm lo phát triển con người, giữ gìn bản sắc
văn hóa của các dân tộc. Do bản chất của mình, ngày nay, chủ nghĩa tư bản hiện đại vẫn không
10

từ bỏ chính sách thực dân xâm lược với nhiều biến tướng mới rất tinh vi và xảo quyệt nhằm
bóc lột các nước kém phát triển, chậm phát triển.

CHỦ ĐỀ 5: NỘI DUNG VÀ Ý NGHĨA NHỮNG TƯ TƯỞNG CÁCH MẠNG CỦA NGUYỄN ÁI
QUỐC ĐƯỢC TRUYỀN BÁ VÀO VIỆT NAM TỪ NĂM 1920 ĐẾN 1929

Bằng nhiều hoạt động, trong giai đoạn 1921 - 1929, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã tích cực truyền
bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời của
Đảng:

Về chính trị: Người tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào trong nước. Nguyễn Ái
Quốc đã phác thảo những vấn đề cơ bản về đường lối cứu nước đúng đắn của cách mạng Việt Nam,
thể hiện tập trung trong những bài giảng của Người cho những cán bộ cốt cán của Hội Việt Nam cách
mạng thanh niên tại Quảng Châu (Trung Quốc). Năm 1927, những bài giảng của người trong các lớp
huấn luyện được in thành sách lấy tên là Đường Kách mệnh. Tác phẩm chỉ ra vấn đề then chốt có tác
dụng lớn không chỉ đối với Việt Nam, mà còn đối với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân
các nước thuộc địa Phương Đông. Những vấn đề đó là: cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, chủ
yếu là công nông, vì vậy phải tổ chức quần chúng lại; cách mạng muốn thành công phải có một Đảng
Cộng sản lãnh đạo; phải có đường lối và phương pháp cách mạng đúng; cách mạng giải phóng dân tộc
phải liên hệ chặt chẽ với cách mạng vô sản thế giới…

Về tư tưởng: Nguyễn Ái Quốc đã tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào Việt Nam
nhằm làm chuyển biến nhận thức của quần chúng, đặc biệt là giai cấp công nhân, làm cho hệ tư tưởng
Mác - Lênin từng bước chiếm ưu thế trong đời sống xã hội, làm chuyển biến mạnh mẽ phong trào yêu
nước xích dần đến lập trường của giai cấp công nhân. Nội dung truyền bá là những nguyên lý cơ bản
của chủ nghĩa Mác - Lênin được cụ thể hóa cho phù hợp với trình độ của các giai tầng trong xã hội.
Những bài viết, bài giảng với lời văn giản dị, nội dung thiết thực đã nhanh chóng được truyền thụ đến
quần chúng. Đồng thời, Người đã vạch trần bản chất xấu xa, tội ác của thực dân Pháp đối với nhân dân
thuộc địa, nhân dân Việt Nam. Trong tác phẩm Đường Kách mệnh, Người tố cáo thực dân Pháp đã bắt
dân bản xứ phải đóng "thuế máu" cho chính quốc... để "phơi thây trên chiến trường châu Âu"; "đày
đọa" phụ nữ, trẻ em thuộc địa; các thống sứ, quan lại thực dân "độc ác như một bầy thú dữ" v.v... Tác
phẩm đã "hướng các dân tộc bị áp bức" đi theo con đường cách mạng Tháng Mười Nga, tiêu diệt "hai
cái vòi của con đỉa đế quốc" – một "vòi" bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc, một "vòi" bám vào
nhân dân thuộc địa và đề ra cho dân Việt Nam con đường cách mạng vô sản theo chủ nghĩa Mác –
Lênin.

Về tổ chức: Nguyễn Ái Quốc đã dày công chuẩn bị về mặt tổ chức cho sự ra đời của chính
đảng vô sản của giai cấp công nhân Việt Nam. Đó là huấn luyện, đào tạo cán bộ, từ các lớp huấn luyện
do Người tiến hành ở Quảng Châu (Trung Quốc) để vừa chuẩn bị cán bộ, vừa truyền bá
chủ nghĩa Mác -Lênin. Năm 1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh
niên, ra báo Thanh niên, mở lớp đào tạo cán bộ cách mạng cho 75 đồng chí. Hội Việt Nam cách mạng
thanh niên đã giúp cho những người Việt Nam yêu nước xuất thân từ các thành phần, tầng lớp dễ tiếp
thu tư tưởng cách mạng của Người, phản ánh tư duy sáng tạo và là thành công của Người trong chuẩn
bị về mặt tổ chức cho Đảng ra đời.

- Nguyễn Ái Quốc đến với Chủ nghĩa Mác - Lênin và tìm thấy con đường đúng đắn cho cách mạng
Việt Nam - con đường cách mạng vô sản. Đặt nền móng cho CNCS vào Việt Nam
11

CHỦ ĐỀ 6: CÁC YẾU TỐ DẪN TỚI SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA CÁC
YẾU TỐ ĐÓ

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời từ sự kết hợp 3 yếu tố: chủ nghĩa Mác-Lênin, phong trào công nhân,
phong trào yêu nước. Đây là sự vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết Mác-Lênin về sự ra đời của
Đảng Cộng sản ở một nước thuộc địa nửa phong kiến và có truyền thống yêu nước từ hàng ngàn năm.
Sự vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết về sự ra đời của Đảng Cộng sản dựa trên căn cứ lý luận
và điều kiện lịch sử cụ thể:
- Một là, sau khi xâm lược nước ta, thực dân Pháp thực hiện chính sách khai thác tài nguyên, bóc
lột sức lao động, chỉ xây dựng một số nhà máy trực tiếp phục vụ cho chính sách khai thác. So
với nhiều nước trên thế giới và khu vực, giai cấp công nhân Việt Nam ra đời chậm và nhỏ bé.
Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời từ cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1897-1914)
- Hai là, từ khi thực dân Pháp xâm lược đất nước ta, phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp
liên tục diễn ra. Phong trào yêu nước chống Pháp có trước phong trào công nhân. Phong trào
yêu nước chống Pháp đã nuôi dưỡng lòng yêu nước và tinh thần dân tộc trong các tầng lớp
nhân dân, trong công nhân. Mục tiêu đấu tranh trước mắt của phong trào công nhân phù hợp
với mục tiêu của phong trào yêu nước là đánh đổ thực dân Pháp, đem lại độc lập cho dân tộc,
tự do cho nhân dân. Do đó, vào cuối những năm 30 của thế kỷ XX, phong trào yêu nước dần
dần trở thành một bộ phận của cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp
- Ba là, Nguyễn Ái Quốc sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Người đã đi từ chủ nghĩa yêu nước
đến với chủ nghĩa Mác-Lênin. Trong quá trình tìm đường cứu nước, Người đã đến với chủ
nghĩa Mác-Lênin và từ đó Người đã dày công truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào nước ta, vào
phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Việc thành lập Hội Việt Nam Cách mạng thanh
niên (1925) bao gồm những chiến sĩ yêu nước để truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào trong
nước là hiện thân của sự kết hợp ba yếu tố ngay từ những bước chuẩn bị ra đời của Đảng Cộng
sản Việt Nam
Là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin, phong trào công nhân, phong trào yêu nước đã giúp
Đảng ta ngay từ khi mới ra đời phát huy được truyền thống yêu nước, đoàn kết được các lực lượng
cách mạng và nhờ đó giữ được quyền lãnh đạo cách mạng. Đảng Cộng sản Việt Nam tuyển lựa đảng
viên không những trong phong trào công nhân mà còn chọn những phần tử tiên tiến giác ngộ chủ nghĩa
cộng sản trong nông dân lao động, trí thức và trong phong trào yêu nước

CHỦ ĐỀ 7: CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN VÀ Ý NGHĨA CỦA SỰ KIỆN ĐẢNG
CỘNG SẢN VN RA ĐỜI

Cương lĩnh đầu tiên của Đảng được đề ra tại Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản trong nước có ý
nghĩa như Đại hội để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị do đồng chí Nguyễn Ái Quốc, đại
biểu Quốc tế Cộng sản triệu tập và chủ trì, cùng với sự tham dự chính thức của hai đại biểu Đông
Dương Cộng sản Đảng (6-1929); hai đại biểu của An Nam Cộng sản Đảng (10-1929) và một số đồng
chí Việt Nam hoạt động ngoài nước. Hội nghị họp bí mật ở nhiều địa điểm khác nhau trên bán đảo Cửu
Long (Hương Cảng), từ ngày 6-1 đến ngày 7 tháng 2 năm 1930, đã thảo luận quyết định thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam và nhất trí thông qua 7 tài liệu, văn kiện, trong đó có 4 văn bản hợp thành
nội dung Cương lĩnh chính trị của Đảng:Chính cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng,
Chương trình tóm tắt của Đảng, Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam.

- Toàn bộ Cương lĩnh đầu tiên của Đảng toát lên tư tưởng lớn là cách mạng dân tộc dân chủ Việt
Nam tất yếu đi tới cách mạng xã hội chủ nghĩa, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội;
12

sự nghiệp đó là của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam – Đảng Mác –
Lênin.
+ Phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam là “Tư sản dân quyền cách mạng và
thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.
+ Nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam
● Về chính trị: đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến; làm cho nước
Việt Nam được hoàn toàn độc lập; lập chính phủ công nông binh, tổ chức quân
đội công nông.
● Về kinh tế: Thủ tiêu hết các thứ quốc trái; tịch thu toàn bộ sản nghiệp lớn (như
công nghiệp, vận tải, ngân hàng, v.v.) của tư bản đế quốc chủ nghĩa Pháp để
giao cho Chính phủ công nông binh quản lý; tịch thu toàn bộ ruộng đất của bọn
đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo; bỏ sưu thuế cho dân
cày nghèo; mở mang công nghiệp và nông nghiệp; thi hành luật ngày làm tám
giờ.
● Về văn hoá – xã hội: Dân chúng được tự do tổ chức; nam nữ bình quyền, …;
phổ thông giáo dục theo công nông hoá.
● Về lực lượng cách mạng: Đảng phải thu phục cho được đại bộ phận dân cày và
phải dựa vào hạng dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng, đánh đổ bọn đại địa
chủ và phong kiến; làm cho các đoàn thể thợ thuyền và dân cày (công hội, hợp
tác xã) khỏi ở dưới quyền lực và ảnh hưởng của bọn tư bản quốc gia; phải hết
sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, Thanh niên, Tân Việt, v.v. để
kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp; đối với phú nông, trung tiểu địa chủ và tư bản
An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho
họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng (như Đảng lập hiến
v.v.) thì đánh đổ.
● Về lãnh đạo cách mạng: Giai cấp vô sản là lực lượng lãnh đạo cách mạng Việt
Nam.
● Về quan hệ của cách mạng Việt Nam với phong trào cách mạng thế giới: Cách
mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới.

Ý nghĩa về sự ra đời của Đảng:

- Đảng ra đời là một bước ngoặt trọng đại trong lịch sử Cách mạng Việt Nam vì:
+ Chấm dứt khủng hoảng về đường lối cứu nước
+ Chứng tỏ giai cấp công nhân trưởng thành và đủ sức lãnh đạo CM, phong trào chuyển
hẳn sang tự giác
+ Với đường lối đúng đắn, Đảng đem lại thắng lợi to lớn cho Việt Nam
- Đảng ra đời là 1 tất yếu của lịch sử:
+ là kết quả quá trình đấu tranh dân tộc và giai cấp trong thời đại mới
+ là kết quả của sự chuẩn bị công phu, chu đáo, tích cực của đồng chí Nguyễn ái Quốc về
tư tưởng, chính trị và tổ chức
+ ĐCSVN ra đời là sự kết hợp 1 cách biện chứng giữa 3 nhân tố: CN Mác Lenin, phong
trào yêu nước và phong trào công nhân
13

CÂU 3 (CHỦ ĐỀ 8): PHÂN TÍCH VAI TRÒ CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC TRONG QUÁ TRÌNH
VẬN ĐỘNG THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VÀ Ý NGHĨA LỊCH SỬ CỦA
VIỆC THÀNH LẬP ĐẢNG?

CHỦ ĐỀ 8: VAI TRÒ CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC TRONG QUÁ TRÌNH VẬN ĐỘNG THÀNH LẬP
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

1. Vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong quá trình vận động thành lập ĐCSVN

Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam được đánh giá chính là một tất yếu khách quan, và nó được bắt
nguồn từ thực tiễn cuộc đấu tranh của nhân dân chống sự nô dịch của đế quốc, được soi rọi dưới ánh
sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin. Việc thành lập Đảng cộng sản Việt Nam cũng rất phù hợp với quy
luật vận động của cách mạng thế giới cũng như là phù hợp đối với sự nghiệp cách mạng nước ta.

Đảng cộng sản Việt Nam ra đời đã đáp ứng những yêu cầu khách quan, thiết yếu và cấp bách của dân
tộc là độc lập, tự do và phát triển. Đảng cộng sản Việt Nam được thành lập là kết quả của nhiều yếu tố,
trong đó ta nhận thấy rằng vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh là rất to lớn. Cụ thể thì vai trò to lớn của
Nguyễn Ái Quốc trong việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam được thể hiện ở những khía cạnh cơ
bản như sau:

- Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy và lựa chọn con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc ta.

Tháng 7/1920, lần đầu tiên Người đọc: Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân
tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin.
Tháng 12/1920, tại thành phố Tua (Tour), Lý luận của V.I.Lênin và lập trường đúng đắn của
Quốc tế Cộng sản về cách mạng giải phóng các dân tộc thuộc địa là cơ sở để Nguyễn Ái Quốc xác
định thái độ ủng hộ việc gia nhập Quốc tế Cộng sản tại Đại hội lần thứ XVIII của Đảng Xã hội Pháp.
Cuối cùng, Bác tự tin khẳng định con đường đi đúng đắn giải phóng đất nước khỏi ách thực dân, cứu
dân cứu nước là theo con đường cách mạng vô sản, con đường có mục đích cao cả là giải phóng dân
tộc để tiến tới giải phóng con người.
Nguyễn Ái Quốc đã nhận thức sâu sắc sự gắn bó mật thiết giữa giải phóng dân tộc và giải
phóng giai cấp, giải phóng xã hội và giải phóng con người. Và Người cũng sớm nhận thức rõ, chủ
nghĩa yêu nước, chủ nghĩa dân tộc chân chính là một động lực lớn của cách mạng và đã kết hợp tài tình
chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa Mác – Lênin – học thuyết cách mạng tiên tiến nhất của thời đại.
Người nhận thức, chỉ có kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu
nước mới có thể xây dựng được một Đảng cách mạng chân chính đảm bảo cho cách mạng phát triển
đúng hướng và đi đến thắng lợi.

- Nguyễn Ái Quốc tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào trong nước và chuẩn bị những
điều kiện cho sự thành lập Đảng.

Bằng nhiều hoạt động, trong giai đoạn 1921 - 1929, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã tích cực truyền
bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời của
Đảng:

Về chính trị: Người tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào trong nước. Nguyễn Ái
Quốc đã phác thảo những vấn đề cơ bản về đường lối cứu nước đúng đắn của cách mạng Việt Nam,
thể hiện tập trung trong những bài giảng của Người cho những cán bộ cốt cán của Hội Việt Nam cách
mạng thanh niên tại Quảng Châu (Trung Quốc). Năm 1927, những bài giảng của người trong các lớp
14

huấn luyện được in thành sách lấy tên là Đường Kách mệnh. Tác phẩm chỉ ra vấn đề then chốt có tác
dụng lớn không chỉ đối với Việt Nam, mà còn đối với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân
các nước thuộc địa Phương Đông. Những vấn đề đó là: cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, chủ
yếu là công nông, vì vậy phải tổ chức quần chúng lại; cách mạng muốn thành công phải có một Đảng
Cộng sản lãnh đạo; phải có đường lối và phương pháp cách mạng đúng; cách mạng giải phóng dân tộc
phải liên hệ chặt chẽ với cách mạng vô sản thế giới…

Về tư tưởng: Nguyễn Ái Quốc đã tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào Việt Nam
nhằm làm chuyển biến nhận thức của quần chúng, đặc biệt là giai cấp công nhân, làm cho hệ tư tưởng
Mác - Lênin từng bước chiếm ưu thế trong đời sống xã hội, làm chuyển biến mạnh mẽ phong trào yêu
nước xích dần đến lập trường của giai cấp công nhân. Nội dung truyền bá là những nguyên lý cơ bản
của chủ nghĩa Mác - Lênin được cụ thể hóa cho phù hợp với trình độ của các giai tầng trong xã hội.
Những bài viết, bài giảng với lời văn giản dị, nội dung thiết thực đã nhanh chóng được truyền thụ đến
quần chúng. Đồng thời, Người đã vạch trần bản chất xấu xa, tội ác của thực dân Pháp đối với nhân dân
thuộc địa, nhân dân Việt Nam. Trong tác phẩm Đường Kách mệnh, Người tố cáo thực dân Pháp đã bắt
dân bản xứ phải đóng "thuế máu" cho chính quốc... để "phơi thây trên chiến trường châu Âu"; "đày
đọa" phụ nữ, trẻ em thuộc địa; các thống sứ, quan lại thực dân "độc ác như một bầy thú dữ" v.v... Tác
phẩm đã "hướng các dân tộc bị áp bức" đi theo con đường cách mạng Tháng Mười Nga, tiêu diệt "hai
cái vòi của con đỉa đế quốc" – một "vòi" bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc, một "vòi" bám vào
nhân dân thuộc địa và đề ra cho dân Việt Nam con đường cách mạng vô sản theo chủ nghĩa Mác –
Lênin.

Về tổ chức: Nguyễn Ái Quốc đã dày công chuẩn bị về mặt tổ chức cho sự ra đời của chính
đảng vô sản của giai cấp công nhân Việt Nam. Đó là huấn luyện, đào tạo cán bộ, từ các lớp huấn luyện
do Người tiến hành ở Quảng Châu (Trung Quốc) để vừa chuẩn bị cán bộ, vừa truyền bá
chủ nghĩa Mác -Lênin. Năm 1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh
niên, ra báo Thanh niên, mở lớp đào tạo cán bộ cách mạng cho 75 đồng chí. Hội Việt Nam cách mạng
thanh niên đã giúp cho những người Việt Nam yêu nước xuất thân từ các thành phần, tầng lớp dễ tiếp
thu tư tưởng cách mạng của Người, phản ánh tư duy sáng tạo và là thành công của Người trong chuẩn
bị về mặt tổ chức cho Đảng ra đời.

Trong những năm 1928 - 1929, phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân ta tiếp tục phát
triển mạnh về số lượng và chất lượng. Chủ nghĩa Mác -Lênin được Nguyễn Ái Quốc và những chiến sĩ
tiên phong truyền bá về trong nước, cùng với phong trào "vô sản hoá" đã làm chuyển biến phong trào
công nhân, giác ngộ họ và tổ chức họ đấu tranh cách mạng một cách tự giác. Thông qua phong trào
“vô sản hoá”, lớp lớp thanh niên yêu nước được rèn luyện trong thực tiễn, giác ngộ lập trường giai cấp
công nhân sâu sắc, hiểu rõ nguyện vọng, lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, thúc đẩy
phong trào công nhân và phong trào yêu nước phát triển mạnh mẽ, tiến tới sự ra đời của các tổ chức
cộng sản đầu tiên ở Việt Nam, tạo điều kiện chín muồi và hợp qui luật cho sự ra đời của Đảng.

Có thể thấy rằng, sự chuẩn bị đầy đủ về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho việc ra đời Đảng
Cộng sản Việt Nam vào những ngày đầu năm 1930 là những đóng góp to lớn, vững chắc và là sự kết
hợp nhuần nhuyễn giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt
Nam của Nguyễn Ái Quốc - Người thanh niên yêu nước chân chính, tài ba, lỗi lạc.

- Thứ ba, Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản
15

Năm 1929, Nguyễn Ái Quốc đang hoạt động ở Xiêm (Thái Lan), mặc dù chưa nhận được chỉ
thị của Quốc tế cộng sản và yêu cầu thống nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam. Song với sự nhạy
bản về chính trị, sự chủ động cao, thực hiện trọng trách lịch sử đối với dân tộc, với vai trò, trách nhiệm
trong Quốc tế cộng sản. Nguyễn Ái Quốc đã chủ động triệu tập Hội nghị hợp nhất, thực hiện sứ mệnh
lịch sử của người sáng lập Đảng Cộng Sản Việt Nam. Từ ngày 05/01/1930 đến ngày 07/02/1930, tại
Cửu Long - Hồng Kông (Trung Quốc) Hội nghị hợp nhất đã được tiến hành dưới sự chủ trị của
Nguyễn Ái Quốc. Tham dự Hội nghị có các đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng đại biểu) và An
Nam Cộng sản Đảng (2 đại biểu) và 2 đại biểu hải ngoại (Hồ Tùng Mậu và Lê Hồng Sơn). Còn Đông
Dương Cộng sản Liên đoàn đã thành lập, song chưa có liên hệ, nên chưa được triệu tập đại biểu đến dự
(và ngày 24/02/1930, tổ chức này được hợp nhất vào Đảng Cộng sản Việt Nam). Với sự nhất trí cao,
Hội nghị đặt tên Đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam và thông qua Chính cương vắn tắt của Đông, Sách
lược vắn tắt của Đảng, Điều lệ vẫn tắt của Đảng. Chương trình tóm tắt của Đảng do lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốc soạn trảo. Các văn kiện đã trở thành Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.

Chánh cương vắn tắt của Đảng do lãnh tụ Hồ Chí Minh soạn thảo, đã thể hiện rõ con đường
giải phóng và phát triển của dân tộc Việt Nam là Tầm tư sản dân quyền cách mạng và thổ ăn cách
mạng (tức cách mạng dân tộc dân chủ) Thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và người cày có ruộng để đi
tội xã hội cộng sản" (4). Nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng, tức cách
mạng dân tộc, dân chủ trong đó giành hết độc lập dân tộc được đặt ở vị trí trên hết. Ở Việt Nam trước
hết phải làm tiên tác cách mệnh tức trước hết phải đánh đổ sự cai trị nô dịch dân tộc của chủ nghĩa đế
quốc. quanh là quyền bình đồng dân tộc, tự do cho dân nước mình. dân tộc cách mệnh thì chưa phân
giai cho nghĩa là sĩ, nông, công, thương đều nhất trí chống lại cường quyền (5). Có thể thấy, trong
Chính cương vẫn tốt, Hồ Chí Minh để thực hiện 5 cuộc giải phóng cách mạng vô sản ở một nước thuộc
địa như nước ta là giải phóng dân tộc phải tiến hành trước tiên, tạo tiền đề giải phóng giai cấp, giải
phóng xã hội. Nói một cách khác giải phóng, giành độc lập dân tộc là bước đi đầu tiên của cuộc cách
mạng vô sản ở nước thuộc địa ở Việt Nam. Đây là một luận đến cơ bản chính yếu trong Cương lĩnh
chính trị đầu tiên của Đảng. Đây cũng là một đóng góp đặc sắc, bổ sung phát triển chủ nghĩa Mác –
Lênin trên phương diện lý luận và các mô hình vận động, phát triển của cuộc cách mạng vô sản.

Trải qua 90 năm, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh
sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện, sự nghiệp cách mạng nước ta đã giành được những thắng lợi vĩ đại, có
ý nghĩa lịch sử and current time. Nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự dẫn dắt của lãnh tụ Hồ
Chí Minh đã đoàn kết, đồng lòng đánh thắng các thế lực thù địch, những chiến công đã đi vào lịch sử
như Cách mạng Tháng Tám năm 1945, cuộc Kháng chiến chống Pháp 1945, kháng chiến chống Mỹ
cứu nước 1954 – 1975. Đặc biệt, những thành phẩm của công cuộc đổi mới gần 35 năm qua, càng
chứng minh cho sự lựa chọn đưa ra con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta và khẳng định vai trò
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Những thắng lợi lớn đỏ đã chứng minh một chân lý. “Sự lãnh
đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố đứng đầu quyết định cách mạng Việt Nam” (6)

2. Ý nghĩa lịch sử của việc thành lập ĐCSVN

a. Đảng ra đời là 1 bước ngoặt trọng đại trong lịch sử cách mạng VN

Vì 3 lý do sau đây

● Chấm dứt khủng hoảng về đường lối cứu nước đưa cách mạng Việt Nam sang một bước ngoặt
lịch sử vĩ đại: cách mạng Việt Nam trở thành một bộ phận khăng khít của cách mạng vô sản thế
16

giới. Đó là kết quả của sự vận động phát triển và thống nhất của phong trào cách mạng trong cả
nước, sự chuẩn bị tích cực, sáng tạo, bản lĩnh của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, sự đoàn kết, nhất trí
của những chiến sĩ cách mạng tiên phong vì lợi ích của giai cấp và dân tộc
● Chứng tỏ giai cấp CN trưởng thành và đủ sức lãnh đạo CM. Phong trào chuyển hẳn sang tự
giác
● Vs đường lối đúng đắn, Đảng đem lại những thắng lợi to lớn.

b. Đảng ra đời là 1 tất yếu lịch sử

Vì 3 lý do sau:

● Là kết quả của quá trình đấu tranh dân tộc và giai cấp trong thời đại mới
● Là kết quả của sự chuẩn bị công phu, chu đáo, tích cực của đồng chí NAQ về tư tưởng chính trị
và tổ chức

● Đảng ra đời là sự kết hợp 1 cách biện chứng giữa 3 nhân tố: chủ nghĩa Mác-Lênin, ptrao CN,
ptrao yêu nước. Đó cũng là kết quả của sự phát triển cao và thống nhất của phong trào công
nhân và phong trào yêu nước Việt Nam được soi sáng bởi chủ nghĩa Mác-Lênin. Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã khẳng định: Chủ nghĩa Mác-Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong
trào yêu nước đã dẫn tới việc thành lập Đảng, “Việc thành lập Đảng là một bước ngoặt vô cùng
quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam ta. Nó chứng tỏ rằng giai cấp vô sản ta đã trưởng
thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng”1

CÂU 5: BẰNG THỰC TIỄN LỊCH SỬ (1911-1930), HÃY LÀM RÕ VAI TRÒ CỦA LÃNH TỤ
NGUYỄN ÁI QUỐC - NGƯỜI SÁNG LẬP, LÃNH ĐẠO VÀ RÈN LUYỆN ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM?

Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh với phong trào công nhân và phong trào yêu nước của Nhân dân Việt Nam. Ngay từ khi
ra đời, Đảng đã có Cương lĩnh chính trị xác định đúng đắn con đường cách mạng là giải phóng dân tộc
theo phương hướng cách mạng vô sản, chính là cơ sở để Đảng Cộng sản Việt Nam vừa ra đời đã nắm
được ngọn cờ lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam, mở ra con đường và phương hướng phát triển
mới cho đất nước Việt Nam suốt 90 năm qua. Công lao to lớn của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trong quá
trình chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam

- Bằng nhiều hoạt động, trong giai đoạn 1921-1929, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã tích cực truyền
bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra
đời của Đảng. Người đã tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, chuẩn bị về tư tưởng, chính
trị, tổ chức cho sự ra đời của Đảng:
+ Về tư tưởng: Người đã tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam nhằm
làm chuyển biến nhận thức của quần chúng, đặc biệt là giai cấp công nhân, làm cho hệ
tư tưởng Mác - Lênin từng bước chiếm ưu thế trong đời sống xã hội, làm chuyển biến
mạnh mẽ phong trào yêu nước xích dần đến lập trường của giai cấp công nhân. Nguyễn
Ái Quốc đã dùng ngòi bút của mình tích cực tố cáo, lên án bản chất bóc lột của chủ
nghĩa thực dân đối với nhân dân các nước thuộc địa và kêu gọi, thức tỉnh nhân dân bị áp
bức đấu tranh giải phóng. Những bài viết, bài giảng với lời văn giản dị, nội dung thiết
thực đã nhanh chóng được truyền thụ đến quần chúng. Đồng thời, Người đã vạch trần
bản chất xấu xa, tội ác của thực dân Pháp đối với nhân dân thuộc địa, Nhân dân Việt
17

Nam. Trong tác phẩm Đường Kách mệnh, Người tố cáo thực dân Pháp đã bắt dân bản
xứ phải đóng “thuế máu” cho chính quốc... để “phơi thây trên chiến trường châu Âu”;
“đày đọa” phụ nữ, trẻ em thuộc địa; các thống sứ, quan lại thực dân “độc ác như một
bầy thú dữ”... Tác phẩm đã “hướng các dân tộc bị áp bức” đi theo con đường Cách
mạng Tháng Mười Nga, tiêu diệt “hai cái vòi của con đỉa đế quốc” - một “vòi” bám vào
giai cấp vô sản ở chính quốc, một “vòi” bám vào nhân dân thuộc địa và đề ra cho Nhân
dân Việt Nam con đường cách mạng vô sản theo chủ nghĩa Mác - Lênin.
+ Về chính trị: Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã phác thảo những vấn đề cơ bản của đường lối
cứu nước đúng đắn cho CM Việt Nam và hình thành một hệ thống luận điểm chính trị:
Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc khẳng định con đường cách mạng của các dân tộc bị áp bức;
xác định cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới;
xác định lực lượng cách mạng; xác định vai trò lãnh đạo của Đảng; cách mạng là sự
nghiệp của quần chúng nhân dân. Những luận điểm ấy sau này phát triển thành những
nội dung cơ bản trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
- Người đào tạo đội ngũ cán bộ nòng cốt:
+ Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã dày công chuẩn bị về mặt tổ chức cho sự ra đời của chính
đảng vô sản của giai cấp công nhân Việt Nam. Đó là huấn luyện, đào tạo cán bộ, từ các
lớp huấn luyện do Người tiến hành ở Quảng Châu (Trung Quốc) để vừa chuẩn bị cán
bộ, vừa truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin. Năm 1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội
Việt Nam cách mạng thanh niên, ra báo Thanh niên, mở lớp đào tạo cán bộ cách mạng
cho 75 đồng chí. Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đã giúp cho những người Việt
Nam yêu nước dễ tiếp thu tư tưởng cách mạng của Người, phản ánh tư duy sáng tạo và
là thành công của Người trong chuẩn bị về mặt tổ chức cho Đảng ra đời.
+ Người trực tiếp, phụ trách, phái người về nước vận động, lựa chọn và đưa một số thanh
niên tích cực sang Quảng Châu để đào tạo, bồi dưỡng về lý luận chính trị. Từ giữa năm
1925 đến tháng 4/ 1927, Hội đã tổ chức được hơn 10 lớp huấn luyện tại nhà số 13A và
13B đường Văn Minh, Quảng Châu. Sau khi được đào tạo, các hội viên được cử về
nước xây dựng và phát triển phong trào cách mạng theo khuynh hướng vô sản. Trong số
học viên được đào tạo ở Quảng Châu, có nhiều đồng chí được cử đi học ở trường Đại
học Phương Đông ( Liên Xô) và trường quân sự Hoàng Phố (Trung Quốc)
- Công lao của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trong việc chủ trì hợp nhất các tổ chức cộng sản thành
Đảng Cộng sản Việt Nam:
+ Từ giữa năm 1929 đến đầu năm 1930, trong bối cảnh tổ chức Hội Việt nam cách mạng
thanh niên có sự phân hóa và mất dần vai trò lãnh đạo cách mạng, ở Việt Nam chỉ trong
thời gian ngắn lần lượt xuất hiện ba tổ chức cộng sản là Đông Dương Cộng sản Đảng
(tháng 6/1929), An Nam Cộng sản Đảng (tháng 11/1929) và Đông Dương Cộng sản
Liên đoàn (tháng 01/1930). Điều đó phản ánh xu thế tất yếu của phong trào đấu tranh
cách mạng ở Việt Nam. Song sự tồn tại của ba tổ chức cộng sản không tránh khỏi phân
tán về lực lượng và thiếu thống nhất về tổ chức. Yêu cầu cấp thiết đặt ra là chấm dứt
hiện tượng biệt phái, chia rẽ giữa các nhóm cộng sản, phải thống nhất các tổ chức cộng
sản thành một chính đảng duy nhất ở Việt Nam. Nhiệm vụ đó đặt lên vai Nguyễn Ái
Quốc, người duy nhất có đủ năng lực và uy tín đáp ứng yêu cầu đó của lịch sử: thống
nhất các tổ chức cộng sản thành Đảng Cộng sản duy nhất ở Việt Nam.
18

CHỦ ĐỀ 9: SO SÁNH LUẬN CƯƠNG CHÍNH TRỊ THÁNG 10 – 1930 VỚI CƯƠNG LĨNH
CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN (6/1/1930) CỦA ĐẢNG

1. Hoàn cảnh lịch sử

a. Hoàn cảnh quốc tế

- CNTB từ tự do cạnh tranh chuyển sang giai đoạn độc quyền tức là chủ nghĩa
đế quốc.

- Cách mạng tháng 10 Nga thành công và tác động 1 cách sâu sắ đến quá trình
tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc.

b. Hoàn cảnh trong nước

- Năm 1858, Pháp xâm lược VN và triều đình nhà Nguyễn đầu hàng và dâng
nước ta cho Pháp. Pháp đặt ách thống trị trên cả 3 mặt về chuyên chế chính trị,
kinh tế và văn hóa.

- Nhân dân VN căm thù giặc Pháp

2. So sánh luận cương chính trị tháng 10 -1930 với cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng

a. Giống nhau

- Về phương hướng chiến lược của cách mạng, cả 2 văn kiện đều xác định được
tích chất của cách mạng Việt Nam là: Cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa
cách mạng, bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa để đi tới xã hội cộng sản, đây là 2
nhiệm vụ cách mạng nối tiếp nhau không có bức tường ngăn cách. Lúc đầu là
cuộc cách mạng tư sản dân quyền, sau đó chuyển sang giai đoạn xã hội chủ
nghĩa. Phương hướng chiến lược đã phản ánh xu thế của thời đại và nguyện
vọng đông đảo của nhân dân Việt Nam.
- Về nhiệm vụ cách mạng: đều nêu lên 2 nhiệm vụ chiến lược là chống đế quốc,
chống phong kiến để lấy lại ruộng đất và giành độc lập dân tộc.
- Về lực lượng cách mạng, chủ yếu là công nhân và nông dân. Đây là hai lực
lượng nòng cốt và cơ bản đông đảo trong xã hội góp phần to lớn vào công cuộc
giải phóng dân tộc nước ta.
- Về phương pháp cách mạng, sử dụng sức mạnh của số đông dân chúng Việt
Nam cả về chính trị và vũ trang nhằm đạt mục tiêu cơ bản của cuộc cách mạng
là đánh đổ đế quốc và phong kiến, giành chính quyền về tay công nông.
- Về vị trí quốc tế, cách mạng Việt Nam là một bộ phận khăng khít với cách
mạng thế giới đã thể hiện sự mở rộng quan hệ bên ngoài, tìm đồng minh cho
mình.
Lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân thông qua Đảng cộng sản. “Đảng là đội tiên
phong của vô sản giai cấp phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm
cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng”. Như Hồ Chí Minh đã từng nói: “Đảng
Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào
công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam”. Sự giống nhau trên là do cả hai văn kiện
19

đều thấm nhuần chủ nghĩa Mác-Lênin và cách mạng vô sản chịu ảnh hưởng của cách
mạng tháng Mười Nga vĩ đại năm 1917.
b. Khác nhau

Tiêu chí Luận cương chính trị Cương lĩnh chính trị
Lực lượng
cách mạng Xác định giai cấp vô sản và nông dân là Trong Cương lĩnh chính trị xác định
hai động lực chính của cách mạng mạng lực lượng cách mạng là giai cấp công
tư sản dân quyền, trong đó giai cấp vô sản nhân và nông dân nhưng bên cạnh đó
là động lực chính và mạnh, là giai cấp cũng phải liên minh đoàn kết với tiểu
lãnh đạo cách mạng, nông dân có số tư sản, lợi dụng hoặc trung lập phú
lượng đông đảo nhất, là một động lực nông, trung nông, tiểu địa chủ và tư
mạnh của cách mạng, còn những giai cấp bản Việt Nam chưa rõ mặt phản cách
và tầng lớp khác ngoài công nông mạng.

xác Trong Luận cương chính trị thì xác định Trong cương lĩnh chính trị xác định
phải “tranh đấu để đánh đổ các di tích kẻ thù, nhiệm vụ của cách mạng là
định kẻ phong kiến, đánh đổ các cách bóc lột theo đánh đổ giặc Pháp sau đó mới đánh
lối tiền tư bản và để thực hành thổ địa đổ phong kiến và tay sai phản cách
thù và
cách mạng cho triệt để” và “đánh đổ đế mạng(nhiệm vụ dân tộc và dân chủ).
nhiệm quốc chủ nghĩa Pháp, làm cho hai nhiệm Nhiệm vụ dân tộc được coi là nhiệm
vụ chiến lược dân chủ và dân tộc được vụ trọng đại của cách mạng, nhiệm
vụ, tiến hành cùng một lúc có quan hệ khăng vụ dân chủ cũng dựa vào vấn đề dân
khít với nhau. Việc xác định nhiệm vụ tộc để giải quyết. Như vậy mục tiêu
mục như vậy của Luận cương đã đáp ứng của cương lĩnh xác định: làm cho
những yêu cầu khách quan đồng thời giải Việt Nam hoàn toàn độc lập, nhân
tiêu
quyết hai mâu thuẫn cơ bản trong xã hội dân được tự do, dân chủ, bình đẳng,
của Việt Nam lúc đó là mâu thuẫn dân tộc và tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc
mâu thuẫn giai cấp đang ngày càng sâu Việt gian chia cho dân cày nghèo,
cách sắc hơn và đánh đổ đế quốc chủ nghĩa thành lập chính phủ công nông binh
Pháp, làm cho Đông Dương hoàn toàn và tổ chức cho quân đội công nông,
mạng độc lập”. thi hành chính sách tự do dân chủ
bình đẳng phổ thông giáo dục theo
hướng công nông hóa. Luận cương
chưa xác định được kẻ thù, nhiệm vụ
hàng đầu ở một nước thuộc địa nửa
phong kiến nên không nêu cao vấn đề
dân tộc lên hàng đầu đó là nêu cao
vấn đề đấu tranh giai cấp, vấn đề
cách mạng ruộng đất.

CHỦ ĐỀ 10: CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG TRONG CUỘC VẬN ĐỘNG DÂN CHỦ 1930-1939.
THÀNH QUẢ VÀ KINH NGHIỆM CỦA CUỘC VẬN ĐỘNG NÀY

1. Hoàn cảnh lịch sử.

a. Hoàn cảnh quốc tế


20

Trong thời gian 1929-1933, khi Liên Xô đang đạt được những thành quả quan trọng trong công
cuộc xây dựng đất nước, thì ở các nước tư bản chủ nghĩa diễn ra một cuộc khủng hoảng kinh tế trên
qui mô lớn với những hậu quả nặng nề, làm cho những mâu thuẫn trong lòng xã hội tư bản phát triển
gay gắt.

Cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933 ảnh hưởng lớn đến các nước thuộc địa và phụ thuộc, làm
cho mọi hoạt động sản xuất đình đốn.

b. Hoàn cảnh trong nước

Ở Đông Dương, thực dân Pháp tăng cường bóc lột để bù đắp những hậu quả của cuộc khủng
hoảng ở chính quốc, đồng thời tiến hành một chiến dịch khủng bố trắng nhằm đàn áp cuộc khởi nghĩa
Yên Bái (2-1930).

Mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc Pháp và tay sai càng phát triển gay gắt.

2. Chủ trương đấu tranh của Đảng trong cuộc vận động dân chủ 1930-1939

2.1. Chủ trương đấu tranh từ 1930 – 1939

a. Những năm 1930 – 1935

● Cao trào cách mạng 1930 – 1931: được đánh giá như cuộc tổng diễn tập đầu tiên cho thắng lợi
cách mạng tháng 8 năm 1945

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với hệ thống tổ chức thống nhất và cương lĩnh chính trị đúng
đắn, nắm quyền lãnh đạo duy nhất đối với cách mạng Việt Nam đã “lãnh đạo ngay một cuộc đấu tranh
kịch liệt chống thực dân Pháp”. Đó là phong trào Xôviết Nghệ - Tĩnh. Cao trào cách mạng 1930-1931
đã tập hợp được đông đảo quần chúng công nông, chĩa mũi nhọn đấu tranh vào bọn đế quốc, phong
kiến với hình thức quyết liệt khắp cả Bắc, Trung, Nam, làm rung chuyển nền thống trị của chúng.

Diễn tập về đường lối:

Liên minh công nông được hình thành: Ngày 1-5-1930, nhân dân Việt Nam kỷ niệm Ngày
Quốc tế Lao động với những hình thức đấu tranh phong phú. Từ tháng 6 đến tháng 8-1930 đã nổ ra
121 cuộc đấu tranh, nổi bật nhất là cuộc tổng bãi công của công nhân khu công nghiệp Bến Thủy-Vinh
(8-1930), đánh dấu “một thời kỳ mới, thời kỳ đấu tranh kịch liệt đã đến”1. Ở vùng nông thôn hai tỉnh
Nghệ An và Hà Tĩnh, nổ ra nhiều cuộc biểu tình lớn của nông dân. Tháng 9-1930, phong trào cách
mạng phát triển đến đỉnh cao với những hình thức đấu tranh ngày càng quyết liệt.

Khi chính quyền Xô viết ra đời và là đỉnh cao của phong trào cách mạng. Từ cuối năm 1930,
thực dân Pháp tập trung mọi lực lượng đàn áp khốc liệt, kết hợp thủ đoạn bạo lực với những thủ đoạn
chính trị như cưỡng bức dân cày ra đầu thú, tổ chức rước cờ vàng, nhận thẻ quy thuận... Đầu năm
1931, hàng nghìn chiến sĩ cộng sản, hàng vạn người yêu nước bị bắt, bị giết hoặc bị tù đày. Tháng 4-
1931, toàn bộ Ban Chấp hành Trung ương Đảng bị bắt, không còn lại một ủy viên nào. “Các tổ chức
của Đảng và của quần chúng tan rã hầu hết”.

● Cao trào cách mạng giai đoạn 1932-1935: được gọi là khôi phục và tổ chức phong trào cách
mạng.
21

Phong trào bị chìm trong biển máu, cơ quan của Đảng bị phá vỡ từ trung ương đến địa phương

Đầu năm 1932, trước tình hình các ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng và hầu hết ủy
viên các Xứ ủy Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ bị địch bắt và nhiều người đã hy sinh, theo Chỉ thị của
Quốc tế Cộng sản, Lê Hồng Phong cùng một số đồng chí chủ chốt ở trong và ngoài nước tổ chức ra
Ban lãnh đạo Trung ương của Đảng. Tháng 6-1932, Ban lãnh đạo Trung ương đã công bố Chương
trình hành động của Đảng Cộng sản Đông Dương.

Chương trình hành động đã đánh giá hai năm đấu tranh của quần chúng công nông và khẳng
định: Công nông Đông Dương dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản sẽ nổi lên võ trang bạo động thực
hiện những nhiệm vụ chống đế quốc, chống phong kiến và tiến lên thực hiện chủ nghĩa xã hội.

Để chuẩn bị cho cuộc võ trang bạo động sau này, Đảng phải đề ra và lãnh đạo quần chúng đấu
tranh giành những quyền lợi thiết thực hằng ngày, rồi dần đưa quần chúng tiến lên đấu tranh cho
những yêu cầu chính trị cao hơn.

Chương trình hành động còn đề ra những yêu cầu cụ thể riêng cho từng giai cấp và tầng lớp
nhân dân; vạch rõ phải ra sức tuyên truyền mở rộng ảnh hưởng của Đảng trong quần chúng, củng cố và
phát triển các đoàn thể cách mạng, nhất là công hội và nông hội; dẫn dắt quần chúng đấu tranh cho
những quyền lợi hàng ngày tiến lên đấu tranh chính trị, chuẩn bị cho khởi nghĩa giành chính quyền khi
có điều kiện; trong xây dựng Đảng, phải làm cho Đảng vững mạnh, có kỷ luật nghiêm, giáo dục đảng
viên về tư tưởng, chính trị, rèn luyện đảng viên qua đấu tranh cách mạng…

Những yêu cầu chính trị nước mắt cùng với những biện pháp tổ chức và đấu tranh do Đảng
vạch ra trong Chương trình hành động năm 1932 phù hợp với điều kiện lịch sử lúc bây giờ. Nhờ vậy,
phong trào cách mạng của quần chúng vả hệ thống tổ chức của Đảng đã nhanh chóng được khôi phục.

Tháng 3-1935, Đại hội đại biểu lần thứ I của Đảng họp ở Ma Cao (Trung Quốc). Đại hội khẳng
định thắng lợi của cuộc đấu tranh khôi phục phong trào cách mạng và hệ thống tổ chức Đảng. Đại hội
đề ra ba nhiệm vụ trước mắt là: củng cố và phát triển Đảng; đẩy mạnh cuộc vận động thu phục quần
chúng; mở rộng tuyên truyền chống đế quốc, chống chiến tranh, ủng hộ Liên Xô, ủng hộ cách mạng
Trung Quốc... Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng gồm 13 ủy viên, do đồng chí Lê Hồng
Phong làm Tổng Bí thư. Thành công của Đại hội đã khẳng định trên thực tế phong trào cách mạng và
hệ thống tổ chức Đảng đã được khôi phục, mở ra một giai đoạn phát triển mới của cách mạng Đông
Dương.

3. Thành quả và kinh nghiệm của cuộc vận động

Mặc dù bị tổn thất nặng nề, nhưng phong trào cách mạng 1930-1931 có ý nghĩa lịch sử quan trọng đối
với cách mạng Việt Nam:

- Khẳng định trong thực tế quyền lãnh đạo và năng lực lãnh đạo cách mạng của giai cấp vô sản
mà đại biểu là Đảng ta; ở chỗ nó đem lại cho nông dân niềm tin vững chắc vào giai cấp vô sản,
đồng thời đem lại cho đông đảo quần chúng công nông lòng tự tin ở sức lực cách mạng vĩ đại
của mình…;’. Phong trào cách mạng đã rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên và quần chúng yêu
nước. Đặc biệt, “Xô viết Nghệ An bị thất bại, nhưng đã có ảnh hưởng lớn. Tinh thần anh dũng
của nó luôn luôn nồng nàn trong tâm hồn quần chúng, và nó đã mở đường cho thắng lợi về
sau”.
22

- Cao trào cũng để lại cho Đảng những kinh nghiệm quý báu “về kết hợp hai nhiệm vụ chiến
lược phản đế và phản phong kiến, kết hợp phong trào đấu tranh của công nhân với phong trào
đấu tranh của nông dân, thực hiện liên minh công nông dưới sự lãnh đạo của giai cấp công
nhân; kết hợp phong trào cách mạng ở nông thôn với phong trào cách mạng ở thành thị, kết hợp
đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang v.v…”.

CHỦ ĐỀ 11: PHÂN TÍCH CHỦ TRƯƠNG CHIẾN LƯỢC MỚI CỦA ĐẢNG GIAI ĐOẠN
1936-1939

1. Hoàn cảnh lịch sử

a. Hoàn cảnh quốc tế

- Để giải quyết những hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933, giai cấp tư sản ở
một số nước như Đức, Italia, Tây Ban Nha… chủ trương dùng bạo lực đàn áp phong trào đấu tranh
trong nước và chuẩn bị phát động chiến tranh thế giới để chia lại thị trường. Chủ nghĩa phát xít
xuất hiện và tạm thời thắng thế ở một số nơi. Nguy cơ chủ nghĩa phát xít và chiến tranh thế giới đe
dọa nghiêm trọng nền hòa bình và an ninh quốc tế.

- Quốc tế Cộng sản họp Đại hội VII tại Mátxcơva (Liên Xô) (7-1935), xác định kẻ thù nguy
hiểm trước mắt của nhân dân thế giới là chủ nghĩa phát xít. Nhiệm vụ trước mắt của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động thế giới là chống chủ nghĩa phát xít, chống chiến tranh bảo vệ dân chủ
và hòa bình. Để thực hiện nhiệm vụ đó, giai cấp công nhân các nước trên thế giới phải thống nhất
hàng ngũ, lập mặt trận nhân dân rộng rãi.

- Trong thời gian này, các đảng cộng sản ra sức phấn đấu lập mặt trận nhân dân chống chủ
nghĩa phát xít. Đặc biệt, Mặt trận nhân dân Pháp thành lập từ tháng 5-1935 do Đảng Cộng sản
Pháp làm nòng cốt, đã giành được thắng lợi vang dội trong cuộc tổng tuyển cử năm 1936, dẫn đến
sự ra đời của Chính phủ Mặt trận nhân dân Pháp.

b. Hoàn cảnh trong nước

- Ở Việt Nam, mọi tầng lớp xã hội đều mong muốn có những cải cách dân chủ nhằm thoát
khỏi tình trạng ngột ngạt do khủng hoảng kinh tế và chính sách khủng bố trắng do thực dân Pháp
gây ra.

- Đảng Cộng sản Đông Dương đã phục hồi hệ thống tổ chức sau một thời gian đấu tranh cực
kỳ gian khổ và tranh thủ cơ hội thuận lợi để xây dựng, phát triển tổ chức đảng và các tổ chức quần
chúng rộng rãi.

2. Chủ trương đấu tranh giai đoạn 1936-1939

- Mặt trận nhân dân Pháp đc thành lập đã ban bố 1 số chính sách có lợi cho các nước thuộc
địa, tận dụng tình hình đó Đảng đã phát động 1 cao trào đấu tranh rộng khắp. Cao trào này được
đánh giá như cuộc tổng diễn tập lần thứ 2 cho cách mạng tháng 8 năm 1945:

+ Đội quân chính trị rộng rãi đc hình thành trong mặt trận dân chủ Đông Dương 1936-1939: Ngày 26-
7-1936, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị tại Thượng Hải (Trung Quốc), do Lê Hồng
Phong chủ trì, có Hà Huy Tập, Phùng Chí Kiên dự, nhằm “sửa chữa những sai lầm” trước đó và “định
23

lại chính sách mới” dựa theo những nghị quyết của Đại hội lần thứ VII Quốc tế Cộng sản 1. Hội nghị
xác định nhiệm vụ trước mắt là chống phát xít, chống chiến tranh đế quốc, chống phản động thuộc địa
và tay sai, đòi tự do, dân chủ, cơm áo và hòa bình; “lập Mặt trận nhân dân phản đế rộng rãi chính để
bao gồm các giai cấp, các đảng phái, các đoàn thể chính trị và tín ngưỡng tôn giáo khác nhau, các dân
tộc ở xứ Đông Dương để cùng nhau tranh đấu để đòi những điều dân chủ đơn sơ”2. Hội nghị Trung
ương Đảng (29 - 30-3-1938) quyết định lập Mặt trận Dân chủ Đông Dương để tập hợp rộng rãi lực
lượng, phát triển phong trào. Hội nghị bầu đồng chí Nguyễn Văn Cừ làm Tổng Bí thư của Đảng.

+ Các hình thức, phương pháp đấu tranh phong phú, đa dạng đc thể hiện: Dưới sự lãnh đạo của Đảng,
cuộc vận động dân chủ diễn ra trên quy mô rộng lớn, lôi cuốn đông đảo quần chúng tham gia với
những hình thức đấu tranh phong phú.

Đảng phát động một phong trào đấu tranh công khai của quần chúng, mở đầu bằng cuộc
vận động lập “Ủy ban trù bị Đông Dương đại hội” nhằm thu thập nguyện vọng quần chúng, tiến tới
triệu tập Đại hội đại biểu nhân dân Đông Dương. Hưởng ứng chủ trương của Đảng, quần chúng sôi nổi
tổ chức các cuộc mít tinh, hội họp để tập hợp “dân nguyện”. Trong một thời gian ngắn, ở khắp các nhà
máy, hầm mỏ, đồn điền, từ thành thị đến nông thôn đã lập ra các “Ủy ban hành động” để tập hợp quần
chúng.

Đầu năm 1937, nhân dịp phái viên của chính phủ Pháp là Gôđa (Godard) đi kinh lý
Đông Dương và Brêviê (Brévié) sang nhận chức toàn quyền Đông Dương, Đảng vận động hai cuộc
biểu dương lực lượng quần chúng dưới danh nghĩa “đón rước”, mít tinh, biểu tình, đưa đơn “dân
nguyện”.

Các hình thức tổ chức quần chúng phát triển rộng rãi, bao gồm các hội tương tế, hội ái
hữu. Trong những năm 1937-1938, Mặt trận Dân chủ còn tổ chức các cuộc vận động tranh cử vào các
Viện dân biểu Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Hội đồng quản hạt Nam Kỳ, Hội đồng kinh tế lý tài Đông Dương

+ Quần chúng cách mạng đc tôi luyện qua thử thách của cuộc đấu tranh: Qua cuộc vận động dân chủ,
Đội quân chính trị quần chúng gồm hàng triệu người được tập hợp, giác ngộ và rèn luyện. Uy tín và
ảnh hưởng của Đảng được mở rộng. Tổ chức Đảng được củng cố và phát triển. Đến tháng 4-1938,
Đảng có 1.597 đảng viên hoạt động bí mật và hơn 200 đảng viên hoạt động công khai. Số hội viên
trong các tổ chức quần chúng công nhân, nông dân, phụ nữ, học sinh, cứu tế là 35.009 người.

3. Ý nghĩa

Khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ (9-1939), thực dân Pháp đàn áp cách mạng. Đảng rút vào hoạt
động bí mật. Cuộc vận động dân chủ kết thúc. Đó thực sự là một phong trào cách mạng sôi nổi, có tính
quần chúng rộng rãi và mang ý nghĩa to lớn đối với nhân dân và Đảng ta:

- Đảng tích lũy thêm nhiều kinh nghiệm mới.

+ Đó là kinh nghiệm về chỉ đạo chiến lược: giải quyết mối quan hệ giữa mục tiêu chiến lược và mục
tiêu trước mắt;

+ về xây dựng một mặt trận thống nhất rộng rãi phù hợp với yêu cầu của nhiệm vụ chính trị, phân hóa
và cô lập cao độ kẻ thù nguy hiểm nhất;
24

+ về kết hợp các hình thức tổ chức bí mật và công khai để tập hợp quần chúng và các hình thức,
phương pháp đấu tranh: tổ chức Đông Dương đại hội, đấu tranh nghị trường, trên mặt trận báo chí, đòi
dân sinh, dân chủ, bãi công lớn của công nhân vùng mỏ (12-11-1936), kỷ niệm Ngày Quốc tế lao động
1-5. Thực tiễn phong trào chỉ ra rằng: “Việc gì đúng với nguyện vọng nhân dân thì được quần chúng
nhân dân ủng hộ và hăng hái đấu tranh, và như vậy mới thật là một phong trào quần chúng”

- Cuộc vận động dân chủ 1936-1939 đã làm cho trận địa và lực lượng cách mạng được mở
rộng ở cả nông thôn và thành thị, thực sự là một bước chuẩn bị cho thắng lợi của Cách mạng Tháng
Tám sau này.

CHỦ ĐỀ 12: PHÂN TÍCH NGUYÊN NHÂN THẮNG LỢI, TÍNH CHẤT VÀ KINH NGHIỆM
CỦA CÁCH MẠNG THÁNG 8 NĂM 1945

1. Nguyên nhân thắng lợi

a. Nguyên nhân khách quan

- Kẻ thù trực tiếp của nhân dân Việt Nam là phát xít Nhật đã đầu hàng Đồng minh, quân đội Nhật ở
Đông Dương mất hết tinh thần chiến đấu, chính quyền thân Nhật rệu rã, tạo thời cơ thuận lợi để nhân
dân Việt Nam tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Đó là kết quả và đỉnh cao của 15 năm đấu tranh của
toàn dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, mà trực tiếp là cao trào vận động giải phóng dân
tộc 1939-1945.

b. Nguyên nhân chủ quan

- Đảng Cộng sản Đông Dương là người tổ chức và lãnh đạo cách mạng. Đảng có đường
lối chính trị đúng đắn, phương pháp cách mạng sáng tạo, dày dạn kinh nghiệm đấu
tranh, bắt rễ sâu trong quần chúng, đoàn kết và thống nhất, quyết tâm lãnh đạo quần
chúng khởi nghĩa giành chính quyền.

2. Tính chất

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là “một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc mang tính chất dân chủ
mới. Nó là một bộ phận khăng khít của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam”, thể hiện:

- Tập trung hoàn thành nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng là giải phóng dân tộc, tập
trung giải quyết mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Việt Nam lúc đó là mâu thuẫn giữa toàn
thể dân tộc với đế quốc xâm lược và tay sai; đáp ứng đúng yêu cầu khách quan của lịch
sử và ý chí, nguyện vọng độc lập tự do của quần chúng nhân dân.

- Lực lượng cách mạng bao gồm toàn dân tộc, đoàn kết chặt chẽ trong mặt trận Việt
Minh với những tổ chức quần chúng mang tên “cứu quốc”, động viên đến mức cao nhất
mọi lực lượng dân tộc lên trận địa cách mạng. Cuộc tổng khởi nghĩa tháng Tám năm
1945 là sự vùng dậy của lực lượng toàn dân tộc.

- Thành lập chính quyền nhà nước “của chung toàn dân tộc” theo chủ trương của Đảng,
với hình thức cộng hoà dân chủ, chỉ trừ tay sai của đế quốc và những kẻ phản quốc,
“còn ai là người dân sống trên giải đất Việt Nam đều thảy được một phần tham gia giữ
chính quyền, phải có một phần nhiệm vụ giữ lấy và bảo vệ chính quyền ấy”.
25

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 dưới sự lãnh đạo của Đảng còn mang đậm tính nhân văn,
hoàn thành một bước hết sức cơ bản trong sự nghiệp giải phóng con người ở Việt Nam khỏi
mọi sự áp bức về mặt dân tộc, sự bóc lột về mặt giai cấp và sự nô dịch về mặt tinh thần.

3. Kinh nghiệm

Cách mạng Tháng Tám thành công để lại cho Đảng và nhân dân Việt Nam nhiều kinh nghiệm quý báu.

- Thứ nhất, về chỉ đạo chiến lược, phải giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, giải
quyết đúng đắn mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ độc lập dân tộc và cách mạng ruộng đất.
Trong cách mạng thuộc địa, phải đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, còn
nhiệm vụ cách mạng ruộng đất cần tạm gác lại, rải ra thực hiện từng bước thích hợp
nhằm phục vụ cho nhiệm vụ chống đế quốc.

- Thứ hai, về xây dựng lực lượng: Trên cơ sở khối liên minh công nông, cần khơi dậy
tinh thần dân tộc trong mọi tầng lớp nhân dân, tập hợp mọi lực lượng yêu nước trong
mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi. Việt Minh là một điển hình thành công của Đảng
về huy động lực lượng toàn dân tộc lên trận địa cách mạng, đưa cả dân tộc vùng dậy
trong cao trào kháng Nhật cứu nước, tiến lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Theo
cách dùng từ của V.I.Lênin trong tác phẩm Tổng kết một cuộc tranh luận về quyền tự
quyết, thì đó chính là một “lò lửa khởi nghĩa dân tộc”1.

- Thứ ba, về phương pháp cách mạng: Nắm vững quan điểm bạo lực cách mạng của
quần chúng, ra sức xây dựng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, kết hợp đấu
tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, tiến hành chiến tranh du kích cục bộ và khởi
nghĩa từng phần, giành chính quyền bộ phận ở những vùng nông thôn có điều kiện, tiến
lên chớp đúng thời cơ, phát động tổng khởi nghĩa ở cả nông thôn và thành thị, giành
chính quyền toàn quốc.

- Thứ tư, về xây dựng Đảng: Phải xây dựng một Đảng cách mạng tiên phong của giai
cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc Việt Nam, tuyệt đối trung thành với
lợi ích giai cấp và dân tộc; vận dụng và phát triển lý luận Mác-Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh, đề ra đường lối chính trị đúng đắn; xây dựng một đảng vững mạnh về tư
tưởng, chính trị và tổ chức, liên hệ chặt chẽ với quần chúng và với đội ngũ cán bộ đảng
viên kiên cường được tôi luyện trong đấu tranh cách mạng.

Chú trọng vai trò lãnh đạo ở cấp chiến lược của Trung ương Đảng, đồng thời phát huy tính chủ động,
sáng tạo của đảng bộ các địa phương.

Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Đảng đã lãnh đạo nhân dân đưa lịch sử dân tộc
sang trang mới, đánh dấu bước nhảy vọt vĩ đại trong quá trình tiến hoá của dân tộc. Nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa từ khi ra đời, dù phải trải qua muôn vàn khó khăn thử thách, nhưng dưới sự lãnh
đạo của Đảng, với tinh thần đoàn kết phấn đấu của toàn dân, luôn được xây dựng và củng cố, vững
bước tiến trên con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Suốt 15 năm đấu tranh cách mạng 1930-
1945, Đảng đã lãnh đạo giai cấp và dân tộc hoàn thành mục tiêu giành độc lập, thiết lập nhà nước dân
chủ nhân dân.
26

CÂU 8: PHÂN TÍCH HỆ THỐNG QUAN ĐIỂM VỀ CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC
CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC ĐƯỢC HÌNH THÀNH TRONG NHỮNG NĂM 1920-1930? Ý
NGHĨA CỦA NHỮNG QUAN ĐIỂM NÀY ĐỐI VỚI VIỆC HÌNH THÀNH NỘI DUNG “
CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ “ ĐẦU TIÊN CỦA ĐẢNG?

1. Hoàn cảnh lịch sử


a. Hoàn cảnh quốc tế
Cuối thế kỉ XIX- đầu thế kỉ XX, chủ nghĩa tư bản phát triển, những mâu thuẫn trong lòng nó càng
ngày càng gay gắt. Sự thành công của Cách mạng tháng Mười Nga (1917) đã mở ra con đường giải
phóng mới cho các dân tộc bị áp bức, trong đó có Việt Nam. Điều này có ý nghĩa vô cùng quan trọng
trong việc lựa chọn con đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc.
b. Hoàn cảnh trong nước
- Ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược, các phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân ta đã
diễn ra liên tục và anh dũng, theo nhiều con đường cứu nước khác nhau. Đó là phong trào giải
phóng dân tộc theo khuynh hướng phong kiến cuối thế kỉ XIX và khuynh hướng tư sản đầu thế
kỉ XX. Song kết quả đều thất bại.
- Sự bất lực của các hệ tư tưởng đó trước nhiệm vụ giải phóng dân tộc đã cho thấy độc lập dân
tộc ở Việt Nam không thể gắn với chế độ phong kiến hay chủ nghĩa tư bản, Cách mạng Việt
Nam đang có sự khủng hoảng về đường lối cứu nước. Tình hình đó đặt ra yêu cầu bức thiết về
việc cần một đường lối cứu nước đúng đắn, điều này đã thôi thúc Nguyễn Tất Thành phải tìm
ra con đường cứu nước mới.
2. Hệ thống quan điểm về cách mạng giải phóng dân tộc của Nguyễn ÁI Quốc được hình thành trong
những năm 1920-1930
2.1. Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định: “Cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa
và chính quốc có mối quan hệ chặt chẽ, song, đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa
không hoàn toàn phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở các nước chính quốc, nhân dân các dân tộc
ở các nước thuộc địa có thể đứng lên tự giải phóng chính mình và cuộc cách mạng có thể thắng
lợi trước”
- Cũng giống như, C.Mác và Ăng-ghen, ngay từ sớm Nguyễn Ái Quốc đã lưu tâm tới mối quan
hệ giữa cách mạng chính quốc và các mạng ở thuộc địa và họ đều cho rằng cách mạng chính
quốc và cách mạng thuộc địa có mối quan hệ gắn bó hữu cơ không thể tách rời.
- Khác với Quốc tế cộng sản, Nguyễn Ái Quốc lại chỉ rõ: “Cách mạng thuộc địa có tính chủ
động, độc lập, không hoàn toàn phụ thuộc vào cách mạng chính quốc, nhân dân các dân tộc ở
các nước thuộc địa có thể đứng lên tự giải phóng chính mình và cuộc cách mạng có thể thắng
lợi trước”. Đây là một quan niệm táo bạo nhưng vô cùng đúng đắn của Nguyễn Ái Quốc.
Người có một quan điểm khác so với C.Mác, Lênin và Quốc tế cộng sản là là do
+ Thứ nhất, Nguyễn Ái Quốc nhận thức được tính tất yếu phải diệt vong của đế quốc thực dân vì
chính sự tàn bạo của chúng. Trong bài “Chủ nghĩa tư bản đế quốc Pháp ở Đông Dương”
(1928), Nguyễn Ái Quốc viết: “Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản thực dân ở Đông Dương đã
tạo ra ở xứ đó hai giai cấp vô sản. Điều này có nghĩa rằng chính chủ nghĩa thực dân đã tạo nên
giai cấp công nhân trong lòng xã hội thuộc địa - giai cấp có khả năng thủ tiêu chủ nghĩa đế
quốc. Mặt khác, chính sự áp bức bóc lột tàn bạo của chủ nghĩa thực dân đã khiến tinh thần cách
mạng của quần chúng ngày một dâng cao. Như vậy, mâu thuẫn giữa nhân dân và bọn thực dân
ngày càng gay gắt và nói thế nào chăng nữa thì sự tàn bạo, cái đói, cái khổ vẫn cứ thôi thúc
nhân dân làm cách mạng để đạp đổ ách thống trị tàn bạo của chủ nghĩa đế quốc.”
+ Thứ hai, Nguyễn Ái Quốc nhận thức rằng sự áp bức của đế quốc thực dânv ới thuộc địa nặng
nề hơn so với nhân dân lao động ở chính quốc. Theo Người, chế độ thực dân là hình thức tha
27

hoá tàn bạo nhất, là kết quả tất yếu của sự phát triển phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa;
nhân dân thuộc địa, vừa phải chịu sự nô dịch, đè nén bằng lưỡi lê của nền văn minh, vừa bằng
cây thánh giá của giáo hội sa đọa làm ô danh chúa. Vì bị áp bức nặng nề như vậy nên nhân dân
thuộc địa, trong đó đông đảo nhất là công nhân, nông dân... đang tiềm ẩn một sự phản kháng
mãnh liệt và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm khi thời cơ đến.
+ Thứ ba, Nguyễn Ái Quốc nhận thức sâu sắc vai trò quan trọng quyết định của thuộc địa đối với
sự tồn tại của chủ nghĩa đế quốc thực dân. Người từng nói: “Hiện nay, tất cả sinh lực của chủ
nghĩa tư bản quốc tế đều lấy ở các xứ thuộc địa". Chủ nghĩa thực dân cùng tay sai của chúng đã
ra sức vơ vét tài nguyên của cải tại thuộc địa mang về làm giàu cho chính quốc, họ biển những
người dẫn tại các nước thuộc địa thành nô lệ, thậm chí biến họ thành những người linh bất đắc
dĩ trên các chiến trường mà các nước chính quốc tham chiến. Như vậy, hà quá rõ ràng để chúng
ta nhận ra rằng nền móng cho sự bành trướng của chủ nghĩa thực dân chính là sự tàn bạo mà
chúng áp đặt lên các nước thuộc địa và chúng chỉ có thể tan rã khi nền móng ấy bị phá vỡ.
+ Thủ tư, Nguyễn Ái Quốc đã sớm nhận thức được tiềm năng to lớn của cách mạng thuộc địa.
Nhờ sinh trưởng ở một nước thuộc địa, lại được trải qua thực tiễn phong phủ của cuộc sống ở
thuộc địa Việt Nam cũng như nhiều thuộc địa khác nên Người sớm có cái nhìn toàn diện và sâu
sắc về vấn đề dân tộc thuộc địa, thấy được sức mạnh vĩ đại trong các dân tộc thuộc địa
+ Thứ năm. Nguyễn Ái Quốc nhận thức rõ vai trò ảnh hưởng của phong trào cách mạng thế giới
đối với các thuộc địa nói chung, cũng như cách mạng Đông Dương nói riêng. Vào những năm
20 thế kỉ XX, luồng gió từ nước Nga thợ thuyền, từ Trung Quốc cách mạng hay từ Ấn Độ
chiến đấu ngày càng lan rộng tới Đông Dương, khiến cho cách mạng tại Đông Dương lúc bấy
giờ đang lư ngày càng trở nên mạnh mẽ. Nói tóm lại phong trào cách mạng thế giới càng sôi
nổi càng giành được nhiều thắng lợi sẽ càng khiến cho cách mạng tại các nước thuộc địa trở
nên sục sôi hơn.
=> Như vậy, luận điểm sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc về khả năng giành thắng lợi trước và bổ trợ cho
cách mạng vô sản tại chính quốc đã dựa trên những luận cứ khoa học và thuyết phục và được tổng hòa
nhờ vào kinh nghiệm thực tiễn và sự nhạy bén trong chính trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đây cũng là
cống hiến quan trọng vào kho tàng lý luận chủ nghĩa Mác - Lê-nin.
2.2. Độc lập dân tộc gắn với cách mạng vô sản. Cụ thể, "cách mạng của các dân tộc bị áp bức là
giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp; cả hai cuộc cách mạng này chỉ có thể là sự nghiệp của
chủ nghĩa vô sản
- Qua thực tiễn lịch sử. Nguyễn Ái Quốc nhận thấy, các phong trào yêu nước theo khuynh hướng
dân chủ tư sản hay phong kiến ở Việt Nam đã diễn ra liên tục, sôi nổi với đồng đảo quần chúng
tham gia bằng những hình thức đấu tranh phong phú, thể hiện rõ ý thức dân tộc, tinh thần
chống đế quốc. Nhưng đáng buồn thay cuối cùng đều chìm trong biển máu vì hệ tư tưởng
phong kiến hay tư sân đều không phù hợp với tình hình lịch sử thực tế tại Việt Nam
- Sau khi đến với chủ nghĩa Mác - Lênin (1919), đến năm 1920 sau khi tham gia Đại Hội Tua,
Người quyết định: hoàn toàn đi theo Lênin và Quốc tế thứ ba, 5 đưa cách mạng Việt Nam theo
con đường cách mạng vô sản. Nhận thấy những ưu điểm nổi trội của Cách mạng Tháng Mười
Nga (1917). Người kết luận: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào
khác con đường cách mạng vô sản". Con đường giải phóng dân tộc theo khuynh hướng cách
mạng vô sản là cuộc cách mạng toàn diện, sâu sắc và triệt để. Cuộc cách mạng đó không chỉ
giải phóng giai cấp mà gắn liền với nó là giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội. Bởi cách mạng
giải phóng dân tộc thuộc địa là một bộ phận của cách mạng vô sản
2.3. Cách mạng giải phóng dân tộc phải được thực hiện bằng con đường bạo lực, kết hợp lực
lượng chính trị của quần chúng với lực lượng vũ trang trong nhân dân
28

- Từ những năm 20 thế kỉ XX, Nguyễn Ái Quốc đã đề cập đến phương hướng bạo lực
cách mạng và khẳng định độc lập dân tộc chỉ có được bằng con đường cách mạng vũ
trang. Đồng thời, theo chủ nghĩa Mác - Lênin, có nhiều phương pháp giành chính quyền
từ tay giai cấp thống trị. Những kẻ thủ sẽ không bao giờ tự nguyện giao chính quyền
cho nhân dân. Vì vậy. Hồ Chí Minh cho rằng muốn cách mạng thắng lợi thì phải dùng
bạo lực cách mạng để giành chính quyền.
Lý do khiến Nguyễn Ái Quốc chọn con đường này
+ Thứ nhất, Nguyễn Ái Quốc nhận thức sâu sắc được bản chất của chế độ thực dân.
Người chỉ rõ: “chế độ thực dân tự bản thân nó đã là một hành động bạo lực của kẻ mạnh
đối với kẻ yếu". Người cũng biết rõ, độc lập tự do không phải do cầu xin mà có được và
tự do cho dân tộc thuộc địa không thể có được bằng con đường cải lương, không thể ảo
tưởng trông chờ vào sự rủ lòng thương của bọn đế quốc thực dân.
+ Thứ hai, quan điểm cách mạng bạo lực của Hồ Chí Minh không hề đổi lập với tinh thần
nhân đạo. Nó xuất phát từ tình yêu thương con người, quý trọng sinh mạng con người
và mục tiêu cuối cùng là hòa bình, độc lập chính đảng cho nhân dân
+ Thứ ba, không tuyệt đối hóa vai trò của bạo lực, của đấu tranh vũ trang trong chiến
tranh cách mạng, vì đấu tranh vũ trang chỉ là một trong những phương pháp để thực
hiện mục tiêu chính trị của cách mạng. Hình thức bạo lực cách mạng bao gồm cả đấu
tranh chính trị và đấu tranh vũ trang, nhưng phải tùy tình hình cụ thể mà quyết định
những hình thức đấu tranh cách mạng thích hợp.
- Trong chiến tranh, "quân sự là việc chủ chốt", nhưng đồng thời phải kết hợp chặt chẽ
với đấu tranh chính trị. "Thắng lợi quân sự đem lại thắng lợi chính trị, thắng lợi chính
trị sẽ làm thắng lợi quân sự to lớn hơn". Như vậy, cả Lênin và Nguyễn Ái Quốc đều cho
rằng có nhiều cách để giành độc lập nhưng chỉ có cách mạng bằng bạo lực mới hoàn
toàn đánh đổ bạo lực phản cách mạng.
2.4. Cách mạng giải phóng dân tộc phải có Đảng Cộng Sản lãnh đạo
- Đến những năm 20 thế kỉ XX, Người đã khẳng định vai trò của một đảng cách mạng
đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc; đảng đỏ vừa giáo dục, vận động, tổ chức, giác ngộ
quần chúng và đưa họ ra đấu tranh giành độc lập tự do: đồng thời đảng còn làm nhiệm
vụ gắn kết cách mạng trong nước với cách mạng thế giới Như vậy, trong những năm 20,
quan điểm của Nguyễn Ái Quốc về tầm quan trọng và sự cần thiết của một đảng cách
mạng đã được thể hiện một cách rõ rằng. Không chỉ trên phương diện nhận thức lý luận
mà bằng các hành động thực tiễn của mình Người đã từng bước chuẩn bị các điều kiện
để đi tới thành lập một Đảng cách mạng tại Việt Nam.
2.5. Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đoàn kết của toàn đàn, trên cơ sở liên minh
công – nông
- Ngay sau khi tìm thấy con đường cứu nước ở chủ nghĩa Mác - Lênin, trở thành người
cộng sản Việt Nam đầu tiên, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng lực
lượng cách mạng.
- Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, liên minh giai cấp công nhân, nông dân và đội ngũ trí
thức là sự cố kết của các giai cấp, tầng lớp trong một chính thể thống nhất, nhằm giúp
đỡ lẫn nhau phát triển. Mỗi thành tố có vị trí, vai trò đặc thù do 8 bản chất của mỗi giai
cấp và tầng lớp trong cách mạng và xã hội quy định. Sức mạnh và chất lượng của khối
liên minh phụ thuộc vào chất lượng của từng thành tố trong đó.
- Theo Người: “Công nông là gốc cách mệnh, còn học trò, nhà buôn bán nhỏ, điền chủ
nhỏ... Là bầu bạn cách mệnh của công nông”. Công nông là người chủ cách mệnh "là vì
công nông bị áp bức nặng hơn, là vì công nông là đông nhất cho nên sức mạnh hơn hết,
29

là vì công nông là tay không chân rồi, nếu thua thì chỉ mất một cái kiếp khổ, nếu được
thì được cả thế giới, cho nên họ gan góc”. “Học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ cũng bị
tư bán áp bức, song không cực khổ bằng công nông; 3 hạng ấy chỉ là bầu bạn cách
mệnh của công nông”. Bởi vậy phải đoàn kết công, nông dân - đây là lực lượng cơ bản,
trong đó giai cấp công nhân lãnh đạo; đồng thời chủ trương đoàn kết tất cả các giai cấp,
các lực lượng tiến bộ. yêu nước để tập trung chống đế quốc tay sai, giải phóng khỏi ách
thuộc địa.
Đây là cơ sở của tư tưởng chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng khỏi đại đoàn kết rộng rãi
các giai cấp, các tầng lớp nhân dân yêu nước và các tổ chức yêu nước, cách mạng, trên cơ sở đánh giá
đúng đến thái độ các giai cấp phù hợp với đặc điểm xã hội Việt Nam.

CÂU 9(CĐ13.2): CHỨNG MINH RẰNG, ĐƯỜNG LỐI “ KHÁNG CHIẾN, KIẾN QUỐC” CỦA
ĐẢNG ( 25/11/1945) ĐÃ GIẢI QUYẾT KỊP THỜI NHỮNG VẤN ĐỀ QUAN TRỌNG VỀ CHỈ
ĐẠO CHIẾN LƯỢC SÁCH LƯỢC CỦA CÁCH MẠNG VN”?

I. Hoàn cảnh lịch sử


1. Bối cảnh lịch sử thế giới
Đầu năm 1945, Chiến tranh thế giới lần thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc. Hồng quân
Xô Viết liên tiếp giành những thắng lợi quyết định trên chiến trường châu Âu, giải
phóng một loạt nước và tiến thẳng vào sào huyệt phát xít Đức tại Berlin.
Ngày 9/5/1945, phát xít Đức đầu hàng vô điều kiện, chiến tranh kết thúc ở châu Âu.
Ngày 8/8/1945, Hồng quân Liên Xô tiến công như vũ bão vào quân đội Nhật.
Ngày 14/8/1945, phát xít Nhật đầu hàng vô điều kiện, Chiến tranh thế giới lần thứ hai
hoàn toàn kết thúc. Theo thỏa thuận của các nước Đồng minh, sau khi phát xít Nhật đầu
hàng, quân đội Anh và Tưởng sẽ vào Đông Dương để giải giáp quân đội Nhật. Trong
khi đó, thực dân Pháp lăm le dựa vào Đồng minh nhằm khôi phục địa vị thống trị của
mình; để quốc Mỹ dùng sau các thế lực này cũng sẵn sàng can thiệp vào Đông Dương;
những phần tử phản động, ngoan cố trong chính quyền tay sai Nhật đang âm mưu thay
đổi chủ, chống lại cách mạng.
2. Bối cảnh trong nước
Đất nước vừa giành được độc lập từ tay Phát xít Nhật, nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa được khai sinh nhưng gặp phải vô vàn thách thức:

- Giặc ngoại xâm và nội phản vẫn lăm le xâm lược và chống phá Đảng và Nhà
nước ta. Từ vĩ tuyến 16 trở ra Bắc, 20 vạn quân Trung Hoa Dân quốc kéo vào
nước ta theo sau là các đảng phải tay sai hòng cướp chính quyền. Từ vĩ tuyến 16
trở vào Nam, quân đội Anh kéo vào, dọn đường cho Pháp trở lại xâm lược nước
ta. Trên cả nước vẫn còn 6 vạn quân Nhật chờ giải giáp, theo lệnh Anh chống
phá cách mạng.
- Bên cạnh đó, chính quyền cách mạng ta chưa được củng cố, lực lượng vũ trang
còn non yếu. Nạn đói, nạn dốt chưa được khắc phục, đời sống nhân dân khó
khăn. Ngân sách Nhà nước trống rỗng, Trung Hoa Dân Quốc tung ra thị trường
đồng tiền mất giá làm tài chính nước ta rối loạn. Trước tình thế ấy, việc đưa ra
Chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc" là điều tất yếu cho sự tồn vong của đất nước.
II. Nội dung chỉ thị:
1. Tính chất cách mạng
30

Chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc” chỉ rõ: “Cách mạng Đông Dương lúc này vẫn là cuộc cách mạng dân
tộc giải phóng”, cho nên đây là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, tiếp tục sự nghiệp cách mạng
tháng 8/1945.
2. Tư tưởng chỉ đạo chiến lược
Sau Cách mạng Tháng Tám thành công, khẩu hiệu chiến đấu vẫn là “Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên
hết”. Mục tiêu hàng đầu của toàn Đảng, toàn dân là giữ vững nền độc lập vừa mới gây dựng được.
3. Xác định kẻ thù
- Phân tích âm mưu và tính chất của từng kẻ thù, Ban Chấp hành Trung ương Đảng quyết định
chính sách hòa hoãn với quân Tưởng và nêu rõ: “Kẻ thù chính của nhân dân Đông Dương lúc
này là thực dân Pháp xâm lược, phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng” vì Pháp đã thống
trị Việt Nam gần 40 năm, Pháp được quân Anh giúp sức, Pháp không từ bỏ dã tâm xâm lược
Việt Nam.
- Đối với các tổ chức Đảng phái phản động Trung Ương Đảng đánh giá thái độ và đề ra đối sách
phù hợp.
- Mở rộng mặt trận Việt Minh nhằm thu hút mọi tầng lớp nhân dân, thống nhất mặt trận Việt –
Miên – Lào.
4. Về phương hướng, nhiệm vụ
Nêu lên 4 nhiệm vụ cơ bản trước mắt là: xây dựng, bảo vệ chính quyền; chống thực dân Pháp ở Nam
Bộ; bài trừ nội phản; cải thiện đời sống nhân dân. Nhà nước chú trọng nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ
chính quyền lên hàng đầu
5. các biện pháp cụ thể
*Chỉ thị đề ra các biện pháp cụ thể về các khía cạnh:
- Chính trị
- Kinh tế
- Văn hóa
- Quân sự
- Ngoại giao
III. Ý nghĩa tác dụng
Chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc” của Ban Chấp hành Trung ương Đảng là Cương lĩnh hành
động trước mắt của Đảng và nhân dân ta. Bản Chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc” đã khẳng định
nhãn quan chiến lược, chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam - một chính Đảng mới ra hoạt động
công khai chưa bao lâu trước một loạt vấn đề quan trọng, liên quan trực tiếp tới sự nghiệp bảo vệ nền
độc lập tự do của Tổ quốc, bảo vệ Nhà nước dân chủ nhân dân. Đảng đã xác định rõ tính chất và nhiệm
vụ của cách mạng từ sau Cách mạng Tháng Tám, xác định và phân loại chính xác kẻ thù trọng tâm,
vừa kháng chiến vừa kiến quốc. Trong tình hình“nước sôi lửa bỏng” lúc bấy giờ, những chiến lược và
sách lược trong bản Chỉ thị lịch sử “Kháng chiến kiến quốc” của Đảng Cộng sản Đông Dương đã soi
đường chỉ lối cho toàn dân, toàn quân trong cuộc chiến đấu vì sự sống còn của dân tộc, tiến lên chiến
thắng toàn diện. Như vậy đường lối “ Kháng chiến, kiến quốc” của Đảng ( 25/11/1945) đã giải quyết
kịp thời những vấn đề quan trọng về chỉ đạo chiến lược sách lược của Cách mạng VN.
31

CÂU 10: LÀM RÕ SỰ KHỦNG HOẢNG VỀ CON ĐƯỜNG CỨU NƯỚC, GIẢI PHÓNG DÂN
TỘC Ở VIỆT NAM CUỐI THẾ KỈ XIX, ĐẦU THẾ KỈ XX - TRƯỚC KHI ĐCS VN RA ĐỜI?
PHÂN TÍCH NGUYÊN NHÂN THẤT BẠI CỦA CÁC PHONG TRÀO YÊU NƯỚC ĐÓ VÀ
YÊU CẦU ĐẶT RA CỦA LỊCH SỬ DÂN TỘC

- Tình hình thế giới:


+ Từ nửa sau thế kỉ XIX, các nước tư bản Âu- Mỹ có những chuyển biến mạnh mẽ trong
đời sống kinh tế- xã hội: chủ nghĩa tư bản phương Tây chuyển nhanh từ giai đoạn tư do
cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền ( đế quốc chủ nghĩa), đẩy mạnh xâm lược và nô
dịch các nước nhỏ, yếu ở Châu Á, châu Phi và các nước Mỹ La Tinh
+ Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga đã làm biến đổi sâu sắc tình hình biến đổi
Thế Giới
- Tình hình trong nước:
+ Nước ta bị TD Pháp xâm lược( 1858) triều đình nhà Nguyễn đầu hàng TD Pháp
+ Chính sách thống trị của TD Pháp đã tác động mạnh mẽ đến xã hội Việt Nam trên các
lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Trong đó, đặc biệt là sự ra đời của 2 giai cấp
mới là công nhân và tư sản Việt Nam
+ Về chính trị, Pháp thiết lập chế độ chuyên chế điển hình với quyền hành đều nắm trong
tay Pháp, vua quan nhà Nguyễn chỉ là bù nhìn khiến đời sống chính trị ngột ngạt
+ Về kinh tế, TD Pháp tiến hành khai phá thuộc địa lần thứ nhất và lần thứ hai, khiến nền
kinh tế Việt Nam trở nên què quặt, phiến diện.
+ Về văn hóa, xã hội, Pháp thi hành chính sách chính sách ngu dân khiến ta lệ thuộc vào
Pháp với 90% dân số mù chữ
+ Các giai cấp tầng lớp trong Xã hội Việt Nam lúc này đều mang thân phận mất nước,
đều bị thực dân Pháp bóc lột
=> Vì vậy, trong xã hội Việt Nam ngoài mâu thuẫn cơ bản giữa nông dân và địa chủ phong kiến thì đã
nảy sinh mâu thuẫn vừa cơ bản, vừa chủ yếu và ngày càng gay gắt hơn là mâu thuẫn giữa toàn thể nhân
dân Việt Nam với thực dân Pháp.
- Các phong trào yêu nước cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX:
+ Phong trào hệ tư tưởng phong kiến
● Phong trào Cần Vương ( 1885- 1896) do vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết
khởi xướng
● Các Cuộc khởi nghĩa Ba Đình ( Thanh Hóa), Bãi Sậy( Hưng Yên), Hương Khê (
Hà Tĩnh) diễn ra sôi nổi Cuộc khởi nghĩa năm 1896 của Phan Đình Phùng là
cuộc khởi nghĩa chấm dứt vai trò lãnh đạo của giai cấp phong kiến trong phong
trào yêu nước chống TD Pháp.
● Khởi nghĩa nông dân Yên Thế ( 1884-1913) Hoàng Hoa Thám đã lãnh đạo
phong trào của nông dân Yên Thế để kiên cường đấu tranh 30 năm, tuy nhiên do
mang nặng “cốt cách phong kiến” không có khả năng mở rộng hợp tác nên đã
thất bại.
+ Phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản:
● Trước chiến tranh thế giới thứ nhất ( 1914- 1918)
>< Các phong trào xu hướng bạo động, có thể kể đến: phong trào Đông Du (1906-1908)
và phong trào Việt Nam Quang Phục Hội (1912). Phong trào Đông Du do Phan Bội
Châu khởi xướng và lãnh đạo, kêu gọi thanh niên sang nước ngoài ( Phương Đông) để
học tập, chuẩn bị lực lượng chờ thời cơ để giành lại độc lập của nước nhà. Tuy nhiên,
hạn chế lớn nhất của phong trào này là ông chủ trương dựa vào Nhật để đánh Pháp,
32

chẳng khác nào “ đuổi hổ trước nhà, rước beo cửa sau”. Còn Việt Nam Quang Phục Hội
là sau cách mạng Tân Hợi, chủ nghĩa tam dân của Tôn Trung Sơn ảnh hưởng đến Phan
Bội Châu. Ông chuyển sang lập trường dân chủ tư sản lập ra Việt Nam Quang Phục Hội
(T5/1912) để chống Pháp
>< Xu hướng Cải lương với đại diện là phong trào Duy Tân (1906-1908) và phong trào
Đông Kinh Nghĩa Thục (1907). Với phong trào Duy Tân, Phan Châu Trinh, Huỳnh
Thúc Kháng, Trần Quý Cáp là những người đứng đầu, giương cao ngọn cờ dân chủ và
cải cách, văn hóa, xã hội, phản đối vũ trang bạo động chống Pháp. Tuy nhiên, hạn chế
của phong trào là dựa vào Pháp để chống chính quyền tay sai.
33

CÂU 11(CĐ35): PHÂN TÍCH QUAN ĐIỂM CỦA ĐCSVN TẠI ĐẠI HỘI LẦN THỨ VIII
(7/1996) VỀ CÔNG NGHIỆP HÓA TRONG THỜI KỲ MỚI? LIÊN HỆ VAI TRÒ CỦA SINH
VIÊN TRONG QUÁ TRÌNH ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT
NƯỚC HIỆN NAY?

I. Phân tích quan điểm của ĐCSVN tại Đại hội lần thứ VIII (7/1996) về Công nghiệp hóa
trong thời kỳ mới?

1/ Hoàn cảnh Đại hội Đảng lần thứ VIII năm 1996

a) Thế giới

- Nguy cơ chiến tranh thế giới bị đẩy lùi, nhưng xung đột vũ trang, chiến tranh cục bộ,
xung đột về dân tộc, sắc tộc và tôn giáo chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp, lật đổ,
khủng bố vẫn xảy ra ở nhiều nơi.
34

- Thế giới đang từng bước tiến hành cuộc cách mạng khoa học, kinh tế đang dần được phục
hồi và phát triển, xã hội ổn định.

- Cách mạng khoa học và công nghệ tiếp tục phát triển với trình độ ngày càng cao, lực
lượng sản xuất tăng nhanh, đồng thời thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế thế
giới, quốc tế hoá nền kinh tế và đời sống xã hội.

- Quá trình chuyển dịch từ đối đầu sang đối thoại trong quan hệ quốc tế và giữa các quốc
gia có chế độ chính trị - xã hội khác nhau lại càng trở thành yêu cầu cấp bách trong chiến
lược của các nước, đặc biệt là các nước lớn.

- Sự tan rã của Liên Xô là một sự kiện quan trọng trong đời sống chính trị thế giới. Sự tan
rã của một trong hai siêu cường của trật tự thế giới hai cực đã tạo ra một khoảng trống lớn
trong không gian chính trị quốc tế, làm tan vỡ sự cân bằng toàn cầu đã tồn tại trong gần 50
năm qua từ Hội nghị Yalta 1945.

- Quan hệ quốc tế toàn cầu lúc này rơi vào cuộc khủng hoảng trầm trọng cả về lý luận lẫn
thực tiễn.

- Chủ nghĩa xã hội hiện thực lâm vào thoái trào

=> Những sự kiện năm 1989 ở Đông Âu và sự sụp đổ của Liên Xô hai năm sau đó đã đưa đến sự sắp
xếp lại một cách cơ bản cán cân đối ngoại Việt Nam.

=> Chính những sự ảnh hưởng của tình hình thế giới, nên Đại hội Đảng lần thứ VIII được diễn
ra để đưa ra những kế hoạch, mục tiêu,… dựa trên sự thất bại của các nước lớn mà rút ra được
những bài học để có thể thúc đẩy sự phát triển về mọi mặt của Việt Nam hướng tới một đất nước
có nền kinh tế phát triển và xã hội văn minh.

b) Trong nước

- Đến năm 1996, công cuộc đổi mới đã tiến hành được 10 năm và đạt được nhiều thành tựu
quan trọng về mọi mặt. Đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, cải thiện một
bước đời sống vật chất của đông đảo nhân dân, giữ vững ổn định chính trị, quốc phòng, an
ninh được củng cố. Đồng thời, thành tựu 10 năm đổi mới đã tạo được nhiều tiền đề cần thiết
cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

2/ Quan điểm, chủ trương về đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế

Để đề ra mục tiêu đến năm 2000 và năm 2020, Đại hội đã phân tích bối cảnh chung, đặc điểm
tình hình thế giới diễn biến nhanh chóng, phức tạp và chứa đựng những yếu tố khó lường tác động sâu
sắc đến các mặt đời sống xã hội nước ta, đưa đến những thuận lợi, đồng thời cũng xuất hiện những
thách thức lớn. Thuận lợi và khó khăn, thời cơ và nguy cơ đan xen nhau. Vì thế, chúng ta phải chủ
động nắm thời cơ, vươn lên phát triển nhanh và vững chắc, tạo ra thế và lực mới; đồng thời luôn luôn
tỉnh táo, kiên quyết đẩy lùi và khắc phục nguy cơ, kể cả nguy cơ mới nảy sinh, bảo đảm phát triển
đúng hướng.
35

Căn cứ tình hình nêu trên và Cương lĩnh của Đảng, Đại hội khẳng định cần “tiếp tục nắm vững
hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa.

Mục tiêu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp
có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững
chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.

Từ nay đến năm 2020, ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp”.

Trên con đường thực hiện mục tiêu nêu trên, Đại hội xác định: “Giai đoạn từ nay đến năm
2000 là bước rất quan trọng của thời kỳ phát triển mới - đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Nhiệm vụ của nhân dân ta là tập trung mọi lực lượng, tranh thủ thời cơ, vượt qua thử thách, đẩy
mạnh công cuộc đổi mới một cách toàn diện và đồng bộ, tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
phấn đấu đạt và vượt mục tiêu được đề ra trong Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến
năm 2000: tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả cao và bền vững đi đôi với giải quyết những vấn đề
bức xúc về xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng, cải thiện đời sống của nhân dân, nâng cao tích lũy từ
nội bộ nền kinh tế, tạo tiền đề vững chắc cho bước phát triển cao hơn vào đầu thế kỷ sau”.

Đại hội cũng đã nêu lên các định hướng phát triển các lĩnh vực chủ yếu trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Về phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đại hội
nêu các quan điểm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa như sau:

● Giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế, đa phương hóa, đa dạng hóa
quan hệ đối ngoại. Dựa vào nguồn lực trong nước là chính đi đôi với tranh thủ tối đa nguồn
lực bên ngoài. Xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế giới, hướng
mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước sản
xuất có hiệu quả.

● Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế, trong
đó kinh tế nhà nước là chủ đạo.

● Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền
vững. Động viên toàn dân cần kiệm xây dựng đất nước, không ngừng tăng tích lũy cho đầu
tư phát triển. Tăng trưởng kinh tế gắn với cải thiện đời sống nhân dân, phát triển văn hóa,
giáo dục, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường.

● Khoa học và công nghệ là động lực của công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Kết hợp công nghệ
truyền thống với công nghệ hiện đại; tranh thủ đi nhanh vào hiện đại ở những khâu quyết
định.

● Lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản để xác định phương án phát triển, lựa
chọn dự án đầu tư và công nghệ. Đầu tư chiều sâu để khai thác tối đa năng lực sản xuất hiện
có. Trong phát triển mới, ưu tiên quy mô vừa và nhỏ, công nghệ tiên tiến, tạo nhiều việc
làm, thu hồi vốn nhanh; đồng thời xây dựng một số công trình quy mô lớn thật cần thiết và
36

có hiệu quả. Tạo ra những mũi nhọn trong từng bước phát triển. Tập trung thích đáng
nguồn lực cho các lĩnh vực, các địa bàn trọng điểm; đồng thời quan tâm đáp ứng nhu cầu
thiết yếu của mọi vùng trong nước; có chính sách hỗ trợ những vùng khó khăn, tạo điều
kiện cho các vùng đều phát triển.

● Kết hợp kinh tế với quốc phòng - an ninh.

Nội dung cơ bản của công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong những năm còn lại của thập niên 1990
là:

“Đặc biệt coi trọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn; phát triển toàn diện
nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản; phát triển công nghiệp sản
xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Nâng cấp, cải tạo, mở rộng và xây dựng mới có trọng điểm kết
cấu hạ tầng kinh tế, trước hết ở những khâu ách tắc và yếu kém nhất đang cản trở sự phát triển. Xây
dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng trọng yếu và hết sức cấp thiết, có điều kiện về vốn,
công nghệ, thị trường, phát huy tác dụng nhanh và có hiệu quả cao. Mở rộng thương nghiệp, du lịch,
dịch vụ. Đẩy mạnh các hoạt động kinh tế đối ngoại. Hình thành dần một số ngành mũi nhọn như chế
biến nông, lâm, thủy sản, khai thác và chế biến dầu - khí, một số ngành cơ khí chế tạo, công nghiệp
điện tử và công nghệ thông tin, du lịch. Phát triển mạnh sự nghiệp giáo dục và đào tạo, khoa học và
công nghệ”.

3/ Ý nghĩa lịch sử của ĐH VIII

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (1996) đã tổng kết 10 năm thực hiện công
cuộc đổi mới, kiểm điểm 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII đã đánh dấu bước ngoặt chuyển đất nước ta sang thời kỳ mới -
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu
mạnh, xã hội công bằng, văn minh theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vì hạnh phúc của nhân dân ta, vì
tình hữu nghị và sự hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới. Đại hội có ý nghĩa quyết định đối với
vận mệnh dân tộc và tương lai của đất nước vào lúc chúng ta sắp bước vào thế kỷ XXI.

Quan điểm, chủ trương quan trọng nhất:

● Giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế, đa phương hóa, đa dạng hóa
quan hệ đối ngoại. Dựa vào nguồn lực trong nước là chính đi đôi với tranh thủ tối đa nguồn
lực bên ngoài. Xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế giới, hướng
mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước sản
xuất có hiệu quả.

II. Liên hệ vai trò của sinh viên trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước hiện nay

Thanh niên trong sự nghiệp đổi mới đất nước:

Trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VII) về công tác thanh
niên trong thời kỳ mới khẳng định:

“Sự nghiệp đổi mới có thành công hay không, đất nước bước vào thế kỷ 21 có vị trí xứng đáng trong
cộng đồng thế giới hay không phần lớn tuỳ thuộc vào lực lượng thanh niên, vào việc bồi dưỡng, rèn
37

luyện thế hệ thanh niên; công tác thanh niên là vấn đề sống còn của dân tộc, là một trong những nhân
tố quyết định sự thành bại của cách mạng”.

Các vai trò của thanh niên được thể hiện trong vấn đề sống còn của dân tộc. Là yếu tố cần để tiếp cận
thành công cho sự nghiệp đổi mới đất nước. Thanh niên giúp đất nước tiếp cận vào nền kinh tế thế
giới. Nhà nước cần tạo điều kiện để bồi dưỡng, rèn luyện và giúp thanh niên tiếp cận với sự nghiệp
chung.

Vai trò của thanh niên:

Nghị quyết số 25/NQ-TW ngày 25/7/2008 Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương khóa X về
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đã xác định:

“Thanh niên là rường cột của nước nhà, là chủ nhân tương lai của đất nước, là một trong những nhân
tố quyết định sự thành bại của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.

Thanh niên được đánh giá trong vai trò to lớn đối với ý nghĩa phát triển đất nước. Trong đó, sức trẻ, sự
nhiệt huyết và các nhu cầu tiếp cận vào nền kinh tế hội nhập là cần thiết. Các đối tượng này mang đến
tương lai của đất nước, cũng như duy trì, ổn định và phát triển nền kinh tế quốc gia. Tham gia tiếp cận,
tác động hiệu quả giúp Việt nam có vị thế quan trọng trong trường quốc tế.

Như vậy:

Thanh niên là lực lượng năng động, sáng tạo, có tri thức có hoài bão có ước mơ, ý chí và nghị lực,…
Đây là các tiêu chí cần và đủ cần tìm kiếm trong nền kinh tế. Thanh niên Việt Nam dưới sự lãnh đạo
của Đảng thực hiện trách nhiệm và vai trò to lớn đối với đất nước. Luôn thể hiện rõ vai trò xung kích
sáng tạo của mình trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Từ đó cống hiến trong trách nhiệm
chung, cũng như phấn đấu cho sự nghiệp riêng.

Trách nhiệm của thanh niên:

Đứng trước nhiều cơ hội và thách thức, thanh niên cần nhận thức, tự chuyển hóa đúng đắn. Đây vừa là
vinh dự to lớn vừa là trách nhiệm hết sức nặng nề của mình đối với đất nước. Mang đến sức mạnh về
nguồn lực, các năng lực và quyết tâm trong sự nghiệp chung. Đó cũng là tác động để tìm kiếm thành
công sự nghiệp riêng của họ.

Vì vậy, mỗi thanh niên cần phải phát huy tinh thần tự học, tự phấn đấu rèn luyện. Tiếp cận chủ động
các quyền lợi và nghĩa vụ trong sự nghiệp đất nước. Có đủ bản lĩnh, ý chí, trình độ để phát huy thuận
lợi, tận dụng thời cơ khắc phục khó khăn, vượt qua thách thức. Mang đến các thành tựu hay đóng góp
từ những giá trị nhỏ nhất trong nền kinh tế.

Tích cực tham gia vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tham gia vào nền kinh tế tri thức và
quá trình hội nhập quốc tế. Từ đó hoàn thành sứ mệnh vẻ vang đã được Đảng, Nhà nước và nhân dân
giao phó.
38

CÂU 12: CHỨNG MINH ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG ĐƯỢC ĐẢNG ĐỀ RA TẠI ĐẠI HỘI III
(9/1960) ĐÃ PHẢN ÁNH ĐÚNG QUY LUẬT VẬN ĐỘNG CỦA CÁCH MẠNG Ở TỪNG MIỀN
VÀ CỦA CHUNG CẢ NƯỚC THỜI KỲ KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC (1954-
1975)?

1. Hoàn cảnh đại hội đảng toàn quốc lần thứ III tháng 9 năm 1960

Tháng 09/1960, trong diễn văn khai mạc tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng họp tại
Thủ đô Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Đại hội lần này là Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc và đấu tranh hòa bình thống nhất nước nhà”. Để làm rõ quan điểm trên, chúng ta cùng tìm
hiểu đường lối cách mạng Việt Nam mà Đảng đề ra tại Đại hội III (9-1960). Đầu tiên, chúng ta cùng
xem lại sơ lược bối cảnh lịch sử của Đại hội III này.
Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam III diễn ra trong bối cảnh miền Bắc Việt Nam vừa hoàn thành khôi
phục kinh tế sau Kháng chiến chống Pháp và Cải cách ruộng đất cùng với Cải tạo công thương nghiệp;
trong khi ở miền Nam một phong trào chống chính quyền Ngô Đình Diệm và Mỹ đang diễn ra từ cuối
năm 1959 và trở thành Phong trào Đồng khởi từ đầu năm 1960
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng Cộng sản Việt Nam diễn ra từ ngày 5 đến ngày 10-9-
1960 tại Hà Nội.

2. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9/1960) đã xác định:

* Nhiệm vụ chung:
Một là tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh giữ vững hòa bình, đẩy mạnh CMXHCN ở
miền Bắc.
Hai là đẩy mạnh CM dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà, trên cơ sở
độc lập và dân chủ, xây dựng một nước VN hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, thiết
thực góp phần tăng cường phe XHCN và bảo vệ hòa bình ở Đông Nam Á và TG.
* Nhiệm vụ của mỗi miền:
CM XHCN ở miền Bắc: có nhiệm vụ xây dựng miền Bắc trở thành căn cứ địa vững mạnh, hậu
phương lớn để cung cấp sức người sức của cho tiền tuyến miền Nam đánh thắng đế quốc Mỹ.
CM dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam: có nhiệm vụ đánh thắng đế quốc Mỹ ở miền Nam, hoàn
thành nốt công cuộc CM dân tộc dân chủ nhân dân, bảo vệ miền Bắc XHCN.
* Vị trí và vai trò của mỗi miền:
CM XHCN ở miền Bắc: có vai trò quyết định nhất (do có nhiệm vụ xây dựng tiềm lực và bảo vệ căn
cứ địa của cả nước, hậu thuẫn cho CM miền Nam, chuẩn bị cho cả nước đi lên CNXH về sau) đối với
công cuộc chống Mỹ cứu nước, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.
CM dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam: có vai trò quyết định trực tiếp trong công cuộc chống
Mỹ cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
* Mối liên hệ của CM 2 miền:
Mỗi miền đều có nhiệm vụ khác nhau, vai trò, vị trí khác nhau nhưng cả hai miền có mối liên hệ mật
thiết với nhau bởi vì cả hai miền đều có chung 1 mục tiêu: hòa bình, độc lập dân tộc, thống nhất Tổ
quốc, cùng đi lên xây dựng CNXH.
Cả 2 miền đều do 1 Đảng duy nhất lãnh đạo, 1 quân đội thống nhất tiến hành.
* Con đường hòa bình thống nhất đất nước: Tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng, Đảng
quyết giữ vững đường lối hòa bình để thống nhất nước nhà vì chủ trương đó phù hợp với nguyện vọng
và lợi ích của nhân dân cả nước cũng như của nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới.
39

3. Ý nghĩa:
- Đánh dấu bước phát triển trong quá trình xác định đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa
ở miền Bắc và đường lối đấu tranh thống nhất đất nước.

Đó là tiến hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ hai chiến lược cách mạng khác nhau ở hai miền: cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, nhằm thực
hiện mục tiêu chung trước mắt của cả nước là giải phóng miền Nam, hòa bình, thống nhất Tổ quốc.

- Là cơ sở cho toàn dân đoàn kết chặt chẽ thành một khối thống nhất.
- Là “nguồn ánh sáng mới, lực lượng mới cho toàn Đảng, toàn dân ta xây dựng thắng lợi
chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hòa bình thống nhất nước nhà.”

+ Thành công cơ bản, to lớn nhất của Đại hội lần thứ III của Đảng là đã hoàn chỉnh đường lối
chiến lược chung của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới,đường lối tiến hành đồng thời
và kết hợp chặt chẽ hai chiến lược cách mạng khác nhau ở hai miền: cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, nhằm thực hiện mục
tiêu chung trước mắt của cả nước là giải phóng miền Nam, hòa bình thống nhất Tổ quốc.
+ Đó chính là đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vừa phù hợp
với miền Bắc vừa phù hợp với miền Nam, vừa phù hợp với cả nước Việt Nam vừa phù hợp với
tình hình quốc tế, do đó tạo ra được sức mạnh tổng hợp để dân tộc ta đủ sức đánh thắng đế
quốc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
+ Đường lối chung của Đảng còn là sự thể hiện tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng
trong việc giải quyết những vấn đề không có tiền lệ lịch sử, vừa đúng với thực tiễn Việt Nam
vừa phù hợp với lợi ích của nhân loại và xu thế thời đại.

CÂU 13: PHÂN TÍCH NỘI DUNG ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI TOÀN DIỆN CỦA ĐẢNG TẠI ĐẠI
HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC LẦN THỨ VI (12/1986) VÀ LÀM RÕ NHẬN ĐỊNH: “ QUYẾT
ĐỊNH ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC CỦA ĐẠI HỘI ĐẢNG TOÀN QUỐC LẦN THỨ VI LÀ BƯỚC
NGOẶT LỊCH SỬ CỦA CÁCH MẠNG VN”.

1. Hoàn cảnh lịch sử của đại hội VI


Đại hội VI diễn ra trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp kỹ thuật đang phát triển mạnh, xu thế
đối thoại trên thế giới đang dần thay thế xu thế đối đầu. Đổi mới đã trở thành xu thế của thời đại. Liên
Xô và các nước xã hội chủ nghĩa đều tiến hành cải tổ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Việt Nam đang bị các đế quốc và thế lực thù địch bao vây, cấm vận và ở tình trạng khủng hoảng kinh
tế xã hội. Các hiện tượng tiêu cực, vi phạm pháp luật diễn ra khá phổ biến. Đổi mới đã trở thành đòi
hỏi bức thiết của tình hình đất nước.
2. Nội dung cơ bản đường lối đổi đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam tại Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VI (12-1986).
Đại hội đã nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, đánh giá thành tựu, nghiêm túc
kiểm điểm, chỉ rõ những sai lầm, khiếm khuyết của Đảng trong thời kỳ 1975-1986. Đó là những sai
lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức
thực hiện. Đại hội rút ra bốn bài học quý báu: Một là, trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải
quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”. Hai là, Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và
hành động theo quy luật khách quan. Ba là, phải biết kết hợp giữa sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại trong điều kiện mới. Bốn là, chăm lo xây dựng Đảng ngang tầm với một đảng cầm quyền lãnh đạo
nhân dân tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa.
40

a. Về kinh tế - xã hội
Thực hiện nhất quán chính sách phát triển nhiều thành phần kinh tế. Đổi mới cơ chế quản lý, xóa bỏ cơ
chế tập trung quan liêu, hành chính, bao cấp chuyển sang hạch toán, kinh doanh, kết hợp kế hoạch với
thị trường. Nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng
quát trong những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là: Sản xuất đủ tiêu dùng và có tích lũy; bước
đầu tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý, trong đó đặc biệt chú trọng ba chương trình kinh tế lớn là lương
thực-thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, coi đó là sự cụ thể hóa nội dung công nghiệp hóa
trong chặng đường đầu của thời kỳ quá độ.
Thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa thường xuyên với hình thức, bước đi thích hợp, làm cho quan hệ
sản xuất phù hợp và lực lượng sản xuất phát triển. Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, giải quyết cho được
những vấn đề cấp bách về phân phối, lưu thông. Xây dựng và tổ chức thực hiện một cách thiết thực, có
hiệu quả các chính sách xã hội. Bảo đảm nhu cầu củng cố quốc phòng và an ninh. Năm phương hướng
lớn phát triển kinh tế là: Bố trí lại cơ cấu sản xuất; điều chỉnh cơ cấu đầu tư xây dựng và củng cố quan
hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế; đổi mới cơ chế quản
lý kinh tế, phát huy mạnh mẽ động lực khoa học kỹ thuật; mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối
ngoại. Đại hội VI nhấn mạnh: “Tư tưởng chỉ đạo của kế hoạch và các chính sách kinh tế là giải phóng
mọi năng lực sản xuất hiện có, khai thác mọi khả năng tiềm tàng của đất nước và sử dụng có hiệu quả
sự giúp đỡ quốc tế để phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất đi đôi với xây dựng và củng cố quan hệ
sản xuất xã hội chú nghĩa”. Đại hội khẳng định, chính sách xã hội bao trùm mọi mặt của cuộc sống con
người, cần có chính sách cơ bản, lâu dài, xác định được những nhiệm vụ, phù hợp với yêu cầu, khả
năng trong chặng đường đầu tiên. Bốn nhóm chính sách xã hội là: Kế hoạch hóa dân số, giải quyết việc
làm cho người lao động. Thực hiện công bằng xã hội, bảo đảm an toàn xã hội, khôi phục trật tự, kỷ
cương trong mọi lĩnh vực xã hội. Chăm lo đáp ứng các nhu cầu giáo dục, văn hóa, bảo vệ và tăng
cường sức khỏe của nhân dân; xây dựng chính sách bảo trợ xã hội.
b, Về an ninh - quốc phòng
Đề cao cảnh giác, tăng cường khả năng quốc phòng và an ninh của đất nước, quyết đánh thắng kiếu
chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch, bảo đảm chủ động trong mọi tình huống để bảo vệ Tổ quốc.
c, Về ngoại giao
Đối ngoại góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và chủ nghĩa xã hội, tăng cường tình hữu nghị và hợp tác toàn diện với Liên Xô và các nước
xã hội chủ nghĩa; bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc vì lợi ích của nhân dân hai nước, vì hòa
bình ở Đông Nam Á và trên thế giới. Kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, phấn
đấu giữ vững hòa bình ở Đông Dương, Đông Nam Á và trên thế giới, tăng cường quan hệ đặc biệt giữa
ba nước Đông Dương, quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện với Liên Xô và các nước trong cộng
đồng xã hội chủ nghĩa.

d, Về công tác xây dựng Đảng

Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng cần phải đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế, đối mới công tác tư
tưởng; đổi mới công tác cán bộ và phong cách làm việc, giữ vững các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt
Đảng; tăng cường đoàn kết nhất trí trong Đảng. Đảng cần phát huy quyền làm chủ tập thế của nhân dân
lao động, thực hiện ‘Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”; tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà
nước là điều kiện tất yếu để huy động lực lượng của quần chúng.
3. Ý nghĩa Đại hội VI
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng là đại hội kế thừa và quyết tâm đổi mới, đoàn kết tiến
lên của Đảng ta.
41

Đại hội VI của Đảng là Đại hội khởi xướng đường lối đổi mới toàn diện, đánh dấu ngoặt phát triển mới
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Các Văn kiện của Đại hội mang tính chất khoa học và cách
mạng, tạo bước ngoặt cho sự phát triển của cách mạng Việt Nam.

CHƯƠNG 2, MỤC 2

CHỦ ĐỀ 13: CHỦ TRƯƠNG VÀ DIỄN BIẾN CỦA CUỘC ĐẤU TRANH BẢO VỆ & XÂY
DỰNG CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG THỜI KỲ 1945 - 1946.

Chủ đề 13.1: Thuận lợi và khó khăn của Việt Nam sau cách mạng tháng 8 - 1945

Khẳng định vị thế và giá trị của thắng lợi Cách mạng tháng 8, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Cách
mạng Tháng 8 thắng lợi đã làm cho chúng ta trở thành một bộ phận trong đại gia đình dân chủ thế
giới.” Những thuận lợi mà CMT8 đem lại là vô cùng lớn

1. Thuận lợi

a) Thế giới:

- Phong trào cách mạng trên thế giới phát triển mạnh.

b) Việt Nam:

- Chính quyền đã giành được quyền trong toàn quốc

- Nhân dân trở thành người làm chủ đất nước

- Uy tín của Đảng, Hồ Chủ tịch được tăng cao, ngày càng khẳng định “chẳng những giai
cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc
bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng
của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng
thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”

2. Khó khăn:

● Trên thế giới: Phe đế quốc nuôi dưỡng âm mưu mới “chia lại hệ thống thuộc địa thế giới”,
ra sức tấn công đàn áp phong trào cách mạng thế giới, trong đó có cách mạng Việt Nam.

● Trong nước:

a. Khó khăn về chính trị: Thù trong giặc ngoài bao vây tứ phía

+ Pháp âm mưu quay trở lại thống trị Việt Nam một lần nữa của thực dân Pháp. Ngày
2.9.1945, quân Pháp đã trắng trợn gây hấn, nổ súng vào những người tham gia cuộc mít
tinh mừng ngày độc lập ở Sài Gòn - Chợ Lớn.

+ Tháng 9 năm 1945, theo thỏa thuận của phe Đồng minh, 2 vạn quân đội Anh - Ấn đổ bộ
vào Sài Gòn để làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật thua trận ở phía Nam Việt Nam.
Quân đội Anh đã trực tiếp bảo trợ, sử dụng quân đội Nhật giúp sức quân Pháp ngang nhiên
42

nổ súng gây hấn đánh chiếm Sài Gòn - Chợ Lớn (Nam Bộ) vào rạng sáng ngày 23/9/1945,
mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược lần thứ hai của thực dân Pháp ở Việt Nam.

+ Ở Bắc vĩ tuyến 16, từ cuối tháng 8/1945, hơn 20 vạn quân đội của Tưởng Giới Thạch
(Trung Hoa dân quốc) kéo vào Việt Nam dưới sự bảo trợ và ủng hộ của Mỹ với danh nghĩa
quân đội Đồng minh vào giải giáp quân đội Nhật, kéo theo là lực lượng tay sai Việt Quốc,
Việt Cách, Trong khi đó , trên đất nước Việt Nam vẫn còn 6 vạn quân Nhật chưa được giải
giáp.

b. Về kinh tế:

+ Nạn đói cuối năm 1944, đầu năm 1945 làm 2 triệu người dân chết đói.

+ Thiên tai khắc nghiệt ập đến, nguy cơ nạn đói mới: 50% ruộng đất bị bỏ hoang, nạn lũ lụt
làm vỡ đê 9 tỉnh Bắc Bộ đến tận tháng 8 - 1945 vẫn chưa phục hồi, rồi thêm nạn hán kéo
dài, khiến cho nửa tổng số ruộng đất không thể canh tác.

+ Tài chính kiệt quệ: Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa tiếp quản một nền kinh tế xơ xác
tiêu điều, công nghiệp đình đốn, giá cả sinh hoạt đắt đỏ, nông nghiệp bị hoang hóa, nền tài
chính, ngân khố kiệt quệ; kho bạc trống rỗng.

c. Về văn hóa: Các hủ tục, thói hư, tật xấu, tệ nạn xã hội chưa được khắc phục, 95% dân số thất
học, mù chữ.

d. Về quân sự: Lực lượng mỏng, trang thiết bị vũ khí còn thô sơ.

e. Về ngoại giao: chưa có nước nào chịu công nhận độc lập của Việt Nam

3. Nhận xét chung:

Nền độc lập và chính quyền cách mạng non trẻ của Việt Nam trước tình thế ngàn cân treo sợi
tóc, cùng một lúc phải đối mặt với nạn đói, nạn dốt và thù trong giặc ngoài. Tuy nhiên, sau
cách Mạng tháng 8 ta cũng có được một số thuận lợi nhất định trong đó thuận lợi cơ bản nhất
đó là việc Việt Nam đã giành được độc lập và xây dựng được chính đảng của riêng mình

Câu hỏi: Đâu là thuận lợi cơ bản nhất của Việt Nam sau cách mạng tháng 8 năm 1945 và tại
sao?

Việt Nam đã giành được độc lập và xây dựng được chính đảng của riêng mình là thuận lợi cơ
bản nhất sau CM tháng 8. Phá tan xiềng xích nô lệ của thực dân Pháp hơn 80 năm và ách thống
trị của Phát xít Nhật gần 5 năm, lật nhào ngai vàng phong kiến thống trị ngót chục thế kỷ ở
nước ta, lập nên nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Đánh dấu một kỷ nguyên mới trong lịch
sử dân tộc: Kỷ nguyên độc lập, tự do.

Việt Nam giành được độc lập đã mở ra cơ hội và tiềm năng phát triển cho quốc gia:

+ Quyền tự quyết định chính sách đối nội và đối ngoại mà không phụ thuộc vào quốc gia nào
khác. Từ đó có thể định hình và thực hiện các chính sách phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa và
đối ngoại phù hợp với lợi ích dân tộc.
43

+ Quyền tự kiểm soát lãnh thổ: Việt Nam có quyền tự kiểm soát và quản lý lãnh thổ của mình
từ đó bảo vệ quyền tự do và chủ quyền quốc gia.

+ Xây dựng quân đội và an ninh nhân dân để bảo vệ an ninh và độc lập quốc gia; có quyền tự
quyết định và quy mô, cấu trúc và phát triển của quân đội và lực lượng an ninh theo nhu cầu và
tình hình đảm bảo an ninh trong nước.

Chủ Đề 13.2: Nội dung chỉ thị "Kháng chiến - Kiến quốc" ngày 25/11/1945

III. Hoàn cảnh lịch sử


3. Bối cảnh lịch sử thế giới
Đầu năm 1945, Chiến tranh thế giới lần thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc. Hồng quân
Xô Viết liên tiếp giành những thắng lợi quyết định trên chiến trường châu Âu, giải
phóng một loạt nước và tiến thẳng vào sào huyệt phát xít Đức tại Berlin.
Ngày 9/5/1945, phát xít Đức đầu hàng vô điều kiện, chiến tranh kết thúc ở châu Âu.
Ngày 8/8/1945, Hồng quân Liên Xô tiến công như vũ bão vào quân đội Nhật.
Ngày 14/8/1945, phát xít Nhật đầu hàng vô điều kiện, Chiến tranh thế giới lần thứ hai
hoàn toàn kết thúc. Theo thỏa thuận của các nước Đồng minh, sau khi phát xít Nhật đầu
hàng, quân đội Anh và Tưởng sẽ vào Đông Dương để giải giáp quân đội Nhật. Trong
khi đó, thực dân Pháp lăm le dựa vào Đồng minh nhằm khôi phục địa vị thống trị của
mình; để quốc Mỹ dùng sau các thế lực này cũng sẵn sàng can thiệp vào Đông Dương;
những phần tử phản động, ngoan cố trong chính quyền tay sai Nhật đang âm mưu thay
đổi chủ, chống lại cách mạng.
4. Bối cảnh trong nước
Đất nước vừa giành được độc lập từ tay Phát xít Nhật, nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa được khai sinh nhưng gặp phải vô vàn thách thức:

- Giặc ngoại xâm và nội phản vẫn lăm le xâm lược và chống phá Đảng và Nhà
nước ta. Từ vĩ tuyến 16 trở ra Bắc, 20 vạn quân Trung Hoa Dân quốc kéo vào
nước ta theo sau là các đảng phải tay sai hòng cướp chính quyền. Từ vĩ tuyến 16
trở vào Nam, quân đội Anh kéo vào, dọn đường cho Pháp trở lại xâm lược nước
ta. Trên cả nước vẫn còn 6 vạn quân Nhật chờ giải giáp, theo lệnh Anh chống
phá cách mạng.
- Bên cạnh đó, chính quyền cách mạng ta chưa được củng cố, lực lượng vũ trang
còn non yếu. Nạn đói, nạn dốt chưa được khắc phục, đời sống nhân dân khó
khăn. Ngân sách Nhà nước trống rỗng, Trung Hoa Dân Quốc tung ra thị trường
đồng tiền mất giá làm tài chính nước ta rối loạn. Trước tình thế ấy, việc đưa ra
Chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc" là điều tất yếu cho sự tồn vong của đất nước.
IV. Nội dung chỉ thị:
1. Tính chất cách mạng
Chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc” chỉ rõ: “Cách mạng Đông Dương lúc này vẫn là cuộc cách mạng dân
tộc giải phóng”, cho nên đây là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, tiếp tục sự nghiệp cách mạng
tháng 8/1945.
2. Tư tưởng chỉ đạo chiến lược
Sau Cách mạng Tháng Tám thành công, khẩu hiệu chiến đấu vẫn là “Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên
hết”. Mục tiêu hàng đầu của toàn Đảng, toàn dân là giữ vững nền độc lập vừa mới gây dựng được.
3. Xác định kẻ thù
44

- Phân tích âm mưu và tính chất của từng kẻ thù, Ban Chấp hành Trung ương Đảng quyết định
chính sách hòa hoãn với quân Tưởng và nêu rõ: “Kẻ thù chính của nhân dân Đông Dương lúc
này là thực dân Pháp xâm lược, phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng” vì Pháp đã thống
trị Việt Nam gần 40 năm, Pháp được quân Anh giúp sức, Pháp không từ bỏ dã tâm xâm lược
Việt Nam.
- Đối với các tổ chức Đảng phái phản động Trung Ương Đảng đánh giá thái độ và đề ra đối sách
phù hợp.
- Mở rộng mặt trận Việt Minh nhằm thu hút mọi tầng lớp nhân dân, thống nhất mặt trận Việt –
Miên – Lào.
4. Về phương hướng, nhiệm vụ
Nêu lên 4 nhiệm vụ cơ bản trước mắt là: xây dựng, bảo vệ chính quyền; chống thực dân Pháp ở Nam
Bộ; bài trừ nội phản; cải thiện đời sống nhân dân. Nhà nước chú trọng nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ
chính quyền lên hàng đầu
5. các biện pháp cụ thể
*Chỉ thị đề ra các biện pháp cụ thể về các khía cạnh:
- Chính trị
- Kinh tế
- Văn hóa
- Quân sự
- Ngoại giao
III. Ý nghĩa tác dụng
Chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc” của Ban Chấp hành Trung ương Đảng là Cương lĩnh
hành động trước mắt của Đảng và nhân dân ta. Bản Chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc” đã khẳng
định nhãn quan chiến lược, chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam - một chính Đảng mới ra hoạt
động công khai chưa bao lâu trước một loạt vấn đề quan trọng, liên quan trực tiếp tới sự nghiệp bảo vệ
nền độc lập tự do của Tổ quốc, bảo vệ Nhà nước dân chủ nhân dân.
Đảng đã xác định rõ tính chất và nhiệm vụ của cách mạng từ sau Cách mạng Tháng Tám, xác
định và phân loại chính xác kẻ thù trọng tâm, vừa kháng chiến vừa kiến quốc
Trong tình hình“nước sôi lửa bỏng” lúc bấy giờ, những chiến lược và sách lược trong bản Chỉ
thị lịch sử “Kháng chiến kiến quốc” của Đảng Cộng sản Đông Dương đã soi đường chỉ lối cho toàn
dân, toàn quân trong cuộc chiến đấu vì sự sống còn của dân tộc, tiến lên chiến thắng toàn diện

Chủ đề 13.3: Nêu các biện pháp và kết quả thực hiện xây dựng ,bảo vệ chính quyền cách mạng
từ 9/1945-12/1946.

1/ Biện pháp về chính trị

- Ngày 25-11-1945, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc,
nhận định tình hình và định hướng con đường đi lên của cách mạng Việt Nam sau khi giành
được chính quyền.

+ Nội dung Chỉ thị: Chỉ thị phân tích sâu sắc sự biến đổi của tình hình thế giới và
trong nước, nhất là tình hình Nam Bộ và xác định rõ: “kẻ thù chính của ta lúc này là
thực dân Pháp xâm lược, phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng”; nêu rõ mục
tiêu của cuộc cách mạng Đông Dương lúc này vẫn là “dân tộc giải phóng” và đề ra
khẩu hiệu “Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết”; mọi hành động phải tập trung vào
45

nhiệm vụ chủ yếu, trước mắt “là củng cố chính quyền, chống thực dân Pháp xâm
lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống cho nhân dân”.

- Biện pháp thực hiện:

+ Cần nhanh chóng xúc tiến bầu cử Quốc hội để đi đến thành lập Chính phủ chính
thức

+ Lập ra Hiến pháp, động viên lực lượng toàn dân, kiên trì kháng chiến và chuẩn bị
kháng chiến lâu dài

+ Kiên định nguyên tắc độc lập về chính trị.

➔ Kết quả: Đã xây dựng được nền móng cho một chế độ xã hội mới - chế độ dân chủ nhân dân với
đầy đủ các yếu tố cấu thành cần thiết. Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp được thành lập thông qua
phổ thông bầu cử. Hiến pháp dân chủ nhân dân được Quốc hội thông qua và ban hành. Bộ máy chính
quyền từ Trung ương đến làng, xã và các cơ quan tư pháp, tòa án, các công cụ chuyên chính như Vệ
quốc toàn, Công an nhân dân được thiết lập và tăng cường. Các đoàn thể nhân dân như Mặt trận Việt
Minh, Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam được xây dựng và mở rộng.
Đảng Dân chủ Việt Nam, Đảng Xã hội Việt Nam được thành lập

2/ Biện pháp về kinh tế- tài chính

- Tổ chức lại sản xuất: Động viên mọi tầng lớp nhân dân tham gia các phong trào, các cuộc
vận động, như: tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm với khẩu hiệu tăng gia sản xuất ngay,
tăng gia sản xuất nữa

+ Tổ chức khuyến nông: Khuyến khích nhà máy, công xưởng, hầm mỏ được đầu tư khôi phục
hoạt động trở lại.

- Lập hũ gạo tiết kiệm, tổ chức Tuần lễ vàng, gây Quỹ độc lập, Quỹ đảm phụ quốc phòng,
Quỹ Nam Bộ kháng chiến,...

- Thực hiện cải cách đất đai: Tịch thu ruộng đất của đế quốc, Việt gian, đất hoang hóa chia
cho nông dân nghèo.

- Thực hiện cải cách thuế: Chính phủ bãi bỏ thuế thân và nhiều thứ thuế vô lý của chế độ
cũ, thực hiện chính sách giảm tô 25%.

- Ngân khố quốc gia được xây dựng lại, phát hành đồng giấy bạc Việt Nam.

→ Kết quả: Ngay năm đầu, sản xuất nông nghiệp có bước khởi sắc rõ rệt. Sản lượng lương thực tăng cả
về diện tích và sản lượng hoa màu. Đầu năm 1946, nạn đói cơ bản được đẩy lùi, đời sống nhân dân dân
được ổn định, tinh thần dân tộc được phát huy cao độ, góp phần động viên kháng chiến ở Nam Bộ.
3/Biện pháp về văn hoá- xã hội

- Chống giặc dốt, xóa nạn mù chữ: Sau khi giành được độc lập, trong buổi họp đầu tiên
của Hội đồng Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ
trương mở chiến dịch chống nạn mù chữ, tiêu diệt giặc dốt, coi đó là nhiệm vụ cấp bách thứ
46

hai trong 6 nhiệm vụ cấp bách của chính quyền. Hồ Chủ tịch nhấn mạnh "Một dân tộc dốt
là một dân tộc yếu"

+ Tích cực xây dựng hệ thống chính quyền cách mạng, phát huy quyền dân chủ của nhân dân.

+ Phát động phong trào “Bình dân học vụ”, toàn dân học chữ quốc ngữ để từng bước xóa bỏ
nạn dốt.

+ Vận động toàn dân xây dựng nếp sống mới, đời sống văn hóa mới để đẩy lùi các tệ nạn, hủ
tục, thói quen cũ, lạc hậu cản trở tiến bộ.

- Kết quả:

+ Đời sống tinh thần của một số bộ phận nhân dân được cải thiện rõ rệt, nhân dân tin tưởng
vào chế độ mới, nêu cao quyết tâm bảo vệ chính quyền cách mạng.

+ Bình dân học vụ đã dấy lên tinh thần say mê học chữ từ Bắc chí Nam, từ đồng bằng đến
miền núi. Trước đó, hoạt động của Hội truyền bá chữ quốc ngữ đã để lại cho phong trào
nhiều kinh nghiệm cũng như lực lượng trí thức tình nguyện tham gia dạy học cho nhân dân.
Công nhân học trong xưởng thợ, thương binh học ở an dưỡng đường, ngư dân học ngay
trên thuyền chài, nông dân học trên cánh đồng, sân đình chùa, gốc đa, bến nước, trẻ nhỏ học
trên lưng trâu. Người dân ban ngày đi làm, ban đêm thắp đèn dầu, đốt đuốc đến lớp.

+ Các trường học từ cấp tiểu học trở lên lần lượt được khai giảng.

+ Cuối năm 1946, cả nước có hơn 2,5 triệu người dân biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ.

4/Biện pháp về Quân sự

- Đẩy mạnh xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh - công cụ bạo lực sắc bén của Đảng,
giữ vững chính quyền, bảo vệ Tổ quốc. Trước sự chống phá quyết liệt của thù trong, giặc
ngoài, Đảng đã đề ra đường lối vũ trang toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang từ lực lượng
chính trị của quần chúng, khẩn trương xây dựng lực lượng Quân đội nhân dân, Công an
nhân dân đủ mạnh, thực sự trở thành lực lượng chính trị trung thành của Đảng, công cụ bạo
lực sắc bén bảo vệ nền độc lập, tự do của đất nước. Thực hiện chủ trương đó, khắp nơi trên
đất nước ta, phong trào luyện tập quân sự, tìm sắm vũ khí diễn ra sôi nổi.

+ Ở Bắc Bộ và Trung Bộ, những chi đội giải phóng quân lần lượt ra đời, đến cuối năm
1945 đã phát triển lên 40 chi đội với 50.000 người.

+ Tháng 9-1945, Bộ Tổng Tham mưu và ngành Quân giới được thành lập.

+ Tháng 11-1945, Quân giải phóng Việt Nam được đổi thành Vệ quốc đoàn (đội quân
chính quy của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa), sau đó phát triển thành
Quân đội Quốc gia Việt Nam.

+ Tháng 12-1945, Ủy ban Kháng chiến miền Nam ra đời, trực tiếp chỉ đạo quân và
dân miền Nam kháng chiến, chống âm mưu tái xâm lược của thực dân Pháp.
47

+ Đặc biệt, để giúp Trung ương Đảng lãnh đạo công tác quân sự, tháng 01-1946,
Trung ương Quân ủy được thành lập, đồng chí Võ Nguyên Giáp được cử làm Bí
thư.

+ Đến cuối năm 1946, bộ đội tập trung tăng lên hơn 80.000 người, trong đó có 8.000
đảng viên, lực lượng bán vũ trang phát triển gần 01 triệu người.

- Cùng với xây dựng lực lượng quân đội, lực lượng công an nhân dân được xây dựng và
củng cố. Với việc thành lập và duy trì hoạt động hiệu quả của Sở Liêm phóng Bắc Bộ, các
đội danh dự trừ gian, Ban trinh sát diệt ác đã kịp thời ngăn chặn, trừng trị các phần tử phản
cách mạng, ra mặt chống đối chính quyền nhân dân.

+ Ở Trung Bộ thành lập các sở Trinh sát, ở Nam Bộ là Quốc gia tự vệ cuộc.

+ Ngày 21-02-1946, Việt Nam Công an vụ được thành lập với nhiệm vụ tìm hiểu, thu
thập thông tin liên quan đến an toàn quốc gia, đề xuất thực thi những biện pháp để
đề phòng và bảo đảm an ninh trong nước.

+ Ngày 08-4-1946, Bộ Nội vụ ban hành Nghị định 131/BNV, quy định cơ cấu, tổ
chức, quyền hạn, nhiệm vụ của Công an vụ.

+ Bên cạnh lực lượng công an, Ban Trinh sát Trung ương được tăng cường củng cố có
hệ thống từ Trung ương đến các tỉnh, thành phố; Ban Thanh tra đặc biệt và hệ thống
tổ chức của Tòa án cũng lần lượt được thành lập, hoàn thiện.

=> Đây là những tổ chức, công cụ quan trọng đảm bảo cho quá trình hoạt động của Nhà
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, thực thi chế độ dân chủ rộng rãi và sẵn sàng trấn áp
các phần tử phản cách mạng.

+ Thành tích lớn nhất của lực lượng công an thời gian này là phá vụ án phố Ôn Như
Hầu, đập tan âm mưu đảo chính lật đổ chính quyền nhân dân của lực lượng phản
động Việt Quốc, Việt Cách (7-1946).

5/ Biện pháp về ngoại giao

- Ngày 25-11-1945, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc,
chỉ thị đề ra biện pháp về ngoại giao gồm!

- Làm cho nước mình ít kẻ thù và nhiều bạn đồng minh hơn hết

- Đối với Tàu Tưởng: Nêu chủ trương Hoa - Việt thân thiện

- Đối với Pháp: Độc lập về chính trị, nhân nhượng về kinh tế

- Trong cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược ở Nam Bộ, để làm thất bại âm mưu “diệt
cộng, cầm Hồ”, phá Việt Minh của quân Tưởng và tay sai, Đảng đã:

- Thực hiện sách lược “triệt để lợi dụng mâu thuẫn kẻ thù, hòa hoãn, nhân nhượng
có nguyên tắc” với quân Tưởng
48

- Đề ra nhiều đối sách khôn khéo đối phó có hiệu quả với các hoạt động khiêu
khích, gây xung đột vũ trang của quân Tưởng

- Thực hiện giao thiệp thân thiện, ứng xử mềm dẻo, linh hoạt với các yêu sách của
quân Tưởng và các tổ chức đảng phái chính trị tay sai thân Tưởng

- Đầu năm 1946, Pháp và Trung Hoa kí kết, thỏa thuận để Pháp đưa quân đội ra Bắc vĩ
tuyến 16, thay cho 20 vạn quân Tưởng về nước, đổi lại Pháp nhượng lại cho Tưởng nhiều
quyền lợi ở Trung Quốc và Việt Nam. Đối mặt với sự thay đổi này, Đảng ra chỉ thị: Tạm
thời dàn hoà với Pháp, nhân nhượng về lợi ích kinh tế

- Sau khi kí Hiệp định Sơ bộ, Chính phủ tiếp tục cuộc đấu tranh ngoại giao kiên trì, kiên
quyết, đầy khó khăn trong suốt cả năm 1946 ở cả mặt trận trong nước và ngoài nước. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã ký với M. Mutê đại diện chính phủ Pháp bản Tạm ước 14/9 tại Mác
xây, nhân nhượng thêm cho Pháp một số quyền lợi kinh tế, văn hoá ở Việt Nam, đồng thời
hai bên cam kết đình chiến sự ở Nam bộ và tiếp tục đàm phán.

Kết quả chung: Những chủ trương, biện pháp, sách lược đúng đắn của Đảng, Chính phủ và Chủ tịch
HCM trong cuộc đấu tranh chống thù trong giặc ngoài những năm đầu chính quyền cách mạng non trẻ
đã đem lại thắng lợi có ý nghĩa hết sức quan trọng: ngăn chặn bước tiến của đội quân xâm lược Pháp ở
Nam Bộ, vạch trần và làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các kẻ thù; củng cố, giữ
vững và bảo vệ bộ máy chính quyền cách mạng từ TW đến cơ sở và những thành quả của cuộc CMT8;
tạo thêm thời gian hoà bình, hoà hoãn, tranh thủ xây dựng thực lực, chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc kháng
chiến lâu dài

CHỦ ĐỀ 14: PHÂN TÍCH NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG
THỰC DÂN PHÁP VÀ CAN THIỆP MỸ CỦA ĐẢNG.

1/ Lý do bùng nổ cuộc kháng chiến chống Thực dân Pháp xâm lược (1946-1954). Với dã tâm xâm lược
nước ta một lần nữa, Pháp đã có những hành động trắng trợn, vi phạm các điều đã ký kết với chính phủ
ta như: hiệp định Sơ bộ (6-3), tạm ước (14- 9). Sau khi được đưa quân ra miền Bắc, Pháp đã có những
hành động đánh chiếm Hải Phòng, Lạng Sơn, tước vũ khí bộ đội ta ở Hà Nội.

- Mặc dù chúng ta đã nhân nhượng với Pháp, nhưng chúng ta càng nhân nhượng, Pháp càng lấn
tới, đến lúc chúng ta không thể nhân nhượng được nữa, toàn Đảng toàn dân ta quyết tâm kháng chiến
bảo vệ nền độc lập dân tộc của mình. Trong các ngày 18 và 19-12-1946, quân Pháp gửi tối hậu thư
buộc ta phải giải tán lực lượng tự vệ ở Hà Nội và nắm quyền kiểm soát thủ đô, nếu không được thì
chậm nhất là sáng ngày 20-12-1946 chúng sẽ chuyển sang hành động.

- Nền độc lập của cả nước đang bị đe dọa.Vì thế, khoảng 20h ngày 19-12-1946 công nhân nhà
máy điện Yên Phụ phá máy, cả Hà Nội tắt điện. Đảng phát động cuộc kháng chiến toàn quốc bắt đầu.

2/ Nội dung đường lối:

a/ Cơ sở lý luận và thực tiễn để Đảng đề ra đường lối. (1/3-1/2 trang)

- Cơ sở lý luận:

+ Lý luận chủ nghĩa Mác- Lênin về chiến tranh và cách mạng.


49

+ Tư tưởng Hồ Chí Minh về quốc phòng toàn dân và chiến tranh nhân dân.

- Cơ sở thực tiễn:

+ Quốc tế

● Thuận lợi

Hệ thống xã hội chủ nghĩa ra đời.

Phong trào cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa ngày càng phát triển.

● Khó khăn

Pháp là đế quốc hùng mạnh với tiềm lực kinh tế, chính trị, quân sự.

Phong trào giải phóng dân tộc bị ra sức tấn công, đàn áp.

Địa vị pháp lý của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không được công nhận.

+ Việt Nam

● Thuận lợi

Việt Nam trở thành quốc gia độc lập tự do.

Nhân dân Việt Nam có truyền thống yêu nước, truyền thống cách mạng.

Đảng đứng đầu là chủ tịch Hồ Chí Minh dày dặn kinh nghiệm lãnh đạo.

Quân đội và lực lượng quốc gia; luật pháp của chính quyền khẩn trương được xây dựng.

● Khó khăn

Giặc ngoại xâm và nội phản: Thực dân Pháp được sự trợ giúp của quân đồng minh tiến vào xâm
lược Việt Nam lần thứ 2 trong khi lực lượng phản động trong và ngoài nước ráo riết chống phá
cách mạng.

Về chính trị: Chính quyền còn non trẻ, yếu kém về nhiều mặt.

Về kinh tế: Công nghiệp đình đốn, nông nghiệp bị hoang hóa, kho bạc trống rỗng.

Về văn hóa - xã hội: Hơn 95% dân số mù chữ, các hủ tục lạc hậu, tệ nạn xã hội diễn ra triền miên, nạn
đói năm 1945 làm 2 triệu người dân chết đói.

b/ Nội dung đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp. (1-1,5 trang)

- Mục đích kháng chiến: Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ là sự kế thừa
và phát triển thành quả Cách mạng Tháng Tám nhằm “đánh phản động thực dân Pháp xâm lược; giành
thống nhất và độc lập”.

- Tính chất kháng chiến: “Cuộc kháng chiến của dân tộc ta là một cuộc chiến tranh cách mạng
của nhân dân, chiến tranh chính nghĩa, nó có tính chất toàn dân, toàn diện và lâu dài”. Đó là cuộc
kháng chiến có tính chất dân tộc giải phóng và dân chủ mới.
50

- Phương châm tiến hành kháng chiến: Tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, thực hiện kháng
chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính.

+ Kháng chiến toàn dân: “Bất kỳ đàn ông đàn bà không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc, bất kỳ
người già, người trẻ. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp”, thực hiện mỗi
người dân là một chiến sĩ, mỗi làng xóm là một pháo đài.

+ Kháng chiến toàn diện: Đánh địch về mọi mặt: chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, ngoại giao.
Trong đó:

. Về chính trị: Thực hiện đoàn kết toàn dân, tăng cường xây dựng Đảng, chính quyền, các đoàn thể
nhân dân; đoàn kết với Miên, Lào và các dân tộc yêu chuộng tự do, hòa bình.

. Về quân sự: Thực hiện vũ trang toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, tiêu diệt địch, giải
phóng nhân dân và đất đai, thực hiện du kích chiến tiến lên vận động chiến, đánh chính quy.

. Về kinh tế: Tiêu thổ kháng chiến, xây dựng kinh tế tự cung tự túc, tập trung phát triển nông nghiệp,
thủ công nghiệp, thương nghiệp và công nghiệp quốc phòng.

. Về văn hóa: Xóa bỏ văn hóa thực dân, phong kiến, xây dựng nền văn hóa dân chủ mới theo ba
nguyên tắc: dân tộc, khoa học, đại chúng.

. Về ngoại giao: Thực hiện thêm bạn bớt thù , biểu dương thực lực. “Liên hiệp với dân tộc Pháp, chống
phản động thực dân Pháp”, sẵn sàng đàm phán nếu Pháp công nhận Việt Nam độc lập.

+ Kháng chiến lâu dài (trường kỳ): Là để chống âm đánh nhanh, thắng nhanh của Pháp, để có
thời gian phát huy yếu tố “thiên thời, địa lợi, nhân hòa” của ta, chuyển hóa tương quan lực lượng từ
chỗ ta yếu hơn địch đến chỗ ta mạnh hơn địch, đánh thắng địch.

+ Dựa vào sức mình là chính: “Phải tự cấp, tự túc về mọi mặt”, vì ta bị bao vây bốn phía, chưa
được nước nào giúp đỡ nên phải tự lực cánh sinh. Khi nào có điều kiện ta sẽ tranh thủ sự giúp đỡ của
các nước, song lúc đó cũng không được ỷ lại.

- Triển vọng kháng chiến: Mặc dù lâu dài, gian khổ, khó khăn, song nhất định thắng lợi. Đường
lối kháng chiến của Đảng với những nội dung cơ bản như trên là đúng đắn và sáng tạo, vừa kế thừa
được kinh nghiệm của tổ tiên, đúng với các nguyên lý về chiến tranh cách mạng của chủ nghĩa Mác-
Lênin, vừa phù hợp với thực tế đất nước lúc bấy giờ.

- Kết quả:

+ Về chính trị: Đảng ra hoạt động công khai đã có điều kiện kiện toàn tổ chức, tăng cường sự
lãnh đạo đối với cuộc kháng chiến. Bộ máy chính quyền năm cấp được củng cố. Mặt trận Liên
hiệp quốc dân Việt Nam (Liên Việt) được thành lập. Khối đại đoàn kết toàn dân phát triển lên
một bước mới.
+ Về quân sự: Đến cuối năm 1952, lực lượng chủ lực đã có sáu đại đoàn bộ binh, một đại đoàn
công binh – pháo binh. Thắng lợi các chiến dịch Trung Du. Đường 18, Hà Nam Ninh, Hòa
Bình, Tây Bắc, Thượng Lào…đã tiêu diệt được nhiều sinh lực địch, giải phóng nhiều vùng đất
đai và dân cư, mở rộng vùng giải phóng của Việt Nam và cho cách mạng Lào…. Chiến thắng
51

Điện Biên Phủ ngày 7/5/1954 được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một Bạch Đằng một Chi
Lăng hay một Đống Đa trong thế kỷ XX .

+ Về ngoại giao: Với phương châm kết hợp đấu tranh chính trị, quân sự và ngoại giao, khi biết tin
Pháp có ý định đàm phán, thương lượng với ta, ngày 27-12-1953, Ban Bí thư ra Thông tư nêu rõ: “lập
trường của nhân dân Việt Nam là kiên quyết kháng chiến đến thắng lợi cuối cùng”.

3/ Ý nghĩa đường lối

- Đối với trong nước: Việc đề ra và thực hiện thắng lợi đường lối kháng chiến, xây dựng chế độ
dân chủ nhân dân đã làm thất bại cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp được đế quốc Mỹ giúp
sức ở mức độ cao, buộc chúng phải công nhận độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của các nước
Đông Dương; đã làm thất bại âm mưu mở rộng và kéo dài chiến tranh của đế quốc Mỹ, kết thúc chiến
tranh lập lại hòa bình ở Đông Dương; giải phóng hoàn toàn miền Bắc.

- Đối với quốc tế: thắng lợi đó đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới, mở
rộng địa bàn, tăng thêm lực lượng cho chủ nghĩa xã hội và cách mạng thế giới; cùng với nhân dân Lào
và Campuchia đập tan ách thống trị của chủ nghĩa thực dân cũ trên thế giới, trước hết là hệ thống thuộc
địa của thực phân Pháp.

Chủ đề 14.1: Bằng thực tiễn lịch sử Cách mạng Việt Nam,chứng minh rằng: Đường lối kháng
chiến chống thực dân Pháp xâm lược(1946-1954) là phù hợp yêu cầu thực tiễn,đáp ứng đc yêu
cầu khách quan của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp?

1, Hoàn cảnh lịch sử

a) Pháp: bội ước

- Sau Hiệp định Sơ bộ 6/3/1946 và Tạm ước 14/9/1946, Pháp vẫn đẩy mạnh chuẩn bị xâm
lược Việt Nam lần hai.

- Ngày 18/12/1946, Pháp gửi tối hậu thư đòi ta giải tán lực lượng tự vệ chiến đấu để Pháp
giữ gìn trật tự ở Hà Nội, nếu không, chậm nhất sáng 20/12/1946, chúng sẽ hành động.

b) Việt Nam: Đảng ra quyết định phát động kháng chiến

- Khoảng 20 giờ ngày 19/12/1946, công nhân nhà máy điện Yên Phụ (Hà Nội) phá máy, tắt
điện làm tín hiệu tiến công, cuộc kháng chiến toàn quốc chống Pháp bùng nổ

- Đêm ngày 19/12/1946, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chí Minh được phát đi

2, Quá trình hình thành và nội dung đường lối

a) Quá trình hình thành

25/11/1945, Chỉ thị kháng chiến và kiến quốc xác định kẻ thù chính
19/10/1946, Hội nghị quân sự toàn quốc đề ra chủ trương, biện pháp về tư tưởng và tổ chức
5/11/1946, Chỉ thị Công việc khẩn cấp bây giờ chỉ ra những công việc gấp rút cần chuẩn bị

b) Nội dung đường lối


52

- Mục đích: Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ là sự thừa kế và phát
triển thành quả Cách mạng Tháng Tám nhằm “đánh phản động thực dân Pháp xâm lược,
Giành thống nhất và độc lập”

- Tính chất: Cuộc kháng chiến của dân tộc ta là một cuộc chiến tranh cách mạng của nhân
dân, chiến tranh chính nghĩa, nó có tính chất toàn dân, toàn diện và lâu dài. Đó là cuộc
kháng chiến có tính chất dân tộc giải phóng và dân chủ mới.

- Phương châm kháng chiến: Tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, thực hiện cuộc kháng
chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính

- Triển vọng kháng chiến: Mặc dù lâu dài, gian khổ, khó khăn, song nhất định thắng lợi.

3, Ý nghĩa, nhận xét

a) Cơ sở để Đảng đề ra đường lối

- Cơ sở lý luận

+ Theo quan điểm chủ nghĩa Mác Lênin, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng

+ Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy dân làm gốc

- Cơ sở thực tiễn

Quốc tế Trong nước

Thuận lợi Hệ thống xã hội chủ nghĩa ra đời Việt Nam trở thành quốc gia độc lập tự do

Phong trào cách mạng giải phóng Đứng đầu là chủ tịch Hồ Chí Minh dày dặn
dân tộc ngày càng phát triển kinh nghiệm lãnh đạo

Khó khăn Pháp là đế quốc hùng mạnh về tiềm Thực dân Pháp dưới sự trợ giúp của quân
lực kinh tế, chính trị, quân sự đồng minh tiến vào Việt Nam, lực lượng phản
động ra sức chống phá cách mạng
Phong trào giải phóng dân tộc bị ra
sức tấn công, đàn áp Chính quyền ở Việt Nam còn non trẻ

Địa vị pháp lý Nhà nước Việt Nam Nền kinh tế với công nghiệp đình đốn, nông
Dân chủ Cộng hòa không được nghiệp bị hoang hóa, kho bạc trống rỗng
công nhận
Hơn 95% dân số mù chữ, các hủ tục lạc hậu
diễn ra triền miên

b) Tính đúng đắn sáng tạo trong đường lối chống Pháp từ 1946-1954

- Tính đúng đắn:


53

+ Nội dung đường lối kháng chiến của Đảng bao gồm các vấn đề cơ bản: Phát động và tổ
chức toàn dân kháng chiến; kháng chiến toàn diện trên tất cả các mặt trận: chính trị, quân
sự, kinh tế, văn hóa, ngoại giao; kháng chiến lâu dài, dựa vào sức mình là chính, đồng thời
tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế.

+ Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn khẳng định sức mạnh của cách mạng và chiến
tranh là nhân dân. Bởi vì “Sự đồng tâm của đồng bào ta đúc thành một bức tường đồng
xung quanh Tổ quốc. Dù địch hung tàn, xảo quyệt đến mức nào, đụng đầu nhằm bức tường
đó, chúng cũng phải thất bại”. Đảng đã xây dựng quyết tâm chiến đấu cho toàn dân và củng
cố niềm tin vào thắng lợi của cuộc chiến đấu ấy, “Có lẽ hiếm có ở đâu, chiến tranh nhân
dân trong thực tế lại đúng với tên gọi của nó như vậy, thực sự sâu rộng trong nhân dân và
thực sự vô địch như nhân dân”

+ Chủ trương kháng chiến toàn dân đã huy động lực lượng tổng hợp của cả dân tộc vào cuộc
chiến đấu. Cho nên ta càng đánh càng mạnh, càng giành thắng lợi lớn, để cuối cùng làm
nên một Điện Biên Phủ chấn động địa cầu, kết thúc oanh liệt cuộc kháng chiến thần thánh
của dân tộc ta. Đường lối kháng chiến toàn dân là sự kế thừa và nâng lên tầm cao mới tư
tưởng quân sự truyền thống của tổ tiên ta, là sự vận dụng lý luận chiến tranh cách mạng của
chủ nghĩa Mác – Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta.

- Tính sáng tạo:

+ Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, đó là đường lối kháng chiến
toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính. Trên cơ sở xem xét, đánh giá khách
quan, toàn diện tình hình quốc tế, trong nước, địch, ta, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh
xác định lực lượng kháng chiến là toàn dân, trong đó lực lượng vũ trang nhân dân ba thứ
quân, gồm: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích làm nòng cốt. Để phát
huy tối đa sức mạnh của toàn dân tộc, Đảng tổ chức, động viên mọi tầng lớp nhân dân,
không phân biệt giai cấp, tôn giáo, đảng phái; đồng thời, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại. Phương pháp cách mạng là nhiệm vụ kháng chiến được đặt lên hàng đầu;
thực hiện vừa kháng chiến, vừa kiến quốc. Phương thức tiến hành kháng chiến là kết hợp
chặt chẽ chiến tranh nhân dân địa phương với chiến tranh bằng các đơn vị bộ đội chủ lực.

+ Đây thực sự là một sáng tạo của đường lối chiến tranh nhân dân Việt Nam – đường lối
kháng chiến – mà Đảng ta với tư cách chủ thể. Bởi lẽ, chiến tranh của ta là chiến tranh nhân
dân, do nhân dân tiến hành (mỗi người dân là một chiến sĩ), với lực lượng vũ trang ba thứ
quân làm nòng cốt. Kháng chiến toàn diện, là vì thực dân Pháp tiến hành xâm lược, nô dịch
nhân dân ta cả chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quân sự,... do đó ta phải đấu tranh toàn
diện, lâu dài với địch, trong khi phải dựa vào sức mình là chính để giành thắng lợi cho cuộc
kháng chiến vĩ đại. Đường lối đó là sự kế thừa truyền thống, kinh nghiệm chống giặc ngoại
xâm của dân tộc, nắm vững và vận dụng đúng quy luật chiến tranh trong điều kiện “lấy nhỏ
đánh lớn, lấy ít địch nhiều”

+ Nghệ thuật quân sự là nét đặc sắc nổi bật của đường lối kháng chiến, được biểu hiện tập
trung ở sự chỉ đạo tác chiến chiến dịch, chiến lược thông qua các chiến dịch: Việt Bắc Thu
Đông năm 1947, Chiến dịch Biên giới Thu Đông năm 1950 và đỉnh cao là Chiến dịch Điện
Biên Phủ năm 1954.
54

Nhận xét: Thắng lợi của cuộc chiến tranh yêu nước đã khẳng định đường lối kháng chiến do Đảng đề
ra không những kịp thời mà còn đúng đắn và sáng tạo. Đường lối ấy không chỉ đưa cuộc kháng chiến
của nhân dân ta đến thắng lợi, mà còn góp phần vào thành công của phong trào giải phóng dân tộc trên
thế giới và làm phong phú lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về chiến tranh cách mạng. Đường lối
kháng chiến của Đảng trở thành ngọn cờ dẫn đường, chỉ lối, động viên toàn Đảng, toàn quân, toàn dân
ta tiến lên. Đường lối đó trở thành một nhân tố quan trọng hàng đầu quyết định thắng lợi của cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược

c) Ý nghĩa đường lối

- Trong nước: việc đề ra và thực hiện thắng lợi đường lối kháng chiến, xây dựng chế độ
dân chủ nhân dân đã làm thất bại cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp được đế
quốc Mỹ giúp sức ở mức độ cao, buộc chúng phải công nhận độc lập, chủ quyền, toàn vẹn
lãnh thổ của các nước Đông Dương; làm thất bại âm mưu mở rộng và kéo dài chiến tranh
của đế quốc Mỹ, kết thúc chiến tranh lập lại hòa bình ở Đông Dương; giải phóng hoàn toàn
miền Bắc; tạo điều kiện đưa miền Bắc một bước tiến lên xã hội chủ nghĩa xã hội làm căn cứ
địa, hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh ở miền Nam; tăng niềm tự hào dân tộc cho nhân dân ta và
nâng cao uy tín của VN trên trường quốc tế

- Đối với quốc tế: thắng lợi đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới;
mở rộng địa bàn, tăng thêm lực lượng cho chủ nghĩa xã hội và cách mạng thế giới, cùng
nhân dân Lào và Campuchia đập tan ách thống trị của chủ nghĩa thực dân ở ba nước Đông
Dương, mở ra sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên thế giới, trước hết là hệ thống thuộc
địa của thực dân Pháp.

Đánh giá về ý nghĩa lịch sử của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, HCM nói:
“lần đầu tiên trong lịch sử. một nước thuộc địa nhỏ yếu đã đánh thắng một nước thực dân hùng
mạnh. Đó cũng là một thắng lợi vẻ vang của nhân dân VN, đồng thời cũng là một thắng lợi vẻ
vang của các lực lượng hoà bình, dân chủ và CNXH trên thế giới”

Trên đây là phần thuyết trình của nhóm em về chủ đề Bằng thực tiễn lịch sử Cách mạng Việt
Nam,chứng minh rằng: Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược(1946-1954) là
phù hợp yêu cầu thực tiễn,đáp ứng đc yêu cầu khách quan của cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp?

CHỦ ĐỀ 15: PHÂN TÍCH NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CHÍNH CƯƠNG ĐẢNG LAO ĐỘNG
VIỆT NAM (2-1951)

1. Hoàn cảnh:
- Quốc tế:

+ Liên Xô lớn mạnh 76 vượt bậc về mọi mặt, các nước xã hội chủ nghĩa ở châu Âu bước vào công
cuộc xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội.

+ Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ra đời làm thay đổi so sánh lực lượng có lợi cho hòa bình và
phong trào cách mạng.

+ Mỹ trở thành tên sen đầm quốc tế, tăng cường giups đỡ Pháp can thiệp trực tiếp vào cuộc chiến tranh
Đông Dương
55

- Trong nước: Cuộc kháng chiến của nhân dân ta đã giành được nhiều thắng lợi quan trọng.

+ Cách mạng Lào và Campuchia cũng có những chuyển biến tích cực.

+ Điều kiện lịch sử đó đặt ra cho Đảng Cộng sản Đông Dương các yêu cầu bổ sung và hoàn chỉnh
đường lối cách mạng phù hợp với mỗi nước ở Đông Dương để đưa kháng chiến đi đến thắng lợi.

+ Theo sáng kiến của những người cộng sản Việt Nam, được những người cộng sản Lào và Campuchia
nhất trí tán thành, Đại hội quyết định: Do nhu cầu kháng chiến, giai cấp công nhân và nhân dân mỗi
nước Việt Nam, Lào, Campuchia cần có một đảng riêng. Ở Việt Nam, Đảng ra hoạt động công khai,
lấy tên là Đảng Lao động Việt Nam

2. Nội dung chính cương Đảng lao động Việt Nam(2/1951)

- Xác định tính chất của xã hội Việt Nam lúc này có 3 tính chất: “dân chủ nhân dân, một phần thuộc địa
và nửa phong kiến”. Cuộc kháng chiến để giải quyết mâu thuẫn giữa 1 Ngày 28-6-1951, Đảng bộ
Campuchia đã họp Đại hội, quyết định thành lập Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia và bầu Ban
Lãnh đạo của Đảng do Sơn Ngọc Minh đứng đầu. Đảng bộ Lào cũng tích cực chuẩn bị và đến ngày 22-
3-1955 đã họp Đại hội, quyết định thành lập Đảng Nhân dân Lào (sau đổi là Đảng Nhân dân Cách
mạng Lào), do Cayxỏn Phômvihản làm Tổng Bí thư. 77 chế độ dân chủ nhân dân với các thế lực phản
động chính là chủ nghĩa đế quốc xâm lược. Đối tượng đấu tranh chính của Việt Nam hiện nay là chủ
nghĩa đế quốc xâm lược Pháp và can thiệp Mỹ, và phong kiến phản động.

- Nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam được xác định là: “đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược, giành độc
lập và thống nhất thật sự cho dân tộc; xóa bỏ những tàn tích phong kiến và nửa phong kiến, làm cho
người cày có ruộng; phát triển chế độ dân chủ nhân dân, gây cơ sở cho chủ nghĩa xã hội”. Những
nhiệm vụ đó có mối quan hệ khăng khít với nhau, nhưng nhiệm vụ chính lúc này là tập trung đấu tranh
chống xâm lược, hoàn thành công cuộc giải phóng dân tộc.

- Động lực của cách mạng Việt Nam được xác gồm có bốn giai cấp là: giai cấp công nhân, giai cấp
nông dân, giai cấp tiểu tư sản và tư sản dân tộc, ngoài ra còn có những thân sĩ (thân hào, địa chủ) yêu
nước và tiến bộ. Trong đó lấy nền tảng là giai cấp công, giai cấp nông và lao động trí óc; giai cấp công
nhân đóng vai trò là lực lượng lãnh đạo cách mạng Việt Nam.

- Chính cương cũng nêu ra triển vọng phát triển của cách mạng Việt Nam nhất định sẽ tiến lên chủ
nghĩa xã hội. Cách mạng Việt Nam là cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân do Đảng của giai cấp
công nhân lãnh đạo nên nhất định sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đây là quá trình lâu dài, có các giai
đoạn phát triển tương ứng với những nhiệm vụ trung tâm, đó là: hoàn thành giải phóng dân tộc; xóa bỏ
tàn tích phong kiến và nửa phong kiến, thực hiện triệt để người cày có ruộng, hoàn chỉnh chế độ dân
chủ nhân dân; tiến tới xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội, tiến lên thực hiện chủ nghĩa xã
hội.

- Chính sách của Đảng: Để cụ thể hóa Đảng đưa ra 15 chính sách nhằm đẩy phát triển chế độ dân chủ
nhân dân, gây mầm mống cho chủ nghĩa xã hội và đẩy mạnh kháng chiến đến thắng lợi. 15 chính sách
là sự tổng hợp các lĩnh vực khác nhau.

Cụ thể bao gồm: (1) Kháng chiến; (2)Chính quyền nhân dân; (3) Mặt trận dân tộc thống nhất; (4) Quân
đội; (5) Kinh tế tài chính; (6) Cải cách ruộng đất; (7) Vǎn hoá giáo dục; (8) Đối với tôn giáo; (9) Chính
56

sách dân tộc; (10) Đối với vùng tạm bị chiếm; (11) Ngoại giao; (12) Đối với Miên, Lào; (13) Đối với
ngoại kiều; (14) Đấu tranh cho hòa bình và dân chủ thế giới; (15) Thi đua ái quốc.

3. Nhận xét:
- Chính cương đã xác định đối tượng của cách mạng Việt Nam là chủ nghĩa đế quốc xâm lược,
cụ thể lúc này là đế quốc Pháp và bọn can thiệp Mỹ, bọn phong kiến phản động, kẻ thù chính là
chủ nghĩa đế quốc xâm lược.
- Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ là đánh đuổi đế quốc xâm lược, giành
độc lập và thống nhất thật sự cho dân tộc; xóa bỏ những tàn tích phong kiến và nửa phong kiến,
làm cho người cày có ruộng; phát triển chế độ dân chủ nhân dân, gây dựng cơ sở cho chủ nghĩa
xã hội
- Chính cương cũng đã đề ra các chính sách lớn để đẩy mạnh kháng chiến đến thắng lợi và đặt cơ
sở để kiến thiết quốc

CHỦ ĐỀ 16. NHỮNG DIỄN BIẾN CHÍNH CỦA CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN
PHÁP VÀ CAN THIỆP MỸ (1945 – 1954)

1/ Lý do bùng nổ cuộc kháng chiến chống Thực dân Pháp xâm lược (1946-1954).

Với dã tâm xâm lược nước ta một lần nữa, Pháp đã có những hành động trắng trợn, vi phạm các điều
đã ký kết với chính phủ ta như: hiệp định Sơ bộ (6-3), tạm ước (14- 9). Sau khi được đưa quân ra miền
Bắc, Pháp đã có những hành động đánh chiếm Hải Phòng, Lạng Sơn, tước vũ khí bộ đội ta ở Hà Nội.

- Mặc dù chúng ta đã nhân nhượng với Pháp, nhưng chúng ta càng nhân nhượng, Pháp càng lấn
tới, đến lúc chúng ta không thể nhân nhượng được nữa, toàn Đảng toàn dân ta quyết tâm kháng chiến
bảo vệ nền độc lập dân tộc của mình. Trong các ngày 18 và 19-12-1946, quân Pháp gửi tối hậu thư
buộc ta phải giải tán lực lượng tự vệ ở Hà Nội và nắm quyền kiểm soát thủ đô, nếu không được thì
chậm nhất là sáng ngày 20-12-1946 chúng sẽ chuyển sang hành động.

- Nền độc lập của cả nước đang bị đe dọa.Vì thế, khoảng 20h ngày 19-12-1946 công nhân nhà
máy điện Yên Phụ phá máy, cả Hà Nội tắt điện. Đảng phát động cuộc kháng chiến toàn quốc bắt đầu.

2/ Diễn biến

a) Chiến dịch Việt Bắc thu-đông 1947:

– Diễn biến:

+ Vào ngày 7 – 10 – 1947, thực dân Pháp mở cuộc tiến công Việt Bắc. Theo chỉ thị của Đảng, quân
dân ta anh dũng chiến đấu, từng bước đẩy lùi cuộc tiến công của địch.

+ Quân dân ta bao vây, tiến công địch nhiều nơi ở Bắc Kạn, buộc địch rút khỏi Chợ Đồn và Chợ Rã.
Quân ta chặn đánh địch trên Đường số 4, trận đèo Bông Lau, phục kích đánh địch trên sông Lô, nổi bật
là trận Đoan Hùng và Khe Lau.

+ Vào ngày 19 – 12 – 1947, đại bộ phận quân Pháp rút khỏi Việt Bắc. Chiến dịch kết thúc.

– Kết quả và ý nghĩa

+ Kết quả: Loại khỏi vòng chiến đấu hơn 6.000 tên địch, phá huỷ nhiều phương tiện , vũ khí chiến
tranh. Cơ quan đầu não của kháng chiến được bảo toàn, bộ đội chủ lực của ta ngày càng trưởng thành.
57

+ Ý nghĩa: Chiến thắng Việt Bắc đã chuyển hóa cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp sang
giai đoạn mới, bước đầu thất bại chiến lược “đánh nhanh, thắng nhanh” của Pháp, buộc chúng phải
chuyển sang “đánh lâu dài”.

b) Chiến dịch biên giới thu-đông 1950:

– Diễn biến:

+ 16-9-1950. ta mở màn chiến dịch bằng trận đánh Đông Khê một cứ điểm quan trọng trên đường số 4

+ Ngày 18/9/ 1950 ta chiếm được hoàn toàn Đông Khê, Thất Khê bị uy hiếp, Cao Bằng bị cô lập.

+ Pháp rút khỏi Cao Bằng men theo đường số 4 và cho quân từ Thất Khê lên chiếm lại Đông Khê và
đón quân từ Cao Bằng rút về.

+ Ta chủ động mai phục, chặn đánh địch trên đường số 4, khiến cho hai cánh quân này không có cơ
hội hội ngộ.

+ Quân Pháp lần lượt rút khỏi Thất Khê và Na Sầm. Đến ngày 22/10/1950 đường số 4 được giải phóng
hoàn toàn.

– Kết quả:đuổi hơn 8.000 tên địch ra khỏi vòng chiến đấu, giải phóng đường biên giới từ Cao Bằng
với 35 vạn dân, phá tan hành lang Đông – Tây, thế bao vây của địch đối với căn cứ Việt Bắc bị phá vỡ
với thất bại của kế hoạch Rơve.

– Ý nghĩa:

+ Đường liên lạc của ta với các nước XHCN được nới lỏng, khai thông .

+ Chiến dịch Biên Giới đã chứng minh Bộ đội ta đã trưởng thành qua 4 năm kháng chiến ta đã giành
được thế chủ động trên chiến trường Bắc Bộ .

+ Mở ra bước phát triển mới có lợi cho ta trong cuộc kháng chiến .

c) Chiến dịch Điện Biên Phủ 1954:

– Diễn biến:

+ Đợt 1:( từ 13-3 đến 17-3-1954): tiến công địch ở phân khu Bắc, tiêu diệt cứ điểm Him Lam, Độc
Lập, buộc địch ở Bản Kéo phải ra hàng.

+ Đợt 2 từ 30-3 đến 26-4-1954): mở liên tiếp nhiều cuộc tiến công đánh vào các vị trí phòng thủ phía
Đông phân khu trung tâm cứ điểm và các dãy đồi A1, D1, C1,E1, Mỹ phải tăng cường viện trợ cho
Pháp ở Đông Dương.

+ Đợt 3: (từ 1-5 đến 7-5-1954): đồng loạt tiến công tiêu diệt các điểm dễ kháng của địch. Chiều 7-5-
1954 , quân ta đánh vào sở chỉ huy của địch, tướng Đờcátxtơri cùng toàn bộ ban tham mưu của địch bị
bắt 17 giờ 30 phút ngày 7-5-1954.

– Kết quả: bắt sống 16.200 tên địch, bắn rơi 62 máy bay B52, thu hồi toàn bộ vũ khí, phương tiện
chiến tranh và đập tan cứ điểm Điện Biên Phủ.
58

– Ý nghĩa: đập tan hoàn toàn kế hoạch Na Va và giáng đòn nặng nề vào ý chí xâm lược thay đổi cục
diện chiến tranh, tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc đấu tranh ngoại giao ở Hội nghị Giơnevơ

CHỦ ĐỀ 17. PHÂN TÍCH Ý NGHĨA LỊCH SỬ VÀ NHỮNG KINH NGHIỆM LÃNH ĐẠO
CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP CỦA ĐẢNG (1945 – 1954).

Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và can thiệp Mỹ (1946-1954) là cuộc chiến tranh
cách mạng giải phóng dân tộc. Thắng lợi của cuộc kháng chiến đó vừa có ý nghĩa dân tộc, vừa có ý
nghĩa quốc tế sâu sắc.

1. Hoàn cảnh lịch sử

Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 nước ta còn nằm trong vòng vây của Chủ nghĩa đế quốc và phản
động quốc tế. Dưới sự lãnh đạo của Đảng đứng đầu là Hồ Chí Minh đã lãnh đạo nhân dân ta thực hiện
các giải pháp về: kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao.
Điều này đã đưa ta thoát khỏi thế ngàn cân treo sợi tóc, tạo thế, tạo lực cho sau này. Đảng ta đã thực
hiện sách lược hòa hoãn với Pháp bằng việc ký Hiệp định sơ bộ 6-3-1946 và Tạm ước 14-9-1946.
Nhưng với dã tâm xâm lược, cuối năm 1946 Pháp phản bội mọi cam kết, quyết cướp nước ta một lần
nữa. Ngày 18-12-1946, ở Hà Nội , Pháp gửi tối hậu thư cho ta, tra quyền kiểm soát thủ đô và giải tán
quân tự vệ. Tiếp đó, Pháp gây vụ thảm sát ở phố Hàng Bún Hà Nội. Trước hành động ngày càng lấn
tới của thực dân Pháp, ta không thể nhân nhượng được nữa, nhân nhượng nữa là mất nước. Vì vậy,
ngay đêm 19-12-1946 Đảng và Chính phủ đã phát động toàn quốc kháng chiến.
Thuận lợi của nhân dân ta bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược là: cuộc chiến
tranh của ta là cuộc chiến tranh chính nghĩa bảo vệ nền độc lập tự do của dân tộc, ta đã có sự chuẩn bị
cần thiết về mọi mặt, nên về lâu dài, ta sẽ có khả năng đánh thắng quân xâm lược.
Khó khăn của ta là: Tương quan lực lượng quân sự yếu hơn địch. Ta bị bao vây bốn phía, chưa được
nước nào công nhận, giúp đỡ. Còn quân Pháp lại có vũ khí tối tân, đã chiếm đóng được hai nước Lào,
Campuchia và một số nơi ở Nam Bộ Việt Nam, có quân đội đứng chân trong các thành thị lớn ở Miền
Bắc.
2. Nguyên nhân thắng lợi

Cuộc kháng chiến của nhân dân ta chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ giành được thắng lợi là do
các nhân tố cơ bản sau:

- Có sự lãnh đạo của Đảng với đường lối chính trị và quân sự đúng đắn, có khối đoàn kết nhất trí của
toàn dân, có mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với quần chúng. Các đảng viên của Đảng đã xung phong
gương mẫu, dũng cảm đi đầu trong cuộc chiến đấu.
- Có sự đoàn kết chiến đấu toàn dân được tổ chức, tập hợp trong Mặt trận dân tộc rộng rãi - Mặt trận
Liên - Việt, dựa trên nền tảng của khối liên minh công nhân, nông dân và trí thức.
- Có lực lượng vũ trang gồm ba thứ quân làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc. Đây là lực lượng trực
tiếp đóng vai trò quyết định tiêu diệt địch trên chiến trường.
- Chúng ta có chính quyền dân chủ nhân dân, một chính quyền của dân, do dân, vì dân. Đây là một
công cụ sắc bén của Đảng để tổ chức toàn dân kháng chiến và xây dựng chế độ mới.
- Có hậu phương ngày càng mở rộng và củng cố về mọi mặt, bảo đảm chi viện ngày càng nhiều sức
người, sức của cho mặt trận.
59

- Có sự liên minh chiến đấu của ba dân tộc Việt Nam, Lào, Campuchia chống kẻ thù chung và được sự
đồng tình ủng hộ của các nước xã hội chủ nghĩa, của các dân tộc bị áp bức và các lực lượng hoà bình
tiến bộ trên thế giới.
3. Ý nghĩa lịch sử
– Ý nghĩa trong nước: việc đề ra và thực hiện thắng lợi đường lối kháng chiến, xây dựng chế độ dân
chủ nhân dân đã làm thất bại cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp được đế quốc Mỹ giúp sức
ở mức độ cao, buộc chúng phải công nhận độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của các nước Đông
Dương; làm thất bại âm mưu mở rộng và kéo dài chiến tranh của đế quốc Mỹ, kết thúc chiến tranh lập
lại hòa bình ở Đông Dương; giải phóng hoàn toàn miền Bắc, tạo điều kiện để miền Bắc tiến lên chủ
nghĩa xã hội làm căn cứ địa, hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh ở miền Nam; tăng thêm niềm tự hào dân tộc
cho nhân dân ta và nâng cao uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.
– Đối với quốc tế: thắng lợi đó đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới; mở rộng
địa bàn, tăng thêm lực lượng cho chủ nghĩa xã hội và cách mạng thế giới, cùng với nhân dân Lào và
Campuchia đập tan ách thống trị của chủ nghĩa thực dân ở ba nước Đông Dương, mở ra sự sụp đổ của
chủ nghĩa thực dân cũ trên thế giới, trước hết là hệ thống thuộc địa của thực dân Pháp. Báo hiệu một
thời kỳ sụp đổ từng mảng của hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa thực dân, góp phần tích cực vào tiến
trình phát triển của cách mạng thế giới.

Đánh giá về ý nghĩa lịch sử của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Hồ Chí Minh nói:
“Lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ yếu đã đánh thắng một nước thực dân hùng mạnh.
Đó cũng là một thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt Nam, đồng thời cũng là một thắng lợi vẻ vang của
các lực lượng hòa bình, dân chủ và chủ nghĩa xã hội trên thế giới”.

4. Những bài học kinh nghiệm


- Kết hợp đúng đắn nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến. Nhiệm vụ chống phong kiến phải
tiến hành có kế hoạch, từng bước để vừa phát triển lực lượng cách mạng, vừa giữ vững khối đoàn kết
dân tộc.
- Xác định và quán triệt đường lối chiến tranh nhân dân: toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào sức
mình là chính. Đây là bí quyết thắng lợi của cuộc kháng chiến.
- Vừa kháng chiến, vừa xây dựng chế độ mới, xây dựng hậu phương vững mạnh để đẩy mạnh kháng
chiến.
- Kiên quyết kháng chiến lâu dài, đi từ chiến tranh du kích lên chiến tranh chính quy. Kết hợp chặt chẽ
giữa chiến tranh chính quy và chiến tranh du kích.
- Xây dựng Đảng vững mạnh và bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng, với đường lối chiến tranh
nhân dân đúng đắn, có chủ trương và chính sách kháng chiến ngày càng hoàn chỉnh, có ý chí quyết
chiến và quyết thắng kẻ thù. Có đội ngũ đảng viên dũng cảm, kiên cường, là những chiến sĩ tiên phong
trong chiến đấu và trong sản xuất.
60

CHỦ ĐỀ 18. PHÂN TÍCH ĐẶC ĐIỂM CỦA MIỀN BẮC KHI BƯỚC VÀO THỜI KỲ QUÁ ĐỘ
LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI.

1. Hoàn cảnh lịch sử

Tháng 09/1960, trong diễn văn khai mạc tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng họp tại
Thủ đô Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Đại hội lần này là Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc và đấu tranh hòa bình thống nhất nước nhà”. Để làm rõ quan điểm trên, chúng ta cùng tìm
hiểu đường lối cách mạng Việt Nam mà Đảng đề ra tại Đại hội III (9-1960). Đầu tiên, chúng ta cùng
xem lại sơ lược bối cảnh lịch sử của Đại hội III này.

Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam III diễn ra trong bối cảnh miền Bắc Việt Nam vừa hoàn thành khôi
phục kinh tế sau Kháng chiến chống Pháp và Cải cách ruộng đất cùng với Cải tạo công thương nghiệp;
trong khi ở miền Nam một phong trào chống chính quyền Ngô Đình Diệm và Mỹ đang diễn ra từ cuối
năm 1959 và trở thành Phong trào Đồng khởi từ đầu năm 1960

Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng Cộng sản Việt Nam diễn ra từ ngày 5 đến ngày 10-9-
1960 tại Hà Nội. Tham dự đại hội có tất cả 525 đại biểu chính thức và 51 đại biểu dự khuyết, thay mặt
cho 50.000 đảng viên của cả hai miền đất nước, cùng với sự có mặt của hơn 16 Đảng Cộng sản và các
tổ chức quốc tế khác

2. Đặc điểm:
- Thời kỳ 1954-1957:

Sau chín năm kháng chiến trường kỳ, gian khổ, miền Bắc bị chiến tranh tàn phá nặng nề: 14 vạn hécta
ruộng đất hoang hoá, các công trình thuỷ lợi lớn và vừa đều bị phá hỏng; để điều không được củng cố
trâu bò, công cụ sản xuất bị cướp liên tiếp làm mất mùa, gây đổi kém kéo dài từ vụ mùa năm 1954 đến
giữa năm 1955; công nghiệp đình đốn; giao thông hư hại nặng: buôn bản sút kém.... Đứng trước tình
hình đó, Hội nghị Bộ Chính trị tháng 9-1954 đã chỉ rõ công việc trước mắt là ổn định đời sống nhân
dân, chống chính sách cưỡng ép di cư vào Nam của địch, hàn gắn vết thương chiến tranh, phục hồi nền
kinh tế quốc dân. Trong đó, phục hồi và phát triển sản xuất nông nghiệp là vấn đề trọng tâm. Đây là
chủ trương đúng đắn của Đảng, có ý nghĩa lớn đối với việc cải thiện đời sống nhân dân, tạo tiền đề cho
công cuộc cải tạo nông nghiệp và xây dựng mô hình quản lý nông nghiệp phù hợp với tình hình đất
nước. Việc khôi phục kinh tế nông nghiệp có liên quan mật thiết với việc giải quyết vấn đề ruộng đất
nhằm giải phóng lực lượng sản xuất của hàng triệu nông dân, thực hiện khẩu hiệu "Người cày có
ruộng" đã được nêu lên trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng. Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban
Chấp hành Trung ương khóa II (5- 1955) nêu rõ chủ trương đề củng cố miền Bắc, trước hết cần phải
hoàn thành cải cách ruộng đất và coi đây là chính sách bất di bất dịch. Để đảm bảo cho công cuộc cải
cách ruộng đất giành được thắng lợi. Đảng xác định rõ phương pháp tiến hành là dựa hẳn vào bản cổ
nông, đoàn kết chặt chẽ với nông dân.

Việc khôi phục kinh tế nông nghiệp có liên quan mật thiết với việc giải quyết vấn đề ruộng đất nhằm
giải phóng lực lượng sản xuất của hàng triệu nông dân, thực hiện khẩu hiệu "Người cày có ruộng" đã
được nêu lên trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng. Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành
Trung ương khóa II (5- 1955) nêu rõ chủ trương: để củng cố miền Bắc, trước hết cần phải hoàn thành
cải cách ruộng đất và coi đây là chính sách bất di bất dịch. Để đảm bảo cho công cuộc cải cách ruộng
đất giành được thắng lợi, Đảng xác định rõ phương pháp tiến hành là: dựa hẳn vào bần cố nông, đoàn
kết chặt chẽ với trung nông, liên hiệp với phủ nông, đánh đổ giai cấp địa chủ, tiêu diệt chế độ phong
kiến từng bước. Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khẳng định: cải cách ruộng đất
61

quan hệ đến cùng cố miền Bắc, chẳng những đưa lại quyền làm chủ ruộng đất cho nông cuộc khối dân,
mà còn tạo điều kiện cho công cuộc khôi phục và phát triển sản xuất, củng cố quốc phòng, củng cố cơ
sở của Đảng và chính quyền ở nông thôn, củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất.

Tháng 12-1955, cải cách ruộng đất đợt 5 được triển khai ở 1,732 xã, với 6 triệu dân trong 20 tỉnh và 2
thành phố. Toàn đợt cải cách ruộng đất và giảm tổ (từ tháng 9- 1954 đến tháng 7-1956) đã đạt được kết
quả như sau:

+ Tiến hành 8 đợt giảm tô ở 1.777 xã với 1.106.995 ha ruộng đất; 5 đợt cải cách ruộng đất ở 3.653 xã
trên toàn vùng đồng bằng, trung du và 280 miền núi với 2435.518 nhân khẩu, can thiệp vào 1,5 triệu
hécta; đã tịch thu, trưng thu, trưng mua: 810.000 ha ruộng đất chia cho 22 triệu hộ nông dân gồm 9,5
triệu người (72.8% số hộ ở nông thôn được chia ruộng đất).

+ Hoàn thành việc xóa bỏ giai cấp địa chủ và quan hệ sản xuất phong kiến ở miền Bắc; nâng cao quyền
làm chủ cho nông dân ở nông thôn, giải phóng một bước sức sản xuất trong nông nghiệp, nông thôn.

Cùng với việc hoàn thành cải cách ruộng đất, Nhà nước đã ban hành các chính sách kinh tế quan trọng,
như: khuyến khích phát triển kinh tế hộ nông dân; bảo đảm quyền sử dụng ruộng đất của nông dân;
bảo vệ tài sản của các tầng lớp nhân dân, cho tự do vay mượn và thuê mướn nhân công; khuyến khích
các hình thức đổi công; sửa đổi chính sách thuế, nhằm giảm bớt sự đóng góp của nông dân, khối liên
minh công - nông được củng cố. Các lĩnh vực giáo dục, văn hoá, y tế phát triển nhanh. Sau ba năm đã
có hơn một triệu người thoát nạn mù chữ. Tổng số học sinh phổ thông lên tới trên 1 triệu. Số học sinh
trung học chuyên nghiệp là 7.783 người. Số sinh viên đại học lên tới 3.664 người, gấp hơn 6 lần số
sinh viên thời kỳ chiến tranh, gần 2.000 học sinh được gửi đi học tại các nước xã hội chủ nghĩa. Hệ
thống chính trị từ trung ương đến cơ sở được củng cố, phát huy tốt vai trò là nhân tố quyết định bảo
đảm phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong công cuộc khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương
chiến tranh. Chính quyền cách mạng đập tan mọi hành động chống phá của bọn phản động đội lốt tôn
giáo (Quỳnh Lưu, Nghệ An), các vụ xúi giục dân tộc thiểu số ở một số tỉnh miền núi phía Bắc, đặc biệt
là nhóm "Nhân văn giai phẩm" (1956).

+ Thời kỳ 1958 – 1960 : Cải tạo xã hội chủ nghĩa, bước đầu phát triển kinh tế và văn hóa Hội nghị lần
thứ 14 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá II) tháng 11-1958 đã xác định: Nhiệm vụ chung của
toàn Đảng, toàn dân ta là ra sức củng cố miền Bắc, đưa miền Bắc tiến dần lên chủ nghĩa xã hội, đồng
thời kiến quyết đấu tranh chống Mỹ - Diệm nhằm thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và
dân chủ. Nhiệm vụ trước mắt của miền Bắc là đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với thành phần
kinh tế cả thể của nông dân, thợ thủ công và thành phần kinh tế tư bản tư doanh; đồng thời ra sức phát
triển thành phần kinh tế quốc doanh, làm cho thành phần kinh tế này giữ vai trò nền tảng của nền kinh
tế quốc dân. Tiếp đó, Hội nghị lần thứ 16 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (4-1959) đã xác định
những vấn đề cơ bản của đường lối, chính sách hợp tác hoá nông nghiệp. Hội nghị khẳng định chỉ có
đi vào con đường hợp tác hoá, làm ăn tập thể mới khắc phục được những khó khăn trong sản xuất, cải
thiện đời sống. Phương châm tiến hành hợp tác hóa là: “tích cực lãnh đạo, vững bước tiến lên; quy
hoạch về mọi mặt, sát với từng vùng; làm tốt, vùng và gọn" Hình thức, bước đi, tốc độ của quá trình
tốt về tư tưởng,..

Về cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với thợ thủ công và những người buôn bán nhỏ: đến cuối năm 1960 đã
có 88% thợ thủ công miền Bắc gia nhập các hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp bậc thấp và bậc cao 45%
người buôn bán nhỏ được tổ chức vào hợp tác xã mua bán, gần 5 vạn người được chuyển sang sản
xuất. Sau hợp tác hoa. thủ công nghiệp dần dần kết hợp với công nghiệp quốc doanh địa phương, phát
huy tác dụng hỗ trợ cho công nghiệp quốc doanh trung ương phục vụ sản xuất, đời sống nhân dân và
62

xuất khẩu. Khuyết điểm của công tác cải tạo thợ thủ công và người buôn bán nhỏ là tư tưởng nóng vội,
mệnh lệnh, gò ép, không tính đến yêu cầu xã hội và hiệu quả thực tế. Vì những điều kiện cho sự ra đời
và tồn tại của các hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp và mua bán chưa hình thành nên không ít hợp tác xã
làm ăn thua lỗ, thậm chí tan rã. Việc cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh được tiến hành bằng
phương pháp hoà bình với phương châm: tốt, vững, gọn. Đảng chủ trương chuộc lại những tư liệu sản
xuất của giai cấp tư sản theo phương thức "trả dần", đồng thời sắp xếp công ăn việc làm hợp lý cho các
nhà tư sản và gia đình họ. Chính sách này về cơ bản được giai cấp tư sản hưởng ứng. Đến tháng 11-
1960, đã cải tạo được 2097 cơ sở thương nghiệp tư bản tư doanh với tổng số vốn là 25 triệu đồng.
Song, việc sớm xoá bỏ nền kinh tế nhiều thành phần và "trong sản xuất kinh doanh không áp dụng
những quy luật của sản xuất hàng hoá, đã tác động tiêu cực không ít đến đời sống kinh tế, hạn chế việc
phát triển lực lượng sản xuất Cùng với nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa, Nhà nước tăng cường đầu tư
xây dựng. một bước cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Từ năm 1958 đến năm 1960, đã
xây dựng 130 công trình công nghiệp trên hạn ngạch như: khu gang thép Thái Nguyên, nhà máy Súppe
phốt phát Lâm Thao... với tổng số vốn là 3.481 triệu đồng và đã đưa được 86 nhà máy, xí nghiệp vào
sản xuất.

CHỦ ĐỀ 19. PHÂN TÍCH TÍNH CHẤT CỦA XÃ HỘI MIỀN NAM SAU NĂM 1954 VÀ NỘI
DUNG CƠ BẢN NGHỊ QUYẾT 15 THÁNG 1/1959. Ý NGHĨA CỦA NGHỊ QUYẾT NÀY VỚI
CÁCH MẠNG MIỀN NAM.

1. Hoàn cảnh LS, tính chất của xã hội miền Nam sau năm 1954

- Về hoàn cảnh lịch sử:

+ Giữa tháng 5/1956, Pháp rút quân khỏi miền Nam Việt Nam khi chưa thực hiện cuộc hiệp
thương tổng tuyển cử thống nhất hai miền Nam - Bắc theo điều khoản của Hiệp định Giơ-
ne-vơ.

+ Mỹ - Diệm thi hành chính sách tàn bạo, phát xít hoá đàn áp phong trào cách mạng. Phong
trào đấu tranh cách mạng của nhân dân có nhiều chuyển biến mới, Đảng ta không thể chờ
đợi thêm nữa, mà cần có quyết định mới, dứt khoát, mặc dù xu hướng hoà hoãn do đánh giá
quá cao lực lượng của đế quốc Mỹ trong các nước xã hội chủ nghĩa và phong trào cộng sản
quốc tế lúc đó đang là một trở lực lớn đối với cuộc vận động cách mạng ở miền Nam nước
ta.

- Về tính chất của xã hội miền Nam: Mĩ đã thay chân Pháp, đưa Ngô Đình Diệm lên nắm
chính quyền hòng biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ để
tiến công miền Bắc, đẩy lùi XHCN ở đây, sau đó bao vây và uy hiếp các nước XHCN khác.

→ Với âm mưu của đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm, nước ta tạm thời bị chia cắt
làm 2 miền.

2. Nội dung cơ bản Nghị quyết 15 tháng 01/1959

- Về mâu thuẫn xã hội: Trên cơ sở phân tích đặc điểm tình hình cách mạng ở miền Nam có hai
mâu thuẫn cơ bản: mâu thuẫn giữa nhân dân ta với bọn đế quốc Mỹ xâm lược và tập đoàn tay sai
Ngô Đình Diệm và mâu thuẫn giữa nhân dân ,trước hết là nông dân với địa chủ phong kiến .
63

- Về lực lượng tham gia cách mạng: Nghị quyết xác định gồm giai cấp công nhân , nông dân,
tư sản dân tộc và tiểu tư sản lấy liên minh công-nông làm cơ sở.

- Về đối tượng của cách mạng: Đế quốc Mỹ, tư sản mại bản, địa chủ phong kiến và tay sai của
đế quốc Mỹ.

- Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam: là giải phóng miền Nam thoát khỏi ách thống trị
của đế quốc và phong kiến , thực hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng, xây dựng một nước
Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh. Nhưng trên con đường dài thực
hiện nhiệm vụ cơ bản ấy, cách mạng miền Nam phải đi từng bước từ thấp đến cao.

- Nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam: là đoàn kết toàn dân đánh đổ tập đoàn thống
trị độc tài Ngô Đình Diệm, thành lập chính quyền liên hiệp dân tộc , dân chủ ở miền Nam, thực
hiện độc lập dân tộc và các quyền tự do dân chủ, cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện thống nhất
nước nhà; tích cực góp phần bảo vệ hoà bình ở Đông Nam Á và thế giới.

- Nghị quyết nhấn mạnh: Con đường phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền Nam
là con đường cách mạng bạo lực, giành chính quyền về tay nhân dân. Theo tình hình cụ thể và yêu
cầu hiện nay của cách mạng thì con đường đó là lấy sức mạnh của quần chúng, dựa vào lực lượng
chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang để đánh đổ chính quyền thống
trị của đế quốc và phong kiến, dựng lên cơ quan cách mạng của nhân dân.

- Về khả năng phát triển của tình hình sau những cuộc khởi nghĩa của quần chúng: Hội nghị dự
kiến: đế quốc Mỹ là tên đế quốc hiếu chiến nhất, cho nên những điều kiện nào đó, cuộc khởi nghĩa
của nhân dân miền Nam có khả năng chuyển thành cuộc đấu tranh vũ trang trường kỳ. Trong tình
hình đó, cuộc đấu tranh sẽ chuyển sang cục diện mới là: chiến tranh trường kỳ giữa ta và địch, và
thắng lợi cuối cùng nhất định về ta.

3. Ý nghĩa của Nghị quyết 15 (tháng 01/1959) với cách mạng miền Nam

Nghị quyết nêu rõ cần tăng cường công tác mặt trận để mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân,
củng cố, xây dựng Đảng bộ miền Nam vững mạnh đủ sức lãnh đạo cách mạng đến thắng lợi. Sự ra đời
của Nghị quyết 15 có ý nghĩa vô cùng to lớn, đáp ứng đúng yêu cầu của lịch sử, mở đường cho cách
mạng miền Nam tiến lên.

- Tăng cường sự thống nhất và tổ chức của phong trào cách mạng: Nghị quyết 15 đóng vai trò
quan trọng trong việc thống nhất các lực lượng cách mạng và đẩy mạnh sự tổ chức và nhất quán
trong cuộc chiến chống lại chính quyền miền Nam và sự can thiệp của Mỹ.

- Tạo đà phát triển và nâng cao ý thức cách mạng: Nghị quyết này đã thức tỉnh và khích lệ
người dân miền Nam tham gia vào cuộc chiến và tăng cường lòng yêu nước và tinh thần đấu tranh.

- Tạo đà cho sự phát triển của phong trào cách mạng: Nghị quyết định hướng và định rõ chiến
lược cách mạng miền Nam, góp phần quan trọng vào sự thành công của cuộc chiến chống lại chính
quyền miền Nam và Mỹ.

Tóm lại:
64

- Tư tưởng chỉ đạo cực kỳ quan trọng để chuyển cách mạng miền Nam sang bước chuyển biến
mới có tính nhảy vọt được đề ra trong Nghị quyết có tính lịch sử này là nhân dân miền Nam phải
dùng con đường cách mạng bạo lực để tự giải phóng mình, ngoài ra không còn có con đường nào
khác.

- Nghị quyết đã đánh dấu bước trưởng thành của Đảng ta, thể hiện sâu sắc tinh thần độc lập tự
chủ, sáng tạo trong đánh giá lực lượng, trong vận dụng lý luận Mác-Lênin vào cách mạng miền
Nam. Nghị quyết đã xoay chuyển tình thế, đáp ứng nhu cầu bức xúc của quần chúng dẫn đến cao
trào Đồng Khởi oanh liệt năm 1960, mở đường cho cách mạng miền Nam vượt qua thử thách để
tiến lên.

CHỦ ĐỀ 20. PHÂN TÍCH NỘI DUNG CƠ BẢN ĐƯỜNG LỐI CHIẾN LƯỢC CHUNG CỦA
CÁCH MẠNG VIỆT NAM ĐƯỢC ĐẠI HỘI III (9-1960) CỦA ĐẢNG VẠCH RA.

1. Hoàn cảnh Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (9/1960)
Tình hình thế giới:
● Hệ thống XHCN tiếp tục lớn mạnh cả về kinh tế, quân sự, khoa học – kĩ thuật, nhất là của Liên
Xô.
● Phong trào giải phóng dân tộc tiếp tục phát triển ở châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ Latinh;
phong trào hòa bình, dân chủ lên cao ở các nước tư bản CN.
● Đế quốc Mỹ có tiềm lực kinh tế, quân sự hùng mạnh, âm mưu bá chủ thế giới với các chiến
lược toàn cầu phản cách mạng.
● Thế giới bước vào thời kỳ chiến tranh lạnh, chạy đua vũ trang giữa hai phe XHCN và Tư bản
CN.

Tình hình trong nước:


● Đế quốc Mỹ trắng trợn phá hoại việc thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ, nhảy vào miền Nam nước
ta nhằm chia cắt lâu dài đất nước ta. Đất nước ta bị chia làm 2 miền với 2 chế độ chính trị khác
nhau, với những nhiệm vụ khác nhau - đây là hoàn cảnh quan trọng nhất.
● Miền Bắc vừa hoàn thành khôi phục kinh tế sau kháng chiến chống Pháp: cải cách ruộng đất
cùng với cải cách công thương nghiệp, đã đạt được những thành tựu quan trọng
● Miền Nam: cuộc đấu tranh chống Mỹ - Diệm đã giành được thắng lợi có ý nghĩa chiến lược
trong phong trào "Đồng khởi" (1959 - 1960), làm lung lay chế độ ngụy quyền Sài Gòn. Phong
trào cũng đánh dấu bước phát triển nhảy vọt của cách mạng miền Nam, chuyển cách mạng từ
thế giữ gìn lực lượng chuyển sang thế tiến công.

=> Trong hoàn cảnh đó, tháng 9-1960, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng họp tại
Thủ đô Hà Nội.

2. Nội dung Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (tháng 9-1960)

Trong diễn văn khai mạc, Hồ Chí Minh nêu rõ “Đại hội lần này là Đại hội xây dựng CNXH ở miền
Bắc và đấu tranh hòa bình thống nhất nước nhà”. Đại hội đã thảo luận và thông qua Báo cáo chính trị
của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và thông qua Nghị quyết về Nhiệm vụ và đường lối của Đảng
trong giai đoạn mới, thông qua Báo cáo về xây dựng Đảng và báo cáo về Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc,... với các nội dung sau:
65

● Về đường lối chung của cách mạng Việt Nam, Đại hội xác định nhiệm vụ của cách mạng Việt
Nam trong giai đoạn mới là phải thực hiện đồng thời hai chiến lược cách mạng khác nhau ở hai
miền:

· Một là, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.
· Hai là, tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện
thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước.
● Về mục tiêu chiến lược chung, là giải phóng miền Nam, hòa bình, thống nhất đất nước.
● Về vị trí, vai trò, nhiệm vụ cụ thể của từng chiến lược cách mạng ở mỗi miền:

· Miền Bắc: có nhiệm vụ xây dựng tiềm lực và bảo vệ căn cứ địa của cả nước, hậu
thuẫn cho cách mạng miền Nam, chuẩn bị cho cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội về
sau, nên giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng Việt
Nam và đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà.
· Miền Nam: giữ vai trò quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền
Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, thực hiện hòa bình thống
nhất nước nhà, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước
● Về hòa bình thống nhất Tổ quốc, Đại hội chủ trương (hay phương châm) kiên quyết giữ vững
đường lối hòa bình để thống nhất nước nhà. Song ta phải luôn luôn đề cao cảnh giác, chuẩn bị
sẵn sàng đối phó với mọi tình thế. Nếu đế quốc Mỹ và bọn tay sai liều lĩnh gây ra chiến tranh
hòng xâm lược miền Bắc, thì nhân dân cả nước ta sẽ kiên quyết đứng lên đánh bại chúng, hoàn
thành độc lập và thống nhất Tổ quốc.
● Về triển vọng của cách mạng, Đại hội nhận định cuộc đấu tranh nhằm thực hiện thống nhất
nước nhà là nhiệm vụ thiêng liêng của nhân dân cả nước ta. Đó là một quá trình đấu tranh cách
mạng gay go, gian khổ, phức tạp và lâu dài chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai của chúng ở
miền Nam. Thắng lợi cuối cùng nhất định thuộc về nhân dân ta, Nam Bắc nhất định sum họp
một nhà.
● Về xây dựng chủ nghĩa xã hội, xuất phát từ đặc điểm của miền Bắc, trong đó, đặc điểm lớn nhất
là từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không trải qua giai
đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, Đại hội xác định rằng, cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
miền Bắc là một quá trình cải biến cách mạng về mọi mặt. Đó là quá trình đấu tranh gay go
giữa hai con đường, con đường xã hội chủ nghĩa và con đường tư bản chủ nghĩa trên tất cả các
lĩnh vực kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa và kỹ thuật nhằm đưa miền Bắc từ một nền kinh tế
chủ yếu dựa trên sở hữu cá thể về tư liệu sản xuất tiến lên nền kinh tế xã hội chủ nghĩa dựa trên
sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, từ nền sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.

Để thực hiện xây dựng chiến lược này, Nghị quyết Đại hội đã xác định: cải tạo xã hội chủ
nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội là hai mặt của cách mạng xã hội chủ nghĩa, cải tạo xã hội
chủ nghĩa là một nhiệm vụ cơ bản. Công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm
trong suốt thời kỳ quá độ nhằm xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Cùng
với việc phát triển kinh tế, Nghị quyết Đại hội còn đề cập đến việc phát triển văn hóa, giáo dục,
khoa học- kỹ thuật: xây dựng nhà nước dân chủ nhân dân: tăng cường đoàn kết quốc tế, vấn đề
Đảng và công tác tổ chức cán bộ của Đảng.

3. Ý nghĩa lịch sử của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (tháng 9/1960):
66

1. Hoàn chỉnh đường lối chiến lược chung của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới,
đường lối tiến hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ hai chiến lược cách mạng khác nhau ở
hai miền: cách mạng XHCN ở miền Bắc và cách mạng dân chủ nhân dân ở miền Nam.
Đường lối cách mạng do Đại hội vạch ra là ngọn đèn pha sáng ngời chiếu rọi con đường
của nhân dân ta tiến tới chủ nghĩa xã hội, tiến tới thống nhất nước nhà, tiến tới một nước
Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh.
2. Đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH vừa phù hợp với miền Bắc, vừa
phù hợp với miền Nam, vừa phù hợp với cả nước Việt Nam vừa phù hợp với tình hình quốc
tế. Thể hiện sự độc lập, tự chủ, sáng tạo của của Đảng trong việc xử lý những vấn đề không
có tiền lệ lịch sử, vừa đúng với thực tiễn, vừa hợp với lợi ích của nhân loại và xu thế của
thời đại.
3. Nhờ vào việc nắm vững đường lối này mà Đảng đã phát huy được sức mạnh cả nước trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ.
4. Việc tiến hành đồng thời 2 cuộc cách mạng là sự vận dụng đúng đắn và sáng tạo lý luận chủ
nghĩa Mác- Lênin trong điều kiện cụ thể ở Việt Nam.

CHỦ ĐỀ 21. PHÂN TÍCH NỘI DUNG CƠ BẢN ĐƯỜNG LỐI CHUNG XÂY DỰNG CNXH
TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ Ở MIỀN BẮC ĐƯỢC ĐẠI HỘI III (9/1960) CỦA ĐẢNG VẠCH
RA.

1. Hoàn cảnh đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III tháng 9 năm 1960

Tháng 09/1960, trong diễn văn khai mạc tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng họp tại
Thủ đô Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Đại hội lần này là Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc và đấu tranh hòa bình thống nhất nước nhà”. Để làm rõ quan điểm trên, chúng ta cùng tìm
hiểu đường lối cách mạng Việt Nam mà Đảng đề ra tại Đại hội III (9-1960). Đầu tiên, chúng ta cùng
xem lại sơ lược bối cảnh lịch sử của Đại hội III này.
Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam III diễn ra trong bối cảnh miền Bắc Việt Nam vừa hoàn thành khôi
phục kinh tế sau Kháng chiến chống Pháp và Cải cách ruộng đất cùng với Cải tạo công thương nghiệp;
trong khi ở miền Nam một phong trào chống chính quyền Ngô Đình Diệm và Mỹ đang diễn ra từ cuối
năm 1959 và trở thành Phong trào Đồng khởi từ đầu năm 1960.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng Cộng sản Việt Nam diễn ra từ ngày 5 đến ngày 10-9-
1960 tại Hà Nội.

2. Nội dung cơ bản đường lối chung xây dựng CNXH trong thời kỳ quá độ ở miền Bắc được
Đại hội III (9/1960) của Đảng vạch ra.

* Nhiệm vụ chung:
Một là tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh giữ vững hòa bình, đẩy mạnh CMXHCN ở
miền Bắc.
Hai là đẩy mạnh CM dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà, trên cơ sở
độc lập và dân chủ, xây dựng một nước VN hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, thiết
thực góp phần tăng cường phe XHCN và bảo vệ hòa bình ở Đông Nam Á và TG.
*Nhiệm vụ xây dựng CNXH ở miền Bắc:

- Chuyển hướng xây dựng kinh tế, bảo đảm tiếp tục xây dựng miền Bắc vững mạnh về kinh tế
và quốc phòng trong điều kiện có chiến tranh, tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến
67

tranh phá hoại của đế quốc Mỹ để bảo vệ vững chắc miền Bắc xã hội chủ nghĩa, động viên sức
người, sức của ở mức cao nhất để chi viện cho cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam, đồng
thời tích cực chuẩn bị đề phòng để đánh bại địch trong trường hợp chúng liều lĩnh mở rộng
“Chiến tranh cục bộ” ra cả nước.
- Đại hội xác định đặc điểm chi phối toàn bộ cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là đất
nước ta còn tạm thời bị chia làm hai miền. Vì vậy, sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
miền Bắc trước hết phải nhằm mục tiêu biến miền Bắc thành căn cứ địa vững chắc cho cách
mạng cả nước, hậu thuẫn cho sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà. Nhận thức
rõ xuất phát điểm thấp của miền Bắc, Đại hội xác định cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa của
miền Bắc là một quá trình cải biến về mọi mặt. Đó là quá trình đấu tranh gay go giữa hai con
đường: xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, tư tưởng,
văn hoá. Trong đó, trọng tâm là đưa miền Bắc từ một nền kinh tế chủ yếu dựa trên chế độ sở
hữu cá thể về tư liệu sản xuất tiến lên nền kinh tế xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ sở hữu toàn
dân và tập thể, từ nền sản xuất nhỏ tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Cải tạo xã hội chủ
nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội về kinh tế được xem là hai mặt của cuộc cách mạng xã hội
chủ nghĩa về quan hệ sản xuất. Hai mặt này có quan hệ tác động qua lại và thúc đẩy lẫn nhau
cùng phát triển, trong đó cải tạo xã hội chủ nghĩa cần đi trước một bước để mở đường.
- Đại hội đã xác định; muốn cải biến tình trạng kinh tế lạc hậu của nước ta thì không có con
đường nào khác ngoài con đường công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa. Công nghiệp hoá xã hội
chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, nhằm
xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.
- Đồng thời với cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa về kinh tế, phải tiến hành cuộc cách mạng xã
hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng văn hoá, nhằm thay đổi căn bản đời sống tư tưởng, tinh
thần và văn hoá của xã hội, phù hợp với chế độ xã hội chủ nghĩa.

=> Từ sự phân tích đó, Đại hội đã xác định đường lối chung của Đảng trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc là “đoàn kết toàn dân, phát huy truyền thống yêu nước, lao động cần cù của
nhân dân ta và đoàn kết với các nước xã hội chủ nghĩa, đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững
chắc lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng đời sống ấm no, hạnh phúc ở miền Bắc và củng cố miền Bắc trở
thành cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà”.

3. Ý nghĩa
- Đánh dấu bước phát triển trong quá trình xác định đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa
ở miền Bắc và đường lối đấu tranh thống nhất đất nước.

Đó là tiến hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ hai chiến lược cách mạng khác nhau ở hai miền:
cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam,
nhằm thực hiện mục tiêu chung trước mắt của cả nước là giải phóng miền Nam, hòa bình,
thống nhất Tổ quốc.

- Là cơ sở cho toàn dân đoàn kết chặt chẽ thành một khối thống nhất.
- Là “nguồn ánh sáng mới, lực lượng mới cho toàn Đảng, toàn dân ta xây dựng thắng lợi
chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hòa bình thống nhất nước nhà.”

+ Thành công cơ bản, to lớn nhất của Đại hội lần thứ III của Đảng là đã hoàn chỉnh đường lối
chiến lược chung của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới,đường lối tiến hành đồng thời
và kết hợp chặt chẽ hai chiến lược cách mạng khác nhau ở hai miền: cách mạng xã hội chủ
68

nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, nhằm thực hiện mục
tiêu chung trước mắt của cả nước là giải phóng miền Nam, hòa bình thống nhất Tổ quốc.
+ Đó chính là đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vừa phù hợp
với miền Bắc vừa phù hợp với miền Nam, vừa phù hợp với cả nước Việt Nam vừa phù hợp với
tình hình quốc tế, do đó tạo ra được sức mạnh tổng hợp để dân tộc ta đủ sức đánh thắng đế
quốc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
+ Đường lối chung của Đảng còn là sự thể hiện tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng
trong việc giải quyết những vấn đề không có tiền lệ lịch sử, vừa đúng với thực tiễn Việt Nam
vừa phù hợp với lợi ích của nhân loại và xu thế thời đại.

CHỦ ĐỀ 22. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ NỘI DUNG ĐƯỜNG LỐI
KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC. (CHỈ LÀM GIAI ĐOẠN 1965-1975)

- Phân tích qua Hội nghị Trung ương lần thứ 11 (3/1965) và Hội Nghị Trung ương lần thứ 12
(12/1965)

HỘI NGHỊ TRUNG ƯƠNG LẦN THỨ 11 (3/1965)

Nghị quyết bàn về việc chuyển hướng nền kinh tế và tăng cường lực lượng quốc phòng cho kịp với sự
phát triển của tình hình. Hội nghị nhấn mạnh “Nhiệm vụ xây dựng kinh tế phải phù hợp với tình hình
cả nước đang có chiến tranh với đế quốc Mỹ, mà trong cuộc chiến tranh ấy miền Nam là tiền tuyến lớn
và miền Bắc là hậu phương lớn, nhưng hậu phương ấy cũng đang có chiến tranh hạn chế và đang trực
tiếp chiến đấu; phải sẵn sàng chuyển cho kịp một khi tình hình chiến sự phát triển.”... “việc chuyển
hướng là nhằm làm cho việc xây dựng và phát triển kinh tế, mặt khác, vẫn phù hợp với phương hướng
về lâu dài của công cuộc công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa và chú ý đúng mức các yêu cầu về đời sống
của nhân dân.”

Về nông nghiệp: hội nghị đặt ra yêu cầu phải tích cực đẩy mạnh phát triển nông nghiệp, đặc biệt
(phải phát triển nhanh chóng nông nghiệp) ở trung du và miền núi.Trong nông nghiệp có các phong
trào như chắc tay súng vững tay cày, tất cả cho tiền tuyến tất cả để đánh thắng, thóc không thiếu một
cân,..thực hiện thâm canh tăng vụ, có những cách đồng đạt sản lượng 5 tấn/hécta. Nhiều cánh đồng
làm thêm vụ đông xuân.. đẩy mạnh chăn nuôi đảm bảo nhu cầu về thực phẩm cho nhân dân.Tập thể
hóa trong nông nghiệp được đẩy mạnh với mô hình hợp tác xã.Có thể nói sự thành công của cuộc
chiến đấu có sự đóng góp không nhỏ của các hợp tác xã.

Về công nghiệp: hội nghị cho rằng phải chú trọng phát triển công nghiệp địa phương và thủ công
nghiệp mạnh hơn, chú trọng hơn nữa việc xây dựng những xí nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ, “tích
cực bảo vệ những xí nghiệp quan trọng và nếu cần thì phải dời địa điểm một số xí nghiệp, ra sức phát
triển giao thông và bưu điện. Đẩy mạnh “công tác nghiên cứu khoa học kỹ thuật, đào tạo cán bộ và
điều tra cơ bản, thăm dò tài nguyên. Căn cứ theo những phương hướng mới ấy mà tận dụng khả năng
sử dụng tài nguyên và sức lao động, ra sức phát triển sản xuất và tăng năng suất lao động. Tăng cường
động viên nhân, tài, vật lực của nhân dân phục vụ cho chiến tranh. Ra sức thực hành tiết kiệm, tăng
cường dự trữ vật tư của Nhà nước và của nhân dân. Bảo đảm đời sống của nhân dân.”

Bên cạnh việc chuyển hướng về kinh tế hội nghị cũng nhấn mạnh về mặt quốc phòng: Ra sức tăng
cường công tác phòng thủ, trị an bảo vệ miền Bắc; ra sức chi viện cho miền Nam; tích cực giúp đỡ
cách mạng Lào.
69

HỘI NGHỊ TRUNG ƯƠNG LẦN THỨ 12 (12/1965)

1. Hoàn cảnh lịch sử: Tính đến cuối năm 1965, hàng chục vạn quân viễn chinh Mỹ và chư hầu đã
vào miền Nam Việt Nam thực hiện cuộc "chiến tranh cục bộ". Để ngăn chặn hành động leo
thang chiến tranh của Mỹ, tháng 12-1965, Trung ương Đảng đã tổ chức Hội nghị lần thứ 12 xác
định phương châm tác chiến chiến lược, quyết tâm đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế
quốc Mỹ.
2. Nội dung: Đảng đã nhận định rõ tình hình và đề ra nhiệm vụ mới để lãnh đạo toàn dân ta đánh
thắng giặc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam thống nhất nước nhà
- Mục tiêu: chống Mỹ cứu nước là nhiệm vụ thiêng liêng của cả dân tộc do vậy chúng ta phải
quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ bằng bất cứ giá nào để bảo vệ hòa bình, giải phóng miền Nam
hoàn thành cuộc cách mạng Dân tộc Dân chủ Nhân dân và thực hiện hòa bình, thống nhất nước
nhà.
- Phương châm: Ra sức hạn chế cuộc chiến tranh của địch và đánh thắng địch trong cuộc chiến
tranh hạn chế đó, gây cho chúng nhiều tổn thất nặng nề, đẩy chúng ngày càng bị sa lầy thì ta
nhất định giành thắng lợi quyết định ở miền Nam
- Phương thức đấu tranh: là đánh lâu dài, dựa vào sức mình là chính, đồng thời phải tranh thủ sự
ủng hộ của quốc tế, kết hợp vừa đánh, vừa đấu tranh chính trị và ngoại giao. Kết hợp đấu tranh
vũ trang với đấu tranh chính trị nhưng đấu tranh vũ trang sẽ có tầm quan trọng và quyết định.
Triệt để thực hiện 3 mũi giáp công quân sự, chính trị, binh vận.
- Tư tưởng chỉ đạo chiến lược là: Giữ vững và phát triển thế tiến công, liên tục tiến công
- Khẩu hiệu đấu tranh là: “Tất cả để đánh thắng Mỹ xâm lược, hễ còn một tên giặc Mỹ xâm lược
lược trên đất nước ta thì ta phải quét sạch nó đi”

Đường lối kháng chiến chống Mỹ cứu nước của Đảng tại Hội nghị Trung ương lần thứ 11 và 12
của Đảng năm 1965 có ý nghĩa hết sức quan trọng:

+ Thể hiện tư tưởng nắm vững, giương cao hai ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,tiếp tục
tiến hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ hai chiến lược cách mạng trong hoàn cảnh cả nước có chiến
tranh ở mức độ khác nhau, phù hợp với thực tế đất nước và bối cảnh quốc tế.

+ Tiếp tục tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng của Đảng và khẳng định quyết tâm đánh
thắng giặc Mỹ xâm lược, tinh thần cách mạng tiến công, tinh thần độc lập tự chủ, sự kiên trì mục tiêu
giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, phản ánh đúng đắn ý chí, nguyện vọng chung của toàn
Đảng, toàn quân, toàn dân ta.

+ Đó là đường lối chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính trong
hoàn cảnh mới, là cơ sở để Đảng lãnh đạo kháng chiến chống Mỹ cứu nước đi đến thắng lợi.

Đường lối chống Mỹ, cứu nước trên phạm vi cả nước của Hội nghị Trung ương làn thứ 11 và 12 đã
được Đảng bổ sung, phát triển qua thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo cuộc kháng chiến chống thực dân đế
quốc.

Tóm lại: Đảng ta đã thể hiện tầm nhìn có tính nguyên tắc, sáng tạo trong việc giải quyết các vấn đề cơ
bản của cách mạng Việt Nam, đồng thời khẳng định và kiên định học tập theo chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, phấn đấu đi theo con đường xã hội chủ nghĩa. Những thành tựu và đường lối
đổi mới đó là bài học và kinh nghiệm quý báu góp phần vào kho tàng lý luận về xây dựng chủ nghĩa xã
hội của những người cộng sản trên thế giới.
70

1. Hội nghị Trung ương lần thứ 11 (3/1965)

1.1. Hoàn cảnh:

- Trước nguy cơ thất bại của chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, chính quyền tổng thống
Mỹ Giôn Xơn quyết định tiến hành chiến lược “Chiến tranh cục bộ” nhằm đưa quân chiến
đấu Mỹ và quân các nước đồng minh của Mỹ vào trực tiếp tham chiến, đóng vai trò chủ yếu
trên chiến trường miền Nam; quân đội Sài Gòn hỗ trợ quân đội Mỹ và thực hiện bình định.

- Ngày 8-3-1965, quân Mỹ đổ bộ vào Đà Nẵng trực tiếp tham chiến ở miền nam Việt Nam.

- Đồng thời, Mỹ mở rộng chiến tranh bằng không quân, hải quân đánh phá Miền Bắc Việt
Nam nhằm làm suy yếu và ngăn sự chi viện của miền Bắc cho cách mạng miền Nam.

Trước tình hình đó, trung ương Đảng họp hội nghị lần thứ 11 (3/1965) ra nghị quyết về tình
hình và nhiệm vụ cấp bách trước mắt.

1.2. Nội dung:

Nội dung đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trong giai đoạn mới là sự kế thừa và phát triển
đường lối chiến lược chung do Đại hội lần thứ III(1960) đề ra, gồm các nội dung lớn:

a) Quyết tâm chiến lược: Hội nghị đưa ra nhận định đối với hành động mới của Mỹ, Mỹ sẽ
đưa thêm nhiều đơn vị chiến đấu của Mỹ và một số nước chư hầu vào miền Nam Việt Nam,
điều đó làm tính chất “đặc biệt” của cuộc chiến tranh của chúng ở miền Nam từng bước có
thể biến đổi. Do đó, Đảng, toàn dân và quân ta cần tích cực kiềm chế và thắng địch trong
cuộc chiến tranh đặc biệt ở mức cao nhất ở miền Nam, ra sức tranh thủ thời cơ, tập trung
lực lượng cả nước giành thắng lợi quyết định ở miền Nam trong thời gian ngắn.

b) Mục tiêu chiến lược: Kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ
trong bất kỳ tình huống nào, nhằm bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, hoàn thành
cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, tiến tới thực hiện hòa bình thống
nhất nước nhà.

c) Phương châm chiến lược: Đánh lâu dài, dựa vào sức mình là chính, càng đánh càng mạnh;
cần phải cố gắng mức độ cao, tập trung lực lượng của cả hai miền để mở những cuộc tiến
công lớn, tranh thủ thời cơ giành thắng lợi quyết định trong thời gian tương đối ngắn trên
chiến trường miền Nam.

d) Tư tưởng chỉ đạo đối với miền Nam: Giữ vững và phát triển thế tiến công, kiên quyết tiến
công và liên tục tiến công. Tiếp tục kiên trì phương châm kết hợp đấu tranh quân sự với
chính trị, triệt để thực hiện ba mũi giáp công, đánh địch trên cả ba vùng chiến lược. Trong
đó, nhấn mạnh đấu tranh quân sự có tác dụng quyết định trực tiếp, quan trọng.

e) Tư tưởng chỉ đạo đối với miền Bắc:

- Chuyển hướng xây dựng kinh tế, bảo đảm tiếp tục xây dựng miền Bắc vững mạnh về
kinh tế và quốc phòng trong điều kiện có chiến tranh:
71

+ Chuyển hướng về kinh tế: Hội nghị nhấn mạnh: “Nhiệm vụ xây dựng kinh tế phải phù
hợp với tình hình cả nước đang có chiến tranh với đế quốc Mỹ, mà trong cuộc chiến
tranh ấy miền Nam là tiền tuyến lớn và miền Bắc là hậu phương lớn, nhưng hậu phương
ấy cũng đang có chiến tranh hạn chế và đang trực tiếp chiến đấu; phải sẵn sàng chuyển
cho kịp một khi tình hình chiến sự phát triển”...“việc chuyển hướng là nhằm làm cho
việc xây dựng và phát triển kinh tế, mặt khác, vẫn phù hợp với phương hướng về lâu dài
của công cuộc công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa và chú ý đúng mức các yêu cầu về đời
sống của nhân dân”

● Về nông nghiệp: hội nghị đặt ra yêu cầu phải tích cực đẩy mạnh phát triển nông
nghiệp, đặc biệt phải phát triển nhanh chóng nông nghiệp ở trung du và miền
núi.Trong nông nghiệp có các phong trào như chắc tay súng vững tay cày, tất cả
cho tiền tuyến tất cả để đánh thắng, thóc không thiếu một cân,..thực hiện thâm canh
tăng vụ. Tập thể hóa trong nông nghiệp được đẩy mạnh với mô hình hợp tác xã. Có
thể nói sự thành công của cuộc chiến đấu có sự đóng góp không nhỏ của các hợp
tác xã.

● Về công nghiệp: hội nghị cho rằng phải chú trọng phát triển công nghiệp địa
phương và thủ công nghiệp mạnh hơn, chú trọng hơn nữa việc xây dựng những xí
nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ, “tích cực bảo vệ những xí nghiệp quan trọng và
nếu cần thì phải dời địa điểm một số xí nghiệp, ra sức phát triển giao thông và bưu
điện. Đẩy mạnh “công tác nghiên cứu khoa học kỹ thuật, đào tạo cán bộ và điều tra
cơ bản, thăm dò tài nguyên”. Căn cứ theo những phương hướng mới ấy mà tận
dụng khả năng sử dụng tài nguyên và sức lao động, ra sức phát triển sản xuất và
tăng năng suất lao động. Tăng cường động viên nhân, tài, vật lực của nhân dân phục
vụ cho chiến tranh. Ra sức thực hành tiết kiệm, tăng cường dự trữ vật tư của Nhà
nước và của nhân dân

+ Về mặt quốc phòng: Ra sức tăng cường công tác phòng thủ, trị an bảo vệ miền Bắc; ra
sức chi viện cho miền Nam; tích cực giúp đỡ cách mạng Lào.

- Ra sức tăng cường phòng thủ, trị an bảo vệ miền Bắc, kiên quyết đánh bại kế hoạch địch
ném bom, bắn phá, phong tỏa miền bắc bằng không quân; đặc biệt chú trọng tăng cường lực
lượng phòng thủ ở các vùng và mục tiêu quan trọng về quân sự và kinh tế

- Ra sức chi viện cho miền Nam hạn chế dịch chuyển "chiến tranh đặc biệt" ở miền Nam
thành "chiến tranh cục bộ" và ngăn chặn địch mở rộng "chiến tranh cục bộ" ra miền Bắc;
đồng thời ra sức giúp đỡ cách mạng Lào

- Đẩy mạnh công tác ngoại giao nhằm tranh thủ sự ủng hộ của bạn bè quốc tế, vạch rõ âm
mưu của đế quốc Mỹ đối với cách mạng miền Nam và miền Bắc xã hội chủ nghĩa

- Kịp thời chuyển hướng tư tưởng và tổ chức cho phù hợp với tình hình mới.

f) Về mối quan hệ và nhiệm vụ cách mạng hai miền: miền Bắc là hậu phương lớn, MN là
tiền tuyến lớn trong cuộc kháng chiến toàn quốc chống Mỹ, nên quan hệ khăng khít. Bảo vệ
MB là nhiệm vụ của cả nước, phải đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của của Mỹ ở MB,
72

tăng cường lực lượng MB về mọi mặt. Khẩu hiệu chung của nhân dân ta lúc này là “Tất cả
để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”.

1.3. Ý nghĩa:

- Thể hiện tư tưởng nắm vững, giương cao hai ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, tiếp tục tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng của Đảng và quyết tâm đánh
thắng giặc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc của dân tộc ta.

- Đó là đường lối chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là
chính trong hoàn cảnh mới, là cơ sở để Đảng lãnh đạo kháng chiến chống Mỹ cứu nước đi
đến thắng lợi trong giai đoạn tiếp theo của cuộc kháng chiến.

- Việc nắm bắt kịp thời thời cơ và kịp thời chuyển hướng cách mạng: xây dựng và phát
triển kinh tế theo tình hình mới là yếu tố quan trọng, giúp miền bắc trở thành hậu phương
lớn vững chắc chi viện sức người sức của cho tiền tuyến lớn miền Nam

2. Hội nghị Trung ương lần thứ 12(12/1965)

2.1. Hoàn cảnh:

- 5-8-1964, Mỹ dựng lên “sự kiện Vịnh Bắc Bộ” nhằm lấy cớ dùng không quân và hải quân
đánh phá miền Bắc Việt Nam với ý đồ đưa miền Bắc trở về thời kỳ đồ đá, phá hoại công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc; ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc đối với
Miền Nam, đè bẹp ý chí quyết tâm chống Mỹ cứu nước của cả dân tộc Việt Nam.

- Đế quốc Mỹ huy động lực lượng lớn không quân và hải quân, trút hàng triệu tấn bom
đạn, tàn phá hủy hoại nhiều thành phố, thị xã, thị trấn và nhiều công trình, giết hại nhiều
dân thường.

=> Tháng 12-1965, Ban chấp hành Trung ương Đảng đã họp Hội nghị lần thứ 12 và Nghị quyết
Về tình hình và nhiệm vụ mới cho cách mạng hai miền xác định phương châm tác chiến chiến lược,
quyết tâm đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ.

2.2. Nội dung:

Hội nghị trung ương lần thứ 12 tiếp tục những đường lối kháng chiến của hội nghị trung ương lần thứ
11.

a) Quyết tâm chiến lược: Do chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của địch phát triển đến mức
cao nhất đã căn bản bị thất bại, đế quốc Mỹ không thể tiếp tục sử dụng tay sai, phải đưa một
lực lượng lớn quân viễn chinh Mỹ vào nước ta.Ta cũng nhận thấy Mỹ có tiềm lực quân sự
mạnh, nhưng vì là cuộc chiến tranh phi nghĩa, nên không thể sử dụng hết sức mạnh kinh tế,
quân sự vào cuộc chiến tranh. Trên chiến trường, Mỹ đang bị mâu thuẫn giữa cơ động tiến
công với phòng ngự giữ đất. Hậu phương lại ở xa, tiếp tế khó khăn, chiến đấu không phù
hợp với huấn luyện và buộc phải đánh theo ý định của ta…. Về phía ta, Trung ương nhận
định: Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã sáng tạo ra những lực lượng to lớn về mọi
mặt và đang đứng vào một thế thuận lợi…Như vậy, sau khi phân tích một cách khoa học và
toàn diện lực lượng so sánh giữa ra và địch, hội nghị khẳng định Việt Nam có đủ điều kiện
73

và sức mạnh để thắng Mỹ. Nhiệm vụ trước mắt của Đảng, toàn quân và toàn dân ta là: động
viên lực lượng của cả nước, kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ
trong bất kỳ tình huống nào

b) Mục tiêu chiến lược: Ra sức hạn chế cuộc chiến tranh của địch và đánh thắng địch trong
cuộc chiến tranh hạn chế đó, gây cho chúng nhiều tổn thất nặng nề, đẩy chúng ngày càng bị
sa lầy thì ta nhất định giành thắng lợi quyết định ở miền Nam.

c) Phương châm chiến lược: trên cơ sở đánh lâu dài, dựa vào sức mình là chính, đồng thời
phải tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế, kết hợp vừa đánh, vừa đấu tranh chính trị và ngoại
giao. Kiên trì kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, triệt để vận dụng ba mũi
giáp công (quân sự, chính trị và binh vận)

d) Tư tưởng chỉ đạo đối với miền Bắc: Hội nghị đã đề ra nhiệm vụ chung của cách mạng
miền Bắc là “tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 11 của Trung ương: vừa sản
xuất, vừa chiến đấu để bảo vệ miền Bắc, đánh bại chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ,
động viên sức người, sức của tăng cường chi viện cho miền Nam, ra sức giúp đỡ cách mạng
Lào đồng thời tích cự thắng địch nếu chúng mở rộng chiến tranh cục bộ ra cả nước”. Để
làm tròn nhiệm vụ chung đó, Miền Bắc cần tập trung vào những việc lớn như:

- Bảo vệ miền Bắc, đánh bại chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, đồng thời chuẩn bị
đánh thắng địch nếu chúng mở rộng chiến tranh cục bộ ra cả nước ta
- Động viên sức người sức của, tăng cường chi viện cho miền Nam
- Ra sức xây dựng miền Bắc vững mạnh về kinh tế và quốc phòng
- Tích cực giúp đỡ cách mạng Lào
- Tăng cường công tác tư tưởng và công tác tổ chức của Đảng đáp ứng kịp thời nhu cầu
của tình hình mới
- Đẩy mạnh đấu tranh ngoại giao, tích cực tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ của phe xã hội
chủ nghĩa và nhân dân thế giới

e) Tư tưởng chỉ đạo đối với Miền Nam:

Tiếp tục kiên trì phương châm kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị những đấu
tranh quân sự ngày càng có vai trò quyết định trực tiếp, đồng thời thực hiện ba mũi giáp công,
tiên công Mỹ trên cả ba vùng chiến lược, lấy nông thôn là hướng tiến công chính.

f) Về mối quan hệ và nhiệm vụ cách mạng hai miền Nam - Bắc:

Trung ương tiếp tục chỉ rõ: Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân cả
nước, miền Nam là tiền tuyến lớn, miền Bắc là hậu phương lớn. Phải nắm vững mối quan hệ
giữa 2 nhiệm vụ là: bảo vệ miền Bắc và giải phóng miền Nam

2.3. Ý nghĩa:

- Chủ trương chuyển hướng những nhiệm vụ của miền Bắc phản ánh quyết tâm của Đảng
và nhân dân ta trong việc kiên trì con đường chủ nghĩa xã hội, tiếp tục tăng cường sức
mạnh của miền bắc, làm chỗ dựa cho miền Nam chống Mỹ xâm lược, giải phóng miền
Nam, thống nhất đất nước.
74

- Giữ vững chiến lược tiến công, nêu cao ý chí tự lực tự cường và ra sức tranh thủ sự ủng
hộ và giúp đỡ của bè bạn quốc tế, tiến lên đánh thắng hoàn toàn đế quốc Mỹ xâm lược.

- Nghị quyết Hội nghị Trung ương 12 là một văn kiện lịch sử rất quan trọng về mặt lý luận
và thực tiễn. Nghị quyết đã đánh giá chính xác, khoa học về so sánh lực lượng ta-địch, đánh
giá đúng những nhược điểm của đế quốc Mỹ, ngay cả khi chúng ồ ạt đưa quân viễn chinh
vào miền Nam, để từ đó có những quyết sách đúng đắn, từng bước đánh bại cuộc “chiến
tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ và tay sai.

CHỦ ĐỀ 23. CÁC GIAI ĐOẠN CỦA CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC (1954
– 1975) VÀ Ý NGHĨA CỦA MỖI GIAI ĐOẠN.

Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Geneve được ký kết. Cuộc chiến tranh kết thúc. Quân Pháp
rút về nước, miền Bắc nước ta được hoàn toàn giải phóng. Theo Hiệp định Geneve, sau 2 năm sẽ tổ
chức tổng tuyển cử thống nhất nước Việt Nam. Nhưng đế quốc Mỹ với ý đồ xâm lược Việt Nam từ
lâu, đã lợi dụng cơ hội, gạt Pháp ra, nhảy vào tổ chức, chỉ huy nguỵ quyền, nguỵ quân tay sai, viện trợ
kinh tế quân sự, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới, chia cắt lâu dài nước ta. Cả dân tộc ta lại
bước vào chiến đấu chống xâm lược mới.

Cuộc kháng chiến trải qua 5 giai đoạn chiến lược:

Giai đoạn 1 (7.1954-12.1960): Thời kỳ giữ gìn lực lượng chuyển sang khởi nghĩa từng phần – phong
trào Đồng Khởi. Miền Bắc ra sức củng cố, xây dựng theo hướng XHCN làm căn cứ địa vững chắc cho
cách mạng cả nước; miền Nam từ đấu tranh chính trị tiến lên kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh
vũ trang và khởi nghĩa từng phần, đánh bại cuộc chiến tranh một phía của Mỹ.

Thi hành Hiệp định Geneve, lực lượng vũ trang ta rút ra miền Bắc tập kết. Trong khi đó quân nguỵ tay
sai rút vào miền Nam. Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm do Mỹ dựng lên ra sức phá hoại hiệp định
Giơnevơ 1954 về Việt Nam, thực hiện chính sách “tố cộng, diệt cộng”, giết hại, đánh phá điên cuồng.
Cách mạng miền Nam phải chịu những tổn thất nặng nề và lâm vào tình thế rất hiểm nghèo.

Trước hành động của Mỹ – Diệm, Thực hiện chủ trương đấu tranh chính trị có vũ trang tự vệ, nhân dân
miền nam từng bước khôi phục, phát triển các đội vũ trang, đẩy mạnh hoạt động vũ trang tuyên truyền,
diệt ác, phá tề, tổ chức những trận phục kích nhỏ, chống càn, bảo vệ căn cứ. Tháng 1/1959, Hội nghị
lần thứ XV Ban chấp hành Trung ương Đảng đã xác định: con đường phát triển cơ bản của cách mạng
Việt Nam ở miền Nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân. Ngay sau Đoàn vận tải quân
sự Trường Sơn (Đoàn 559) được thành lập, bắt đầu chi viện người và vũ khí cho miền Nam. Dưới ánh
sáng nghị quyết Hội nghị Trung ương XV (1.1959), năm 1959-60 các cuộc khởi nghĩa từng phần liên
tiếp nổ ra ở vùng núi miền Trung và đồng bằng Nam Bộ, giành quyền làm chủ về tay nhân dân ở hàng
nghìn xã, ấp, đẩy địch vào thế bị động, khủng hoảng. Cuối năm 1959-đầu năm 1960, phong trào “Đồng
Khởi” nổi dậy khởi nghĩa diệt bọn tề điệp ác ôn, giải tán chính quyền cơ sở, diệt đồn, phá ách kìm kẹp
của địch nổ ra rộng khắp các tỉnh Nam Bộ và vùng rừng núi Trung Trung Bộ, nhân dân giành được
quyền làm chủ. Phong trào “Đồng Khởi” đánh dấu bước phát triển nhảy vọt của cách mạng miền Nam,
từ thế giữ gìn lực lượng chuyển sang thế tiến công, từ hình thức đấu tranh chính trị là chính có lực
lượng vũ trang hỗ trợ, chuyển sang kết hợp đấu tranh chính trị và đấu tranh quân sự, từ đấu tranh quân
sự từng bước lên ngang hàng đấu tranh chính trị.
75

Từ cao trào đồng khởi của nhân dân, lực lượng vũ trang cách mạng miền Nam phát triển nhanh chóng;
Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam (MTDTGPMN) ra đời (20.11.1960). Từ miền Bắc, tuyến vận
tải chiến lược vào miền Nam bằng đường bộ, đường biển hình thành và phát triển. Cách mạng miền
Nam từ thế giữ gìn lực lượng chuyển sang thế tiến công.

2. Giai đoạn 2 (1961-1965): Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc; Cách mạng miền Nam từ khởi
nghĩa từng phần phát triển thành chiến tranh cách mạng, đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”
của Mỹ.

Thắng lợi của phong trào “Đồng Khởi” đã làm thất bại cuộc chiến “chiến tranh một phía” của
Eisenhower, đẩy chính quyền Ngô Đình Diệm vào thời kỳ khủng hoảng triền miên. Mỹ tiến hành
Chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” và chọn miền Nam Việt Nam làm nơi thí điểm.

Trên đà thắng lợi, cách mạng miền Nam tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị,
đưa dần đấu tranh vũ trang lên ngang hàng với đấu tranh chính trị, giành và giữ thế chủ động, xây
dựng lực lượng mọi mặt, củng cố mở rộng căn cứ địa, phá “chương trình bình định” của Mỹ-Diệm,
đẩy cách mạng lên một bước mới. Ngày 16/2/1962, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam ra đời đã cổ
vũ động viên nhân dân miền Nam bước vào giai đoạn cách mạng mới. Cách mạng miền Nam từ khởi
nghĩa từng phần phát triển thành chiến tranh cách mạng, kết hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính
trị, đánh địch bằng 3 mũi giáp công, trên 3 vùng chiến lược; đẩy mạnh chiến tranh du kích tiêu hao,
tiêu diệt địch. Trong năm 1962, quân dân miền Nam đã kết hợp đấu tranh chính trị và quân sự đánh bại
hàng loạt cuộc hành quân càn quét lùa dân vào “ấp chiến lược”. Nhiều trận lực lượng vũ trang ta tiến
công các căn cứ địch, diệt hàng trăm tên. “Chương trình bình định” 18 tháng của Mỹ-Diệm thất bại.

Tháng 1/1963, trận Ấp Bắc (2.1.1963), lực lượng ta chỉ bằng 1/10 lực lượng địch nhưng đã đánh bại
quân địch, diệt 450 tên. Chiến thắng Ấp Bắc quy mô không lớn nhưng có ý nghĩa báo hiệu sự phá sản
của Chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”.

Được sự chi viện ngày càng lớn của miền Bắc, Quân Giải phóng Miền Nam VN phát triển lớn mạnh,
từ tác chiến du kích tiến lên tác chiến tập trung, mở các chiến dịch tiến công lớn nhằm tiêu diệt một bộ
phận quan trọng quân ngụy: Chiến dịch Bình Giã, Chiến dịch Ba Gia, Chiến dịch Đồng Xoài.

Những thắng lợi quân sự lớn chứng tỏ sự trưởng thành của lực lượng vũ trang cách mạng miền Nam,
đủ sức đánh bại hoàn toàn quân ngụy dù có sự chỉ huy, hỗ trợ của quân Mỹ. Đến giữa năm 1965, chiến
lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ ngụy sụp đổ.

Ở miền Bắc, ngày 4/8/1964, Mỹ dựng lên sự kiện vịnh Bắc Bộ loan báo tàu chiến Mỹ bị Hải quân Việt
Nam tấn công ở hải phận quốc tế ngoài khơi vịnh Bắc Bộ, lấy cớ để ngày 5/8/1964, gây ra cuộc chiến
tranh phá hoại bằng không quân, hải quân đối với miền Bắc nước ta. Khi Mỹ gây ra sự kiện Vịnh Bắc
Bộ (8.1964) và dùng không quân đánh phá một số nơi, quân và dân ta đã đánh thắng ngay từ trận đầu
(xem trận chiến đấu phòng không 5.8.1964) và kiên quyết đánh trả hoạt động phá hoại tiếp theo của
không quân Mỹ (từ 2.1965).

3. Giai đoạn 3 (7.1965-12.1968): Phát triển thế tiến công chiến lược, đánh bại chiến lược “Chiến tranh
cục bộ” ở miền Nam và chiến tranh phá hoại lần 1 (7.2.1965-1.11.1968) của Mỹ ở miền Bắc.

Sau thất bại của chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, Mỹ bị động chuyển sang tiến hành chiến lược
“Chiến tranh cục bộ” hòng nhanh chóng kết thúc chiến tranh. Từ giữa năm 1965, Mỹ ồ ạt đưa quân
76

chiến đấu vào miền Nam, liên tục mở 2 cuộc phản công chiến lược mùa khô 1965-66 và 1966-67 với ý
đồ tìm diệt cơ quan đầu não kháng chiến và một bộ phận chủ lực QGPMN VN.

Quân và dân miền Nam giữ vững và phát triển thế tiến công, quân dân miền Nam càng quyết tâm đánh
Mỹ và thắng Mỹ. Sau Sau trận Núi Thành mở đầu đánh Mỹ, trận Vạn Tường tháng 8/1965, ta đẩy lùi
cuộc hành quân của quân Mỹ. Sau đó, một phong trào “Tìm Mỹ mà đánh, tìm Ngụy mà diệt” dâng cao
khắp miền Nam.

Hai cuộc phản công chiến lược mùa khô 1965-1966 và 1966-1967 của Mỹ đánh vào các vùng giải
phóng của ta, lớn nhất là cuộc hành quân Junction City bị thất bại. Trên toàn miền Nam, quân dân ta đã
loại khỏi vòng chiến đấu trên 15 vạn quân địch, trong đó có 68.200 tên Mỹ. Phong trào đấu tranh chính
trị vùng địch chiếm, nhất là các thành phố lớn dâng lên mạnh mẽ làm mất ổn định chế độ Mỹ-Ngụy.
Chiến lược “Chiến tranh cục bộ” bị thất bại một bước quan trọng.

Nắm vững thời cơ có lợi, đêm 30, rạng ngày 31/1/1968, quân dân ta mở Cuộc tổng tiến công và nổi
dậy Tết Mậu Thân đồng loạt tiến công địch ở 4 thành phố, 37 thị xã, hàng trăm thị trấn trên toàn miền
Nam gây cho địch thiệt hại lớn và khủng hoảng tinh thần, quân ta giành thắng lợi lớn, bồi thêm một
đòn nặng vào quân Mỹ-Ngụy, tạo bước ngoặt quyết định của cuộc Kháng chiến chống Mỹ.

Quân dân miền Bắc quyết tâm vừa đánh thắng Mỹ vừa đảm bảo sản xuất và đời sống, vừa tích cực chi
viện cho miền Nam. Đến cuối năm 1968, quân dân miền Bắc đã bắn rơi, bắn cháy 3.234 máy bay, diệt
và bắt sống hàng nghìn giặc lái Mỹ, bắn chìm, bắn cháy 143 tàu chiến, tàu biệt kích Mỹ-Ngụy, đánh
bại chiến tranh phá hoại lần 1 bằng không quân và hải quân của Mỹ.

Bị thất bại nặng nề ở VN, trước làn sóng phản đối chiến tranh xâm lược Việt Nam trên thế giới và ngay
trong nước Mỹ ngày càng mạnh mẽ, ngày 1.11.1968, chính phủ Mỹ buộc phải tuyên bố chấm dứt ném
bom bắn phá miền Bắc và phải ngồi vào bàn thương lượng ở Hội nghị Paris (1968-1973). “Chiến tranh
cục bộ” của Mỹ bị phá sản.

4. Giai đoạn 4 (1.1969-1.1973): Đánh bại chiến lược Việt Nam hoá chiến tranh và chiến tranh phá
hoại lần 2 (6.4.1972-15.1.1973) của Mỹ ở miền Bắc, buộc Mỹ phải ký hiệp định Paris 1973 về Việt
Nam, rút hết quân Mỹ về nước.

Chiến lược chiến tranh cục bộ bị phá sản, Nixon chuyển sang thực hiện chiến lược “VN hoá chiến
tranh”, ra sức phát triển và hiện đại hoá QĐ Sài Gòn để từng bước thay thế quân Mỹ rút dần về nước;
đẩy mạnh bình định ở miền Nam VN và mở rộng chiến tranh ra toàn bán đảo Đông Dương.

Sau cuộc đảo chính lật đổ chính quyền Sihanouk, Mỹ và QĐ Sài Gòn mở cuộc tiến công xâm lược
Campuchia nhằm cắt đứt hành lang vận chuyển chiến lược Bắc-Nam của VN. QGPMNVN phối hợp
với LLVT cách mạng Campuchia tổ chức các chiến dịch phản công đánh bại các cuộc tiến công lớn
của địch, mở rộng vùng giải phóng của cách mạng Campuchia trên 5 tỉnh.

Đầu 1971, QĐ Sài Gòn được sự yểm trợ, chi viện hoả lực của Mỹ và sự phối hợp của QĐ phái hữu
Lào mở cuộc hành quân Lam Sơn 719 đánh ra đường 9-Nam Lào, nhằm cắt đứt hành lang vận chuyển
chiến lược Bắc-Nam của ta, chia cắt 3 nước Đông Dương. QGPMN VN phối hợp với LLVT cách
mạng Lào mở chiến dịch phản công, đánh bại hoàn toàn cuộc hành quân của địch.
77

Phát huy quyền chủ động tiến công, từ 3.1972, ta mở cuộc tiến công chiến lược vào hệ thống phòng
ngự của địch trên 3 hướng gồm nhiều chiến dịch, đánh bại các cuộc phản kích, lấn chiếm của địch.

Trước những thất bại nặng nề, Mỹ cho không quân và hải quân trở lại đánh phá ác liệt ở miền Nam và
tiến hành chiến tranh phá hoại lần thứ hai đối với miền Bắc. Cuộc tập kích đường không chiến lược
bằng máy bay B-52 của Mỹ vào Hà Nội, Hải Phòng cuối 12.1972 (chiến dịch Linebacker II) bị đập tan
và là một “Điện Biên Phủ trên không” đối với đế quốc Mỹ, buộc Mỹ phải ký hiệp định Paris về Việt
Nam (27/1/1973), rút hết quân Mỹ và quân các nước phụ thuộc Mỹ ra khỏi miền Nam VN, cam kết tôn
trọng độc lập chủ quyền thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của VN. Chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”
thất bại.

5. Giai đoạn 5 (12.1973-30.4.1975): tạo thế, tạo lực và thực hành cuộc tổng tiến công và nổi dậy Xuân
1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam kết thúc thắng lợi cuộc Kháng chiến chống Mỹ.

Tuy rút hết quân đội, nhưng Mỹ vẫn để lại 2 vạn cố vấn quân sự đội lốt dân sự, để lại vũ khí, trang bị
chiến tranh và tiếp tục viện trợ quân sự cho chính quyền Nguyễn Văn Thiệu. Quân ngụy lên đến
1.100.000 tên và ra sức lấn chiếm phá hoại Hiệp định Paris. Quân dân miền Nam kiến quyết đánh bại
các cuộc hành quân “tràn ngập lãnh thổ” của địch, cả nước khẩn trương tạo thế, tạo lực để tiến lên giải
phóng hoàn toàn miền Nam.Được Mỹ tiếp sức, chính quyền Sài Gòn ra sức phá hoại hiệp định Paris,
liên tiếp mở các cuộc hành quân càn quét, các chiến dịch “tràn ngập lãnh thổ”.

Quân và dân ta đánh bại các cuộc tiến công lấn chiếm của địch, khẩn trương tạo thế, tạo lực, mở rộng
vùng giải phóng. Thắng lợi của chiến dịch Đường 14-Phước Long đặt cơ sở cho hội nghị Bộ Chính trị
họp cuối năm 1974, đầu 1975 thông qua kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam (1975-76), quyết
định nắm vững thời cơ chiến lược, mở cuộc tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 với 3 đòn tiến công
chiến lược. Đòn thứ nhất: Chiến dịch Tây Nguyên (từ ngày 4-24/3/1975). Đòn thứ hai: Chiến dịch Trị
Thiên-Huế (5-26.3.1975) và chiến dịch Đà Nẵng (28-29.3.1975) cùng với hoạt động tiến công và nổi
dậy của quân và dân Khu 5. Đòn thứ ba: Chiến dịch Hồ Chí Minh (26-30.4.1975). Ngày 14/4/1975, Bộ
Chính trị Trung ương Đảng quyết định chiến dịch tiến công vào Sài Gòn giải phóng hoàn toàn miền
Nam mang tên Chiến dịch Hồ Chí Minh.

Cuộc kháng chiến chống Mỹ thắng lợi hoàn toàn. Nhân dân VN đã đánh thắng cuộc chiến tranh xâm
lược thực dân mới với quy mô lớn quy mô lớn nhất, dài ngày nhất, ác liệt nhất từ sau Chiến tranh Thế
giới thứ hai.

CHỦ ĐỀ 24. Ý NGHĨA LỊCH SỬ VÀ KINH NGHIỆM LÃNH ĐẠO THẮNG LỢI CUỘC
KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC (1954 – 1975).

● Ý nghĩa lịch sử
- Đối với trong nước:

+ Cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước thắng lợi đã kết thúc 21 năm chiến đấu chống Mĩ cứu nước,
đồng thời kết thúc vẻ vang quá trình 30 năm chiến tranh giải phóng (1945 - 1975), chấm dứt vĩnh viễn
ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc và chế độ phong kiến, rửa sạch nỗi nhục và nỗi đau mất nước hơn
1 thế kỷ qua. Trên cơ sở đó, hoàn thành về cơ bản cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước,
bảo vệ thành công chủ nghĩa xã hội của miền Bắc, xóa bỏ mọi cản trở trên con đường thống nhất nước
nhà.
78

+ Thắng lợi này đã mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc Việt Nam: kỷ nguyên độc lập dân tộc và cả nước
đi lên chủ nghĩa xã hội. Đó là một trong những thắng lợi vĩ đại nhất trong lịch sử dựng nước và giữ
nước của dân tộc ta.

- Đối với thế giới:

+ Thắng lợi của nhân dân ta và thất bại của đế quốc Mĩ có tác động lớn đến nội bộ nước Mĩ và cục
diện thế giới, có ảnh hưởng và là nguồn cổ vũ lớn đối với phong trào cách mạng trên thế giới, các dân
tộc đang đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc để tự giải phóng cho mình

+ Thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mĩ cứu nước đã được Đảng ta khẳng
định “mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng
sáng ngời về sự toàn - thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử
thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế và có tính
thời đại sâu sắc”.

● Kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã để lại cho Đảng ta nhiều bài học kinh nghiệm
có giá trị về lãnh đạo và chỉ đạo cách mạng.

Một là, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội nhằm huy động sức mạnh toàn dân
đánh Mỹ, cả nước đánh Mỹ. Đường lối đó thể hiện ý chí và nguyện vọng thiết tha của nhân dân miền
Bắc, nhân dân miền Nam và của cả dân tộc Việt Nam, phù hợp với các trào lưu của cách mạng thế giới
nên đã động viên đến mức cao nhất lực lượng của toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh tiền tuyến lớn với
hậu phương lớn, kết hợp sức mạnh của nhân dân ta với sức mạnh của thời đại, tạo nên sức mạnh tổng
hợp để chiến đấu và chiến thắng giặc Mỹ xâm lược.

Hai là, tìm ra phương pháp chiến đấu đúng đắn, sáng tạo, thực hiện khởi nghĩa toàn dân và chiến tranh
nhân dân, sử dụng phương pháp cách mạng tổng hợp. Đại hội lần thứ IV của Đảng đã khẳng định:
“Thắng lợi vĩ đại của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta trước hết là thắng lợi của đường
lối chính trị, đường lối quân sự độc lập, tự chủ đúng đắn và sáng tạo của Đảng ta”. Đồng thời phải chú
trọng tổng kết thực tiễn để tìm ra phương pháp đấu tranh, phương pháp chiến đấu đúng đắn, linh hoạt
và sáng tạo.

Ba là, công tác tổ chức chiến đấu, tổ chức lực lượng cả nước đánh giặc. Trong kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước, công tác tổ chức đã được triển khai với quy mô rộng lớn chưa từng có trong lịch sử chiến
tranh nước ta. Đó là công tác xây dựng, phát triển lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang, đó còn là
hình thức và phương thức xây dựng các tổ chức Đảng, chính quyền, quần chúng ở cảhai miền Nam,
Bắc; tổ chức hậu phương lớn, tổ chức các căn cứ kháng chiến tại chỗ ở miền Nam; tổ chức chiến
trường…

Bốn là, (cái này mọi người thấy dài thì bỏ vợi theo ý mình nhé) Xây dựng căn cứ địa cách mạng, hậu
phương kháng chiến vững chắc, phát huy vai trò của hậu phương lớn và hậu phương tại chỗ. Trong
những năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, miền Bắc vừa là căn cứ địa cách mạng của cả nước, vừa
là hậu phương lớn của cuộc kháng chiến, vừa là tiền tuyến trực tiếp chiến đấu quyết liệt với không
quân và hải quân Mỹ. Miền Bắc còn là nơi đặt các cơ quan lãnh đạo, chỉ huy của Đảng và của Bộ Tổng
tư lệnh, lãnh đạo toàn bộ cuộc cách mạng Việt Nam và điều hành chỉ huy chiến tranh trên cả hai miền
Nam - Bắc. Đảng ta còn chăm lo xây dựng và mở rộng những vùng căn cứ, vùng giải phóng ngay tại
79

chiến trường làm hậu phương tại chỗ. Các vùng giải phóng, căn cứ hậu phương tại chỗ có thế liên hoàn
trên cả 3 vùng chiến lược, nối liền với hậu phương lớn miền Bắc, cùng với căn cứ hậu phương của hai
nước Lào, Campuchia dựa lưng vào nhau thành thế mạnh của chiến trường Đông Dương. Chú trọng
xây dựng tuyến đường giao thông, vận chuyển chiến lược giữa Việt Nam, Lào, Campuchia. Tuyến vận
tải 559 - đường Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh là biểu tượng ý chí và nghị lực lớn lao của toàn
Đảng, toàn dân và toàn quân ta “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”.

Năm là, Phát huy sức mạnh đoàn kết chiến đấu của ba dân tộc Việt Nam, Lào, Campuchia để cùng
nhau đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược. Phát huy truyền thống láng giềng anh em gắn bó về lịch sử,
địa lý, kinh tế, đã chủ động đoàn kết, liên minh với nhân dân Lào, nhân dân Campuchia chiến đấu,
chiến thắng kẻ thù chung là đế quốc Mỹ.

Sáu là, Hết sức coi trọng công tác xây dựng Đảng, xây dựng lực lượng cách mạng ở miền Nam và tổ
chức xây dựng lực lượng chiến đấu trong cả nước.

CHƯƠNG 3

CHỦ ĐỀ 25: PHÂN TÍCH NỘI DUNG CƠ BẢN ĐƯỜNG LỐI CHUNG XÂY DỰNG XHCN
TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ ĐƯỢC ĐẠI HỘI IV (12/1976) CỦA ĐẢNG VẠCH RA.

Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước kết thúc thắng lợi, cách mạng Việt Nam chuyển sang
giai đoạn mới, giai đoạn cả nước độc lập, thống nhất, thực hiện chiến lược cách mạng xã hội chủ
nghĩa. Đảng Cộng sản Việt Nam đã tiến hành Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV tại Thủ đô Hà Nội
từ ngày 14 đến ngày 20/12/1976. 1008 đại biểu thay mặt hơn 1.550.000 đảng viên trong cả nước dự
Đại hội

Đại hội xác định đường lối chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới của
nước ta là: “Nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động,
tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học - kỹ
thuật, cách mạng tư tưởng và văn hoá, trong đó cách mạng khoa học - kỹ thuật là then chối; đẩy mạnh
công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội;
xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xây
dựng nền văn hoá mới, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa; xóa bỏ chế độ người bóc lột người,
xoá bỏ nghèo nàn và lạc hậu; không ngừng đề cao cảnh giác, thường xuyên củng cố quốc phòng, giữ
gìn an ninh chính trị và trật tự xã hội; xây dựng thành công Tổ quốc Việt Nam hòa bình, độc lập, thống
nhất và xã hội chủ nghĩa; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc
lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội’. Trong đường lối chung thể hiện nhận thức mới của Đảng về
chủ nghĩa xã hội ỏ nước ta gồm 4 đặc trưng cơ bản là xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ
nghĩa, nền sản xuất lớn, nền văn hoá mới, con người mối xã hội chủ nghĩa; coi chuyên chính vô sản,
phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động là công cụ để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại
hội xác định đường lối xây dựng, phát triển kinh tế, trong đó nổi bật là: Đẩy mạnh công nghiệp hoá xã
hội chủ nghĩa bằng ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông
nghiệp và công nghiệp nhẹ, xây dựng cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp; kết hợp kinh tế trung ương
với kinh tế địa phương, kết hợp phát triển lực lượng sản xuất; tăng cường quan hệ kinh tế với các nước
xã hội chủ nghĩa anh em, đồng thời phát triển quan hệ kinh tế với các nước khác. Phương hướng,
nhiệm vụ của kế hoạch phát triển kinh tế và văn hoá (1976 - 1980) nhằm hai mục tiêu cơ bản và cấp
bách là bảo đảm nhu cầu của đời sống nhân dân, tích lũy để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ
nghĩa xã hội; đẩy mạnh cách mạng tư tưởng và văn hoá, xây dựng và phát triển nền văn hoá mới; tăng
80

cường nhà nước xã hội chủ nghĩa, phát huy vai trò của các đoàn thể; coi trọng nhiệm vụ củng cố quốc
phòng, an ninh chính trị và trật tự xã hội; coi trọng nhiệm vụ quốc tế và chính sách đối ngoại của
Đảng, củng cố quan hệ đặc biệt với Lào và Campuchia, đẩy mạnh hợp tác với Liên Xô; nâng cao vai
trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.

Đại hội lần thứ IV của Đảng là đại hội toàn thắng của sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất
Tổ quốc, khẳng định và xác định đường lối đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội đã cổ vũ,
động viên toàn Đảng, toàn dân ra sức lao động sáng tạo để “xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn,
to đẹp hơn” theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

CHỦ ĐỀ 26: PHÂN TÍCH NGUYÊN NHÂN, DIỄN BIẾN VÀ Ý NGHĨA CỦA HAI CUỘC
CHIẾN TRANH BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIÊN GIỚI PHÍA TÂY NAM VÀ PHÍA BẮC CỦA
TỔ QUỐC.

I. Cuộc chiến tranh bảo vệ chủ quyền biên giới phía Tây Nam của Tổ quốc.

1. Nguyên nhân

Từ lâu, nhân dân Việt Nam - Campuchia đã xây dựng tình hữu nghị, đoàn kết cùng chống kẻ thù
chung, đặc biệt đã kề vai sát cánh trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm
lược giành độc lập và tự do. Tuy nhiên, do bị các thế lực phản động nước ngoài kích động, lợi dụng, từ
những năm cuối cuộc kháng chiến chống Mỹ (1970 - 1975), quân Pôn Pốt đã tiến hành một số vụ tiến
công, bắt cóc giết hại cán bộ, bộ đội Việt Nam hoạt động ở chiến trường Campuchia, gây chia rẽ nội
bộ những người cộng sản Campuchia. Chỉ tính riêng 6 tháng đầu năm 1973, quân Pôn Pốt gây ra 102
vụ, sát hại và làm bị thương 103 bộ đội Việt Nam, cướp hàng chục tấn lương thực và vũ khí của quân
đội ta. Tháng 4-1975, sau khi lên nắm quyền, tập đoàn Pôn Pốt đã phản bội lại sự nghiệp cách mạng
của nhân dân Campuchia và phá hoại truyền thống đoàn kết, hữu nghị của nhân dân hai nước, cụ thể
là:

Ở trong nước, chúng phạm sai lầm đặc biệt nghiêm trọng, thực thi chính sách diệt chủng tàn khốc,
cưỡng bức lao động khổ sai, tra tấn hành hạ dã man người dân Campuchia; biến trường học, nhà chùa
thành nhà tù, khắp mọi nơi đầy những hố chôn người tập thể… Từ tháng 4-1975 đến cuối năm 1978,
chế độ Pôn Pốt đã giết hại gần 3 triệu người dân Campuchia vô tội, xóa bỏ mọi cơ sở xã hội, xóa bỏ
thành thị, xóa bỏ sản xuất công nghiệp và thủ công nghiệp, xóa bỏ quan hệ tiền tệ, buôn bán và đẩy
Campuchia đứng trước thảm họa diệt vong.

Đối với Việt Nam, được các thế lực phản động nước ngoài hậu thuẫn, tập đoàn Pôn Pốt chủ trương phá
hoại quan hệ đoàn kết, hữu nghị truyền thống lâu đời giữa Việt Nam và Campuchia; ra sức vu khống
Việt Nam, kích động tư tưởng dân tộc hẹp hòi; kích động xét lại quan hệ hai nước, đòi hoạch định lại
biên giới Việt Nam - Campuchia và tiến hành hàng loạt những cuộc xâm lấn biên giới, giết hại dân
thường trên biên giới Việt Nam - Campuchia.

Năm 1975, khi đất nước ta vừa thống nhất, Pôn Pốt đã cho quân xâm lược các đảo, biên giới đất liền
Tây Nam nước ta. Ngày 3-5-1975, chúng đánh chiếm đảo Phú Quốc; ngày 10-5-1975, chúng lại tiếp
tục đánh chiếm đảo Thổ Chu, bắt và giết hơn 500 dân thường. Trên đất liền, chúng khiêu khích bộ đội
biên phòng, cho dân di dời cột mốc biên giới ở một số điểm thuộc các tỉnh Tây Ninh, Kon Tum, Đắk
Lắk. Cuối năm 1975 đầu năm 1976, chúng xâm nhập một số khu vực trên tuyến biên giới các tỉnh Tây
Ninh, Gia Lai, Kon Tum, gây ra nhiều tội ác với nhân dân Việt Nam. Cuối tháng 4-1977, Pôn Pốt điều
81

động 5 sư đoàn và hàng trăm khẩu pháo, xe tăng áp sát biên giới Việt Nam, thực hiện âm mưu xâm
lược quy mô lớn vào lãnh thổ vùng biên giới Tây Nam của nước ta.

Đêm ngày 30-4-1977, lợi dụng lúc quân và dân ta kỷ niệm 2 năm ngày giải phóng miền Nam, thống
nhất đất nước, tập đoàn Pôn Pốt đã mở cuộc tiến công trên toàn tuyến biên giới tỉnh An Giang, chính
thức bắt đầu cuộc chiến tranh xâm lược.

Đảng, Nhà nước, Quân đội và nhân dân Việt Nam buộc phải đứng lên thực hiện quyền tự vệ chính
đáng của mình, đập tan hành động xâm lược của kẻ thù, bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc và
cùng quân dân Campuchia đánh đổ chế độ diệt chủng Pôn Pốt.

Trước hành động khiêu khích, xâm phạm biên giới Tây Nam Việt Nam của quân Pôn Pốt, Đảng, Nhà
nước ta luôn nhất quán quan điểm mong muốn Việt Nam và Campuchia đàm phán ký kết hiệp ước về
biên giới giữa hai nước trên tinh thần tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, tiếp tục
phát triển tình đoàn kết, hữu nghị giữa nhân dân hai nước.

Bất chấp mọi nỗ lực ngoại giao hòa bình của Việt Nam, tập đoàn Pôn Pốt ra sức tuyên truyền xuyên
tạc lịch sử, chủ động gây ra các vụ xung đột, lấn chiếm biên giới Tây Nam Việt Nam; huy động phần
lớn sức mạnh quân sự, hàng chục sư đoàn chủ lực và nhiều trung đoàn địa phương tiến hành cuộc
chiến tranh xâm chiếm biên giới Tây Nam Việt Nam. Đi đến đâu chúng cũng tàn phá làng mạc, giết
hại dã man người dân, kể cả người già, phụ nữ, trẻ em Việt Nam.

Đáp lời kêu gọi khẩn thiết của Mặt trận Đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia, của nhân dân
Campuchia, Đảng, Nhà nước, Quân đội và nhân dân Việt Nam đã thực hiện quyền tự vệ chính đáng và
thiêng liêng của mình để bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, bảo vệ tính mạng và tài sản của
nhân dân; đồng thời cùng với lực lượng vũ trang và nhân dân Campuchia đánh đổ chế độ diệt chủng,
giúp đỡ những người cách mạng chân chính Campuchia.

2. Diễn biến: Cuộc chiến tranh diễn ra theo 2 giai đoạn:

Giai đoạn 1 (từ ngày 30-4-1977 đến ngày 5-1-1978): Quân Pôn Pốt mở các cuộc tiến công quy mô
lớn sang lãnh thổ Việt Nam; cùng với tổ chức lực lượng vũ trang đánh lui quân địch, Đảng, Nhà
nước ta tiếp tục nỗ lực ngoại giao nhằm tìm kiếm giải pháp hòa bình.

Với dã tâm xâm lược, mở đầu cuộc chiến tranh, Pôn Pốt liên tiếp mở cuộc tiến công quy mô lớn
sang lãnh thổ Việt Nam: Ngày 30-4-1977, chúng đánh vào 14/16 xã biên giới thuộc tỉnh An Giang,
đến ngày 19-5-1977 đã giết hại 222 người và làm 614 người dân Việt Nam bị thương, phá nhiều
nhà cửa, tài sản của nhân dân; từ ngày 25-9-1977, quân Pôn Pốt tập trung 9 sư đoàn chủ lực mở
cuộc tiến công lớn thứ 2 đánh sang địa bàn các tỉnh An Giang, Kiên Giang, Long An, Đồng Tháp
lên hướng Tây Ninh, gây nhiều tội ác đối với nhân dân Việt Nam; ngày 15-11-1977, quân Pôn Pốt
lại mở cuộc tiến công mới nhằm đánh chiếm thị xã Tây Ninh.

Trước tình hình đó, thực hiện chỉ thị của Quân ủy Trung ương, các đơn vị Quân khu 5, Quân khu 7,
Quân khu 9, Quân đoàn 3, Quân đoàn 4 tổ chức điều chỉnh lực lượng, phương tiện, xây dựng
phương án, sẵn sàng chiến đấu bằng những lực lượng mạnh; tiếp đó, Quân đoàn 4, Quân đoàn 3 và
Quân khu 7, Quân khu 9 tập trung 8 sư đoàn mở đợt phản công truy kích quân Pôn Pốt sâu vào
Campuchia 20 – 30km; đánh thiệt hại 5 sư đoàn, làm thất bại kế hoạch đánh chiếm thị xã Tây Ninh
của địch.
82

Với âm mưu thủ đoạn nham hiểm “vừa ăn cướp, vừa la làng”, tập đoàn Pôn Pốt đưa chiến tranh
biên giới ra trước dư luận thế giới: Ngày 31-12-1977, chúng ra tuyên bố vu khống Quân đội Việt
Nam “tiến công xâm lược Campuchia dân chủ” nhằm cô lập Việt Nam trên trường quốc tế.

Trong ngày 31-12-1977, Chính phủ ta ra tuyên bố về vấn đề biên giới Việt Nam - Campuchia, nêu
rõ lập trường và nguyên tắc, là: Kiên quyết bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ mình; luôn
tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Campuchia, làm hết sức mình để bảo vệ tình
đoàn kết chiến đấu và hữu nghị Việt Nam - Campuchia; vạch trần âm mưu thủ đoạn và những tội ác
man rợ của tập đoàn Pôn Pốt với đồng bào ta ở các tỉnh biên giới Tây Nam.

Giai đoạn 2 (từ ngày 6-1-1978 đến ngày 7-1-1979): Tập đoàn phản động Pôn Pốt tiến hành xâm
lược trên toàn tuyến biên giới Tây Nam, Quân tình nguyện Việt Nam mở cuộc tổng phản công và
cùng quân dân Campuchia tiến công đánh đổ chế độ diệt chủng Pôn Pốt.

Bị thiệt hại nặng nhưng do được hỗ trợ vũ khí, trang bị và cố vấn quân sự từ bên ngoài, quân Pôn
Pốt lại tiếp tục chuẩn bị lực lượng, tháng 1-1978, đưa thêm 2 sư đoàn ra biên giới, liên tục tiến công
lấn chiếm, gây nhiều tội ác với đồng bào ta.

Ngày 5-2-1978, Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra tuyên bố ba điểm: (1)
Chấm dứt mọi hoạt động quân sự, rút lực lượng vũ trang ra cách biên giới 5km; (2) Hội đàm tiến tới
kí hiệp ước hữu nghị và không xâm lược, kí hiệp ước về biên giới; (3) Thỏa thuận về một hình thức
thích hợp bảo đảm thông lệ quốc tế và giám sát quốc tế.
Phớt lờ thiện chí của ta, quân Pôn Pốt tiếp tục đưa lực lượng áp sát biên giới, đưa quân tiến công,
xâm nhập nhiều điểm trên địa phận nước ta; lực lượng ta đã kiên quyết đánh trả, giành lại các khu
vực bị lấn chiếm.

Từ ngày 26-3-1978, các đơn vị quân đội ta chuyển sang tiến công, đẩy quân Pôn Pốt lùi xa dần biên
giới và dồn đối phương vào thế bị động, đối phó. Đòn phản công quyết liệt của ta trên tất cả các mặt
trận quân sự, chính trị, ngoại giao đã đẩy Pôn Pốt vào tình thế khó khăn và tác động lớn đến tình
hình nội bộ Campuchia.
Ngày 15-6-1978, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương họp bàn về chống lại cuộc chiến tranh xâm
lược ở biên giới Tây Nam và tình hình căng thẳng ở biên giới phía Bắc, trong đó quyết định phát
động chiến tranh nhân dân, kiên quyết phản công và tiến công địch một cách chủ động, liên tục
bằng mọi lực lượng, với các quy mô nhỏ, vừa và lớn, đánh địch cả trong và ngoài biên giới, tiêu
diệt, tiêu hao, làm tan rã một bộ phận quan trọng sinh lực địch.
Sau cuộc nổi dậy của lực lượng cách mạng Campuchia ở Quân khu Đông, ta đã sử dụng các Quân
đoàn 3, Quân đoàn 4 và 2 sư đoàn thuộc Quân khu 7, 2 sư đoàn thuộc Quân khu 5 mở tiếp đợt tiến
công lớn trên các hướng đường 1, đường 7, vùng giáp biên giới Tây Ninh và đường 19 kéo dài
nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, tiến tới làm suy yếu một bước lực lượng quân
Pôn Pốt.
Do bị bất ngờ hoàn toàn về thời gian, quy mô và phương thức hoạt động của ta, quân Pôn Pốt rơi
vào thế bị động và đã bị ta đánh thiệt hại và tê liệt một số sư đoàn. Cuộc tiến công của ta đã hỗ trợ
kịp thời lực lượng cách mạng Campuchia ở Quân khu Đông, buộc quân Pôn Pốt bị động đối phó
trên cả 2 mặt trận biên giới và nội địa. Phối hợp với lực lượng cách mạng Campuchia, ta loại khỏi
vòng chiến đấu 6 sư đoàn, làm suy yếu nghiêm trọng lực lượng chủ lực quân Pôn Pốt.
Trong thời gian từ tháng 5 đến tháng 11-1978, Việt Nam đã giúp lực lượng vũ trang cách mạng
Campuchia phát triển được 15 tiểu đoàn, 5 khung tiểu đoàn, 24 đội công tác, xây dựng được các tổ
chức đảng, chuẩn bị thành lập mặt trận và bộ máy lãnh đạo. Với sự giúp đỡ của Việt Nam, ngày 2-
12-1978, tại vùng giải phóng thuộc tỉnh Kratié (Campuchia), Mặt trận Đoàn kết dân tộc cứu nước
83

Campuchia ra mắt nhân dân Campuchia, công bố Cương lĩnh cách mạng 11 điểm, trong đó nêu rõ
quyết tâm đoàn kết, tập hợp mọi lực lượng yêu nước nổi dậy đánh đổ tập đoàn phản động Pôn Pốt,
xóa bỏ chế độ diệt chủng tàn ác, thiết lập chế độ dân chủ nhân dân; khẳng định tăng cường tình
đoàn kết với nhân dân Việt Nam và nhân dân yêu chuộng hòa bình, công lý trên thế giới; kêu gọi
chính phủ các nước, các tổ chức quốc tế giúp đỡ mọi mặt cho cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân
dân Campuchia.
Phát hiện quân Pôn Pốt có ý định tiến công, đánh chiếm lãnh thổ Việt Nam, ngày 6 và 7 tháng 12-
1978, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương thông qua quyết tâm tổng phản công - tiến công chiến
lược tiêu diệt quân địch, hoàn thành cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam; đồng thời sẵn sàng
hỗ trợ lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia nổi dậy đánh đổ tập đoàn Pôn Pốt diệt chủng.

Trước hành động xâm lược của quân Pôn Pốt và đáp lời kêu gọi khẩn thiết của Mặt trận Đoàn kết
dân tộc cứu nước Campuchia, ngày 23-12-1978, Quân tình nguyện Việt Nam cùng với lực lượng vũ
trang Campuchia đã mở cuộc tổng phản công - tiến công trên toàn tuyến biên giới. Ngày 26-12-
1978, toàn bộ hệ thống phòng thủ vòng ngoài của quân Pôn Pốt bị phá vỡ. Đến ngày 31-12-1978,
quân và dân ta đã hoàn thành nhiệm vụ đánh đuổi quân Pôn Pốt, thu hồi toàn bộ chủ quyền lãnh thổ
của Tổ quốc bị kẻ thù lấn chiếm.
Ngày 2-1-1979, ba cụm quân chủ lực của Pôn Pốt, mỗi cụm 5 sư đoàn, án ngữ các trục đường tiến
về Phnôm Pênh (đường 1, đường 7 và đường 2) cơ bản bị tiêu diệt và làm tan rã. Tiếp đó, trên tất cả
các hướng về thủ đô, quân Pôn Pốt không cản được Quân tình nguyện Việt Nam truy kích và tiến
sát về Phnôm Pênh. Ngày 7-1-1979, sau 2 ngày tổng công kích, thủ đô Phnôm Pênh hoàn toàn được
giải phóng. Ngày 8-1-1979, Hội đồng nhân dân cách mạng Campuchia được thành lập ra tuyên bố:
Xóa bỏ hoàn toàn chế độ diệt chủng của tập đoàn Pôn Pốt, thành lập chế độ Cộng hòa nhân dân
Campuchia. Việt Nam cùng nhiều nước đã công nhận Nhà nước Campuchia.
- Như vậy, từ ngày 23-12-1978 đến 17-1-1979, Quân tình nguyện Việt Nam cùng với lực lượng vũ
trang cách mạng Campuchia đã tiêu diệt và làm tan rã 18 sư đoàn quân Pôn Pốt, diệt 12.000 tên, bắt
8.800 tên, gọi hàng 3.200 tên và làm tan rã tại chỗ 44.000 tên; giải phóng trên 4 triệu dân
Campuchia, đập tan bộ máy thống trị của tập đoàn phản động Pôn Pốt từ trung ương đến cơ sở.
3. Ý nghĩa

Chiến thắng trong chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam (năm 1979) có ý nghĩa vô cùng to lớn
không chỉ với Việt Nam và Campuchia mà với cả khu vực cũng như thế giới.

ĐỐI VỚI VIỆT NAM

- Khẳng định nhân dân Việt Nam với ý chí độc lập, tự chủ và tinh thần đoàn kết dân tộc, đoàn
kết quốc tế trong sáng, sẵn sàng đập tan bất kỳ âm mưu và hành động chống phá nào của các thế lực
phản động, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.

- Thể hiện tinh thần quốc tế cao cầu mối quan hệ truyền thống gắn bị thủy chung, lâu đời, sự giúp
đỡ trong sáng, chỉ nghĩa, chỉ tình của Đảng, Nhà nước, quân đội và nhân dân Việt Nam đối với nhân
dân Campuchia.

ĐỐI VỚI NHÂN DÂN CAMPUCHIA

- Xóa bỏ hoàn toàn chế độ diệt chủng của tập đoàn Pôn Pốt, thành lập chế độ Cộng hòa nhân dân
Campuchia.
- Cứu nhân dân Campuchia ra khỏi thảm họa diệt chủng, giành lại quyền được sống, quyền làm
người và bước vào kỷ nguyên độc lập, tự do thật sự, hồi sinh đất nước và dân tộc, xây dựng cuộc
sống hòa bình, tươi đẹp.
84

ĐỐI VỚI QUỐC TẾ

- Thể hiện sức mạnh của tinh thần đoàn kết quốc tế, sự thủy chung, trọn nghĩa vẹn tình giữa hai
dân tộc Việt Nam - Campuchia.
- Đưa quan hệ hai nước chuyển sang thời kỳ khôi phục, vun đắp tình đoàn kết, hữu nghị truyền
thống và hợp tác toàn diện dựa trên nguyên tắc hòa bình, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn
lãnh thổ của nhau, tôn trọng lợi ích chính đáng của nhau vì sự phát triển và phồn vinh của mỗi
nước.
- Góp phần giữ vững hòa bình, ổn định ở khu vực Đông Nam Á và trên thế giới
- Đấu tranh vạch trần bản chất của chế độ phân biệt chủng tộc, sắc tộc, chế độ độc tài và cảnh
báo nhân loại cảnh giác trước nguy cơ của chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi và chủ nghĩa phát xít mới.

II. Cuộc chiến tranh bảo vệ chủ quyền biên giới phía Bắc của Tổ quốc.

1. Nguyên nhân

Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng có nhiều điểm tương đồng về chính trị, kinh tế, văn
hóa, có quan hệ hữu nghị truyền thống lâu đời. Trong lịch sử cách mạng, hai Đảng và nhân dân hai
nước đã đoàn kết, ủng hộ và giúp đỡ lẫn nhau. Trong kháng chiến chống Pháp xâm lược và chống Mỹ,
cứu nước (1945-1975), nhân dân Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa khác đã dành cho nhân dân
Việt Nam sự ủng hộ, giúp đỡ toàn diện, to lớn và quý báu. Đảng, Nhà nước và Nhân dân Việt Nam
luôn biết ơn về sự giúp đỡ quý báu đó.

Trong khoảng thời gian Việt Nam tiến hành kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, bảo vệ nền độc
lập, trong quan hệ giữa hai nước Việt Nam-Trung Quốc tuy có những va vấp nhất định, nhưng nhìn
tổng thể, quan hệ hợp tác hữu nghị trên cơ sở của chủ nghĩa Mác-Lênin, chủ nghĩa quốc tế vô sản vì
hòa bình, ổn định và lợi ích của hai nước vẫn là dòng chủ đạo. Nhưng sau khi đất nước Việt Nam được
thống nhất, thái độ của Trung Quốc với Việt Nam có nhiều chuyển biến tiêu cực. Trung Quốc đã tăng
cường các hoạt động tuyên truyền, kích động tâm lý thù hận dân tộc, cắt viện trợ, khiêu khích vũ trang,
xâm lấn đất đai (từ 234 vụ năm 1975, 812 vụ năm 1976, lên 873 vụ năm 1977 và 2175 vụ năm 1978),
gây nên tình hình căng thẳng, phức tạp giữa hai nước trên vùng biên giới phía Bắc Việt Nam.

Đến giữa năm 1978, Trung Quốc dựng lên “sự kiện nạn kiều”, đưa gần 20 vạn Hoa kiều về nước, vu
cáo Việt Nam ngược đãi, xua đuổi, khủng bố Hoa kiều, gây ra tình hình ngày càng nghiêm trọng.

Trước tình hình đó, Đảng, Nhà nước Việt Nam kiên trì chủ trương giải quyết tình hình nói trên bằng
giải pháp hòa bình, đồng thời khẩn trương tăng cường lực lượng, đẩy mạnh xây dựng thế trận chiến
tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc trên phạm vi cả nước.

2. Diễn biến

Từ tháng 8-1978, Trung Quốc điều động lực lượng từ phía sau ra biên giới Trung - Việt gồm 32 sư
đoàn bộ binh (9 quân đoàn và 5 sư đoàn độc lập), cùng 550 xe tăng, xe bọc thép, 2.258 pháo các loại,
trong đó có 1.092 pháo xe kéo, 676 máy bay. Trên biển, hàng chục tàu chiến của Hạm đội Nam Hải áp
sát hỗ trợ. Ngoài ra, Trung Quốc còn bố trí nhiều trận địa pháo, trạm ra đa, trang bị vũ khí cho dân
binh ở vùng biên giới, tổ chức diễn tập chuẩn bị cho cuộc tiến công.

Vào lúc 5 giờ sáng ngày 17-2-1979, hàng chục vạn quân Trung Quốc đồng loạt vượt biên giới Trung
Quốc - Việt Nam, tiến công nhiều mục tiêu trên toàn tuyến biên giới nhằm nhanh chóng đánh chiếm
một số thị xã, đường tiếp tế của Việt Nam từ phía sau lên. Hướng tiến công chủ yếu là Lạng Sơn, Cao
85

Bằng, hướng quan trọng là Lào Cai, hướng phối hợp là Phong Thổ, Lai Châu, hướng nghi binh để thu
hút lực lượng của Việt Nam là Hà Tuyên và Quảng Ninh.

Cách đánh chủ yếu của Trung Quốc là sử dụng lực lượng áp đảo bất ngờ tiến công đồng loạt, tập trung
vào hướng chính diện kết hợp với vu hồi, thọc sâu, bao vây, chia cắt lực lượng ta, đặc biệt là sử dụng
pháo binh gây sát thương lớn cho bộ đội và dân thường Việt Nam.

Trước hành động tấn công ồ ạt của quân Trung Quốc, giết hại nhiều dân thường, tàn phá nhiều công
trình kinh tế, văn hóa, giáo dục của các tỉnh dọc biên giới, ngày 4-3, Ban Chấp hành Trung ương Đảng
ra lời kêu gọi quân dân cả nước: phát huy khí thế cách mạng, hăng hái thi đua lao động sản xuất với kỷ
luật chặt chẽ và năng suất cao… quyết tâm giữ vững biên cương của Tổ quốc.

Ngày 5-3, Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng công bố Lệnh Tổng động viên cả nước để bảo vệ Tổ quốc.
Cùng ngày 5-3, Hội đồng Chính phủ ra Nghị định 83-CP quy định mọi công dân nam từ 18 đến 45
tuổi, nữ từ 18 đến 35 tuổi có đủ điều kiện ra nhập dân quân du kích, tự vệ, thực hiện chế độ làm việc và
luyện tập quân sự đáp ứng nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Ngày 5-3, Trung Quốc tuyên bố rút quân. Trung ương Đảng, Chính phủ Việt Nam chỉ thị cho các lực
lượng vũ trang và nhân dân vùng biên giới ngừng mọi hoạt động tiến công quân sự để Trung Quốc rút
quân.

Ngày 18-3, Trung Quốc rút hết quân khỏi Việt Nam sau khi giết hại nhiều dân thường, phá hoại, tàn
phá nhiều địa phương, hạ tầng cơ sở kinh tế, văn hóa của Việt Nam. Tuy nhiên ở một số nơi trên tuyến
biên giới, nhất là Hà Giang, cuộc chiến đấu bảo vệ biên cương của Tổ quốc còn kéo dài 10 năm sau đó.

3. Ý nghĩa

Cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc của nhân dân Việt Nam diễn ra trong vòng khoảng một
tháng (từ 17/2-18/3/1979) nhưng có ý nghĩa thắng lợi rất to lớn, thể hiện ở một số khía cạnh cơ bản:

Quân dân Việt Nam đã loại khỏi vòng chiến đấu 62.500 quân Trung Quốc, bắn cháy và phá hủy 550 xe
quân sự, trong đó có 280 xe tăng, xe thiết giáp, phá hủy 115 khẩu pháo và cối hạng nặng, thu nhiều vũ
khí, đồ dùng quân sự... buộc đối phương sớm rút quân, qua đó làm thất bại hoàn toàn ý đồ của các nhà
cầm quyền Trung Quốc muốn áp đặt lợi ích nước lớn lên bán đảo Đông Dương.

Cuộc chiến đấu này thêm một lần nữa khẳng định ý chí, sức mạnh bền bỉ của nhân dân Việt Nam quyết
tâm vượt qua mọi khó khăn, thử thách để bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, bởi
Việt Nam lúc này vừa kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ chưa lâu (1975), vừa kết thúc chiến tranh
bảo vệ biên giới Tây Nam và đang làm nhiệm vụ quốc tế giúp đỡ nhân dân Campuchia lật đổ chế độ
diệt chủng Pol Pot, thực hiện công cuộc hồi sinh đất nước, kinh tế lại đang gặp rất nhiều khó khăn do
cấm vận của Mỹ…

Cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc của nhân dân Việt Nam góp phần khẳng định đường lối
chính trị, quân sự đúng đắn, sự chỉ đạo chiến lược tài tình, sắc bén của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung
ương Việt Nam, nhất là trong việc nắm bắt tình hình, đánh giá đúng khả năng hành động của đối
phương, trên cơ sở đó kịp thời chỉ đạo, chỉ huy các lực lượng vũ trang và nhân dân chuẩn bị các mặt
sẵn sàng đối phó; tăng cường củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, tạo dựng thế trận chiến tranh nhân
dân vững chắc.

Qua thực tiễn điều hành, chỉ đạo chiến tranh, Trung ương Đảng và Chính phủ Việt Nam luôn khẳng
định về quyền tự vệ chính đáng của mình, kiên quyết đánh trả mọi cuộc tiến công xâm phạm chủ
86

quyền, nhưng đồng thời cũng luôn thể hiện rõ lòng bao dung, khát vọng hòa bình, mong muốn chấm
dứt xung đột để xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa hai dân tộc Việt Nam-Trung Quốc, góp phần gìn
giữ môi trường hòa bình, ổn định trong khu vực cũng như trên thế giới.

CHỦ ĐỀ 27: PHÂN TÍCH NỘI DUNG CÔNG NGHIỆP HÓA XHCN CỦA CHẶNG ĐƯỜNG
ĐẦU TIÊN ĐƯỢC ĐẠI HỘI V (3/1982) VẠCH RA.

1. Hoàn cảnh đại hội V (3/1982)

Đại hội Đảng lần thứ V họp từ ngày 27 đến ngày 31-3-1982 trong bối cảnh tình hình và thế giới
trong nước có một số mặt thuận lợi, nhưng nhiều khó khăn, thách thức mới. Hoa Kỳ tiếp tục
thực hiện chính sách bao vây cấm vận và “kế hoạch hậu chiến”. Chủ nghĩa đế quốc và các thế
lực phản động quốc tế ra sức tuyên truyền xuyên tạc việc quân tình nguyện Việt Nam làm
nghĩa vụ quốc tế ở Campuchia, gây sức ép với Việt Nam, chia rẽ ba nước Đông Dương. Trong
nước, tình trạng khủng hoảng kinh tế-xã hội ở nước ta ngày càng trầm trọng. Hầu hết các chỉ
tiêu đề ra tại Đại hội IV chưa hoàn thành.

2. Nêu các nội dung đại hội V

Đại hội đã kiểm điểm, đánh giá thành tựu, khuyết điểm, sai lầm của Đảng,phân tích nguyên
nhân thắng lợi và khó khăn của đất nước, những biến động của tình hình thế giới; khẳng định
tiếp tục thực hiện đường lối chung và đường lối kinh tế do Đại hội lần thứ IV đề ra. Đại hội V
đã có những nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội và con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước
ta.

Thứ nhất, Đại hội đưa ra quan niệm mới về chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ đi
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Khẳng định thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
phải trải qua nhiều chặng đường, chặng đường đầu tiên gồm 5 năm 1981-1985 và kéo dài đến
những năm 1990 với nội dung kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội rất nặng nề. Về mục tiêu tổng
quát trong chặng đường đầu tiên là:

+ Ổn định dần dần, tiến lên cải thiện một bước đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân.

+ Tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, chủ yếu nhằm thúc đẩy sản
xuất nông nghiệp, hàng tiêu dùng và xuất khẩu, đáp ứng nhu cầu của công cuộc phòng thủ đất
nước, củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh, trật tự xã hội.

+ Hoàn thành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở các tỉnh miền Nam, hoàn thiện quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, củng cố quan hệ sản xuất trên phạm vi cả nước.

Thứ hai, Đại hội xác định cách mạng Việt Nam thời kỳ này có hai nhiệm vụ chiến lược:
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa.

Thứ ba, Đại hội đã có những điều chỉnh về nội dung, bước đi, cách làm của công nghiệp
hoá xã hội chủ nghĩa trong chặng đường đầu tiên.

3. Nêu và phân tích nội dung công nghiệp hóa XHCN của chặng đường đầu tiên được đại
hội V vạch ra.
87

Nội dung, bước đi, cách làm thực hiện công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong chặng đường
đầu tiên là: tập trung sức phát triển mạnh nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng
đầu, đưa nông nghiệp một bước lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, ra sức đẩy mạnh sản
xuất hàng tiêu dùng và tiếp tục xây dựng một số ngành công nghiệp nặng quan trọng; kết hợp
nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp nặng trong cơ cấu công - nông nghiệp
hợp lý.

Nội dung đó phản ánh đúng bước đi của công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa,phù hợp với thực
tiễn nước ta; nhằm khai thác, phát huy thế mạnh, tiềm năng của đất nước về lao động, đất đai,
ngành nghề... giải quyết đúng đắn mối quan hệ công nghiệp với nông nghiệp làm cơ sở để thực
hiện nhiệm vụ chủ yếu của chặng đường đầu tiên, tạo ra những tiền đề cần thiết cho việc đẩy
mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo.

Nông nghiệp là ngành kinh tế quan trọng và có vai trò tăng trưởng mạnh mẽ trong nền kinh tế
của một quốc gia. Tập trung sức phát triển mạnh vào ngành nông nghiệp không chỉ giúp đảm
bảo an ninh lương thực, mà còn đóng góp vào sự phát triển bền vững và cải thiện chất lượng
cuộc sống của người dân.

4. Ý nghĩa đại hội V

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V (3-1982) đã có những đổi mới trong bước đi và biện pháp
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trước hết là sự đổi mới tư duy kinh tế trên một số lĩnh vực kinh tế,
văn hóa và xã hội,...

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng là kết quả của một quá trình tập hợp ý kiến của
toàn Đảng để đề ra nhiệm vụ, phương hướng... nhằm giải quyết những vấn đề gay gắt, nóng
bỏng đang đặt ra của cách mạng Việt Nam. Đại hội đánh dấu một sự chuyển biến mới về sự
lãnh đạo của Đảng trên con đường đấu tranh “tất cả vì Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, vì hạnh phúc
của nhân dân”.

CHỦ ĐỀ 28: LÀM RÕ NHỮNG BƯỚC ĐỘT PHÁ TRONG ĐỔI MỚI TƯ DUY QUẢN LÝ
KINH TẾ CỦA ĐẢNG TỪ NĂM 1979 ĐẾN NĂM 1985.

1/ Hoàn cảnh: nhấn mạnh khó khăn về Kinh tế từ 1975-1979


- Sau năm 1975 đất nước ta bước vào một kỷ nguyên mới: Tổ quốc hoàn toàn độc lập, thống
nhất, cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
- Sau khi giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước, nước ta bước vào thời kỳ khôi phục kinh
tế. Đảng nhận thấy rõ những khó khăn của nền kinh tế đất nước: cơ sở vật chất kỹ thuật còn yếu
kém, năng suất lao động thấp, sản xuất chưa đảm bảo nhu cầu đời sống và tích lũy….
- Trong khi đó, Mỹ tiếp tục thực hiện chính sách bao vây cấm vận và “kế hoạch hậu chiến”
- Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế ra sức tuyên truyền xuyên tạc việc quân
tình nguyện Việt Nam làm nghĩa vụ quốc tế ở Campuchia, gây sức ép với Việt Nam, chia rẽ ba
nước Đông Dương.
- Nhân dân Việt Nam phải tiến hành hai cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam
và biên giới phía Bắc. Các nước XHCN gặp nhiều khó khăn, đã bộc lộ trì trệ, đòi hỏi phải cải
cách, cải tổ….
2/ Các bước đột phá
* Bước đột phá đầu tiên: của quá trình tìm tòi, cải tiến quản lý kinh tế của Đảng.
88

- Hội nghị Trung ương 6 (8-1979): Được cho là bước đột phá đầu tiên đổi mới về kinh tế của
Đảng với chủ trương khắc phục những khuyết điểm, sai lầm trong quản lý kinh tế, trong cải tạo
xã hội chủ nghĩa, phá bỏ những rào cản để cho "sản xuất bung ra".
- Ban Bí thư đã ban hành Chỉ thị số 100 - CT/TW (1-1981) về khoán sản phẩm đến nhóm và
người lao động trong các hợp tác xã nông nghiệp ( gọi tắt là Khoán 100). Mỗi xã viên nhận
mức khoán theo diện tích và tự mình làm các khâu cấy, chăm sóc và thu hoạch, còn những
khâu khác do hợp tác xã đảm nhiệm. Khi thu hoạch vượt mức sẽ được hưởng và tự do mua bán.
- Thực hiện Nghị quyết Đại hội V:
+ Hội nghị Trung ương 6 (7/1984) chủ trương tập trung giải quyết một số vấn đề cấp bách về
phân phối lưu thông, đẩy mạnh thu mua nắm nguồn hàng, quản lý chặt chẽ thị trường tự do và
thực hiện điều chỉnh giá, tiền lương, tài chính.
+ Hội nghị Trung ương 7 (12/1984) đã xác định kế hoạch năm 1985 phải tiếp tục coi mặt trận
sản xuất nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, trước hết là sản xuất lương thực, thực phẩm.

* Bước đột phá thứ hai:

- Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (6-1985): Trung ương chủ trương xóa bỏ cơ chế tập trung quan
liêu hành chính bao cấp, lấy giá - lương - tiền là khâu đột phá để chuyển sang cơ chế hạch toán,
kinh doanh xã hội chủ nghĩa.
- Nội dung xóa bỏ cơ chế quan liêu, bao cấp trong giá và lương là tính đủ chi phí hợp lý trong giá
thành sản phẩm; giá cả đảm bảo bù đắp chi phí thực tế hợp lý, người sản xuất có lợi nhuận thỏa
đáng, Nhà nước từng bước có tích lũy, xóa bỏ tình trạng Nhà nước mua thấp, bán thấp và bù lỗ;
thực hiện cơ chế một giá trong việc định giá và quản lý giá.
- Giá, lương, tiền coi là khâu đột phá để chuyển đổi cơ chế. Thực hiện trả lương bằng tiền có
hàng hóa đảm bảo, xóa bỏ chế độ cung cấp hiện vật theo giá thấp, thoát ly giá trị hàng hóa.
- Xóa bỏ các khoản chi của ngân sách trung ương, địa phương mang tính chất bao cấp tràn lan.
Nhanh chóng chuyển hẳn công tác ngân hàng hạch sách toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ
nghĩa..

* Bước đột phá thứ ba: bước quyết định cho sự ra đời của đường lối đổi mới của Đảng.

- Hội nghị Bộ Chính trị khoá V (8/1986): Bộ chính trị đã tập trung thảo luận và kết luận về một số
vấn đề quan điểm kinh tế. Đó là: cơ cấu kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa, cơ chế quản lý kinh tế.
- Về cơ cấu kinh tế: Hội nghị chủ trương điều chỉnh lớn cơ cấu kinh tế và cơ cấu đầu tư theo hướng
lấy nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, ra sức phát triển công nghiệp nhẹ.
- Về cải tạo xã hội chủ nghĩa: Là nhiệm vụ phải tiến hành thường xuyên, liên lạc trong suốt thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cần lựa chọn bước đi và hình thức thích hợp, làm cho quan hệ sản
xuất luôn phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất.
- Về cơ chế quản lý: Đối với kế hoạch hóa theo nguyên tắc phát huy vai trò chủ đạo của các quy luật
kinh tế xã hội chủ nghĩa, sử dựng đúng đắn các quy luật của quan hệ hàng hóa - tiền tệ. Phân công,
phân cấp quyền tập trung thống nhất của Trung ương trong những khâu then chốt về kinh tế,
quyền chủ động của địa phương, quyền tự chủ sản xuất kinh doanh của cơ sở.

3/ Ý nghĩa: Từ năm 1979 - 1985 là những năm đất nước phải đương đầu với hai cuộc chiến tranh biên
giới rất phức tạp, phải đối phó với chính sách bao vây cấm vận của các thế lực thù địch, đồng thời cũng
là những năm mà nhược điểm của mô hình và cơ chế quản lý cũ đã bộc lộ ra rất rõ và trở thành lực cản
lớn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Những tìm tòi, thử nghiệm về đường lối của
Đảng và nhân dân ta ở thời kỳ nay tuy chưa khắc phục được khủng hoảng kinh tế - xã hội nhưng đã tạo
89

ra những tiền đề cần thiết cho việc hình thành đường lối đổi mới toàn diện mà Đại hội VI là mốc mở
đầu.

4/ Nhận xét:
- Tổng kết 10 năm 1975 - 1986, Đảng đã khẳng định 3 thành tựu nổi bật là:
+ Thực hiện thắng lợi chủ trương thống nhất nước nhà về mặt nhà nước
+ Đạt được những thành tựu quan trọng trong xây dựng chủ nghĩa xã hội
+ Giành thắng lợi to lớn trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế.
- Tuy nhiên những sai lầm, khuyết điểm nổi bật là không hoàn thành các mục tiêu kinh tế - xã
hội do Đại hội IV và Đại hội V của Đảng đề ra: Đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội
kéo dài; sản xuất tăng chậm và không ổn định; nền kinh tế luôn trong trạng thái thiếu hụt; lạm
phát tăng cao; tiêu cực xã hội lan tràn; …….. Do những sai lầm kéo dài của Đảng về chủ
trương, chính sách lớn, về chỉ đạo chiến lược và công tác tổ chức thực hiện.
- Tóm lại các bước đột phá tháng 8/1979, tháng 6/1985 và tháng 8/1986 phản ánh sự phát triển
nhận thức từ quá trình khảo nghiệm, tổng kết thực tiễn, từ sáng kiến và nguyện vọng lợi ích của
nhân dân để hình thành đường lối đổi mới.

CHỦ ĐỀ 29: PHÂN TÍCH YÊU CẦU VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA HAI NHIỆM VỤ CHIẾN
LƯỢC XÂY DỰNG THÀNH CÔNG CNXH VÀ BẢO VỆ VỮNG CHẮC TỔ QUỐC VIỆT
NAM XHCN CỦA ĐẠI HỘI V (3/1982).

1. Hoàn cảnh đại hội V (3/1982)

Đại hội Đảng lần thứ V họp từ ngày 27 đến ngày 31-3-1982 trong bối cảnh tình hình và thế giới
trong nước có một số mặt thuận lợi, nhưng nhiều khó khăn, thách thức mới. Hoa Kỳ tiếp tục
thực hiện chính sách bao vây cấm vận và “kế hoạch hậu chiến”. Chủ nghĩa đế quốc và các thế
lực phản động quốc tế ra sức tuyên truyền xuyên tạc việc quân tình nguyện Việt Nam làm
nghĩa vụ quốc tế ở Campuchia, gây sức ép với Việt Nam, chia rẽ ba nước Đông Dương. Trong
nước, tình trạng khủng hoảng kinh tế-xã hội ở nước ta ngày càng trầm trọng. Hầu hết các chỉ
tiêu đề ra tại Đại hội IV chưa hoàn thành.

2. Nêu các nội dung đại hội V

Thứ nhất, Đại hội đưa ra quan niệm mới về chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ đi
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Khẳng định thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
phải trải qua nhiều chặng đường, chặng đường đầu tiên gồm 5 năm 1981-1985 và kéo dài đến
những năm 1990 với nội dung kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội rất nặng nề. Về mục tiêu tổng
quát trong chặng đường đầu tiên là:

+ Ổn định dần dần, tiến lên cải thiện một bước đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân.

+ Tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, chủ yếu nhằm thúc đẩy sản
xuất nông nghiệp, hàng tiêu dùng và xuất khẩu, đáp ứng nhu cầu của công cuộc phòng thủ đất
nước, củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh, trật tự xã hội.

+ Hoàn thành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở các tỉnh miền Nam, hoàn thiện quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, củng cố quan hệ sản xuất trên phạm vi cả nước.
90

Thứ hai, Đại hội xác định cách mạng Việt Nam thời kỳ này có hai nhiệm vụ chiến lược:
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa.

Thứ ba, Đại hội đã có những điều chỉnh về nội dung, bước đi, cách làm của công nghiệp
hoá xã hội chủ nghĩa trong chặng đường đầu tiên.

3. Phân tích yêu cầu và mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng thành công
CNXH và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN của Đại hội V (3/1982).

Đại hội V khẳng định cách mạng Việt Nam thời kỳ này có hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN. Hai nhiệm vụ
chiến lược có quan hệ mật thiết với nhau: “Trong khi không một phút lơi lỏng nhiệm vụ củng
cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc, Đảng ta và nhân dân ta phải đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây
dựng chủ nghĩa xã hội”.

Dựng nước đi đôi với giữ nước là quy luật tồn tại và phát triển của dân tộc ta qua hàng nghìn
năm lịch sử. Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là quy luật phát
triển của cách mạng nước ta, là hai nhiệm vụ chiến lược của đất nước ta. Xây dựng chủ nghĩa
xã hội là phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội để đất nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa
phồn vinh, nhân dân có cuộc sống tự do, hạnh phúc, một đất nước dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh. Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ
xã hội chủ nghĩa, bảo vệ công cuộc đổi mới, bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc, bảo vệ nền văn
hóa dân tộc, giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội.

Quan hệ giữa xây dựng chủ quyền xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là khách quan, tất
yếu, thống nhất, gắn bó chặt chẽ với nhau, tạo tiền đề, điều kiện cho nhau, cùng hướng tới một
mục tiêu chung là độc lập, chủ quyền của đất nước, tự do, hạnh phúc của nhân dân. Có bảo vệ
được độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ mới có đất nước để xây dựng; có giữ
vững môi trường hòa bình, ổn định mới có thể xây dựng, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội đất
nước; có bảo vệ được Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa mới có tiền đề, điều kiện để
xây dựng chủ nghĩa xã hội, phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa. Bảo vệ nhân
dân, bảo vệ lợi ích quốc gia, bảo vệ nền văn hóa dân tộc là nghĩa vụ, trách nhiệm của Đảng,
Nhà nước, những người lãnh đạo, quản lý đất nước. Đồng thời, ngược lại, có xây dựng, phát
triển kinh tế, văn hóa, xã hội, nâng cao sức mạnh tổng hợp, thế và lực, uy tín quốc tế của đất
nước, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân mới có nguồn lực để
đầu tư củng cố, tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh của đất nước; mới củng cố, tăng
cường được sức mạnh của khối đoàn kết dân tộc, thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh
nhân dân vững chắc; tạo được sự ủng hộ, giúp đỡ của bạn bè quốc tế... Đây là những yếu tố có
vai trò và ý nghĩa quyết định đối với việc bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

4. Ý nghĩa đại hội V.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V (3-1982) đã có những đổi mới trong bước đi và biện pháp
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trước hết là sự đổi mới tư duy kinh tế trên một số lĩnh vực kinh tế
và văn hóa xã hội,...
91

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng là kết quả của một quá trình tập hợp ý kiến của
toàn Đảng để đề ra nhiệm vụ, phương hướng... nhằm giải quyết những vấn đề gay gắt, nóng
bỏng đang đặt ra của cách mạng Việt Nam. Đại hội đánh dấu một sự chuyển biến mới về sự
lãnh đạo của Đảng trên con đường đấu tranh “tất cả vì Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, vì hạnh phúc
của nhân dân”.

CHỦ ĐỀ 30: PHÂN TÍCH NHỮNG THÀNH TỰU, HẠN CHẾ VÀ NGUYÊN NHÂN HẠN CHẾ
CỦA THỜI KỲ 10 NĂM XÂY DỰNG CNXH TRÊN PHẠM VI CẢ NƯỚC (1976 – 1985).

1. Hoàn cảnh Đại hội lần thứ VI

Đại hội VI của Đảng diễn ra tại Hà Nội từ ngày 15 đến ngày 18/12/1986, trong bối cảnh cuộc
cách mạng khoa học - kỹ thuật đang phát triển mạnh, xu thế đối thoại trên thế giới đang dần thay thế
xu thế đối đầu. Đổi mới đã trở thành xu thế của thời đại. Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa đều
tiến hành cải tổ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Việt Nam đang bị các đế quốc và thế lực thù
địch bao vây, cấm vận và ở tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội. Lương thực, thực phẩm, hàng tiêu
dùng đều khan hiếm; lạm phát tăng từ 300% năm 1985 lên hơn 774% năm 1986. Các hiện tượng tiêu
cực, vi phạm pháp luật, vượt biên trái phép diễn ra khá phổ biến. Đổi mới đã trở thành đòi hỏi bức thiết
của tình hình đất nước.

2. Phân tích những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân hạn chế của thời kỳ 10 năm xây
dựng CNXH trên phạm vi cả nước (1976 – 1985)

Đại hội VI đã nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, đánh giá thành tựu,
nghiêm túc kiểm điểm, chỉ rõ những sai lầm, khuyết điểm của Đảng trong thời kỳ 1975 - 1986.

Tổng kết 10 năm 1975 - 1986, Đảng đã khẳng định 3 thành tựu nổi bật là:

Thực hiện thắng lợi chủ trương thống nhất nước nhà về mặt nhà nước; đạt được những thành
tựu quan trọng trong xây dựng chủ nghĩa xã hội; giành thắng lợi to lớn trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc
và làm nghĩa vụ quốc tế. Những thành tựu trên đã tạo cho cách mạng nước ta những nhân tố mới để
tiếp tục tiến lên.

Song những sai lầm, khuyết điểm nổi bật là không hoàn thành các mục tiêu kinh tế - xã hội do
Đại hội IV và Đại hội V của Đảng đề ra Đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội kéo dài; sản
xuất tăng chậm và không ổn định; nền kinh tế luôn trong tình trạng thiếu hụt, không có tích lũy; lạm
phát tăng cao và kéo dài. Đất nước bị bao vây, cô lập, đời sống nhân dân hết sức khó khăn, lòng tin đối
với Đảng, Nhà nước, chế độ giảm sút nghiêm trọng.

Nguyên nhân khách quan dẫn đến khủng hoảng kinh tế - xã hội là do chúng ta xây dựng đất
nước từ nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, sản xuất nhỏ là phổ biến, bị bao vây, cấm vận nhiều năm,
nguồn viện trợ từ nước ngoài giảm mạnh; hậu quả nặng nề của 30 năm chiến tranh chưa kịp hàn gắn
thì chiến tranh biên giới ở hai đầu đất nước làm nảy sinh những khó khăn mới.

Về chủ quan là do những sai lầm của Đảng trong đánh giá tình hình, xác định mục tiêu, bước
đi, sai lầm trong bố trí cơ cấu kinh tế; sai lầm trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, trong lĩnh vực phân phối,
lưu thông; duy trì quá lâu cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp; buông lỏng chuyên chính vô sản trong
quản lý kinh tế, quản lý xã hội và trong đấu tranh chống âm mưu, thủ đoạn phá hoại nhiều mặt của
địch.
92

(Có thể phân tích sâu hơn ở phần chữ nhỏ in nghiêng nếu chưa đủ dài và chi tiết phần nguyên
nhân của hạn chế)

(Trong lĩnh vực tư tưởng, đã bộc lộ sự lạc hậu về nhận thức lý luận và vận dụng các quy luật
đang hoạt động trong thời kỳ quá độ; đã mắc bệnh duy ý chí, giản đơn hoá, muốn thực hiện nhanh
chóng nhiều mục tiêu của chủ nghĩa xã hội trong điều kiện nước ta mới ở chặng đường đầu tiên.
Chúng ta đã có những thành kiến không đúng, trên thực tế, chưa thật sự thừa nhận những quy luật của
sản xuất hàng hoá đang tồn tại khách quan; do đó, không chú ý vận dụng chúng vào việc chế định các
chủ trương, chính sách kinh tế. Chưa chú ý đầy đủ việc tổng kết kinh nghiệm thực tiễn của mình và
nghiên cứu kinh nghiệm của các nước anh em.

Trong công tác tổ chức, khuyết điểm lớn nhất là sự trì trệ, chậm đổi mới công tác cán bộ. Việc
lựa chọn, bố trí cán bộ vào các cơ quan lãnh đạo và quản lý các cấp còn theo một số quan niệm cũ kỹ
và tiêu chuẩn không đúng đắn, mang nặng tính hình thức, không xuất phát từ yêu cầu của nhiệm vụ
chính trị và yêu cầu của công việc; cách làm lại thiếu quy hoạch, chưa chú ý lắng nghe ý kiến của
quần chúng. Công tác giáo dục và quản lý cán bộ, đảng viên thiếu chặt chẽ.

Phong cách lãnh đạo và lề lối làm việc mang nặng chủ nghĩa quan liêu, lời nói không đi đôi
với việc làm, không tuân thủ quy trình làm việc và ra quyết định. Việc chỉ đạo, điều hành thường
không tập trung, thiếu kiên quyết và nhất quán. Trong các đảng bộ và các cấp uỷ có sự vi phạm
nguyên tắc Lêninnít trong sinh hoạt đảng, trước hết là nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo,
cá nhân phụ trách, thiểu số phục tùng đa số, cấp d­ưới phục tùng cấp trên, toàn Đảng phục tùng Trung
ương.

Về mặt tổ chức, đã để cho bộ máy nhà nước, bộ máy của Đảng và các đoàn thể phình ra quá
lớn, chồng chéo và phân tán.)

Đó là những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo
chiến lược và tổ chức thực hiện. Khuynh hướng tư tưởng chủ yếu của những sai lầm, khuyết điểm đó,
đặc biệt trên lĩnh vực kinh tế, là bệnh chủ quan duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động giản đơn, nóng
vội, chạy theo nguyện vọng chủ quan. Đó là tư tưởng tiểu tư sản, vừa tả khuynh vừa hữu khuynh.
Nguyên nhân của mọi nguyên nhân bắt nguồn từ những khuyết điểm trong hoạt động tư tưởng, tổ chức
và công tác cán bộ của Đảng.

3. Ý nghĩa, tác dụng

Trên cơ sở phân tích, đánh giá tình hình đất nước, tự phê bình về những sai lầm khuyết điểm,
đổi mới tư lý luận trải qua nhiều tìm tòi, khảo nghiệm từ thực tiễn, Đại hội đã đề ra đường lối đổi mới
cho giai đoạn tiếp theo từ đó sửa chữa, khắc phục những hạn chế còn tồn đọng của giai đoạn 10 năm
1975-1986. Để qua đó tiếp tục đưa nước ta phát triển đi lên theo con đường Chủ nghĩa Xã hội.

CHỦ ĐỀ 31: PHÂN TÍCH NỘI DUNG BỐN BÀI HỌC KINH NGHIỆM CỦA THỜI KỲ XÂY
DỰNG CNXH TRƯỚC ĐỔI MỚI ĐƯỢC ĐẠI HỘI LẦN THỨ VI (12/1986) CỦA ĐẢNG ĐƯA
RA.

4. Hoàn cảnh Đại hội lần thứ VI

Đại hội VI của Đảng diễn ra tại Hà Nội từ ngày 15 đến ngày 18/12/1986, trong bối cảnh cuộc
cách mạng khoa học - kỹ thuật đang phát triển mạnh, xu thế đối thoại trên thế giới đang dần thay thế
xu thế đối đầu. Đổi mới đã trở thành xu thế của thời đại. Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa đều
93

tiến hành cải tổ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Việt Nam đang bị các đế quốc và thế lực thù
địch bao vây, cấm vận và ở tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội. Lương thực, thực phẩm, hàng tiêu
dùng đều khan hiếm; lạm phát tăng từ 300% năm 1985 lên hơn 774% năm 1986. Các hiện tượng tiêu
cực, vi phạm pháp luật, vượt biên trái phép diễn ra khá phổ biến. Đổi mới đã trở thành đòi hỏi bức thiết
của tình hình đất nước.

5. Nội dung cơ bản của Đại hội VI

● Đại hội rút ra 4 bài học kinh nghiệm lớn có ý nghĩa quan trọng đối với việc chỉ đạo sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN:

- Trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng "lấy dân làm gốc",phát huy
quyền làm chủ của nhân dân.

- Đảng phải xuất phát từ thực tiễn, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan.

- Kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại trong điều kiện lịch sử mới.

- Xây dựng Đảng ngang tầm là một Đảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân xây dựng CNXH.

● Đại hội khẳng định hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng nước ta là xây dựng thành công
CHXN và bảo vệ vững chắc Tổ quốc XHCN.

● Đại hội VI đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện, trong đó trọng tâm là đổi mới kinh tế.

● Đại hội đề ra 5 mục tiêu cụ thể trong những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là:

- Sản xuất đủ tiêu dùng và có tích luỹ;

- Bước đầu tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý nhằm phát triển sản xuất;

- Xây dựng và hoàn thiện một bước quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất;

- Tạo ra chuyển biến tốt về mặt xã hội;

- Bảo đảm nhu cầu củng cố quốc phòng và an ninh.

● Đại hội đã đề ra phương hướng và các chính sách kinh tế – xã hội:

- Bố trí lại cơ cấu sản xuất, điều chỉnh cơ cấu đầu tư; về xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất
XHCN, sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế; đổi mới cơ chế quản lý kinh tế;
phát huy mạnh mẽ động lực khoa học – kỹ thuật; mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối
ngoại. Đại hội nhấn mạnh giải pháp tập trung sức người, sức của vào việc thực hiện ba chương
trình mục tiêu: lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu

- Đại hội nhấn mạnh ba chương trình mục tiêu đó là sự cụ thể hoá nội dung chính của công
nghiệp hoá XHCN trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ.

- Bốn nhóm chính sách xã hội là: Kế hoạch hóa dân số, giải quyết việc làm cho người lao động.
Thực hiện công bằng xã hội, bảo đảm an toàn xã hội, khôi phục trật tự, kỷ cương trong mọi lĩnh
vực xã hội. Chăm lo đáp ứng các nhu cầu giáo dục, văn hóa, bảo vệ và tăng cường sức khỏe
của nhân dân. Xây dựng chính sách bảo trợ xã hội
94

- Đối ngoại: tăng cường tình hữu nghị và hợp tác toàn diện với Liên Xô và các nước xã hội chủ
nghĩa; bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc vì lợi ích của nhân dân hai nước, vì hòa bình ở
Đông Nam Á và trên thế giới. Kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, phấn
đấu giữ vững hoà bình ở Đông Dương, Đông Nam Á và trên thế giới, tăng cường quan hệ đặc
biệt giữa ba nước Đông Dương, quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện với Liên Xô và các
nước trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa

6. Phân tích nội dung bốn bài học kinh nghiệm

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng được diễn ra với những kế thừa và đường lối
đổi mới dẫn nước ta ra khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội, mở đầu trong công cuộc đổi mới
toàn diện của đất nước. Đại hội đã nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng đắn những thành tựu và khó
khăn mà đất nước đang phải đối mặt, từ đó rút ra 4 bài học quý báu.

Một là, trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm
gốc”. Đây là bài học xuyên suốt trong thời kỳ đổi mới, là sự tiếp nối truyền thống của lịch sử dân tộc
ta. Tuy nhiên, từ thực tiễn công cuộc đổi mới, Đảng ta ngày càng nhận thức sâu sắc, đầy đủ hơn về nội
dung, ý nghĩa của bài học này. Sự nghiệp đổi mới bắt đầu từ những sáng kiến của quần chúng nhân
dân, vì lợi ích của nhân dân, phù hợp với mong muốn, lợi ích của nhân dân, được nhân dân đồng tình
ủng hộ: Đường lối ấy hình thành trên cơ sở phát huy tinh thần độc lập, tự chủ, tổng kết những kinh
nghiệm sáng tạo của nhân dân, của các cấp, các ngành, hợp quy luật, thuận lòng người, nên nhanh
chóng đi vào cuộc sống.

Hai là, Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật
khách quan. Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng, lấy chủ
nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử làm phương pháp hoạt động. Tuy nhiên, không
phải không có lúc Đảng rơi vào bệnh chủ quan duy ý chí, vì lẽ đó dẫn đến khủng hoảng kinh tế - xã hội
trong thập kỷ 80 của thế kỷ XX. Từ sự khủng hoảng đó, một trong những bài học kinh nghiệm quan
trọng được rút ra trong suốt thời kỳ đổi mới là Đảng phải xuất phát từ hiện thực khách quan, tôn trọng
và hành động theo các quy luật khách quan. Để khắc phục được khuyết điểm, chuyển biến được tình
hình, Đảng ta trước hết phải biến hóa nhận thức, thay đổi tư duy. Phải nhận thức đúng đắn và có những
hành vi tương thích với mạng lưới hệ thống quy luật khách quan, trong đó những quy luật đặc trưng
của chủ nghĩa xã hội ngày càng chi phối can đảm và mạnh mẽ phương hướng tăng trưởng chung của
xã hội . Thực tế xây dựng chủ nghĩa xã hội trong những năm qua cho thấy, do xuất phát từ hiện thực
khách quan, hành động theo các quy luật khách quan, Đảng đã lãnh đạo nhân dân giành được những
thắng lợi vĩ đại. Việc Đảng lãnh đạo chuyển từ thể chế kinh tế kế hoạch sang kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, chuyển từ chế độ đơn sở hữu sang đa sở hữu, chuyển từ hệ thống chuyên
chính vô sản sang hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa, thực hiện đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ
quốc tế... chính là tôn trọng và hành động theo các quy luật khách quan. Và nhờ vậy, đất nước đã có
những sự thay đổi vượt bậc trên nhiều mặt. Bài học này không chỉ có tác dụng hiện nay, mà còn có tác
dụng chỉ đạo trong suốt quá trình cách mạng. Bởi thực tiễn luôn vận động, điều đó đòi hỏi nhận thức
của con người, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước phải thay đổi để đáp ứng yêu cầu của thực
tế.

Ba là, phải biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới.
Trong hàng loạt sự nghiệp cách mạng của mình, tất cả chúng ta phải đặc biệt quan trọng, coi trọng phối
hợp những yếu tố dân tộc bản địa và quốc tế, những yếu tố truyền thống lịch sử và thời đại, sử dụng tốt
mọi năng lực để mở rộng quan hệ thương mại, hợp tác kinh tế tài chính và khoa học, kỹ thuật với bên
95

ngoài để tiến hành công cuộc kiến thiết xây dựng chủ nghĩa xã hội và luôn luôn làm tròn nghĩa vụ và
trách nhiệm quốc tế của mình so với các nước bạn. Bên cạnh đó, tinh thần chủ đạo là phải chủ động,
tích cực, dự báo đúng tình hình, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, lợi ích quốc gia dân tộc, vận
dụng đến mức cao nhất những yếu tố của bối cảnh quốc tế cho sự phát triển đất nước.

Bốn là, chăm lo xây dựng Đảng ngang tầm với một Đảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân
tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đây là bài học quan trọng, xuyên suốt trong thời kỳ đổi mới.
Để bảo đảm cho Đảng ta làm tròn thiên chức lịch sử vẻ vang vẻ vang đó, yếu tố cấp bách là tăng cường
sức chiến đấu và nâng cao năng lượng chỉ huy, năng lượng tổ chức triển khai thực tiễn của Đảng. Đảng
lãnh đạo bằng chủ trương, đường lối, bằng việc lãnh đạo thể chế hóa các chủ trương đường lối, do vậy,
Đảng vừa phải có quyết tâm chính trị cao, đồng thời phải hành động quyết liệt,sáng tạo nhằm kịp thời,
chủ động tháo gỡ các điểm nghẽn cho sự phát triển. Sự lãnh đạo của Đảng phải bảo đảm sự quyết liệt,
sáng tạo, phát huy dân chủ gắn với kỷ cương, chỉ như vậy sự nghiệp đổi mới mới thành công.

7. Ý Nghĩa 4 bài học kinh nghiệm

Bốn bài học trên được đại hội đưa ra dựa trên cái nhìn tổng quát, khách quan về tình hình thực
tế của đất nước. Những bài học kinh nghiệm đó rút ra từ chính quá trình lãnh đạo và sự nghiệp cách
mạng của Đảng, của dân tộc, là sự vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác
- Lênin vào điều kiện cụ thể Việt Nam.

CHỦ ĐỀ 32: PHÂN TÍCH NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CHỦ TRƯƠNG ĐỔI MỚI XÂY DỰNG
NỀN KINH TẾ TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CNXH CỦA ĐẠI HỘI VI (12/1986).

1. Hoàn cảnh lịch sử của đại hội VI


- Trong thời kỳ kế hoạch năm năm 1981-1985, chúng ta không thực hiện được mục tiêu đã đề ra
là cơ bản ổn định tình hình kinh tế - xã hội, ổn định đời sống của nhân dân.

- Sai lầm về tổng điều chỉnh giá, lương, tiền cuối năm 1985 đã đưa nền kinh tế của đất nước ta
đến những khó khăn mới. Nền kinh tế - xã hội nước ta đã lâm vào khủng hoảng trầm trọng.

- Tình hình đất nước đang đòi hỏi Đảng phải tích cực chuẩn bị và tiến hành Đại hội lần thứ VI
theo yêu cầu đổi mới mạnh mẽ, phải nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, đánh giá đúng thực
trạng của đất nước. Từ đó xác định đúng mục tiêu và nhiệm vụ của cách mạng trong chặng
đường trước mắt, đề ra chủ trương, chính sách đúng để xoay chuyển tình thế, đưa đất nước
vượt qua khó khăn, tiến lên phía trước.

2. Nội dung đại hội VI

* Nội dung cơ bản của đường lối đổi mới do Đại hội VI đề ra

● Đại hội rút ra 4 bài học kinh nghiệm lớn có ý nghĩa quan trọng đối với việc chỉ đạo sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN:

- Trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng "lấy dân làm gốc",phát huy
quyền làm chủ của nhân dân.

- Đảng phải xuất phát từ thực tiễn, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan.

- Kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại trong điều kiện lịch sử mới.

- Xây dựng Đảng ngang tầm là một Đảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân xây dựng CNXH.
96

● Đại hội khẳng định hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng nước ta là xây dựng thành công
CHXN và bảo vệ vững chắc Tổ quốc XHCN.

● Đại hội VI đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện, trong đó trọng tâm là đổi mới kinh tế.

● Đại hội đề ra 5 mục tiêu cụ thể trong những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là:

- Sản xuất đủ tiêu dùng và có tích luỹ;

- Bước đầu tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý nhằm phát triển sản xuất;

- Xây dựng và hoàn thiện một bước quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất;

- Tạo ra chuyển biến tốt về mặt xã hội;

- Bảo đảm nhu cầu củng cố quốc phòng và an ninh.

● Đại hội đã đề ra phương hướng và các chính sách kinh tế – xã hội:

- Bố trí lại cơ cấu sản xuất, điều chỉnh cơ cấu đầu tư; về xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất
XHCN, sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế; đổi mới cơ chế quản lý kinh tế;
phát huy mạnh mẽ động lực khoa học – kỹ thuật; mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối
ngoại. Đại hội nhấn mạnh giải pháp tập trung sức người, sức của vào việc thực hiện ba chương
trình mục tiêu: lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu

- Đại hội nhấn mạnh ba chương trình mục tiêu đó là sự cụ thể hoá nội dung chính của công
nghiệp hoá XHCN trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ.

- Bốn nhóm chính sách xã hội là: Kế hoạch hóa dân số, giải quyết việc làm cho người lao động.
Thực hiện công bằng xã hội, bảo đảm an toàn xã hội, khôi phục trật tự, kỷ cương trong mọi lĩnh
vực xã hội. Chăm lo đáp ứng các nhu cầu giáo dục, văn hóa, bảo vệ và tăng cường sức khỏe
của nhân dân. Xây dựng chính sách bảo trợ xã hội

- Đối ngoại: tăng cường tình hữu nghị và hợp tác toàn diện với Liên Xô và các nước xã hội chủ
nghĩa; bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc vì lợi ích của nhân dân hai nước, vì hòa bình ở
Đông Nam Á và trên thế giới. Kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, phấn
đấu giữ vững hoà bình ở Đông Dương, Đông Nam Á và trên thế giới, tăng cường quan hệ đặc
biệt giữa ba nước Đông Dương, quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện với Liên Xô và các
nước trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa

Những quan điểm về vấn đề kinh tế nói trên là một sự đổi mới rất căn bản trong tư duy kinh tế của
Đảng.

3. Nội dung về tư duy kinh tế

ĐỔI MỚI TƯ DUY KINH TẾ -TIỀN ĐỀ NHẬN THỨC LÝ LUẬN CỦA ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM
(Thời kỳ trước Đại hội VI)

1. Những bước đột phá cục bộ về đổi mới tư duy kinh tế trước đổi mới, tạo tiền đề hình thành nhận
thức lý luận đổi mới toàn diện tại Đại hội VI.
97

Trước đổi mới, do áp lực gay gắt của tình hình trong nước và quốc tế buộc chúng ta không còn con
đường nào khác phải tiến hành đổi mới. Hoạt động đầu tiên để tiến hành đổi mới chính là đổi mới tư
duy mà trước hết là tư duy kinh tế. Hội nghị Trung ương 6 khoá IV (tháng 8-1979) đã tập trung vào
những biện pháp nhằm khắc phục những yếu kém trong quản lý kinh tế và cải tạo xã hội chủ nghĩa;
điều chỉnh những chủ trương, chính sách kinh tế, phá bỏ rào cản, mở đường cho sản xuất phát triển: ổn
định nghĩa vụ lương thực trong 5 năm, phần dôi ra được bán cho Nhà nước hoặc lưu thông tự do;
khuyến khích mọi người tận dụng ao hồ, ruộng đất hoang hoá; đẩy mạnh chăn nuôi gia súc dưới mọi
hình thức (quốc doanh, tập thể, gia đình); sửa lại thuế lương thực, giá lương thực để khuyến khích sản
xuất; sửa lại chế độ phân phối trong nội bộ hợp tác xã nông nghiệp, bỏ lối phân phối theo định suất,
định lượng để khuyến khích tính tích cực của người lao động,...

Có thể nhìn nhận những tư duy đột phá về kinh tế được thể hiện trong Nghị quyết Hội nghị Trung
ương 6 khoá IV, trong Chỉ thị 100-CT/TW của Ban Bí thư và trong các Quyết định của Chính phủ thời
kỳ này như sau:

- Đó là những tư duy kinh tế ban đầu, tuy còn sơ khai, chưa cơ bản và toàn diện, nhưng là bước mở
đầu có ý nghĩa quan trọng.

- Tư duy kinh tế nổi bật trong những tìm tòi đó là “cởi trói”, "giải phóng lực lượng sản xuất" , “làm
cho sản xuất bung ra”, trên cơ sở khắc phục những khuyết điểm trong quản lý kinh tế, trong cải tạo xã
hội chủ nghĩa, tạo ra động lực cho sản xuất. Những tư duy kinh tế ban đầu đó đã đặt những cơ sở đầu
tiên cho quá trình đổi mới sau này. Tuy nhiên, do những khó khăn bởi chiến tranh biên giới phía Bắc
và Tây Nam gây ra, do thiếu đồng bộ của tư tưởng đổi mới và chưa có đủ thời gian để những chủ
trương đổi mới phát huy tác dụng, những tìm tòi đổi mới ban đầu đó đã phải trải qua các thử thách rất
phức tạp. Tư duy cũ về kinh tế hiện vật còn ăn sâu, bám rễ trong nhiều người. Bên cạnh những tư duy
cũ trên đây, trước đòi hỏi của thực tiễn cuộc sống, cũng đã xuất hiện khuynh hướng muốn đổi mới
mạnh mẽ hơn, tiếp tục đẩy tới tư duy thừa nhận sản xuất hàng hoá và những quy luật của sản xuất hàng
hóa trong chủ nghĩa xã hội.

Tháng 8-1986, trong quá trình chuẩn bị Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội VI, Bộ Chính trị đã
xem xét kỹ các vấn đề lớn, mang tính bao trùm trên lĩnh vực kinh tế, từ đó, đưa ra Kết luận đối với một
số vấn đề thuộc về quan điểm kinh tế:

a) Trong bố trí cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, phải lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu; ra sức phát
triển công nghiệp nhẹ; công nghiệp nặng được phát triển có chọn lọc; b) Trong cải tạo xã hội chủ
nghĩa, xác định cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta;

c) Trong cơ chế quản lý kinh tế, lấy kế hoạch làm trung tâm, nhưng đồng thời phải sử dụng đúng quan
hệ hàng hoá - tiền tệ, dứt khoát xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp; chính sách giá phải vận
dụng quy luật giá trị, tiến tới thực hiện cơ chế một giá. Đây là bước đột phá thứ ba về đổi mới tư duy
kinh tế, có ý nghĩa lớn trong đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Nhìn một cách khái quát, những đổi mới tư duy kinh tế trên đây là những nhận thức về sự cần thiết
phải giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất, sự cần thiết phải tạo ra động lực thiết thực cho người lao
động - đó là quan tâm đến lợi ích kinh tế, lợi ích vật chất thiết thân của người lao động,... Những tư
duy đổi mới về kinh tế đó tuy mới mang tính chất từng mặt, từng bộ phận, chưa cơ bản và toàn diện,
nhưng lại là những bước chuẩn bị quan trọng, tạo tiền đề cho bước phát triển nhảy vọt ở Đại hội VI.
98

4. Ý nghĩa

Đại hội VI của Đảng là Đại hội khởi xướng đường lối đổi mới toàn diện, đánh dấu bước ngoặt phát
triển mới trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

CHỦ ĐỀ 33: PHÂN TÍCH NHỮNG ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA CNXH Ở VIỆT NAM ĐƯỢC
ĐẠI HỘI VII (6/1996) ĐƯA RA VÀ ĐẠI HỘI XI (1/2011) BỔ SUNG, PHÁT TRIỂN.

1. Hoàn cảnh lịch sử Đại hội Đảng lần thứ VII (năm 1991)
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng diễn ra từ ngày 24 đến ngày 27-6-1991 trong bối cảnh
tình hình quốc tế và trong nước có những diễn biến phức tạp:

- Tình hình quốc tế: có những thay đổi lớn, tác động sâu sắc đến nước ta. Đang diễn ra cuộc tấn
công quyết liệt của các thế lực thù địch đế quốc và phản động vào các lực lượng hoà bình, độc lập dân
tộc, chủ nghĩa xã hội nhằm tiến tới xóa bỏ chủ nghĩa xã hội bằng mọi thủ đoạn thâm độc; cuộc khủng
hoảng toàn diện trong hệ thống xã hội chủ nghĩa dẫn đến sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở các
nước Đông Âu (1989 - 1990). Chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô đang đứng trước những thử thách
nghiêm trọng và dẫn tới sự thất bại vào nửa cuối năm 1991.

- Ở trong nước, sau hơn 4 năm thực hiện đường lối đổi mới, tình hình kinh tế - xã hội có những
chuyển biến tích cực, song vẫn chưa thoát khỏi khủng hoảng. Mặt khác, trước sự khủng hoảng và sụp
đổ của các nước xã hội chủ nghĩa đã tác động không nhỏ tới lập trường,tư tưởng và niềm tin vào chủ
nghĩa xã hội của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân.

2. 6 đặc trưng của Đại hội VII


- Do nhân dân lao động làm chủ: xác định vai trò làm chủ của xã hội xã hội chủ nghĩa là nhân dân lao
động. Nhân dân lao động không chỉ có vị thế mà còn có năng lực để làm chủ xã hội. Trong chủ nghĩa
xã hội, quần chúng nhân dân lao động được giải phóng và có điều kiện phát triển toàn diện.

- Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư
liệu sản xuất chủ yếu: lực lượng sản xuất phát triển cao là điều kiện, tiền đề để tăng năng suất lao
động, tạo cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống của nhân dân. Tuy nhiên, để nhân dân
lao động được hưởng những thành quả do sức lao động của mình đòi hỏi phải thực hiện chế độ công
hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu. Bởi vì, đó là điều kiện để thực hiện những lợi ích kinh tế cơ bản.
Chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu là bản chất kinh tế của chủ nghĩa xã hội, là cơ sở bảo
đảm cho nhân dân lao động làm chủ về kinh tế

- Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc: Đặc trưng này thể hiện mặt đời sống tinh thần của
chủ nghĩa xã hội; thể hiện mối quan hệ biện chứng, sự kết hợp hài hoà giữa cái truyền thống và cái
hiện đại, giữa giá trị bản sắc dân tộc với những giá trị văn hoá tinh hoa, tinh tuý của nhân loại trong
nền văn hoá xã hội chủ nghĩa. Khi xác định xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là
đặc trưng của chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đặt con người vào trung tâm của sự phát triển. Vì về bản chất,
văn hóa là những hoạt động sáng tạo của con người hướng tới những giá trị nhân văn, nhân bản, là
khát vọng hướng tới cái Chân, Thiện, Mỹ nhằm hoàn thiện con người, hoàn thiện xã hội. Nói tới văn
hóa là nói tới con người, do vậy phát huy vai trò của văn hóa trong phát triển chính là phát huy những
năng lực, bản chất của con người. Đó là cơ sở cho việc hoạch định chiến lược phát triển bền vững của
đất nước.
99

- Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động,
có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân: Xã hội xã hội chủ
nghĩa phải đem lại ấm no cho con người như là đòi hỏi tiên quyết. Con người phải được tự do - tự do
không chỉ bó hẹp trong nghĩa được giải phóng khỏi áp bức bóc lột, nô dịch, kìm hãm về mặt xã hội. Sự
phát triển toàn diện con người là ước mơ, khát vọng của con người tự do. Xã hội xã hội chủ nghĩa
chính là nơi: sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi
người... như C.Mác đã nói. Đặc trưng người nhất của khát vọng con người là hạnh phúc. Bởi có thể
người ta giàu có, đầy đủ tiện nghi, được phát triển, song vẫn bất hạnh. Hạnh phúc là trạng thái yên
lành, hài hòa, là tinh thần thoải mái biểu hiện sự mãn nguyện thanh cao nhất của con người. Phấn đấu
đạt tới một xã hội bảo đảm hạnh phúc cho con người, đó là một xã hội văn hóa cao

- Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ: Đảng ta coi xây dựng
khối đại đoàn kết dân tộc, vì chỉ có đoàn kết chúng ta mới tập trung được con người với sức mạnh trí
tuệ, sức sáng tạo, ý chí tự lực, tự cường, nhân cách cao đẹp,… vào quá trình phát triển đất nước. Điều
này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với nước ta, khi nguồn lực tài chính và nguồn lực vật chất cho
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội còn hạn hẹp, trong khi đó nguồn lực con người Việt Nam lại vô
cùng phong phú, nếu biết phát huy nó sẽ trở thành nguồn lực to lớn cho sự phát triển bền vững. Đảng
ta coi đoàn kết là chiến lược cách mạng vì mục tiêu chung của dân tộc chứ không nhằm phục vụ cho
lợi ích của riêng một giai cấp, tầng lớp nào. Vì vậy, xây dựng khối đại đoàn kết là sự nghiệp của toàn
dân tộc, của cả hệ thống chính trị.

- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới: . Quan hệ hữu nghị và
hợp tác chính là thể hiện bản chất hòa hảo, thiện chí và tạo điều kiện cho các quốc gia hội nhập, tiếp
thu những thành quả phát triển của mỗi bên, tích lũy kinh nghiệm và rút ngắn quá trình phát triển của
mỗi nước. Điều có ý nghĩa lớn lao hơn là ở chỗ, “hữu nghị”, “hợp tác”, “phát triển” chính là bản chất,
là khát vọng hòa đồng theo bản chất trí tuệ và tình cảm nhân văn cao cả có tính nhân loại của con
người, của loài người; điều thể hiện bản chất cao đẹp nhất của xã hội xã hội chủ nghĩa.
3/ Đại hội Đảng lần thứ XI(2011) đã:
- Giữ nguyên đặc trưng “ Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”
- Đại hội cũng đã điều chỉnh, hoàn thiện các đặc trưng cho chính xác với mục tiêu mà Đảng ta đã
đề ra, cụ thể như sau:
+ Thứ nhất: Đặc trưng về con người, cương lĩnh năm 1991 đã xác định: con người được giải
phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm
no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân. Cương lĩnh (bổ sung, phát triển
năm 2011) xác định: “Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển
toàn diện”.
+ Thứ hai: Đặc trưng về dân tộc, Cương lĩnh 1991 xác định: các dân tộc trong nước bình đẳng,
đoàn kết và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã xác định:
“Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát
triển”.
+ Thứ ba: Đặc trưng về hợp tác quốc tế, Cương lĩnh 1991 viết: “Có quan hệ hữu nghị và hợp tác
với nhân dân tất cả các nước trên thế giới”. Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã mở
rộng thành: “Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”).
- Trong các đặc trưng cơ bản Cương lĩnh năm 2011 có bổ sung hai đặc trưng bao trùm tổng quát:
Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh", "có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
100

nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo.". => Các đặc trưng
khác diễn đạt mới rõ hơn, không chỉ là thay đổi từ ngữ mà chứa đựng nội dung mới, có ý nghĩa
phù hợp với mục tiêu khi nước ta đã xây dựng xong chủ nghĩa xã hội.
4. Ý nghĩa Đại hội Đảng lần thứ XI (2011)
Thứ nhất, Đại hội có ý nghĩa trọng đại, định hướng cho toàn Đảng, toàn dân ta tiếp tục nâng
cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện
công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo
hướng hiện đại; đến giữa thế kỷ XXI nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.

Thứ hai, Đại hội có nhiệm vụ kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Đại hội X của Đảng, đề ra
phương hướng, nhiệm vụ 5 năm 2011-2015; tổng kết thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
10 năm 2001-2010, xác định Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011-2020; tổng kết, bổ
sung và phát triển Cương lĩnh năm 1991; kiểm điểm sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa X; bổ sung, sửa đổi Điều lệ Đảng; bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI (nhiệm kỳ
2011-2015). Các văn kiện này không chỉ nhằm đề ra các biện pháp để giải quyết những nhiệm vụ trước
mắt mà còn là sự định hướng lâu dài cho hành động của Đảng và nhân dân ta.

Thứ ba, Đại hội XI của Đảng là sự kiện chính trị - xã hội không những có ý nghĩa quan trọng
đối với Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam mà còn có ý nghĩa quốc tế sâu sắc. Đảng ta đã thể hiện
tầm nhìn có tính nguyên tắc, sáng tạo trong việc giải quyết các vấn đề cơ bản của cách mạng Việt
Nam, đồng thời khẳng định và kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phấn đấu đi
theo con đường xã hội chủ nghĩa. Những thành tựu và đường lối đổi mới đó là bài học và kinh nghiệm
quý báu góp phần vào kho tàng lý luận về xây dựng chủ nghĩa xã hội của những người cộng sản trên
thế giới.

CHỦ ĐỀ 34: PHÂN TÍCH NHỮNG CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC LỚN CỦA CÁCH MẠNG
VIỆT NAM ĐƯỢC HỘI NGHỊ TOÀN QUỐC GIỮA NHIỆM KỲ (4/1994) ĐƯA RA.

Thực hiện Điều lệ Đảng, từ ngày 20 đến ngày 25-01-1994, tại Hà Nội đã tiến hành Hội nghị đại biểu
toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng. Tham dự Hội nghị có 647 đại biểu, thay mặt cho 64
Đảng bộ trong cả nước.

Hội nghị đã phân tích sâu sắc những thành tựu và hạn chế của nền kinh tế - xã hội nước ta từ sau Đại
hội VII, nêu rõ sự nghiệp đổi mới của Đảng và nhân dân ta đang đứng trước các cơ hội lớn và cả
những thách thức lớn.

Bốn nguy cơ thách thức lớn đó là: nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu
vực và trên thế giới, nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa, nguy cơ về nạn tham nhũng và tệ
quan liêu, nguy cơ "diễn biến hồ binh" của các thế lực thù địch.

Thứ nhất, nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới là một
thực tế.

- Tụt hậu về kinh tế được biểu hiện trên rất nhiều mặt như thu nhập bình quân theo đầu người; năng
suất lao động; năng lực cạnh tranh... Tất cả các mặt này chúng ta vẫn cịn có nhiều hạn chế. Năng suất
lao động vẫn còn thấp so với nhiều nước trên thế giới, do nền kinh tế vẫn đang trong mơ hình tăng
trưởng theo chiều rộng, dựa trên khai thác tài nguyên và lao động giá rẻ.
101

- Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra mạnh mẽ, nền kinh tế Việt Nam đang phải đối mặt
với sức ép cạnh tranh rất gay gắt mà nếu không đáp ứng được có thể bị thua ngay trên sân nhà. Thu
nhập bình quân đầu người của nước ta tăng lên, chúng ta đã bước vào các quốc gia có thu nhập trung
bình nhưng vẫn còn khoảng cách lớn về thu nhập so với thế giới.

Thứ hai, nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa vẫn tiềm ẩn

- Nguy cơ chệch hướng về chính trị là sai lầm về đường lối, xa rời chủ nghĩa Mác - Lênin và những
nguyên lý của chủ nghĩa xã hội khoa học.

- Về văn hóa thể hiện ở xu hướng coi nhẹ văn hóa, không giữ gìn và phát huy được bản sắc, truyền
thống văn hóa của dân tộc, chạy theo giá trị bên ngoài.

- Về mặt kinh tế, nguy cơ chệch hướng thể hiện ở chỗ nhiều doanh nghiệp, kể cả tư nhân và nhà nước
thoát ly khỏi sự quản lý của nhà nước, chỉ biết làm giàu, thu lợi nhuận bằng mọi cách, không gắn vì lợi
ích của đất nước, dân tộc và nhân dân. Doanh nghiệp vì lợi nhuận của mình mà xả thải gây ô nhiễm
môi trường, gian lận thương mại, trốn thuế, không đảm bảo lợi ích của người lao động và người tiêu
dùng, doanh nghiệp móc nối với một bộ phận công chức thổi hóa biến chất trong cơ quan quản lý nhà
nước để có đặc quyền, đặc lợi, hình thành lợi ích nhóm không trong sáng. Kinh tế nhà nước chưa thể
hiện được vai trò chủ đạo, đầu tàu và dẫn dắt nền kinh tế.

Thứ ba, nguy cơ từ những âm mưu, hành động “diễn biến hòa bình” của thế lực thù địch vẫn

thường trực và có những biểu hiện mới

- Thuật ngữ “diễn biến hòa bình” xuất hiện lần đầu trong đời sống chính trị thế giới vào năm 1949 để
chỉ sự chuyển hóa các nước XHCN thành tư bản chủ nghĩa. “Diễn biến hòa bình" sau đó tiếp tục được
bổ sung và hoàn chỉnh thành chiến lược vào cuối thập niên 80 của thế kỷ XX. Ban đầu chiến lược này
được coi như biện pháp hỗ trợ, bổ sung cho các hành động tiến công quân sự sau đó trở thành chiến
lược tồn cầu và là biện pháp chính trong cuộc tấn công của các nước tư bản chủ nghĩa vào các nước xã
hội chủ nghĩa.

- Bản chất của “diễn biến hòa bình" là hoạt động của các thế lực đế quốc tư bản lớn và cường quyền
nhằm vào các nước có chế độ chính trị mà họ coi là không phù hợp với lợi ích của họ, bằng tổng hợp
các biện pháp chính trị, an sự, kinh tế, văn hóa, xã hội, ngoại giao, an ninh... để chuyển hóa chế độ
chính trị của các nước này theo quỹ đạo có lợi cho họ.

- Chiến lược “diễn biến hòa bình" được tiến hành bằng tăng cường tiếp xúc, giao lưu, hợp tác kinh tế,
văn hóa, thông tin, khoa học, giáo dục; đỗ tiền của vào các nước XHCN để làm cho các giá trị Mỹ xâm
nhập vào các nước này, đồng thời dùng mọi biện pháp để làm cho nhân dân, đảng viên ở các nước này
chán ghét, căm phẫn Đảng Cộng sản và nhà nước XHCN, làm xuất hiện những nhân tố mới xa lạ dần
với giá trị chuẩn mực của chủ nghĩa Cộng sản để thay đổi chế độ.

- Chiến lược “diễn biến hòa bình" thực chất là từng bước chuyển hóa tư duy, nếp nghĩ, tư tưởng, tâm lý
của cán bộ, đảng viên, quần chúng, nhất là thế hệ trẻ, từ chỗ tin theo chủ nghĩa Mác - Lênin, sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản, vào con đường đi lên CNXH đến chỗ phủ nhận, cổ xúy cho chủ nghĩa tư bản,
tham gia vào các hoạt động chính trị để lật đổ chế độ XHCN.

Thứ tư, tình trạng tham nhũng, lãng phí chưa được ngăn chặn, đẩy lùi
102

- Tham nhũng là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn để vụ lợi, mưu lợi cá nhân. - Đảng ta dùng các
từ phổ biến, nghiêm trọng, kéo dài để nói về tình trạng tham nhũng ở nước ta. Tham nhũng ngày càng
diễn biến phức tạp, tinh vi, liên kết thành các lợi ích nhóm. Do đó, phòng, chống chống tham nhũng là
một cuộc chiến cam go, quyết liệt, kéo dài nhằm chống lại kẻ thù “nội xâm” từ chính trong nội bộ của
chúng ta, thậm chí là những cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. Nếu không chiến thắng trong cuộc chiến
này thì chúng ta không thể hiện thực hóa các mục tiêu của CNXH.

- Tham nhũng làm suy thoái tư tưởng đạo đức, kỷ luật, làm thất thoát nguồn thu ngân sách nhà nước,
làm giảm hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế đất nước, giảm năng suất lao động do lãng phí
sức lực, trí tuệ, tiền của của nhân dân, làm hỏng môi trường kinh doanh và các quan hệ kinh doanh
đúng đắn, quan hệ cạnh tranh lành mạnh.

- Tham nhũng phát triển cảng thúc đẩy nguy cơ chệch hướng XHCN ở nước ta bộc lộ rõ, đặc biệt là
chệch hướng trong phát triển kinh tế. Tham nhũng làm cho bộ phận kinh tế nhà nước ngày càng yếu đi,
không thể hiện tốt vai trò chủ đạo của mình. Tham nhũng phát triển tạo cơ hội, mảnh đất màu mỡ cho
các thế lực thù địch thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình.

=> Có thể nói, các nguy cơ đối với sự tồn vong của chế độ XHCN ở Việt Nam mà Đảng ta khẳng định
có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Nếu một nguy cơ nào đó tăng hoặc giảm sẽ làm cho các nguy cơ
khác tăng và giảm theo. Điều này đòi hỏi chúng ta cần phải quan tâm xóa bỏ tất cả các nguy cơ, không
được xem nhẹ nguy cơ nào.

Cơ hội: Đảng và nhân dân Việt Nam ta kiên trì công cuộc đổi mới, đẩy mạnh phát triển kinh tế,
xã hội, mở rộng dân chủ, giữ vững ổn định chính trị, củng cố an ninh, quốc phòng, đa dạng hóa
quan hệ đối ngoại, từng bước phá thế bao vây, cấm vận.

- Đảng có bước tiến bộ và trưởng thành mới, nắm bắt được yêu cầu phát triển của đất nước và nguyện
vọng của nhân dân, quyết tâm sửa chữa những khuyết điểm sai lầm trước đây, kiến thức và năng lực
hoạt động thực tiễn được nâng lên.

- Nền kinh tế có những chuyển biến tích cực: đã đạt được những tiến bộ rõ rệt trong việc thực hiện các
mục tiêu của ba chương trình kinh tế, bước đầu hình thành nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận
động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, nguồn lực sản xuất của xã hội được huy động
tốt hơn, tốc độ lạm phát được kiềm chế bớt, đời sống vật chất và tinh thần của một bộ phận nhân dân
có phần được cải thiện.

- Sinh hoạt dân chủ trong xã hội ngày càng được phát huy.

- Quốc phòng được giữ vững, an ninh quốc gia được bảo đảm.

- Từng bước phá thế bị bao vây về kinh tế và chính trị, mở rộng quan hệ quốc tế, tạo ra mơi trường
thuận lợi hơn cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.

- Tiếp tục giữ vững và củng cố sự ổn định chính trị.

- Quan hệ đối ngoại được mở rộng, uy tín và vị trí nước ta trên thế giới được nâng lên, tạo môi trường
quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hội nghị đã xác định: "Trong những
năm còn lại của nhiệm kỳ, phải động viên toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đồng tâm nhất trí, nỗ lực
vượt bậc, nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường, mở rộng hợp tác quốc tế; thực hành cần,
kiệm, liêm, chính, ra sức khai thác thuận lợi, nắm bắt thời cơ, đẩy lùi nguy cơ, vượt qua thử thách, thực
103

hiện thắng lợi mục tiêu tổng quát, thúc đẩy nhanh nhịp độ thực hiện những mục tiêu của chiến lược ổn
định và phát triển kinh tế - xã hội; phần đầu vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh".

- Ý nghĩa:

Những nguy cơ và thách thức luôn xuất hiện đan xen nhau và việc nhận diện chúng đóng vai trò hết
sức quan trọng trong việc xây dựng những quyết sách, chính sách, chiến lược phù hợp với điều kiện
lịch sử - cụ thể của Việt Nam hiện nay, do đó cần phải khắc chế nguy cơ nhằm phát triển đất nước
nhanh, bền vững, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong hội nhập và phát triển, hướng tới mục
tiêu cao cả là xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Vượt
qua những nguy cơ trên để tiếp tục phát triển nhanh và bền vững, giữ vững định hướng xã hội chủ
nghĩa, giữ vững thành quả cách mạng mà nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng phải hy sinh biết bao
nhiêu xương máu mới có được, vẫn đang và sẽ là những thách thức thực sự, đòi hỏi cán bộ, đảng viên
phải có những nỗ lực vượt bậc, sự đoàn kết cao độ, cùng chung sức, đồng lòng với cả dân tộc nhằm
bảo vệ và phát huy những thành quả cách mạng trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng.

CHỦ ĐỀ 35: PHÂN TÍCH QUAN ĐIỂM, CHỦ TRƯƠNG ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA,
HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC CỦA ĐẠI HỘI VIII (7/1996).

1. Hoàn cảnh ra đời


Sau Đại Hội VII, nhất là sau khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô sụp đổ, những thử thách đối với
chúng ta càng thêm gay gắt. Trong tình hình đó, Đảng và nhân dân ta đã thể hiện trí tuệ và bản lĩnh
cách mạng của mình, vượt qua thử thách, đưa sự nghiệp đổi mới tiếp tục tiến lên.

Ngoài ra, cách mạng khoa học và công nghệ mang đến sự phát triển với trình độ ngày càng cao, góp
phần tăng nhanh lực lượng sản xuất, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên toàn thế giới
ngày càng mạnh mẽ.

Muốn đánh giá đúng kết quả 10 năm,thực hiện chủ trương đổi mới của Đảng, trước hết phải nhận rõ
thực trạng tình hình đất nước khi chúng ta bước vào đổi mới. Đại hội VIII chỉ rõ:

“Mười năm trước tại đại hội VI, khi Đảng đề ra đường lối đổi mới toàn diện, nước ta đang trong tình
hình trầm trọng nhất của cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội: sản xuất đình đốn, lạm phát tăng vọt…..

Đến năm 1991, “Sau gần 5 năm phấn đấu gian khổ, kiên cường thực hiện đường lối đổi mới, nhân dân
ta đã giành được những thắng lợi bước đầu rất quan trọng cả về kinh tế, xã hội, chính trị, đối nội và đối
ngoại…Song thành tựu đổi mới còn hạn chế như tăng cường kinh tế còn chậm, xã hội tiềm ẩn nhiều
tiêu cực, lạm phát còn cao…

2. Quan điểm

- Xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân; lấy liên minh giai cấp công nhân
với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ
quyền làm chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương xã hội, chuyên chính với mọi hành động xâm phạm
lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân.

- Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong
việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.

- Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước.
104

- Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Quản lý xã hội
bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức.

- Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.

3. Chủ trương
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đánh dấu bước ngoặt chuyển đất nước ta sang thời
kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Trên cơ sở mục tiêu tổng quát, Đại hội chỉ rõ nhiệm vụ và mục tiêu chủ yếu của giai đoạn 1996-2000
là:
● Tập trung sức cho mục tiêu phát triển, đến năm 2000, GDP bình quân đầu người tăng gấp đôi
năm 1990.
● Tăng nhanh khả năng và tiềm lực tài chính của đất nước, lành mạnh hóa nền tài chính quốc
gia..
● Giải quyết tốt một số vấn đề xã hội.
● Phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp, gắn với công nghiệp chế biến nông,lâm, thuỷ sản
và đổi mới cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
● Phát triển các ngành công nghiệp, chú trọng trước hết công nghiệp chế biến, công nghiệp hàng
tiêu dùng và hàng xuất khẩu; xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng về dầu khí,
than, xi măng, cơ khí, điện tử, thép, phân bón, hoá chất, một số cơ sở công nghiệp quốc phòng.
● Bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh của Tổ quốc, giữ vững ổn
định chính trị và an toàn xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vững mạnh, sẵn sàng đối phó với
mọi tình huống.
● Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại.
● Tích cực chuẩn bị và tạo tiền đề vững chắc cho bước phát triển cao hơn sau năm 2000, chủ yếu
là phát triển nguồn nhân lực, nâng cao năng lực khoa học và công nghệ, xây dựng kết cấu hạ
tầng và một số công trình công nghiệp then chốt, hình thành đồng bộ cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

➔ Các nhiệm vụ và mục tiêu nêu trên phải được thực hiện theo các định hướng phát triển các lĩnh vực
chủ yếu: kinh tế, giáo dục, văn hóa giáo dục, chính trị

4. Ý Nghĩa:
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII đã đánh dấu bước ngoặt chuyển đất nước ta sang thời kỳ
mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu
mạnh, xã hội công bằng, văn minh theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vì hạnh phúc của nhân dân ta, vì
tình hữu nghị và sự hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới. Đại hội có ý nghĩa quyết định đối với
vận mệnh dân tộc và tương lai của đất nước vào lúc chúng ta sắp bước vào thế kỷ XXI.

CHỦ ĐỀ 36: PHÂN TÍCH LUẬN ĐIỂM “ĐỘNG LỰC CHỦ YẾU ĐỂ PHÁT TRIỂN ĐẤT
NƯỚC LÀ ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TRÊN CƠ SỞ LIÊN MINH CÔNG NÔNG TRÍ
THỨC DO ĐẢNG LÃNH ĐẠO..” CỦA ĐẠI HỘI IX (4/2001). ĐỂ THỰC HIỆN ĐƯỢC LUẬN
ĐIỂM ĐÓ, CHÚNG TA PHẢI LÀM GÌ?

I. Hoàn cảnh
105

- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng họp từ ngày 19 đến ngày 24-4-2001 tại
Thủ đô Hà Nội.
- Đại hội tập trung thảo luận, đánh giá chặng đường hơn 70 năm lãnh đạo cách mạng Việt
Nam của Đảng, tổng kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII, 15 năm đổi mới, 10
năm thực hiện Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội (1991 - 2000), rút ra bài
học của công cuộc đổi mới.
- Đại hội đã khẳng định “Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn
dân trên cơ sở liên minh công nông trí thức do Đảng lãnh đạo”.
=> Đây là một luận điểm có ý nghĩa to lớn trong thời điểm đất nước ta tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước 2001-2006.

II. Phân tích


1. Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân
- Bác Hồ đã định nghĩa về khái niệm đại đoàn kết: “Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết
đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân là công nhân,nông dân và các tầng lớp nhân dân lao
động khác. Đó là nền gốc của đại đoàn kết.
- Xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trong một mặt trận thống nhất chính là để tập hợp và lãnh
đạo quần chúng nhân dân thành một khối thống nhất về ý chí và hành động
- Liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức là nền tảng của
khối đại đoàn kết toàn dân.
- Đại đoàn kết là sự nghiệp của cả hệ thống chính trị, gồm Đảng, chính quyền, Mặt trận tổ quốc
và các đoàn thể nhân dân;
- Khối đại đoàn kết toàn dân tộc xây dựng dựa trên nguyên tắc lấy lập trường giai cấp công nhân
để giải quyết hài hòa các mối quan hệ giai cấp - dân tộc.
=> Tóm lại, muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì toàn dân cần đoàn kết lâu dài, đoàn kết thực sự là cùng
nhau tiến bộ.
2. Thực hiện đoàn kết toàn dân dựa trên cơ sở liên minh công – nông – trí thức.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, liên minh giai cấp công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức là sự kết hợp
của các giai cấp, tầng lớp trong một chỉnh thể thống nhất, mỗi yếu tố có một vị trí, vai trò đặc thù
không thể thay thế cho nhau.
- Trong khối liên minh, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định giai cấp công nhân là giai cấp lãnh
đạo: Công nhân là sản phẩm của nền sản xuất đại công nghiệp đã phát triển cả về lượng và
chất, là lực lượng lao động chủ yếu tạo nên của cải vật chất và sự giàu có trong xã hội hiện đại,
là lực lượng xã hội đi đầu trong cuộc đấu tranh xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa và cải tạo, xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
- Giai cấp nông dân là giai cấp của những người lao động trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp có
nhiều ưu điểm như: Lao động rất cần cù, chịu khó,...Giai cấp nông dân giữ vị trí trọng yếu
trong sản xuất lương thực, bảo đảm nước ta trong tình huống nào cũng đủ lương thực và là một
nước hàng đầu trong xuất khẩu gạo, có nhiều hàng hóa nông sản xuất khẩu.
- Trí thức là người có hiểu biết sâu rộng về một hoặc một số lĩnh vực khoa học - công nghệ,văn
hóa - nghệ thuật, quản lý kinh tế - xã hội. Đặc điểm của trí thức nói chung rất ham học, ham
đọc. luôn luôn tiếp cận được cái mới, do đó trình độ lý luận không ngừng được nâng cao. Ðội
ngũ trí thức đang mở rộng và đi sâu vào nhiều chuyên ngành, phát huy tác dụng quan trọng.
Liên minh công – nông – trí là hạt nhân, cơ sở của khối đại đoàn kết dân tộc, tập hợp mọi lực lượng
yêu nước, tiến bộ vào một mặt trận chung thống nhất đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, vì mục tiêu chung: dân giàu nước mạnh; xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
3. Do Đảng lãnh đạo
106

- Đối với nước ta, thế kỷ XX là thế kỷ của những biến đổi to lớn, thế kỷ của những chiến công và
thắng lợi có ý nghĩa lịch sử và thời đại:
+ Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời mở ra bước ngoặt của cách mạng Việt Nam.
+ Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và việc thành lập Nhà nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa.
+ Thắng lợi của sự nghiệp đổi mới, từng bước đưa đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
=>Những thắng lợi to lớn có ý nghĩa chiến lược trên đây đều là kết quả lãnh đạo của Đảng.
Đảng ta đứng ở vị trí trung tâm các sự kiện lịch sử vĩ đại của cách mạng và thực sự là nhân tố
cơ bản lãnh đạo và tổ chức mọi thắng lợi của CM VN.
- Đại hội IX khẳng định những bài học đổi mới do các Đại hội VI, VII, VIII của Đảng nêu lên
vẫn còn có giá trị lớn.
=> Đường lối đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp đổi mới.
- Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa
trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
—> “Do Đảng lãnh đạo” là nhân tố quyết định của thành công sự nghiệp đổi mới.

III. Để thực hiện được luận điểm đó, chúng ta cần:


Bác đã từng nói: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”. Đoàn
kết là một truyền thống tốt đẹp, là động lực để xây dựng và phát triển đất nước. vì vậy:
Xây dựng khối đại đoàn kết dân là đường lối chiến lược , là nhân tố có ý nghĩa đặc biệt quan trọng
đảm bảo thắng lợi bền vững của Đảng và nhân dân ta.

IV. Ý nghĩa
- Đại hội IX của Đảng là đại hội của trí tuệ, dân chủ, đoàn kết, đổi mới
- Thể hiện ý chí kiên cường và niềm hy vọng lớn lao của toàn Đảng, toàn dân trong thời điểm
trọng đại của dân tộc
- Mở đường cho đất nước ta nắm lấy cơ hội, vượt qua thách thức tiến vào thế kỷ mới, thiên niên
kỷ mới, thực hiện mục tiêu xây dựng một

Chương 3, mục 2

CHỦ ĐỀ 37: PHÂN TÍCH NHỮNG BÀI HỌC LỚN CỦA 20 NĂM ĐỔI MỚI (1986 – 2006)
ĐƯỢC ĐẠI HỘI X (4/2006) CỦA ĐẢNG ĐƯA RA.

Kiên trì đường lối đổi mới của Đại hội VI, được bổ sung và phát triển qua các đại hội và hội nghị
Trung ương, dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, sau gần 20 năm tiến hành đổi
mới, tình hình đất nước ta đã có những đổi thay to lớn, nhân dân ta đã thu được những thành tựu hết
sức quan trọng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Đại hội X diễn ra đã tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn của quá trình đổi mới. Sau đó chỉ rõ
những thành tựu, khuyết điểm, yếu kém, những bài học cần thiết để tiếp tục hoàn thiện đường lối chỉ
đạo đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới trong những năm tiếp theo.
Trước hết về bối cảnh của đại hội
1. Hoàn cảnh ĐH Đảng lần thứ X (2006)
- Hoàn cảnh quốc tế:
Tình hình trên thế giới và khu vực diễn biến hết sức phức tạp. Kinh tế thế giới và khu vực đan xen
những biểu hiện suy thoái, phục hồi và phát triển, sự cạnh tranh và chính sách bảo hộ bất bình đẳng
của một số nước... .
107

Khoa học - công nghệ tiếp tục có những bước đột phá mới, tác động nhiều mặt đến tất cả các nước trên
thế giới. Chiến tranh khu vực, xung đột vũ trang, xung đột sắc tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt
động can thiệp, lật đổ, khủng bố... diễn ra ở nhiều nơi với tính chất ngày càng phức tạp.
Toàn cầu hóa kinh tế đang diễn ra nhanh chóng, Đây là một xu thế khách quan, tạo ra cơ hội phát
triển nhưng cũng chứa đựng nhiều yếu tố bất bình đẳng, gây khó khăn, thách thức cho các quốc gia,
nhất là các nước đang phát triển.
- Hoàn cảnh trong nước:
Lúc này ở trong nước, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của chúng ta có những thuận lợi và
cơ hội lớn, nhưng cũng gặp nhiều khó khăn, thách thức không thể xem thường.
Việc mở rộng hợp tác quốc tế, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững môi trường
hòa bình tạo thêm nhiều thuận lợi cho sự nghiệp đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội với nhịp độ nhanh
hơn, góp phần nâng cao vị thế đất nước trên trường quốc tế, tăng cường sức mạnh quốc gia, tạo thế và
lực cho đất nước tiếp tục phát triển đi lên.
Song, bên cạnh những thuận lợi đó, đất nước ta cũng đang phải đối mặt với những thách thức to
lớn. Tình hình trong nước tiếp tục có những thay đổi , ảnh hưởng sâu sắc đến công cuộc đổi mới của
nhân dân ta.
Nền kinh tế đất nước vẫn trong tình trạng kém phát triển, nguy cơ tụt hậu xa hơn so với các nước
trong khu vực và trên thế giới vẫn còn tồn tại, tốc độ phát triển kinh tế chưa tương xứng với tiềm năng
của đất nước. Trình độ khoa học - công nghệ quốc gia còn lạc hậu trên nhiều phương diện.
- Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên
gắn liền với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí rất nghiêm trọng.
- Các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, đối ngoại còn một số mặt hạn chế... Đòi hỏi bức bách của
toàn dân tộc ta lúc này là phải ra sức tranh thủ thời cơ, vượt qua thách thức, tiếp tục đổi mới
mạnh mẽ, toàn diện và đồng bộ, phát triển với tốc độ nhanh và bền vững, sớm đưa nước ta ra
khỏi tình trạng kém phát triển.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X Đảng Cộng sản Việt Nam họp từ ngày 18 đến 25/4/2006 tại Thủ
đô Hà Nội.

2. NÊU và PHÂN TÍCH bài học của 20 năm đổi mới (1986-2006)
Đại hội X đã tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn của 20 năm đổi mới. Sau khi đánh giá quá trình
đổi mới, chỉ rõ những thành tựu, khuyết điểm, yếu kém, Đại hội đã chỉ ra những bài học cần thiết để
tiếp tục hoàn thiện đường lối chỉ đạo đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới trong những năm tiếp theo, bao
gồm:

Một là, trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đổi mới không phải từ
bỏ mục tiêu chủ nghĩa xã hội mà là làm cho chủ nghĩa xã hội được nhận thức đúng đắn hơn và
được xây dựng có hiệu quả hơn. Vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm nền tảng tư tưởng của Đảng và kim chỉ nam cho hành động
cách mạng.
- Độc lập dân tộc: Mục tiêu độc lập dân tộc nhằm đảm bảo quyền tự quyết và phát triển
của dân tộc Việt Nam. Việc giữ vững và khẳng định độc lập dân tộc trong quá trình đổi
mới đảm bảo rằng quyền lợi và giá trị văn hóa của người Việt Nam được bảo tồn và
phát triển.
- Chủ nghĩa xã hội: Mục tiêu chủ nghĩa xã hội nhằm đảm bảo sự công bằng và bình đẳng
trong xã hội. Việc theo đuổi chủ nghĩa xã hội trong quá trình đổi mới nhằm xóa bỏ bất
bình đẳng và tạo ra môi trường phát triển công bằng cho tất cả các tầng lớp trong xã hội.
108

- Nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh: Sự kiên định vào nền tảng
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh giúp xác định hướng phát triển kinh tế
và xã hội của Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển bền vững, đồng bằng,
công bằng và phân phối ngang nhằm đảm bảo sự phát triển toàn diện và bền vững của
đất nước.
Hai là, đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp.
Phải đổi mới từ nhận thức, tư duy đến hoạt động thực tiễn; từ kinh tế, chính trị, đối ngoại đến tất
cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; từ hoạt động lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đến
hoạt động cụ thể trong từng bộ phận của hệ thống chính trị. Đổi mới không thể chỉ tập trung vào
một số yếu tố cụ thể mà bỏ qua những yếu tố khác. Nó cần phải được thực hiện một cách đồng
bộ, tức là các biện pháp và chính sách cần phải tương thích và hỗ trợ lẫn nhau. Đồng bộ giúp
đảm bảo rằng các yếu tố khác nhau của đổi mới hoạt động cùng nhau để đạt được mục tiêu
chung. Đổi mới cần lấy kinh nghiệm từ quá khứ và kế thừa những thành tựu đã đạt được trong
quá trình đổi mới trước đó. Kế thừa giúp tận dụng những kiến thức, kỹ thuật và thành công đã có
để xây dựng tiếp nên sự phát triển và cải tiến. Đồng thời, nó cũng giúp tránh những sai lầm đã
từng xảy ra trong quá khứ. Đổi mới tất cả các mặt của đời sống xã hội nhưng phải có trọng tâm,
trọng điểm, có những bước đi thích hợp, cụ thể và kế hoạch hành động rõ ràng. Việc chỉ đặt ra
mục tiêu không đủ, mà cần phải có các bước thực hiện cụ thể và cách tiếp cận chi tiết; bảo đảm
sự gắn kết chặt chẽ và đồng bộ giữa ba nhiệm vụ: phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng
là then chốt và phát triển văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội.

Ba là, đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò chủ động,
sáng tạo của nhân dân, xuất phát từ thực tiễn, nhạy bén với cái mới. Cách mạng là sự nghiệp
của nhân dân, vì nhân dân và do nhân dân. Vì vậy, Đổi mới phải tạo ra lợi ích thực cho nhân dân.
Các chính sách và biện pháp đổi mới cần được thiết kế và thực hiện để nâng cao chất lượng cuộc
sống của người dân, cải thiện điều kiện kinh tế, xã hội và văn hóa, và giảm bớt khoảng cách phát
triển. Những ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến của nhân dân có vai trò quan trọng trong việc
hình thành đường lối đổi mới của Đảng. Dựa vào nhân dân, xuất phát từ thực tiễn và thường
xuyên tổng kết thực tiễn để hiểu rõ tình hình hiện tại, nhận biết được các vấn đề, thách thức và
cơ hội để đưa ra các biện pháp phù hợp và hiệu quả. Đổi mới cũng cần tạo điều kiện cho nhân
dân tự chủ, sáng tạo và đóng góp ý tưởng, kiến thức, kỹ năng và tiềm năng của họ. Sự khuyến
khích và tạo điều kiện cho sự sáng tạo và khởi nghiệp của nhân dân giúp thúc đẩy sự phát triển
và tạo ra giá trị mới cho xã hội. Cần phát hiện nhân tố mới, đòi hỏi sự nhạy bén và linh hoạt
trong nhận biết và ứng dụng các ý tưởng, công nghệ và phương pháp mới, từng bước tìm ra quy
luật phát triển, đó là chìa khóa của thành công.

Bốn là, phát huy cao độ nội lực, đồng thời ra sức tranh thủ ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới. Phát huy nội lực đòi hỏi xây dựng và phát triển
các nguồn lực nội bộ của quốc gia, bao gồm con người, văn hóa, truyền thống và tiềm năng phát
triển. Phát huy cao độ nội lực giúp nâng cao khả năng tự cung tự cấp, độc lập và ổn định của
quốc gia, cần xem đó là nhân tố quyết định đối với sự phát triển; đồng thời coi trọng huy động
các nguồn ngoại lực như: vốn đầu tư, công nghệ, kiến thức và thị trường; thông qua hội nhập và
hợp tác quốc tế, tranh thủ các nguồn lực bên ngoài để phát huy nội lực mạnh hơn, nhằm tạo ra
sức mạnh tổng hợp để phát triển đất nước nhanh và bền vững, trên cơ sở giữ vững độc lập dân
tộc và định hướng xã hội chủ nghĩa. Đổi mới cũng đòi hỏi kết hợp và tận dụng sức mạnh của dân
tộc và thời đại. Sức mạnh dân tộc bao gồm những giá trị văn hóa, truyền thống và nhân văn đặc
trưng của quốc gia, trong khi sức mạnh thời đại bao gồm các xu hướng, công nghệ và quy luật
109

phát triển của thế giới hiện đại. Kết hợp một cách linh hoạt hai sức mạnh này trong điều kiện mới
giúp đảm bảo sự phát triển bền vững và tự lực của quốc gia.

Năm là, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, không ngừng đổi mới hệ
thống chính trị, xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm
quyền lực thuộc về nhân dân. Đảng cần không ngừng nâng cao kiến thức chính trị, tư tưởng,
đạo đức và năng lực lãnh đạo của cán bộ Đảng. Đồng thời, cần đẩy mạnh sự đổi mới trong
phương pháp lãnh đạo, khắc phục những hạn chế và thách thức, và đáp ứng đúng yêu cầu và nhu
cầu của cuộc sống xã hội. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh là khâu then chốt, là nhân tố
quyết định thắng lợi của sự nghiệp đổi mới. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân là yêu cầu bức thiết của xã hội. Nhà nước phải
thể chế hóa và tổ chức thực hiện có hiệu quả quyền công dân, quyền con người. Đảng cần thực
hiện các biện pháp để tăng cường quyền lực của nhân dân, bao gồm tăng cường vai trò của các tổ
chức đại diện nhân dân, tạo điều kiện cho sự tham gia vào quyết định, giám sát và kiểm soát
công việc nhà nước, và đảm bảo quyền lợi và quyền tự do của công dân. Phát huy vai trò Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong việc tập hợp các tầng lớp nhân dân, phát huy sức
mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc để thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới.

3. Ý nghĩa ĐH X (2006) của Đảng


- Đại hội biểu thị quyết tâm to lớn của Đảng ta, trong những năm tới, lãnh đạo toàn Đảng, toàn
dân và toàn quân phấn đấu "nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy
sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình
trạng kém phát triển", tạo nền tảng đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại.
- Các văn kiện được thông qua tại Đại hội X là kết tinh trí tuệ và ý chí của toàn Đảng, toàn dân
ta, là sự tổng kết sâu sắc thực tiễn và lý luận 20 năm đổi mới để tiếp tục hoàn thiện và phát triển
đường lối, quan điểm đổi mới trong giai đoạn cách mạng hiện nay của nước ta.
- Thành công của Đại hội đánh dấu một mốc son trên chặng đường hơn 76 năm lãnh đạo cách
mạng của Đảng, mở ra một thời kỳ phát triển mới của công cuộc đổi mới.

CHỦ ĐỀ 38. PHÂN TÍCH NHỮNG PHƯƠNG HƯỚNG CƠ BẢN XÂY DỰNG CNXH Ở VIỆT
NAM CỦA CƯƠNG LĨNH NĂM 2011 ĐƯỢC ĐẠI HỘI XI (1/2011) THÔNG QUA. ( TRANG
272 GIÁO TRÌNH LSD)

(Câu 2: Phân tích các phương hướng cơ sở xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta được xác định trong
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội bổ sung năm 2011 của Đảng?
Liên hệ vai trò và trách nhiệm của sv trong việc thực hiện phương hướng: Bảo đảm vững chắc quốc
phòng và an ninh quốc gia, trật tự và an toàn xã hội?)
(Câu 4: Phân tích các phương hướng cơ sở xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta được xác định trong
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội bổ sung năm 2011 của Đảng?
Liên hệ vai trò và trách nhiệm của sv trong việc thực hiện đặc trưng: “ có nền kinh tế phát triển cao
dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp”?)

*Hoàn cảnh lịch sử:

Đại hội XI của Đảng họp tại Hà Nội trong bối cảnh tình hình thế giới tiếp tục diễn biến phức tap, hòa
bình, hợp tác cùng phát triển vẫn đang là một xu thế lớn nhưng chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang,
110

khủng bố, tranh chấp lãnh thổ vẫn diễn ra hết sức phức tạp. Thiên tai, dịch bệnh , khủng hoảng, suy
thoái kinh tế trầm trọng trên toàn thế giới. Cả nước vừa mới kỉ niệm 1000 năm Thăng Long-Hà Nội với
những thành tựu quan trọng nhưng còn nhiều yếu kém cần khắc phục. Các thế lực thù địch tiếp tục
chống phá, kích động bạo loạn, đẩy mạnh hoạt động “ diễn biến hòa bình”.

Đại hội kiểm điểm, đánh giá khách quan, toàn diện những thành tựu và yếu kém, khuyết điểm trong việc
thực hiện Nghị quyết Đại hội X của Đảng, tổng kết sâu sắc 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội 2001 - 2010 và 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Chủ đề của đại hội là: “Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng,
phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020
nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”.

*Tại Đại hội, Đảng ta đã đề ra những phương hướng cơ bản xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta
như sau:

1. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài
nguyên, môi trường

Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát
triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường; xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại, có hiệu
quả và bền vững, gắn kết chặt chẽ công nghiệp, nông nghiệp, và dịch vụ. Coi trọng phát triển các
ngành công nghiệp nặng, công nghiệp chế tạo có tính nền tảng và các ngành công nghiệp có lợi
thế; phát triển nông, lâm, ngư nghiệp ngày càng đạt trình độ công nghệ cao, chất lượng cao gắn
với công nghiệp chế biến và xây dựng nông thôn mới. Kết hợp chặt chẽ giữa kiểm soát, ngăn ngừa,
khắc phục ô nhiễm với khôi phục và bảo vệ môi trường sinh thái. Phát triển năng lượng sạch, sản
xuất và tiêu dùng sạch.

2. Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức
phân phối. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của
nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế
nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà
nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân; kinh tế
tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến
khích phát triển.

3. Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao đời sống
nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội

Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng,
thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc. Kế
thừa và phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, tiếp
thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, vì lợi
ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày
càng cao. Xây dựng con người Việt Nam giàu lòng yêu nước, có ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân;
có tri thức, sức khỏe, lao động giỏi; sống có văn hóa, nghĩa tình; có tinh thần quốc tế chân chính.
111

4. Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội

Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà
nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững hòa bình, ổn định chính trị, bảo đảm an ninh
quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất bại âm mưu và hành động chống
phá của các thế lực thù địch đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Phát triển đường lối,
nghệ thuật quân sự chiến tranh nhân dân và lý luận , khoa học an ninh nhân dân. Chủ động, tăng cường
hợp tác quốc tế về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung thống nhất của Nhà nước đối với Quân
đội nhân dân, Công an nhân dân và sự nghiệp quốc phòng an ninh.

5. Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chủ
động và tích cực hội nhập quốc tế

Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; đa
phương hoá, đa dạng hoá quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế của đất
nước.

Hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với tất cả các nước trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của Hiến chương
Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, trước sau như một ủng hộ các đảng cộng sản và công nhân, các
phong trào tiến bộ xã hội trong cuộc đấu tranh; Tăng cường hiểu biết, tình hữu nghị và hợp tác giữa
nhân dân Việt Nam với nhân dân các nước trên thế giới.

6. Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết dân tộc, tăng cường và mở rộng
mặt trận dân tộc thống nhất

Đại đoàn kết toàn dân tộc lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất của Tổ quốc, vì dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng, xoá bỏ các mặc cảm, định kiến, phân
biệt đối xử về quá khứ, giai cấp, cũng như xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau. Trong đó, các
chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước có ý nghĩa quan trọng hàng đầu.

Bảo đảm công bằng và bình đẳng xã hội, chăm lo lợi ích thiết thực, chính đáng, hợp pháp của các
giai cấp, các tầng lớp nhân dân; kết hợp hài hoà lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích toàn xã hội;
thực hiện dân chủ gắn liền với giữ gìn kỷ cương, chống quan liêu, tham nhũng, và lãng phí; không
ngừng bồi dưỡng, nâng cao tinh thần yêu nước,, tinh thần tự lực, tự cường xây dựng đất nước.

7. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân

Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ, có sự phân công,
phân cấp, bảo đảm sự chỉ đạo thống nhất của Trung ương. Nhà nước ban hành pháp luật; tổ chức,
quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.

Nhà nước phục vụ nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của
nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân; có biện
pháp kiểm soát, ngăn ngừa và nghiêm trị nạn quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vô trách nhiệm, lạm
quyền, xâm phạm đến lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân.

8. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh


112

Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào
nhân dân để xây dựng Đảng, chịu sự giám sát của nhân dân, và hoạt động trong khuôn khổ Hiến
pháp và pháp luật.

Để đảm đương được vai trò lãnh đạo, Đảng phải vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức;
thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng
lực lãnh đạo; Thường xuyên tự phê bình và, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội, tệ nạn
quan liêu, tham nhũng, lãng phí và mọi hành động chia rẽ, bè phái. Đảng chăm lo xây dựng đội ngũ
cán bộ, đảng viên trong sạch, có phẩm chất, năng lực, có sức chiến đấu cao; phải quan tâm bồi
dưỡng lớp người kế tục sự nghiệp cách mạng.

*Ý nghĩa:

Đại hội đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cương
lĩnh xác định rõ hơn các đặc trưng của xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng, xác định rõ hơn
phương hướng đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, xác định cần nắm vững và giải quyết tốt các
mối quan hệ lớn.
Đã khẳng định rõ bản chất của Đảng: Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công
nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành
với lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các dân tộc.
Đã khẳng định rõ hơn giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá
của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của Nhà nước ta giành thắng
lợi. Khẳng định nước ta đã ra khỏi tình trạng kém phát triển.
*Liên hệ :
Liên hệ vai trò và trách nhiệm của sv trong việc thực hiện phương hướng: Bảo đảm vững chắc
quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự và an toàn xã hội
Vai trò và trách nhiệm của sinh viên trong việc thực hiện phương hướng "Bảo đảm vững chắc quốc
phòng và an ninh quốc gia, trật tự và an toàn xã hội" là cực kỳ quan trọng để đảm bảo sự ổn định, phát
triển và bảo vệ quyền lợi của đất nước và nhân dân. Dưới đây là một số điểm chính liên quan đến vai
trò và trách nhiệm của sinh viên trong phương hướng này:

1. Nắm vững ý thức về an ninh quốc gia: Sinh viên cần hiểu rõ tầm quan trọng của an ninh quốc gia và
ý thức về bảo vệ lợi ích quốc gia. Họ cần nhận thức rõ về các mối đe dọa an ninh và đóng góp vào
công cuộc bảo vệ sự toàn vẹn của đất nước.

2. Tham gia vào quân sự và dự bị quân sự: Sinh viên nên tham gia vào các hoạt động quân sự và dự bị
quân sự theo quy định của pháp luật. Điều này giúp họ nắm vững kỹ năng tự bảo vệ và chuẩn bị tinh
thần sẵn sàng trong trường hợp cần thiết.

3. Tham gia vào các hoạt động tình nguyện an ninh: Sinh viên có thể tham gia vào các hoạt động tình
nguyện liên quan đến an ninh, như trợ giúp lực lượng chức năng trong việc duy trì trật tự công cộng và
bảo vệ an toàn cho cộng đồng.

4. Tôn trọng quy định pháp luật và trật tự xã hội: Sinh viên nên luôn tôn trọng và tuân thủ quy định
pháp luật, đóng góp vào việc duy trì trật tự và an toàn xã hội. Họ cần là những người gương mẫu trong
việc tuân thủ luật pháp và đảm bảo sự an toàn cho mọi người xung quanh.
113

5. Thúc đẩy ý thức cộng đồng và trách nhiệm xã hội: Sinh viên nên thúc đẩy ý thức cộng đồng và trách
nhiệm xã hội, bảo vệ quyền lợi của người dân và đóng góp vào việc duy trì an ninh và trật tự xã hội.

6. Tham gia vào các hoạt động giáo dục về an ninh: Sinh viên nên tham gia vào các hoạt động giáo dục
về an ninh, như tham gia các buổi thảo luận, hội thảo, hoặc các khóa học liên quan đến vấn đề an ninh
quốc gia.

Tóm lại, vai trò và trách nhiệm của sinh viên trong việc thực hiện phương hướng "Bảo đảm vững chắc
quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự và an toàn xã hội" là nắm vững ý thức về an ninh quốc gia,
tham gia vào các hoạt động quân sự và tình nguyện an ninh, tôn trọng quy định pháp luật và trật tự xã
hội, thúc đẩy ý thức cộng đồng và trách nhiệm xã hội, và tham gia vào các hoạt động giáo dục về an
ninh. Nhờ vào sự đóng góp của sinh viên, đất nước có thể đảm bảo an ninh và phát triển bền vững.
*Liên hệ vai trò và trách nhiệm của sv trong việc thực hiện đặc trưng: “ có nền kinh tế phát triển
cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp
Vai trò và trách nhiệm của sinh viên trong việc thực hiện đặc trưng "có nền kinh tế phát triển cao dựa
trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp" là rất quan trọng trong việc đóng
góp vào sự phát triển và thịnh vượng của đất nước. Đặc trưng này nhấn mạnh sự tập trung vào xây
dựng nền kinh tế mạnh mẽ, sử dụng các công nghệ hiện đại, và phát triển quan hệ sản xuất tiến bộ để
đáp ứng nhu cầu và yêu cầu của xã hội.

Dưới đây là vai trò và trách nhiệm cụ thể của sinh viên:

1. Học tập và nghiên cứu: Sinh viên cần tập trung vào việc học tập và nghiên cứu, đạt được kiến thức
chuyên môn trong các lĩnh vực khoa học, công nghệ, kinh tế và quản lý. Họ cần là những người cống
hiến cho sự phát triển của đất nước thông qua việc ứng dụng những kiến thức này vào thực tế.

2. Khuyến khích sáng tạo và đổi mới: Sinh viên nên khuyến khích và tham gia vào các hoạt động sáng
tạo, đổi mới và khám phá các công nghệ mới. Sáng tạo là cơ hội để họ đưa ra giải pháp mới, tối ưu hóa
quy trình sản xuất và phát triển các sản phẩm, dịch vụ tiên tiến hơn.

3. Phát triển kỹ năng và năng lực: Sinh viên cần phát triển kỹ năng mềm và kỹ năng chuyên môn cần
thiết để đáp ứng yêu cầu của môi trường kinh doanh và sản xuất hiện đại. Điều này bao gồm kỹ năng
lãnh đạo, quản lý dự án, kỹ năng giao tiếp và làm việc nhóm.

4. Tham gia vào hoạt động doanh nghiệp và công nghệ: Sinh viên nên tham gia vào các hoạt động
doanh nghiệp, các dự án nghiên cứu khoa học và công nghệ. Điều này giúp họ áp dụng những kiến
thức đã học vào thực tế và phát triển kinh nghiệm làm việc.

5. Đóng góp vào cộng đồng và xã hội: Sinh viên cần tham gia vào các hoạt động cộng đồng, các
chương trình tình nguyện và giúp đỡ những người có hoàn cảnh khó khăn. Điều này thể hiện tinh thần
đồng tâm, lòng yêu nước và trách nhiệm với xã hội.

Tóm lại, vai trò và trách nhiệm của sinh viên trong việc thực hiện đặc trưng "có nền kinh tế phát triển
cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp" là tham gia tích cực vào
quá trình xây dựng và phát triển kinh tế, ứng dụng những kiến thức và kỹ năng đã học vào thực tế,
đóng góp vào cộng đồng và xã hội, để đưa đất nước đạt được sự thịnh vượng và phát triển bền vững.
114

CHỦ ĐỀ 39*. PHÂN TÍCH NHỮNG THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ CỦA CÔNG CUỘC ĐỔI
MỚI VÌ CNXH DO ĐẢNG KHỞI XƯỚNG VÀ LÃNH ĐẠO.

Công cuộc đổi mới mang tầm vóc và ý nghĩa cách mạng, là quá trình cải biến sâu sắc, toàn diện, triệt
để, là sự nghiệp cách mạng to lớn của toàn Đảng, toàn dân vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân dân
chủ, công bằng, văn minh”. VN đã đạt được những thành tựu to lớn, ý nghĩa lịch sử. Đồng thời cũng
còn nhiều vấn đề cần phải tập trung giải quyết, khắc phục, để đưa đất nước phát triển nhanh và bền
vững.

a.Thành tựu:

● Đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế, hoàn thành vượt mức nhiều mục tiêu. Hoạt động
khoa học và công nghệ gắn bó hơn với nhu cầu phát triển kinh tế- xã hội, thích nghi dần với cơ
chế thị trường. Quan hệ sản xuất được điều chỉnh phù hợp với yêu cầu phát triển của lực lượng
sản xuất.Thực hiện có kết quả chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, phát huy
ngày càng tốt hơn tiềm năng của các thành phần kinh tế
● Tạo được một số chuyển biến tích cực về mặt xã hội :
- Đời sống vật chất của nhân dân được cải thiện, nhân dân có thu nhập trung bình tăng lên, người
nghèo đói ngày càng giảm. Nhiều nhà ở và đường giao thông được nâng cấp, xây dựng mới cả
nông thôn và thành thị.
- Trình độ dân trí, văn hóa của nhân dân được nâng cao như : sư nghiệp, giáo dục, ytế, chăm sóc
sức khỏe, các hoạt động văn hóa nghệ thuật thể dục thể thao, thông tin đại chúng... được phát
triển và tiến bộ.
- Nhân dân ngày càng phát huy được quyền làm chủ và tính năng động sáng tạo, tăng thu nhập
cho cá nhân và cho cộng đồng xã hội. Lòng tin của người dân đối với Đảng và Nhà nước được
nâng lên.
● Chúng ta đã giữ vững ổn định chính trị, độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, tạo điều
kiện thuận lợi cơ bản cho công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước.
- Đảng đã định rõ phương hướng, nhiệm vụ và quan điểm chỉ đạo của sư nghiệp bảo vệ tổ quốc
trong tình hình mới, tiếp tục thực hiện có hiệu quả việc điều chỉnh chiến lươc quốc phòng, an
ninh.
- Sức chiến đấu của quân đội được nâng lên; công tác bảo vệ an ninh chính trị và trật tự an toàn,
xã hội được tăng cường.
● Thực hiện có kết quả một số đổi mới quan trọng về hệ thống chính trị:
- Trên cơ sở cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội. Chúng ta
đã cụ thể hóa đường lối đổi mới trên các lĩnh vưc như : củng cố Đảng về chính trị, tư tưởng,
tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng...
- Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền CHXHCNVN do nhân dân làm chủ.
● Phát triển mạnh mẽ quan hệ đối ngoại, phù hợp tình hình, tham gia tích cực vào đời sống
cộng đồng quốc tế: Chính sách mở cửa làm bạn với tất cả bầu bạn năm châu, hợp tác trên mọi
115

lĩnh vực. Từng bước đi hòa nhập vào các hoạt động hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau với các nước
trong khu vực ở Đông Nam Á và thế giới, góp phần giữ vững thế ổn định và phát triển hòa
bình giữa các dân tộc
● Công nghiệp hóa – hiện đại hóa nhằm xây dựng tổ quốc XHCN vững mạnh:
Công nghiệp hóa là nhiệm vụ trọng tâm của thời kì quá độ. Công nghiệp hóa hiện đại hóa được
Đảng và Chính phủ đẩy mạnh, hòa nhập với thế giới
—>Các thành tựu đó tạo tiền đề quan trọng để đất nước tiếp tục đổi mới, phát triển; đồng thời khẳng
định con đường đi lên CNXH là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử.
*Hạn chế:
● Hoàn thiện thể chế, đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, công nghiệp hóa, hiện
hiện đại hóa còn chậm chưa tạo được chuyển biến biến căn bản về mô hình tăng trưởng, năng
suất, chất lượng, hiệu quả và sức mạnh cạnh tranh của nền kinh tế còn chưa cao.
● Đổi mới giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ chưa thực sự trở thành động lực then chốt
thúc đẩy phát triển kinh tế- xã hội.
● Lĩnh vực văn hóa xã hội chưa có nhiều đột phá, chưa hiệu quả. Quản lí tài nguyên, bảo vệ môi
trường, khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu còn bất cập.
● Các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, đối ngoại còn một số mặt hạn chế.
● Sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa có lúc, có nơi chưa được quan
tâm, phát huy đầy đủ,đủ.
● Xây dựng NN pháp quyền xã hội chủ nghĩa có mặt chưa đáp ứng tốt yêu cầu phát triển kinh tế-
xã hội và quản lí đất nước trong tình hình mới. Công tác xây dựng, chưa chỉnh đốn Đảng còn
nhiều hạn chế.
Những hạn chế trên đây có cả những nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan:
*Khách quan:
● Đổi mới là sự nghiệp to lớn, toàn diện, lâu dài, rất khó khăn, phức tạp, chưa có tiền lệ trong lịch
sử. Tình hình thế giới và khu vực có những mặt tác động không thuận lợi, sự chống phá quyết
liệt của các thế lực thù địch, phản động và cơ hội chính trị.
*Về khách quan:
● Công tác nghiên cứu lí luận, tổng kết thực tiễn chưa có được quan tâm đúng mức, đổi mới tư
duy lí luận chưa kiên quyết mạnh mẽ, có mặt còn lạc hậu, hạn chế so với chuyển biến nhanh
của thực tiễn.
● Dự báo tình hình chậm chạp, thiếu tính chính xác làm ảnh hưởng đến chất lượng các quyết
sách, chủ trương, đường lối của Đảng. Nhận thức và giải quyết tám mối quan hệ còn hạn chế.
Đổi mới thiếu đồng bộ lúng túng trên một số linh vực.
● Nhận thức, phương pháp và cách thức chỉ đạo tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối, nghị
quyết của Đảng và chính sách, pháp luật của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước còn
nhiều hạn chế.
● Quyền hạn và chế độ trách nhiệm, nhất là quyền hạn và trách nhiệm của người đứng đầu không
được quy định rõ ràng, thiếu cơ chế để kiểm soát quyền lực.
● Nhiều chủ trương, nghị quyết đúng ko được tích cực thực hiện, kết quả thấp, một số chính sách
không phù hợp với thực tiễn, chậm được sửa đổi bổ sung.
● Việc quản lí, giáo dục rèn luyện cán bộ, đảng viên nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lí chủ chốt các
cấp về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống chưa được coi trọng thường xuyên, đúng mực, hiệu
quả thấp, chưa đáp ứng được yêu yêu cầu, chưa tạo được sự thống nhất cao về nhận thức tư
tưởng, ý chí và hành động trong Đảng trước những diễn biến phức tạp của tình hình. Đánh giá,
sử dụng, bố trí cán bộ còn nể nang, cục bộ, chưa quan tâm đến việc xây dựng cơ chế, chính
sách để trọng dụng người có đức có tài.
116

CÂU 6: PHÂN TÍCH NHỮNG ĐẶC TRƯNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở NƯỚC TA ĐƯỢC XÁC
ĐỊNH TRONG CƯƠNG LĨNH XÂY DỰNG ĐẤT NƯỚC TRONG THỜI KÌ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI BỔ SUNG NĂM 2011 CỦA ĐẢNG? LIÊN HỆ VAI TRÒ VÀ TRÁCH NHIỆM
CỦA SV TRONG VIỆC THỰC HIỆN ĐẶC TRƯNG: “CÓ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA CỦA NHÂN DÂN, DO NHÂN DÂN, VÌ NHÂN DÂN DO ĐCS LÃNH ĐẠO”.

Đề thi hk II 2021-2022

Đại hội XI của Đảng họp tại Hà Nội trong bối cảnh tình hình thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, hòa
bình, hợp tác cùng phát triển vẫn đang là một xu thế lớn nhưng chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang,
khủng bố, tranh chấp lãnh thổ vẫn diễn ra hết sức phức tạp. Thiên tai, dịch bệnh , khủng hoảng, suy
thoái kinh tế trầm trọng trên toàn thế giới. Cả nước vừa mới kỉ niệm 1000 năm Thăng Long-Hà Nội với
những thành tựu quan trọng nhưng còn nhiều yếu kém cần khắc phục. Các thế lực thù địch tiếp tục
chống phá, kích động bạo loạn, đẩy mạnh hoạt động “ diễn biến hòa bình”.

Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm
2011) được thông qua tại Đại hội XI, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: Xã hội xã hội chủ nghĩa
mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội:

l/ Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh;

2/ Do nhân dân làm chủ;

3/ Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù
hợp;

4/ Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;

5/ Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện;

6/ Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng.

7/ Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân vì nhân dân do Đảng Cộng
sản lãnh đạo;

8/ Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.

So với Cương lĩnh 1991, mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) có một số điều chỉnh
quan trọng. Thực ra, một số điều chỉnh mới trong Cương lĩnh 2011 về đặc trưng của chủ nghĩa xã hội
so với trong Cương lĩnh 1991 đó được nêu ra từ Đại hội X của Đảng (2006). Theo đó, đặc trưng thứ
nhất và thứ bảy được bổ sung mới hoàn toàn và trong một số đặc trưng khác (đặc trưng thứ hai, ba và
năm) có sự điều chỉnh nhất định về từ ngữ dẫn đến nội dung cx thay đổi. Như vậy, không có nghĩa là
phải đến Cương lĩnh 2011 Đảng Cộng sản Việt Nam mới có sự điều chỉnh, bổ sung các đặc trưng của
chủ nghĩa xã hội; trái lại, cùng với sự phát triển của công cuộc đổi mới, Đảng đã có những nhận thức
117

ngày càng sâu sắc về chủ nghĩa xã hội phù hợp hơn với thực tiễn cuộc sống, kịp thời bổ sung và hoàn
chỉnh dần quan điểm, đường lối về chủ nghĩa xã hội.

Những bổ sung, và điểm mới trong Cương lĩnh 2011 như sau:

Thứ nhất, so với Cương lĩnh 1991, Cương lĩnh 2011 đã bổ sung hai đặc trưng mới: 1/ Dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh và 2/ Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Trong Văn kiện Đại hội X, hai đặc trưng quan
trọng này cũng đã được nêu ra khi nói về chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng. Song, trong đặc
trưng thứ nhất của Cương lĩnh 2011, tiêu chí dân chủ được đặt trước tiêu chí công bằng. Thực tiễn cho
thấy, nước ta hiện nay, dân chủ và việc thực hiện dân chủ giữ vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng trong
đời sống xã hội. Dân chủ không những là mục tiêu, mà còn là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế -
xã hội theo hướng phát triển nhanh và bền vững. Khi dân chủ được bảo đảm mới có thể nói đến công
bằng và đến lớn mạnh, những điều đó mới thể hiện sự văn minh.

Việc bổ sung đặc trưng ''có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản'' thể hiện vị trí đặc biệt quan trọng của Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa trong hệ thống chính trị của Việt Nam. Nhà nước ấy thuộc về nhân dân, do nhân dân
xây dựng nên và hướng tới phục vụ lợi ích của nhân dân, là cơ quan quyền lực của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân. Mục tiêu căn bản của công cuộc đổi mới nói chung, của đổi mới chính trị và đổi mới
hệ thống chính trị nói riêng ở nước ta chính là xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền
làm chủ của nhân dân. Việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân và vì nhân dân là một trong những điều kiện tiên quyết để thực hiện và phát huy quyền làm chủ
của nhân dân.

Thứ hai, nếu Cương lĩnh năm 1991 xác định xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội ''do nhân dân lao động
làm chủ'' thì trong Văn kiện Đại hội X và Cương lĩnh 2011, đặc trưng thứ hai được điều chỉnh thành
''do nhân dân làm chủ''. Rõ ràng, khái niệm ''nhân dân” trong Văn kiện Đại hội X có nội hàm rộng hơn
so với khái niệm ''nhân dân lao động'' được đề cập trong Cương lĩnh năm 1991. Điều này cho phép
thực hiện khối đại đoàn kết toàn dân tộc và huy động sức mạnh của toàn dân vào sự nghiệp xây dựng
và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Thứ ba, đặc trưng thứ 2 trong Cương lĩnh năm 1991 ''Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực
lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu'' được Cương lĩnh 2011 bổ
sung bằng ''Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến
bộ phù hợp''. Điều này là cần thiết và đúng đắn. Bởi lẽ, theo quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin,
quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là xương sống của
mọi hình thái kinh tế - xã hội. Quan hệ sở hữu chế độ công hữu) không đồng nhất với quan hệ sản
xuất. Dù đóng vai trò hết sức quan trọng, song quan hệ sở hữu cũng chỉ là một trong 3 yếu tố (quan hệ
sở hữu, quan hệ quản lý và quan hệ phân phối) cấu thành quan hệ sản xuất. Cũng cần lưu ý rằng, Đại
hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã rút ra một trong những bài học quan trọng về sự phù hợp của
quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.

Thứ tư, cụm từ ''được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công” trong đặc trưng thứ tư của Cương lĩnh
1991 (cụm từ “được giải phóng khỏi áp bức, bất công” ở đặc trưng thứ 5 của mô hình chủ nghĩa xã hội
nêu trong Văn kiện Đại hội X) được Cương lĩnh 2011 lược bỏ và xác định là ''Con người có cuộc sống
ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”. Theo chúng tôi điều này là hợp lý. Bởi lẽ,
sự ''ấm no, tự do, hạnh phúc'' của con người cũng đã bao hàm ý nghĩa được giải phóng khỏi áp bức,
bóc lột và bất công.
118

Thứ năm, trong Cương lĩnh năm 2011 xác định ''con người... có điều kiện phát triển toàn diện'' (trong
Cương lĩnh 1991 viết: ''Con người... có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân'', cũng Văn kiện Đại hội
X ghi ''con người ... được phát triển toàn diện''). Việc bổ sung cụm từ ''có điều kiện” là chính xác thể
hiện trong chủ nghĩa xã hội sự phát triển của con người luôn được tạo điều kiện, đồng thời phải căn cứ
vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Thứ sáu, trong đặc trưng thứ 5 của Cương lĩnh năm 1991 viết ''Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn
kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ”; trong Văn kiện Đại hội X viết: ''Các dân tộc trong cộng đồng
Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng tiến bộ''. Trong Cương lĩnh năm 2011, đặc
trưng này được điều chỉnh thành ''Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn
trọng và giúp nhau cùng phát triển''. Việc thay thuật ngữ ''tương trợ'' bằng thuật ngữ ''tôn trọng'' hoàn
toàn đúng đắn và làm cho đặc trưng này có nội dung toàn diện hơn (với 4 tiêu chí: bình đẳng, đoàn kết,
tôn trọng và giúp nhau), bởi thuật ngữ ''tương trợ” và ''giúp nhau” (trong Văn kiện Đại hội X), về cơ
bản, có nội dung như nhau.

Thứ bảy, nếu Cương lĩnh 1991 xác định đặc trưng thứ 6 của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là “Có quan
hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới'' thì trong Văn kiện Đại hội lần thứ X
và trong Cương lĩnh 2011, nó được diễn đạt một cách chính xác hơn - ''Có quan hệ hữu nghị và hợp tác
với các nước trên thế giới''. Cụm từ ''với các nước trên thế giới'' rõ ràng rộng hơn cụm từ ''với nhân dân
tất cả các nước trên thế giới''. Nó thể hiện mối quan hệ hữu nghị và hợp tác của Việt Nam không chỉ
với nhân dân các nước, mà cùng với nhà nước, chính phủ và các tổ chức phi chính phủ của các nước
trên thế giới.

Cương lĩnh của Đảng tiếp tục là ngọn cơ tư tưởng, ngọn cờ chiến đấu, ngọn cờ quy tụ sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân tộc phấn đấu vì một đất nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh”.

*Liên hệ với vai trò: mn tự liên hệ theo cách của mình nhé.

Vai trò và trách nhiệm của sinh viên trong việc thực hiện đặc trưng "có nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo" là cực kỳ quan trọng
trong việc tham gia vào xây dựng và phát triển quốc gia theo hướng xã hội chủ nghĩa. Đặc trưng này
đề cập đến chế độ chính trị và xã hội của một quốc gia, trong đó nhân dân là trung tâm của quyết định
và hoạt động chính trị, kinh tế, xã hội.

Dưới đây là vai trò và trách nhiệm cụ thể của sinh viên:

● Thấu hiểu tư tưởng của Đảng Cộng sản: Sinh viên cần thấu hiểu tư tưởng của Đảng Cộng sản, gắn
kết với tư tưởng Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Điều này đảm bảo rằng họ có nhận thức
đúng đắn về mục tiêu xã hội chủ nghĩa và con đường phát triển của quốc gia.
● Tham gia vào các hoạt động chính trị: Sinh viên nên tích cực tham gia vào các hoạt động chính trị
trong trường học và cộng đồng. Họ có thể tham gia vào các tổ chức đoàn thể sinh viên, hoạt động
đoàn thanh niên, và tham gia vào các cuộc họp thảo luận, biểu tình, và các sự kiện chính trị.
● Đóng góp ý kiến và phản biện xây dựng: Sinh viên nên dám nghĩ, dám nói, dám làm và đóng góp ý
kiến, phản biện xây dựng nhằm góp phần vào quyết định và lãnh đạo của nhà nước. Điều này cần sự
tự tin, kiên định và có căn cứ khoa học.
● Thúc đẩy lòng yêu nước và trách nhiệm công dân: Sinh viên nên phát triển lòng yêu nước, tôn vinh
truyền thống lịch sử, văn hóa và đấu tranh của dân tộc. Họ cần có trách nhiệm công dân, giữ gìn vệ
sinh đô thị, tham gia vào các hoạt động bảo vệ môi trường và quyền lợi của cộng đồng.
119

● Thực hiện tốt vai trò của công dân: Sinh viên nên tuân thủ pháp luật, đóng góp xây dựng và bảo vệ
hòa bình xã hội, thực hiện nghĩa vụ quân sự (nếu có), và tích cực tham gia vào các hoạt động xã hội
có ý nghĩa.
● Học tập và đào tạo: Sinh viên cần đảm bảo học tập và đào tạo vững chắc, nâng cao trình độ chuyên
môn, để có khả năng làm việc hiệu quả và đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước.

Tóm lại, vai trò và trách nhiệm của sinh viên trong việc thực hiện đặc trưng "có nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo" là tham gia tích
cực vào quyết định và lãnh đạo của nhà nước, thể hiện lòng yêu nước và trách nhiệm công dân, và
đóng góp vào sự phát triển bền vững của đất nước.

CÂU 7: PHÂN TÍCH NHỮNG ĐẶC TRƯNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở NƯỚC TA ĐƯỢC XÁC
ĐỊNH TRONG CƯƠNG LĨNH XÂY DỰNG ĐẤT NƯỚC TRONG THỜI KÌ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI BỔ SUNG NĂM 2011 CỦA ĐẢNG? LIÊN HỆ VAI TRÒ VÀ TRÁCH NHIỆM
CỦA SV TRONG VIỆC THỰC HIỆN ĐẶC TRƯNG: DÂN GIÀU, NƯỚC MẠNH, XÃ HỘI
CÔNG BẰNG DÂN DÂN CHỦ VĂN MINH”.

Kì hè 2021-2022
Đại hội XI của Đảng họp tại Hà Nội trong bối cảnh tình hình thế giới tiếp tục diễn biến phức
tạp, hòa bình, hợp tác cùng phát triển vẫn đang là một xu thế lớn nhưng chiến tranh cục bộ, xung đột
vũ trang, khủng bố, tranh chấp lãnh thổ vẫn diễn ra hết sức phức tạp. Thiên tai, dịch bệnh , khủng
hoảng, suy thoái kinh tế trầm trọng trên toàn thế giới. Cả nước vừa mới kỉ niệm 1000 năm Thăng
Long-Hà Nội với những thành tựu quan trọng nhưng còn nhiều yếu kém cần khắc phục. Các thế lực
thù địch tiếp tục chống phá, kích động bạo loạn, đẩy mạnh hoạt động “ diễn biến hòa bình”.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát
triển năm 2011) được thông qua tại Đại hội XI, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: Xã hội xã hội
chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội:
l/ Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh;

2/ Do nhân dân làm chủ;

3/ Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ
phù hợp;

4/ Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;

5/ Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện;

6/ Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng.

7/ Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân vì nhân dân do Đảng
Cộng sản lãnh đạo;

8/ Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.

So với Cương lĩnh 1991, mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) có một số điều
chỉnh quan trọng. Thực ra, một số điều chỉnh mới trong Cương lĩnh 2011 về đặc trưng của chủ nghĩa
xã hội so với trong Cương lĩnh 1991 đó được nêu ra từ Đại hội X của Đảng (2006). Theo đó, đặc trưng
thứ nhất và thứ bảy được bổ sung mới hoàn toàn và trong một số đặc trưng khác (đặc trưng thứ hai, ba
120

và năm) có sự điều chỉnh nhất định về từ ngữ dẫn đến nội dung cx thay đổi. Như vậy, không có nghĩa
là phải đến Cương lĩnh 2011 Đảng Cộng sản Việt Nam mới có sự điều chỉnh, bổ sung các đặc trưng
của chủ nghĩa xã hội; trái lại, cùng với sự phát triển của công cuộc đổi mới, Đảng đã có những nhận
thức ngày càng sâu sắc về chủ nghĩa xã hội phù hợp hơn với thực tiễn cuộc sống, kịp thời bổ sung và
hoàn chỉnh dần quan điểm, đường lối về chủ nghĩa xã hội.

Những bổ sung, và điểm mới trong Cương lĩnh 2011 như sau:

Thứ nhất, so với Cương lĩnh 1991, Cương lĩnh 2011 đã bổ sung hai đặc trưng mới: 1/ Dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh và 2/ Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Trong Văn kiện Đại hội X, hai đặc
trưng quan trọng này cũng đã được nêu ra khi nói về chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng. Song,
trong đặc trưng thứ nhất của Cương lĩnh 2011, tiêu chí dân chủ được đặt trước tiêu chí công bằng.
Thực tiễn cho thấy, nước ta hiện nay, dân chủ và việc thực hiện dân chủ giữ vị trí và vai trò đặc biệt
quan trọng trong đời sống xã hội. Dân chủ không những là mục tiêu, mà còn là động lực thúc đẩy sự
phát triển kinh tế - xã hội theo hướng phát triển nhanh và bền vững. Khi dân chủ được bảo đảm mới có
thể nói đến công bằng và đến lớn mạnh, những điều đó mới thể hiện sự văn minh.

Việc bổ sung đặc trưng ''có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản'' thể hiện vị trí đặc biệt quan trọng của Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong hệ thống chính trị của Việt Nam. Nhà nước ấy thuộc về nhân dân,
do nhân dân xây dựng nên và hướng tới phục vụ lợi ích của nhân dân, là cơ quan quyền lực của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân. Mục tiêu căn bản của công cuộc đổi mới nói chung, của đổi mới chính
trị và đổi mới hệ thống chính trị nói riêng ở nước ta chính là xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa,
phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân và vì nhân dân là một trong những điều kiện tiên quyết để thực hiện và phát huy
quyền làm chủ của nhân dân.

Thứ hai, nếu Cương lĩnh năm 1991 xác định xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội ''do nhân dân lao
động làm chủ'' thì trong Văn kiện Đại hội X và Cương lĩnh 2011, đặc trưng thứ hai được điều chỉnh
thành ''do nhân dân làm chủ''. Rõ ràng, khái niệm ''nhân dân” trong Văn kiện Đại hội X có nội hàm
rộng hơn so với khái niệm ''nhân dân lao động'' được đề cập trong Cương lĩnh năm 1991. Điều này cho
phép thực hiện khối đại đoàn kết toàn dân tộc và huy động sức mạnh của toàn dân vào sự nghiệp xây
dựng và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Thứ ba, đặc trưng thứ 2 trong Cương lĩnh năm 1991 ''Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên
lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu'' được Cương lĩnh 2011
bổ sung bằng ''Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất
tiến bộ phù hợp''. Điều này là cần thiết và đúng đắn. Bởi lẽ, theo quan niệm của chủ nghĩa Mác -
Lênin, quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là xương sống
của mọi hình thái kinh tế - xã hội. Quan hệ sở hữu chế độ công hữu) không đồng nhất với quan hệ sản
xuất. Dù đóng vai trò hết sức quan trọng, song quan hệ sở hữu cũng chỉ là một trong 3 yếu tố (quan hệ
sở hữu, quan hệ quản lý và quan hệ phân phối) cấu thành quan hệ sản xuất. Cũng cần lưu ý rằng, Đại
hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã rút ra một trong những bài học quan trọng về sự phù hợp của
quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.

Thứ tư, cụm từ ''được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công” trong đặc trưng thứ tư của
Cương lĩnh 1991 (cụm từ “được giải phóng khỏi áp bức, bất công” ở đặc trưng thứ 5 của mô hình chủ
nghĩa xã hội nêu trong Văn kiện Đại hội X) được Cương lĩnh 2011 lược bỏ và xác định là ''Con người
121

có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”. Theo chúng tôi điều này là
hợp lý. Bởi lẽ, sự ''ấm no, tự do, hạnh phúc'' của con người cũng đã bao hàm ý nghĩa được giải phóng
khỏi áp bức, bóc lột và bất công.

Thứ năm, trong Cương lĩnh năm 2011 xác định ''con người... có điều kiện phát triển toàn diện''
(trong Cương lĩnh 1991 viết: ''Con người... có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân'', cũng Văn kiện
Đại hội X ghi ''con người ... được phát triển toàn diện''). Việc bổ sung cụm từ ''có điều kiện” là chính
xác thể hiện trong chủ nghĩa xã hội sự phát triển của con người luôn được tạo điều kiện, đồng thời phải
căn cứ vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Thứ sáu, trong đặc trưng thứ 5 của Cương lĩnh năm 1991 viết ''Các dân tộc trong nước bình
đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ”; trong Văn kiện Đại hội X viết: ''Các dân tộc trong
cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng tiến bộ''. Trong Cương lĩnh năm
2011, đặc trưng này được điều chỉnh thành ''Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn
kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển''. Việc thay thuật ngữ ''tương trợ'' bằng thuật ngữ ''tôn
trọng'' hoàn toàn đúng đắn và làm cho đặc trưng này có nội dung toàn diện hơn (với 4 tiêu chí: bình
đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau), bởi thuật ngữ ''tương trợ” và ''giúp nhau” (trong Văn kiện Đại
hội X), về cơ bản, có nội dung như nhau.

Thứ bảy, nếu Cương lĩnh 1991 xác định đặc trưng thứ 6 của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là
“Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới'' thì trong Văn kiện Đại hội
lần thứ X và trong Cương lĩnh 2011, nó được diễn đạt một cách chính xác hơn - ''Có quan hệ hữu nghị
và hợp tác với các nước trên thế giới''. Cụm từ ''với các nước trên thế giới'' rõ ràng rộng hơn cụm từ
''với nhân dân tất cả các nước trên thế giới''. Nó thể hiện mối quan hệ hữu nghị và hợp tác của Việt
Nam không chỉ với nhân dân các nước, mà cùng với nhà nước, chính phủ và các tổ chức phi chính phủ
của các nước trên thế giới.

Cương lĩnh của Đảng tiếp tục là ngọn cơ tư tưởng, ngọn cờ chiến đấu, ngọn cờ quy tụ sức mạnh
đại đoàn kết toàn dân tộc phấn đấu vì một đất nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh”.

*Liên hệ với vai trò: mn tự liên hệ theo cách của mình nhé.

Dưới đây là vai trò và trách nhiệm cụ thể của sinh viên:

Học tập và nghiên cứu: Sinh viên phải nỗ lực học tập và nghiên cứu để trang bị kiến thức
chuyên môn, từ đó đóng góp vào sự phát triển của đất nước. Học tập là cơ hội để họ tiếp cận những
kiến thức mới nhất, những công nghệ tiên tiến và các giải pháp hiệu quả để giải quyết các vấn đề xã
hội.

Ý thức và trách nhiệm xã hội: Sinh viên nên phát triển ý thức về trách nhiệm xã hội và tham gia
tích cực vào các hoạt động cộng đồng. Điều này bao gồm việc tham gia vào các chương trình tình
nguyện, giúp đỡ những người có hoàn cảnh khó khăn, và đóng góp vào các dự án xã hội có ý nghĩa.

Khuyến khích sáng tạo và năng lực ứng dụng: Sinh viên nên khuyến khích động não và sáng
tạo, từ đó tạo ra những giải pháp mới và ứng dụng hiệu quả vào thực tế. Điều này có thể góp phần
nâng cao năng lực cạnh tranh của đất nước và đưa đến sự giàu có và mạnh mẽ của dân tộc.
122

Tham gia vào hoạt động chính trị và dân chủ: Sinh viên nên hiểu về hệ thống chính trị và tham
gia tích cực vào quy trình dân chủ. Điều này bao gồm việc bỏ phiếu trong các cuộc bầu cử, tham gia
vào các cuộc biểu tình và các hoạt động đòi hỏi chính quyền đáp ứng nhu cầu và quyền lợi của người
dân.

Tôn trọng và thúc đẩy đa dạng văn hóa: Sinh viên cần thể hiện tôn trọng và thấu hiểu về đa
dạng văn hóa trong xã hội. Họ nên thúc đẩy sự đoàn kết và hòa hợp giữa các dân tộc, tôn giáo, và tầng
lớp xã hội.

Đấu tranh cho công bằng xã hội: Sinh viên nên đấu tranh cho xã hội công bằng và phản đối mọi
hình thức bất công, kỳ thị và bạo lực. Họ có thể tham gia vào các hoạt động đòi hỏi công bằng xã hội,
bình đẳng và quyền lợi của người dân được bảo vệ.

Tóm lại, sinh viên đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển của quốc gia, đạt
được những đặc trưng "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Họ là những
người trẻ tuổi đầy nhiệt huyết và ý chí, có tiềm năng thực hiện những thay đổi tích cực cho xã hội.

CHỦ ĐỀ 40: PHÂN TÍCH NHỮNG KINH NGHIỆM CHỦ YẾU CỦA CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI
VÌ CNXH CỦA ĐẢNG.

1. Hoàn cảnh lịch sử của Đại hội Đảng lần thứ XII(2016)
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng diễn ra trong bối cảnh đất nước ta vừa thực
hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ quan trọng trong Nghị quyết Đại hội XI (năm 2011). Toàn Đảng,
toàn dân và toàn quân ta đã trải qua 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 5 năm thực hiện Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và Chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020. Vì thế, Đại hội XII đi sâu kiểm điểm việc thực hiện Nghị
quyết Đại hội XI, nhìn lại 30 năm đổi mới, rút ra những bài học; xác định phương hướng, mục tiêu,
nhiệm vụ trong giai đoạn 2016-2020.
- Tình hình thế giới: Đại hội diễn ra trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực diễn biến nhanh,
rất phức tạp, khó lường; đất nước đứng trước nhiều vấn đề mới, có cả những thuận lợi, thời cơ
đan xen với những khó khăn, thách thức gay gắt. Tranh chấp lãnh thổ, chủ quyền biển đảo
trong khu vực và trên Biển Đông diễn ra gay gắt, phức tạp, ảnh hưởng tiêu cực đến sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Tình hình trong nước: Nền kinh tế vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, quy mô và tiềm lực
được nâng lên; kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát; tăng trưởng kinh tế
được duy trì ở mức hợp lý, từ năm 2013 dần phục hồi, năm sau cao hơn năm trước. Đổi mới
mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế và thực hiện ba đột phá chiến lược được tập trung
thực hiện bước đầu đạt kết quả tích cực. Quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế ngày càng sâu
rộng, hiệu quả. Vị thế, uy tín quốc tế của nước ta tiếp tục được nâng cao. Cán bộ, đảng viên và
nhân dân đặt nhiều kỳ vọng vào những quyết sách đúng đắn, mạnh mẽ, phù hợp của Đảng để
phát huy thuận lợi, vượt qua mọi khó khăn, tiếp tục đưa đất nước ta phát triển nhanh, bền vững.

2. Tên và phân tích các kinh nghiệm chủ yếu của 30 năm(1986-2016) xây dựng CNXH theo
đường lối đổi mới do Đại hội Đảng lần thứ XII (năm 2016) rút ra.(Chú ý phân tích kĩ
kinh nghiệm quan trọng nhất)

Ba mươi năm đổi mới là một giai đoạn lịch sử quan trọng trong sự nghiệp phát triển của
nước ta, đánh dấu sự trưởng thành về mọi mặt của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Đổi mới
123

mang tầm vóc và ý nghĩa cách mạng, là quá trình cải biến sâu sắc, toàn diện, triệt để, là sự
nghiệp cách mạng to lớn của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân vì mục tiêu "dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".

Nhìn lại 30 năm, Đại hội Đảng lần thứ XII đã rút ra các kinh nghiệm chủ yếu trong việc xây
dựng CNXH theo đường lối đổi mới:

Một là, trong quá trình đổi mới phải chủ động, không ngừng sáng tạo trên cơ sở kiên định mục
tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn
hóa nhân loại, vận dụng kinh nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam.
Xây dựng đất nước theo con đường XHCN là sự nghiệp khó khăn, phức tạp, lâu dài, nhưng
đó là con đường hợp quy luật để có một nước Việt Nam phát triển bền vững. Đối với nước ta,
đổi mới là yêu cầu bức thiết của sự nghiệp cách mạng, là vấn đề có ý nghĩa sống còn. Quá trình
đổi mới, bên cạnh những cơ hội, luôn xuất hiện những vấn đề mới, những khó khăn, thách thức
mới, đòi hái Đảng, Nhà nước và nhân dân phải chủ động, không ngừng sáng tạo.
Đổi mới không phải là từ bỏ mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, mà là làm cho chủ nghĩa xã hội
được nhận thức đúng đắn hơn và được xây dựng có hiệu quả hơn. Xây dựng đất nước theo con
đường xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh ngày nay là một sự nghiệp vô cùng khó khăn, phức tạp
và lâu dài, nhưng đó là con đường hợp quy luật để có một nước Việt Nam dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Sự nghiệp cách mạng đó đòi hái Đảng, Nhà nước và nhân
dân ta phải kiên định, kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Đổi mới không phải là xa rời chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, mà là nhận
thức đúng, vận dụng và không ngừng phát triển sáng tạo học thuyết, tư tưởng đó, lấy đó làm
nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng, làm cơ sở phương pháp luận quan
trọng nhất để phân tích tình hình, hoạch định và hoàn thiện đường lối đổi mới. Kế thừa, phát
huy truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, vận dụng kinh nghiệm quốc tế
phù hợp với Việt Nam.

Hai là, đổi mới phải luôn luôn quán triệt quan điểm "dân là gốc", vì lợi ích của nhân dân, dựa
vào nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo và mọi nguồn lực
của nhân dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.
Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, vì nhân dân và do nhân dân. Đổi mới phải vì lợi ích
của nhân dân. Xa rời, đi ngược lợi ích của nhân dân, đổi mới sẽ thất bại.
Những ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến của nhân dân nảy sinh từ thực tiễn là nguồn gốc
hình thành đường lối đổi mới của Đảng. Nhân dân là người làm nên những thành tựu của đổi
mới. Đổi mới phải luôn luôn quán triệt quan điểm "dân là gốc", vì lợi ích của nhân dân, dựa
vào nhân dân.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự
phát triển đất nước. Xây dựng và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực
thuộc về nhân dân, để nhân dân thật sự là chủ thể tiến hành đổi mới và thụ hưởng thành quả đổi
mới. Đổi mới là sự nghiệp khó khăn, phức tạp, càng cần phải phát huy quyền làm chủ, sức sáng
tạo và mọi nguồn lực của nhân dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Để phát huy
dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, cần phòng, chống đặc quyền,
đặc lợi, chống suy thoái, biến chất.
124

Ba là, đổi mới phải toàn diện, đồng bộ, có bước đi phù hợp; tôn trọng quy luật khách quan,
xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn, coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, tập
trung giải quyết kịp thời, hiệu quả những vấn đề do thực tiễn đặt ra.
Thực tiễn đã chỉ rõ, phải đổi mới toàn diện, đồng bộ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống
xã hội; từ nhận thức, tư tưởng đến hoạt động thực tiễn; từ hoạt động lãnh đạo của Đảng, quản
lý của Nhà nước đến hoạt động trong từng bộ phận của hệ thống chính trị; từ hoạt động của cấp
trung ương đến hoạt động của địa phương và cơ sở.
Trong quá trình đổi mới phải tổ chức thực hiện quyết liệt với bước đi, hình thức, cách làm
phù hợp, hiệu quả; khắc phục tình trạng nóng vội, chủ quan sẽ gây mất ổn định, thậm chí rối
loạn, tạo cơ hội cho các thế lực thù địch chống phá công cuộc đổi mới; đồng thời phải chủ
động, năng động, không ngừng sáng tạo, khắc phục tình trạng bảo thủ, trì trệ, bỏ lỡ cơ hội phát
triển.
Phải tôn trọng quy luật khách quan. Coi sự phát triển của thực tiễn là yêu cầu và cơ sở để
đổi mới tư duy lý luận, đường lối, chủ trương, cơ chế, chính sách. Mọi đường lối, chủ trương,
chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước đều phải xuất phát từ thực tiễn. Phải bám sát thực
tiễn, coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận để điều chỉnh, bổ sung, phát triển đường
lối đổi mới.
Để dân tin, dân ủng hộ, dân tích cực thực hiện đường lối đổi mới, đòi hỏi Đảng, Nhà nước
phải giải quyết kịp thời, hiệu quả những vấn đề do thực tiễn đặt ra; kịp thời điều chỉnh, bổ sung
các thể chế, thiết chế, cơ chế, chính sách không phù hợp, cản trở sự phát triển; thực hiện nói đi
đôi với làm.

Bốn là, phải đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết; kiên định độc lập, tự chủ, đồng thời chủ
động và tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi; kết hợp phát huy sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa.
Luôn luôn coi lợi ích quốc gia - dân tộc là tối thượng. Trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng
cần kiên định độc lập, tự chủ đồng thời chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Kết hợp phát
huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế nhằm
tạo ra sức mạnh tổng hợp để phát triển đất nước nhanh và bền vững. Phát huy sức mạnh toàn
dân tộc là cơ sở để kết hợp sức mạnh thời đại, làm cho sức mạnh toàn dân tộc mạnh hơn, dựa
trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp
vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Năm là, phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng; xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực và
phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ; nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước, Mặt
trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và của cả hệ thống chính trị; tăng cường mối quan
hệ mật thiết với nhân dân.
Đây được coi là kinh nghiệm quan trọng nhất. Kinh nghiệm này nhấn mạnh sự chủ động
trong “tự đổi mới, tự chỉnh đốn”, gắn công tác xây dựng Đảng với công tác cán bộ, nhất là cán
bộ cấp chiến lược, đổi mới, chỉnh đốn Đảng đặt trong tổng thể của đổi mới hệ thống chính trị.
Công cuộc đổi mới là sự nghiệp vĩ đại, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết
định thành công của công cuộc đổi mới. Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh là nhiệm vụ then chốt. Đảng phải thường xuyên
tự chỉnh đốn, tự đổi mới.
125

Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, là khâu then chốt trong công tác
xây dựng Đảng. Xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực
và phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ có ý nghĩa quyết định đến công tác xây dựng Đảng trong
sạch, vững mạnh, lãnh đạo thành công sự nghiệp đổi mới.
Thường xuyên kiện toàn tổ chức, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước.
Phát huy vai trò Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong việc tập hợp các tầng lớp
nhân dân, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc để thực hiện thành công sự
nghiệp đổi mới.
Sức mạnh của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng được bắt nguồn và nhân lên
từ sức mạnh của nhân dân. Củng cố, bồi dưỡng quan hệ mật thiết giữa các tổ chức trong hệ
thống chính trị, trước hết là mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân, là vấn đề trọng đại,
cấp thiết, có ý nghĩa sống còn đối với cách mạng Việt Nam.

3. Ý nghĩa Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng.
- Đại hội đã nhìn lại 30 năm đổi mới và một lần nữa khẳng định: đường lối đổi mới của
Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù
hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử; là cơ sở vững chắc để
Đảng ta đưa ra những quyết sách sáng suốt, đúng đắn, mở ra thời kỳ phát triển mới, vẻ
vang, tốt đẹp của đất nước, dân tộc.
- Những bài học kinh nghiệm được Đại hội Đảng lần thứ XII rút ra là cơ sở quan trọng để
Đảng ta tiếp tục vận dụng, phát huy và phát triển sáng tạo trong lãnh đạo, chỉ đạo, giúp
chúng ta kiên định, vững vàng và tự tin vượt qua những khó khăn, thách thức mới và
nhiệm vụ nặng nề hơn khi bước vào nhiệm kỳ khóa XIII.

CHỦ ĐỀ 41: PHÂN TÍCH NHỮNG THẮNG LỢI TO LỚN, CÓ Ý NGHĨA THỜI ĐẠI CỦA
CÁCH MẠNG VIỆT NAM DƯỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG

1) Nêu tên & nêu sơ qua về thắng lợi

- Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ
cộng hòa

+ Đầu năm 1945, Chiến tranh thế giới lần thứ hai bước vào giai đoạn cuối. Ở trong nước, trải
qua các cuộc diễn tập, đến năm 1945, phong trào cách mạng dâng cao. Dưới sự lãnh đạo
của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước đồng loạt vùng dậy, tiến hành tổng
khởi nghĩa, giành chính quyền. Chỉ trong vòng 15 ngày cuối tháng 8-1945, cuộc tổng khởi
nghĩa đã giành thắng lợi hoàn toàn, chính quyền trong cả nước về tay nhân dân.

- Thắng lợi của các cuộc kháng chiến oanh liệt để giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc

+ Không cam chịu thất bại ở Việt Nam, thực dân Pháp đã quay lại xâm lược nước ta từ ngày
23-9-1945 với việc đánh chiếm Nam Bộ. Sau thất bại của Pháp ở Điện Biên Phủ (7-5-
1954), đế quốc Mỹ tìm cách thế chân Pháp bằng cách thiết lập chế độ thực dân mới ở miền
Nam Việt Nam và phát động cuộc chiến tranh xâm lược tàn bạo chống dân tộc Việt Nam
vốn khát khao độc lập, tự do và yêu chuộng hòa bình. Đảng Cộng sản Việt Nam trước vận
mệnh sống còn của dân tộc đã quyết tâm lãnh đạo toàn dân tiến hành cuộc kháng chiến
oanh liệt giành và bảo vệ độc lập, thống nhất của dân tộc. Sự nghiệp đó được hoàn thành
trọn vẹn với Đại thắng mùa Xuân 1975, đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
126

- Thắng lợi của sự nghiệp đổi mới và từng bước đưa đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

+ Kiên định mục tiêu chiến lược của cách mạng, khi miền Bắc được giải phóng (1954), Đảng
đã lãnh đạo thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền
Bắc. Đất nước thống nhất (1975), Đảng lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội trên cả nước.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng công cuộc đổi mới ở Việt Nam đã làm biến đổi và phát triển đất
nước cả về chính trị, kinh tế, xã hội, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của
nhân dân, nâng cao và khẳng định vị thế của Việt Nam trong đời sống chính trị, kinh tế của
thế giới.

2) Phân tích từng thắng lợi

2.1. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa

- Thành quả: Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam đã đạt được những thành quả
to lớn:

+ Lật đổ ách thống trị của thực dân Pháp, phát xít Nhật, ngai vàng phong kiến, đưa Việt Nam
từ một nước thuộc địa nửa phong kiến trở thành quốc gia độc lập.

+ Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời ngày 2/9/1945.

=> Thắng lợi của cuộc cách mạng Tháng Tám năm 1945 là kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài, gian
khổ, đầy hy sinh của nhân dân. Đây cũng là thắng lợi vĩ đại đầu tiên của nhân dân ta từ khi có Đảng
lãnh đạo, mở ra bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam.

- Ý nghĩa lịch sử:

* Đối với dân tộc:

+ (Quan trọng nhất) Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã đập tan xiềng xích nô lệ của chủ
nghĩa đế quốc trong gần một thế kỷ, chấm dứt sự tồn tại của chế độ quân chủ chuyên chế
hàng nghìn năm, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - đây nhà nước của nhân dân
đầu tiên ở Đông Nam Á → Nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ bước lên địa vị làm chủ
đất nước, có quyền quyết định vận mệnh của mình

+ Nước Việt Nam từ một nước thuộc địa trở thành một quốc gia độc lập có chủ quyền, vươn
lên cùng các dân tộc trên thế giới đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội

+ Đảng Cộng sản Đông Dương từ chỗ phải hoạt động bí mật trở thành một đảng cầm quyền
→ Đảng và nhân dân Việt Nam có chính quyền nhà nước cách mạng làm công cụ sắc bén
phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Thắng lợi của CM Tháng Tám mở ra một
kỷ nguyên mới trong tiến trình lịch sử dân tộc, kỷ nguyên độc lập, tự do và hướng tới chủ
nghĩa xã hội.

+ Cách mạng tháng Tám là minh chứng hùng hồn cho vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân
Việt Nam với đội tiên phong của mình là Đảng Cộng sản Việt Nam

*Đối với quốc tế:


127

+ Cổ cũ mạnh mẽ các phong trào giải phóng dân tộc trên toàn thế giới

+ Thắng lợi của CMT8 đã chứng tỏ rằng: một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc do Đảng
cộng sản lãnh đạo hoàn toàn có khả năng thắng lợi ở một nước thuộc địa trước khi giai cấp
công nhân ở “chính quốc” lên nắm quyền

+ Góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về cách mạng
giải phóng dân tộc.

- Nguyên nhân thắng lợi

+ Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công mau lẹ do nhiều nguyên nhân, trong đó,
nguyên nhân quan trọng, có ý nghĩa quyết định là sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt, khéo léo
của Đảng ; là sự vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin trong điều kiện cụ thể của nước
ta một cách đúng đắn, độc lập, tự chủ và sáng tạo. Đảng có phương pháp, chiến lược, chiến
thuật cách mạng phù hợp, linh hoạt; nhận thức được thời cơ, chủ động đón thời cơ và kiên
quyết chớp thời cơ, tiến hành tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.

+ Cách mạng Tháng Tám thành công là do tinh thần yêu nước, đoàn kết, ý chí quật cường của
các tầng lớp nhân dân ta, không chịu sống mãi kiếp nô lệ của người dân mất nước; một lòng đi
theo Đảng và được Đảng lãnh đạo qua các cuộc tổng diễn tập, đã quyết vùng lên giành độc lập
cho dân tộc. Trải qua 15 năm đấu tranh cực kỳ gian khổ và anh dũng dưới sự lãnh đạo của
Đảng, đã có biết bao đồng bào, chiến sĩ đã không hề tiếc máu xương, hy sinh oanh liệt vì mục
tiêu độc lập dân tộc.

+ Cách mạng Tháng Tám được tiến hành trong bối cảnh quốc tế có những thuận lợi nhất định.
Chủ nghĩa phát xít Đức, Ý, Nhật đã bị đánh bại, phong trào đấu tranh giải phóng của các dân
tộc bị áp bức và của các lực lượng tiến bộ trên thế giới phát triển mạnh.

- Bài học kinh nghiệm

Cách mạng Tháng Tám thành công để lại cho Đảng và nhân dân Việt Nam nhiều bài học kinh
nghiệm quý báu.

+ Một là, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, kết hợp đúng đắn hai nhiệm vụ chống đế
quốc và chống phong kiến: Trong cách mạng dân tộc dân chủ, Đảng ta đã xác định nhiệm
vụ chống đế quốc và nhiệm vụ chống phong kiến không thể tách rời nhau. Tuy hai nhiệm
vụ không tách rời nhau nhưng nhiệm vụ chống đế quốc là chủ yếu nhất, nhiệm vụ chống
phong kiến phải phục tùng nhiệm vụ chống đế quốc và phải thực hiện từng bước với
những khẩu hiệu cụ thể như: giảm tô, giảm tức, chia ruộng đất công, chia ruộng đất của
bọn phản động cho nông dân nghèo, tiến tới cải cách ruộng đất. Khi Chiến tranh thế giới
thứ hai nổ ra, Đảng chủ trương chĩa mũi nhọn của cách mạng vào đế quốc, phát xít Nhật -
Pháp và bè lũ tay sai nhằm tập trung giải quyết yêu cầu chủ yếu, cấp bách của cách mạng
là giải phóng dân tộc.

+ Hai là, toàn dân nổi dậy trên nền tảng khối liên minh công - nông. Cách mạng Tháng
Tám thắng lợi là nhờ cuộc đấu tranh yêu nước anh hùng của hơn 20 triệu người Việt
Nam. Những cuộc nổi dậy của toàn dân chỉ có thể thực hiện được khi có đạo quân chủ
lực là giai cấp công nhân và giai cấp nông dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đạo quân chủ
128

lực này được xây dựng, củng cố qua ba cao trào cách mạng và lớn mạnh vượt bậc trong
Tổng khởi nghĩa. Dựa trên đạo quân chủ lực làm nền tảng, Đảng xây dựng được khối đại
đoàn kết dân tộc, động viên toàn dân Tổng khởi nghĩa thắng lợi.

+ Ba là, lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù. Đảng ta đã lợi dụng được mâu thuẫn
giữa chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa phát xít, mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc và một
bộ phận thế lực địa chủ phong kiến, mâu thuẫn trong hàng ngũ ngụy quyền tay sai của
Pháp và của Nhật, cô lập cao độ kẻ thù chính là bọn đế quốc, phát xít và bọn tay sai phản
động; tranh thủ hoặc trung lập những phần tử lừng chừng. Nhờ vậy, Cách mạng Tháng
Tám đã giành được thắng lợi nhanh gọn, ít đổ máu.

+ Bốn là, kiên quyết dùng bạo lực cách mạng và biết sử dụng bạo lực cách mạng một cách
thích hợp để đập tan bộ máy nhà nước cũ, lập ra bộ máy nhà nước của nhân dân. Trong
Cách mạng Tháng Tám, bạo lực của cách mạng là sự kết hợp chặt chẽ giữa lực lượng
chính trị với lực lượng vũ trang; kết hợp nổi dậy của quần chúng với tiến công của lực
lượng vũ trang cách mạng ở cả nông thôn và thành thị. Cách mạng Tháng Tám là kết quả
của sự kết hợp tất cả các hình thức đấu tranh kinh tế và chính trị, hợp pháp và không hợp
pháp của quần chúng, từ thấp đến cao, từ một số địa phương lan rộng khắp cả nước, từ
khởi nghĩa từng phần tiến lên Tổng khởi nghĩa, đập tan bộ máy nhà nước của giai cấp
thống trị, lập ra bộ máy nhà nước của nhân dân.

+ Năm là, nắm vững nghệ thuật khởi nghĩa, nghệ thuật chọn đúng thời cơ. Đảng ta coi khởi
nghĩa là một nghệ thuật, vừa vận dụng nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin và kinh
nghiệm của cách mạng thế giới, vừa tổng kết những kinh nghiệm các cuộc khởi nghĩa ở
nước ta. Trong nhiều văn kiện của Đảng từ năm 1939 đến nửa đầu năm 1945, Đảng chỉ ra
những điều kiện, thời cơ cho Tổng khởi nghĩa thắng lợi. Cách mạng Tháng Tám thắng lợi
chứng tỏ Đảng đã chọn đúng thời cơ. Đó là lúc bọn cầm quyền phát xít ở Đông Dương
hoang mang đến cực độ sau khi Nhật đầu hàng; nhân dân ta không thể sống nghèo khổ
như trước được nữa. Đảng đã chuẩn bị sẵn sàng các mặt về chủ trương, lực lượng và tập
dượt qua Cao trào kháng Nhật, cứu nước. Đó là những điều kiện chủ quan cho Tổng khởi
nghĩa giành chính quyền trong cả nước thắng lợi.

+ Sáu là, xây dựng một Đảng Mác - Lênin đủ sức lãnh đạo Tổng khởi nghĩa giành chính
quyền. Đảng ta ngay từ đầu đã xác định đúng đường lối, chiến lược và sách lược cách
mạng, đồng thời không ngừng bổ sung, phát triển đường lối chiến lược và sách lược trong
từng thời kỳ cách mạng. Điều đó đòi hỏi Đảng phải biết vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác
- Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta, kịp thời tổng kết kinh nghiệm thực tiễn cách
mạng.

2.2. Thắng lợi của các cuộc kháng chiến oanh liệt để giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc

Thành quả

- Chiến dịch Điện Biên Phủ (1954): Đây là chiến dịch đánh bại đội quân Pháp, chấm dứt
cuộc chiến tranh giành độc lập và thống nhất của Việt Nam với Pháp. Chiến dịch Điện Biên
Phủ đã khẳng định sức mạnh của cách mạng Việt Nam, tạo điều kiện cho việc thành lập
Đảng cộng sản Việt Nam và chiến thắng cuộc chiến tranh chống Mỹ
129

- Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân (1968): Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân
Mậu Thân (hay Tết Mậu Thân) là một chiến thắng tâm điểm của quân và dân Việt Nam.
Việt Nam đã tổ chức cuộc tấn công đồng loạt trên toàn quốc, đánh vào các căn cứ và đồn
điền của quân đội Mỹ. Mặc dù cuộc tấn công không mang lại chiến thắng toàn diện, nhưng
nó đã gây ảnh hưởng lớn đến ý chí chiến đấu của Mỹ và tạo ra sự chấn động trong quốc tế.

- Chiến dịch Hồ Chí Minh (1975): Đây là chiến dịch giành thắng lợi lịch sử, đánh bại quân
đội miền Nam Việt Nam và kết thúc chiến tranh Việt Nam. Chiến dịch này đã đưa đất nước
Việt Nam thống nhất và mở ra giai đoạn mới của cách mạng Việt Nam.

Ý nghĩa lịch sử

- Các cuộc kháng chiến đã giúp Việt Nam đạt được độc lập và tự do, xóa bỏ sự chiếm đóng
và ách trị của các thực dân. Qua đó, Việt Nam đã trở thành một quốc gia có chủ quyền và tự
quyết về định mệnh của mình.

- Các cuộc kháng chiến đã giúp thống nhất đất nước, kết hợp miền Bắc và miền Nam thành
một quốc gia duy nhất. Sự thống nhất này đã loại bỏ chia cắt chính trị và chủ quyền trên
toàn quốc, đem lại sự đoàn kết và hòa bình trong nội bộ đất nước.

- Thắng lợi của các cuộc kháng chiến đã khẳng định giá trị của lòng yêu nước và tinh thần
đấu tranh của người Việt Nam. Những nỗ lực kiên trì, sự hy sinh và sự kiên nhẫn trong
cuộc chiến đã trở thành nguồn cảm hứng và niềm tự hào cho thế hệ sau này.

- Thắng lợi của các cuộc kháng chiến cũng đã góp phần vào phong trào cách mạng toàn
cầu. Việc giành lại độc lập và tự do cho dân tộc Việt Nam đã trở thành biểu tượng cho cuộc
đấu tranh chống thực dân và áp bức trên toàn cầu, tôn vinh quyền tự quyết định của các dân
tộc.

- Thắng lợi của cuộc kháng chiến đã định hình tư tưởng và tương lai của Việt Nam. Việc
xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa và phát triển kinh tế, xã hội đã tạo nền tảng cho sự phát
triển và định vị Việt Nam trong cộng đồng quốc tế.

Nguyên nhân thắng lợi

- Động lực và ý chí chiến đấu: Một nguyên nhân quan trọng cho thắng lợi trong cuộc
kháng chiến là động lực và ý chí chiến đấu của những người tham gia. Sự khao khát giành
lại tự do, độc lập và chủ quyền cho dân tộc thường là nguồn cảm hứng và động lực mạnh
mẽ để chiến đấu và hy sinh.

- Sự đoàn kết dân tộc: Sự đoàn kết của toàn dân tộc, sự đoàn kết giữa các tầng lớp và các
tộc người trong xã hội là yếu tố quan trọng khác. Khi mọi người đoàn kết lại với nhau và
hướng về mục tiêu chung, họ tạo ra một sức mạnh không thể bị chia cắt và khó có thể đánh
bại.

- Chiến thuật và chiến lược: Sự phát triển và triển khai các chiến thuật và chiến lược hiệu
quả là yếu tố quan trọng trong việc đạt được thắng lợi. Việc sử dụng đúng thời điểm, địa
điểm và phương pháp chiến đấu phù hợp có thể tạo ra sự ưu thế và giảm thiểu tổn thất.
130

- Lãnh đạo tài năng: Một lãnh đạo xuất sắc và tài năng có khả năng kết hợp các phong trào,
tập hợp tài nguyên và lập kế hoạch chiến lược là yếu tố quan trọng trong việc thắng lợi.
Lãnh đạo này cần có khả năng truyền cảm hứng, tạo động lực và chỉ đạo các hoạt động
chiến đấu.

- Sự hỗ trợ và đoàn kết quốc tế: Sự hỗ trợ và đoàn kết từ cộng đồng quốc tế cũng có thể
đóng vai trò quan trọng trong việc giành chiến thắng. Sự nhận thức và ủng hộ từ cộng đồng
quốc tế có thể giúp cung cấp tài nguyên, vũ khí, thông tin và tài chính cho cuộc kháng
chiến.

- Sự hy sinh và quyết tâm: Sự hy sinh và quyết tâm của những người chiến đấu là yếu tố
quan trọng trong việc đạt được thắng lợi. Sự hy sinh và quyết tâm này thường xuất phát từ
lòng yêu nước, niềm tin vào mục tiêu của cuộc kháng chiến và ý chí chiến đấu không khuất
phục.

Bài học kinh nghiệm: Các cuộc kháng chiến oanh liệt để giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc đã
mang lại nhiều bài học kinh nghiệm quan trọng.

- Sự đoàn kết dân tộc là quan trọng: Cuộc kháng chiến oanh liệt chỉ có thể thành công khi
toàn dân tộc đoàn kết lại với nhau và hướng về mục tiêu chung. Sự đoàn kết tạo ra sức
mạnh vượt trội và khả năng chống lại bất kỳ thế lực nào.

- Lãnh đạo kiên quyết và tài năng: Sự lãnh đạo xuất sắc và tài năng là yếu tố quyết định
thành công của cuộc kháng chiến. Lãnh đạo phải có khả năng kết hợp các phong trào, tập
hợp tài nguyên, lập kế hoạch chiến lược và truyền cảm hứng cho những người chiến đấu.

- Sự tổ chức và quản lý hiệu quả: Việc tổ chức và quản lý hiệu quả là yếu tố quan trọng để
triển khai và duy trì chiến dịch kháng chiến. Các cơ cấu tổ chức cần được xây dựng, và
quản lý tài nguyên, thông tin và lực lượng chiến đấu cần được thực hiện một cách hợp lý.

- Chiến thuật và chiến lược đúng đắn: Việc nghiên cứu, lựa chọn và sử dụng các chiến
thuật và chiến lược phù hợp là quyết định quan trọng trong việc đối phó với các thách thức
và mục tiêu của cuộc kháng chiến.

- Sự hỗ trợ và đoàn kết quốc tế: Sự hỗ trợ và đoàn kết từ cộng đồng quốc tế có thể đóng vai
trò quan trọng trong việc đạt được thắng lợi. Việc xây dựng và duy trì quan hệ tốt với cộng
đồng quốc tế có thể giúp cung cấp tài nguyên, vũ khí, thông tin và tài chính cho cuộc kháng
chiến.

- Sự hy sinh và quyết tâm: Sự hy sinh và quyết tâm của những người chiến đấu là quan
trọng để vượt qua khó khăn và đạt được mục tiêu. Tinh thần và ý chí chiến đấu không bao
giờ được phép suy yếu trong quá trình đấu tranh.

- Học hỏi từ quá khứ: Các cuộc kháng chiến oanh liệt cung cấp cho chúng ta những bài học
lịch sử quý giá. Việc nghiên cứu, rút ra bài học từ những cuộc kháng chiến trước đây có thể
giúp chúng ta hiểu và tránh những sai lầm trước đó, và áp dụng những chiến lược và
phương pháp đã chứng tỏ hiệu quả.

2.3. Thắng lợi của sự nghiệp đổi mới và từng bước đưa đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
131

- Thành quả

+ Về kinh tế: Đã chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa, quản lý hành chính, tập trung, bao
cấp, nền kinh tế hiện vật sang nền kinh tế hàng hóa, nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế
thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng XHCN. Đất nước ra khỏi khủng
hoảng kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, ra khỏi tình trạng nước nghèo, kém
phát triển., trở thành nước có mức thu nhập trung bình (2008)

+ Đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện về mặt vật chất lẫn tinh thần.

+ Chính trị xã hội ổn định và hệ thống chính trị vững mạnh với vai trò của Đảng cầm quyền
và Nhà nước pháp quyền XHCN do nhân dân, vì nhân dân.

+ Quốc phòng an ninh được củng cố vững chắc, giữ vững độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh
thổ của Tổ Quốc.

+ Quan hệ đối ngoại mở rộng, Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 188 nước trong tổng thể
193 nước thành viên Liên hợp quốc, quan hệ đối tác chiến lược với 16 nước, tạo môi trường
hòa bình, hợp tác, phát triển, tích cực chủ động hội nhập quốc tế.

- Ý nghĩa lịch sử

+ Đảng đã đề ra và thực hiện lãnh đạo đường lối đổi mới, xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ
Quốc. Đó là bước đổi mới quan trọng về tư duy lý luận, nhận thức rõ hơn những luận điểm
của C.Mác và Lênin về những đặc trưng của thời kỳ quá độ lên CNXH, hiểu rõ quan điểm
của Chủ tịch HCM về quá độ lên CNXH ở VN.

+ Đường lối đổi mới cũng là kết quả của quá trình tổng kết, tìm tòi, khảo nghiệm thực tiễn,
từng bước khắc phục lối tư duy chủ quan, duy ý chí và hành động theo quy luật khách quan.

+ Đường lối đổi mới dựa trên cơ sở sáng kiến, nguyện vọng và lợi ích của các tầng lớp nhân
dân và do đó trở thành yêu cầu khách quan, tất yếu của cuộc sống.

- Nguyên nhân thắng lợi

Sự nghiệp đổi mới và từng bước đưa đất nước Việt Nam lên chủ nghĩa xã hội là một quá trình phức tạp
và kéo dài, được định hướng bởi sự lãnh đạo của Đảng và các nhà lãnh đạo Việt Nam. Tuy nhiên, có
một số nguyên nhân quan trọng đã giúp cho quá trình này đạt được thắng lợi:

+ Lãnh đạo đúng đắn của Đảng: Đảng đã đưa ra các chính sách và đổi mới trong kinh tế,
chính trị, xã hội, giáo dục và văn hóa, đồng thời đưa ra các biện pháp cụ thể để thực hiện
chúng. Điều này đã giúp tăng cường quyền lực của Đảng và giúp đất nước đạt được những
thành tựu lớn trong quá trình phát triển.

+ Tăng cường quan hệ quốc tế: Việt Nam đã mở rộng và nâng cao quan hệ đối ngoại với
các nước trên thế giới, đặc biệt là các nước có nền kinh tế phát triển. Điều này đã giúp Việt
Nam thu hút được nhiều nguồn lực, kinh nghiệm và công nghệ mới, đồng thời mở rộng thị
trường xuất khẩu và tăng cường hợp tác kinh tế.
132

+ Cải cách trong kinh tế: Việt Nam đã đưa ra nhiều chính sách cải cách trong kinh tế,
nhằm tăng cường tính cạnh tranh và nâng cao năng lực sản xuất của đất nước. Các biện pháp
cải cách này bao gồm việc giảm quy định về đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp
và phát triển các ngành kinh tế mới.

+ Tập trung vào phát triển nhân lực: Việt Nam đã đưa ra các chính sách và các biện pháp
để nâng cao trình độ và năng lực của nhân lực, đặc biệt là trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo.
Điều này đã tăng cường khả năng cạnh tranh của đất nước trên thị trường lao động quốc tế.

+ Sự đóng góp của người dân: Quá trình đổi mới và phát triển đất nước không thể đạt
được nếu thiếu sự đóng góp của nhân dân. Việt Nam đã đưa ra các chính sách khuyến khích
người dân tham gia đóng góp vào quá trình phát triển đất nước, đồng thời đưa ra các biện pháp
để tăng cường sự tham gia của người dân trong các quyết định quan trọng của đất nước.

+ Sự ổn định chính trị: Việt Nam đã duy trì sự ổn định chính trị trong suốt quá trình đổi mới
và phát triển, đặc biệt là sau khi đất nước thống nhất. Sự ổn định chính trị đã giúp cho quá
trình đổi mới và phát triển được triển khai một cách liên tục và hiệu quả.

+ Đổi mới trong lĩnh vực kỹ thuật và công nghệ: Việt Nam đã đưa ra các chính sách và biện
pháp để thúc đẩy đổi mới trong lĩnh vực kỹ thuật và công nghệ, đặc biệt là trong những
năm gần đây. Việt Nam đã đầu tư vào các ngành công nghệ cao và các dịch vụ thông tin,
đồng thời khuyến khích sự phát triển của các doanh nghiệp công nghệ tại đất nước.

+ Tăng cường phát triển cơ sở hạ tầng: Việt Nam đã đầu tư vào cơ sở hạ tầng, bao gồm mạng
lưới giao thông, điện lực, nước sạch và vệ sinh môi trường. Điều này đã tạo điều kiện thuận
lợi cho việc phát triển kinh tế và cải thiện đời sống của người dân.

+ Sự hợp tác với các quốc gia khác: Việt Nam đã kết nối với các quốc gia khác trong khu vực
và trên thế giới để tăng cường hợp tác kinh tế, đầu tư và phát triển. Việt Nam đã tham gia
vào các tổ chức kinh tế quốc tế như WTO, APEC và TPP, tạo điều kiện thuận lợi cho việc
mở rộng thị trường xuất khẩu và thu hút đầu tư từ các quốc gia khác.

- Bài học kinh nghiệm

Cương lĩnh khẳng định những bài học kinh nghiệm lớn: Một là, nắm vững ngọn cờ độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Hai là, sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và
vì nhân dân. Ba là, không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết, đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết
toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Bốn là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế. Năm là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là
nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh năm 2011 có sửa
đổi hai từ bảo đảm bằng từ quyết định ở bài học thứ 5; bổ sung vào nội dung phân tích ở bài
học thứ hai: “Quan liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân, sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường
đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng”

CHỦ ĐỀ 42: PHÂN TÍCH NHỮNG BÀI HỌC LỚN VỀ SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG VỚI
CÁCH MẠNG VIỆT NAM TỪ NĂM 1930 ĐẾN NĂM 2018
133

1. Hoàn cảnh lịch sử (1/4 trang)


Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi Đảng ra đời đến nay đã trải qua những giai đoạn lịch sử quan
trọng, những dấu mốc của Đảng, của cách mạng và dân tộc VN là:
- 02/1930, Đảng ra đời và công bố Cương lĩnh chính trị đầu tiên.
-Từ 1930-1945: Đảng hoàn chỉnh đường lối giải phóng dân tộc, lãnh đạo các phong trào cách mạng
đấu tranh giành độc lập dẫn tới thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
-Từ 1945-1954: Đảng lãnh đạo xây dựng, củng cố, bảo vệ nhà nước dân chủ nhân dân, cải thiện đời
sống nhân dân, đồng thời chỉ đạo kháng chiến ở Nam Bộ chống sự xâm lược của thực dân Pháp.
Đường lối kháng chiến được Đảng đề ra đã giúp đánh bại kế hoạch của thực dân Pháp và sự can thiệp
của Mỹ, buộc Pháp ký hiệp định Giơ ne vơ vào 21/07/1954.
-Từ 1954-1975: Đảng lãnh đạo nhân dân tiến hành cách mạng XHCN quá độ đưa miền Bắc tiến lên
CNXH, đồng thời đề ra đường lối lãnh đạo cách mạng ở miền Nam tiến hành kháng chiến chống Mỹ,
giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
-Từ 1975-1986: Đất nước VN hoàn toàn độc lập và thống nhất, Đảng đề ra đường lối cách mạng
XHCN và lãnh đạo cả nước quá độ lên CNXH, xây dựng lại đất nước sau 30 năm kháng chiến lâu dài,
gian khổ.
-Từ 1986-nay: Kiên định con đường XHCN, đẩy mạnh xây dựng CNXH bằng đường lối đổi mới.
Thực hiện công cuộc đổi mới và cương lĩnh vừa chú trọng phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN công nghiệp hóa hiện đại hóa, hoàn thiện hệ thống chính trị của nhà nước pháp quyền của dân,
do dân, vì dân.
Đảng Cộng sản Việt Nam từ năm 1930 đến nay đã lãnh đạo giai cấp công nhân, nhân dân lao động và
toàn thể dân tộc Việt Nam tiến hành đấu tranh cách mạng lâu dài, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi
khác để có cơ đồ và vị thế như ngày nay.
2. Phân tích các Bài học về sự lãnh đạo của Đảng trong quá trình lãnh đạo Cách mạng VN từ
1930-nay. (2,5 trang)
a, Một là, bài học về nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội - ngọn cờ vinh quang
mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao lại cho thế hệ hôm nay và thế hệ mai sau
Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo
đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng từ khi thành lập Đảng
đến nay, mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội đã được thực hiện với nội dung, hình
thức, bước đi phù hợp với đặc điểm mỗi thời kỳ cách mạng, khơi dậy, phát huy sức mạnh của dân tộc
và thời đại, có ý nghĩa quyết định đến thắng lợi to lớn của dân tộc Việt Nam.

Trong giai đoạn cách mạng 1930 – 1945, độc lập dân tộc là nhiệm vụ trọng tâm trước hết, đấu tranh
giành độc lập dân tộc là nội dung chủ đạo, được tiến hành theo lập trường của giai cấp vô sản, chủ
nghĩa xã hội chưa được đặt ra trực tiếp mà là phương hướng tiến lên. Đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc
lên hàng đầu chính là quan điểm đúng đắn, sáng tạo, là yếu tố xuyên suốt và có ý nghĩa quyết định
thắng lợi của cách mạng nước ta trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền và đấu tranh giải phóng
dân tộc nói chung.

Trong giai đoạn vừa kháng chiến, vừa kiến quốc 1945 – 1954, Đảng ta xác định chiến lược của cách
mạng là bảo vệ độc lập dân tộc với tinh thần “Tổ quốc trên hết”, “Dân tộc trên hết”. Đối với nhiệm vụ
134

xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng chủ trương tiến hành từng bước, sát với tiến trình thực hiện nhiệm vụ
chống đế quốc. Đảng lãnh đạo nhân dân nhanh chóng xây dựng và củng cố chính quyền cách mạng,
chống giặc đói, giặc dốt, nâng cao nội lực cách mạng, là cơ sở vững chắc cho cuộc đấu tranh chống thù
trong, giặc ngoài, bảo vệ chế độ, nền độc lập non trẻ, chuẩn bị kháng chiến.

Trong thời kỳ 1954 – 1975, Đảng chủ trương tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng
là cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam.

Năm 1975, sau nhiều thập kỷ đấu tranh gian khổ, dân tộc Việt Nam đã giành lại trọn vẹn nền độc lập
dân tộc, thống nhất Tổ quốc. Nhưng cũng không ít nguy cơ ảnh hưởng đến nền độc lập của dân tộc,
nguy cơ xâm phạm chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Do vậy, Đảng ta xác định phải thực hiện song
hành độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Trong đó, độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc là điều kiện
để tiến lên chủ nghĩa xã hội, tăng cường sức mạnh của chủ nghĩa xã hội để củng cố độc lập dân tộc.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ
chặt chẽ với nhau.

Như vậy, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội luôn được Đảng ta xác định là nhiệm vụ quan trọng trong
mọi giai đoạn cách mạng. Trong mỗi giai đoạn, tùy vào đặc điểm, tình hình, Đảng ta có thể chủ trương
tập trung thực hiện nhiệm vụ độc lập dân tộc hoặc chủ nghĩa xã hội hoặc song hành cả hai.

b, Hai là, Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân
Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Để lãnh đạo cách mạng thành công,
Đảng phải dựa vào nhân dân, vì nhân dân mà chiến đấu và phục vụ, luôn luôn gắn bó mật thiết với
nhân dân, phát huy cao độ sức mạnh của nhân dân. Điều đó đã được chứng minh trong Cách mạng
Tháng 8/1945. Lúc phát động cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng 8, Đảng ta chỉ có khoảng năm nghìn Đảng
viên nhưng Đảng ta là một Đảng tiên phong cách mạng, có đường lối đúng đắn, giương cao ngọn cờ
giải phóng dân tộc, giành lại độc lập cho Tổ quốc, chính quyền về tay nhân dân, lại có phương pháp
phong phú, linh hoạt, kịp nắm bắt thời cơ,... cho nên đã động viên được hàng chục triệu dân vùng lên,
chỉ trong vòng nửa tháng đã xác lập được chính quyền nhân dân trong cả nước. Bài học về sức mạnh to
lớn của nhân dân và sự gắn bó mật thiết giữ Đảng với nhân dân có ý nghĩa sâu sắc không chỉ đối với
cách mạng tháng 8, đối với hơn 30 năm chiến đấu gian khổ bảo vệ nền độc lập và thống nhất Tổ quốc
mà còn cho đến ngày nay trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong sự nghiệp đổi mới mấy
chục năm qua, cùng với việc đề ra đường lối và các chính sách đổi mới đúng đắn, Đảng ta luôn giương
cao ngọn cờ đại đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh toàn dân tộc gắn liền với sức mạnh thời đại, tạo
ra nguồn lực to lớn, đưa đất nước ra khủng hoảng kinh tế - xã hội, phát triển kinh tế với nhịp độ khá
nhanh, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa.
c, Ba là, không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn
kết dân tộc, đoàn kết quốc tế
Đoàn kết là nguyên tắc của Đảng chân chính cách mạng. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (
1848), Karl Marx và Friedrich Engels Đã nêu rõ khẩu hiệu chiến lược: Vô sản tất cả các nước đoàn kết
lại. Đầu thế kỷ XX, V.I Lênin và Quốc tế cộng sản bổ sung: Vô sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp
bức đoàn kết lại. Đối với dân tộc Việt Nam, đoàn kết là truyền thống quý báu, là cội nguồn của sức
mạnh trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng nêu cao ngọn cờ dân
tộc, lợi ích quốc gia, dân tộc. Đại đoàn kết dân tộc là điểm căn bản và nổi bật trong tư tưởng Hồ Chí
135

Minh. Đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết là thành công. Người coi giữ đoàn kết trong Đảng như giữ gìn
con ngươi của mắt mình. Người cũng là hiện thân của tinh thần đoàn kết quốc tế.
Trong Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) Đảng ta chỉ ra rõ hơn và khẳng định: đoàn kết toàn
Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế là nguồn sức mạnh to lớn của cách mạng
nước ta.Nhờ sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, tập hợp trong Mặt trận dân tộc thống nhất do Đảng lãnh
đạo, toàn dân Việt Nam đã tạo nên sức mạnh tổng hợp, làm nên thành công của Cách mạng tháng Tám
và các cuộc kháng chiến cứu nước, tranh thủ được sự đoàn kết và ủng hộ của đồng chí, bè bạn và nhân
dân thế giới, thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới, xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ vững
chắc Tổ Quốc.
Cương lĩnh khẳng định: đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế
là truyền thống quý báu của Đảng, của toàn dân Việt Nam và của các dân tộc trên đất nước ta. Thực ra,
trong các văn kiện Đảng và các tác phẩm của Chủ tịch có truyền thống đoàn kết, song gắn kết các
truyền thống này với nhau và đặt trong một tổng thể thì đây là lần đầu tiên Đảng ta và dân tộc gắn bó
mật thiết với nhau, Đảng đã hóa thân vào dân tộc, đại diện cho dân tộc, đưa dân tộc từng bước đến
mục tiêu cao cả là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta. Tổng hợp bốn nhân tố trên,
sẽ tạo nên sức mạnh to lớn của cách mạng nước ta, đảm bảo thắng lợi của cách mạng. Điều này đã
được Chủ tịch Hồ Chí Minh tổng kết: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết - Thành công, thành công, đại
thành công.
d, Bốn là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh
quốc tế.
Cương lĩnh, đường lối của Đảng ngay từ đầu đã tổ chức và động viên sức mạnh của dân tộc, coi cách
mạng Việt Nam là bộ phận của cách mạng thế giới, tranh thủ sự ủng hộ của cách mạng thế giới. Trong
Đường cách mệnh (1927) lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã nêu rõ: "Muốn người ta giúp cho,
thì trước mình phải tự giúp lấy mình đã". Trong cao trào giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh đã kêu gọi
toàn thể quốc dân hãy đứng lên đem sức ta mà tự giải phóng cho ta. Nhờ phát huy sức mạnh, ý chí tự
lực tự cường của cả dân tộc, nên đã chớp được thời cơ thuận lợi dẫn tới thắng lợi của Cách mạng
Tháng Tám năm 1945. Trong các cuộc kháng chiến lâu dài giành độc lập, thống nhất hoàn toàn, Đảng
đã triệt để phát triển sức mạnh của dân tộc, nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, đồng thời tranh
thủ tối đa sự giúp đỡ, ủng hộ quốc tế, tạo nên sức mạnh tổng hợp để giành thắng lợi.
Công cuộc đổi mới diễn ra trong bối cảnh chủ nghĩa xã hội trên thế giới lâm vào khủng hoảng và dẫn
tới sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội ở các nước Đông Âu và Liên Xô. Điều đó đòi hỏi Đảng
Cộng sản Việt Nam nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, nâng cao bản lĩnh chính trị để
đứng vững trước khó khăn, thử thách và kiên định con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, động viên
cao độ nội lực. Mặt khác, Đảng Cộng sản Việt Nam tăng cường củng cố sự đoàn kết các nước xã hội
chủ nghĩa còn lại, kiên định lập trường của chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Đề ra và thực hiện đường lối
đối ngoại độc lập tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế, Việt Nam là bạn, đối tác tin
cậy của các nước, thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Đảng và Nhà nước cũng tranh thủ
tối đa những vấn đề mới của thời đại: Hội nhập kinh tế quốc tế, toàn cầu hóa, thành quả của cách mạng
khoa học, công nghệ, kinh nghiệm quản lý của các nước tiên tiến, những vấn đề về kinh tế tri thức…
Nội lực và sức mạnh dân tộc bao giờ cũng có ý nghĩa quyết định, song sức mạnh đó được tăng cường
khi có sự kết hợp đúng đắn với ngoại lực và sức mạnh của thời đại.

e, Năm là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách
mạng Việt Nam (phân tích chi tiết phần này)
136

Đây là bài học quan trọng nhất quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Các nhà kinh điển của
chủ nghĩa Mác-Lênin đặc biệt chú trọng xây dựng Đảng Cộng sản - đội tiên phong của giai cấp vô sản.
Đảng Cộng sản phải được trang bị lý luận tiền phong, khoa học, có Cương lĩnh chính trị rõ ràng, được
tổ chức theo những nguyên tắc cơ bản và với kỷ luật chặt chẽ. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, cách
mạng trước hết phải có Đảng cách mạng để tổ chức phong trào cách mạng của quần chúng, Đảng phải
có chủ nghĩa làm cốt, Đảng không có chủ nghĩa (lý luận) cũng giống như người không có trí khôn.
Đảng phải hoàn thành sứ mệnh giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước vì hạnh phúc của nhân dân.
Người nhấn mạnh, Đảng và từng cán bộ, đảng viên phải thấm nhuần đạo đức cách mạng. Năm 1927,
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đề ra 23 điều về tư cách người cách mệnh. Năm 1947, Người đề ra
12 điều về tư cách của một Đảng chân chính cách mạng. Từ khi ra đời đến nay, Đảng Cộng sản Việt
Nam luôn bám sát thực tiễn cách mạng, phân tích sâu sắc thời cuộc, nắm vững mâu thuẫn cơ bản, thấy
rõ mâu thuẫn chủ yếu trong mỗi thời kỳ, xác định đúng đắn những nhiệm vụ chiến lược. Đảng cũng
luôn nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
trải nghiệm thực tiễn để có đường lối đổi mới đúng đắn, sáng tạo làm nên những bước ngoặt lớn của
cách mạng Việt Nam. Thực tiễn đã khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định
mọi thắng lợi của dân tộc ta. Một Đảng mới 15 năm tuổi, chỉ với khoảng 5 nghìn đảng viên, đã lãnh
đạo nhân dân làm nên Cách mạng Tháng Tám năm 1945, phá tan gông xiềng nô lệ hơn 80 năm của chế
độ thực dân, xóa bỏ chế độ phong kiến kéo dài hàng nghìn năm, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa - Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Tiếp đến, thắng lợi của các cuộc
kháng chiến chống xâm lược, mà đỉnh cao là Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954, Đại thắng
mùa Xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ
thiêng liêng của Tổ quốc ở biên giới phía Bắc và Tây Nam, làm tròn nghĩa vụ quốc tế, mở ra kỷ
nguyên mới trong lịch sử nước ta - kỷ nguyên độc lập, thống nhất, hòa bình, cả nước đi lên chủ nghĩa
xã hội. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng luôn luôn chú trọng xây dựng Đảng, nhằm nâng cao
vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Không ngừng phát triển, bổ sung Cương lĩnh chính trị,
đường lối, nắm vững và kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Lấy chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động. Khẳng
định tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng, đồng thời chú trọng các nguyên tắc
đoàn kết, thống nhất trong Đảng; tự phê bình và phê bình; gắn bó mật thiết với nhân dân và nguyên tắc
của chủ nghĩa quốc tế vô sản. Chú trọng công tác cán bộ, coi cán bộ là cái gốc của mọi công việc. Rèn
luyện đạo đức cách mạng là nội dung cơ bản trong xây dựng Đảng. Không ngừng đổi mới phương thức
lãnh đạo, nâng cao chất lượng và hiệu quả lãnh đạo. Đảng lãnh đạo bằng đường lối và những quyết
sách đúng đắn và thông qua hệ thống tổ chức đảng và các tổ chức trong hệ thống chính trị; thông qua
đội ngũ cán bộ, đảng viên trên tất cả các lĩnh vực nhằm hiện thực hóa đường lối của Đảng. Chú trọng
nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn và không ngừng làm rõ những vấn đề đặt ra trong khoa học lãnh
đạo quản lý. Để hoàn thành sứ mệnh lãnh đạo của Đảng cầm quyền, Đảng không ngừng đổi mới, tự
chỉnh đốn; phòng ngừa, đẩy lùi nguy cơ sai lầm về đường lối, quan liêu, xa dân và cả nguy cơ suy
thoái, biến chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên. Đảng không ngừng làm giàu trí tuệ, nâng cao bản
lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực tổ chức để đủ sức giải quyết các vấn đề do thực tiễn cách
mạng đặt ra.
3. Ý nghĩa (1/3 trang)
Quả thực, sự ra đời của Đảng cộng sản Việt NAm năm 1930 là một bước ngoặt lịch sử của cách
mạng Việt Nam và thực tiễn cách mạng 90 năm qua đã chứng minh sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là
nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, những bài
học kinh nghiệm trên đây vẫn có ý nghĩa quan trọng quyết định sự thắng lợi của xây dựng chủ nghĩa xã
137

hội. Nhận thức, vận dụng đúng đắn những bài học kinh nghiệm này vào quá trình phát triển đất nước
vẫn là yêu cầu hiện nay
138

ĐỀ CƯƠNG CHI TIÊT


MÔN LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Câu 1. Vai trò của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trong việc thành lập Đảng CSV
Năm 1858, Pháp nổ súng tấn công xâm lược Việt Nam. Thực dân Pháp từng bước thiết
lập bộ máy thống trị đẩy nhân dân ta vào cảnh khốn cùng. Trong bối cảnh đó, nhiều phong trào
yêu nước diễn ra mạnh mẽ nhưng tất cả đều thất bại. Việt Nam rơi vào tình trạng khủng hoảng
về đường lối cứu nước “tưởng chừng như không có lối ra”.
Ngày 5/6/1911, Nguyễn Ái Quốc rời bến Nhà Rồng sang các nước phương Tây tìm
đường cứu nước. Đến tháng 7/1920, khi đọc Sơ thảo lần thứ nhất Luận cương về vấn đề dân
tộc và thuộc địa của Lê-nin, Nguyễn Ái Quốc đã “vui mừng đến phát khóc” vì tìm thấy con
đường giải phóng dân tộc. Tháng 12/1920, Người gia nhập Quốc tế cộng sản, tham gia xã hội
Đảng Cộng Sản Pháp. Từ một người yêu nước Nguyễn Ái Quốc trở thành một chiến sĩ cộng
sản và hoạt động xuất sắc cách mạng cộng sản Quốc tế. Từ đây, cách mạng Việt Nam đã chính
thức tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn để đi.
Từ khi trở thành chiến sĩ cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã tích cực hoạt động chuẩn bị về
tư tưởng, chính trị và tổ chức cho sự ra đời của Đảng.
a. Sự chuẩn bị về chính trị, tư tưởng
Sau khi tiếp thu chủ nghĩa Mác Lênin, từ nước ngoài, Nguyễn Ái Quốc đã viết và gửi
sách báo, tài liệu về Việt Nam như: báo Người cùng khổ, Việt Nam hồn, tác phẩm Bản án chế
độ thực dân Pháp, Đường Kách mệnh,… để truyền bá chủ nghĩa Mác Lê-nin và chỉ rõ con
đường cách mạng mà nhân dân ta cần đi theo. Các tác phẩm, bài viết của Người từ năm 1921
đến năm 1927 toát lên những quan điểm sau:
Một là, muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác ngoài con
đường cách mạng vô sản.
Hai là, chủ nghĩa thực dân là kẻ thù chung của giai cấp công nhân và nhân dân lao động
trên toàn thế giới, là kẻ thù trực tiếp và nguy hại nhất của nhân dân các nước thuộc địa.
Ba là, cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận cách mạng của thời đại-cách mạng
vô sản. Chỉ có giải phóng giai cấp vô sản mới giải phóng được dân tộc, cả hai cuộc giải phóng
này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và cách mạng thế giới.
Bốn là, cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa có mối liên hệ khăng khít
với cách mạng vô sản ở chính quốc, nhưng cách mạng thuộc địa không những không phụ
thuộc vào cách mạng chính quốc mà còn có tính chủ động, sáng tạo, có thể giành thắng lợi
trước và góp phần thúc đẩy làm cho cách mạng ở chính quốc tiến lên.
Năm là, tư tưởng về đường lối chiến lược của cách mạng ở thuộc địa là tiến hành giải
phóng dân tộc, mở đường tiến lên giải phóng hoàn toàn những người lao động, giải phóng con
người.
Sáu là, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nên quần chúng phải được tổ chức
thành đội ngũ, được biết về tính thế cách mạng.
Bảy là, lực lượng cách mạng là toàn thể dân chúng, những người thiết tha với độc lập
dân tộc, trong đó công nông là lực lượng chính, song giai cấp công nhân phải đóng vài trò lãnh
đạo.
Tám là, cách mạng giải phóng dân tộc phải tiến hành bằng bạo lực cách mạng, không
thỏa hiệp.
Chín là, cách mạng phải có Đảng lãnh đạo, Đảng phải lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm cơ
sở cho đường lối cách mạng, phải vững bền về tổ chức. Đảng phải gắn bó mật thiết với quần
chúng nhân dân.
Mười là, cách mạng Việt Nam là bộ phận của cách mạng quốc tế, nên Cách mạng Việt
Nam phải liên hệ, tranh thủ sự giúp đỡ từ cách mạng thế giới nhưng đồng thời phải đề cao tính
tự lực tự cường….
139

Những quan điểm này được truyền vào Việt Nam trong những năm đầu của thế kỷ XX,
nhanh chóng trở thành ngọn cờ hướng đạo dẫn dắt phong trào yêu nước ở Việt Nam phát triển
theo con đường cách mạng vô sản.
b. Sự chuẩn bị về tổ chức
Tháng 6/1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên với lực
lượng nòng cốt là Cộng sản Đoàn và cơ quan ngôn luận của tổ chức là tờ Tuần báo Thanh
niên. Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đã truyền bá lý luận của chủ nghĩa Mác-Lê-nin vào
phong trào công nhân, phong trào yêu nước và gây dựng cơ sở cách mạng trong nước. Bên
cạnh đó, Hội đã mở các lớp huấn luyện chính trị cho cán bộ và gửi các thanh niên ưu tú đi học
tại nước ngoài nhằm đào tạo cán bộ cách mạng.
Đồng thời, Hội thực hiện chủ trường “vô sản hóa”, đưa các cán bộ hội viên vào nhà
máy, hầm mỏ, đồn điền để rèn luyện lập trường, quan điểm của giai cấp công nhân, giác ngộ
họ, dấn dắt họ đến con đường đấu tranh; để truyền bá chủ nghĩa Mác-Lê-nin và lý luận giải
phóng dân tộc nhằm thúc đẩy sự phát triển của phong trào cách mạng Việt Nam.
Đến năm 1929, các tổ chức cộng sản ở Việt Nam ra đời, đó là: Đông Dương Cộng sản
Đảng, An Nam Cộng sản Đản, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn. Song sự tồn tại của ba tổ
chức cộng sản hoạt động biệt lập trong một quốc gia có nguy cơ dẫn đến chia rẽ lớn. Yêu cầu
bức thiết của cách mạng là cần có một Đảng thống nhất lãnh đạo.
Từ ngày 6/1 đến 7/2/1930, dưới sự chủ trì của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị hợp
nhất các tổ chức Cộng sản đã diễn ra tại Hương Cảng, Trung Quốc.
Câu 2. Nội dung cơ bản, ý nghĩa lịch sử Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng?
So sánh Cương lĩnh với Luận cương chính trị tháng 10/1930?
Hội nghị thành lập Đảng tháng 2/1930 đã thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược
vắn tắt và Chương trình tóm tắt do Nguyễn ái Quốc soạn thảo. Các văn kiện đó hợp thành
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ta - Cương lĩnh Hồ Chí Minh.
a. Nội dung cơ bản:
Xác định phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam là "làm tư sản dân quyền
cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản".
Xác định những nhiệm vụ cụ thể của cách mạng:
Về chính trị: đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, làm cho nước Nam
được hoàn toàn độc lập, dựng ra Chính phủ công nông binh và tổ chức quân đội công nông.
Về kinh tế: tịch thu toàn bộ các sản nghiệp lớn của bọn đế quốc giao cho Chính phủ
công nông binh; tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc làm của công và chia cho dân cày nghèo,
mở mang công nghiệp và nông nghiệp, miễn thuế cho dân cày nghèo, thi hành luật ngày làm 8
giờ.
Về văn hóa xã hội: dân chúng được tự do tổ chức, nam nữ bình quyền, phổ thông giáo
dục theo hướng công nông hoá.
Xác định lực lượng cách mạng, Đảng chủ trương tập hợp đại bộ phận giai cấp công
nhân, nông dân và phải dựa vào hạng dân cày nghèo, lãnh đạo nông dân làm cách mạng ruộng
đất; lôi kéo tiểu tư sản, trí thức, trung nông... đi vào phe vô sản giai cấp; đối với phú nông,
trung tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu
mới làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng (như Đảng Lập hiến)
thì phải đánh đổ.
Lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân thông qua Đảng Cộng sản. "Đảng là đội tiền
phong của vô sản giai cấp phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai
cấp mình lãnh đạo được dân chúng".
Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, phải "liên kết với những
dân tộc bị áp bức và quần chúng vô sản trên thế giới nhất là với quần chúng vô sản Pháp".
b. Ý nghĩa của Cương lĩnh:
140

Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng là một cương lĩnh giải phóng dân tộc đúng đắn
và sáng tạo theo con đường cách mạng Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của thời
đại mới, đáp ứng yêu cầu khách quan của lịch sử, nhuần nhuyễn quan điểm giai cấp và thấm
đượm tinh thần dân tộc vì độc lập tự do, tiến hành cách mạng tư sản dân quyền và cách mạng
ruộng đất để đi tới xã hội cộng sản là tư tưởng cốt lõi của cương lĩnh này.
Nhờ sự thống nhất về tổ chức và cương lĩnh chính trị đúng đắn, ngay từ khi ra đời Đảng
đã quy tụ được lực lượng và sức mạnh của giai cấp công nhân và của dân tộc Việt Nam. Đó là
một đặc điểm và đồng thời là một ưu điểm của Đảng, làm cho Đảng trở thành lực lượng lãnh
đạo duy nhất của cách mạng Việt Nam, sớm được nhân dân thừa nhận là đội tiền phong của
mình, tiêu biểu cho lợi ích, danh dự, lương tâm và trí tuệ của dân tộc.
c. So sánh Cương lĩnh tháng 2/1930 và Luận cương tháng 10/1930
Luận cương chính trị tháng 10/1930 đã xác định nhiều vấn đề cơ bản về chiến lược cách
mạng. Nội dung của Luận cương cơ bản thống nhất với nội dung được thông qua tại Hội nghị
thành lập Đảng tháng 2/1930. Tuy nhiên, Luạn cương đã không nêu rõ mâu thuẫn chủ yếu của
xã hội Việt Nam thuộc địa, không nhấn mạnh nhiệm vụ giải phóng dân tộc mà nặng về đấu
tranh giai cấp và cách mạng ruộng đất; không đề ra được một chiến lược liên minh dân tộc và
giai cấp rộng rãi trong cuộc đấu tranh chống đế quốc xâm lược và tay sai.
Nguyên nhân của những hạn chế đó là do nhận thức chưa đầy đủ về thực tiễn cách
mạng thuộc địa và chịu ảnh hưởng của tư tưởng tả khuynh, nhấn mạnh một chiều đấu tranh
giai cấp đang tồn tại trong Quốc tế cộng sản và một số Đảng cộng sản trong thời gian đó.
Câu 3. Hoàn cảnh lịch sử, nội dung cơ bản và ý nghĩa Hội nghị Trung ương 8
(tháng 5/1941) của Đảng Cộng sản Đông Dương?
Ngày 28/01/1941, sau 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã
trở về nước để trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Từ ngày 10 đến ngày 19/5/1941, Người
triệu tập và chủ trì Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng ở lán Khuổi Nặm, Pác
Bó (Hà Quảng, Cao Bằng). Tham gia Hội nghị có các đồng chí Trường Chinh, Hoàng Văn
Thụ, Phùng Chí Kiên, Hoàng Quốc Việt cùng một số đại biểu của Xứ ủy Bắc Kỳ, Trung Kỳ và
đại biểu tổ chức Đảng hoạt động ở nước ngoài. Đồng chí Trường Chinh được bầu làm Tổng Bí
thư.
Xét về tính chất và quy mô, Hội nghị Trung ương lần thứ 8 như một Đại hội toàn quốc
của Đảng. Nghị quyết Trung ương đã vạch ra những chiến lược căn bản cho con đường cách
mạng Việt Nam với những nội dung quan trọng.
Thứ nhất, hết sức nhấn mạnh mâu thuẫn chủ yếu đòi hỏi phải được giải quyết cấp bách
là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc phát xít Pháp – Nhật bởi vì dưới hai tầng áp
bức Nhật – Pháp, quyền lợi tất cả các giai cấp bị cướp giật, vận mạng dân tộc nguy vọng
không lúc nào bằng.
Thứ hai, khẳng định dứt khoát chủ trương phải thay đổi chiến lược đặt nhiệm vụ giải
phóng dân tộc lên hàng đầu, tạm gác nhiệm vụ cách mạng ruộng đất. Để thực hiện nhiệm vụ
đó, Hội nghị quyết định tiếp tục tạm gác khẩu hiệu đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày
thay bằng khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của đế quốc và Việt gian chia cho dân cày nghèo, chia
lị ruộng đất công cho công bằng, giảm tô, giảm tức.
Thứ ba, chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước ở Đông
Dương, thi hành chính sách dân tộc tự quyết; sau khi đánh đuổi Pháp – Nhật, các dân tộc trên
cõi Đông Dương sẽ tổ chức thành liên bang cộng hòa dân chủ hay đứng riêng tành lập một
quốc gia tùy ý. Từ quan điểm đó, Hội nghị quyết định thành lập ở mỗi nước Đông Dương một
mặt trận riêng, thực hiện đoàn kết từng dân tộc, đồng thời đoàn kết ba dân tộc chống kẻ thù
chung.
141

Thứ tư, tập hợp rộng rãi mọi lực lượng dân tộc, không phân biệt thợ thuyền, dân cày,
phú nông, địa chủ, tư bản bản xứ, ai có lòng yêu nước thương nòi đều có thể cùng nhau tham
gia vào mặt trận Việt Minh cứu nước, giành độc lập tự do cho dân tộc.
Thứ năm, chủ trương sau khi cách mạng thành công sẽ thành lập nước Việt Nam Dân
chủ cộng hòa theo tinh thần tân dân chủ, một hình thức nhà nước của chung cả toàn thể dân
tộc.
Thứ sáu, Hội nghị xác định khởi nghĩa vũ trang là nhiệm vụ trung tâm của Đảng và
nhân dân để khi thời cơ đến, với lực lượng sẵn có, ta có thể lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa từng
phần trong từng địa phương tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong toàn quốc.
Hội nghị Trung ương lần thứ 8 và sự thay đổi chiến lược cách mạng của lãnh tụ Nguyễn
Ái Quốc và Trung ương Đảng trong việc giải quyết một cách đúng đắn mối quan hệ giữa
nhiệm vụ dân tộc và giai cấp, dân tộc và dân chủ trong điều kiện cụ thể của nước ta, chính là
sự hoàn chỉnh nội dung các nghị quyết của Hội nghị Trung ương lần thứ 6 và 7 trước đó. Sự
thay đổi chiến lược một cách kịp thời, đầy sáng tạo của Hội nghị Trung ương lần thứ 8 đáp ứng
được khát vọng độc lập, tự do của toàn dân tộc, phù hợp với bối cảnh cụ thể của cách mạng
Việt Nam, thực chất là sự trở lại với tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường của cách mạng Việt
Nam đã được nêu ra trong Chánh cương, Sách lược vắn tắt từ đầu năm 1930. Như vậy, Hội
nghị Trung ương lần thứ 8 đã mở đường cho Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đi đến thắng
lợi hoàn toàn ở Việt Nam.
Câu 4: Hoàn cảnh lịch sử,nội dung và ý nghĩa chủ trương "Kháng chiến ‒ Kiến
quốc” ngày 25/11/1945 của Trung ương Đảng cộng sản Đông Dương?
a, Hoàn cảnh lịch sử Việt Nam sau CM T8/1945
Về thuận lợi: chính quyền giành được trong toàn quốc, nhân dân phấn khởi xây dựng
cuộc sống mới; người dân từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ đất nước; uy tín của
Đảng và Chủ tịch HCM được khẳng định với nhân dân Việt Nam.
Về khó khăn: ở miền Bắc, từ vĩ tuyến 16 trở ra, hơn 20 vạn quân Tưởng vào Việt Nam
với danh nghĩa đồng minh tước vũ khí của Nhật, thực chất muốn lật đổ chính quyền cách mạng
non trẻ. Ở miền Nam, hơn 1 vạn quân Anh vào tước vũ khí của Nhật nhưng thực chất giúp
Pháp quay trở lại xâm lược nước ta. Trên thực tế, ngày 23/9/1945, quân Pháp đã nổ sũng ở
Nam Bộ, bắt đầu cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam lần thứ hai. Trong khi đó, quân Nhật
còn chiếm đóng ở nhiều nơi chờ quân đồng minh vào tước vũ khí; nhiều tổ chức đảng phái
phản động ra sức chống phá Cách mạng.
Nạn đói xảy ra từ cuối năm 1944 làm hơn 2 triệu người chết, thiên tai khắc nghiệt dẫn
đến nguy cơ 1 nạn đói mới. Tài chính kiệt quệ, ngân sách trống rỗng. Hơn 90% dân số mù chữ,
các tệ nạn xã hội tràn lan. Chính quyền cách mạng mới ra đời chưa được nước nào công nhận.
Có thể nói, sau cách mạng tháng Tám, chính quyền non trẻ đứng trước nhiều khó khăn
và thử thách vô cùng lớn, vận mệnh của dân tộc trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Hai khả
năng đặt ra: mất chính quyền phải quay trở lại cuộc sống nô lệ hoặc có thế xây dựng và bảo vệ
chính quyền cách mạng.
b) Nội dung chỉ thị “kháng chiến ‒ kiến quốc”
Thuận lợi hết sức cơ bản, khó khăn to lớn, chồng chất nhưng có thể khắc phục được.
Trước tình hình đó, Trung ương Đảng đã họp đề ra những chủ trương và biện pháp nhằm xủng
cố và bảo vệ chính quyền cách mạng. Nội dung cụ thể được thông qua chỉ thị “Kháng chiến –
Kiến quốc” ngày 25/11/1945.
Nội dung Chỉ thị:
Xác định tính chất của cách mạng Đông Dương vẫn là cuộc cách mạng giải phóng dân
tộc, tiếp tục sự nghiệp cách mạng Tháng 8/1945. Sự nghiệp này chưa hoàn thành vì nước ta
chưa hoàn toàn độc lập. Đề ra khẩu hiệu Tổ quốc trên hết, dân tộc trên hết.
142

Về xác định kẻ thù, chỉ thị chỉ rõ kẻ thù chính là thực dân Pháp, cần tập trung mũi nhọn
vào chúng vì Pháp đã thống trị Việt Nam hơn 80 năm; Pháp được quân Anh giúp sức; Pháp
không từ bỏ dã tâm xâm lược nước ta và trên thực tế đã nổ súng xâm lược ở Nam Bộ.
Đối với các tổ chức Đảng phái phản động, chỉ thị đánh giá thái độ và đề ra đối sách phù
hợp.
Về phương hướng, nhiệm vụ, chỉ thị xác định 4 nhiệm vụ cơ bản trước mắt là: củng cố
chính quyền; chống thực dân Pháp ở Nam Bộ; bài trừ nội phản; cải thiện đời sống nhân dân.
Về ngoại giao, kiên trì nguyên tắc thêm bạn bớt thù, với Tưởng thực hiện khẩu hiệu
“Hoa‒ Việt thân thiện”, với Pháp thực hiên “độc lập về chính trị, nhân nhượng về kinh tế”.
Chỉ thị đề ra các biện pháp cụ thể:
Về chính trị, củng cố chính quyền cách mạng; xúc tiến cho tổng tuyển cử bầu Quốc hội,
lập chính phủ chính thức; xây dựng hiến pháp của nước Việt Nam mới.
Về kinh tế, diệt giặc đói bằng cách tăng gia sản xuất, nhường cơm sẻ áo, lá lành đùm lá
rách; Phát động “tuần lễ vàng”, ủng hộ “quỹ độc lập”.
Về văn hóa, diệt giặc dốt, bài trừ văn hóa ngu dân, xóa nạn mù chữ, xây dựng nền văn
hóa mới.
Về quân sự, động viên toàn dân tham gia kháng chiến.
Về ngoại giao, cứng rắn về nguyên tắc nhưng mềm dẻo về sách lược.
c, Ý nghĩa của chỉ thị
Những quan điểm và chủ trương, biện pháp được Đảng nêu ra trong bản Chỉ thị Kháng
chiến – Kiến quốc đã giải đáp trúng những vấn đề cơ bản và cấp bách của cách mạng Việt
Nam lúc bấy giờ, có tác dụng định hướng tư tưởng, soi sáng con đường xây dựng và bảo vệ
chính quyền cách mạng trong giai đoạn đầy khó khăn và phức tạp.
Thể hiện một quy luật của cách mạng Việt Nam sau cách mạng tháng 8/1945 là xây
dựng chế độ mới phải đi đôi với bảo vệ chế độ mới. Đó cũng chính là quy luật dựng nước và
giữ nước của dân tộc.
Câu 5: Nguyên nhân bùng nổ và nội dung đường lối kháng chiến chống thực dân
Pháp xâm lược 1946-1954?
a. Nguyên nhân bùng nổ cuộc kháng chiến:
Với dã tâm xâm lược nước ta một lần nữa, thực dân Pháp đã có những hành động trắng
trợn, vi phạm các điều đã kí kết với chính phủ ta tại hiệp định Sơ bộ (6//19463), Tạm ước
(14/9/1946). Sau khi được đưa quân ra miền Bắc, thục dân Pháp đã có những hành động như:
đánh chiếm Hải Phòng, Lạng Sơn, gây xung đột vũ trang với lực lượng tự vệ ở Hà Nội.
Mặc dù chúng ta đã nhân nhượng với Pháp, nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực
dân Pháp càng lấn tới, đến lúc chúng ta không thể nhân nhượng được nữa, để bảo vệ nền độc
lập dân tộc của mình, đêm ngày 19-12-1946, cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ.
b. Nội dung đường lối toàn quốc kháng chiến:
Được thể hiện tập trung trong 3 văn kiện: Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của chủ
tịch Hồ Chí Minh; Chỉ thị toàn dân kháng chiến của Trung ương Đảng; tác phẩm “Kháng chiến
nhất định thắng lợi” của đồng chí Trường Chinh.
Nội dung đường lối kháng chiến:
Xác định mục tiêu của cuộc kháng chiến là đánh bại thực dân Pháp xâm lược, giành độc
lập, tự do, thống nhất hoàn toàn cho đất nước.
Xác định tính chất của cuộc kháng chiến: là cuộc chiến tranh tiến bộ vì tự do, độc lập,
dân chủ và hòa bình nên cuộc kháng chiến có tính chất dân tộc giải phóng và dân chủ mới, là
cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam.
Phương châm tiến hành kháng chiến: tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, thực hiện
kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính.
143

Kháng chiến toàn dân: bất kỳ đàn ông đàn bà không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc,
bất kỳ người già người trẻ, hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp”, thực
hiện mỗi người dân là một chiến sĩ đánh giặc, mỗi đường phố làng mạc trở thành pháo đài.
Kháng chiến toàn diện: tức là đánh giặc trên tất cả các mặt từ kinh tế, chính trị, văn hóa,
quân sự, ngoại giao.
+ Kinh tế: thực hiện xây dựng kinh tế tự cung tự cấp, tập trung phát triển nông nghiệp,
thủ công nghiệp, thương mại, công nghiệp quốc phòng.
+ Chính trị: thực hiện đoàn kết toàn dân, đoàn kết với nhân dân yêu chuộng tự do hòa
bình trên thế giới.
+ Quân sự: thực hiện vũ trang toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, tiêu diệt
địch, giải phóng nhân dân và đất đai. Thực hiện du kích chiến, tiến lên vận động chiến, đánh
chính quy.
+ Văn hóa: xóa bỏ văn hóa thực dân phong kiến, xây dựng nền văn hóa dân chủ mới
theo 3 nguyên tắc: dân tộc, khoa học và đại chúng’
+ Ngoại giao: thực hiện thêm bạn bớt thù, biểu dương thực lực, sẵn sàng đàm phán nếu
Pháp công nhận Việt Nam độc lập.
Kháng chiến lâu dài: chống âm mưu đánh nhanh thắng nhanh của Pháp để có thời gian
phát huy ưu thế mạnh của ta như: thiên thời địa lợi nhân hòa, lâu dài để chuyển hóa tương quan
lực lượng từ chỗ ta yếu hơn địch đến chỗ ta mạnh hơn địch và đánh thắng địch.
Dựa vào sức mình là chính: tự cấp, tự túc về mọi mặt vì ta bị bao vây tứ phía, chưa
được nước nào giúp đỡ nên phải tự lực cánh sinh. Khi nào có điều kiện sẽ tranh thủ sự giúp đỡ
của các nước, xong lúc đó cũng không được ỷ lại.
Triển vọng kháng chiến: mặc dù lâu dài, gian khổ, khó khăn song nhất định thắng lợi.
c. Ý nghĩa
Đường lối kháng chiến được công bố sớm cho thấy sự chủ động, không bất ngờ trước
tình hình đã có tác dụng dẫn đường, chỉ lối, động viên toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta tiến
lên.
Đường lối kháng chiến được nhân dân ủng hộ, hưởng ứng giúp cuộc kháng chiến nhanh
chóng đi vào ổn định, phát triển đúng hướng, từng bước đi tới thắng lợi cho dân tộc Việt Nam.
Câu 6: Tình hình Việt Nam sau Hiệp định Giơnevơ năm 1954 và nội dung, ý nghĩa
đường lối cách mạng Việt Nam do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (tháng
9/1960) đề ra?
a. Hoàn cảnh lịch sử
Trên thế giới, thuận lợi là hệ thống xã hội chủ nghĩa tiếp tục lớn mạnh cả về kinh tế,
quân sự, khoa học – kĩ thuật, nhất là Liên Xô. Phong trào giải phóng dân tộc tiếp tục phát triển
ở châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ Latinh. Phong trào đấu tranh vì hòa bình, dân chủ và tiến
bộ xã hội lên cao ở các nước tư bản.
Khó khăn là đế quốc Mỹ có tiềm lực kinh tế, quân sự hùng mạnh, âm mưu bá chủ thế
giới với các chiến lược toàn cầu phản cách mạng. Thế giới bước vào thời kỳ chiến tranh lạnh,
chạy đua vũ trang; xuất hiện sự bất đồng trong hệ thống xã hội chủ nghĩa, nhất là giữa Liên Xô
và Trung Quốc.
Ở trong nước, tình hình sau Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954 có mặt thuận lợi là miền
Bắc được hoàn toàn giải phóng, làm căn cứ địa vững chắc cho cả nước. Thế và lực của cách
mạng đã lớn mạnh hơn sau 9 năm kháng chiến. Có ý chí độc lập thống nhất Tổ quốc của nhân
dân từ Bắc chí Nam.
Khó khăn là đế quốc Mỹ trắng trợn phá hoại việc thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ, nhảy
vào miền Nam nước ta nhằm chia cắt lâu dài đất nước ta. Đất nước ta bị chia làm 2 miền với 2
chế độ chính trị khác nhau. Miền Nam do đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai kiểm soát. Trong
khi đó kinh tế miền Bắc nghèo nàn, lạc hậu, cơ sở vật chất kỹ thuật hầu như bị tàn phá.
144

Trong hoàn cảnh đó, Trung ương Đảng đã họp nhiều hội nghị chuyên đề bàn về đường
lối cách mạng của Việt Nam, của cách mạng mỗi miền. Đến tháng 9/1960, Đảng triệu tập Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ 3 tại Hà Nội nhằm đưa ra những quyết định mới về chiến lược cách
mạng nhằm thống nhất đất nước.
b. Nội dung đường lối cách mạng do Đại hội toàn quốc lần thứ III của Đảng (9/1960)
xác định
Về đường lối chung của cách mạng Việt Nam là “Tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên
quyết đấu tranh giữ vững hòa bình, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đồng
thời đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước
nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập,
dân chủ và giàu mạnh, thiết thực góp phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa và bảo vệ hòa bình
ở Đông Nam Á và thế giới”.
Nhiệm vụ của mỗi miền: cách mạng XHCN ở miền Bắc có nhiệm vụ xây dựng miền
Bắc trở thành căn cứ địa vững mạnh, hậu phương lớn để cung cấp sức người sức của cho tiền
tuyến miền Nam đánh thắng đế quốc Mỹ.
Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam: có nhiệm vụ đánh thắng đế quốc Mỹ
ở miền Nam, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, bảo vệ miền Bắc XHCN.
Vị trí và vai trò của mỗi miền: cách mạng XHCN ở miền Bắc có vai trò quyết định nhất
do có nhiệm vụ xây dựng tiềm lực và bảo vệ căn cứ địa của cả nước, hậu thuẫn cho cách mạng
miền Nam, chuẩn bị cho cả nước đi lên CNXH về sau.
Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam: có vai trò quyết định trực tiếp trong
công cuộc chống Mỹ cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Mối quan hệ của cách mạng hai miền: mỗi miền đều có nhiệm vụ khác nhau, vai trò, vị
trí khác nhau nhưng nhiệm vụ cách mạng của cả hai miền có mối quan hệ mật thiết với nhau
bởi vì đều có chung một mục tiêu: hòa bình, độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, cùng đi lên
xây dựng CNXH.
Con đường thống nhất đất nước: Tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng, Đảng
kiên trì con đường hòa bình thống nhất theo tinh thần Hiệp nghị Giơ-ne-vơ, sẵn sàng thực hiện
hiệp thương tổng tuyển cử hòa bình thống nhất đất nước. Tuy nhiên phải luôn đề cao cảnh
giác, chuẩn bị sẵn sàng đối phó với mọi tình thế. Nếu đế quốc Mỹ và tay sai liều lĩnh gây ra
chiến tranh hòng xâm lược miền Bắc thì nhân dân cả nước sẽ kiên quyết đứng lên đánh bại
chúng, hoàn thành độc lập và thống nhất tổ quốc.
Triển vọng của cách mạng: Là cuộc đấu tranh gay go, gian khổ, phức tạp và lâu dài
nhưng thắng lợi cuối cùng nhất định thuộc về nhân dân Việt Nam.
c. Ý nghĩa
Việc tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng là sự vận dụng đúng đắn và sáng
tạo lý luận chủ nghĩa Mác- Lênin trong điều kiện cụ thể ở Việt Nam. Nhờ vào việc nắm vững
đường lối này mà Đảng đã phát huy được sức mạnh cả nước trong cuộc kháng chiến chống
Mỹ.
Đây là một hình thái đặc biệt của đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và
CNXH trong quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng. Thể hiện sự độc lập, tự chủ, sáng tạo của
của Đảng trong việc xử lý những vấn đề không có tiền lệ lịch sử, vừa đúng với thực tiễn, vừa
hợp với lợi ích của nhân loại và xu thế của thời đại.
Câu 7. Hoàn cảnh lịch sử, nội dung và ý nghĩa đường lối kháng chiến chống Mỹ
cứu nước của Đảng Lao động Việt Nam thể hiện trong Hội nghị Trung ương Đảng lần
thứ 11(3-1965) và lần thứ 12(12-1965)?
a. Hoàn cảnh lịch sử
145

Trước nguy cơ thất bại của chiến lược “chiến tranh đặc biệt”, để cứu vãn cơ đồ của chủ
nghĩa thực dân mới, ngăn sự sụp đổ của chính quyền Sài Gòn, cp Mỹ quyết định tiến hành
chiến lược “Chiến tranh cục bộ” ở MN.
“Chiến tranh cục bộ” là một hình thức chiến tranh trong chiến lược toàn cầu “Phản ứng
linh hoạt” của Mỹ, biểu hiện là đưa trực tiếp quân viễn chinh Mỹ và quân đồng minh vào miền
Nam tham chiến với vai trò chính, quân đội Sài Gòn đóng vai trò hỗ trợ và thực hiện bình định.
Ngày 8-3-1965 quân Mỹ đổ bộ vào Đà Nẵng, đồng thời mở rộng chiến tranh bằng không quân,
hải quân đánh phá miền bắc việt nam nhằm làm suy yếu và ngăn sự chi viện của miền Bắc cho
cách mạng miền Nam.
Chiến tranh lan rộng ra cả nước đã đặt vận mệnh của dân tộc ta trước thách thức nghiêm
trọng. Trước tình hình đó, Hội nghị lần thứ 11(3-1965) và lần thứ 12(12-1965) của Ban chấp
hành Trung ương Đảng đã phát động cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên phạm vi toàn
quốc và hạ quyết tâm “đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trong bất kỳ tình
huống nào để bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân trong cả nước, tiến tới thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà”.
b. Nội dung đường lối
Nội dung đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trong giai đoạn mới là sự kế thừa
và phát triển đường lối chiến lược chung do Đại hội lần thứ III(1960) đề ra, gồm các nội dung
lớn:
Quyết tâm chiến lược: Ttung ương Đảng nhận định mặc dù Mỹ đưa vào miền Nam hàng
chục vạn quân, nhưng so so sánh lực lượng giữa ta và địch không thay đổi lớn, nhân dân ta đã
có cơ sở vững chắc để giữ vững thế chủ động trên chiến trường. “Chiến tranh cục bộ” của Mỹ
được đề ra trong thế thua, thế thất bại và bị động, nên nó chứa đầy mâu thuẫn về chiến lược;
Mỹ không thể cứu vãn được tình thế nguy khốn bế tắc của chúng ở miền Nam. Do đó, Trung
ương khẳng định Việt Nam có đủ điều kiện và sức mạnh để đánh thắng Mỹ.
Mục tiêu chiến lược: Kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ
trong bất kỳ tình huống nào, nhằm bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, hoàn thành cuộc
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, tiến tới thực hiện hòa bình thống nhất
nước nhà.
Phương châm chiến lược: Đánh lâu dài, dựa vào sức mình là chính, càng đánh càng
mạnh; cần phải cố gắng mức độ cao, tập trung lực lượng của cả hai miền để mở những cuộc
tiến công lớn, tranh thủ thời cơ giành thắng lợi quyết định trong thời gian tương đối ngắn trên
chiến trường miền Nam.
Tư tưởng chỉ đạo đối với miền Nam: Giữ vững và phát triển thế tiến công, kiêm quyết
tiến công và liên tục tiến công. Tiếp tục kiên trì phương châm kết hợp đấu tranh quân sự với
chính trị, triệt để thực hiện ba mũi giáp công, đánh địch trên cả ba vùng chiến lược. Trong đó,
nhấn mạnh đấu tranh quân sự có tác dụng quyết định trực tiếp, quan trọng.
Tư tưởng chỉ đạo đối với miền Bắc: Chuyển hướng xây dựng kinh tế, bảo đảm tiếp tục
xây dựng miền Bắc vững mạnh về kinh tế và quốc phòng trong điều kiện có chiến tranh, tiến
hành cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại của Mỹ để bảo vệ vững chắc miền
Bắc XHCN, động viên sức người sức của ở mức cao nhất đẻ chi viện cho miền Nam, đồng thời
tích cực đề phòng trong trường hợp chúng liều lĩnh mở rộng chiến tranh cục bộ ra cả nước.
Về mối quan hệ và nhiệm vụ cách mạng hai miền: miền Bắc là hậu phương lớn, MN là
tiền tuyến lớn trong cuộc kháng chiến toàn quốc chống Mỹ, nên quan hệ khăng khít. Bảo vệ
MB là nhiệm vụ của cả nước, phải đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của của Mỹ ở MB, tăng
cường lực lượng MB về mọi mặt. Khẩu hiệu chung của nhân dân ta lúc này là “Tất cả để đánh
thắng giặc Mỹ xâm lược”.
c. Ý nghĩa
146

Nghị quyết Trung ương lần thứ 11 và 12 của Đảng năm 1965 thể hiện tư tưởng nắm
vững, giương cao hai ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tiếp tục tiến hành đồng thời
hai chiến lược cách mạng của Đảng và quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, giải phóng
miền Nam, thống nhất Tổ quốc của dân tộc ta. Đó là đường lối chiến tranh nhân dân, toàn dân,
toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính trong hoàn cảnh mới, là cơ sở để Đảng lãnh đạo
kháng chiến chống Mỹ cứu nước đi đến thắng lợi.
8. Hoàn cảnh lịch sử, nội dung cơ bản và ý nghĩa đường lối đổi mới của Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VI (12-1986) của Đảng?
a. Hoàn cảnh lịch sử
Đại hội VI của Đảng diễn ra tại Hà Nội từ ngày 15 đến 18-12-1986, trong bối cảnh cuộc
cách mạng khoa học kỹ thuật đang phát triển mạnh, xu thế đối thoại trên thế giới đang dần thay
thế xu thế đối đầu. Đổi mới đã trở thành xu thế của thời đại. Liên Xô và các nước XHCN đều
tiến hành cải tổ xây dựng CNXH.
Trong khi đó, Việt Nam đang bị các nước đế quốc và thế lực thù địch bao vây, cấm vận,
khủng hoảng kinh tế xã hội diễn ra trầm trọng. Lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng khan
hiếm, lạm phát tăng lên 774% năm 1986. Các hiện tượng tiêu cực, vi phạm pháp luật, vượt
biên trái phép khá phổ biến. Đổi mới đã trở thành đòi hỏi bức thiết của đất nước.
b. Nội dung
Với tư tưởng nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, đánh giá
thành tựu, nghiêm túc kiểm điểm, chỉ rõ sai lầm, khuyết điểm của Đảng trong giai đoạn 1975-
1986. Đại hội lần thứ VI đã chỉ rõ những sai lầm nghiêm trọng kéo dài về chủ trương, chính
sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện. Những sai lầm đó, đặc biệt trên
lĩnh vực kinh tế là bệnh chủ quan duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động đơn giản, nóng vội,
chạy theo nguyện vọng chủ quan. Nguyên nhân của mọi nguyên nhân bắt nguồn từ những
khuyết điểm trong hạt động tư tưởng, tổ chức và công tác cán bộ của Đảng. Từ đó, Đại hội rút
ra bốn bài học quý báu:
Một là, trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng lấy dân làm
gốc.
Hai là, Đảng phải luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách
quan.
Ba là, phải biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới.
Bốn là, chăm lo xây dựng Đảng ngang tầm với nhiệm vụ của một đảng cầm quyền đang
lãnh đạo nhân dân tiến hành cách mạng XHCN.
Trên cơ sở đó, Đại hội chủ trương thực hiện nhất quán chính sách phát triển nhiều thành
phần kinh tế. Đổi mới cơ chế quản lý, xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp chuyển sang
hạch toán, kinh doanh, kết hợp kế hoạch với thị trường.
Đại hội xác định nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát trong những năm còn lại của
chặng đường đầu tiên là: Sản xuất đủ tiêu dùng và có tích lũy; bước đầu tạo ra cơ cấu kinh tế
hợp lý, trong đó đặc biệt chú trọng ba chương trình kinh tế lớn là lương thực - thực phẩm, hàng
tiêu dùng và hàng xuất khẩu, coi đó là sự cụ thể hóa nội dung Công nghiệp hóa trong chặng
đường đầu thời kỳ quá độ.
Thực hiện cải tạo XHCN thường xuyên với hình thức, bước đi thích hợp, làm cho quan
hệ sản xuất phù hợp và lực lượng sản xuất phát triển. Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, giải
quyết cho được những vấn đề cấp bách về phân phối, lưu thông. Xây dựng và tổ chức thực
hiện một cách thực, có hiệu quả các chính sách xã hội. Bảo đảm nhu cầu củng cố quốc phòng
và an ninh.
Đại hội đề ra 5 phương hướng lớn phát triển kinh tế là: Bố trí lại cơ cấu sản xuất; điều
chỉnh cơ cấu đầu tư và củng cố quan hệ sản xuất XHCN; sử dụng và cải tạo đúng đắn các
147

thành phần kinh tế; đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, phát huy mạnh mẽ động lực khoa học kỹ
thuật; mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại.
Đại hội nhấn mạnh tư tưởng chỉ đạo của chính sách kinh tế là giải phóng mọi năng lực
sản xuất hiện có, khai thác mọi tiềm năng của đất nước, sử dụng có hiệu quả sự giúp đỡ quốc
tế để phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất đi đôi với xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất
XHCN.
Đổi mới công tác đối ngoại nhằm góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh của nhân dân
thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và cnxh. Tăng cường tình hữu nghị và hợp tác
toàn diện với Liên Xô và các nước XHCN; bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc vì lợi ích
của nhân dân hai nước, vì hòa bình ở Đông Nam Á và trên thế giới. Kết hợp sức mạnh dân tộc
với sức mạnh thời đại, phấn đấu giữ vững hòa bình ở Đông Dương, Đông Nam Á và trên thế
giới, tăng cường quan hệ đặc biệt giữa ba nước Đông Dương.
Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng về tư duy, trước hết là tư duy kinh tế, đổi mới về công
tác tư tưởng. Đổi mới công tác cán bộ và phong cách làm việc, giữ vững các nguyên tắc tổ
chức và sinh hoạt Đảng…Đảng cần phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động, thực hiện
“dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” và tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước để huy
động lực lượng quần chúng.
c.Ý nghĩa
Đại hội VI của Đảng là đại hội khởi xướng đường lối đổi mới toàn diện, đánh dấu bước
ngoặt phát triển mới trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Các Văn kiện của đại hội mang tính khoa
học và cách mạng, tạo bước ngoặt cho sự phát triển của cách mạng Việt Nam. Tuy nhiên, hạn
chế của đại hội VI là chưa tìm ra những giải pháp hiệu quả tháo gỡ tình trạng rối ren trong
phân phối lưu thông.
9. Nội dung Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam (Cương lĩnh năm 1991 và 2011)?
a. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH do Đại hội VII (1991)
của Đảng thông qua
Kể từ Đại hội lần thứ VI, đất nước sau hơn 4 năm đổi mới đã cơ bản ổn định nhưng vẫn
chưa ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội. Công cuộc đổi mới còn nhiều hạn chế, còn nhiều vấn
đề kinh tế xã hội nóng bỏng chưa được giải quyết.
Đại hội lần thứ VII của Đảng họp tại Hà Nội từ ngày 24 đến 27/6/1991. Một trong
những điểm nổi bật của Đại hội là thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên CNXH.
Từ thực tiễn cách mạng với những thành công và khuyết điểm, sai lầm, Cương lĩnh rút
ra những bài học lớn:
Một là, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó là bài học xuyên
suốt quá trình cách mạng nước ta. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Xây dựng
chủ nghĩa xã hội, bảo vệ Tổ quốc vẫn là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ hữu cơ với nhau.
Toàn Đảng, toàn dân tiếp tục nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, ngọn cờ
vinh quang mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao lại cho thế hệ hôm nay và các thế hệ mai sau.
Hai là, sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chính nhân
dân là người làm nên thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích
và nguyện vọng chân chính của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với
nhân dân. Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời nhân dân sẽ đưa đến những tổn thất không lường được
đối với vận mệnh của đất nước.
Ba là, không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn
dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Đoàn kết là truyền thống quý báu và là bài học lớn của
cách mạng nước ta.
148

Bốn là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức
mạnh quốc tế. Ngày nay, trước cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, trước sự phát triển vũ bão của cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ hiện đại và quá trình quốc tế hoá mạnh mẽ nền kinh tế thế giới, càng cần phải kết
hợp chặt chẽ yếu tố dân tộc với yếu tố quốc tế, yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại để đưa
đất nước tiến lên.
Năm là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu bảo đảm thắng lợi của
cách mạng Việt Nam. Đảng không có lợi ích nào khác ngoài việc phụng sự Tổ quốc, phục vụ
nhân dân. Đảng phải nắm vững, vận dụng sáng tạo và góp phần phát triển chủ nghĩa Mác -
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng làm giàu trí tuệ, bản lĩnh chính trị và năng lực
tổ chức của mình để đủ sức giải quyết các vấn đề do thực tiễn cách mạng đặt ra. Mọi đường
lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan. Phải phòng
và chống được những nguy cơ lớn: sai lầm về đường lối, bệnh quan liêu và sự thoái hoá, biến
chất của cán bộ, đảng viên
Cương lĩnh đã trình bày xu thế phát triển của thế giới và đặc điểm của thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, từ đó xác định phải tiếp tục nâng cao ý chí tự lực tự cường,
phát huy mọi tiềm năng vật chất và trí tuệ của dân tộc, đồng thời mở rộng quan hệ hợp tác
quốc tế, tìm tòi bước đi, hình thức và biện pháp thích hợp xây dựng thành công chủ nghĩa xã
hội.
Cương lĩnh cũng nêu ra 6 đặc trưng cơ bản của xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng:
- Do nhân dân lao động làm chủ.
- Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công
hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
- Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
- Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng
theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân.
- Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ.
- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.
Cương lĩnh cũng nêu ra 7 phương hướng cơ bản trong quá trình xây dựng và bảo vệ tổ
quốc Việt Nam XHCN:
Một là, xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa, Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền
tảng, do đảng cộng sản lãnh đạo.
Hai là, phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá đất nước theo hướng hiện đại gắn
liền với phát triển một nền nông nghiệp toàn diện.
Ba là, phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, thiết lập từng bước quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu. Phát triển nền kinh
tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước. Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo
kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu.
Bốn là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hoá làm cho
thế giới quan Mác - Lênin và tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh giữ vị trí chỉ đạo trong đời sống
tinh thần xã hội.
Năm là, thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc
thống nhất, tập hợp mọi lực lượng phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh. Thực hiện
chính sách đối ngoại hoà bình, hợp tác và hữu nghị với tất cả các nước.
Sáu là, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến lược của
cách mạng Việt Nam.
149

Bảy là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức ngang
tầm nhiệm vụ, bảo đảm cho Đảng làm tròn trách nhiệm lãnh đạo sự nghiệp cách mạng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta.
Về thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam, Cương lĩnh chỉ rõ đó là một quá trình lâu dài,
trải qua nhiều chặng đường với những định hướng lớn về chính sách kinh tế, xã hội, quốc
phòng-an ninh, đối ngoại. Mục tiêu tổng quát phải đạt tới, khi kết thúc thời kỳ quá độ là xây
dựng xong về cơ bản những cơ sở kinh tế của cnxh, với kiến trúc thượng tầng về chính trị và tư
tưởng, văn hóa phù hợp, làm cho Việt Nam trở thành một nước XHCN phồn vinh.
Cương lĩnh cũng nêu rõ quan điểm về xây dựng hệ thống chính trị, xây dựng Nhà nước
XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; xây dựng Mặt trận Tổ quốc VN và các đoàn
thể nhân dân. Trong hệ thống chính trị, Đảng CSVN là một bộ phận và là tổ chức lãnh đạo hệ
thống đó. Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng,
kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản. Xây dựng
Đảng trong sạch, vững mạnh về tư tưởng chính trị và tổ chức.
Mục tiêu tổng quát phải đạt tới khi kết thúc thời kỳ quá độ là xây dựng xong về cơ bản
những cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội, với kiến trúc thượng tầng về chính trị và tư tưởng,
văn hoá phù hợp, làm cho nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh.
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là quá trình lâu dài, trải qua nhiều chặng
đường. Mục tiêu của chặng đường đầu là: thông qua đổi mới toàn diện, xã hội đạt tới trạng
thái ổn định vững chắc, tạo thế phát triển nhanh ở chặng sau.
Với những nội dung trên, Cương lĩnh năm 1991 đã giải đáp đúng đắn vấn đề cơ bản
nhất của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên CNXH; đặt nền tảng đoàn kết, thống
nhất giữa tư tưởng với hành động, tạo ra sức mạnh tổng hợp đưa Việt Nam tiếp tục phát triển.
b. Cương lĩnh năm 2011 (bổ sung, phát triển Cương lĩnh năm 1991)
Đại hội lần thứ XI của Đảng (năm 2011) diễn ra trong hoàn cảnh tình hình thế giới diễn
biến phức tạp. Hòa bình hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng chiến tranh cục bộ, xung
đột vũ trang, khủng bố, tranh chấp lãnh thổ diễn biến phức tạp. Thiên tai, dịch bệnh, khủng
hoảng kinh tế toàn cầu, ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu diễn ra nghiêm trọng trên toàn
thế giới. Các thế lực thù địch tiếp tục chống phá, kích động bạo loạn, đẩy mạnh hoạt động
“diễn biến hòa bình” chống phá chế độ ta.
Nội dung nổi bật của Đại hội XI là thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011), trong đó có kết cấu 4 phần như Cương
lĩnh năm 1991 song có bổ sung, phát triển nhận thức mới ở tiêu đề và nội dung từng phần.
Cương lĩnh khẳng định lại những bài học kinh nghiệm lớn đã được nêu ra trong Cương
lĩnh năm 1991, đồng thời xác định quá độ lên CNXH ở Việt Nam trong bối cảnh mới diễn biến
phức tạp với đặc điểm nổi bật là các nước có chế độ chính trị và trình độ phát triển khác nhau
cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa đấu tranh, cạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Cuộc
đấu tranh của nhân dân các nước vì hòa bình, độc lập, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã hội dù
gặp nhiều khó khăn, thách thức nhưng sẽ có những bước tiến mới. Trong đó, theo quy luật tiến
hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến lên CNXH.
Về mô hình, mục tiêu, phương hướng cơ bản, Cương lĩnh năm 2011 có bổ sung 2 đặc
trưng của CNXH mà nhân ta xây dựng (gồm 8 đặc trưng thay cho 6 đặc trưng); mục tiêu tổng
quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của
CNXH với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp, tạo cơ sở để nước ta
trở thành một nước XHCN ngày càng phồn vinh, hạnh phúc. Mục tiêu đến giữa thế kỷ XXI là
xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp hiện đại theo định hướng XHCN.
Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định 8 phương hướng cơ bản xây dựng
CNXH ở nước ta: (1) Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển
kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường; (2) Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
150

xã hội chủ nghĩa; (3) Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con
người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; (4) Bảo đảm vững
chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; (5) Thực hiện đường lối đối ngoại
độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc
tế; (6) Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường
và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất; (7) Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; (8) Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Cương lĩnh cũng xác định những định hướng lớn về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội,
quốc phòng an ninh, đối ngoại trong thời kỳ mới, bao gồm:
Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành
phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối. Các thành phần kinh tế
hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước
pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế nhà nước giữ vai
trò chủ đạo. kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển. kinh tế nhà nước cùng với
kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc cho nền kinh tế quốc dân; kinh tế tư
nhân là một trong những động lực của nền kinh tế. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được
khuyến khích phát triển.
Xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất
trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ, trở thành nền tảng tinh
thần vững chắc. Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của cộng đồng các
dân tộc VN, tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, công
bằng, văn minh, vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể
lực ngày càng cao.
Kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, khuyến khích tăng thu nhập và làm giàu dựa
vào lao động. Thiết lập hệ thống đồng bộ, đa dạng về bảo hiểm và trợ cấp xã hội; hạn chế, tiến
tới đẩy lùi tội phạm và giảm tác hại của tệ nạn xã hội; bảo đảm quy mô hợp lý, cân bằng giới
tính và chất lượng dân số.
Mục tiêu, nhiệm vụ quốc phòng an ninh là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN; giữ
vững hòa bình, ổn định chính trị, bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; chủ động
ngăn chặn làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch đối với
sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta…
Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát
triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị
thế của đất nước, vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam XHCN giàu mạnh; là bạn,
đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp
hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
Về hệ thống chính trị và vai trò lãnh đạo của Đảng, Cương lĩnh xác định bản chất dân
chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát
triển đất nước; chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; xác định vị trí,
vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Na và các đoàn thể nhân dân; khẳng định Đảng Cộng sản
Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị,
đồng thời là bộ phận của hệ thống ấy. Để đảm đương được vai trò lãnh đạo, Đảng phải vững
mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, ra sức nâng cao
trình độ trí tuệ, bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực lãnh đạo. Giữ vững truyền
thống đoàn kết thống nhất trong Đảng, tăng cường dân chủ và kỷ luật trong hoạt động của
Đảng. Thường xuyên tự phê bình và phê bình, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa
cơ hội, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí và mọi hành động chia rẽ, bè phái. Đảng chăm lo
xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch, có phẩm chất, năng lực, có sức chiến đấu cao
151

theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; quan tâm bồi dưỡng, đào tạo lớp người kế tục sự
nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc.
Cương lĩnh năm 2011 của Đảng có ý nghĩa quan trọng về lý luận và thực tiễn, là sự vận
dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên CNXH ở VN; thể hiện nhận thức mới về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt
Nam. Cương lĩnh là cơ sở đoàn kết, thống nhất giữa tư tưởng và hành động của toàn Đảng,
toàn dân, là ngọn cờ chiến đấu vì thắng lợi của sự nghiệp xây dựng đất nước Việt Nam từng
bước quá độ lên CNXH.
10. Thành tựu, hạn chế và kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng trong sự nghiệp đổi
mới?
a. Thành tựu
Kinh tế tăng trưởng khá, thực lực của nền kinh tế tăng lên; kinh tế vĩ mô cơ bản ổn
định; nền kinh tế thị trường định hướng XHCN từng bước hình thành và phát triển; cơ sở vật
chất kỹ thuật, kết cấu hạ tầng, đô thị được đầu tư xây dựng; văn hóa xã hội có bước phát triển;
việc giải quyết các vấn đề xã hội đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng; giữ vững quốc
phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc; đối ngoại đạt nhiều thành tựu mới…
b. Hạn chế
Kinh tế phát triển chưa bền vững; nhiều vấn đề tiêu cực nảy sinh, nhất là các vấn đề xh
và qlxh chưa được nhận thức đầy đủ và giải quyết hiệu quả; không đạt được mục tiêu tạo nền
tảng cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại; Bốn nguy cơ lớn vẫn tồn
tại…
c. Kinh nghiệm
Một là, trong quá trình đổi mới phải chủ động, không ngừng sáng tạo trên cơ sở kiên
định mục tiêu đldt&cnxh, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại toàn
diện, vận dụng kinh nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam.
Hai là, đổi mới phải luôn quán triệt quan điểm lấy dân làm gốc, vì lợi ích của nhân dân,
dựa vào nhân dân, phát huy quyền làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sáng tạo và mọi nguồn lực
của nhân dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc.
Ba là, đổi mới toàn diện, đồng bộ, có bước đi phù ợp; phải tôn trọng quy luật khách
quan, xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn, coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận,
tập trung giải quyết kịp thời, hiệu quả những vấn đề do thực tiễn đặt ra.
Bốn là, phải dặt lợi ích quốc gia dân tộc lên trên hết; kiên định độc lập, tự chủ, đồng
thời chủ động tích cuwcjhooij nhập quốc tế trên cơ sở bình đẳng, cùng có lơi; kết hợp phát huy
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam
XHCN.
Năm là, phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng; xây dựng đội gũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực và phẩm chất, ngang
tầm nhiệm vụ; nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ
chức chính trị- xã hội và của cả hệ thống chính trị; tang cường mối quan hệ mật thiết với nhân
dân.

You might also like