Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 20

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

KHOA THƯ VIỆN – THÔNG TIN HỌC

******************

TIỂU LUẬN

Môn: Tư tưởng Hồ Chí Minh

Chủ đề: Tư tưởng và đạo đức đức cách mạng


Khóa: 2022-2026
Câu 1. Tư cách của một Đảng viên chân chính cách mạng là thế nào ?

- Trong tác phẩm "Sửa đổi lối làm việc" của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cập đến nhiều
vấn đề của công tác xây dựng Đảng, trong đó 12 điều về “Tư cách của Đảng chân chính
cách mạng” là nội dung quan trọng, có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn, định hướng
chính trị đúng đắn để xây dựng Đảng ta trở thành một đảng cầm quyền thực sự chân
chính, cách mạng. Theo Người, “Tư cách của Đảng chân chính cách mạng” gồm 12
điều cơ bản sau:
1. Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ giải
phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng.
2. Cán bộ của Đảng phải hiểu biết lý luận cách mạng, và lý luận cùng thực hành phải
luôn luôn đi đôi với nhau.
3. Khi đặt ra khẩu hiệu và chỉ thị, luôn luôn phải dựa vào điều kiện thiết thực và kinh
nghiệm cách mạng ở các nước, ở trong nước và ở địa phương.
4. Phải luôn luôn do nơi quần chúng mà kiểm soát những khẩu hiệu và chỉ thị đó có đúng
hay không.
5. Phải luôn luôn xem xét lại tất cả công tác của Đảng. Mọi công tác của Đảng luôn luôn
phải đứng về phía quần chúng. Phải đem tinh thần yêu nước và cần, kiệm, liêm,
chính mà dạy bảo cán bộ, đảng viên và nhân dân.
6. Mỗi công việc của Đảng phải giữ nguyên tắc và phải liên hợp chặt chẽ với dân chúng.
Nếu không vậy, thì chẳng những không lãnh đạo được dân chúng mà cũng không học
được dân chúng.
7. Chẳng những không nâng cao được dân chúng, mà cũng không biết ý kiến của dân
chúng.
8. Mỗi công việc của Đảng phải giữ vững tính cách mạng của nó, lại phải khéo dùng
những cách thức thi hành cho hoạt bát.
9. Nếu không vậy thì không biết nắm vững các cách thức tranh đấu và các cách thức tổ
chức, không biết liên hợp lợi ích ngày thường và lợi ích lâu dài của dân chúng.
10. Đảng không che giấu những khuyết điểm của mình, không sợ phê bình. Đảng phải
nhận khuyết điểm của mình mà tự sửa chữa, để tiến bộ, và để dạy bảo cán bộ và đảng
viên.
11. Đảng phải chọn lựa những người rất trung thành và rất hăng hái, đoàn kết họ thành
nhóm trung kiên lãnh đạo.
12. Đảng phải luôn luôn tẩy bỏ những phần tử hủ hóa ra ngoài.
13. Đảng phải giữ kỷ luật rất nghiêm từ trên xuống dưới.
14. Kỷ luật này là tư tưởng phải nhất trí, hành động phải nhất trí.
15. Kỷ luật này là do lòng tự giác của đảng viên về nhiệm vụ của họ đối với Đảng.
16. Đảng phải luôn luôn xét lại những nghị quyết và những chỉ thị của mình đã thi hành
thế nào. Nếu không vậy thì những nghị quyết và chỉ thị đó sẽ hóa ra lời nói suông mà
còn hại đến lòng tin cậy của nhân dân đối với Đảng.
 Muốn cho Đảng được vững bền/ Mười hai điều đó chớ quên điều nào.
 12 điều Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra về “Tư cách của Đảng chân chính cách mạng”
bao quát một cách toàn diện và sâu sắc những vấn đề cơ bản về xây dựng Đảng
trong điều kiện Đảng cầm quyền. Đó là những vấn đề căn cốt nhất của công tác xây
dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức.
 Nhìn lại chặng đường hơn 70 năm cầm quyền của Đảng, cách mạng Việt Nam đã
trải qua những bước thăng trầm lịch sử, chúng ta càng thấm thía sâu sắc giá trị lịch
sử và hiện thực những điều căn dặn của Bác về “Tư cách của Đảng chân chính cách
mạng”. Chính nhờ thấm nhuần tư tưởng đó, Đảng đã thực sự trở thành một đảng
cầm quyền, "chèo lái" con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua mọi thác ghềnh
với muôn vàn khó khăn, thử thách cam go, giành từ thắng lợi này đến thắng lợi
khác. Từ một đảng cầm quyền còn non trẻ với một chính quyền cách mạng vừa mới
ra đời trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, dưới sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân và dân ta đã làm nên những kỳ tích lịch sử vĩ
đại trong thế kỷ 20.

Câu 2. Thế nào là phận sự của một Đảng viên ?

- Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành cả một mục để nói về “Phận sự của đảng viên và cán bộ”,
được hiểu như phận sự chung của cả cán bộ, đảng viên phải thực hiện. Phận sự chung này
được nêu lên cụ thể được xác định qua các tiêu đề sau đây:
1. Trọng lợi ích của Đảng hơn hết
- Đảng viên và cán bộ phải hiểu rằng lợi ích cá nhân phải phục tùng lợi ích của Đảng, lợi
ích của bộ phận phải phục tùng lợi ích của toàn thể, và lợi ích tạm thời phải phục tùng lợi
ích lâu dài. Đặt lợi ích của Đảng lên trước, nghĩa là đặt lợi ích của dân tộc và Tổ quốc lên
trước. Nếu lợi ích của Đảng mâu thuẫn với lợi ích cá nhân, đảng viên và cán bộ phải sẵn
sàng hy sinh lợi ích cá nhân, thậm chí tính mạng, vì lợi ích của Đảng
2. Đạo đức cách mạng
- Người đảng viên, người cán bộ tốt muốn trở nên người cách mạng chân chính, không có
gì là khó cả.Điều đó hoàn toàn do lòng mình mà ra. Lòng mình chỉ biết vì Đảng, vì Tổ
quốc, vì đồng bào thì mình sẽ tiến đến chỗ chí công vô tư. Mình đã chí công vô tư thì
khuyết điểm sẽ càng ngày càng ít, mà những tính tốt như sau, ngày càng thêm. Nói tóm
tắt, tính tốt ấy gồm có năm điều: nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm.
3. Phải giữ kỷ luật
- Không ai bắt buộc ai vào Đảng làm chiến sĩ xung phong. Đó là do sự "tự giác", lòng hăng
hái của mỗi người mà tình nguyện làm đảng viên, làm chiến sĩ xung phong. Đã vậy, thì
mỗi người đảng viên phải cố gắng cho xứng đáng là một người trong những người đại
biểu của dân tộc. mỗi cán bộ, mỗi đảng viên phải hoàn toàn phục tùng lợi ích của Đảng.
Không nên có mục đích cá nhân. đảng viên và cán bộ cần phải luôn luôn ra sức phấn đấu,
ra sức làm việc, cố gắng học tập để nâng cao trình độ văn hoá, trí thức và chính trị của
mình
4. Đối với các hạng đảng viên
- Đảng ta là đảng cách mạng, vì dân, vì nước, nhưng có đảng viên vào Đảng vì các lý do
khác như tìm việc, chức tước, hay theo bạn bè. Những người này không hiểu rằng cách
mạng đòi hỏi sự kiên quyết và hy sinh, nên khi gặp khó khăn có thể dao động. Đảng cần
cảm hóa, dạy dỗ họ để họ trở thành những chiến sĩ tốt. Những người không chịu nổi khó
khăn và muốn rời Đảng cần thề không lộ bí mật, phản hay phá hoại Đảng. Đảng viên phải
phát triển tính tốt, sửa bỏ tính xấu vì tính xấu của họ sẽ hại đến Đảng và nhân dân.
5. Những khuyết điểm sai lầm
- Khuyết điểm trong Đảng gồm:
 Tham lam: Đặt lợi ích cá nhân lên trên Đảng.
 Lười biếng: Tự mãn, trốn tránh trách nhiệm.
 Kiêu ngạo: Tự cao, thích khen ngợi, không chịu phê bình.
 Hiếu danh: Tham vọng, dễ lung lay khi bị phê bình.
 Thiếu kỷ luật: Công kích đồng chí, cất nhắc người quen.
 Óc hẹp hòi: Sợ người khác hơn mình, không hợp tác với người tài.
 Óc địa phương: Chỉ quan tâm lợi ích bộ phận.
 Óc lãnh tụ: Tự cao, muốn làm lãnh tụ mà không qua rèn luyện.
6. Những bệnh khác
 "Hữu danh, vô thực": Làm việc không thiết thực, chỉ để báo cáo cho oai.
 Kéo bè kéo cánh: Chia rẽ, thiên vị người mình thích, dèm pha người khác.
 Cận thị: Không nhìn xa trông rộng, chỉ lo việc nhỏ nhặt.
 Chủ nghĩa cá nhân:
 Nói xấu sau lưng, không phê bình trước mặt.
 Không phục tùng kỷ luật, làm theo ý mình.
 Phê bình vì tư lợi, không vì tiến bộ chung.
 Nghe phản cách mạng nhưng không báo cáo.
 Không liên lạc, điều tra dân chúng.
 Làm việc không kế hoạch, không đến nơi đến chốn.
 Lười biếng: Không nhanh chóng thi hành mệnh lệnh, nghị quyết.
 Tị nạnh: Hiểu sai về bình đẳng, đòi hỏi vô lý.
 Sợ phê bình: Giấu khuyết điểm, không dám tự phê bình.
 Xu nịnh, a dua: Trước mặt khen ngợi, sau lưng nói xấu, không có chính kiến.

Câu 3. Đạo đức cách mạng mà Bác đề cập đến trong tác phẩm “ Sửa đối lối làm
việc” là như thế nào?

- “Người đảng viên, người cán bộ tốt muốn trở nên người cách mạng chân chính, không có
gì là khó cả. Điều đó hoàn toàn do lòng mình mà ra. Lòng mình chỉ biết vì Đảng, vì Tổ
quốc, vì đồng bào thì mình sẽ tiến đến chỗ chí công vô tư. Mình đã chí công vô tư thì
khuyết điểm sẽ ngày càng ít mà những tính tốt sẽ nhiều thêm. Nói tóm tắt, tính tốt ấy
gồm có 5 điều: Nhân, Nghĩa, Trí, Dũng, Liêm… Đó là đạo đức Cách mạng”.
 NHÂN là thật thà thương yêu, hết lòng giúp đỡ đồng chí và đồng bào. Vì thế mà
kiên quyết chống lại những người, những việc có hại đến Đảng, đến nhân dân. Vì
thế mà sẵn lòng chịu cực khổ trước mọi người, hưởng hạnh phúc sau thiên hạ. Vì
thế mà không ham giàu sang, không e cực khổ, không sợ oai quyền.
 NGHĨA là ngay thẳng, không có tâm tư, không làm việc bậy, không có việc gì phải
giấu Đảng. Ngoài lợi ích của Đảng, không có lợi ích riêng phải lo toan. Lúc Đảng
giao cho việc, thì bất kỳ to nhỏ, đều ra sức làm cẩn thận. Thấy việc phải thì làm,
thấy việc phải thì nói. Không sợ người ta phê bình mình, mà phê bình người khác
cũng luôn luôn đúng đắn.
 TRÍ vì không có việc tư túi nó làm mù quáng, cho nên đầu óc trong sạch, sáng suốt.
Dễ hiểu lý luận. Dễ tìm phương hướng. biết xem người. Biết xem việc. Vì vậy, mà
biết làm việc có lợi, tránh việc có hại cho Đảng, biết Đảng mà cất nhắc người tốt, đề
phòng người gian,
 DŨNG là dũng cảm, gan góc, gặp việc phải có gan làm. Thấy khuyết điểm có gan
sửa chữa. Cực khổ khó khăn, có gan chịu đựng. Có gan chống lại những vinh hoa,
phú quý, không chính chính đáng. Nếu cần, thì có gan hy sinh cả tính mệnh cho
Đảng, cho Tổ quốc, không bao giờ rụt rè, nhút nhát.
 LIÊM là không tham địa vị. Không tham tiền tài. Không tham sung sướng. Không
ham người tâng bốc mình. Vì vậy mà quang minh chính đại, không bao giờ hủ hóa.
 Bác Hồ không chỉ là nhà tư tưởng kiệt xuất của Đảng, của dân tộc ta và của thế
giới trong thế kỷ 20, mà Bác còn thể hiện nổi bật tư tưởng của một nhà đạo đức
cách mạng, một nhà Hiền triết Á Đông. Cốt lõi đạo đức của Bác quy tụ vào 4
chuẩn mực và 2 nguyên tắc ứng xử: Bác gọi 4 chuẩn mực đó là 4 đức tính để làm
người: cần, kiệm, liêm, chính; 2 chuẩn mực ứng xử đó chính là chí công và vô tư.
Chí công là toàn tâm toàn ý vì dân vì nước; Vô tư là quên cá nhân mình.
 Bác là một điển hình độc đáo của một người cộng sản hiện đại nhưng thực hành
xuất sắc triết lý nhân bản của Phật giáo: Vô ngã vị tha, quên mình đi vì người
khác. Còn các phẩm chất nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm chính là cách cụ thể hóa của
4 chuẩn mực cần - kiệm - liêm - chính. Khi nói về đạo làm tướng, Bác thêm cả
chữ trung: Nhân, Trí, Dũng, Liêm, Trung: Nhân là đạo làm người; nhân còn là
nhân cách; Nghĩa là đạo lý, đạo nghĩa. Bác vẫn nói, chính sách của Đảng, Nhà
nước là vì dân, đó chính là đạo lý, đạo nghĩa lớn nhất, không có gì lớn hơn là làm
việc lợi cho dân, tránh điều… cho dân; Còn nghĩa ở đây là tình nghĩa, thủy
chung, son sắt, ăn ở với nhau như bát nước đầy, có lý có tình. Bác có lần còn nói:
Đọc hàng trăm, hàng nghìn quyển sách Mác Lênin mà ăn ở với nhau không có
tình có nghĩa thì làm sao gọi là Mác Lênin được. Chữ Liêm, Chính lại càng nổi
bật: chính trực, khách quan. Khi phân tích chữ Liêm, Bác có nói thêm: “Tham
tiền của, tham địa vị, danh tiếng, tham ăn ngon, sống yên đều là bất liêm. Người
cán bộ cậy quyền thế mà đục khoét của dân, ăn của đút, hay chọn của công làm
của tư là bất liêm; Dìm người giỏi để giữ địa vị danh tiếng của mình là đạo vị
(đạo ở đây là ăn trộm). Còn gặp việc phải mà sợ khó nhọc, không dám làm là
tham vật, úy lạo; Gặp giặc mà không dám đánh là tham sinh, úy tử… Tất cả
những điều đó đều là làm trái với chữ Liêm; Dũng là dũng cảm hy sinh không
ngại khó khăn, gian khổ. Đặc biệt chữ Liêm, nó kết tinh tất cả những phẩm chất
đạo đức cao cả.
 5 chữ Nhân, Nghĩa, Trí, Dũng, Liêm chính là lời nhắc nhở của Bác đối với mỗi
đảng viên và theo lời Bác, mỗi đảng viên phải là một cán bộ có đạo đức, gương
mẫu. Muốn xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, là người cán bộ của nhân dân
phải bắt đầu từ xây dựng con người.

Câu 4: Bác đã phân loại các hạng Đảng viên như thế nào?

- Bác đã phân loại đảng viên dựa trên động cơ gia nhập Đảng và khả năng chịu đựng khó
khăn, Bác cũng ân cần đưa ra những lời khuyên và biện pháp để giúp họ trở thành những
Đảng viên tốt hơn hay việc xử lý khi họ muốn ra khỏi Đảng.
- Đảng ta là một đảng cách mạng, một đảng vì dân, vì nước. Song Đảng có rất đông đảng
viên. Phần đông cố nhiên đã hiểu biết vì dân, vì nước mà vào Đảng. Nhưng cũng có phần
vì lẻ khác mà theo vào Đảng.
- Đảng viên vì lẻ khác mà theo Đảng
 Có người tưởng vào Đảng thì dễ tìm công ăn việc làm. Có người vào Đảng mong
được làm chức này, tước nọ. Có người vì anh em bạn hữu kéo vào, v.v.
 Điểm chung của những người này là không biết rằng: cách mạng là một sự nghiệp
gian nan cực khổ, phải có lòng kiên quyết, có chí hy sinh. Vì vậy khi gặp khó khăn,
họ không khỏi dao động, hoang mang.
 Đối với những người theo Đảng vì những lẻ trên, Bác răn dạy rằng:
 Những người có thiện chí: Họ tìm vào Đảng cũng là một điều tốt luôn được hoan
nghênh.Bác viết: “ Dù sao, họ tin Đảng ta, họ kính trọng Đảng ta, họ tìm vào Đảng
ta, đó cũng là một điều tốt. Trừ những bọn vào Đảng để mong phá hoại, còn những
hạng kia chúng ta đều hoan nghênh.”
 Vì theo lời Bác, một khi họ đã vào Đảng thì Đảng có thể cảm hóa họ, dạy dỗ họ,
nâng cao sự hiểu biết và lòng phụ trách của họ lên dần dần. Trong sự huấn luyện và
đấu tranh lâu dài, họ rất có thể trở thành những người chiến sĩ khá.
- Đối với những người không chịu nổi khó nhọc, không chịu nổi kỷ luật nghiêm khắc mà
xin ra khỏi Đảng: Đảng vẫn bằng lòng để họ ra và giữ cảm tình thân thiện với họ, với yêu
cầu là “ họ thề không lộ bí mật của Đảng, không phản Đảng, không phá hoại Đảng”.
- Đảng viên và cán bộ ai cũng có tính tốt và tính xấu. Song đã hiểu biết, đã tình nguyện
vào một Đảng vì dân, vì nước, đã là một người cách mạng thì phải cố gắng phát triển
những tính tốt và sửa những tính xấu. Vì tính xấu của một người chỉ có hại cho người đó;
còn tính xấu của một đảng viên, môt cán bộ, sẽ có hại đến Đảng, có hại đến nhân dân.

Câu 5: Tại sao Bác yêu cầu Đảng viên phải giữ kỷ luật ?

- Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu Đảng viên phải giữ kỷ luật vì những lý do sau:

1. Để bảo đảm sự thống nhất và đoàn kết của Đảng:

- Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, là hạt nhân lãnh đạo của Nhà nước và xã
hội. Do đó, sự thống nhất và đoàn kết của Đảng là điều kiện tiên quyết để Đảng hoàn
thành sứ mệnh lịch sử của mình.
- Kỷ luật là sợi dây gắn kết các đảng viên lại với nhau, giúp họ cùng chung ý chí, hành
động và hướng đến mục tiêu chung. Khi tất cả đảng viên đều chấp hành nghiêm kỷ luật,
Đảng sẽ có sức mạnh to lớn để thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ.

2. Để bảo đảm đường lối, chủ trương của Đảng được thực hiện nghiêm chỉnh:

- Đường lối, chủ trương của Đảng là kết tinh trí tuệ của tập thể, là kim chỉ nam cho mọi
hành động của Đảng viên và nhân dân.
- Kỷ luật là công cụ để Đảng kiểm tra, giám sát việc thực hiện đường lối, chủ trương của
Đảng. Nhờ có kỷ luật, Đảng có thể kịp thời phát hiện và chấn chỉnh những sai lầm, vi
phạm, bảo đảm cho đường lối, chủ trương của Đảng được thực hiện một cách hiệu quả
nhất.

3. Để nâng cao uy tín của Đảng trong nhân dân:

- Đảng là người đại diện cho lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của
cả dân tộc.
- Đảng viên phải gương mẫu chấp hành kỷ luật, thể hiện bản lĩnh chính trị, đạo đức cách
mạng để giữ gìn uy tín của Đảng trong nhân dân.
- Khi Đảng có uy tín cao, nhân dân sẽ tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, hăng hái tham
gia vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

4. Để rèn luyện phẩm chất đạo đức cho đảng viên:

- Kỷ luật là một trong những phẩm chất đạo đức quan trọng của người đảng viên.
- Rèn luyện ý thức chấp hành kỷ luật giúp đảng viên nâng cao phẩm chất đạo đức, trở
thành những người có bản lĩnh, có ý chí kiên cường, có tinh thần trách nhiệm cao.
- Đảng viên có phẩm chất đạo đức tốt sẽ là tấm gương sáng cho nhân dân noi theo, góp
phần xây dựng Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh.

5. Để bảo vệ sự tồn tại và phát triển của Đảng:

- Kỷ luật là vũ khí lợi hại để Đảng đấu tranh chống lại những kẻ thù bên trong và bên
ngoài.
- Nhờ có kỷ luật, Đảng đã vượt qua nhiều thử thách gian nan, nguy hiểm trong suốt quá
trình hoạt động của mình.
- Giữ gìn kỷ luật là trách nhiệm của mỗi đảng viên, góp phần bảo vệ sự tồn tại và phát triển
của Đảng.
- Kỷ luật của Đảng là một yếu tố rất quan trọng, bảo đảm cho sự tồn tại, hoạt động và phát
triển của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Đảng ta tuy nhiều người, nhưng khi
tiến đánh thì chỉ như một người. Đó là nhờ có kỷ luật. Kỷ luật của ta là kỷ luật sắt, nghĩa
là nghiêm túc và tự giác”
- Vì vậy, mỗi đảng viên cần phải:
 Nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của kỷ luật đối với Đảng.
 Rèn luyện ý thức chấp hành kỷ luật một cách tự giác, nghiêm túc.
 Luôn gương mẫu chấp hành kỷ luật, kiên quyết đấu tranh chống mọi hành vi vi
phạm kỷ luật.
 Góp phần xây dựng Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh, xứng đáng với niềm
tin của nhân dân.
 Tại báo cáo "Sửa đổi lối làm việc" (1958), Bác đã chỉ ra: Người cán bộ, đảng
viên “phải giữ kỷ luật”. Kỷ luật của Đảng là kỷ luật tự giác. “Không ai bắt buộc
ai vào Đảng làm chiến sĩ tiên phong. Mà đó là tự giác, lòng hăng hái của mỗi
người mà tình nguyện làm đảng viên”.
 Và cũng chỉ ra bệnh thiếu kỷ luật và yêu cầu đảng viên phải sửa chữa những
khuyết điểm này. Căn bệnh này nếu xuất hiện ở đội ngũ cán bộ, đảng viên thì hậu
quả nghiêm trọng và nguy hiểm là dẫn đến làm mất niềm tin của nhân dân đối
với Đảng. Bệnh thiếu kỷ luật trong Đảng là một trong những nguyên nhân chính
sinh ra bệnh thiếu ý thức thực thi nghiêm pháp luật trong xã hội.

Câu 6: Những biện pháp mà Đảng thực hành đối với các hạng Đảng viên ?

- Đảng Cộng sản Việt Nam thực hiện các biện pháp quản lý, giáo dục và đánh giá đảng
viên để duy trì kỷ luật, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của tổ chức. Các biện
pháp này được thực hiện đối với các hạng đảng viên như sau:

1. Đảng viên dự bị:

- Giáo dục, bồi dưỡng: Đảng tổ chức các lớp học, khóa huấn luyện để nâng cao nhận thức
chính trị, đạo đức cách mạng và năng lực công tác cho đảng viên dự bị.
- Giám sát và hỗ trợ: Các đảng viên chính thức hoặc cấp trên trực tiếp giám sát quá trình
phấn đấu, học tập và công tác của đảng viên dự bị, đồng thời hỗ trợ và hướng dẫn khi cần
thiết.
- Đánh giá và xét duyệt: Cuối thời gian dự bị, đảng viên dự bị sẽ được đánh giá dựa trên
kết quả công tác, học tập và rèn luyện. Nếu đạt yêu cầu, họ sẽ được công nhận là đảng
viên chính thức.

2. Đảng viên chính thức:

- Bồi dưỡng liên tục: Đảng tổ chức các khóa học, hội thảo, sinh hoạt chính trị để nâng cao
trình độ lý luận, kiến thức chuyên môn và kỹ năng công tác cho đảng viên.
- Đánh giá hàng năm: Mỗi năm, đảng viên phải tự đánh giá và được cấp trên trực tiếp đánh
giá về mức độ hoàn thành nhiệm vụ, đạo đức, lối sống và ý thức kỷ luật.
- Khen thưởng và kỷ luật: Đảng viên có thành tích xuất sắc được biểu dương, khen thưởng.
Ngược lại, đảng viên vi phạm kỷ luật hoặc không hoàn thành nhiệm vụ sẽ bị khiển trách,
cảnh cáo hoặc có thể bị khai trừ khỏi đảng.

3. Đảng viên tiên tiến, xuất sắc:


- Biểu dương và khen thưởng: Đảng tổ chức các lễ tuyên dương, trao thưởng để ghi nhận
và khuyến khích các đảng viên có thành tích xuất sắc trong công tác và đóng góp tích cực
cho đảng.
- Phát triển và thăng tiến: Đảng viên tiên tiến, xuất sắc được tạo điều kiện để tiếp tục phát
triển, được đề bạt, bổ nhiệm vào các vị trí lãnh đạo cao hơn trong đảng hoặc trong cơ
quan nhà nước.

4. Đảng viên cao cấp:

- Đào tạo nâng cao: Các đảng viên cao cấp thường xuyên được tham gia các khóa đào tạo
chuyên sâu, hội thảo quốc tế để cập nhật kiến thức mới, nâng cao năng lực lãnh đạo và
quản lý.
- Giám sát và kiểm tra: Đảng thực hiện các biện pháp giám sát, kiểm tra thường xuyên để
đảm bảo các đảng viên cao cấp luôn tuân thủ kỷ luật đảng, gương mẫu trong công tác và
đời sống.
- Đánh giá và luân chuyển: Đảng viên cao cấp được đánh giá định kỳ về hiệu quả lãnh đạo
và quản lý. Họ cũng có thể được luân chuyển công tác để tích lũy kinh nghiệm và tránh
tình trạng cục bộ, khép kín.
 Đảng viên cao cấp thường là những người giữ các vị trí lãnh đạo quan trọng
trong Đảng, Nhà nước và Chính phủ Việt Nam. Dưới đây là một số đảng viên
cao cấp hiện nay:
 Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. - Nguyễn Phú
Trọng
 Chủ tịch nước - Tô Lâm
 Thủ tướng Chính phủ - Phạm Minh Chính
 Chủ tịch Quốc hội - Trần Thanh Mẫn
 Những đảng viên này đều giữ vai trò quan trọng trong việc lãnh đạo và điều hành
các hoạt động của Đảng, Nhà nước và Chính phủ, và có ảnh hưởng lớn đến chính
sách và phát triển của đất nước.
 Các biện pháp này giúp Đảng Cộng sản Việt Nam duy trì kỷ luật, nâng cao chất
lượng đảng viên, đồng thời thúc đẩy sự phát triển và hiệu quả hoạt động của tổ
chức đảng.
Câu 7: Tại sao trong Đảng lại có nhiều khuyết điểm như vậy? Cách sửa chữa, khắc
phục?

- Đối với khuyết điểm của Đảng, Bác Hồ chỉ rõ rằng: “Vì Đảng rất to, người rất đông;
mỗi hạng người lại có thói quen, tính nết, trình độ, tư tưởng, nhận xét khác nhau. Nhất là
khi phong trào cách mạng càng sôi nổi, hoàn cảnh càng khó khăn, thì sự khác nhau đó
càng rõ rệt, càng trở nên gay go.” Vì vậy có nhiều tính cách rất trung thành, rất kiên
quyết, rất vĩ đại. Song cũng không tránh khỏi những tập tục, những tính nết, những
khuyết điểm của xã hội bên ngoài, nó lây, ngấm vào trong Đảng. Những thói xấu tự tư tự
lợi, kiêu ngạo, xa hoa,... đã có từ rất lâu, nhất là trong 80 năm nô lệ. Đó là quá trình “tự
biến đổi” về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên theo chiều hướng
tiêu cực, làm mất dần các chuẩn mực của người cộng sản, dẫn đến xa rời những nguyên
tắc, quan điểm mác-xít của CN Mác-Lênin, xa rời nguyên tắc tổ chức của Đảng cộng sản.
- Cách sửa chữa, khắc phục:
- Đảng Cộng sản Việt Nam mang bản chất giai cấp công nhân, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh là kim chỉ nam cho mọi hành động. Thực tiễn cho thấy, trong quá
trình lãnh đạo cách mạng, bất cứ đảng nào cũng có lúc phạm phải sai lầm. Vấn đề là,
đứng trước những sai lầm, mỗi đảng có thái độ ứng xử và cách thức xử lý khác nhau
- Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến vấn đề tự phê bình và phê bình.
Người cho rằng mục đích tự phê bình và phê bình đều nhằm giúp nhau sửa chữa khuyết
điểm, phát triển ưu điểm, cùng nhau tiến bộ. Theo Người, Đảng phải vận động để tự phê
bình và phê bình trở thành một thói quen, một nếp sinh hoạt; không nên duy trì theo kiểu
“đóng cửa bảo nhau” trong nội bộ, mà phải vận động quần chúng cùng tham gia phê bình
cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng.
 V.I.Lênin đã chỉ rõ: “Tất cả những đảng cách mạng đã bị tiêu vong cho tới nay,
đều bị tiêu vong vì tự cao tự đại, vì không biết nhìn rõ cái gì tạo nên sức mạnh
của mình, và vì sợ sệt không dám nói lên những nhược điểm của mình. Còn
chúng ta, chúng ta sẽ không bị tiêu vong, vì chúng ta không sợ nói lên những
nhược điểm của chúng ta, và những nhược điểm đó, chúng ta sẽ học được cách
khắc phục”
 Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của
mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình,
vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra
khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là
một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”
 Trên Báo Nhân dân ngày 20/5/1951 trong bài Tự phê bình, Bác đã viết: “Tự
mình không đánh thắng được khuyết điểm của mình mà muốn đánh thắng kẻ
địch, tự mình không cải tạo được mình, mà muốn cải tạo xã hội, thì thật là vô lý.
Vì vậy, người cách mạng nhất định phải thật thà tự phê bình và kiên quyết sửa
chữa khuyết điểm”. Người cũng nhắc nhở: “Tự phê bình rồi để sửa chữa, để tiến
bộ cho nên phải thật thà, phải triệt để mới có kết quả. Nếu chỉ làm cho qua
chuyện, chỉ có hình thức thì vô ích”. Do vậy, không trung thực trong nhận khuyết
điểm thì không thể sửa chữa khuyết điểm.
 Nghĩa là phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết, vô luận việc gì, đảng viên và cán
bộ phải đặt lợi ích của Đảng ra trước, lợi ích cá nhân ra sau. Nếu lợi ích chung
của Đảng mâu thuẫn với lợi ích riêng của cá nhân, thì phải kiên quyết hy sinh lợi
ích của cá nhân cho lợi ích của Đảng
 Bác Hồ đã sdạy, việc tự gột rửa, tự sửa chữa của mỗi cán bộ, đảng viên phải là
việc làm thường xuyên, liên tục, như rửa mặt hàng ngày. Phải chú ý khắc phục từ
khuyết điểm nhỏ, không để nó lớn thành lỗi, thành sai phạm. Có như vậy mới
tránh được những sai lầm nghiêm trọng!
 Mỗi đảng viên, mỗi cán bộ, cần phải thật thà tự xét và xét đồng chí mình, ai có khuyết
điểm nào, thì phải thật thà cố gắng tự sửa chữa và giúp sửa chữa lẫn nhau. Thang
thuốc hay nhất là thiết thực phê bình và tự phê bình.
 Vì vậy, tự phê bình và phê bình là nguyên tắc sinh hoạt cũng như quy luật tồn tại và
phát triển của Đảng. Làm rõ cơ sở lý luận nguyên tắc tự phê bình và phê bình sẽ giúp
cho toàn Đảng thấm nhuần sâu sắc chủ nghĩa Mác - Lênin, giữ vững vai trò là đội tiền
phong của giai cấp công nhân, đồng thời là vũ khí đấu tranh, phản bác các quan điểm
sai trái, nhằm phủ nhận bản chất của Đảng và xuyên tạc các nguyên tắc tổ chức, xây
dựng Đảng.

Câu 8: Nêu 2 cách nhận xét về Đảng không đúng?


- Vì Đảng ta rất to, người rất đông; mỗi hạng người lại có thói quen, tính nết, trình độ, tư
tưởng, nhận xét khác nhau. Nhất là khi cách mạng phong trào càng sôi nổi, hoàn cảnh
càng khó khăn, thì sự khác nhau đó càng rõ rệt, càng trở nên gay go.
- Từ đó, hình thành hai luồng nhận xét không đúng về Đảng:
 Trong Đảng việc gì cũng tốt, không có khuyết điểm gì đáng lo.
- Trước hết, theo Bác Hồ, trong đấu tranh cách mạng, trong công tác hàng ngày, Đảng ta
cũng như cán bộ, đảng viên của Đảng không tránh khỏi mắc khuyết điểm, sai lầm; điều
quan trọng là thấy rõ khuyết điểm, sai lầm, không giấu giếm và quyết tâm sửa chữa, để
Đảng ta, cán bộ ta tiến bộ mãi. Người chỉ rõ: “Sự thật là: Đảng ta rất tiên tiến, rất vẻ
vang. Nhưng nội bộ vẫn còn những sai lầm và khuyết điểm. Đồng thời, chúng ta thấy cái
nguồn gốc của những sai lầm khuyết điểm đó, và chắc tìm được cách sửa chữa…”
 Trong Đảng cái gì cũng kém, đầy những khuyết điểm, vì vậy mà họ bi quan,
thất vọng.
- Chống phá Đảng Cộng sản Việt Nam là mục tiêu hàng đầu và xuyên suốt của các thế lực
thù địch. Chúng dùng nhiều thủ đoạn tinh vi, tiến hành tác động, phá hoại nội bộ Đảng,
làm giảm uy tín, nhằm đi đến xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã
hội. Tuy nhiên, dù có sử dụng “trăm phương nghìn kế”, các thế lực thù địch cũng không
thể phủ nhận được sự thật hiển nhiên về niềm tin của toàn dân ta đối với Đảng trong công
cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, với những thành tựu to lớn đã được cộng đồng quốc tế
thừa nhận cả trên phương diện lý luận, thực tiễn và lịch sử.
 Thực tiễn cách mạng Việt Nam và những thành quả mà nhân dân ta đạt được,
dưới sự lãnh đạo của Đảng hơn 90 năm qua, đã hoàn toàn bác bỏ quan điểm sai
trái, thù địch cho rằng “Đảng Cộng sản Việt Nam đã hết vai trò lịch sử, không
còn đủ khả năng để lãnh đạo đất nước”.
 “Trong cuộc trường chinh để giành độc lập, tự do cho dân tộc, ở đâu và lúc nào
cũng có Đảng. Đảng đi đầu trong chiến đấu. Đảng xông pha nơi khó khăn. Đảng
gắn bó với nhân dân bằng những gì Đảng đã làm cho sự nghiệp giải phóng đất
nước. Trong giai đoạn mới, Đảng quyết làm tất cả vì sự phồn vinh của Tổ quốc,
vì hạnh phúc của nhân dân” (Trích báo cáo Chính trị của BCHTW Đảng tại Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV).

Câu 9: Nêu 4 thái độ không đúng đối với các khuyết điểm của Đảng?
- Quan điểm của của Chủ tịch Hồ Chí Minh về thái độ đối với khuyết điểm của Đảng và
những cán bộ mắc sai lầm:“Trên con đường phát triển cách mạng của mình, Đảng ta,
quân đội ta cũng như mỗi đồng chí chúng ta luôn luôn có ưu điểm và không trách khỏi
có khuyết điểm. Chỉ có không ngừng đấu tranh, phê bình và tự phê bình, nhận rõ đúng,
sai, phát huy cái đúng, khắc phục cái sai, mới có thể làm cho mình, cho Đảng, cho cách
mạng tiến bộ mãi”.
- Người còn nói: “Người đời ai cũng có khuyết điểm. Có làm việc thì có sai lầm”; “có
hoạt động thì khó mà hoàn toàn tránh khỏi sai lầm. Chúng ta không sợ sai lầm, chỉ sợ
phạm sai lầm mà không quyết tâm sửa chữa”
- Người chỉ ra rằng: “Thái độ mỗi người đối với những khuyết điểm của Đảng ta cũng
khác nhau:
 Bọn phản động thì lợi dụng những khuyết điểm đó và tô vẽ thêm để phá hoại
Đảng ta.
 Lợi dụng những sai lầm và khuyết điểm đó để đạt mục đích tự tư tự lợi của họ.
Đó là thái độ của đảng viên và cán bộ đầu cơ.

“Bọn phản động và bọn đầu cơ là địch nhân lọt vào trong Đảng để phá hoại. Vì
vậy chúng ta phải ra sức đề phòng. Mỗi khi trong Đảng có khuyết điểm thì chúng
ta phải tìm cách chớ để cho ai lợi dụng. Đó là phận sự của mỗi đảng viên chân
chính”.

 Bọn thứ ba thì sao cũng mặc kệ, sao xong chuyện thì thôi. Không phê bình,
không tự phê bình. Đó là thái độ của những đảng viên và cán bộ ươn hèn, yếu ớt.

“Thái độ thứ ba, ai mặc kệ ai, cố nhiên cũng không đúng. Tuy vậy, trong Đảng
còn có nhiều người giữ thái độ đó, nhất là khi cấp dưới đối với cấp trên. Thái độ
đó thường sinh ra thói “không nói trước mặt, hục hặc sau lưng”. Nó gây nên sự
uất ức và không đoàn kết trong Đảng. Nó để cho bọn vu vơ có thể chui vào hoạt
động trong Đảng. Nó để cho khuyết điểm ngày càng chồng chất lại và phát triển
ra.”

 Bọn thứ tư thì đối với những người có khuyết điểm và sai lầm đó, như đối với
hổ mang, thuồng luồng. Họ đòi phải đuổi bọn kia ra khỏi Đảng ngay. Nếu Đảng
không làm như thế thì họ cho rằng: Thôi, hỏng hết rồi! Do đó, họ đâm ra chán nản,
thất vọng. Hoặc họ không làm gì nữa hết. Thậm chí họ bỏ Đảng. Đó là thái độ
những người máy móc quá. Đó cũng là bệnh “chủ quan”.

“Nếu theo thái độ thứ tư thì Đảng chỉ còn một nhóm cỏn con, vì số đông sẽ bị
khai trừ hết. Mà chính những người có thái độ đó cũng bị khai trừ, vì họ đã phạm
cái khuyết điểm hẹp hòi.”

 Bác kết luận rằng: “Trong công tác, trong đấu tranh, trong huấn luyện, các đảng viên,
các cán bộ, cần phải luôn luôn tự hỏi mình, tự kiểm điểm mình và đồng chí mình.
Luôn luôn dùng và khéo dùng cách phê bình và tự phê bình, thì khuyết điểm nhất định
hết dần, ưu điểm nhất định thêm lên và Đảng ta nhất định thắng lợi”.
 Đối với những cán bộ mắc sai lầm, theo Bác cũng phải có thái độ khoa học, cách
mạng, rất độ lượng song cũng rất nghiêm khắc. Người nhấn mạnh: “Chúng ta không
sợ có sai lầm và khuyết điểm, chỉ sợ không chịu cố gắng sửa chữa sai lầm và khuyết
điểm. Và càng sợ những người lãnh đạo không biết tìm cách đúng để giúp cán bộ sửa
chữa sai lầm, khuyết điểm.”

Câu 10: Thái độ đúng đắn khi nhìn về khuyết điểm của Đảng là như thế nào?

- Sinh thời, Bác từng dạy: “Thật thà tự phê bình và thành khẩn tự phê bình là thứ vũ khí
sắc bén nhất để sửa chữa khuyết điểm và phát triển ưu điểm. Vì vậy, chẳng những chúng
ta phải thực hiện mở rộng phê bình và tự phê bình trong Đảng và trong cơ quan chính
quyền, mà chúng ta còn phải hoan nghênh những lời phê bình thật thà của nhân dân”.
“Mục đích phê bình cốt để giúp nhau sửa chữa, giúp nhau tiến bộ. Cốt để sửa đổi cách
làm cho tốt hơn, đúng hơn. Cốt đoàn kết và thống nhất nội bộ”. “Thấy đúng phải bảo vệ,
thấy sai phải đấu tranh” - Một biểu hiện về bản lĩnh người đảng viên.
- Chủ tịch Hồ Chí Minh không đưa ra một định nghĩa riêng về bản lĩnh “thấy đúng phải
bảo vệ, thấy sai phải đấu tranh”, mà tùy điều kiện, hoàn cảnh, đối tượng, Người nêu
những ý kiến cụ thể, những so sánh phù hợp để mọi người dễ hiểu, dễ hình dung thế nào
là bản lĩnh ấy của người đảng viên
- Theo Người, đảng viên có bản lĩnh là những người dũng cảm, gan góc, “... gặp việc phải
có gan làm. Thấy khuyết điểm có gan sửa chữa”, mạnh dạn, thấy đúng phải bảo vệ, thấy
sai phải đấu tranh, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm trước những quyết định
cũng như hành động của mình, nhằm đem lại lợi ích cho tập thể, tổ chức và cho nhân
dân; bởi lẽ, người lãnh đạo có bản lĩnh thì mới dám xây dựng cái mới, xóa bỏ cái cũ lỗi
thời, lạc hậu.
- Tuy nhiên, Người cũng nhấn mạnh, “có gan” không có nghĩa là làm vội, làm ẩu, làm liều;
mà trước khi tiến hành, ta phải xem xét cho rõ ràng mọi mặt, mọi phương diện, trong mọi
mối quan hệ, “... cần phải phân tách rõ ràng cái cớ sai lầm, phải xét kỹ lưỡng việc nặng
hay nhẹ”, tức là phải xem xét toàn diện rồi mới xác định phương pháp tiến hành công
việc, cách thức đấu tranh với sai lầm, khuyết điểm sao cho phù hợp.
 Vì sao thấy đúng phải bảo vệ, thấy sai phải đấu tranh?
- Một mặt, ở phạm vi nhỏ, khi thấy sai không phê bình, không thẳng thắn góp ý, cứ để cho
đồng chí mình sa vào sai lầm sẽ dẫn đến hỏng việc, như vậy chẳng “... khác nào thấy
đồng chí mình ốm, mà không chữa cho họ”
- Mặt khác, gây tác hại ở phạm vi lớn hơn đối với tổ chức đảng, đối với toàn Đảng, khi
những cán bộ, đảng viên với biểu hiện “mũ ni che tai” sẽ “khiến cho Đảng xệch xoạc...
Đảng xa rời dân chúng”, thậm chí những đảng viên này dần dần sẽ sinh ra thói “không
nói trước mặt, hục hặc sau lưng”, dẫn đến “sự uất ức và không đoàn kết trong Đảng... để
cho bọn vu vơ có thể chui vào hoạt động trong Đảng... để cho khuyết điểm ngày càng
chồng chất lại và phát triển ra”, khiến cho quần chúng nhân dân mất lòng tin với Đảng,
dẫn đến giảm sút uy tín, ảnh hưởng đến sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của Đảng.
- Thấy đúng phải bảo vệ, thấy sai phải đấu tranh trở thành tiêu chí phân loại thái độ của
mỗi người đối với khuyết điểm và là thước đo đánh giá đội ngũ cán bộ, đảng viên
 Phân tích rõ ràng, cái gì đúng, cái gì sai.
 Không chịu nổi ảnh hưởng của những chủ trương sai lầm, những phần tử không tốt.
Ra sức học tập và nâng cao những kiểu mẫu tốt.
 Không để mặc kệ. Mà ra sức tranh đấu sửa chữa những khuyết điểm, không để nó
phát triển ra, không để nó có hại cho Đảng.
 Không làm máy móc. Nhưng khéo dùng cách phê bình và tự phê bình để giúp đồng
chí khác sửa đổi những sai lầm và khuyết điểm, giúp họ tiến bộ.
 Đoàn kết Đảng bằng sự tranh đấu nội bộ. Nâng cao kỷ luật và uy tín của Đảng.
 Trong tác phẩm Đường Cách mệnh, Bác so sánh “... một người cách mệnh có
gan, hơn một ngàn người vô chí” để chỉ những người dân Pháp có thể đứng lên
làm cách mạng tư sản Pháp thành công trong khi lương thực ít, súng ống thiếu,
gầy guộc, bụng đói... chỉ bởi họ “có gan”, nghĩa là họ dám hy sinh, dám đấu
tranh
 Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc (tháng 10-1947), lần đầu tiên Chủ tịch Hồ
Chí Minh chính thức phân tích, giải thích và chỉ ra cách xử lý công việc của một
người cán bộ, đảng viên có bản lĩnh: “... cách tổ chức và cách làm việc nào
không hợp với quần chúng thì ta phải có gan đề nghị lên cấp trên để bỏ đi hoặc
sửa lại. Cách nào hợp với quần chúng, quần chúng cần, thì dù chưa có sẵn, ta
phải đề nghị lên cấp trên mà đặt ra”. Nghĩa là, nếu thấy chính sách, cách làm
không hợp thì người cán bộ, đảng viên phải “có gan” đề nghị sửa bỏ, còn khi
thấy chính sách, cách làm đúng và cần thiết thì phải “có gan” đề nghị cấp trên
ban hành để thực hiện; thậm chí, “Nếu cần làm thì cứ đặt ra, rồi báo cáo sau,
miễn là được việc”
 Bác khẳng định: “Đảng ta là một tổ chức rất tiến bộ, đã có những thành tích rất
vẻ vang./ Trong Đảng ta, gồm có những người có tài, có đức. Phần đông những
người hăng hái nhất, thông minh nhất, yêu nước nhất, kiên quyết, dũng cảm nhất
đều ở trong Đảng ta.../ Tuy vậy, không phải là người người đều tốt, việc việc đều
hay”, “Đảng viên và cán bộ cũng là người. Ai cũng có tính tốt và tính xấu”. Từ
đó, Người yêu cầu, mỗi cán bộ, đảng viên luôn có ý thức chăm lo, bồi dưỡng, rèn
luyện bản lĩnh cách mạng để có thể xây dựng đội ngũ đảng viên dám đứng ra đấu
tranh, bảo vệ cái đúng, làm cho phần chính, phần thiện trong mỗi người ngày
càng tăng thêm; để phần tà, phần ác, việc xấu được ngăn chặn và bớt dần.
 “Trong công tác, trong đấu tranh, trong huấn luyện, các đảng viên, các cán bộ,
cần phải luôn luôn tự hỏi mình, tự kiểm điểm mình và đồng chí mình. Luôn luôn
dùng và khéo dùng cách phê bình và tự phê bình, thì khuyết điểm nhất định hết
dần, ưu điểm nhất định thêm lên và Đảng ta nhất định thắng lợi”.
 Trong thực tiễn, kể từ khi Đảng ta được thành lập cho tới nay, Đảng luôn đặc biệt
quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức tiến hành kiểm điểm, tự phê bình và phê
bình. Tại Đại hội IV, Đảng đã chỉ rõ: Tự phê bình và phê bình vừa là một quy
luật, vừa là một phương pháp cơ bản để xây dựng Đảng, chỉnh đốn Đảng. Nhìn
lại lịch sử phát triển của đất nước, có những giai đoạn Đảng ta mắc không ít sai
lầm, khuyết điểm, nhất là giai đoạn từ năm 1976 đến 1986. Tuy nhiên, chính từ
sự dũng cảm nhìn thẳng vào sự thật, nhìn thẳng vào những hạn chế, yếu kém ấy,
với sự thống nhất cao và tập trung trí tuệ, với bản lĩnh của những người cộng sản
chân chính, tại Đại hội VI, Đảng thống nhất phải đẩy mạnh tự phê bình và phê
bình.

Theo đó, Đại hội VI của Đảng xác định: Trong Đảng không thể dung thứ thái độ
che giấu khuyết điểm, thổi phồng thành tích, lừa dối cấp trên, thái độ nể nang
hoặc đàn áp, trả thù người phê bình. Kiên trì thực hiện chủ trương đẩy mạnh tự
phê bình và phê bình, mà trước hết là tự phê bình và phê bình trong nội bộ Đảng;
phát huy, khuyến khích mọi tầng lớp nhân dân tham gia đóng góp ý kiến với thái
độ tiếp thu chân thành, đúng đắn, Đảng không những ngày càng trong sạch, vững
mạnh, mà còn hoàn thành xuất sắc vai trò sứ mệnh lãnh đạo đất nước vượt qua
những khó khăn, trở ngại, đạt được nhiều thành tựu có ý nghĩa lịch sử.

Liên hệ thực tế:

Bằng sự dũng cảm, với tinh thần đẩy mạnh tự phê bình và phê bình, nước ta từ
một nước nghèo lại bị chiến tranh tàn phá rất nặng nề, nhưng chỉ sau hơn 25 năm
thực hiện đường lối đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, nền kinh tế nước ta phát
triển liên tục với tốc độ tương đối cao, tăng trưởng bình quân hằng năm đạt từ 7%
đến 8%. Thu nhập bình quân đầu người tăng gấp gần 11 lần; năm 2008, Việt Nam
đã ra khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp. Cùng với phát triển kinh tế, các chính
sách về an sinh xã hội, thực hiện công bằng xã hội cũng được xây dựng và triển
khai đồng bộ, tạo ra một diện mạo mới, vị thế mới cho đất nước và Việt Nam trở
thành điểm đến an toàn nhất đối với bạn bè trên thế giới.

Nhìn lại chặng đường hơn 25 năm đổi mới vừa qua, chính là nhờ Đảng ta dũng
cảm nhìn thẳng vào sự thật, thấy rõ những hạn chế, yếu kém để tự sửa chữa, tự
chỉnh đốn, nên Đảng giữ được vị trí, vai trò độc tôn lãnh đạo đất nước; hoàn
thành được sứ mệnh lịch sử mà dân tộc đã tin tưởng giao phó, đất nước đạt được
những thành tựu trong phát triển kinh tế, xây dựng đất nước được cả thế giới ca
ngợi và thừa nhận.

You might also like