(TTHCM )CÁC CÂU HỎI TỰ LUẬN THAM KHẢO

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 17

Câu 1: “Chủ nghĩa xã hội, chẳng những bảo đảm cho mọi người đầy đủ và tiến bộ về mặt vật

chất. Nó lại bảo đảm cho sức lực và tài năng của mọi người được phát triển tự do” (Trích: Hồ
Chí Minh, Toàn tập, tập 6, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 287)
Anh (chị) hãy phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về một số đặc trưng cơ bản của Chủ
nghĩa xã hội để làm rõ nhận định trên. Liên hệ thực tiễn xây dựng và phát triển đất
nước Việt Nam hiện nay?.
Bài Làm
“Quan điểm của Hồ Chí Minh về một số đặc trưng cơ bản của xã hội chủ nghĩa”
Là xã hội có bản chất khắc hẳn các xã hội khác đã tồn tại trong lịch sử, xã hội chủ nghĩa
có nhiều đặc trưng; song nếu tiếp cận từ những lĩnh vực lớn của xã hội, xã hội chủ nghĩa có
một số đặc trưng cơ bản sau:
 Thứ nhất, về chính trị: Xã hội chủ nghĩa là xã hội có chế độ dân chủ.
Chế độ dân chủ trong xã hội chủ nghĩa được thực hiện trước hết là xã hội do nhân dân
làm chủ, nhân dân là chủ dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản trên nền tảng liên minh công –
nông. Trong xã hội chủ nghĩa, địa vị cao nhất là nhân dân. Nhà nước là của dân, do dân và vì
dân. Mọi quyền lợi, quyền lực, quần hạn thuộc về nhân dân và mọi hoạt động xây dựng, bảo vệ
đất nước, bảo vệ chế độ xã hội cũng thuộc về nhân dân. Những tư tưởng cơ bản về đặc trưng
chính trị trong xã hội chủ nghĩa nên trên không chỉ cho thấy tính nhân văn cao cả của Hồ Chí
Minh mà còn cho thấy Hồ Chí Minh nhận thức rất sâu sắc sức mạnh, địa vị và vai trò của nhân
dân; về sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hôi khi Đãng lãnh đạo dựa và nhân dân, huy động được
nhân lực, tài lực, trí lực của nhân dân để đem lại lợi ích cho nhân dân.
 Thứ hai, về kinh tế: Xã hội chủ nghĩa là xã hội có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực
lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu.
Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội là chế độ xã hội phát triển cao hơn chủ nghĩa tư bản nên
chủ nghĩa xã hội phải có nền kinh tế phát triển cao hơn nền kinh tế của chủ nghĩa tư bản, đấy là
nền kinh tế dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ sở hữu tư liệu sản xuất tiến bộ.
Lực lượng sản xuất hiện đại trong chủ nghĩa xã hội biểu hiện: Công cụ lao động, phương
tiện lao động trong quá trình sản xuất “đã phát triển dần đến máy móc, sức điện, sức nguyên
tử”. Quan hệ sản xuất trong chủ nghĩa xã hội được Hồ Chí Minh diễn đạt là: Lấy nhà máy, xe
lửa, ngân hàng, v.v. làm của chung; là tư liệu sản xuất thuộc về nhân dân. Đây là tư tưởng Hồ
Chí Minh về chế độ công hữu tư liệu sản xuất chủ yếu trong xã hội xã hội chủ nghĩa.
 Thứ ba, về văn hóa, đạo đức và các quan hệ xã hội: Xã hội chủ nghĩa là xã hội có trình
độ phát triển cao về văn hoá và đạo đức, bảo đảm sự công bằng, hợp lý trong các quan
hệ xã hội.
Văn hóa và đạo đức thể hiện ở tất cả các lĩnh vực của đời sống song trước hết là ở các
quan hệ xã hội. Sự phát triển cao về văn hóa và đạo đức của xã hội chủ nghĩa thể hiện: xã hội
không còn hiện tượng người bóc lột người; con người được tôn trọng, được đảm bảo đối xử
công bằng, bình đẳng và các dân tộc đoàn kết, gắn bó với nhau.
Chủ nghĩa xã hội là cơ sở, là tiền đề để tiến tới chế độ xã hội hòa bình, đoàn kết, ấm no, tự
do, hạnh phúc, bình đẳng, bác ái, việc làm cho mọi người và vì mọi người; không còn phân biệt
chủng tộc, không còn vách tường dài ngăn cản những người lao động hiểu nhau và thương yêu
nhau.
Chủ nghĩa xã hội bảo đảm tính công bằng và hợp lý trong các quan hệ xã hội.

 Thứ tư, về chủ thể xây dựng chủ nghĩa xã hội: Chủ nghĩa là công trình tập thể của nhân
dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Từ xã hội chiếm hữu nô lệ đến xã hội tư bản chủ nghĩa, cuộc đấu tranh của người lao động
luôn diễn ra ngày càng quyết liệt nhằm thủ tiêu chế độ người bóc lột người. Trong chế độ xã
hội chủ nghĩa – chế độ của nhân dân, do nhân dân làm chủ, lợi ích của cá nhân gắn liền với lợi
ích của chế độ xã hội nên chính nhân dân là chủ thể, là lực lượng quyết định tốc độ xây dựng và
sự vững mạnh của chủ nghĩa xã hội. Trong sự nghiệp xây dựng này, Hồ Chí Minh khẳng định
“Cần có sự lãnh đạo của một đảng cách mạng chân chính của giai cấp công nhân, toàn tâm
toàn ý phục vụ nhân dân”. Chỉ có sự lãnh đạo của một đảng biết vận dụng một cách sáng tạo
chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước mình thì mới có thể đưa cách mạng giải
phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa đến thành công.
 Thực tiễn xây dựng và phát triển đất nước Việt Nam hiện nay
-Giá trị lý luận và thực tiễn của quan điểm của Hồ Chí Minh CNXH ở Việt Nam:
+ Quan điểm của Hồ Chí Minh CNXH ở Việt Nam là một đề tài lý luận và thực tiễn rất cơ
bản, quan trọng, nội dung rất rộng lớn, phong phú và phức tạp, có nhiều cách tiếp cận khác
nhau, đòi hỏi phải có sự nghiên cứu rất công phu, nghiêm túc, tổng kết thực tiễn một cách sâu
sắc, khoa học.
+ Bằng kinh nghiệm thực tiễn phong phú của mình kết hợp với lý luận cách mạng, khoa học
của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã đưa ra kết luận sâu sắc rằng, chỉ có chủ nghĩa xã
hội và chủ nghĩa cộng sản mới có thể giải quyết triệt để vấn đề độc lập cho dân tộc, mới có thể
đem lại cuộc sống tự do, ấm no và hạnh phúc thực sự cho tất cả mọi người, cho các dân tộc.
+Cả lý luận và thực tiễn đều cho thấy, xây dựng chủ nghĩa xã hội là kiến tạo một kiểu xã
hội mới về chất, hoàn toàn không hề đơn giản, dễ dàng. Đây là cả một sự nghiệp sáng tạo vĩ
đại, đầy thử thách, khó khăn, một sự nghiệp tự giác, liên tục, hướng đích lâu dài, không thể
nóng vội.
Vì vậy, bên cạnh việc xác định chủ trương, đường lối đúng, bảo đảm vai trò lãnh đạo của
Đảng, phải phát huy mạnh mẽ vai trò sáng tạo, sự ủng hộ và tham gia tích cực của nhân dân.
Nhân dân tiếp nhận, ủng hộ và nhiệt tình tham gia thực hiện đường lối của Đảng vì thấy đường
lối đó đáp ứng đúng yêu cầu, nguyện vọng của mình. Sức mạnh nhân dân là cội nguồn sâu xa
của thắng lợi, của phát triển. Đây là sự lựa chọn của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.
+ Mặt khác, Đảng lãnh đạo và cầm quyền, trong khi xác định phương hướng chính trị và đề
ra quyết sách, không thể chỉ xuất phát từ thực tiễn của đất nước và dân tộc mình, mà còn phải
nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm từ thực tiễn của thế giới và thời đại.
- Quá trình thực hiện mục tiêu CNXH ở nước ta đạt được thành tựu nhưng vẫn còn khó khăn,
thách thức:
+Thành tựu: Đem lại những chuyển biến rõ rệt, hết sức sâu sắc và hết sức tích cực ở Việt
Nam. Với sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân với đường lối đúng đắn, sáng tạo, đất nước ta đã
giành nhiều thành tựu to lớn. Đại hội VIII của Đảng (1996) nhận định: "… Nước ta đã ra khỏi
khủng hoảng kinh tế - xã hội nhưng còn một số mặt chưa vững chắc. Nhiệm vụ đề ra cho chặng
đường đầu của thế kỷ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.
+Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được xác định rõ hơn"
+Kinh tế phát triển, lực lượng sản xuất được tăng cường; nghèo đói giảm nhanh, liên tục;
đời sống nhân dân được cải thiện, nhiều vấn đề xã hội được giải quyết; chính trị, xã hội ổn
định, quốc phòng, an ninh được bảo đảm; đối ngoại và hội nhập quốc tế ngày càng được mở
rộng; thế và lực của quốc gia được tăng cường; niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của
Đảng được củng cố.
+ Chúng ta không chỉ tăng trưởng kinh tế mà còn giải quyết được nhiều vấn đề xã hội tốt
hơn nhiều so với các nước tư bản chủ nghĩa có cùng mức phát triển kinh tế.
Đạt được thành tựu trên là do Đảng ta có bản lĩnh chính trị vững vàng và đường lối lãnh
đạo đúng đắn; Nhà nước ta có cố gắng lớn trong việc quản lý điều hành; toàn dân tộc đã phát
huy lòng yêu nước, tinh thần dũng cảm, đoàn kết nhất trí, cần cù, năng động, sáng tạo…
VD: Những thanh công đạt được trong việc hỗ trợ người dân chăm lo sức khỏe, phát triển
kinh tế, ổn định đời sống của Việt Nam trong bối cảnh đại dịch Covid-19 và suy thoái kinh tế
toàn cầu bắt đầu từ đầu năm 2020 được nhân dân và bạn bè quốc tế ghi nhận, đánh giá cao, thể
hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
+Tuy nhiên, bên cạnh đó chúng ta còn những khó khăn và thách thức:
+ Về kinh tế: chất lượng tăng trưởng, sức cạnh tranh còn thấp, thiếu bền vững; kết cấu hạ
tầng thiếu đồng bộ; hiệu quả và năng lực của nhiều doanh nghiệp, trong đó có doanh nghiệp
nhà nước còn hạn chế; môi trường bị ô nhiễm tại nhiều nơi; công tác quản lý, điều tiết thị
trường còn nhiều bất cập. Trong khi đó, sự cạnh tranh đang diễn ra ngày càng quyết liệt trong
quá trình toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế.
+ Về xã hội: khoảng cách giàu nghèo gia tăng; chất lượng giáo dục, chăm sóc y tế và nhiều
dịch vụ công ích khác còn không ít hạn chế; văn hoá, đạo đức xã hội có mặt xuống cấp; tội
phạm và các tệ nạn xã hội diễn biến phức tạp. Đặc biệt, tình trạng tham nhũng, lãng phí, suy
thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống vẫn diễn ra trong một bộ phận cán bộ, đảng
viên. Trong khi đó, các thế lực xấu, thù địch lại luôn tìm mọi thủ đoạn để can thiệp, chống phá,
gây mất ổn định, thực hiện âm mưu "diễn biến hoà bình" nhằm xóa bỏ chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam.

Câu 2: Khi nói về công lao của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với lịch sử dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí
Minh khẳng định:
“Đảng ta là đạo đức, là văn minh,
Là thống nhất, độc lập, là hoà bình ấm no. Công ơn Đảng thật là to,
Ba mươi năm lịch sử Đảng là cả một pho lịch sử bằng vàng”
(Trích: Hồ Chí Minh toàn tập, tập 12, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr 404)
Anh (chị) hãy phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về Đảng là đạo đức, là văn minh để làm
rõ nhận định trên. Liên hệ với thực tiễn lãnh đạo của Đảng trong xây dựng, phát triển đất nước
Việt Nam?.
Bài Làm
 Đảng là đạo đức, là văn minh
Trong bài nói tại Lễ Kỷ niệm 30 năm Ngày thành lập Đảng (năm1960), Hồ Chí Minh cho
rằng: “Đảng ta là đạo đức, là văn minh” . Hồ Chí Minh coi đạo đức là cách mạng là gốc, là nền
tảng của người cách mạng. Theo Hồ Chí Minh, đạo đức của Đảng thể hiện trên những điểm sau
đây:
- Mục đích hoạt động của Đảng là lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng xã hôi,
giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Đó là sự nghiệp cách mạng theo chủ nghĩa Mác-
Lênin, làm cho dân tộc được độc lập, nhân dân có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc thực
sự, đoàn kết hữu nghị với các dân tộc trên thế giới.
- Cương lĩnh, đường lối, chủ trương và mọi hoạt động thực tiễn của Đảng đều phải
nhằm mục đích đó. Đảng phải luôn luôn trung thành với lợi ích toàn dân tộc vì Đảng không có
mục đích riêng; sự ra đời và phát triển của Đảng đều vì mục đích làm cho đất nước hùng cường
đi lên chủ nghĩa xã hội, đưa lại quyền lợi cho dân.
- Đội ngũ đảng viên phải luôn luôn thấm nhần đạo đức cách mạng, ra sức tu dưỡng, rèn
luyện, suốt đời phần đấu cho lợi ích của dân, của nước. Do vậy, một trong những biểu hiện rõ
nhất của Hồ Chí Minh về rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam để cho Đảng trở thành Đảng của
đạo đức, của văn minh là Người “rèn” đạo đức cán bộ, đảng viên. Hồ Chí Minh nhấn mạnh,
đảng viên càng phải là những người có lòng nhân ái; “phải có tình đồng chí thương yêu
nhau”; trung với Đảng, trung với nước, hiếu với dân; có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính và
luôn luôn chí công vô tư; có tinh thần quốc tế trong sáng. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: Đảng “là
Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, nghĩa là những người thợ thuyền, dân cày
và lao động trí óc kiên quyết nhất, hăng hái nhất, trong sạch nhất, tận tâm tận lực phụng sự Tổ
quốc và nhân dân.
Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam thành một Đảng có đạo đức cách mạng về ý nghĩa cơ
bản mà xét, cũng tức là xây dựng Đảng để Đảng trở thành một Đảng văn minh, hoặc Hồ Chí
Minh hay gọi đó là “một Đảng cách mạng chân chính”. Điều này thể hiện ở những nội dung
chủ yếu sau đây:
- Đảng là một Đảng tiêu biểu cho lương tâm, trí tuệ và danh dự của dân tộc.
- Đảng ra đời là một tất yêu, phù hợp với quy luật phát triển văn minh tiến bộ của dân
tộc và nhân loại. Mọi hoạt động của Đảng đều xuất phát từ yêu cầu phát triển của dân tộc, lấy
lợi ích tối cao của dân tộc làm trọng, mọi lợi ích giai cấp đều phải đặt dưới sự phát triển cảu
dân tộc; mọi hoạt động của Đảng đều phải phù hợp với quy luật vận động của xã hội Việt Nam.
- Đảng phải luôn luôn trong sạch, vững mạnh, làm tròn sứ mệnh lịch sử do nhân dân,
dân tộc giao phó là lãnh đạo giành độc lập cho Tổ quốc và đưa lại tự do, ấm no, hạnh phúc cho
nhân dân. Trong giai đoạn Đảng cầm quyền, Hồ Chí Minh càng chú trọng hơn việc phòng
chống các tiêu cực trong Đảng.
- Xây dựng Đảng văn minh còn thể hiện trong giai đoạn cầm quyền, Đảng hoạt động
trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật, Đảng không phải là tổ chức đứng trên dân tộc.
- Đảng văn minh còn là ở chỗ đội ngũ đảng viên, từ những đảng viên giữ chức vụ lãnh
đạo, quản lý trong bộ máy Đảng, Nhà nước, các đoàn thể quần chúng nhất là những đảng viên
giữ vị trí lãnh đạo, quản lý chủ chốt, cho đến đảng viên không giữ chức vụ lãnh đạo, quan lý
phải là những chiến sĩ tiên phong, gương mẫu trong công tác và cuộc sống hàng ngày.
- Đảng văn minh phải là Đảng có quan hệ quốc tế trong sáng, hoạt động không những
vì lợi ích dân tộc Việt Nam mà còn vì độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của các
quốc gia khác; vì hòa bình, hữu nghĩ, hợp tác cùng phát triển của các dân tộc trên thế giới.
Nếu Đảng không đạo đức, văn minh thì Đảng sẽ bị mất quyền lãnh đạo và khi đó Đảng
chứng tỏ là một tổ chức không trong sạch, vững mạnh, đội ngũ cán bộ, đảng viên thoái hóa,
biến chất. Như vậy, xây dựng Đảng để cho Đảng xứng đáng là Đảng đạo đức, văn minh là một
nội dung đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam, là bước phát triển
sáng tạo của Người so với lý luận của V.I.Lênin về đảng kiểu mới của giai cấp vô sản.
 Thực tiễn lãnh đạo của Đảng trong xây dựng, phát triển đất nước Việt Nam
“Đảng ta không dung tha cho những kẻ “đội lốt”, “mang danh đảng viên” để hại dân, hại
nước, chống phá Đảng và chế độ; Đảng không chấp nhận “trường hợp ngoại lệ”, xử lý
nghiêm minh những kẻ sâu mọt, thoái hóa, biến chất, bất liêm, bất chính, dù ở cương vị nào.
Đó là danh dự, lương tâm, trách nhiệm và là thước đo giá trị của một Đảng cầm quyền chân
chính, “mạnh khỏe, chắc chắn, tiến bộ”.
Tại phiên khai mạc Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, tổng kết nhiệm kỳ Đại hội XII và
nhìn lại 35 năm đổi mới, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng nêu rõ, 5 năm qua,
nắm bắt thuận lợi, thời cơ, vượt qua khó khăn, thách thức, nhất là tác động của dịch bệnh và
thiên tai liên tiếp xảy ra, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã phát huy tinh thần yêu nước,
đoàn kết, ý chí quyết tâm, bản lĩnh, sáng tạo, nỗ lực phấn đấu đạt được nhiều thành tựu rất quan
trọng, khá toàn diện, tạo nhiều dấu ấn nổi bật; đất nước phát triển nhanh và bền vững; củng cố,
nâng cao niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế nước ta duy trì được tốc độ tăng trưởng bình quân khá cao (khoảng 5,9%). Nhiều
khó khăn, vướng mắc, hạn chế, yếu kém từ các năm trước đã được tập trung giải quyết và đạt
những kết quả bước đầu. Chất lượng tăng trưởng được cải thiện. Kỷ luật, kỷ cương tài chính-
ngân sách được tăng cường. Huy động vốn đầu tư toàn xã hội tăng mạnh, hiệu quả sử dụng
được nâng lên. Cán cân thương mại được cải thiện, xuất khẩu tăng nhanh.
Theo Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng, năm 2020, trong bối cảnh đại dịch
COVID-19 tác động mạnh đến nước ta, gây nhiều thiệt hại về kinh tế - xã hội, nhưng với sự
nỗ lực cố gắng vượt bậc, đất nước đã đạt được những kết quả, thành tích đặc biệt hơn so với
các năm trước. Trong khi kinh tế thế giới suy thoái, tăng trưởng âm gần 4%, kinh tế nước ta
vẫn đạt mức tăng trưởng 2,91%, là một trong những nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao nhất
thế giới.
Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa; sự lãnh
đạo nhạy bén, đúng đắn của Đảng; sự chỉ đạo, điều hành quyết liệt, kịp thời của Chính phủ; sự
vào cuộc đồng bộ, tích cực của cả hệ thống chính trị; sự đồng tình, hưởng ứng, ủng hộ mạnh
mẽ của nhân dân cả nước và đồng bào ta ở nước ngoài, chúng ta đã kịp thời khống chế, cơ bản
kiểm soát, ngăn chặn được sự lây lan của đại dịch COVID-19 trong cộng đồng.
Những thành tựu đó là sản phẩm kết tinh sức sáng tạo, là kết quả của cả một quá trình nỗ
lực phấn đấu bền bỉ, liên tục qua nhiều nhiệm kỳ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân; tiếp tục
khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta là đúng đắn, phù hợp với quy luật
khách quan, với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; đường lối đổi mới của
Đảng ta là đúng đắn. Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của
cách mạnh Việt Nam.
Cương lĩnh chính trị của Đảng tiếp tục là ngọn cờ tư tưởng, lý luận dẫn dắt dân tộc ta vững
vàng, tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; là nền tảng để Đảng ta hoàn
thiện đường lối xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới.

Câu 3: Khi bàn về đạo đưc, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đạo đức cách mạng không phải từ trên trời sa xuống.
Nó do đấu tranh rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng
sáng, vàng càng luyện càng trong” (Trích: Hồ Chí Minh toàn tập, tập 9, Nxb. Chính trị quôc gia, Hà
Nội, 2011, tr 293)
Anh (chị) hãy phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về các nguyên tắc xây dựng đạo đưc cách
mạng để làm rõ nhận định trên. Từ đó rút ra bài học trong việc rèn luyện, tu dưỡng đạo đưc bản
thân.
Bài Làm

Các nguyên tắc xây dựng đạo đưc cách mạng:


Nói đi đôi với làm, nêu gương về đạo đức
Nói đi đôi với làm, là nét đẹp trong đạo đưc truyền thông của dân tộc được Hồ Chí Minh
nâng lên một tầm cao mới, Người coi đây là nguyên tắc quan trọng bậc nhất trong xây dựng nền
đạo đưc mới. Nguyên tắc cơ bản này là sự thông nhất giữa lý luận và thực tiễn, nó đã trở thành
phương pháp luận trong cuộc sông và là nền tảng triết lý sông hết sưc bình dị mà vô cùng
sâu sắc của Người. Trong tác phẩm Đường cách mênh, khi đề cập đến tư cách của một
người cách mệnh, Hồ Chí Minh yêu cầu: “nói thì phải làm”; trong bài Nâng cao đạo đức cách
mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, Người viết “đảng viên đi trước, làng nước theo sau”. Trong
suôt cuộc đời mình, Hồ Chí Minh đã giáo dục mọi người và chính Người đã thực hiện điều đó
một cách nghiêm túc và đầy đủ nhất.
Nêu gương về đạo đức là một nét đẹp của truyền thông văn hóa phương Đông. Để đạo đưc
cách mạng thấm sâu, bám chắc vào đời sông xã hội và trở thành nền tảng tinh thần của nhân
dân lao động, Hồ Chí Minh đòi hỏi cán bộ, đảng viên: “Trước hết, mình phải làm gương, gắng
làm gương trong anh em, và khi đi công tác, gắng làm gương cho dân. Làm gương về cả ba mặt:
Tinh thần, vật chất và văn hóa”. Sự gương mẫu của cán bộ, đảng viên trong lời nói và việc làm
không chỉ là cách thưc để giáo dục đạo đưc cho quần chúng, mà còn là một phương pháp để tự
giáo dục bản thân mình. Lời nói đi đôi với việc làm phải gắn liền với nêu gương về đạo đưc.
Theo Hồ Chí Minh, hơn bất cư một lĩnh vực nào khác, trong việc xây dựng một nền đạo đưc
mới, đạo đưc cách mạng phải đặc biệt chú trọng “đạo làm gương”. Muôn làm được như vậy,
phải chú ý phát hiện, xây dựng những điển hình “người tôt, việc tôt” rất gần gũi trong đời
thường, trong các lĩnh vực lao động, sản xuất, chiến đấu, học tập…bởi vì, theo Người: “Từng
giọt nước nhỏ thấm vào lòng đất, chảy về một hướng mới thành suôi, thành sông, thành biển
cả”. Không nhận thưc được điều này là “chỉ thấy ngọn mà quên mất gôc”. Người nói: “Người
tôt, việc tôt” nhiều lắm. Ở đâu cũng có. Ngành, giới nào, địa phương nào, lưa tuổi nào cũng
có”.
Xây đi đôi với chống
Hồ Chí Minh cho rằng, nguyên tắc xây đi đôi với chông là đòi hỏi của nền đạo đưc mới, thể
hiện tính nhân đạo chiến đấu vì mục tiêu của sự nghiệp cách mạng; xây tưc là xây dựng các giá
trị, các chuẩn mực về đạo đưc mới; chống là chông các biểu hiện, các hành vi vô đạo đưc.
Để xây dựng một nền đạo đưc mới, cần phải kết hợp chặt chẽ giữa xây và chông. Trong đời
sông hằng ngày, những hiện tượng tôt - xấu, đúng – sai, cái đạo đưc và cái vô đạo đưc thường
đan xen nhau, đôi chọi nhau thông qua hành vi của những con người khác nhau, thậm chí trong
mỗi con người. “Không có ai cái gì cũng tôt, cái gì cũng hay”. Chính vì vậy, việc xây và chông
trong lĩnh vực đạo đưc rõ ràng không đơn giản.
Xây phải đi đôi với chông, muôn xây phải chông, chông nhằm mục đích xây, lấy xây làm
chính.
Vấn đề quan trọng trong việc giáo dục đạo đưc là phải khơi dậy ý thưc đạo đưc lành mạnh ở
mỗi người, để mọi người tự giác nhận thưc được trách nhiệm đạo đưc của mình và như Hồ Chí
Minh đã nói, cảm nhận thấy sâu sắc và trau dồi đạo đưc cách mạng là việc làm “sung sướng và
vẻ vang nhất trên đời”. Tiếp nhận sự giáo dục đạo đưc là vấn đề nhất thiết không thể thiếu
được, nhưng sự tự giáo dục, tự trau dồi đạo đưc ở mỗi người còn quan trọng hơn.Xây dựng
đạo đưc mới, đạo đưc cách mạng phải được tiến hành bằng việc giáo dục những phẩm chất,
những chuẩn mực đạo đưc mới. Việc giáo dục đạo đưc mới phải được tiến hành phù hợp với
từng giai đoạn cách mạng, phù hợp với từng lứa tuổi, ngành nghề, giai cấp, tầng lớp và trong
từng môi trường khác nhau; phải khơi dậy được ý thưc đạo đưc lành mạnh ở mỗi người. Bản
thân sự tự giác cũng là một phẩm chất đạo đưc cao quý đôi với mỗi người và mỗi tổ chưc, trước
hết là đôi với đảng viên, cán bộ.
Hồ Chí Minh cho rằng, trên con đường đi tới tiến bộ và cách mạng, đạo đưc mới chỉ có thể
được xây dựng thành công trên cơ sở kiên trì mục tiêu chông chủ nghĩa đế quôc, chông những
thói quen và tập tục lạc hậu, phải loại trừ chủ nghĩa cá nhân. Đây thực sự là một cuộc cách
mạng khó khăn, lâu dài, gian khổ, sâu sắc giữa tiến bộ và lạc hậu, giữa cách mạng và phản
cách mạng.
Tu dưỡng đạo đức suốt đời
Theo Hồ Chí Minh, tu dưỡng đạo đưc như một cuộc cách mạng trường kỳ, gian khổ. Một
nền đạo đưc mới chỉ có thể được xây dựng trên cơ sở tự giác tu dưỡng đạo đưc của mỗi người.
Hồ Chí Minh hằng quan tâm, phải làm thế nào đó để mỗi người tự nhận thấy sâu sắc việc trau
dồi đạo đưc cách mạng là một việc “sung sướng vẻ vang nhất trên đời”. Người nhắc lại luận
điểm của Khổng Tử “chính tâm, tu thân”; “tề gia, trị quôc, bình thiên hạ”, và nêu rõ: “Chính
tâm tu thân tưc là cải tạo. Cải tạo cũng phải trường kỳ gian khổ, vì đó là một cuộc cách mạng
trong bản thân của mỗi người. Bồi dưỡng tư tưởng mới để đánh thắng tư tưởng cũ, đoạn
tuyệt với con người cũ để trở thành con người mới không phải là một việc dễ dàng… Dù khó
khăn gian khổ, nhưng muôn cải tạo thì nhất định thành công”.
Đạo đưc cách mạng là đạo đưc dấn thân, đạo đưc trong hành động vì độc lập tự do của dân
tộc, hạnh phúc của nhân dân. Chỉ có trong hành động, đạo đưc cách mạng mới bộc lộ rõ những
giá trị của nó. Do vậy, đạo đưc cách mạng đòi hỏi mỗi người phải tự giác rèn luyện thông qua
các hoạt động thực tiễn, trong công việc, trong các môi quan hệ của mình, phải nhìn thẳng vào
mình, không tự lừa dôi, huyễn hoặc; phải thấy rõ cái hay, cái tốt, cái thiện của mình để phát huy
và thấy rõ cái dở, cái xấu, cái ác của mình để khắc phục; phải kiên trì rèn luyện liên tục, tu
dưỡng suôt đời, trong đó, thời tuổi trẻ đặc biệt quan trọng. Đạo đưc không phải là cái gì đó có
tính “nhất thành bất biến”, mà nó được hình thành, phát triển do hoàn cảnh giáo dục, do sự rèn
luyện, phấn đấu và tu dưỡng bản thân của mỗi người. Từ thực tiễn, Người tổng kết sâu sắc: “Đạo
đưc cách mạng không phải trên trời sa xuông. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà
phát triển và củng cô. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”. Do vậy,
Hồ Chí Minh đòi hỏi mọi người phải thường xuyên được giáo dục và tự giáo dục về mặt đạo
đưc.
Liên hệ bản thân:
Học tập tư tưởng đạo đưc Hồ Chí Minh còn là phải học tấm gương về chủ nghĩa yêu nước kết
hợp với chủ nghĩa quôc tế trong sáng Hồ Chí Minh chẳng những là một nhà yêu nước vĩ đại,
mà còn là một chiến sĩ kiên cường của phong trào cộng sản quôc tế và phong trào giải phóng
dân tộc trong thế kỷ XX. Hồ Chí Minh thường dạy chúng ta phải chăm lo bảo vệ sự đoàn kết
quôc tế, vì sự nghiệp của cách mạng Việt Nam, vì nghĩa vụ cao cả đôi với cách mạng thế giới.
Do vậy, sinh viên rất cần phải học tập phẩm chất đạo đưc kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân
chính với tinh thần quôc tế trong sáng. Thanh niên, sinh viên phải ra sưc trau dồi đạo đưc trở
thành những con người làm chủ đất nước, đoàn kết thành một khôi, quyết làm tròn nghĩa vụ cao
cả vì độc lập, tự do của Tổ quôc, vì hạnh phúc của nhân dân và góp phần xưng đáng vào sự
nghiệp cách mạng của nhân dân thế giới.
Bản thân em là một sinh viên quyết tâm học tập rèn luyện và làm theo tư tưởng, đạo đưc,
phong cách Hồ Chí Minh, thi đua học tập, rèn luyện, vì ngày mai lập nghiệp, xây dựng đất
nước giàu mạnh, văn minh, sánh vai với các cường quôc năm châu như Hồ Chí Minh hằng
mong muôn.

Câu 4: Nhân dịp kỷ niệm 131 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890 - 19/5/2021), Tổng
Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng khẳng định: "Đi
lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt
Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử" (Nguồn: “Một số vấn đề
lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”).
Anh (chị) hãy phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về mục tiêu của Chủ nghĩa xã hội để làm
rõ nhận định trên. Liên hệ với thực tiễn xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay?
Bài Làm
Quan điểm của Hồ Chí Minh về xã hội XHCN là xã hội ở giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ
nghĩa. Mặc dù còn tồn đọng tàn dư của xã hội cũ nhưng xã hội XHCN không còn áp bức, bóc lột,
xã hội do nhân dân lao động làm chủ, trong đó con người sống ấm no, tự do hành phú, quyền lợi
của cá nhân và tập thể vừa thống nhất, vừa gắn bó chặt chẽ với nhau.
Theo HCM tiến lên CNXH là một quá trình tất yếu tuân theo những quy luật khách quan tùy
bối cảnh mà tuân theo những quy luật khác nhau.
Nội dụng quan điểm về mục tiêu XHCN ở VN:
Mục tiêu về chế độ chính trị: Phải xây dàng được chế độ dân chủ. Chế độ dân chủ trong
mục tiêu của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam được Hồ Chí Minh khẳng định và giải thích: “Chế độ ta
là chế độ dân chủ. Tức là nhân dân làm chủ”, “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì
dân là chủ”.
Khi khẳng định “dân làm chủ” và “dân là chủ”, Hồ Chí Minh đã khẳng định quyền lợi và quyền
hạn, trách nhiệm và địa vị của nhân dân. Người chỉ rõ: Tất cả lợi ích đều vì dân, tất cả quyền hạn
đểu của dân, công cuộc đổi mới là trách nhiệm của dân, sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước là
công việc của dân, các cấp chính quyền do dân cử ra, các tổ chức đoàn thể do dân tổ chức nên. Nói
tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân.
Mục tiêu về kinh tế: Phải xây dựng được nền kinh tế phát triển cao gắn bó mật thiết với mục
tiêu về chính trị.
Khái quát mục tiêu về kinh tế của chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Hồ Chí Minh xác
định: Đây phải là nền kinh tế phát triển cao “với công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa học kỹ
thuật tiên tiến”, là “một nền kinh tế thuần nhất, dựa trên chế độ sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể.
Mục tiêu này phải gắn bó chặt chẽ với mục tiêu về chính trị vì “Chế độ kinh tế và xã hội của chúng
ta nhằm thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, trên cơ sở kinh tế xã hội chủ nghĩa ngày
càng phát triển”. Theo Người, kinh tế quốc doanh lãnh đạo nền kinh tế quốc dân và kinh tế hợp tác
xã là hình thức sở hữu tập thể của nhân dân lao động nên Nhà nước phải đảm bảo ưu tiên cho kinh
tế quốc doanh phát triển và phải đặc biệt khuyến khích, hướng dẫn, giúp đỡ kinh tế hợp tác xã.
Mục tiêu về văn hoá: Phải xây dựng được nền văn hóa mang tính dân tộc, khoa học, đại
chúng và tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại.

Hồ Chí Minh cho rằng mối quan hệ giữa văn hóa với chính trị và kinh tế là mối quan hệ biện
chứng. Chế độ chính trị và kinh tế của xã hội là nền tảng và quyết định tính chất của văn hóa; còn
văn hóa góp phần thực hiện mục tiêu của chính trị và kinh tế. Người đã từng nói: “Xã hội thế nào,
văn nghệ thế ấy”; “Muốn tiến lên CNXH phải phát triển kinh tế và văn hóa. Vì sao không nói phát
triển văn hóa và kinh tế. Tục ngữ có câu: có thực mới vực được đạo, vì thế kinh tế phải đi trước”.
Về vai trò của văn hóa, Người khẳng định: Trình độ văn hóa nâng cao sẽ góp phần phát triển dân
chủ, góp phần xây dựng nước ta thành một nước hòa bình, thống nhất độc lập, dân chủ và giàu
mạnh; nền văn hóa phát triển là điều kiện cho nhân dân tiến bộ.
Mục tiêu về quan hệ xã hội: Phải bảo đảm dân chủ, công bằng, văn minh.

Chế độ xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là chế độ “dân làm chủ”,”dân là chủ” nên theo
Hồ Chí Minh, với tư cách làm chủ, là chủ của đất nước, nhân dân phải làm tròn nhiệm vụ của người
chủ để xây dựng chủ nghĩa xã hội, trong đó mọi người đều có quyền làm việc; có quyền nghỉ ngơi;
có quyền học tập; có quyền tự do thân thể; có quyền tự do ngôn luận, báo chí, hội họp, lập hội, biểu
tình; có quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, có quyền bầu cử, ứng cử.
Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước đảm bảo quyền tự do dân chủ cho công dân,
nhưng nghiêm cấm lợi dụng các quyền tự do dân chủ để xâm phạm đến `lợi ích của Nhà nước, của
nhân dân.
Những tư tưởng trên biểu hiện xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là xã hội dân
chủ, công bằng, văn minh, tôn trọng con người, chú ý xem xét những lợi ích cá nhân đúng đắn
và bảo đảm cho nó được thỏa mãn để mỗi người có điều kiện cải thiện đời sống riêng của
mình, phát huy tính cách riêng và sở trường riêng của mình trong sự hài hòa với đời sống
chung, lợi ích chung của tập thể.
Liên hệ :
Giá trị lý luận và thực tiễn của quan điểm của Hồ Chí Minh về CNXH ở Việt Nam

Quá trình thực hiện muc tiêu chủ nghĩa xã hội ở nước ta đạt được thành tựu những vẫn còn khó
khăn, thách thức
Tính chất của thời kì quá độ: Đây là thời kì cải biến sâu sắc nhất nhưng phức tạp, lâu dài, khó
khăn, gian khổ.
Mặc dù cách mạng tháng Tám đã thành công, nhưng chúng ta vẫn phải đối mặt với nhiều khó
khăn thách thức:
-Nạn đói: Hậu quả nạn đói năm 1945 vẫn chưa khắc phục, giá cả sinh hoạt đắt đỏ
-Nạn dốt: Hơn 90% dân số không biết chữ. Các tệ nạn xã hội như mê tín dị đoan, rượu chè, cờ bạc…tràn
lan.
-Tài chính: Ngân sách cạn kiệt quân Tưởng đưa vào lưu hành đồng “Quốc tệ”, “Quan kim” làm rối loạn
nền tài chính nước ta.
-Giặc ngoại xâm: Miền Bắc (từ vĩ tuyến 16 trở ra) hơn 20 vạn quân Tưởng và các đảng phái tay sai của
chúng tràn vào nước ta với mưu đồ tiêu diệt đảng Cộng Sản Đông Dương. Miền Nam (từ vĩ tuyến 16
trở vào) quân đội Anh đã dọn đường cho thực dân Pháp quay trở lại xâm lược Việt Nam. Các lực
lượng phản động thân Pháp hoạt động trở lại và chống phá cách mạng.
Tính phức tạp, khó khăn của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta còn do hậu quả nặng
nề của 30 năm chiến tranh ác liệt, những hậu quả ấy không thể nào khắc phục nhanh chóng được.
Những âm mưu và hành động thù địch của chủ nghĩa đế quốc và những lực lượng phản động đang
tìm cách ngăn cản bước tiến hành của chúng ta.
Câu 5:

Hồ Chí Minh từng nói:

“Trời có bốn mùa xuân, hạ, thu, đông Đất có bốn

phương đông, tây, nam, bắc

Người có bốn đức cần, kiệm, liêm, chính Thiếu một mùa

thì không thành trời

Thiếu một phương thì không thành đất Thiếu một đức
thì không thành người”.

(Nguồn: Hồ Chí Minh toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 117).

Anh (chị) hãy phân tích đoạn thơ trên để làm rõ quan điểm của Hồ Chí Minh về cần, kiệm,
liêm, chính, chí công vô tư. Từ đó liên hệ với việc rèn luyện, tu dưỡng đạo đức của bản thân
sinh viên?
Bài Làm
Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là nội dung cốt lõi của đạo đức cách mạng, đó là phẩm
chất đạo đức gắn liền với hoạt động hằng ngày của mỗi người. Vì vậy, Hồ Chí Minh đã đề cập
phẩm chất này nhiều nhất, thường xuyên nhất, phản ánh ngay từ cuốn sách Đường cách mệnh
đến bản Di chúc cuối đời.
“Cần tức là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng dẻo dai”. “Muốn cho chữ Cần nhiều kết quả hơn, thì
phải có kế hoạch cho mọi công việc”.Cần tức là lao động cần cù, siêng năng; lao động có kế
hoạch, sáng tạo, có năng suất cao; lao động với tính thần tự lực cánh sinh, không lười biếng.
Phải thấy rõ, “Lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của chúng ta”.
“Kiệm là tiết kiệm, không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi”. Kiệm tức là tiết kiệm sức
lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của của dân, của nước, của bản thân mình; không phô
trương hình thức, không liên hoan chè chén lu bù. “Tiết kiệm không phải là bủn xỉn. Khi không
nên tiêu xài thì một đồng xu cũng không nên tiêu. Khi có việc đáng làm, việc ích lợi cho đồng
bào, cho Tổ quốc, thì dù bao nhiêu công, tốn bao nhiêu của, cũng vui lòng. Như thể mới đúng là
kiệm. Việc đáng tiêu mà không tiêu, là bủn xỉn, chứ không phải là kiệm. Tiết kiệm phải kiên
quyết không xa xỉ”. “Cần với kiệm, phải đi đôi với nhau, như hai chân của con người. Hồ Chí
Minh yêu cầu “Phải cần kiệm xây dựng nước nhà”.
Liêm “là trong sạch, không tham lam”, là liêm khiết, “luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công của
dân”, “Liêm là không tham địa vị. Không tham tiền tài. Không tham sung sướng. Không ham
người tâng bốc mình. Vì vậy mà quang minh chính đại, không bao giờ hủ hóa. Chỉ có một thứ
ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ”, “Chữ Liêm phải đi đôi với chữ Kiệm. Cũng như chữ
Kiệm phải đi với chữ Cần. Có Kiệm mới Liêm được”.
Chính nghĩa là không tà, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn. Điều gì không đúng đắn, thăng thắn, tức
là tà”. Chính nghĩa được thể hiện rõ trong ba mối quan hệ: “ Đối với mình- Chớ tự kiêu, tự đại”.
“ Đối với người:...( Chớ nịnh hót người trên. Chớ xem khinh người dưới. Thái độ phải chân
thành, khiêm tốn,... Phải thực hành chữ Bác –Ái”.” Đối với việc: Phải để công việc nước lên trên,
trước việc tư, việc nhà”; “ việc thiện thì dù nhỏ mấy cũng làm. Việc ác thì dù nhỏ mấy cũng
tránh”.
HCM cho rằng, các đức tính cần, kiệm, liêm, chính có quan hệ chặt chẽ với nhau, ai cũng phải
thực hiện, song cán bộ, đảng viên phải là người thực hành trước để làm kiểu mẫu cho dân. Người
thường nhắc nhớ cán bộ, công chức, những người trong các công sở đều phải có nhiều hoặc ít
quyền hạn. Nếu không giữ đúng cần, kiệm, liêm, chính thì dễ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt
của dân.
Một số ví dụ về cần kiệm liêm chính:

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, trên chiến khu Việt Bắc, Bác ở trong ngôi nhà
sàn đơn sơ, giản dị thì đến khi cách mạng thành công, trở về Thủ đô, Bác cũng chỉ ở trong ngôi nhà
nhỏ của người thợ điện, sau đó chuyển sang nhà sàn, chứ không ở ngôi nhà to, sang trọng của Toàn
quyền Đông Dương. Bác dành ngôi nhà sang trọng đó làm nơi đón tiếp khách của Đảng và Nhà
nước ta.
Trong lịch sử Việt Nam, chắc hẳn không ai không biết đến vị quan có đức tính tham liêm nổi
tiếng. Theo “Đại Việt sử ký toàn thư”, Tô Hiến Thành là vị quan thanh liêm nhất trong lịch sử
phong kiến Việt Nam. Khi còn giữ chức Thái phó của triều Lý, ông từng từ chối cả mâm vàng hối
lộ của Chiêu Linh hoàng thái hậu để sửa đi chiếu của Vua Lê Thanh Tông.
Liên Hệ:

Có tinh thần yêu nước, sẵn sàng cống hiến, hy sinh vì sự phát triển phồn thịnh của đất nước, vì
hạnh phúc của bản thân, gia đình và xã hội.
Luôn vững niềm tin, sắt son với mục tiêu độc lập dân tộc, gắn liền với chủ nghĩa xã hội mà
Đảng, Bác Hồ và Nhân dân ta đã lựa chọn. Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật.
Luôn có nhận thức và thái độ chính trị đúng đắn, quan tâm đến các vấn đề chính trị, kinh
tế, xã hội của đất nước.
Luôn hướng tới những giá trị nhân văn cao cả trong cuộc sống, rèn luyện cho mình lối sống
trong sạch, giản dị, lương thiện, thủy chung, biết thương yêu, chia sẻ, kính trên, nhường dưới.
Luôn sống hướng thiện, ham học hỏi, ham hiểu biết, sống có nghĩa, có tình; không tham lam,
kiêu ngạo, chạy theo danh lợi. Trung thực, dũng cảm, trách nhiệm, nói đi đôi với làm.
Khi tiếp xúc, làm việc với người lớn và thanh thiếu nhi phải cầu thị và chuẩn mực. Có tinh thần
quốc tế trong sáng, cao cả. Tích cực đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân; phê phán những thói hư,
tật xấu; thường xuyên tự phê bình và phê bình, để giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
Nhận diện rõ những nội hàm đạo đức nêu trên, gắn với việc học tập và làm theo tấm gương
mẫu mực về tu dưỡng đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhất là quan điểm của Người về “Cần
– Kiệm – Liêm – Chính – Chí công vô tư”giúp mỗi sinh viên và thanh niên Việt Nam xác định
được mục tiêu, khung giá trị đạo đức mà mình cần hướng tới, từ đó có kế hoạch, phương pháp
và cách thức rèn luyện, tu dưỡng phù hợp.
Câu 6: Khi nói về xây dựng nhà nước pháp quyền, Hồ Chí Minh viết: “Tất cả các cơ quan Nhà nước
là phải dựa vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của
nhân dân”. (Trích: Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 12, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.275)
Anh (chị) hãy phân tích nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước
pháp quyền nhân nghĩa để làm rõ nội dung trích dẫn trên. Liên hệ thực tiễn việc xây
dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay?.
Bài Làm
“Pháp quyền nhân nghĩa” tức là trước hết Nhà nước phải tôn trọng, bảo đảm thực hiện đầy
đủ các quyền con người, chăm lo đến lợi ích của mọi người. Tiếp thu và vận dụng sáng tạo các
lý thuyết hiện đại về quyền con người, Hồ Chí Minh tiếp cận quyền con người một cách toàn
diện.
Người đề cập đến các quyền tự nhiên của con người, trong đó quyền cao nhất là quyền
sống; đồng thời cũng đề cập đến cả các quyền chính trị - dân sự, quyền kinh tế, văn hóa, xã hội
của con người. Người chú trọng quyền của công dân nói chung, đồng thời cũng chú trọng đến
quyền của những nhóm người cụ thể như phụ nữ, trẻ em, người dân tộc thiểu số, v.v.. Sự
nghiệp cách mạng chân chính cần đấu tranh cho quyền con người, vì thế, mục tiêu giải phóng
con người, làm cho mọi người có được cuộc sống hạnh phúc, tự do xứng với phẩm giá con
người, được hưởng dụng các quyền con người một cách đầy đủ nhất đã hòa quyện một cách
hữu cơ và trở thành mục tiêu cao nhất của sự nghiệp cách mạng của dân tộc Việt Nam. Nhà
nước Việt Nam ngay từ khi ra đời và luôn nhất quán quan điểm kiên quyết đấu tranh cho quyền
con người. Hiến pháp do Hồ Chí Minh làm
Trưởng ban soạn thảo đã ghi nhận một cách toàn diện quyền con người ở Việt Nam. Đó là
nền tảng pháp lý để bảo vệ và thực thi các quyền con người đó một cách triệt để.
Trong pháp quyền nhân nghĩa, pháp luật có tính nhân văn, khuyến thiện. Cho nên, ngay khi
thành lập, Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã lập tức tuyên bố xoá bỏ
mọi luật pháp hà khắc của chính quyền thực dân phản động. Tính nhân văn của hệ thống luật
pháp thể hiện ở việc ghi nhận đầy đủ và bảo vệ quyền con người; ở tính nghiêm minh nhưng
khách quan và công bằng, tuyệt đối chống đối xử với con người một cách dã man. Ngay cả đối
với những kẻ phản bội Tổ quốc, Hồ Chí Minh tuyên bố rõ: “Chính phủ Việt Nam sẽ tha thứ hay
trừng trị họ theo luật pháp tuỳ theo thái độ của họ hiện nay và về sau. Nhưng sẽ không có ai bị
tàn sát”. Đặc biệt, hệ thống luật pháp đó có tính khuyến thiện, bảo vệ cái đúng, cái tốt, lấy mục
đích giáo dục, cảm hóa, thức tỉnh con người làm căn bản. Với Hồ Chí Minh, việc xây dựng và
thi hành pháp luật phải dựa trên nền tảng đạo đức của xã hội và các giá trị đạo đức thấm sâu
vào trong mọi quy định của pháp luật. Nói cách khác, pháp luật trong Nhà nước pháp quyền
nhân nghĩa phải là pháp luật vì con người.
Liên hệ :
Trước hết, nắm vững mục tiêu là tôn trọng, bảo vệ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân,
tất cả vì độc lập dân tộc, dân chủ, tự do, hạnh phúc của nhân dân. Lựa chọn ra và thực thi
những cơ chế, hình thức dân chủ hữu hiệu để nhân dân quyết định những công việc trọng đại
của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thực tiễn đã chỉ rõ, chừng nào và khi nào Nhà
nước chưa tạo đủ điều kiện để nhân dân thực hiện phát huy quyền làm chủ của mình ở cơ sở,
hoặc để xảy ra dân chủ cực đoan, dân chủ quá trớn, gây trở ngại cho hoạt động điều hành và
quản lý của bộ máy chính quyền cơ sở, thì chừng đó quyền lực Nhà nước ở địa phương bị suy
giảm, cản trở việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Phải nâng cao dân trí, động viên,
giáo dục và tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân sử dụng quyền làm chủ, quyền lực của mình
tham gia vào quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
Thứ hai, xây dựng nhà nước luôn đi đôi khắc phục được những căn bệnh cố hữu của các
nhà nước kiểu cũ. Tuyệt đối không mơ hồ trước những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù
địch đối với các giá trị văn hóa dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, kiên quyết chống luận
điệu xuyên tạc, mị dân, núp dưới chiêu bài “tự do”, “dân chủ”, “nhân quyền” tư sản để xuyên
tạc những giá trị dân chủ xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân ta đã xây dựng, vun đắp trong
cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa.
Thứ ba, tăng cường pháp luật đi đôi với đẩy mạnh giáo dục đạo đức. Theo Hồ Chí Minh, để
xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, hiệu quả phải kết hợp chặt chẽ giữa “đức trị” và
“pháp trị”, kết hợp giữa “xây” và “chống”, không được coi nhẹ mặt nào. Xây là ra sức giáo dục,
bồi dưỡng, nâng cao đạo đức cách mạng cho nhân dân, trước hết là cán bộ, công chức, đảng
viên, những người có chức, có quyền, đi đôi với việc chống chủ nghĩa cá nhân, dùng pháp luật
nghiêm trị những kẻ vi phạm pháp luật và thoái hóa đạo đức, làm hại dân, hại nước.
Thứ tư, luôn đề phòng và chủ động khắc phục những tiêu cực trong hoạt động của Nhà
nước, kiên quyết chống ba thứ giặc nội xâm là tham ô, lãng phí, quan liêu. Theo Hồ Chí Minh,
sức mạnh, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước phụ thuộc vào tính nghiêm minh của
việc thi hành pháp luật và sự trong sạch, gương mẫu về đạo đức của những người cầm quyền.
Vì vậy, phải luôn nêu cao cảnh giác với những biểu hiện tha hóa, biến chất của đội ngũ cán bộ,
công chức, giữ cho Nhà nước luôn trong sạch, vững mạnh.
Thứ năm, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức trong các cơ
quan quyền lực của Nhà nước về phẩm chất chính trị, đạo đức, phong cách, năng lực
lãnh đạo, quản lý để họ thực sự là “người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”, toàn tâm,
toàn ý phục vụ lợi ích của nhân dân. Cùng với nâng cao bản lĩnh chính trị, giáo dục đạo đức
cách mạng, phải đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức nhà nước có đủ tri thức về chính trị
học, xã hội học, về hệ thống chính trị, pháp luật, quản lý hành chính nhà nước, về tổ chức lao
động khoa học và tâm lý quản lý, v.v.
Thứ sáu, tăng cường vai trò lãnh đạo và đổi mới phương thức cầm quyền, lãnh đạo của
Đảng đối với Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân, đáp ứng đòi hỏi của sự nghiệp
đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa thời kỳ mới. Bởi, thực tiễn đã chỉ rõ: sự
lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội là nhân tố quyết định để bảo đảm Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của dân, do dân, vì dân, bảo đảm cho hệ
thống chính trị có đủ khả năng đưa đất nước ta từng bước vượt qua nguy cơ, thách thức, vững
vàng đi theo con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân vẫn
mãi có ý nghĩa về lý luận và thực tiễn sâu sắc. Ngày nay, trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới
và hội nhập, Đảng ta tiếp tục kế thừa tư tưởng của Người để xây dựng Nhà nước pháp quyền
của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân là điều vô cùng cần thiết và đúng đắn.
Câu 7: Hồ Chí Minh khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào
khác con đường cách mạng vô sản”. (Trích: Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 12, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2011, tr.30).
Anh (chị) hãy phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc muốn
thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản để làm rõ nhận định trên. Liên hệ thực tiễn
cách mạng Việt Nam?.
Bài Làm
Phân tích những luận điểm cơ bản về cách mạng giải phóng dân tộc của Tư Tưởng Hồ Chí Minh
Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản.
-Phong trào yêu nước của nước ta cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 bị thất bại là do chủ trương và phương
pháp chưa đúng. Hồ Chí Minh rất khâm phục tinh thần yêu nước của các bậc tiền bối, nhưng Người
không tán thành con đường cứu nước của họ mà quyết tâm tìm ra con đường cứu nước mới. Cách
mạng Pháp và các cuộc cách mạng tư sản lớn khác trên thế giới Dù cách mạng Mỹ đã thắng lợi hơn
150 năm nhưng nhân dân lao động vẫn còn đau khổ và muốn làm cách mạng trở lại. Vì vậy, ông cho
rằng đây là những cuộc cách mạng chưa hoàn thiện và chưa hoàn thiện. Vì vậy, cứu nước dưới ngọn
cờ của giai cấp tư sản không phải là con đường thoát cho dân tộc.
-Từ khi đọc được bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa
của Lênin (7-1920), Người “hoàn toàn tin theo Lênin và quốc tế thứ ba” bởi vì Lênin và quốc tế thứ ba
đã “bênh vực cho các dân tộc bị áp bức”. Người thấy trong lý luận của Lênin một phương hướng mới
để giải phóng dân tộc: Con đường cách mạng vô sản. Người đã khẳng định: "Muốn cứu nước, giải
phóng dân tộc không có con đường nào khác, con đường cách mạng vô sản".

Các mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạọ
-Nguyễn ái Quốc đã khẳng định : "Đảng có vững cách mệnh mới thành công,cũng như người cầm có
lái có vững thì thuyền mới chạy... Đảng muốn vững phải có chủ nghĩa làm cốt. Bây giờ học thuyết
nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ
nghĩa Lênin".
-Thực tế đã chứng minh : Từ khi ra đời đến nay Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo cách mạng Việt
Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

Lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc bao gồm toàn dân tộc
-Người còn nhấn mạnh, khối đại đoàn kết toàn dân phải trên cơ sở khối liên minh công nhân -
nông dân đoàn kết.
-Trên cơ sở đó, Người chủ trương vận động sâu rộng, tập hợp các tầng lớp nhân dân thành lập mặt
trận dân tộc thống nhất, huy động sức mạnh của nhân dân cả nước, đấu tranh giành độc lập, tự do.

Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi
trứơc cách mạng vô sản ở chính quốc.
-Quan điểm của Quốc tế Cộng sản cho rằng: " Chỉ có thể thực hiện hoàn toàn công cuộc giải phóng
các thuộc địa khi giai cấp vô sản giành được thắng lợi ở các nước tiên tiến".
-Vận dụng đường lối của Quốc tế Cộng sản vào điều kiện các nước thuộc địa, Nguyễn ái Quốc đã kết
luận : "sự giải phóng của giai cấp công nhân phải là sự nghiệp của bản thân giai cấp công nhân".
-Do đánh giá đúng sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, Nguyễn ái Quốc đã dự
báo : Cách mạng thuộc địa không cần thụ động chờ đợi mà có thể nổ ra và giành thắng lợi trước cách
mạng vô sản ở chính quốc, đồng thời tác động trở lại cách mạng chính quốc.
-Đây là một luận điểm sáng tạo và có giá trị lí luận và thực tiễn to lớn, một cống hiến quan trọng vào
kho tàng lí luận của CN Mác -Lênin. Luận điểm này đã được lịch sử cách mạng Việt Nam chứng minh
là hoàn toàn đúng đắn.

Cách mạng giải phóng dân tộc phải được thực hiện bằng con đường bạo lực
-Đánh giá đúng bản chất của chủ nghĩa đế quốc, Hồ Chí Minh đã xác định: " Trong cuộc đấu tranh
gian khổ chống kẻ thù của giai cấp và của dân tộc, cần dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực
phản cách mạng, giành lấy chính quyền và bảo vệ chính quyền".
-Hình thức của bạo lực cách mạng bao gồm cả đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang. Hồ Chí
Minh cũng chỉ rõ: " tùy tình hình cụ thể mà quyết định những hình thức đấu tranh cách mạng thích
hợp, sử dụng đúng và khéo kết hợp các hình thức đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị để giành
thắng lợi cho cách mạng".
-Tuy nhiên, việc tiến hành chiến tranh chỉ là giải pháp bắt buộc khi không còn khả năng hòa hoãn thì
Hồ Chí Minh mới quyết định phát động chiến tranh. Trong kháng chiến chống Pháp, Người đã bày tỏ
quan điểm: " Chúng tôi mong đợi ở Chính phủ và nhân dân Pháp một cử chỉ mang lại hòa bình. Nếu
không, chúng tôi bắt buộc phải chiến đấu đến
Trong bài Cuộc kháng chiến, Hồ Chí Minh viết: “chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải
phóng được dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và
của cách mạng thế giới”
Vượt qua sự hạn chế về tư tưởng của các sĩ phu và của các nhà cách mạng có xu hướng tư
sản đương thời, Hồ Chí Minh đã đến với học thuyết cách mạng của chủ nghĩa Mac – Lênin và lựa
chọn khuynh hướng chính trị vô sản. Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc
không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”…chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa
cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách
nô lệ…
Liên hệ thực tiễn cách mạng Việt Nam
Về các cuộc khởi nghĩa như :Hương Khê ,Yên Bái, phong trào Đông Du đều thất bại . Khởi
nghĩa Hương Khê , Yến Bái thì mang tư tưởng Phong Kiến . Phong Trào Đông Du thì mang tư
tưởng “Thân Nhật” tuy đã có khuynh hướng vô sản những vẫn còn nửa Phong Kiến .
Kể cả Phong Trào Cần Vương hay Khởi nghĩa Trương Định ,Cao Văn Trỗi vẫn thất bại.
Bác đã tìm ra con đường cứu nước và khẳng định nó : “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc
không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản” điển hình như chiến thắng Điện Biên
Phủ(1953- 1954)
Và những cuộc kháng chiến chống Mỹ chống Pháp là điển hình chứng minh cho câu nói của
Người

You might also like