Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 37

CHỦ ĐỀ 17

Câu 1.
a. Trong văn bản 1, tác giả cho biết số lượng hồ sơ đăng ký tham dự Diễn đàn trí thức
trẻ Việt Nam toàn cầu lần thứ II - năm 2019 tăng mạnh đã cho thấy khát khao được
đóng góp cho quê hương của cộng đồng trí thức trẻ người Việt khắp năm châu.
b. Từ mượn trong câu văn: cảm động, hảo tâm.
c.
Điểm giống nhau: Đều nói lên tình cảm yêu quí, gắn bó đối với quê
hương. Điểm khác nhau:
- Văn bản 1: Đề cập đến khát khao được quay trở về cống hiến, dựng xây, đóng
góp cho đất nước của những du học sinh Việt Nam
- Văn bản 2: Nêu lên những điều đáng trân trọng của Sài Gòn để khiến những
người từ nơi khác đến đây sinh sống càng thêm yêu quí, lưu luyến, dần xem đây là
quê hương thứ hai.
d. HS tự do trình bày quan điểm cá nhân, miễn hợp lí và thuyết phục; lưu ý đảm bảo
số câu theo yêu cầu.
Có thể theo gợi ý sau:
- Nhan đề đã nêu bật tình cảm tha thiết, sự yêu quí chân thành của tác giả đối với
vùng đất Sài Gòn.
- Biện pháp tu từ so sánh đã miêu tả sinh động, cụ thể, đầy cảm xúc nỗi lòng của
tác giả dành cho Sài Gòn.

Câu 2.
1. Giới thiệu vấn đề nghị luận
2. Giải thích:
- Chị Nguyễn Thị Vành Khuyên, anh Ngô Khắc Hoàng hay 236 trí thức tham dự
Diễn đàn Trí thức trẻ Việt Nam toàn cầu lần thứ II (năm 2019) là các du học sinh đã
lựa chọn trở về đóng góp cho quê hương.
- Hiện tượng này đã trở thành khuynh hướng trong những năm gần đây và đó
cũng sẽ là lựa chọn của bản thân nếu được đi du học.
3. Bàn luận:
- Cuộc sống ở nước ngoài chỉ phù hợp nếu bạn thực sự có khả năng thích ứng cao
về văn hóa, mong muốn tiếp tục hưởng chế độ an sinh - xã hội, giáo dục chất lượng
cao,... hay đôi khi chỉ là có được cảm giác tự do ở đó. Song có một thực tế phải thừa
nhận là rất khó cho chúng ta để hòa nhập với cuộc sống ở xứ người sau khi tốt nghiệp,
trở về nước là quay về với không gian văn hóa quen thuộc, được sống gần với gia đình,
họ hàng, bạn bè.
- Quê hương, đất nước đã cho chúng ta cơ sở để trưởng thành, phát triển. Do vậy,
trở về làm việc và cống hiến cho đất nước, chú trọng về những giá trị mình có thể
mang lại cho xã hội, đất nước khi quay trở về sẽ khiến cho việc du học của chúng ta có
ý nghĩa hơn.
- Đất nước đang ngày càng phát triển và hội nhập sâu, rộng với quốc tế, chính vì
thế mà cơ hội việc làm trở nên rộng mở. Bởi vậy không phải chỉ riêng ở nước ngoài
mình mới có “đất diễn”, khả năng phát triển trong nước là rất triển vọng. Có nhiều
ngành nghề ở Việt Nam đang rất phát triển, các công ty trong nước có nhiều chế độ tốt
để thu hút người giỏi học từ nước ngoài về nên đây cũng chính là cơ hội cho du học
sinh.
- Phê phán những người lựa chọn đi du học vì xem thường giáo dục nước nhà,
hoặc những du học sinh ngay từ đầu đã mang tư tưởng bằng mọi giá ở lại nước ngoài
làm việc để phát triển sự nghiệp, tìm kiếm cơ hội định cư ở nước ngoài. Mục đích việc
học của các du học sinh này đã xuất phát từ nhu cầu cá nhân, xem nhẹ trách nhiệm của
một công dân đối với đất nước của mình.
4. Bài học nhận thức và hành động:
- Khi du học sinh trở về Việt Nam làm việc ngày càng nhiều với những lợi thế rõ
ràng, thì những bạn trẻ học trong nước chắc chắn sẽ phải cạnh tranh để được tuyển
dụng. Do đó, người học trong nước cần rèn luyện thái độ học tập làm việc chủ động,
khả năng ngoại ngữ và các kỹ năng mềm như thuyết trình, giải quyết vấn đề, tư duy,
đưa ra quyết định… để có thể cạnh tranh công bằng với các du học sinh.
- Những cơ sở giáo dục trong nước nên hỗ trợ tìm kiếm cơ hội làm việc cho
người học, cũng như cải thiện phương thức giáo dục để phù hợp hơn với nhu cầu thị
trường việc làm tương lai. Doanh nghiệp, cơ quan trong nước cần cải thiện chính sách
tuyển dụng, chế độ lương bổng, môi trường làm việc để thu hút du học sinh trở về
cống hiến.
- Trong thế giới phẳng hiện tại, người trẻ không còn bị gắn chặt trong biên giới
hữu hình của một quốc gia và dù ở bất cứ đâu, họ cũng có thể phát triển sự nghiệp,
đóng góp cho đất nước và thế giới.
Lưu ý: Học sinh cần phân tích các dẫn chứng để làm sáng tỏ vấn đề.
Câu 3.
Đề 1.
1. Giới thiệu vấn đề nghị luận:
- Kim Lân quê ở Bắc Ninh, là cây bút chuyên viết truyện ngắn và có sáng tác từ
trước Cách mạng tháng Tám. Những cảnh ngộ của người nông dân và sinh hoạt làng
quê là đề tài sáng tác chủ yếu của ông.
- Truyện ngắn Làng được viết năm 1948, in trên tạp chí Văn nghệ (số 1), là một
tác phẩm thành công của văn học Việt Nam thời kì đầu cuộc kháng chiến chống Pháp
xâm lược.
- Dẫn vào vấn đề nghị luận: Tình yêu làng của nhân vật ông Hai.
2. Cảm nhận tác phẩm được chọn:
a. Nội dung:
 Tình yêu làng thể hiện qua thói quen hay “khoe làng”:
- Trước khi nghe tin, ông Hai là một người nông dân với những suy nghĩ khá
hồn nhiên. Ông yêu làng nên đi đâu cũng khoe về cái làng của mình, ông tự hào
và yêu tất cả mọi thứ của làng Chợ Dầu, luôn theo dõi tin tức kháng chiến và hỏi
thăm tình hình những người ở nơi khác đến.
- Thói quen khoe làng ấy cũng là một cách giúp ông khoả lấp nỗi nhớ về làng,
về những tháng ngày hoạt động kháng chiến cùng anh em, đồng đội. Ông không
chỉ là một người dân yêu làng mà còn là một phụ lão, một chiến sĩ đã từng tham
gia đánh giặc giữ làng mà nay vì phải rời làng đi tản cư.
 Tình yêu làng thể hiện qua nỗi đau đớn khi hay tin làng theo giặc:
- Tin làng theo giặc khiến cho “cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân
rân. Ông lão lặng đi, tưởng như không thở được. Một lúc lâu, ông mới rặn è è,
nuốt một cái gì vướng ở cổ,…”. Ông già vui tính, hay chuyện, mong ngóng tin
tức của làng mình mà lúc này phải “vờ vờ đứng lảng ra chỗ khác” rồi cúi gằm
mặt đi thẳng.
- Vừa về đến nhà, ông Hai “nằm vật ra giường”; trong đau khổ, nhục nhã,
ông nhìn đàn con chơi đùa thật đáng thương ở sau nhà. Bất giác ông nghĩ đến sự
hắt hủi của mọi người dành cho các con của mình - những đứa trẻ của cái làng
Việt gian. Có lúc, ông cảm thấy chuyện tày đình này thật khó tin vì có biết bao
tấm gương đã từng sống mái với kẻ thù, liều chết để hoàn thành sứ mệnh chung
của cả dân tộc. Ông Hai không ngừng dày vò tâm trí: “ Chao ôi! Cực nhục chưa,
cả làng Việt gian!”. Ông nghĩ tới sự xua đuổi, tẩy chay của tất cả mọi người, nghĩ
đến tương lai chưa biết phải làm ăn, sinh sống như thế nào và phải đối diện ra sao
trước miệng lưỡi cạnh khoé, nanh nọc của mụ chủ nhà.
- Ba bốn hôm sau đó, ông Hai cố chịu đựng, trốn tránh như một tội phạm vì
sợ người ta phát hiện mình là người làng Việt gian, sợ người ta xa lánh, xua đuổi,
mắng nhiếc. Đến khi mụ chủ nhà nanh nọc, khó tính, có ý định đuổi cả nhà ông,
tâm trạng ông Hai càng u ám, bế tắc. Những câu hỏi cứ liên tiếp cuộn trào trong
tâm trí một ông già khốn khổ đáng thương: “Biết đem nhau đi đâu bây giờ? Biết
đâu người ta chứa bố con ông mà đi bây giờ?”. “Thật là tuyệt đường sinh
sống!”.
 Tình yêu làng thể hiện qua niềm hạnh phúc khi biết tin cải chính:
- Đến khi ông chủ tịch dưới quê lên cải chính tin đồn, ông Hai như mở cờ
trong bụng. Thì ra cái tin làng Chợ Dầu theo giặc được cải chính, đó chỉ là tin
đồn nhảm do địch mượn gió bẻ măng tung ra để gây hoang mang dân chúng, còn
sự thật là làng ông đã chiến đấu rất anh dũng.
- Ông mua quà chia cho các con: “Chúng mày đâu rồi, ra thầy chia quà cho
nào”, lật đật báo tin với mọi người, cải chính cho mọi người xung quanh. Ông
thay đổi hoàn toàn: “cái mặt buồn thỉu mọi ngày bỗng tươi vui, rạng rỡ hẳn lên”,
“mồm bỏm bẻm nhai trầu, cặp mắt hung hung đỏ, hấp háy”. Ông hồ hởi khoe
với bác Thứ cái tin làng Chợ Dầu theo giặc là “sai sự mục đích” cả và tỏ ra rất
hào hứng, hạnh phúc khi nhà mình bị Tây đốt nhẵn. Và còn đi khoe với mọi
người nữa: “...ông lão lại lật đật bỏ đi nơi khác. Còn phải để cho người khác biết
chứ. Ông lão cứ múa tay lên mà khoe tin ấy với mọi người.”. Đối với ông, cái tin
ấy ấy chính là một chứng cớ hùng hồn như muốn nói với mọi người rằng làng
xóm quê hương ông đã dũng cảm chiến đấu chống quân thù.
- Ông rất vui, rất tự hào khi nghe tin nhà mình bị giặc đốt: “Tây nó đốt nhà
tôi rồi ông chủ ạ. Đốt nhẵn. Ông chủ tịch làng em vừa lên cải chính…cải chính
cái tin làng chợ Dầu chúng em Việt gian ấy mà. Ra láo! Láo hết, chẳng có gì sất!
Toàn là sai sự mục đích cả!”. Một lần nữa tình yêu làng, yêu nước của ông Hai
được thể hiện một cách thành thực và cảm động.
b. Nghệ thuật: nghệ thuật xây dựng tình huống truyện độc đáo, gay cấn, miêu tả tâm
lí nhân vật rất sinh động và chân thực qua suy nghĩ, hành động, lời nói (đối thoại và
độc thoại), ngôn ngữ trần thuật giản dị, gần gũi.
3. Nêu ra những tác động của tác phẩm đối với bản thân:
- Ấn tượng với tình tiết rất độc đáo và giàu ý nghĩa: ông Hai hồ hởi khoe nhà
mình đã bị Tây đốt sạch. Tình tiết này chứng tỏ gia đình ông Hai và cả làng ông
không hề đứng cùng chiến tuyến với quân thù. Ông Hai không tiếc ngôi nhà vì cái nhà
không quý bằng cái tiếng trong sạch của làng, của nhà ông được khôi phục. Ngôi nhà
đã cháy rụi nhưng lại làm sáng lên sự hồi sinh của tình yêu mãnh liệt, của niềm tự hào
to lớn dành cho ngôi làng Chợ Dầu.
- Tác phẩm đã giúp em nhận ra tình yêu làng quê tha thiết, tình yêu nước sâu sắc
trong mỗi người dân Việt Nam luôn hoà quyện, thống nhất cùng nhau. Trong đó, tình
yêu nước là phẩm chất vô cùng quan trọng của mỗi người. Tình cảm này được thể
hiện phong phú, đa dạng và càng phát huy giá trị trong những tình huống thử thách,
khó khăn.
4. Gợi ý tác phẩm có thể liên hệ so sánh: Bài thơ về tiểu đội xe không kính (Phạm
Tiến Duật), Mùa xuân nho nhỏ (Thanh Hải), Nói với con (Y Phương),…

Đề 2. Gợi ý tác phẩm: Hịch tướng sĩ (Trần Quốc Tuấn), Lá cờ thêu sáu chữ vàng
(Nguyễn Huy Tưởng), Sao tháng tám (Chế Lan Viên), Dáng đứng Việt Nam (Lê Anh
Xuân), Tổ quốc nhìn từ biển (Nguyễn Việt Chiến), Tổ quốc gọi tên (Nguyễn Phan
Quế Mai),…
CHỦ ĐỀ 18

Câu 1.
a. Theo văn bản 1, lý do khiến anh Hoàng Tuấn Anh phát minh ra máy ATM gạo là vì
anh chứng kiến cảnh những lao động nghèo bị mất việc phải vật lộn trong dịch bệnh
Covid 19, lúc ấy anh cảm thấy khổ tâm và nghĩ đến việc tìm cách cung ứng thực
phẩm thiết yếu giúp họ vượt qua khó khăn.
b. Từ mượn: Đoàn kết, cảm giác, hạnh phúc. (HS cần nêu đúng 2/3 từ)
c.
Điểm giống nhau: đều nói về tinh thần đoàn kết – một trong những giá trị sống
tích cực.
Điểm khác nhau:
- Văn bản 1: Mượn câu chuyện của anh Hoàng Tuấn Anh – người phát minh ra
máy ATM gạo, văn bản khẳng định đoàn kết là một trong những giá trị tốt đẹp trong
cuộc sống cần được lan tỏa.
- Văn bản 2: Tác giả đưa ra những suy ngẫm về đoàn kết, từ đó khẳng định đoàn
kết là một trong những giá trị sống cho tuổi trẻ.
d. Học sinh tự do trình bày quan điểm cá nhân, miễn hợp lí và thuyết phục; Lưu ý
đảm bảo số câu theo yêu cầu.
Có thể theo gợi ý sau:
Đồng ý với quan điểm.
Nguyên nhân:
- Trong một tập thể, khi mỗi cá nhân biết ứng xử một cách ôn hòa, mỗi người đều
được tôn trọng như nhau sẽ không xảy ra những mâu thuẫn, xung đột từ đó mọi người
sẽ gắn bó với nhau bền chặt hơn.
- Sự gắn bó bền chặt tạo nên tinh thần đoàn kết trong tập thể, đó chính là cội
nguồn sức mạnh để làm nên nhiều việc lớn lao.
- Khi một tập thể hài hòa, cùng một mục tiêu làm việc, mọi người sẽ tạo ra một
nguồn năng lực làm việc tích cực từ đó hiệu quả, năng suất công việc sẽ được nâng
cao.
Lưu ý: Học sinh cần phân tích các dẫn chứng để làm sáng tỏ vấn đề.

Câu 2.
1. Giới thiệu vấn đề nghị luận
2. Giải thích:
- “Đoàn kết” là sự kết nối, gắn kết những cá nhân riêng lẻ để cùng nhau hợp sức
lại, tạo nên một sức mạnh vững chắc giải quyết tốt vấn đề mà tập thể đang muốn làm.
- “Tôn trọng” có nghĩa là sự đánh giá đúng mực và coi trọng danh dự, phẩm giá,
lợi ích của người khác.
- Đề bài nhấn mạnh đến việc tôn trọng lẫn nhau trong một tập thể, đó là giá trị
cao nhất của sự đoàn kết.
3. Bàn luận:
- Đoàn kết là một yếu tố không thể thiếu trong cuộc sống, nhất là trong hoàn cảnh
khó khăn thử thách. Đoàn kết giúp gắn kết con người với con người tạo nên một sự
gắn bó vô cùng to lớn, tiếp thêm cho con người sức mạnh để chiến thắng mọi khó
khăn trong công việc cũng như trong cuộc sống.
- Để có được sự đoàn kết trong một tập thể đòi hỏi phải có nhiều nguyên tắc như:
mỗi cá nhân cần hạ bớt cái tôi, nghĩ đến lợi ích của tập thể, lắng nghe ý kiến của
người khác, đặc biệt là phải biết tôn trọng lẫn nhau.
- Khi mỗi thành viên của tập thể được tôn trọng, tin tưởng, họ sẽ cố gắng làm việc,
họ sẽ tận hiến sức lực, tài năng cho công việc góp phần mang lại hiệu quả, năng suất
cao. Đồng thời, khi mỗi cá nhân trong tập thể được tôn trọng, họ sẽ cảm nhận được
hạnh phúc, niềm vui từ tập thể từ đó sẽ gắn bó bền chặt với tổ chức hơn. Từ đó, có thể
khẳng định tôn trọng chính là một trong những điều cần thiết tạo nên sự. đoàn kết.
- Tuy nhiên, trong thực tế khi ở trong một tập thể vẫn có rất nhiều người sống
một cách ích kỉ, chỉ biết quan tâm đến lợi ích của mình mà bỏ qua những quyền lợi
chung. Không tôn trọng cũng như lắng nghe những ý kiến, những chia sẻ của người
khác…đó là những việc làm tiêu cực gây hại rất lớn đến tập thể.
4. Bài học nhận thức và hành động:
- Mỗi người cần nhận thức được rằng tôn trọng người khác trong một tập thể
chính là sức mạnh tạo nên được sự đoàn kết. Để có được sự đoàn kết mỗi cá nhân cần
nhìn nhận lại thái độ, hành vi của bản thân để có những cách cư xử phù hợp trong một
tập thể.
- Bản thân luôn gắn kết, hòa hợp với mọi người xung quanh tạo nên tình đoàn kết
theo đúng nghĩa của nó.
Lưu ý: Học sinh cần phân tích các dẫn chứng để làm sáng tỏ vấn đề.
Câu 3.
Đề 1.
1. Giới thiệu vấn đề nghị luận:
- Chính Hữu quê ở Hà Tĩnh, tuy sáng tác không nhiều nhưng vẫn có một vị trí
xứng đáng trong nền thơ hiện đại Việt Nam. Thơ ông chủ yếu viết về người lính và
hai cuộc chiến tranh, đặc biệt là tình cảm cao đẹp của người lính như tình đồng chí,
đồng đội, tình yêu quê hương.
- Bài thơ Đồng chí ra đời năm 1948, in trong tập Đầu súng trăng treo, là một
trong những bài thơ tiêu biểu nhất viết về người lính cách mạng của văn học thời
kháng chiến chống Pháp.
- Dẫn vào vấn đề nghị luận: Tinh thần đoàn kết của người lính được thể hiện qua
đoạn thơ “Anh với tôi … Đầu súng trăng treo.”
2. Cảm nhận đoạn thơ được chọn:
a. Nội dung:
 Đoàn kết vượt qua gian khó:
- Kỉ niệm gắn bó cùng nhau là những trận sốt rét rừng – căn bệnh kinh niên
và phổ biến của những người lính phải sống và chiến đấu trong hoàn cảnh núi
rừng thiếu thốn, gian khổ. Những năm đầu kháng chiến chống Pháp thuốc men
thiếu thốn nên bệnh tật hoành hành trong đó bệnh sốt rét là một trong những căn
bệnh thường gặp làm cho chiến sĩ “sốt run người”.
- Những hình ảnh đối xứng nhau: “áo anh – quần tôi”; “rách vai – vài mảnh
vá” được sắp xếp đầy dụng ý, nêu bật sự thông cảm sẻ chia cùng nhau. “Miệng
cười buốt giá” - một nụ cười bừng lên, sáng lên trong gió rét, trong sương muối,
nụ cười của tình đồng chí, tình thương yêu vô bờ họ dành cho nhau qua hơi ấm
bàn tay: “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Tình cảm mộc mạc, không ồn ào
nhưng thấm thía. “Bàn tay” giao cảm thay cho lời nói.
- Có thể thấy bàn tay đan vào nhau biểu tượng cho tình đoàn kết, gắn bó, cảm
thông, động viên và cả sự hứa hẹn, quyết tâm lập công. Bàn tay nắm chặt bàn tay
để nói được những gì khó nói lên thành lời, thể hiện tình thương mến thương, thể
hiện sự kết nối bất tận, đặc biệt đó là đường truyền hơi ấm để chống lại cái “sốt
run người”, cái “buốt giá” đêm chiến trường...Tình đồng chí đem lại cho họ tinh
thần lạc quan, vui vẻ, tình thương của họ dành cho nhau chân thành, sâu sắc, đó
là nguồn sức mạnh lớn lao giúp họ vượt qua khó khăn, gian khổ.
 Đoàn kết trong nhiệm vụ chung để cùng thực hiện lý tưởng cao đẹp:
- Hình ảnh “rừng hoang sương muối” là hình ảnh thực, tả cảnh giá rét, diễn
tả hoàn cảnh khó khăn mà người lính phải trải qua. Chỉ có ít dòng thơ, tác giả đã
vẽ lên chân dung “anh bộ đội Cụ Hồ” buổi đầu kháng chiến, nghèo khổ, thiếu
thốn nhưng sự đoàn kết đã tiếp thêm sức mạnh cho họ. Vượt lên tất cả, sức mạnh
của tinh thần đoàn kết đã giúp họ đứng vững bên nhau trước mọi thử thách của
thời tiết và bao gian khổ, thiếu thốn, đã sưởi ấm lòng họ giữa cảnh buốt giá nơi
chiến trường khắc nghiệt, thắp thêm cho họ niềm tin vào tương lai tốt đẹp.
- Tác giả đã kết bài bằng những câu thơ dựng lên bức tranh đẹp về tình đồng
chí trong chiến đấu, biểu tượng đẹp về cuộc đời chiến sĩ. Ba hình ảnh liền kề:
“người lính” – “khẩu súng” – “vầng trăng” gắn kết hòa quyện tạo nên chất lãng
mạn cho cả bài thơ. Câu thơ gợi ra hình ảnh thực và mối liên tưởng bất ngờ của
nhà thơ: trăng như treo lơ lửng trên đầu ngọn súng, gần và xa, thực tại và mơ ước,
hiện thực và lãng mạn, chiến tranh và thanh bình. Đó là vẻ đẹp hài hòa của tâm
hồn chiến sĩ – thi nhân của anh bộ đội Cụ Hồ. Hơn thế, hình ảnh ấy cũng đã củng
cố thêm giá trị tinh thần đoàn kết của những người lính chung nhau lý tưởng
chiến đấu sáng ngời.
b. Nghệ thuật: ngôn ngữ bình dị, sự kết hợp hài hòa bút pháp tả thực và lãng mạn,
hình ảnh thơ đẹp, mang ý nghĩa biểu tượng, giàu sức biểu cảm.
3. Nêu ra những tác động của đoạn thơ đối với bản thân:
- Đoạn thơ khiến em nhớ đến hình ảnh “ba cây chụm lại nên hòn núi cao” đã trở
thành một biểu tượng đẹp của dân tộc cho tinh thần đoàn kết, hợp lực tạo nên dáng
đứng kì vĩ với sức mạnh lớn lao mà mỗi chúng ta phải góp phần gìn giữ và phát huy
nó.
- Tinh thần đoàn kết của người Việt Nam đã được chứng tỏ qua mấy ngàn năm
lịch sử hào hùng trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Nếu như thiếu đi sự đoàn
kết, chắc chắn không thể nào có được sức mạnh tổng hợp lớn lao để đạp bằng gian
khổ khó khăn. Chính vì vậy mà con người càng cần phải hợp tác cùng người khác trên
mọi lĩnh vực, phải ủng hộ nhau, hợp lực với nhau để đẩy nhanh tốc độ phát triển của
đất nước. Trong thời buổi này không thể đóng khung mình trong ao tù cá nhân mà
phải bung mở để đón nhận, để vươn xa.
4. Gợi ý tác phẩm có thể liên hệ so sánh: Bài thơ về tiểu đội xe không kính (Phạm
Tiến Duật), Mùa xuân nho nhỏ (Thanh Hải),…

Đề 2. Gợi ý tác phẩm: Lá cờ thêu sáu chữ vàng (Nguyễn Huy Tưởng), Dế Mèn phiêu
lưu kí (Tô Hoài), Chiến tranh và hòa bình (Lev Tolstoi),…
CHỦ ĐỀ 19

Câu 1.
a. Trong văn bản 1, tác giả cho biết giá trị của những tiến bộ dần dần của trẻ tự kỉ là
đem đến niềm hạnh phúc vô giá cho người thân và nhà trường.
b. Từ mượn trong câu văn: quá trình, nhận thức.
c.
Điểm giống nhau: đều nói về những vấn đề liên quan đến sự thấu hiểu, cảm thông
trong quá trình giáo dục trẻ em.
Điểm khác nhau:
- Văn bản 1: xem sự thấu hiểu, yêu thương là 2 điều có vai trò quan trọng và
quyết định sự thành công trong việc giáo dục trẻ em tự kỉ.
-Văn bản 2: chỉ ra việc thấu hiểu con cái chính là yếu tố quan trọng hàng đầu
trong hành trình nuôi dạy con khôn lớn, nên người.
d. HS tự do trình bày quan điểm cá nhân, miễn hợp lí và thuyết phục; lưu ý đảm bảo
số câu theo yêu cầu.
Có thể theo gợi ý sau:
Đồng ý với quan điểm.
Nguyên nhân:
- Lắng nghe và thấu hiểu giúp mọi mối quan hệ trong cuộc sống thêm gắn bó, gần
gũi, tốt đẹp.
- Nếu trong chúng ta ai cũng biết lắng nghe và thấu hiểu sẽ tạo nên tình yêu
thương giữa người với người, mang đến những giá trị nhân văn cho xã hội.
- Lắng nghe và thấu hiểu luôn sóng đôi, cùng với hành động cụ thể sẽ phát huy hết
giá trị kết nối.
Câu 2.
1. Giới thiệu vấn đề nghị luận
2. Giải thích:
- Thấu hiểu là khả năng hiểu biết và nhận thức một cách sâu sắc của bạn về cảm
xúc của một ai đó. Yêu thương là một khái niệm dùng để chỉ tình cảm, vẻ đẹp tâm hồn
của một con người. Yêu thương cũng chính là sống nhân ái, biết chia sẻ, cảm thông,
gắn bó với nhau để cùng sống và tồn tại. Thấu hiểu và yêu thương đều là sự thiêng
liêng, xuất phát từ trái tim của con người.
- Ý kiến trên đã chỉ ra mối quan hệ mật thiết giữa sự thấu hiểu và yêu thương.
Đó như một lời khẳng định: nếu như ta không thấu hiểu được người khác thì không
thể nào cảm nhận được nỗi niềm của họ để có thể san sẻ, an ủi. Bởi lẽ, thấu hiểu
chính là cội nguồn, xuất phát điểm của yêu thương.
3. Bàn luận:
- Sự thấu hiểu có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong cuộc đời ý nghĩa của mỗi
người. Khi chúng ta thấu hiểu nhau, ta sẽ biết đặt mình vào vị trí, hoàn cảnh của người
khác: nhìn thấu mới thấy rõ, từ đó hiểu và cảm thông cho nhau một cách sâu sắc. Sự
thấu hiểu bồi đắp thêm lòng nhân ái, giúp cho con người sống biết yêu thương lẫn nhau,
biết chia sẻ và sống có trách nhiệm với cộng đồng. Đây cũng là nền tảng vững chắc
xây dựng nên một xã hội nhân văn tốt đẹp.
- Tập cách thấu hiểu là tự rèn luyện và nâng cao giá trị bản thân mình, làm đẹp
tâm hồn. Sự thấu hiểu giúp chúng ta tránh đi được những phán xét phiến diện có tính
sát thương tâm hồn và những suy nghĩ cực đoan mà đôi khi mang lại những hậu quả
nặng nề. Từ đó, yêu thương được lên ngôi.
- Những người sống trong hoàn cảnh đau buồn bất hạnh khi nhận được sự thấu
cảm họ sẽ vơi đi nỗi đau và có thêm nghị lực để vượt qua khó khăn. Đó là liều thuốc
tinh thần chữa lành vết thương tốt nhất. Trong thực tế, trong mối quan hệ gia đình: cha
mẹ, con cái, vợ chồng, anh em… nếu biết thấu hiểu lắng nghe, yêu thương nhau thì gia
đình sẽ đầm ấm, hạnh phúc. Thầy trò thấu hiểu nhau việc dạy và học sẽ thăng hoa, việc
giáo dục cũng đạt hiệu quả cao.
- Cần phê phán những người sống ích kỉ, chỉ nghĩ đến cảm xúc của bản thân, cũng
đừng nhầm lẫn giữa thấu hiểu và thông cảm. Thông cảm là một hình thức tán thành,
xét đoán, có thể hiện tình cảm và phản ứng. Bản chất của thấu hiểu không phải ở chỗ
bạn đồng ý với người khác, mà là hiểu đầy đủ, sâu sắc về hoàn cảnh, tình cảm cũng
như suy nghĩ của họ, khi đó sự yêu thương mới thật sự nảy nở. Thấu hiểu bằng việc
lắng nghe, quan sát và cảm nhận, và nhất thiết phải có chính kiến chứ không dễ dãi,
mù quáng.
4. Bài học nhận thức và hành động:
- Rèn luyện những giá trị đạo đức tốt đẹp để hoàn thiện bản thân. Hiểu được
mối quan hệ, giá trị ý nghĩa của sự thấu hiểu và yêu thương, sống chân thành. Điều
đó là nền tảng xây dựng xã hội ngày một nhân văn
- Luôn sống quan tâm mọi người, chan hòa, yêu thương, giúp đỡ. Quan sát, cảm
nhận, lắng nghe bằng mắt, tai và cả trái tim, bạn sẽ nhanh chóng thấu hiểu đối
phương.
- Để thấu hiểu yêu thương người khác ta nên đặt mình vào vị trí của người đó.
Điều này sẽ giúp ta nhìn sự việc theo chiều hướng khác nhau.
- Thấu hiểu là gốc của yêu thương, là tên gọi khác của yêu thương, đó là mối
quan hệ bất biến. Hãy lắng nghe để thấu hiểu, yêu thương không chỉ là lời nói mà
còn bằng hành động cụ thể.
Lưu ý: Học sinh cần phân tích các dẫn chứng để làm sáng tỏ vấn đề.

Câu 3.
Đề 1.
1. Giới thiệu vấn đề nghị luận:
- Truyện Kiều là một truyện thơ Nôm gồm 3254 dòng thơ lục bát, là một kiệt tác
vô giá của dân tộc, dù viết lại trên cơ sở cốt truyện tác phẩm “Kim Vân Kiều truyện”
của Thanh Tâm Tài Nhân nhưng tác giả đã có nhiều sáng tạo.
- Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích ở vị trí từ câu 1033 đến câu 1054 trong
Truyện Kiều, thuộc phần Gia biến và lưu lạc, trình bày bối cảnh Tú Bà đưa Kiều ra
giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, chờ đợi thực hiện âm mưu đen tối đưa nàng vào bi kịch
của số phận.
- Dẫn vào vấn đề nghị luận: Sự hòa hợp giữa thiên nhiên và con người được thể
hiện qua 2 đoạn thơ “Trước lầu Ngưng Bích … như chia tấm lòng.” và “Trước lầu
Ngưng Bích … như chia tấm lòng.”
2. Cảm nhận đoạn trích được chọn:
a. Nội dung:
 Thiên nhiên tương thích với nỗi buồn, sự cô đơn cho con người:
- Cảnh được khái quát giản đơn với không nhiều sự vật và đường nét cụ thể:
xa xa là núi, trước mặt là trăng, trông ra rộng lớn mênh mông với cát vàng trải dài
và bụi hồng tung bay trên đường xa vạn dặm mịt mù. Đó còn là một không gian
rợn ngợp với những dãy núi, cồn bãi bát ngát điệp trùng xa mờ. Cảnh ở đây có cả
không gian khoáng đạt, vừa xa, vừa cao, vừa rộng; có hình khối, màu sắc khơi
gợi nét hữu tình, thơ mộng nhưng vẫn toát lên một sự lạnh lẽo ghê người.
- Nơi lầu Ngưng Bích, trăng trở thành ảnh chiếu của nỗi cô đơn, bụi hồng
hòa với cát vàng, non xa gợi nên sự xa xôi cách trở không tìm đâu được nẻo về.
Sự vắng lặng và mênh mông, không một bóng người của thiên nhiên có sự thống
nhất với hình ảnh nàng Kiều: tầm mắt trông xa đầy vô vọng: “bốn bề bát ngát xa
trông”, nỗi niềm xót xa trải dài theo thời gian: “bẽ bàng mây sớm đèn khuya”,
lớp lớp những chua xót, đau thương, nhớ nhung khiến tấm lòng như vò như xé
“Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”.
- Bản thân những từ láy như “bát ngát, bẽ bàng” cũng đủ để gợi lên bao nỗi
niềm. Khung cảnh “bát ngát” càng đậm thêm sự bé nhỏ, mong manh, tô đậm
cảm giác cô đơn rợn ngợp. Cụm từ “mây sớm đèn khuya” vẽ ra một vòng quay
thời gian tuần hoàn, khép kín, như ngày dài trôi qua trong vô vọng, như tuổi xuân
bẽ bàng trong giam hãm lạnh lùng. Mắt dõi theo muôn hướng nhưng chỉ thu về
“bát ngát” đơn côi, đếm thời gian trôi chỉ nhận ra bao lặng lẽ nặng nề.
 Thiên nhiên hòa hợp cùng những dự cảm tương lai của con người:
- Cảnh chiều hôm muôn thuở đã gợi buồn nhớ, lại giữa không gian mênh
mông nơi cửa biển chỉ có một cánh buồm thấp thoáng xa xa. Cánh buồm đơn lẻ
nơi cửa bể như một ảo ảnh thể hiện khát khao vượt thoát khỏi cảnh “khóa xuân”
vừa gợi trong lòng người lưu lạc tha hương nỗi cô đơn, nỗi buồn nhớ da diết về
cha mẹ, quê nhà xa cách, gợi nỗi nhớ khát khao được trở về đoàn tụ.
- Cái nhìn của Kiều hướng về không gian gần hơn với cánh hoa trôi giữa
dòng nước. Hình ảnh đó khiến Kiều buồn thương cho thân phận trôi dạt, bị vùi
dập và nỗi niềm xót xa cho duyên kiếp, số phận của mình. Hình ảnh mang ý
nghĩa ẩn dụ gợi bao nỗi niềm mênh mang về thân phận phận trôi nổi của nàng
Kiều.
- Tiếp theo, không phải là cỏ non xanh tận chân trời đầy sức sống mà là nội
cỏ rầu rầu, héo úa, buồn bã, cùng màu xanh nhàn nhạt trải dài từ mặt đất tới chân
mây càng khiến Kiều thêm chán ngán, vô vọng vì cuộc sống vô vị, tẻ nhạt, cô
quạnh này không biết kéo dài tới bao giờ. Cảnh mờ mịt, tương lai mờ mịt, tượng
trưng cho cuộc sống phong trần, tàn úa, héo hắt.
- Chiều đã muộn, màu sắc như tối lại, cảnh không hiện rõ nữa, âm thanh dội
lên mạnh hơn. Một cơn gió cuốn trên mặt duềnh làm cho tiếng sóng bỗng nổi lên
“ầm ầm” như bủa vây quanh ghế Kiều ngồi. Tiếng sóng “kêu” như báo trước
sóng gió dữ dằn của cuộc đời, hay cũng là tiếng kêu đau đớn của Kiều đồng vọng
với thiên nhiên. Kiều không thể buồn mà lo sợ kinh hãi như đang đứng trước
sóng gió bão táp của cuộc đời sắp dội xuống đầu nàng. Sóng gió ở đây là những
từ ngữ ẩn dụ mang tính ám dụ dự báo cơn giông bão, tai ương đang dồn dập truy
đuổi và đã tới rất gần.
b. Nghệ thuật: bút pháp tả cảnh ngụ tình tài hoa, đặc sắc, sử dụng đắt giá ngôn ngữ
và phát huy triệt để giá trị các biện pháp tu từ, nghệ thuật khắc hoạ nội tâm nhân vật
qua ngôn ngữ độc thoại tinh tế.
3. Nêu ra những tác động của đoạn trích đối với bản thân:
- Nhận ra giá trị của thiên nhiên trong tác phẩm: thiên nhiên vừa làm nền để khiến
nhân vật nổi bật hơn mà còn là một hình tượng nghệ thuật được tác giả gửi gắm thông
điệp. Thiên nhiên đã trở thành không gian - thời gian nghệ thuật của tác phẩm, cho
thấy quan niệm về thế giới, chiều sâu cảm thụ cuộc sống của tác giả.
- Tác phẩm đã góp phần làm rõ đặc trưng của văn học Việt Nam: Hòa hợp với thế
giới tự nhiên là một trong những đặc điểm lớn của con người Việt Nam. Do đó, tình
yêu thiên nhiên là một nội dung quan trọng của văn học Việt Nam; trong văn học
trung đại, hình tượng thiên nhiên thường gắn với lí tưởng đạo đức, thẩm mĩ; trong văn
học hiện đại, hình tượng thiên nhiên thể hiện tình yêu quê hương đất nước, yêu cuộc
sống. Sự gắn bó giữa con người và thiên nhiên gần như đã trở thành bản sắc của văn
học, văn hóa Việt Nam,
4. Gợi ý tác phẩm có thể liên hệ so sánh: Cảnh ngày xuân (trích Truyện Kiều,
Nguyễn Du), Ánh trăng (Nguyễn Duy), Sang thu (Hữu Thỉnh),…

Đề 2. Gợi ý tác phẩm: Trong lòng mẹ (Nguyên Hồng), Gió lạnh đầu mùa (Thạch
Lam), Chiếc lá cuối cùng (O. Henry), Hai cây phong (trích Người thầy đầu tiên,
C.Aitmatov),…
CHỦ ĐỀ 20

Câu 1.
a. Trong văn bản 1, tác giả cho biết để chắc chắn bản thân luôn là một điều quý
giá trong cuộc sống này thì mỗi cá nhân cần “luôn nỗ lực và sống tốt”.
b. Từ mượn trong câu văn “Tuy lao động có thể chưa tạo ra được tiền nhưng cũng
góp phần vào sự phát triển của trẻ và đó chính là giá trị của lao động.” là: lao động,
phát triển, giá trị. (HS cần nêu đúng 2/3 từ)
c.
Điểm giống nhau: cả hai văn bản đều khẳng định tầm quan trọng của giá trị bản
thân mỗi con người.
Điểm khác nhau:
- Văn bản 1: Tác giả khuyên chúng ta không nên vì lời nhận xét, đánh giá tiêu
cực của người khác mà trở nên tự ti về bản thân mình. Đồng thời người viết còn đưa
ra cách thức để giúp bản thân mỗi người trở nên quý giá.
- Văn bản 2: Tác giả khẳng định chỉ có lao động và tạo ra giá trị lao động thì con
người mới tìm thấy được giá trị của chính mình. Đồng thời, từ việc chỉ ra lợi ích từ
việc cho trẻ lao động vừa sức người viết đưa ra lời khuyên, giải pháp tích cực dành
cho ba mẹ để phát triển toàn diện của một đứa trẻ.
d. HS tự do trình bày quan điểm cá nhân, miễn hợp lí và thuyết phục; lưu ý đảm bảo
số câu theo yêu cầu.
Có thể theo gợi ý sau:
- Trên đời này, không ai là hoàn hảo. Bản thân mỗi người luôn có những giá trị
riêng biệt. Việc chúng ta cần làm là hãy tự tin về chính mình, phát huy sở trường của
chính mình; tích cực học hỏi, nỗ lực rèn luyện khắc phục nhược điểm để bản thân
ngày càng hoàn thiện.
- Lao động chính là cánh cửa giúp con người khám phá, khẳng định được tư, suy,
sự sáng tạo, bản lĩnh của chính mình. Thành quả lao động chính là thước đo giá trị của
bản thân. Xã hội không có lao động sẽ không bao giờ phát triển được. Chính vì thế,
hãy tập làm quen với lao động ngay từ khi còn nhỏ và cũng từ những việc nhỏ nhất
xuất phát từ chính nhu cầu của mình.

Câu 2.
1. Giới thiệu vấn đề nghị luận
2. Giải thích:
- Quan trọng có nghĩa là có ảnh hưởng, tác dụng to lớn, đáng được đề cao, coi
trọng. Bài học ở đây được hiểu là những điều có tác dụng giáo dục, những kinh
nghiệm bổ ích rút ra được trong quá trình học tập, rèn luyện.
- Ý kiến trên đã khẳng định: trong vô vàn điều quan trọng trên đời, cuộc sống đã
giúp ta hiểu rằng chính chúng ta chính là điều quan trọng nhất, chúng ta cần nhận thức
được ý nghĩa sự tồn tại của mình trên đời, nhận ra những giá trị riêng của bản thân để
trân trọng, tự tin và yêu thương bản thân nhiều hơn.
3. Bàn luận:
- Con người sinh ra không có ai là hoàn hảo, có người tài giỏi, có người kém hơn
nhưng ai cũng có trong mình những giá trị riêng biệt cần được tôn trọng.
- Bản thân bạn mang giá trị dù lớn lao hay nhỏ bé thì nó cũng là yếu tố cốt lõi tạo
nên con người bạn, không lẫn với bất kì một ai. Chính vì thế chúng ta, ai cũng cần tự
tin và tôn trọng chính bản thân mình cũng như tôn trọng những người xung quanh dù
họ có là ai đi nữa.
- Mỗi cá nhân là một thực thể riêng biệt, độc đáo, mỗi người có giá trị riêng. Có
những người ngay từ khi sinh ra đã có những ưu điểm nổi trội, nhưng lại có những
người cần rèn luyện, phấn đấu để tạo ra giá trị đích thực của mình. Dù là giá trị sẵn có
hay cố gắng xây dựng thì mỗi chúng ta hàng ngày hàng giờ vẫn phải không ngừng nỗ
lực, cố gắng, rèn rũa bản thân để khẳng định được giá trị của chính mình.
- Phê phán những người quá tự ti, nhút nhát, không tự tin vào bản thân, không
hiểu được giá trị của chính mình. Họ luôn cảm giác mình là người kém cỏi, không
làm được điều gì to tát, chỉ muốn an phận thủ thường. Chính sự tự ti đó đã làm cho họ
trở nên rụt rè, không dám khẳng định cái tôi. Đồng thời cũng phê phán những kẻ tự
tin thái quá vào chính mình, luôn kiêu căng, ngạo mạn, khinh thường người khác, tự
phụ không nghe bất cứ ai, luôn làm theo ý mình, không có sự phối kết hợp với người
khác.
4. Bài học nhận thức và hành động:
- Mỗi người có một cách nhìn nhận, một cách thể hiện khác nhau về giá trị của
bản thân. Dù là ai thì cũng nên bộc lộ hết khả năng của mình, đúng thì mọi người tán
dương, sai thì sửa chữa để rút ra kinh nghiệm. Dù có thế nào thì cũng hãy sống hết
mình.
- Hãy sống bằng chính con người bạn, đừng sống vì người khác cũng đừng cố
làm hài lòng tất cả mọi người, đó là điều không thể và cũng không cần thiết. Chỉ cần
ta sống chân thành và hài lòng về bản thân, như vậy là đủ rồi.
Lưu ý: Học sinh cần phân tích các dẫn chứng để làm sáng tỏ vấn đề.

Câu 3.
Đề 1.
1. Giới thiệu vấn đề nghị luận:
- Phạm Tiến Duật là một trong những gương mặt tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ
trẻ thời chống Mĩ cứu nước, nổi bật với giọng điệu sôi nổi, trẻ trung, hồn nhiên, tinh
nghịch mà sâu sắc.
- Bài thơ về tiểu đội xe không kính nằm trong chùm thơ của Phạm Tiến Duật bao
gồm 4 bài được tặng giải Nhất cuộc thi của báo Văn nghệ năm 1969 và được đưa vào
tập thơ Vầng trăng quầng lửa (1970) sáng tác trong những ngày cuộc kháng chiến
chống Mĩ đầy ác liệt.
- Dẫn vào vấn đề nghị luận: Bài học cuộc sống giản dị nhưng thấm thía rút ra từ
bài thơ.
2. Cảm nhận tác phẩm được chọn:
a. Nội dung:
 Vật chất thiếu thốn, hoàn cảnh chiến đấu gian khó là cơ hội để thể hiện sự
giàu có, phong phú của tinh thần và vẻ đẹp của phẩm chất:
- “Bom giật, bom rung, bom rơi” làm cho những chiếc xe ấy biến dạng thêm,
trần trụi hơn nữa. Biện pháp tu từ liệt kê (không có kính, không có mui xe, không
có đèn không đèn, thùng xe có xước) kết hợp cùng điệp ngữ “không có” để nhấn
mạnh thêm tính chất ác liệt của chiến tranh đã tàn phá làm những chiếc xe trở nên
thiếu sót, cũng đầy mất mát, thương tổn như bao con người đang dấn thân vào
cuộc chiến. Qua khung cửa xe không còn kính chắn, người lái xe tiếp xúc trực
tiếp với thế giới bên ngoài, và điều đầu tiên họ cảm nhận chính là những cơn gió
thổi qua rừng Trường Sơn. Khó khăn tiếp theo là bụi phun mù trời và cuối cùng
là những cơn mưa rừng xối xả tuôn rơi.
- Thế nhưng, thiếu đi những phương diện vật chất tối thiểu lại là hoàn cảnh
để người lái xe bộc lộ những phẩm chất cao đẹp, sức mạnh tinh thần lớn lao của
họ, đặc biệt là lòng dũng cảm, tinh thần bất chấp gian khổ, khó khăn. Câu thơ
“Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng” với điệp từ “nhìn” và những đối tượng của
hành động (nhìn đất, nhìn trời) cũng như tính chất của hành động (nhìn thẳng)
gợi ra nhiều ý nghĩa sâu sắc: nó vừa nêu bật tính chất can đảm, tinh thần trách
nhiệm, hoạt động thường ngày của người lính lái xe vừa thể hiện nghị lực luôn
nhìn thẳng vào gian khó, nhìn thẳng vào thực tế khốc liệt của chiến tranh, nhìn
thẳng về phía trước với ý chí sẵn sàng, quyết tâm đương đầu với thử thách, chông
gai.
- Cụm từ “Ung dung buồng lái ta ngồi” kết hợp từ láy “ung dung” với biện
pháp đảo ngữ cho ta thấy tư thế thong thả, khoan thai, bình tĩnh đến tự tin của
những người làm chủ và chiến thắng hoàn cảnh. Tư thế “Nhìn đất, nhìn trời, nhìn
thẳng” qua khung cửa xe không còn kính chắn gió tạo cho họ những cảm giác
mới lạ, thoải mái đầy thích thú khi không gì có thể ngăn cách họ với thiên nhiên.
Các anh nhìn thấy từ “gió”, “con đường” đến cả “sao trời”, “cánh chim”. Thế
giới bên ngoài ùa vào buồng lái với tốc độ chóng mặt tạo những cảm giác đột
ngột cho người lái. Hình ảnh “những cánh chim sa, ùa vào buồng lái” thật sinh
động, gợi cảm. Tầm vóc của người lính (và cả những chiếc xe không kính) được
nâng bổng lên khỏi hiện thực khắc nghiệt, con đường vùn vụt “chạy thẳng vào
tim”, “sao trời” và “cánh chim” đột ngột như sa vào buồng lái vì tốc độ quá
nhanh, xe lướt giữa mặt trận và người lính lái xe như thăng hoa trong khoảnh
khắc, được sống, được giao hòa cùng thiên nhiên, đất trời.
- Từ gian khổ, khó khăn, thậm chí là cõi chết (từ trong bom rơi), những
người cùng chung chiến tuyến, cùng chung lí tưởng “đã về đây” và càng đi họ lại
càng “Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới” và họ có những “Cái bắt tay qua cửa
kính vỡ rồi” để chúc mừng hoàn thành nhiệm vụ, là lời động viên nhau bước tiếp
trên hành trình mình đã chọn, trở thành biểu tượng cho tinh thần đoàn kết, tình
yêu thương đồng đội. “Cái bắt tay” và hành động “chung bát đũa” đã biểu hiện
rõ tình cảm đồng đội đồng chí keo sơn, nhờ đó mà mọi khó khăn gian khổ họ đều
vượt qua.
 Sức mạnh của lòng yêu nước, của niềm tin tất thắng:
- Câu thơ “Lại đi lại đi trời xanh thêm” với năm thanh bằng và điệp ngữ “lại
đi” tạo âm điệu thanh thản, nhẹ nhàng, đã vẽ nên những ngày mai tươi sáng,
những ngày vẫn “xanh thêm” niềm tin chiến thắng. “Trời xanh thêm” vì lòng
người phơi phới say mê trước những chặng đường đã đi và đang đến. “Trời xanh
thêm” vì lòng người luôn có niềm tin về một ngày mai chiến thắng.
- Khổ thơ cuối dựng lên hai hình ảnh đối lập đầy kịch tính, bất ngờ thú vị.
Hai câu đầu dồn dập những mất mát khó khăn do quân thù gieo xuống, do đường
trường gây ra (xe không kính, không đèn, không mui, thùng xe bị xước) nhưng
hai câu sau bật lên lòng yêu nước nồng nàn thể hiện qua quyết tâm chiến đấu.
Điệp ngữ “không có” nhắc lại ba lần cộng với phép liệt kê như nhân lên những
thử thách khốc liệt. Hai dòng thơ được ngắt thành bốn phần theo nhịp 3/5 và 4/4:
“Không có kính, rồi xe không có đèn, / Không có mui xe, thùng xe có xước” như
bốn chặng gập ghềnh, khúc khuỷu, đầy chông gai bom đạn. Hai câu cuối âm điệu
đối chọi lại, trôi chảy, hình ảnh đậm nét. Đoàn xe đã chiến thắng, vượt lên bom
đạn, hăm hở hướng ra tiền tuyến lớn với tình cảm thiêng liêng “vì miền Nam”, vì
cuộc chiến đấu giành độc lập, thống nhất cho cả nước.
- Chói ngời, toả sáng khổ thơ, cả bài thơ là hình ảnh “trong xe có một trái
tim”. Cội nguồn sức mạnh của cả đoàn xe, gốc rễ anh hùng của mỗi người cầm
lái tích tụ, kết đọng ở hình ảnh này. Biện pháp hoán dụ cùng nghệ thuật đối lập
tương phản đã làm sáng lên vẻ đẹp tâm hồn của người chiến sĩ lái xe. Ẩn sau ý
nghĩa dòng thơ “Chỉ cần trong xe có một trái tim” là chân lý của thời đại chúng
ta: sức mạnh quyết định, chiến thắng không phải là vũ khí, công cụ mà là con
người giàu ý chí, anh hùng, lạc quan, quyết thắng, là tình yêu nước nồng nàn, là
bầu nhiệt huyết sẵn lòng quên mình vì nước.
b. Nghệ thuật: thể thơ tự do phóng khoáng, chất liệu hiện thực sinh động, ngôn ngữ
thơ giản dị, giàu tính khẩu ngữ, hình ảnh thơ độc đáo, giọng điệu tự nhiên, khỏe
khoắn.
3. Nêu ra những tác động của tác phẩm đối với bản thân:
- Cuộc sống này trở nên đơn giản biết bao, nếu ai cũng nhận thấy mối tương quan
giữa các giá trị tinh thần và vật chất. Nếu chúng ta biết sử dụng đúng giá trị vật chất,
những điều tốt đẹp sẽ không mất đi mà còn đem đến cho chúng ta những giá trị tinh
thần nhiều hơn nữa. Khi có thêm hoặc bớt đi một giá trị vật chất, chúng ta thường cho
là được hoặc mất. Quan trọng không phải là được hay mất, mà điều cần để chúng ta
xét đến đó là giá trị tinh thần. Giá trị của vật chất phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố tinh
thần, vì vậy sự chuẩn bị về mặt tinh thần là nhiệm vụ quan trọng hơn hết.
- Mỗi tác phẩm giá trị luôn chuyển tải những bài học, những thông điệp nhân văn,
thể hiện cảm quan sâu sắc và thái độ của nhà văn đối với nhân sinh. Để nhận ra những
bài học, những thông điệp ấy, người đọc phải có vốn sống và những kinh nghiệm
nghệ thuật nhất định, bao hàm trong đó sự hiểu biết về tính đặc thù của ngôn từ văn
học, hình tượng văn học, cấu trúc riêng của từng thể loại, đặc điểm phong cách, thi
pháp của từng nền văn học, từng trào lưu, từng tác giả… Hơn thế, người đọc phải hiểu
rằng không thể tùy tiện bóp méo ý nghĩa của tác phẩm bất chấp sự phản đối của các
dữ kiện và tương quan trong đó, bất chấp tính xã hội của phương tiện ngôn ngữ, tệ
hơn, bất chấp sự tồn tại của thế giới tinh thần tác giả được thể hiện, gửi gắm vào tác
phẩm.
4. Gợi ý tác phẩm có thể liên hệ so sánh: Ánh trăng (Nguyễn Duy), Mùa xuân nho
nhỏ (Thanh Hải), Nói với con (Y Phương),…
Đề 2. Gợi ý tác phẩm: Những tấm lòng cao cả (Edmondo De Amicis), Hoàng tử bé
(Antoine de Saint-Exupéry), Robinson Crusoe (Daniel Defoe), Người thầy đầu tiên
(C.Aitmatov),…
CHỦ ĐỀ 21

Câu 1.
a. Trong văn bản 1, tác giả cho biết trải nghiệm có giá trị sau: giúp chúng ta không
cảm thấy bị áp lực trong việc đi tìm sự lựa chọn cho riêng mình, là điều làm nên con
người thật sự của bạn.
b. Khởi ngữ trong câu văn là: Con đường của bạn.
c. Điểm giống về nội dung giữa hai văn bản: đều nói về giá trị của sự trải nghiệm.
Điểm khác nhau về nội dung giữa hai văn bản:
- Văn bản 1: Khẳng định những lợi ích của việc trải nghiệm mang lại.
- Văn bản 2: Đưa ra những lời khuyên cụ thể khi chúng ta rơi vào bế tắc, đối diện
với những khó khăn trong cuộc sống. Từ đó khẳng định ý nghĩa của việc trải nghiệm
mang lại.
d. Học sinh tự do trình bày quan điểm cá nhân, miễn hợp lí và thuyết phục; Lưu ý
đảm bảo số câu theo yêu cầu.
Có thể theo gợi ý sau:
Đồng ý với quan điểm.
Nguyên nhân:
- Khi đối diện với những vấn đề nan giải, khó khăn nếu con người có niềm tin
vào chính bản thân mình lúc ấy chúng ta sẽ ý thức được giá trị và khả năng của bản
thân.
- Khi gặp những vấn đề nan giải, nếu chúng ta còn mục tiêu, nó sẽ giúp định
hướng và khích lệ chúng ta không ngừng tiến bước về phía trước.
- Còn niềm tin và còn mục tiêu sẽ giúp chúng ta sẽ huy động được toàn bộ sự cố
gắng, trí tuệ và năng lực của bản thân để giải quyết vấn đề khó khăn gặp phải.

Câu 2.
1. Giới thiệu vấn đề nghị luận
2. Giải thích:
- Trải nghiệm là việc tự mình trải qua, tự mình va chạm với cuộc sống và tự rút ra
bài học cho bản thân, từ đó hoàn thiện và phát triển bản thân mình theo chiều hướng
tích cực hơn.
- Ý kiến trong đề nhấn mạnh đến tầm quan trọng của sự trải nghiệm, nó vô cùng
quan trọng đối với con người đặc biệt là giới trẻ hiện nay. Chính trải nghiệm là một
trong những yếu tố làm nên giá trị thật sự của mỗi người.
3. Bàn luận:
- Cuộc sống luôn vận động, vì vậy bắt buộc chúng ta không ngừng tìm tòi, khám
phá để nâng cao hiểu biết của bản thân. Quá trình đó là sự trải nghiệm, nó đem đến
cho chúng ta những kiến thức, sự hiểu biết và kinh nghiệm thực tế. Từ đó, giúp chúng
ta trưởng thành hơn về cách nghĩ, cách sống.
- Trải nghiệm trong cuộc sống là cơ hội để mỗi cá nhân nhìn lại bản thân mình;
khám phá, nhận thức sâu sắc về chính mình, từ đó nhận ra những ưu điểm của bản
thân mà phát huy, nhận ra những hạn chế mà khắc phục để góp hoàn thiện bản thân và
mang lại những giá trị tích cực cho bản thân. Chỉ có trải nghiệm mới giúp chúng ta
biết mình là ai, chúng ta có những khả năng gì và sống một cuộc sống thật ý nghĩa.
- Trải nghiệm giúp mỗi người dấn thân, thử nghiệm để sáng tạo; biết cách vượt
qua những trở ngại khó khăn, từ đó có môi trường để rèn luyện cho mình một ý chí,
nghị lực mạnh mẽ, một bản lĩnh lớn lao để có thể tự mình vượt qua những khó khăn
của cuộc sống.
- Thực tế, nhiều bạn trẻ chưa coi trọng hoạt động trải nghiệm để bản thân trưởng
thành. Một số khác lại đắm chìm trong thế giới ảo. Đặc biệt hơn nữa, có những bạn trẻ
lại lao vào thử nghiệm những điều có hại, sa vào tệ nạn…
4. Bài học nhận thức và hành động:
- Mỗi cá nhân cần nhận thức được vai trò quan trọng và cần thiết của trải nghiệm,
biết trải nghiệm tích cực để giúp bản thân trưởng thành, vững vàng hơn trong cuộc
sống.
- Tích cực đi và khám phá những điều mới mẻ, hãy trải nghiệm để thấy được giá
trị tích cực của cuộc sống. Và rồi bạn sẽ tìm được niềm cảm hứng tuyệt vời nhất trong
chính những trải nghiệm của mình.
Lưu ý: Học sinh cần phân tích các dẫn chứng để làm sáng tỏ vấn đề.
Câu 3.
Đề 1.
1. Giới thiệu vấn đề nghị luận:
- Y Phương quê ở Cao Bằng, người dân tộc Tày, thơ ông thể hiện tâm hồn chân
thật, mạnh mẽ và trong sáng, cách tư duy giàu hình ảnh của con người miền núi.
- Bài thơ Nói với con được viết năm 1980, in trong tập Thơ Việt Nam 1945 –
1985, là lời tâm sự của tác giả với đứa con gái đầu lòng và với chính bản thân.
- Dẫn vào vấn đề nghị luận: hành trang con có thể gói ghém để vào đời thể hiện
trong bài thơ.
2. Cảm nhận bài thơ được chọn:
a. Nội dung:
 Tình yêu thương của cha mẹ:
- Bốn câu thơ đầu gợi lên không khí gia đình đầm ấm, quấn quýt và hạnh
phúc với hình ảnh đứa con, cha mẹ, tiếng nói, tiếng cười. Từng bước đi, từng
tiếng nói cười của người con đều được cha mẹ chăm chút và vui mừng đón nhận.
Và cứ thế, con lớn lên từng ngày trong tình yêu thương, trong sự nâng đỡ, trong
vòng tay chăm chút, che chở của cha mẹ.
- Người cha nhắc đến kỉ niệm ngày cưới của cha mẹ với con để mong con
luôn nhớ con đã được sinh thành trong cội nguồn của hạnh phúc. Không khí gia
đình nhỏ bé này thật ấm áp, êm đềm, quấn quýt. Chăm chút từng bước đi, từng nụ
cười, tiếng nói của con. Gia đình chính là cái nôi êm, cái tổ ấm để con sống, lớn
lên và trường thành trong bình yên và tình yêu, niềm mơ ước của cha mẹ. Và
hành trang đầu tiên con mang vào đời chính là tình yêu thương của gia đình.
- Cuối bài, qua lời dặn dò, cha trao gửi cho con niềm tin yêu, khát vọng. Trên
đường đời, con phải sống cao thượng, tự trọng, con “không bao giờ nhỏ bé
được” dù con đường phía trước còn nhiều chông gai. Con hãy tự tin bước đi, bởi
sau lưng con có gia đình, quê hương. Hai tiếng “Nghe con” khép lại bài thơ để lại
một dư âm nhẹ nhàng mà âm vang xao xuyến: mong con sống có tình nghĩa, biết
chấp nhận gian khó, vươn lên bằng ý chí của mình, vững vàng trên đường đời.
Lòng tự hào với quê hương và niềm tự tin khi bước vào đời – nói với con mà
chính là cha đã trao tặng cho con, đã vun đắp cho con những tình cảm tốt đẹp,
cho con một hành trang quý và đã sẵn sàng cho con tung cánh bay đi khắp mọi
nơi.
 Truyền thống của “người đồng mình”:
- “Người đồng mình” sống vất vả, nghèo đói, cực nhọc, lam lũ nhưng lạc
quan, chân chất, yêu đời, mạnh mẽ, khoáng đạt với chí lớn, luôn yêu quý, tự hào
và gắn bó với quê hương. Người cha muốn giáo dục cho con sống phải có nghĩa
tình, chung thủy với quê hương, biết chấp nhận và vượt qua gian nan thử thách
bằng ý chí và niềm tin của mình. Người đồng mình sống vất vả mà mạnh mẽ,
khoáng đạt, bền bỉ, gắn bó với quê hương, thủy chung với nơi chôn nhau cắt rốn
cho dù quê hương còn cực nhọc, đói nghèo. Biết lấy chiều “cao (để) đo nỗi
buồn”, khoảng cách “xa (để) nuôi chí lớn”, không bao giờ lùi bước trước mọi
thử thách, khó khăn, tâm càng sáng, chí càng cao, tầm nhìn càng xa rộng, tràn đầy
niềm vui và lòng lạc quan.
- Lời thơ gân guốc, hình ảnh thơ vừa cụ thể vừa giàu tính khái quát, làm rạng
ngời lên vẻ đẹp của con người quê hương: vẻ đẹp của sự cần cù nhẫn nại, ý chí
bền bỉ, nghị lực phi thường vẻ đẹp của sức mạnh tự cường, tinh thần tự chủ, bằng
bàn tay khối óc, bằng ý chí, niềm tin và khát vọng, họ đã làm nên một quê hương
với những truyền thống tốt đẹp, đáng tự hào.
- Với nhiều âm tiết khép, nhiều thanh trắc, cách ngắt nhịp linh hoạt, điệp từ
“Sống”, lời thơ giản dị, chắc nịch mà lay động, thấm thía, có tính truyền cảm
mạnh mẽ, thái độ rất đỗi tự hào để những lời dặn dò ân cần tha thiết hơn: Con hãy
tự tin vững bước trên đường đời dài rộng bằng chí khí mạnh mẽ và tâm hồn lớn
lao của người đồng mình, con hãy sống xứng đáng với truyền thống tốt đẹp của
quê hương.
b. Nghệ thuật: Bài thơ có bố cục chặt chẽ, dẫn dắt tự nhiên, xây dựng những hình
ảnh vừa cụ thể, vừa mang tính khái quát, mộc mạc mà vẫn giàu chất thơ, giọng điệu
thủ thỉ, tâm tình tha thiết, trìu mến.
3. Nêu ra những tác động của bài thơ đối với bản thân:
- Tác phẩm giúp em nhận ra gia đình luôn đóng một vai trò rất quan trọng tác
động đến sự hình thành nhân cách cũng như sự thành công của mỗi con người. Ai
sinh ra cũng có một gia đình để được yêu thương, chở che và được “trở về” sau những
ngày vất vả của cuộc sống. Sau những thất bại hay thành công, mọi người đều muốn
quay về bên gia đình để được cha mẹ động viên, được tiếp thêm nguồn năng lượng và
vực dậy tinh thần, bước tiếp trên con đường đã chọn. Hạnh phúc nhất là luôn nhận
được sự tin tưởng, ủng hộ của gia đình trong mỗi hành động, mỗi việc làm.
- Giá trị truyền thống là những yếu tố thuộc về vật chất, tinh thần đại diện cho
cộng đồng, xã hội qua mỗi thời kỳ lịch sử, trở thành bản sắc riêng được sử dụng, gìn
giữ theo thời gian: hiện vật, tư tưởng, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, phong tục, tập
quán… Nó là kết tinh của những điều tốt đẹp nhất thuộc về một dân tộc. Bởi vậy, cần
thiết phải được trân trọng, giữ gìn hơn bao giờ hết. Trân trọng giá trị truyền thống
giúp mỗi người hiểu rõ hơn về cội nguồn, về quê hương, đất nước mình. Đó cũng là
cách chúng ta bồi bổ cho tâm hồn mình trở nên giàu có, để sống tử tế, ý thức được vai
trò, trách nhiệm của mình trong công cuộc xây dựng đất nước phát triển, đẹp giàu.
4. Gợi ý tác phẩm có thể liên hệ so sánh: Bài thơ về tiểu đội xe không kính (Phạm
Tiến Duật), Mùa xuân nho nhỏ (Thanh Hải), Ánh trăng (Nguyễn Duy),…

Đề 2. Gợi ý tác phẩm: Hoàng tử bé (Antoine de Saint-Exupéry), Robinson Crusoe


(Daniel Defoe), Nhà giả kim (Paulo Coelho), Ông già và biển cả (E. Hemingway),
Trên đường băng (Tony Buổi sáng),…
CHỦ ĐỀ 22

Câu 1.
a. Trong văn bản 1, tác giả cho biết việc chúng ta lao động để hạnh phúc sẽ đem lại
những điều sau:
- Sẽ có cơ hội để được hạnh phúc mỗi ngày.
- Biến nơi làm việc của chúng ta thành nơi tạo nên và dung chứa hạnh phúc.
- Biến công việc thành đam mê và là cách để chúng ta tạo ra giá trị sống của mình.
b. Thành phần biệt lập trong câu văn: Thành phần phụ chú (trưởng khoa hồi sức tích
cực và chống độc).
c.
Điểm giống nhau: bàn về ý nghĩa, giá trị của lao động và cống hiến.
Điểm khác nhau:
- Văn bản 1: Khẳng định giá trị tuyệt vời của việc lao động để có được hạnh
phúc.
- Văn bản 2: Đề cao giá trị của sự cống hiến bền bỉ, quên mình mà bác sĩ Phan
Thị Phụng đã mang lại cho xã hội.
d. Học sinh tự do trình bày quan điểm cá nhân, miễn hợp lí và thuyết phục; Lưu ý
đảm bảo số câu theo yêu cầu.
Có thể theo gợi ý sau:
Đồng ý với quan điểm “Nếu chúng ta lao động để hạnh phúc, chúng ta sẽ biến
công việc thành đam mê”.
Nguyên nhân:
Chọn lao động để hạnh phúc, chúng ta sẽ dốc lòng và dốc sức làm việc với sự
nhiệt huyết, tận tâm, hăng hái một cách toàn vẹn nhất.
Chọn lao động để hạnh phúc, chúng ta sẽ có sự yêu thích và khao khát, cảm thấy
thoải mái, tự tin, có nhiều sự sáng tạo, ý tưởng độc đáo hơn.
Chọn lao động để hạnh phúc, công việc sẽ tiến triển suôn sẻ, hiệu quả, năng suất
làm việc sẽ được như mong muốn, khiến ta yêu thích và gắn bó với công việc hơn.

Câu 2.
1. Giới thiệu vấn đề nghị luận
2. Giải thích:
- Gia đình là đơn vị nhỏ nhất trong xã hội, trong đó, các thành viên gắn bó với
nhau bằng quan hệ hôn nhân và quan hệ huyết thống. Mỗi người đều được sinh ra từ
một gia đình và luôn nhận được tình cảm yêu thương từ các thành viên khác trong gia
đình.
- Chính vì thế mà bản thân chọn ở bên gia đình là điều hạnh phúc nhất mỗi
ngày. Không gì khác, gia đình là nguồn động lực tinh thần để nâng bước cho ta trên
đường đời và gia đình cũng là nơi luôn dang tay đón chờ ta trở về sau những thành
công hay thất bại trong cuộc sống.
3. Bàn luận:
- Gia đình chính là nơi cho ta sự sống, nơi ta được nuôi dưỡng cho đến lúc
trưởng thành, nơi chứng kiến những bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời ta. Hơn
thế, gia đình luôn ở phía sau, động viên và hỗ trợ tinh thần cho chúng ta. Trong cuộc
mưu sinh vất vả, mỗi người không thể tránh khỏi những khi vấp ngã, đau buồn hay
khó khăn, vất vả. Khi đó ta thường trở về với gia đình để mong tìm được sự giúp đỡ,
an ủi, chia sẻ.
- Khi mắc sai lầm, ta có thể bị những người bạn xung quanh xa lánh nhưng gia
đình không bao giờ quay lưng lại với ta mà đó là nơi ta nhận được sự tha thứ và tình
yêu thương chân thành nhất. Khi thành công trong công việc, gia đình cũng là nơi mà
ta muốn được chia sẻ niềm hạnh phúc đó nhiều nhất… Có được một gia đình hạnh
phúc là ta có được một điểm tựa vững chắc trong cuộc sống. Điểm tựa ấy giúp ta có
nghị lực, có niềm tin để thực hiện ước mơ của bản thân cũng như có niềm hi vọng vào
tương lai.
- Gia đình còn là nơi vun đắp cho ta những tình cảm tốt đẹp khác như tình cảm
gắn bó với quê hương, lòng yêu thương con người, tình yêu đất nước, …
- Hiểu được ý nghĩa quan trọng của gia đình, chúng ta càng phải lên án những
kẻ chối bỏ gia đình hoặc xem nhẹ tình cảm gia đình.
4. Bài học nhận thức và hành động:
- Nhắc đến gia đình, ngay lập tức trong ta vang lên tiếng nói của tình thương và
trách nhiệm. Mỗi cá nhân phải biết trân trọng, gắn bó, yêu quý và quan tâm đến các
thành viên trong gia đình.
- Mỗi người phải nhận thức được giá trị của gia đình đối với bản thân và xã hội,
có ý thức xây dựng một gia đình hạnh phúc và giữ gìn những truyền thống tốt đẹp của
gia đình.
Lưu ý: Học sinh cần phân tích các dẫn chứng để làm sáng tỏ vấn đề.

Câu 3.
Đề 1.
1. Giới thiệu vấn đề nghị luận:
- Huy Cận quê ở Hà Tĩnh, là một nhà thơ nổi tiếng trong phong trào Thơ mới, sau
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thơ ông có sự thay đổi khi nhìn con người giữa cuộc
đời, con người gắn bó trong các mối quan hệ xã hội hoà hợp tin yêu.
- Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá in trong tập Trời mỗi ngày lại sáng, được tác giả
viết vào nửa cuối năm 1958 sau chuyến đi thực tế dài ngày ở Quảng Ninh, hòa trong
khí hào hứng, phấn chấn, tin tưởng khi miền Bắc được giải phóng và đi vào xây dựng
cuộc sống mới.
- Dẫn vào vấn đề nghị luận: những nỗ lực không ngừng nghỉ để hướng đến thành
quả tốt đẹp trong hiện tại và tương lai của ngư dân thể hiện trong bài thơ.
2. Cảm nhận tác phẩm được chọn:
a. Nội dung:
 Sự hăng hái khi ra khơi:
- Trong lúc mọi vật nghỉ ngơi thì “đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi” với
“câu hát căng buồm cùng gió khơi”. Thuyền đi không phải một chiếc mà là cả
một “Đoàn thuyền”, điều đó chứng tỏ việc ra khơi không hề đơn lẻ. Đó là sự gắn
bó, đoàn kết, tinh thần lao động tập thể là truyền thống từ ngàn xưa của nhân dân
ta.
- Tác giả đã sử dụng từ “lại” để nói về hoạt động của đoàn thuyền; vừa diễn
tả một hoạt động lặp đi lặp lại trong những khoảng thời gian nhất định vừa biểu
thị ý so sánh ngược chiều: đất trời vào đêm nghỉ ngơi mà con người bắt đầu lao
động.“Lại ra khơi”, chứng tỏ đây không phải là lần đầu tiên đoàn thuyền ấy ra
khơi, nhưng hoạt động ấy vẫn lặp đi lặp lại thường xuyên như một thói quen
thường ngày. Nó ấn định thời gian rất cụ thể, cứ theo định kì, mỗi khi hoàng hôn
buông xuống thì những người ngư dân lại giăng buồm ra khơi.
- Và họ ra khơi không phải trong lặng thầm, yên ắng mà với tiếng hát cất cao
vang động cả biển trời. Câu thơ vừa lãng mạn vừa khỏe khoắn với hình ảnh ẩn dụ
“câu hát căng buồm” khi tác giả đã biến cái ảo thành cái thực tạo khí thế phơi
phới, mạnh mẽ của đoàn thuyền.
 Niềm hăng say lao động giữa biển đêm:
- Khi sao mờ tức là trời gần sáng, như thế cũng đồng nghĩa với việc buổi lao
động của những người ngư dân trên biển sắp kết thúc. Câu thơ đầu khổ 6 giọng
thơ gấp, từ ngữ như được tiết chế để nêu bật không khí khẩn trương hơn khi thời
gian càng gần về sáng không khí càng khẩn trương hơn. “Kéo xoăn tay” là một
cụm từ giàu sức gợi, giúp ta hình dung, bàn tay khỏe khoắn của những người dân
chài lưới và cả tốc độ kéo lưới hối hả để nhanh chóng đưa những “chùm cá
nặng” vào bên trong khoang thuyền. Và chỉ với từ “Ta”, tác giả kín đáo thể hiện
sự tự hào, kiêu hãnh của một tập thể đầy sức mạnh chứ không còn là cái ta nhỏ bé,
đơn côi giữa cô đơn đất trời.
- Những “chùm cá nặng” nằm yên trên khoang thuyền với lung linh bao màu
sắc sáng tươi: bạc, vàng, hồng. Chính những màu sắc đó đã nối vào cảnh bình
minh đang lên thật ấn tượng. Ánh sáng, niềm vui không chỉ đem lại từ mặt trời ló
dạng mà còn từ thành quả lao động (vảy bạc đuôi vàng) của con người. Những
người ngư dân lại chuẩn bị “lưới xếp buồm lên” quay trở vào bờ trong nắng mai
rực rỡ. Hình ảnh “nắng hồng” có thể tượng trưng cho ánh nắng của một ngày
mới, ánh nắng của một cuộc đời mới, cuộc đời tràn đầy niềm vui. Mà ở đó, những
người lao động có thể làm chủ cuộc đời mình và phấn khởi, lạc quan với những
thành quả của một chuyến ra khơi mĩ mãn.
 Thành quả tốt đẹp thu nhận về:
- Biện pháp tu từ nhân hóa “đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời” vừa phản
ánh thói quen của ngư dân (đưa cá về bến trước khi trời sáng) vừa thể hiện niềm
tin tưởng, hi vọng của họ trong công cuộc xây dựng đất nước. Trong cuộc đua với
thời gian con người đã chiến thắng. Khi mặt trời vừa đội biển mà lên, đem màu
đỏ sáng cho đất trời thì đoàn thuyền đã về bến từ lâu, chính ánh nắng ban mai đó
đã làm cho thành quả của những người ngư dân thêm rực rỡ, huy hoàng.
- Biện pháp thậm xưng kết hợp với hoán dụ trong hình ảnh “Mắt cá huy
hoàng muôn dặm phơi” đã vẽ nên cảnh bội thu và cuộc sống ấm no, hạnh phúc
của người dân vùng biển. Đoàn thuyền đi trên biển, giữa màu hồng rạng rỡ tinh
khôi và ánh mặt trời phản chiếu trong muôn ngàn mắt cá khiến nhà thơ liên tưởng
đến hàng ngàn những mặt trời nhỏ xíu đang tỏa rạng niềm vui. Bài thơ miêu tả
cảnh đánh bắt cá trong đêm nhưng lại lung linh lấp lánh ánh sáng của trăng, sao,
của cá, ánh sáng của mặt trời xuống biển. Và bây giờ là ánh sáng của mặt trời đội
biển khiến hai dòng cuối tràn đầy ánh nắng, tràn đầy niềm vui tươi phấn khởi của
người dân chài và tinh thần hào hứng của họ khi về bến với thành quả tuyệt vời.
b. Nghệ thuật: Ngôn ngữ thơ giàu nhạc điệu, gợi tả, gợi cảm, bút pháp lãng mạn được
phát huy tối đa giá trị (với các biện pháp nghệ thuật đối lập, so sánh, nhân hóa, phóng
đại), hình ảnh ấn tượng, giàu tính biểu trưng.
3. Nêu ra những tác động của tác phẩm đối với bản thân:
- Tác phẩm giúp em nhận ra vai trò của sự nỗ lực và lòng lạc quan trong cuộc
sống. Hai điều này mang đến cho ta một cuộc sống tươi đẹp hơn, giúp ta thay đổi bản
thân thành một phiên bản khác, tốt hơn và hoàn thiện hơn. Hơn thế, nỗ lực và lạc quan
giúp ta chinh phục mọi nấc thang mục tiêu để vươn đến thành công.
- Con người và giới tự nhiên có mối quan hệ khăng khít với nhau, trong đó giới tự
nhiên làm tiền đề cho con người tồn tại và phát triển. Tuy nhiên, hiện nay trong quá
trình phát triển của mình, con người đang bất chấp quy luật tác động vào tự nhiên và
tự nhiên đang đáp trả những hành động đó của con người. Do vậy, nhận thức đúng
đắn mối quan hệ giữa con người và tự nhiên, tìm kiếm sự hòa hợp với tự nhiên, trân
trọng tự nhiên sẽ giúp cuộc sống con người ổn định hơn, phát triển bền vững, lâu dài.
4. Gợi ý tác phẩm có thể liên hệ so sánh: Đồng chí (Chính Hữu), Mùa xuân nho nhỏ
(Thanh Hải),…

Đề 2. Gợi ý tác phẩm: Robinson Crusoe (Daniel Defoe), Thép đã tôi thế đấy! (N. A.
Ostrovsky), Nhà giả kim (Paulo Coelho), Vượt khỏi giới hạn (Andy Molinsky), Phát
triển năng lực - Kiến tạo tương lai (Bùi Quang Tuyến chủ biên)…
CHỦ ĐỀ 23

Câu 1.
a. Trong văn bản 1, tác giả cho biết mục đích của việc chúng ta giữ cho mình cái tâm
thanh thản là trước hết để hạn chế tối đa những việc làm hay lời nói tổn thương; để
nếu có xảy ra rồi ta vẫn kịp nhận ra mà xoa dịu trước khi quá muộn; và để chính ta
nếu lần sau có nhận những tổn thương từ nỗi giận của ai đó, ta biết bình tâm mà đón
nhận hết mực dịu dàng.
b. Phép liên kết về hình thức được sử dụng trong các câu văn trên: Phép lặp (lời xin
lỗi).
c.
Điểm giống nhau: đều nói về những vấn đề liên quan đến việc kiểm soát cảm xúc,
lời nói trong lúc tức giận để tránh gây tổn thương.
Điểm khác nhau:
- Văn bản 1: bàn về thực trạng con người dễ buông những lời lẽ nặng nề để
xả giận vào người khác khi gặp áp lực và ý nghĩa của việc giữ tâm thanh thản để
đón nhận mọi việc trong cuộc sống.
-Văn bản 2: nêu giá trị của lời xin lỗi (sau cơn nóng giận) đối với người có
lỗi, người được xin lỗi và với việc hàn gắn, duy trì mối quan hệ.
4. HS tự do trình bày quan điểm cá nhân, miễn hợp lí và thuyết phục; lưu ý đảm bảo
số câu theo yêu cầu.
Có thể theo gợi ý sau:
- Nên nhận thức rõ về hậu quả của việc thoả sức buông lời nặng nề để trút
giận lên người khác khi ta gặp áp lực, mệt mỏi; từ đó, học cách tránh làm tổn
thương người khác, vì chính ta cũng không muốn chịu tổn thương từ những lời
xúc phạm.
- Sau khi có lời nói hoặc hành động sai lầm trong cơn nóng giận, cần xin lỗi
một cách chân thành, để giải toả tâm lí căng thẳng cho cả hai bên và duy trì mối
quan hệ. Tuy nhiên, cũng nên lưu ý rằng, không phải bất kì lỗi lầm nào cũng dễ
dàng được bỏ qua. Vì vậy, nên chú ý lời nói và hành động trước khi thực hiện.

Câu 2.
1. Giới thiệu vấn đề nghị luận
2. Giải thích:
- Trách nhiệm được hiểu là việc mà mỗi người cần thực hiện trước người khác
(với người thân, bạn bè, đồng nghiệp, tập thể mà mình thuộc về...)
- Ý kiến trên đã gợi ra vai trò của việc dám chịu trách nhiệm với việc mình đã nói,
đã làm; tức là thái độ, hành động dám đối mặt với những người có liên quan, để nhận
lỗi, nhận trách nhiệm và có thiện chí để khắc phục, thay đổi theo hướng tích cực.
3. Bàn luận:
- Dám chịu trách nhiệm thể hiện phẩm chất của một người bản lĩnh, dám đối mặt
và nhận lỗi khi mắc sai lầm. Từ đó, ta dễ dàng tha thứ cho chính mình, cho bản thân
cơ hội để khắc phục và trưởng thành hơn mỗi ngày, vì ai cũng đã, đang và sẽ mắc sai
lầm trong cuộc sống.
- Khi ta biết nhận trách nhiệm trước điều mình đã nói, đã làm, ta cũng xoa dịu
trái tim bị tổn thương từ lời nói, hành động chưa đúng mực mà ta gây ra cho người
khác. Nhờ đó, người bị tổn thương có thể thoát khỏi cảm xúc tiêu cực.
- Dám chịu trách nhiệm cũng là cách để hai bên trong một mối quan hệ mở lòng
đón nhận nhau, với cả khuyết điểm của đối phương. Nhờ đó, mối quan hệ trở nên gắn
kết, tốt đẹp hơn.
- Phê phán những kẻ hay đổ lỗi, trốn tránh trách nhiệm khi có lời nói, hành động
sai trái với người khác.
4. Bài học nhận thức và hành động:
- Dám chịu trách nhiệm là điều đáng trân quý, tuy nhiên, cần có hành động thiết
thực, chân thành và thiện chí để rèn luyện bản lĩnh dám đối mặt trong cuộc sống.
- Cần chịu trách nhiệm từ việc đơn giản đến phức tạp, từ người thân thiết đến
người xa lạ, trước tiên, từ việc đơn giản và tức thời nhất, là học cách xin lỗi.
Lưu ý: Học sinh cần phân tích các dẫn chứng để làm sáng tỏ vấn đề.
Câu 3.
Đề 1.
1. Giới thiệu vấn đề nghị luận:
- Nguyễn Quang Sáng quê ở An Giang, là nhà văn mà cuộc sống và sáng tác gắn
liền với vùng đất Nam Bộ trong hai cuộc kháng chiến cũng như sau hoà bình. Truyện
ngắn của ông có cốt truyện khá hấp dẫn, chi tiết chọn lọc, tình huống đặc sắc và kịch
tính cao, đậm chất Nam Bộ với lối viết giản dị, ngôn từ mộc mạc.
- Truyện ngắn Chiếc lược ngà được đưa vào tập truyện cùng tên, viết năm 1966,
khi tác giả hoạt động ở chiến trường Nam Bộ.
- Dẫn vào vấn đề nghị luận: Tình huống gặp gỡ - hiểu nhầm được tháo gỡ để làm
nổi bật lên tình cha con thiêng liêng.
2. Cảm nhận tác phẩm được chọn:
a. Nội dung:
 Gặp gỡ và hiểu nhầm:
- Người cha chỉ thấy mặt con qua tấm ảnh nhỏ. Hình ảnh “đứa con gái đầu
lòng của anh – và cũng là đứa con duy nhất” im đậm trong nỗi nhớ thương khắc
khoải. Những ngày chưa gặp con, người cha ấy nôn nao, hồi hộp, khổ sở, khát
khao gặp con và nghe con gọi một tiếng “ba” bao nhiêu thì khi nhìn thấy con, tình
cảm đó trở nên mãnh liệt, cuống quýt, vội vàng, hấp tấp bấy nhiêu. Thuyền còn
chưa cập bến, ông đã nhảy thót lên bờ, bước vội vàng, vừa gọi vừa chìa tay đón
con.
- Nhưng đón tiếp ông là sự ngạc nhiên, hụt hẫng và nỗi buồn khi thấy đứa
con bất ngờ “giật mình, tròn mắt... ngơ ngác, lạ lùng”, thậm chí sợ hãi khi lần
đầu tiên gặp cha: “Con bé thấy lạ quá, mặt bỗng tái đi, rồi vụt chạy và kêu thét
lên: Má! Má !”
 Những ngày ở gần nhưng xa cách:
- Hai ngày sau, người cha không đi đâu, chỉ muốn ở nhà với con, tìm mọi
cách để làm thân, để âu yếm, vỗ về, mong con bé cứng đầu không nhận và gọi
một tiếng “ba”. Ông Sáu càng muốn gần gũi thì bé Thu càng xa lánh. Còn gì đau
đớn hơn một người cha yêu thương con hết mực nhưng lại bị chính đứa con ấy từ
chối, nghi ngờ.
- Mặc kệ những lời âu yếm, vỗ về của anh Sáu, bé Thu một mực thờ ơ, lạnh
lùng đến mức bướng bỉnh, ngang ngạnh, khó hiểu: “càng vỗ về, con bé càng đẩy
ra”, không chịu gọi một tiếng “ba”, khi bị dọa đánh, bị buộc phải gọi thì nói
trống không. Một loạt hành động, thái độ của bé làm ta ngỡ ngàng. Nó khác hoàn
toàn bản tính ngoan ngoãn, lễ phép hàng ngày của em.
- Đỉnh điểm của hành động chối bỏ ấy là trong bữa cơm. Anh Sáu gắp vào
chén nó một cái trứng cá to vàng. “Nó liền lấy đũa xoi vào chén, để đó rồi bất
thần hất cái trứng ra, cơm văng tung tóe”. Việc bé Thu hất cái trứng ra khỏi chén
là một ngòi nổ làm bùng lên những tình cảm mà bấy lâu nay ông chất chứa trong
lòng. Cái tát ông dành cho bé Thu khiến con đau một thì bản thân ông đau mười.
Làm sao không xót xa khi chính tay mình đánh đứa con gái mà mình rất mực yêu
thương. Đó chính là cái đau lẫn thất vọng của một quá trình dồn nén của tình cảm
tha thiết.
 Hiểu ra rồi chia tay:
- Trong buổi chia tay, ông Sáu đành buông xuôi trong đau khổ tạm biệt con
ra đi. Ông ngần ngại, e dè, không dám ôm hôn vì sợ nó giẫy lên lại bỏ chạy.
Người cha ra đi mà lòng còn chưa yên, buồn bã vì tình cha con còn chưa gắn kết.
- Thái độ và tình cảm bé Thu khi đưa tiễn ông Sáu và đồng đội thay đổi thật
đột ngột, kì lạ đến khó hiểu và rất cảm động. Trong buổi sáng cha lên đường, bé
Thu xuất hiện với một vẻ mặt, ánh mắt và cái nhìn như thế ắt phải chuẩn bị cho
cái gì khác lắm sắp xảy ra.
- Đến khi ông Sáu - người luôn âu yếm, làm thân, vỗ về nó trong hai ngày
đầu lại chỉ đứng nhìn nó, khe khẽ nói: “Thôi! Ba đi nghe con!”. Chính cái lời
chào tạm biệt ấy đã làm nổ tung mọi kìm nén trong lòng, làm trào dâng mọi cảm
xúc. Nó bỗng kêu thét lên: “Ba…a…a…ba!”. Chỉ khi tiếng kêu đó được thét lên
thì mọi người mới vỡ lẽ ra rằng nó thèm được gọi ba như thế nào. Nguyễn Quang
Sáng đã đặc tả rất chân thực, cảm động: “Tiếng kêu của nó như tiếng xé, xé sự im
lặng, và xé cả ruột gan mọi người, nghe thật xót xa”.
- Không có gì hạnh phúc hơn khoảnh khắc ấy. Mọi cung bậc cảm xúc từ bất
ngờ, ngạc nhiên, sung sướng, hạnh phúc, cảm động, nghẹn ngào đều được thể
hiện rõ qua hành động, ứng xử của ông Sáu. Ai có thể ngờ người lính dày dặn nơi
chiến trường, quen sống trong mưa bom bão đạn, nguy hiểm cận kề lại rơi nước
mắt.
b. Nghệ thuật: tình huống rất éo le nhưng độc đáo, cốt truyện mang nhiều yếu tố bất
ngờ, tác giả đã lựa chọn ngôi kể phù hợp có sự đan xen miêu tả, bình luận, suy nghĩ
với giọng kể giàu cảm xúc, chân thực, khắc họa nhân vật sinh động với diễn biến
tâm lí tinh tế, ngôn ngữ tự nhiên, giản dị, đậm đà màu sắc Nam Bộ.
3. Nêu ra những tác động của tác phẩm đối với bản thân:
- Ấn tượng với tình huống éo le, bất ngờ và cảm động được tái hiện trong tác
phẩm. Cuộc gặp gỡ của hai cha con ông Sáu sau tám năm xa cách, cha háo hức con
mong đợi, nhưng bé Thu không nhận ra cha. Đến lúc em nhận ra và bộc lộ tình cảm
thắm thiết thì cha của bé Thu lại phải lên đường chiến đấu. Ở khu căn cứ, ông Sáu
dồn hết tình yêu thương và mong nhớ vào việc làm một chiếc lược ngà để tặng con
gái. Nhưng ông đã hi sinh khi chưa thể tặng món quà ấy cho con gái. Người cha tuy
không thể tận tay giao món quà cho con, nhưng người đồng đội của ông đã thay ông
làm điều đó, cũng như thay ông chứng kiến sự trưởng thành của đứa con gái nhỏ mà
ông yêu thương tha thiết.
- Tác phẩm khiến chúng ta căm phẫn tội ác của quân xâm lược, tác hại ghê gớm
của chiến tranh. Mỗi cuộc chiến tranh qua đi thực sự đã để lại những hậu quả nặng nề
cho đất nước Việt Nam nói chung và mỗi gia đình nói riêng. Số phận con người cùng
nỗi đau của họ do cuộc chiến gây nên nhiều năm sau vẫn còn nhức nhối. Hi sinh, chia
cắt, tổn thương cả về thể xác lẫn tinh thần của con người bước vào cuộc chiến và chịu
ảnh hưởng của cuộc chiến là không thể nào kể xiết.
4. Gợi ý tác phẩm có thể liên hệ so sánh: Làng (Kim Lân), Bức tranh của em gái tôi
(Tạ Duy Anh), Ánh trăng (Nguyễn Duy),…

Đề 2. Gợi ý tác phẩm: Chú bé người gỗ Pinocchio (Carlo Collodi), Buổi học cuối
cùng (Alphonse Daudet), Những tấm lòng cao cả (Edmondo De Amicis), Dế Mèn
phiêu lưu kí (Tô Hoài),…
CHỦ ĐỀ 24

Câu 1.
a. Trong văn bản 1, tác giả cho biết điều đã “tạo nên giá trị đích thực và những
đóng góp có ý nghĩa của tuổi trẻ” đó là sự dấn thân.
b. 01 phép liên kết về hình thức được sử dụng trong các câu văn: Phép thế (Tất cả các
dự án này thay thế cho 600 phó chủ tịch xã về các xã nghèo nhất nước, dự án 500 trí
thức trẻ về vùng khó khăn, dự án bác sỹ trẻ tình nguyện về vùng khó khăn).
c.
Điểm giống nhau: đều nói về sự dũng cảm dấn thân vào hiểm nguy, gian khổ vì
quyền lợi, vì lợi ích chung cho tập thể, cho cộng đồng của thế hệ trẻ.
Điểm khác nhau:
- Văn bản 1: Tác giả đưa ra ví dụ về những tấm gương trẻ tiêu biểu cho sự dấn
thân, chiến đấu, lao động miệt mài âm thầm vì cộng đồng, vì Tổ quốc. Đồng thời
người viết còn khẳng định sự dấn thân chính là điểm tạo nên giá trị đích thực và
những đóng góp ý nghĩa của tuổi trẻ.
- Văn bản 2: Tác giả ca ngợi sự dũng cảm dấn thân, tự nguyện trải nghiệm của
tuổi trẻ qua những dự án đầy ý nghĩa cho cộng đồng cũng như bày tỏ sự trân trọng đối
với tinh thần trách nhiệm, tư duy mới mẻ, tiến bộ của các bạn trẻ trong hành trình
khởi nghiệp của bản thân và lao động, cống hiến vì đất nước.
d. HS tự do trình bày quan điểm cá nhân, miễn hợp lí và thuyết phục; lưu ý đảm bảo
số câu theo yêu cầu.
Có thể theo gợi ý sau:
- Nên xây dựng kế hoạch đọc sách hợp lý, khoa học và chăm chỉ đọc sách để mở
rộng sự hiểu biết, nâng cao tư duy của bản thân.
- Cần chủ động tham gia những hoạt động cộng đồng mang tính tích cực phù hợp
với lứa tuổi bản thân như “Ngày hội đi bộ vì sức khoẻ gia đình và cộng đồng”, “Ngày
hội hoa hướng dương” vì “Bệnh nhi ung thư”, “Ngày hội đọc sách” …để góp phần lan
toả những thông điệp tích cực đến mọi người, giúp con người và xã hội ngày một tốt
đẹp hơn.
- Biết lắng nghe và chủ động học hỏi kinh nghiệm, giải pháp học tập, làm việc
hiệu quả từ những người đi trước bằng cách kết giao với những người tài giỏi, có
thành tích tốt hoặc xem những chương trình chia sẻ bí quyết của những người thành
công.

Câu 2.
1. Giới thiệu vấn đề nghị luận
2. Giải thích:
- “Dấn thân” là thái độ quyết tâm, dốc toàn bộ sức lực, ý chí vào một kế hoạch,
mục tiêu, hoạt động hay công việc nào đó bất chấp mọi khó khăn, trở ngại, nguy hiểm.
Bản chất của dấn thân chính là một hành động can đảm, là biểu hiện của tinh thần thích
trải nghiệm và chinh phục.
- Ý kiến trên đã khẳng định: Trong cuộc sống đời thường sự dấn thân đôi khi xuất
phát từ những hành động, cử chỉ rất nhỏ, những điều có ý nghĩa mang tính thiết thực,
giản đơn chúng ta thường gặp hằng ngày: phải hành động để trân trọng, bảo vệ cái
đúng, lẽ phải, sự công bằng; phải đấu tranh để lên án, loại bỏ cái ác, điều sai, sự bất
công.
3. Bàn luận:
- Sự dấn thân, trước nhất giúp mỗi người khám phá chính mình, kiểm chứng được
bản lĩnh, sự tự tin và tinh thần dũng cảm của bản thân để có những lựa chọn đúng đắn
và sáng suốt cho tương lai.
- Sự dấn thân, nó còn đem lại hiểu biết và kinh nghiệm thực tế; giúp chúng ta
mau chóng trưởng thành về cách nghĩ, cách sống, bồi đắp tình cảm, tâm hồn, giúp
mỗi người gắn bó và góp phần cống hiến cho cuộc đời, cho đất nước.
- Sự dấn thân còn giúp mỗi chúng ta có thêm sự trải nghiệm, cơ hội để phát huy
tính sáng tạo; biết cách vượt qua những trở ngại khó khăn, tôi luyện bản lĩnh, ý chí để
thành công.
- Cuộc sống thiếu tinh thần “dấn thân”, đặc biệt là ở giới trẻ thì sẽ khiến cho cuộc
sống trở nên tẻ nhạt, thụ động, nhàm chán, vô ích; không phát triển được.
- Sự dấn thân không nhất thiết phải xuất phát hay phải làm được những điều quá
lớn lao. Mà nó còn có thể là một hành động giúp người, một sự sẻ chia nho nhỏ trong
đời sống hằng ngày; một nghĩa cử cứu nguy bất chấp hiểm nguy, một tinh thần không
ngại khó ngại khổ sẵn sàng lăn xả làm việc, tìm tòi vì lợi ích của cộng đồng…. Ý
nghĩa thật sự của tinh thần dấn thân không nằm ở quy mô mà nằm ở giá trị ý nghĩa
của nó.
- Phê phán những kẻ chỉ biết sống lười biếng, nhút nhát, tự ti, an phận chấp nhận
yếu kém, không dám thay đổi bản thân để tạo ra giá trị riêng cho bản thân. Đồng thời
cũng cần lên án những con người sống ích kỷ, chỉ biết nghĩ đến lợi ích của bản thân
mà thờ ơ, lãnh đạm với mọi mối quan hệ xung quanh.
4. Bài học nhận thức và hành động:
- Sự dấn thân đặc biệt cần được phát huy ở giới trẻ. Bởi đó là chiếc thang đưa họ
đến đỉnh vinh quang.
- Tuy nhiên, mỗi chúng ta, nhất là các bạn trẻ cần lựa chọn những mục tiêu,
những kế hoạch đúng dắn mang tính tích cực, có giá trị lan toả để hành động dấn thân
của chính mình trở nên có ý nghĩa nhất.
- Sự dấn thân đi kèm với lòng chân thành, không vụ lợi thì mới mang lại giá trị
vĩnh cửau.
Lưu ý: Học sinh cần phân tích các dẫn chứng để làm sáng tỏ vấn đề.
Câu 3.
Đề 1.
1. Giới thiệu vấn đề nghị luận:
- Nguyễn Thành Long quê ở Quảng Nam, có nhiều đóng góp cho văn học Việt
Nam hiện đại ở thể loại truyện ngắn và bút kí. Các tác phẩm của ông thường tập
trung vào hai chủ đề lớn: cuộc đấu tranh chống Mỹ của nhân dân và công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc những năm 60 -70 của thế kỷ trước. Phong cách
văn xuôi của ông nhẹ nhàng, tình cảm, giàu chất thơ và ánh lên vẻ đẹp con người,
khiến chúng ta yêu mến cuộc sống và những người xung quanh.
- Ra đời năm 1970, trích từ tập Giữa trong xanh, truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa là
kết quả sau chuyến đi thực tế ở Lào Cai của tác giả. Đây cũng là tác phẩm tiêu biểu
cho đề tài viết về cuộc sống mới, con người mới.
- Dẫn vào vấn đề nghị luận: Khát vọng hành động, dấn thân của nhân vật anh
thanh niên. Có thể thấy trong công việc và quan hệ với đời sống xã hội, nhân vật đã
có lý tưởng, quan niệm sống đúng đắn; say mê công việc, nhiệt tình, có tinh thần
trách nhiệm cao.
2. Cảm nhận tác phẩm được chọn:
a. Nội dung:
- Anh thanh niên nhận thấy rằng “Khi ta làm việc, ta với công việc là đôi,
sao gọi là một mình được?”. Câu nói ấy như một quan niệm sống, một lý tưởng
sống đúng đắn. Ấy là khi con người ta say mê với công việc, công việc không còn
là trách nhiệm nữa mà đã trở thành niềm vui, niềm hạnh phúc, là lẽ sống.
- Với anh hạnh phúc chính là khi hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình, đóng
góp một phần công sức của mình cho thành công của một tập thể. Anh biết đặt
nhiệm vụ của mình trong công việc của cả tập thể “Huống chi việc của cháu gắn
liền với việc của bao anh em, đồng chí dưới kia.”Anh thấy “thật hạnh phúc” khi
nhờ anh phát hiện phát hiện một đám mây khô mà không quân ta hạ được bao
nhiêu là quân phản lực Mỹ. Niềm hạnh phúc của một cá nhân được hòa mình vào
tập thể, được góp một phần công sức bé nhỏ của mình cho sự nghiệp xây dựng và
bảo về Tổ Quốc. “Mình sinh ra là gì ? Mình đẻ ở đâu ? Mình vì ai mà làm
việc ?”.
- Anh thanh niên say sưa kể về công việc của mình với một niềm tự hào
không chút giấu giếm “làm khí tượng được ở cao thế này mới là thú vị chứ”.
Lòng nhiệt thành ấy khiến cô gái và một họa sĩ lão thành sống gần hết cuộc đời
này cũng phải ngưỡng mộ. Ở chính anh “một ấn tượng hàm ơn khó diễn tả dạt lên
trong lòng cô gái” còn người họa sĩ lại hạnh phúc bởi một lẽ “bắt gặp được con
người như anh ta là một cơ hội hạn hữu cho sáng tác”. Và ông họa sĩ hứa còn
quay trở lại gặp anh để xem công việc của anh “thu hút” như thế nào. Thật
ngưỡng mộ, thật tự hào làm sao khi có những con người trẻ tuổi đầy nhiệt huyết
như anh.
- Trong chàng trai trẻ tuổi này còn còn có những hoài bão, khát vọng cao đẹp,
khát vọng được đi đến những vùng đất mới, khát vọng được cống hiến của những
người trẻ tuổi. “Cháu tưởng cháu được đi xa lắm, hóa lại không.” Họ hăng hái đi
xây dựng cuộc sống mới ở vùng đất Tây Bắc. Đây cũng chính là lí tưởng sống
cao đẹp của con người trong thời đại lúc bấy giờ.
b. Nghệ thuật: tình huống rất tự nhiên nhưng thú vị, kết hợp hài hòa tự sự với miêu
tả và nghị luận, khắc họa nhân vật từ nhiều điểm nhìn cùng những đoạn đối thoại,
độc thoại tinh tế, chất thơ đậm đà từ khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp đến những lời
văn nhẹ nhàng, trong sáng.
3. Nêu ra những tác động của tác phẩm đối với bản thân:
- Tuổi trẻ luôn được kỳ vọng là chủ nhân tương lai của đất nước, nhưng tuổi trẻ
sẽ không làm tròn sứ mệnh cao cả đó nếu như không có sự dấn thân để rèn luyện,
cống hiến và trưởng thành.Tuổi trẻ nghĩa là dấn thân! Đấy có lẽ cũng là định nghĩa,
đồng thời là một so sánh giàu hình ảnh và rất phù hợp.
- Dù trong bất kỳ điều kiện, hoàn cảnh nào, điểm chung nhất tạo nên giá trị đích
thực và những đóng góp có ý nghĩa của tuổi trẻ, đó là sự dấn thân. Dấn thân đã trở
thành lẽ sống, là động lực thôi thúc nhiều bạn trẻ hành động. Để có được khát vọng
này thì mỗi chúng ta tự chọn cho mình lý tưởng sống và có "dũng khí" thực hiện lý
tưởng của mình. Từ đó, sự dấn thân sẽ giúp chúng ta thay đổi tư duy, nhận thức, dám
nghĩ, dám làm và có khát vọng lớn để biến ước mơ, ý tưởng thành hiện thực.
4. Gợi ý tác phẩm có thể liên hệ so sánh: Những ngôi sao xa xôi (Lê Minh Khuê),
Bài thơ về tiểu đội xe không kính (Phạm Tiến Duật), Mùa xuân nho nhỏ (Thanh Hải),

Đề 2. Gợi ý tác phẩm: Nhật kí Đặng Thùy Trâm, Mãi mãi tuổi hai mươi (Nguyễn Văn
Thạc), Chúng ta đòi hòa bình: Huỳnh Tấn Mẫm và phong trào tranh đấu của sinh
viên học sinh Sài Gòn, 1969 - 1975 (Hồi ức, Đoàn Yên Kiều thể hiện), Người thầy
đầu tiên (C.Aitmatov), Thép đã tôi thế đấy! (N. A. Ostrovsky), Khát vọng dấn thân
(Neil Patel, Patrick Vlaskovits, Jonas Koffler),…
CHỦ ĐỀ 25

Câu 1.
a. Trong văn bản 1, tác giả cho biết tại thời điểm thanh xuân chúng ta tràn đầy sức
khỏe, năng lượng, nhiều nhiệt huyết, mạnh mẽ... để viết nên câu chuyện của riêng
mình.
b. Học sinh có thể chỉ ra một trong số các phép liên kết sau:
- Phép thế (khoảng thời gian đó thay thế cho những tháng ngày đã gắn liền với
Đoàn).
- Phép nối (sử dụng quan hệ từ “vì”).
c.
Điểm giống nhau: đều nói về những điều tốt đẹp mà ta có được trong những
tháng năm tuổi trẻ.
Điểm khác nhau:
- Văn bản 1: Tập trung nói về những điều tốt đẹp mà ta được sở hữu, được trải
nghiệm trong những tháng năm tuổi trẻ, từ đó cho thấy ý nghĩa đặc biệt của quãng
thời gian thanh xuân đối với mỗi người.
- Văn bản 2: Thông qua chia sẻ của một bạn trẻ về những trải nghiệm ý nghĩa khi
tham gia hoạt động Đoàn vào những tháng năm tuổi trẻ để cho thấy khi được góp sức
trẻ cho cộng đồng, thanh xuân của mỗi người sẽ càng ý nghĩa hơn.
d. HS tự do trình bày quan điểm cá nhân, miễn hợp lí và thuyết phục; lưu ý đảm bảo
số câu theo yêu cầu.
Có thể theo gợi ý sau:
- Nỗ lực học tập, trau dồi bản thân để sẵn sáng chinh phục những thử thách đang
chờ ta khi trưởng thành;
- Trân trọng những mối quan hệ và tình cảm tươi đẹp, trong sáng mà ta đã có
được thời thanh xuân, để trên quãng đường trưởng thành ta không bao giờ cô độc hay
hối tiếc vì đã đánh mất những người đáng trân quý;
- Sống hết mình vì mọi người, vì cộng đồng, dùng sức trẻ của mình để góp phần
tạo nên những điều ý nghĩa cho cuộc đời.

Câu 2.
1. Giới thiệu vấn đề nghị luận
2. Giải thích:
- Quãng thời gian thanh xuân là quãng thời gian người ta còn trẻ, còn tràn đầy sức
khỏe, năng lượng, nhiệt huyết,...và cũng sở hữu rất nhiều cơ hội quý báu.
- Sau này khi trưởng thành, chúng ta sẽ phải đối mặt với rất nhiều khó khăn về
việc đảm bảo đời sống ổn định, khẳng định giá trị, đi tìm vị trí của bản thân,...
- Ý kiến trên đã khẳng định: nếu biết tận dụng những điều tuyệt vời mà ta có được
trong những tháng năm tuổi trẻ, thì quãng thời gian thanh xuân sẽ có một ý nghĩa đặc
biệt, giúp chúng ta tạo động lực để vượt qua những khó khăn của cuộc sống sau này.
3. Bàn luận:
- Trong thời thanh xuân, nếu ta biết nỗ lực trau dồi bản thân về cả năng lực và
phẩm chất thì ta sẽ dần hoàn thiện bản thân, có được sự tự tin và bản lĩnh để sẵn sàng
đương đầu và giải quyết những khó khăn trong cuộc sống sau này.
- Thời thanh xuân mang đến cho ta những mối quan hệ vô cùng đáng trân quý,
những tình cảm trong sáng, chân thành và không vụ lợi. Nếu biết trân trọng và giữ gì,
trong đoạn đường về sau ta sẽ luôn có những người đồng hành, tiếp sức cho mình
vượt qua khó khăn trong đời.
- Những điều tốt đẹp mà ta mang đến cho cộng đồng, cho xã hội vào quãng thời
gian tươi đẹp nhất của mình sẽ mang đến những trải nghiệm, những bài học, những
tình cảm,...vô cùng đặc biệt, giúp ta thêm vững vàng đối diện với những khó khăn
trong cuộc sống sau này.
- Phê phán những người để phí hoài tuổi trẻ, không biết trân trọng quãng thời
gian thanh xuân ý nghĩa để mài giũa chính mình hay cho đi những điều tốt đẹp, để rồi
sau này cảm thấy chênh vênh, lạc lối khi bước vào cuộc sống trưởng thành.
4. Bài học nhận thức và hành động:
- Dẫu thanh xuân là quãng thời gian vô cùng tươi đẹp, nhưng chắc chắn cũng vẫn
sẽ có những khó khăn và thử thách mà ta phải đối mặt ngay từ khi còn trẻ tuổi. Nhưng
đừng lo lắng và ngại ngần, vì những phong ba bão táp ta trải qua trong thanh xuân sẽ
càng giúp đôi cánh ta vững vàng hơn để bay cao, bay xa trên quãng trời rộng về sau.
- Cần tích cực dành thời gian để tham gia những hoạt động học tập, ngoại khóa,
những hoạt động kết nối và các công tác xã hội ý nghĩa để thanh xuân trọn vẹn và tỏa
sáng rực rỡ.
Lưu ý: Học sinh cần phân tích các dẫn chứng để làm sáng tỏ vấn đề.
Câu 3.
Đề 1.
1. Giới thiệu vấn đề nghị luận:
- Lê Minh Khuê quê ở Thanh Hóa, là cây bút chuyên về truyện ngắn, ngòi bút
miêu tả tâm lí tinh tế và sắc sảo, đặc biệt là tâm lí phụ nữ.
- Truyện ngắn Những ngôi sao xa xôi xuất hiện lần đầu tiên trên tạp chí Tác phẩm
mới, được viết năm 1971, lúc cuộc kháng chiến chống Mĩ của dân tộc đang diễn ra ác
liệt. Đây là một trong những truyện ngắn đầu tay đặc sắc của tác giả.
- Dẫn vào vấn đề nghị luận: Vẻ đẹp đầy sức sống của tuổi trẻ thể hiện qua các cô
gái thanh niên trên tuyến lửa Trường Sơn. Họ là những cô gái còn rất trẻ, có cá tính và
hoàn cảnh riêng không giống nhau nhưng đều có chung một lý tưởng, một phẩm chất
của những chiến sĩ thanh niên xung phong ở chiến trường.
2. Cảm nhận tác phẩm được chọn:
a. Nội dung:
 Có tinh thần trách nhiệm cao, anh dũng, không sợ gian khổ, hi sinh:
- Họ quyết tâm hoàn thành tốt mọi công việc được giao “rồi khi xong việc,
quay lại nhìn cảnh đoạn đường một lần nữa, thở phào, chạy về hang”.
- Họ “chạy trên cao điểm cả ngày, mà ban ngày chạy trên cao điểm không
phải là chuyện chơi. Thần chết là một tay không thích đùa.”,“ tôi bây giờ vẫn
còn một vết thương chưa lành miệng ở đùi. Tất nhiên, tôi không vào viện quân
y”.
- Họ không khóc bởi vì “nước mắt đứa nào chảy trong khi cần cái cứng cỏi
của nhau này là bị xem như bằng chứng của sự tự nhục mạ”. Họ là những anh
hùng phá bom thầm lặng trên tuyến đường Trường Sơn ác liệt, trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ hào hùng của dân tộc ta.
 Có tình đồng chí đồng đội keo sơn gắn bó: Khi Nho phá bom, quả bom tung
lên và nổ trên không ; hầm Nho nấp bị sập, bị phủ đầy thuốc bom màu xám.
Nho bị choáng, máu túa ra từ cánh tay, ngấm vào đất. Chị Thao thì sợ máu,
lúng túng chẳng biết xử lí thế nào. Còn Phương Định đã rửa vết thương cho
bạn bằng nước đun sôi, sạch tinh tươm, tiêm cho Nho và pha sữa cho cô
uống.
 Yêu đời và lạc quan:
- Dù công việc vất vả luôn cận kề cái chết nhưng họ vẫn vui vẻ, coi công việc
cũng là một niềm vui “công việc nào cũng có cái thú của nó”. Khi hoàn thành
xong việc thì họ trở về với cá tính, sự tươi trẻ đáng yêu tinh nghịch, hay xúc động,
nhiều mơ mộng, dễ vui dễ buồn như “ngửa cổ uống nước, nằm dài trên nền ẩm,
lười biếng nghe ca nhạc, leo tót lên trọng điểm, nói vài câu buồn cười với một
anh lái xe nào đó, vui, dựa vào thành đá và khẽ hát, bịa lời bài hát lộn xộn, thích
ngắm mình trong gương, tỉa lông mày...”.
- Mặc dù mang những nét chung nhưng ở mỗi cá nhân con người vẫn hiện
lên những nét tính cách, cá tính độc đáo riêng: Nhân vật Phương Định nhạy cảm
và lãng mạn; Chị Thao chăm chép bài hát dù hát “sai bét, còn giọng thì chua…
không hát trôi chảy bài nào”. Chị thường lấy lại tinh thần bằng cách thong thả
nhai bánh bích quy. Có lẽ nhiều tuổi hơn các cô còn lại nên tính cách và suy nghĩ
có phần chín chắn hơn, trong công việc thì hành động bình tĩnh quyết liệt nhưng
lại rất sợ khi nhìn thấy máu; Nho thì trẻ con hơn, trắng trẻo, nhỏ nhắn như một
que kem trắng, thích tắm suối, lúc thì bướng bỉnh, lúc thì lầm lì và cô có sở thích
thêu hoa lòe loẹt lên những vật dùng cá nhân.
b. Nghệ thuật: tạo dựng khung cảnh và không khí ấn tượng, chân thật, sử dụng ngôi
kể thứ nhất, lựa chọn người kể chuyện đồng thời là nhân vật trong truyện, khắc họa
nhân vật sinh động với cách miêu tả tâm lí cụ thể, tinh tế, lời văn tự nhiên.
3. Nêu ra những tác động của tác phẩm đối với bản thân:
- Đối với mọi người, đặc biệt là tuổi trẻ, sống không đồng nghĩa là tồn tại, không
phải là luôn giành giật, đòi hỏi về vật chất, lại càng không phải chỉ sống cho riêng bản
thân mình. Có lẽ quan điểm về sống đẹp của mỗi người trẻ là khác nhau, nhưng chắc
sẽ có một điểm chung: sống có ý nghĩa, mang lại hạnh phúc cho bản thân và cho
người khác.
- Thời nào cũng vậy, ta đều phải rèn luyện cho mình ba yếu tố: tâm trong, trí sáng
và hoài bão lớn. Tâm trong là sống với tấm lòng nhân ái, sống vì gia đình, vì xã hội,
vì mọi người, sống trung thực dù đời có cơ cực đến đâu, sống để đấu tranh với cái xấu,
cái ác. Trí sáng thể hiện ở sự cố gắng học tập, có kiến thức sâu rộng, biết phân định
đúng – sai, tốt – xấu, phải giỏi kỹ năng, sáng tạo không ngừng để xã hội ngày một
phát triển. Không chỉ vậy, trí sáng còn phải đi đôi với thể chất khỏe mạnh để có thể bổ
sung, thực hiện những ý định của mình. Hoài bão lớn sẽ giúp ta sống không lung lạc,
biến cuộc đời trở nên ý nghĩa, sống đúng nghĩa chứ không chỉ đơn thuần là tồn tại.
4. Gợi ý tác phẩm có thể liên hệ so sánh: Lặng lẽ Sa Pa (Nguyễn Thành Long), Bài
thơ về tiểu đội xe không kính (Phạm Tiến Duật),…

Đề 2. Gợi ý tác phẩm: Tuổi trẻ trong ví, bạn mua được gì (Lý Thành Cơ), Tuổi trẻ
kiên cường để vững bước (Lâm Tử Thụ), Phá vỡ giới hạn để không phí hoài tuổi trẻ
(Trần Vĩnh Quân),…

You might also like