Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 196

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


-------------------

PHẠM THỊ MỴ

PHÓNG SỰ VIỆT NAM 1930 - 1945


(QUA TAM LANG, VŨ TRỌNG PHỤNG
VÀ NGÔ TẤT TỐ)

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC

Hà Nội - 2009
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------------

PHẠM THỊ MỴ

PHÓNG SỰ VIỆT NAM 1930 - 1945


(QUA TAM LANG, VŨ TRỌNG PHỤNG VÀ NGÔ TẤT TỐ)

Chuyên ngành : Văn học Việt Nam


Mã số : 62.22.34.01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC

Người hướng dẫn khoa học:


GS.TS. Lê Văn Lân

Hà Nội - 2009
MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU ....................................................................................... 5
1. Lý do, mục đích nghiên cứu ................................................................. 5
2. Phạm vi, đối tƣợng nghiên cứu ........................................................... 6
3. Lịch sử vấn đề ................................................................................... .. 7
3.1. Những công trình nghiên cứu chung về phóng sự Việt Nam
giai đoạn 1930 - 1945 .................................................................. 7
3.2. Những công trình, bài viết riêng về từng cây bút .............................10
3.2.1. Tam Lang ...................................................................................10
3.2.2. Vũ Trọng Phụng .........................................................................12
3.2.3. Ngô Tất Tố .................................................................................18
4. Phƣơng pháp nghiên cứu ....................................................................21
5. Đóng góp của luận án ..........................................................................22
6. Cấu trúc của luận án ...........................................................................22
PHẦN NỘI DUNG ..................................................................................23
CHƢƠNG 1: KHÁI NIỆM PHÓNG SỰ - KHÁI LƢỢC VỀ
PHÓNG SỰ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1930 - 1945..........23
1.1. Khái niệm về thể loại phóng sự .........................................................23
1.1.1. Sự hình thành của thể loại phóng sự ..........................................23
1.1.2. Xung quanh khái niệm thể loại phóng sự ...................................27
1.2. Khái lƣợc về phóng sự Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 ..................42
1.2.1. Những tiền đề văn hóa xã hội dẫn đến sự bùng nổ và phát
triển của thể loại phóng sự .........................................................................48
1.2.2. Thành tựu của phóng sự Việt Nam 1930 - 1945 ..........................67
Tiểu kết chƣơng 1 .....................................................................................69
CHƢƠNG 2: ĐỐI TƢỢNG THẨM MỸ CỦA PHÓNG SỰ
TAM LANG, VŨ TRỌNG PHỤNG, NGÔ TẤT TỐ .......69

3
2.1. Phóng sự trong quan niệm của ba cây bút Vũ Trọng Phụng,
Tam Lang, Ngô Tất Tố .....................................................................69
2.2. Phóng sự phanh phui những “ung nhọt” của xã hội ...................................72
2.2.1. Phơi bày những tệ nạn xã hội .....................................................................72
2.2.2. Tình trạng bần cùng hóa, tha hóa con người và văn hóa ..........................80
2.3. Khách quan chân thực, phóng sự khơi gạn đến tận cùng sự thật 93
2.3.1. Khách quan, chân thực...............................................................................93
2.3.2. Truy tìm nguyên nhân, đề xuất giải pháp ..................................................104
Tiểu kết chƣơng 2 ....................................................................................................115
CHƢƠNG 3: ĐẶC ĐIỂM CỦA PHÓNG SỰ TAM LANG,
VŨ TRỌNG PHỤNG, NGÔ TẤT TỐ ...........................................117
3.1. Cái tôi - chủ thể sáng tạo .................................................................................117
3.1.1. Cái tôi bản lĩnh, giàu tâm huyết .................................................................118
3.1.2. Cái tôi hiểu biết sâu rộng ...........................................................................125
3.2. Thủ pháp nghệ thuật đa dạng, độc đáo..........................................................136
3.2.1. Dựng cảnh ..................................................................................................137
3.2.2. Dựng chân dung nhân vật..........................................................................142
3.2.3. Nghệ thuật tổ chức tình huống dẫn dắt câu chuyện..................................151
3.2.4. Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ ....................................................................158
3.3. Sự dung hợp các thể loại .................................................................................168
3.3.1. Phóng sự và ký sự .......................................................................................170
3.3.2. Phóng sự và truyện ngắn............................................................................172
3.3.3. Phóng sự và tiểu thuyết phóng sự .............................................................175
Tiểu kết chƣơng 3 ....................................................................................................179
PHẦN KẾT LUẬN..................................................................................................181
NHỮNG CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN TỚI LUẬN ÁN ĐÃ CÔNG BỐ 184
THƢ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................185
A. Tác phẩm khảo sát ...............................................................................185
B. Tài liệu tham khảo ..............................................................................186

4
PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do, mục đích nghiên cứu:

- Từ những năm 30 của thế kỷ XX, văn học Việt Nam từng bước đi
vào quỹ đạo của văn học thế giới. Nhiều thể loại mới ra đời và có những
thành công đáng kể, đóng góp cho lịch sử văn học những tác giả và tác phẩm
tiêu biểu, trong nhiều thể loại đó không thể không kể đến phóng sự. Nhờ
những ưu thế riêng về thể loại: tính xác thực, tính thời sự, tính xã hội - chính
trị , cùng với sự “chắp cánh” của báo chí, phóng sự đã nhanh chóng đến với
công chúng, tạo môi trường công luận rộng rãi, kịp thời và phát huy được
hiệu quả nghệ thuật tích cực trong đời sống. Ngay từ đương thời và càng
ngày phóng sự càng được khẳng định là một trong những thể loại quan trọng
của văn học và báo chí nước ta trong những thập niên đầu thế kỷ XX.
Với đội ngũ đông đảo hàng trăm cây bút tài năng, có tên tuổi trong
làng văn, làng báo Việt Nam; với di sản phóng sự đồ sộ từng được công bố
trên các báo đương thời và được ấn bản thành sách; với nội dung và ý nghĩa
xã hội, lịch sử, văn học, khoa học…phong phú và giá trị nghệ thuật đặc sắc,
phóng sự Việt Nam 1930 - 1945 thực sự là một thành tựu, một bộ phận quan
trọng tạo nên diện mạo, thành tựu chung của cả một giai đoạn văn học.
- Tam Lang, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố được đánh giá là ba cây
bút phóng sự xuất sắc của giai đoạn này. Tam Lang được vinh danh người
mở đầu cho thể loại phóng sự; Vũ Trọng Phụng được mệnh danh là “ông
vua phóng sự đất Bắc”, người đưa phóng sự Việt Nam phát triển đến đỉnh
cao và Ngô Tất Tố được tôn vinh là “nhà báo có biệt tài”, người tạo nên độ
sâu cho thể phóng sự. Sáng tác của các nhà văn này có vị trí và đóng góp lớn
cho sự phát triển của thể loại phóng sự và thành tựu của phóng sự Việt Nam
giai đoạn 1930 - 1945.

-5-
- Việc nghiên cứu đầy đủ, có hệ thống, rút ra những đánh giá về thành
tựu và hạn chế của phóng sự trong cả giai đoạn 1930-1945 (qua di sản phóng
sự của ba tác giả tiêu biểu Tam Lang, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố), do vậy
là việc làm cần thiết, có ý nghĩa khoa học và giá trị thực tiễn, đặc biệt trong
nhu cầu tổng kết, đánh giá văn học thế kỷ XX, rút ra những bài học kinh
nghiệm thẩm mỹ quý giá cho sự phát triển của thể loại phóng sự nói riêng và
văn học Việt Nam đương đại nói chung.
- Bằng cách nhìn tổng quát, đặt trên nền phóng sự giai đoạn này, luận
án tập trung khảo sát phóng sự của ba tác giả Tam Lang, Vũ Trọng Phụng và
Ngô Tất Tố nhằm hướng tới khẳng định những thành tựu phóng sự của ba
cây bút trên cả hai phương diện nội dung phản ánh và hình thức nghệ thuật.
Từ đó có cơ sở chắc chắn để khẳng định vị trí, đóng góp của ba cây bút
phóng sự này và phóng sự giai đoạn 1930 - 1945 với sự phát triển của văn
học Việt Nam đầu thế kỷ XX theo xu hướng hiện đại hóa.

2. Phạm vi, đối tƣợng nghiên cứu:


- Luận án khảo sát phóng sự của ba tác giả Tam Lang, Vũ Trọng
Phụng, Ngô Tất Tố, đặc biệt tập trung vào các tập phóng sự dài:
. Tam Lang: Tôi kéo xe (1932), Đêm sông Hương (1938), Lọng
cụt cán (1939), Người…ngợm (1940).
. Vũ Trọng Phụng: Cạm bẫy người (1933), Kỹ nghệ lấy Tây
(1934), Cơm thầy cơm cô (1936), Lục xì (1937), Một huyện ăn Tết (1938).
. Ngô Tất Tố: Dao cầu thuyền tán (1935), Tập án cái đình
(1939), Việc làng (1940), Làm no hay cái ăn trong những ngày nước ngập…
- Luận án cũng khảo sát một số tác phẩm phóng sự tiêu biểu giai đoạn
1930 - 1945 (chủ yếu là các tác phẩm được tập hợp trong bộ Phóng sự Việt
Nam 1932 -1945, 3 tập, do nhóm tác giả Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ,
Nguyễn Hữu Sơn sưu tầm, biên soạn, Nxb Văn học, 2000).

-6-
3. Lịch sử vấn đề:
Tôi kéo xe (viết xong 6/1932 đăng trên Hà Thành ngọ báo, 1932 và in
thành sách 1935) được coi là tác phẩm phóng sự đầu tiên trong làng báo Việt
Nam. Ngay khi ra đời Tôi kéo xe đã được dư luận hoan nghênh và từ đó
phóng sự cũng là thể loại được công luận chú ý. Từ đó đến nay, đã trên bảy
thập niên, trải qua nhiều biến động xã hội, nhiều bước thăng trầm của đời
sống văn học dân tộc, cùng với các thể loại khác, phóng sự giai đoạn này
vẫn tiếp tục được nghiên cứu, đánh giá và dường như giá trị của nó ngày
càng được khẳng định vững vàng hơn. Đến nay, đã có hàng trăm công trình
lớn nhỏ (từ chuyên khảo đến các bài viết riêng về các tác giả, tác phẩm…)
dành nghiên cứu về phóng sự giai đoạn này. Ở đây chúng tôi tạm chia làm
hai khu vực: Những công trình, bài viết chung về phóng sự Việt Nam 1930 -
1945 và những công trình, bài viết riêng về từng cây bút phóng sự Tam
Lang, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố.
3.1. Những công trình nghiên cứu chung về phóng sự Việt Nam
giai đoạn 1930 - 1945:
Ở giai đoạn đầu, những công trình đề cập đến phóng sự 1930 - 1945
chủ yếu tập trung vào những tác giả, tác phẩm tiêu biểu. Sau Cách mạng
tháng Tám (1945), đất nước bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp, những
vấn đề của văn học quá khứ trong đó có phóng sự 1930 - 1945 hầu như
không được quan tâm, nghiên cứu. Đáng quan tâm là năm 1950, trong bài
giảng về thể phóng sự cho các khóa đào tạo đội ngũ văn nghệ kháng chiến,
Nguyễn Đình Lạp - một trong những cây bút phóng sự đặc sắc giai đoạn
1930-1945 đã đề cao thành công và đóng góp của ba cây bút phóng sự họ Vũ
(Vũ Trọng Phụng, Vũ Đình Chí - Tam Lang và Vũ Bằng). Trong đó, ông
khẳng định “Vũ Trọng Phụng là nhà phóng sự phong phú nhất, sâu sắc nhất.
Cạm bẫy người, Kỹ nghệ lấy Tây, Cơm thầy cơm cô, Lục xì đã làm cho độc
giả say mê, sôi nổi” [115, 792].

-7-
Sau hòa bình (1954), đất nước chia cắt làm hai miền, ở miền Bắc, tuy
không xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu chung về phóng sự 1930 -
1945, nhưng giới nghiên cứu cũng đã quan tâm tới những hiện tượng, những
cây bút phóng sự nổi trội, đặc biệt là Vũ Trọng Phụng. Cùng với đó, một số
công trình nghiên cứu văn học sử và giáo trình giảng dạy trong các trường
đại học, đã đề cập đến phóng sự 1930 - 1945. Trong bộ: Sơ thảo lịch sử văn
học Việt Nam 1930 -1945 (NXB Văn học, H., 1964) nhóm tác giả đã dành
gần 3 trang cho phóng sự giai đoạn này. Tuy nhiên việc đánh giá lại có phần
khe khắt, chưa thỏa đáng: “Phóng sự 1930 - 1945, xét về cơ bản không thuộc
trào lưu hiện thực. Nó có nhiều yếu tố tự nhiên chủ nghĩa…đối tượng miêu
tả…thường là sinh hoạt của bọn lưu manh…các nhà viết phóng sự không
chú ý đến những vấn đề lớn do mâu thuẫn trong xã hội làm nảy sinh
ra…nhiều tập phóng sự thực ra chỉ là những chuyện nghe lỏm” [tr.104,105].
Tách riêng ra, nhóm tác giả này chỉ đề cao Việc làng của Ngô Tất Tố, Ngục
Kon Tum của Lê Văn Hiến và Vượt ngục của Cựu Kim Sơn, trong khi đó
kịch liệt bài bác phóng sự của các cây bút Tam Lang, Trọng Lang và Vũ
Trọng Phụng. Trong giáo trình Lịch sử văn học Việt Nam 1930 - 1945 (tập 5,
NXB Giáo dục, H.1978), Nguyễn Trác đã có cách nhìn nhận khách quan,
công bằng hơn về phóng sự giai đoạn 1930 - 1945. Ông đề cao ý thức nhập
cuộc của các nhà phóng sự và nội dung xã hội của phóng sự “Họ đã đi vào
bóng tối của những thành phố lớn đến các nhà chứa, nhà lục xì, tiệm hút…để
tâm theo dõi quá trình trụy lạc của thanh niên, cuộc sống khốn khổ của
những gái đĩ me Tây, cảnh sát phạt lừa bịp nhau của những người sống bằng
nghề đỏ đen” [tr.137]. Sau khi phân tích, giới thiệu bốn thiên phóng sự đặc
sắc của Vũ Trọng Phụng, tác giả khẳng định: những tác phẩm trên đã đưa
Vũ Trọng Phụng lên hàng “Ông Vua phóng sự đất Bắc”. Có thể nói trong bài
khái quát về văn học hiện thực phê phán 1930 - 1945 đó Nguyễn Trác đã
phác họa tương đối cụ thể, chuẩn xác diện mạo cùng một số cây bút tiêu biểu

-8-
của phóng sự giai đoạn này. Trong Tổng tập văn học Việt Nam, tập 29A
[NXB Khoa học xã hội, H.1988], sau khi liệt kê một số tập phóng sự của
Trọng Lang, Vũ Trọng Phụng, Thạch Lam…viết về những mặt trái của hiện
thực đời sống thị thành, tác giả Phan Cự Đệ nhận xét: “Tiếc rằng những
phóng sự này mới dừng lại ở những hiện tượng bề mặt mà chưa đi sâu được
vào bản chất, chưa phân tích được những nguyên nhân gây ra những ung
nhọt của xã hội. Bút pháp tự nhiên chủ nghĩa đã miêu tả một cách chi tiết
những câu chuyện dâm ô trụy lạc, gây một ảnh hưởng xấu đến người đọc”
[62, 20].
Nhìn chung trong nhiều thập kỷ, ở miền Bắc, việc nghiên cứu thể loại
phóng sự giai đoạn 1930 - 1945 đã được chú ý, tuy nhiên cách nhìn nhận,
đánh giá chưa thật khách quan, toàn diện, một số ý kiến còn có phần chủ
quan, chưa thấy hết được thành tựu cùng những đóng góp quan trọng của
phóng sự giai đoạn này đối với văn học sử nói chung và sự phát triển thể loại
phóng sự nói riêng.
Cùng trong khoảng thời gian này, ở miền Nam, cũng có những công
trình nghiên cứu: Lược sử văn học Việt Nam (Nhà văn tiền chiến 1930 -
1945) của Thế Phong; Việt Nam văn học sử giản ước tân biên (tập 3) của
Phạm Thế Ngũ; Bảng lược đồ văn học Việt Nam của Thanh Lãng…đã quan
tâm đến phóng sự giai đoạn 1930 - 1945. Tuy nhiên, các công trình này chủ
yếu chỉ dừng lại ở một số tác giả, tác phẩm tiêu biểu như Tam Lang, Vũ
Trọng Phụng…mà chưa nhận diện toàn diện sâu sắc về cả một giai đoạn
phát triển của thể loại phóng sự.
Từ sau 1975, đặc biệt từ sau đổi mới (1986), trong không khí đổi mới
chung của xã hội, của cả nền văn học, những vấn đề của văn học quá khứ
trong đó có phóng sự 1930 - 1945, đã được nhìn nhận, đánh giá chuẩn xác
hơn. Trong một số bộ giáo trình như Văn học Việt Nam thế kỷ XX, tập 2, do

-9-
Trần Đăng Suyền chủ biên và các chuyên đề bài viết: Phóng sự và quá trình
hiện đại hóa văn học Việt Nam của Hà Văn Đức; Lời giới thiệu bộ Tổng tập:
Phóng sự Việt Nam 1932 - 1945 - Một thành tựu của tiến trình văn học Việt
Nam của Phan Trọng Thưởng; Phóng sự Việt Nam (1932 - 1945) - Những
đóng góp đặc sắc về mặt nghệ thuật của Lê Dục Tú; Thể loại phóng sự trong
văn học thế kỷ XX của Tôn Thảo Miên…các tác giả đã trở lại nhận diện,
phân tích và đánh giá, khẳng định thành tựu rực rỡ của phóng sự trên cả hai
phương diện nội dung xã hội và nghệ thuật thể hiện đặc sắc. Từ đó, khẳng
định vị trí và đóng góp của phóng sự Việt Nam 1930 -1945 trong tiến trình
hiện đại hóa văn học đầu thế kỷ XX nói riêng và văn học sử Việt Nam nói
chung. Tuy nhiên, các công trình, bài báo này mới chỉ dừng ở mức độ khái
lược. Rất cần có sự khảo sát, đánh giá toàn diện, thấu đáo về thành tựu và
đóng góp của phóng sự Việt Nam ở giai đoạn phát triển rực rỡ này.
3.2. Những công trình, bài viết riêng về từng cây bút:
3.2.1. Tam Lang
Ngay khi ra đời Tôi kéo xe đã thu hút được sự quan tâm của công
luận. Trên báo Loa (số 86, 10/10/1935), Trương Tửu đánh giá: “Ông Tam
Lang đã tỏ ra có khiếu và tài là một nhà văn tả chân hoàn toàn”. “Tôi kéo xe
là cuốn tiểu thuyết tả chân giá trị nhất trong văn học Việt Nam hiện đại”. Ở
đó, bằng “tài quan sát và trí tưởng tượng…ông đã nhìn rõ cái nhục của hạng
trung lưu không đáng quan tâm bằng cái khổ của hạng nghèo hèn, hạng vô
học bị bóc lột không biết kêu vào đâu, luật pháp không bênh vực xiết, tôn
giáo không an ủi nổi. Ông Tam Lang đã bỏ ái tình đi vào xã hội, ở đó ông
tiến từ trưởng giả đến bình dân. Về cách phục diễn, ông đi từ lãng mạn đến
tả chân thuần túy, từ hùng biện đến kịch thể. Lấy nhân sự làm tài liệu, lấy
khách quan làm phương châm…”. Về nghệ thuật “câu văn ông vẫn dễ đọc
và có tính cách An Nam. Văn Tam Lang rất điêu luyện…”. Nhìn lại “Từ

- 10 -
Giọt lệ sông Hương đến Tôi kéo xe, ông Tam Lang tiến bộ về các phương
diện, cốt truyện, cách bố cục, cách viết, cách nghĩ, ông có con mắt quan sát
của nhà xã hội, ông có trí tưởng của một nhà thi sĩ, ông có bình tĩnh của một
nhà báo. Với ba đức tính này ông có thể trở thành một nhà văn đại tài” để
“đem nghệ thuật phụng sự nhân dân”. Trên Tiểu thuyết thứ bảy (số 74,
26/10/1935), Hoài Thanh viết: “Điều cần nhất cho một người phóng viên là
biết nghe, biết nhìn, biết tìm đến cái đáng nhìn và biết gợi những câu chuyện
đáng nghe. Biết quan sát vậy. Biết quan sát rồi lại phải biết diễn những điều
quan sát được ra câu văn. Ông Tam Lang có những tư cách ấy. Người ta
thường khen ngợi ngòi bút tả chân của ông. Thực không quá đáng…Cái đặc
sắc thứ nhất của văn Tam Lang ấy là chỗ hay tả và khéo tả những điều ghê
tởm, một sự ít có trong làng văn nước ta”. Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện
đại (NXB Tân Dân, 1942) khẳng định: Tôi kéo xe là tác phẩm phóng sự đầu
tiên của Việt Nam, “một quyển phóng sự giá trị”, “những đoạn tả chân có
đầy trong quyển Tôi kéo xe, làm cho người đọc cảm động và có sức cám dỗ
một cách lạ”. Cùng với việc ngợi khen Tôi kéo xe, Vũ Ngọc Phan cũng đánh
giá cao giá trị của Đêm sông Hương, thiên phóng sự đã phản ánh với “những
màu đen tối, làm cho người đọc có cái cảm tưởng những nơi âm u tịch mịch
là những nơi con quỷ dâm dục dễ hiện hành” và Lọng cụt cán “là một quyển
ghi tất cả những cái dởm đời, những cái ích kỷ, những tính kiêu căng, những
thói khoe khoang và những cái bất công trong xã hội Việt Nam. Những tật
xấu ấy đã phô bày dưới một ngòi bút châm biếm chân chính, một ngòi bút
chỉ biết phụng sự lẽ phải và sự công bình”. Tựu chung lại tác giả Nhà văn
hiện đại đánh giá cao sáng tác của Tam Lang “cây bút tả chân và châm
biếm”: “Trong những tập phóng sự và những tập châm biếm, trào
phúng…những tư tưởng thật là luân lý, những tư tưởng thật là bác ái, bao
giờ cũng có cái khuynh hướng bênh vực hạng người nghèo khổ, kém hèn,
mà bênh vực vì lẽ phải, vì nhân đạo…”.

- 11 -
Ở miền Nam sau 1954, một số công trình nghiên cứu cũng đã đánh giá
về phóng sự của Tam Lang. Tôi kéo xe đã được đưa vào dạy trong chương
trình quốc văn lớp 8, do vậy đã có một số bài viết về tác phẩm này. Tiêu
biểu là bài viết của Tam Ích Nhân đọc Tôi kéo xe của Tam Lang. Ở đó ông
đánh giá cao lối viết tả chân “có sao nói vậy” của nhà văn.
Trong Tổng tập văn học Việt Nam tập 29 do NXB Khoa học xã hội ấn
hành năm 2000, Tam Lang đã được dành vị trí xứng đáng: “Là cây bút “tả
chân” và châm biếm sắc sảo…có đóng góp đáng kể vào sự hình thành của
trào lưu văn học hiện thực phê phán và sự phát triển của văn học báo chí
Việt Nam”…Tôi kéo xe được tôn vinh “là tập phóng sự ra đời sớm nhất…có
ý nghĩa mở đầu cho sự phát triển thể loại phóng sự trong văn xuôi Việt Nam
hiện đại và là một trong những tác phẩm đánh dấu sự phát triển của trào lưu
văn học hiện thực Việt Nam những năm 1930 - 1945”.
3.2.2. Vũ Trọng Phụng
Sau Tôi kéo xe, sự xuất hiện hàng loạt phóng sự của Vũ Trọng Phụng:
Cạm bẫy người, Kỹ nghệ lấy Tây, Cơm thầy cơm cô, Lục xì, Một huyện ăn
Tết…đã thực sự tạo được sự quan tâm của công luận, khiến “cái tên Vũ
Trọng Phụng đã ra đời lừng lẫy trong chớp mắt” và nhanh chóng được vinh
danh là “ông vua phóng sự đất Bắc”. Trong Lời tựa Kỹ nghệ lấy Tây, Phùng
Tất Đắc ngợi ca “ngòi bút phóng sự của ông Vũ Trọng Phụng đã nói tới một
độ rất cao trong nghệ thuật. Cuốn sách này…vào hàng những công trình ảnh
hưởng xa rộng hơn, những công trình có thể vạch phương hướng cho văn
nghệ, những công trình rút được tài liệu cho đời sau khảo xét về buổi này”.
Sau khi Vũ Trọng Phụng qua đời, trên Tao đàn số đặc biệt tháng 12/1939,
bạn bè, đồng nghiệp đánh giá cao văn tài của nhà văn. Tam Lang chân thành
đề cao tài năng Vũ Trọng Phụng: “Đọc những thiên phóng sự ấy, tôi nhận
thấy rằng Vũ Trọng Phụng, về mặt phóng sự - một lối văn do tôi khởi xướng

- 12 -
ra đầu tiên - đã bỏ xa tôi lắm”. Trên báo Tràng An, Mai Xuân Nhân đánh giá
cao Kỹ nghệ lấy Tây, coi đó là một kiệt tác và chính “kiệt tác ấy đã đưa ông
Vũ Trọng Phụng đến con đường bổn phận của một nhà cầm bút sống trong
cái tình thế trầm trọng của một thời đại khó khăn, rối rít và đã xô lối phóng
sự xứ này bước được một bước dài rất vẻ vang”. Chính trong bài viết này,
Mai Xuân Nhân đã tôn vinh Vũ Trọng Phụng là “ông vua phóng sự đất
Bắc”. Lê Thanh trên Hà Nội báo số 34 ra ngày 26/8/1936 cũng nhận xét:
“Bằng một thể văn tả thực, mới mẻ, chua chát, viết thiên phóng sự Kỹ nghệ
lấy Tây, ông Vũ Trọng Phụng đã lột hẳn tinh thần đối tượng…Ông đứng biệt
ra một nơi, ghi lấy từng mảnh một tấn kịch vĩ đại hơn, hiện đang diễn ra ở
xứ ta, do sự gặp gỡ của hai làn sóng, của hai thế giới gây nên”. Trên cơ sở
khảo sát kỹ lưỡng phóng sự của Vũ Trọng Phụng, Vũ Ngọc Phan trong Nhà
văn hiện đại đã đánh giá một cách chân xác về Cơm thầy cơm cô, cho đó “là
tập hay nhất của Vũ Trọng Phụng. Ngòi bút tả chân của ông thật là tuyệt xảo
khi ông tả những cảnh nghèo khổ” [137, 577] . Vũ Ngọc Phan cũng đã phát
hiện nhân vật tôi và nghệ thuật trần thuật đặc sắc trong phóng sự của Vũ
Trọng Phụng. Tuy nhiên, đương thời cũng có những ý kiến công kích gay
gắt văn chương của Vũ Trọng Phụng. Tiêu biểu cho những ý kiến này là
Thái Phỉ và Nhất Chi Mai. Trên tờ Tin văn (tháng 5/1936), trong bài viết
“văn chương dâm uế”, Thái Phỉ lên án loại văn sĩ “viện cái chủ nghĩa tả
chân” để tả cảnh dâm uế một cách táo bạo, quá đà khiến người đọc hoặc ghê
sợ hoặc “rung động” một cách lệch lạc, kích thích mặt thú tính của con
người. Nhất Chi Mai viết bài Ý kiến của một người đọc: Dâm hay không dâm
đăng trên báo Ngày nay, số 51, ngày 14/3/1937, đả kích nhà văn Vũ Trọng
Phụng, tác giả thiên phóng sự Lục xì là “một nhà văn nhìn thế giới qua cặp
kính đen, có một bộ óc cũng đen và một nguồn văn càng đen nữa”. Ông tức
tối lên án lối văn chương “đen tối”, “dơ dáy, bẩn thỉu, nhơ nhớp” của Vũ

- 13 -
Trọng Phụng. Với bài bút chiến Thư ngỏ cho ông Thái Phỉ, chủ bút báo Tân
văn về bài “Văn chương dâm uế”, đăng trên Hà Nội báo số 38 ngày
23/9/1936 và bài “Để đáp lại báo Ngày nay: Dâm hay là không dâm?” đăng
trên báo Tương lai số 37, ngày 25/3/1937, Vũ Trọng Phụng đã thẳng thắn
bác lại ý kiến của Thái Phỉ và Nhất Chi Mai, đồng thời khẳng định quan
niệm văn chương tiến bộ của mình: “Các ông muốn tiểu thuyết cứ là tiểu
thuyết. Tôi và các nhà văn cùng chí hướng như tôi muốn tiểu thuyết là sự
thực ở đời…các ông muốn theo thuyết tùy thời, chỉ nói cái gì thiên hạ thích
nghe nhất là sự giả dối. Chúng tôi chỉ muốn nói cái gì đúng sự thật…”.
Sau Cách mạng tháng Tám 1945, trong Hội nghị tranh luận văn nghệ
Việt Bắc (1949), nhà thơ Tố Hữu đã trân trọng ghi nhận công lao của Vũ
Trọng Phụng: “…Cách mạng cám ơn Vũ Trọng Phụng đã vạch rõ cái thực
xấu xa thối nát của xã hội ấy”. Trong bài giảng cho các khóa đào tạo văn
nghệ kháng chiến năm 1950 Nguyễn Đình Lạp cũng đã đề cao đóng góp của
Vũ Trọng Phụng về thể phóng sự.
Sau hòa bình (1954), phóng sự của Vũ Trọng Phụng một lần nữa thu
hút được sự quan tâm của công luận. Nhà văn Nguyên Hồng đánh giá: Cạm
bẫy người là tác phẩm mở đầu của khuynh hướng văn học hiện thực và “với
hai thiên phóng sự đặc biệt Cơm thầy cơm cô và Lục xì và hai tiểu thuyết Số
đỏ và Giông tố, Vũ Trọng Phụng đã làm chuyển động cả dư luận văn học
bấy giờ, giơ cao thêm ngọn cờ hiện thực, góp thêm một phần đấu tranh quyết
liệt cho một nền văn học tiến bộ”. Trong cuốn Vũ Trọng Phụng với chúng ta
(do Minh Đức xuất bản) cùng với việc đánh giá cao tiểu thuyết, các tác giả
cũng đánh giá rất cao phóng sự của Vũ Trọng Phụng. Theo Phan Khôi, Cơm
thầy cơm cô, Kỹ nghệ lấy Tây, Cạm bẫy người đều là những tác phẩm thông
cảm và tố khổ cho hạng người cùng khổ ở Việt Nam. Trong tiểu luận Vũ
Trọng Phụng - nhà văn hiện thực, Văn Tâm đánh giá cao chủ nghĩa hiện

- 14 -
thực và tinh thần nhân đạo trong phóng sự của Vũ Trọng Phụng. Tuy nhiên,
chính trong giai đoạn này, một số bài viết lại phê phán văn chương Vũ
Trọng Phụng. Trong Một vài ý kiến về tác phẩm Vũ Trọng Phụng trong Văn
học Việt Nam, Hoàng Văn Hoan cho rằng, Lục xì và một vài tác phẩm khác
của Vũ Trọng Phụng là “cả một ý thức thừa nhận thú tính, cổ lệ nhục dục”.
Còn Vũ Đức Phúc thì nhận định: “Sáng tác của Vũ Trọng Phụng có một số
yếu tố hiện thực tốt…nhưng những yếu tố ấy lại xen lẫn với nhiều yếu tố độc
hại làm cho khá nhiều sáng tác bị hỏng đi một cách đáng tiếc”. Và “phần
lớn phóng sự của Vũ Trọng Phụng xưa kia chỉ là những tiểu thuyết được “hư
cấu” bằng cách lượm lặt những mẩu chuyện bên cạnh bàn đèn thuốc phiện”.
Đồng thời gian này ở miền Nam một số công trình nghiên cứu văn
học sử cũng khảo sát và đánh giá cao phóng sự của Vũ Trọng Phụng. Thế
Phong trong Lược sử văn nghệ miền Nam khẳng định: “…Vũ Trọng Phụng
có nghệ thuật chọn lọc xếp đặt, xây dựng thành hệ thống điển hình…Vũ
Trọng Phụng đã thành văn hào vượt hẳn những bạn văn chương thời đó”.
Phạm Thế Ngũ trong cuốn Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, tập 3, sau
khi giới thiệu tóm tắt bốn phóng sự của Vũ Trọng Phụng: Cạm bẫy người,
Kỹ nghệ lấy Tây, Cơm thầy cơm cô, Lục xì đã đánh giá cao phóng sự của Vũ
Trọng Phụng: “Ta thấy tất cả những gì gọi là hài hước, bi đát, rùng rợn trong
những vết thương xã hội lúc bấy giờ. Ta cũng thấy công phu điều tra, khiếu
quan sát lịch duyệt của tác giả…Cây bút tả chân già dặn linh hoạt như chụp
được sự thật…ông moi móc những vết thương xã hội ấy…và nói ra với một
giọng mỉa mai chua chát, đôi khi đượm vẻ căm hờn”. Trong Bảng lược đồ
văn học Việt Nam, Thanh Lãng nhận xét: “Vũ Trọng Phụng trong Cạm bẫy
người cho chúng ta thấy cái xã hội mà Phạm Quỳnh đã cùng ca ngợi chỉ là
một xã hội giả dối, tội lỗi, xấu xa…còn gì sống động và cũng sượng sùng
cho bằng những thiên điều tra của Vũ Trọng Phụng trong Cơm thầy cơm cô
hay Lục xì! Truyện như trốn tránh kết cấu, chỉ còn là một sự diễn hành”.

- 15 -
Từ sau 1986, trong không khí đổi mới, tác phẩm của Vũ Trọng Phụng
trong đó có các tập phóng sự được tái bản nhiều lần, cùng với đó là những
công trình nghiên cứu về văn nghiệp của Vũ Trọng Phụng. Trong đó nhiều
công trình bài viết trở lại đánh giá cao di sản phóng sự của Vũ Trọng Phụng.
Trong bài giới thiệu Tuyển tập Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Đăng Mạnh cho
rằng: “Vũ Trọng Phụng thành công hơn cả ở thể tài phóng sự với Cạm bẫy
người (1933) và Kỹ nghệ lấy Tây (1934). Hai tác phẩm này đã phát huy ở
ông một sở trường quan sát sắc sảo, khả năng ký họa mau lẹ, linh hoạt và lối
văn biến hóa hấp dẫn…”. Sau khi đánh giá xác đáng về sự nghiệp của “ông
vua phóng sự” qua hai tập phóng sự Kỹ nghệ lấy Tây và Cơm thầy cơm cô
do Nhà xuất bản Hà Nội tái bản năm 1989, Nguyễn Đăng Mạnh đã phân tích
cách tiếp cận của Vũ Trọng Phụng: “Cái gốc của tài năng Vũ Trọng Phụng
xét đến cùng là ở tấm lòng đau đớn và đầy căm phẫn của một trí thức nghèo
bị giày xéo và bị lăng nhục bởi cái xã hội xây dựng trên nguyên tắc của
quyền lực bất công và đồng tiền phi nghĩa”. Trần Hữu Tá khi giới thiệu
Tuyển tập Vũ Trọng Phụng đã nhấn mạnh: “Đằng sau những nhân vật Cạm
bẫy người…người đọc phần nào thấy được hình ảnh của xã hội thành thị trụy
lạc hóa hồi những năm 30 và tình trạng bần cùng, bế tắc, lưu manh hóa của
loại tiểu tư sản lớp dưới và dân nghèo thành thị lúc bấy giờ”. Về nghệ thuật,
tác giả cho rằng: “Khuynh hướng tiểu thuyết hóa ở một mức độ nào đấy là
một đặc điểm của ngòi bút phóng sự Vũ Trọng Phụng”. Vũ Ngọc Phan trong
hồi ký Những năm tháng ấy, một lần nữa khẳng định vị trí và phần đóng góp
rất lớn của Vũ Trọng Phụng đối với dòng văn học hiện thực phê phán Việt
Nam: “Thời gian 30 - 40, anh là tay viết phóng sự cứng nhất trong số những
nhà văn hiện thực nổi tiếng thời bấy giờ, anh là một kiện tướng”.

Từ năm 1988, Vũ Trọng Phụng được dành một vị trí xứng đáng trong
giáo trình bậc đại học. Tham gia biên soạn bộ giáo trình của trường Đại học
Sư phạm Hà Nội, Nguyễn Hoành Khung nhận thấy, nổi bật trong phóng sự

- 16 -
của Vũ Trọng Phụng là “lối viết chính luận nghệ thuật đanh sắc”. Ông đặc
biệt nhấn mạnh phần đóng góp to lớn của Vũ Trọng Phụng đối với thể phóng
sự, coi Vũ Trọng Phụng là “một trong số những người mở đầu và là người
có công lớn nhất trong việc đưa thể loại phóng sự đến thành thục”. Từ góc
độ thể loại, Vương Trí Nhàn qua tiểu luận Nơi gặp gỡ của báo chí và văn
học ghi nhận phóng sự của Vũ Trọng Phụng “rất chín, rất thành thực, không
chê vào đâu được”. Đặc biệt trong Tổng tập văn học Việt Nam tập 29 do
NXB Khoa học xã hội ấn hành, Nguyễn Hoành Khung một lần nữa khẳng
định: “Cho đến nay, có thể nói, vị trí hàng đầu của Vũ Trọng Phụng trong
nền văn xuôi quốc ngữ nước ta trước cách mạng đã được khẳng định chắc
chắn hơn bao giờ hết”. Viết về Phóng sự của Vũ Trọng Phụng, Hà Minh
Đức nhận xét: “Phóng sự của Vũ Trọng Phụng không đi vào miêu tả tràn lan
những chất liệu phức tạp của đời sống mà tập trung vào những hiện tượng
đặc biệt và làm nổi lên chủ đề và nội dung xã hội rõ rệt”…”Phóng sự của Vũ
Trọng Phụng có giá trị văn học…Vũ Trọng Phụng là bậc thầy của nghệ thuật
trần thuật và miêu tả…táo bạo, mạnh mẽ, chân thực, thuyết phục, hài hước,
cảm thương là những cảm hứng dễ thấy của phóng sự Vũ Trọng Phụng”.

Các tác phẩm phóng sự của Vũ Trọng Phụng đã được đưa vào nhiều
bộ Từ điển văn học như: Từ điển văn học, 2 tập (NXB Khoa học Xã hội,
1984), Từ điển tác phẩm văn xuôi Việt Nam (từ cuối thế kỷ XIX đến 1945),
(NXB Văn học, 2001)…. Các công trình nghiên cứu về Vũ Trọng Phụng đã
được tập hợp trong nhiều cuốn sách: Vũ Trọng Phụng, con người và tác
phẩm do Nguyễn Hoành Khung và Lại Nguyên Ân biên soạn; Vũ Trọng
Phụng - về tác gia và tác phẩm do Nguyễn Ngọc Thiện và Hà Công Tài
biên soạn; Vũ Trọng Phụng - Một tài năng độc đáo do Mai Hương biên
soạn; Bản sắc hiện đại trong tác phẩm Vũ Trọng Phụng do Viện Văn học
biên soạn…Trong đó đều có những bài viết, đánh giá cao đóng góp của

- 17 -
phóng sự Vũ Trọng Phụng trên cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật
thể hiện. Phóng sự của Vũ Trọng Phụng cũng đã được chọn làm đề tài
nghiên cứu của một số luận án, luận văn khoa học các cấp.
3.2.3. Ngô Tất Tố
So với Vũ Trọng Phụng, việc nghiên cứu đánh giá về Ngô Tất Tố nói
chung và di sản phóng sự của ông nói riêng ít thăng trầm và phức tạp. Năm
1942, trong Nhà văn hiện đại, Vũ Ngọc Phan đã dành giới thiệu về sáng tác
của Ngô Tất Tố, trong đó có tập phóng sự đặc sắc Việc làng. Cùng với nội
dung: “làm cho người ta thấy những cảnh khổ não, nhục nhằn, những tai nạn
khủng khiếp, những việc thương tâm gây nên bởi miếng ăn, phơi bày ra như
ở trước mắt ”, Vũ Ngọc Phan đánh giá cao vốn hiểu biết thực tế, đặc biệt
nghệ thuật “tả …thật như vẽ ra trước mắt”, “lời văn bình dị”, nhờ vậy, “tập
phóng sự về dân quê này thật là một tập phóng sự rất đầy đủ về lệ làng”.
Năm 1958, nhân Đọc lại việc làng của Ngô Tất Tố, Bùi Huy Phồn nhận xét:
“Bằng những tài liệu phong phú, một lối nhìn sâu sắc tinh vi và lời văn đanh
thép như một lời cáo trạng, nhiều khi châm biếm quá đến chua cay”, nhà văn
lão thành Ngô Tất Tố đã viết thiên phóng sự Việc làng, với “mười bảy bản
cáo trạng lên án cái bản chất mọt ruỗng và đen tối của tổ chức xã hội cũ một
cách rất hùng hồn”. Bùi Huy Phồn đánh giá cao quan điểm và cách nhìn
nhận của Ngô Tất Tố về hiện thực đời sống. Ông cho rằng: “Trong lúc mà
một số nhà văn khác đang đua nhau ca ngợi những lớp người và cuộc sống
lãng mạn suy tàn, thì Ngô Tất Tố là một trong số những nhà văn đã nhìn
thấy cái bản chất của xã hội đương thời”. Trong chuyên luận Ngô Tất Tố
(NXB Văn hóa, 1962), hai tác giả Nguyễn Đức Đàn, Phan Cự Đệ cũng
khẳng định: “Sự am hiểu đời sống ở nông thôn và tâm lý của người nông
dân khá sâu sắc của Ngô Tất Tố, nhờ thế ông đã làm nổi bật được những tai
hại của tục lệ xã hội, của lệ làng”. Và nhấn mạnh: “Thành công của Ngô Tất
Tố và cũng là biểu hiện cái nhìn đúng đắn của ông chính là ở chỗ thông qua

- 18 -
việc miêu tả các hủ tục, nhà văn đã vẽ lên được cuộc sống khổ cực của nông
dân và âm mưu của bọn cường hào địa chủ lợi dụng hủ tục để áp bức, bóc lột
quần chúng”. Các tác giả cũng nhấn mạnh: “Giá trị của tập phóng sự Việc
làng chính là ở chỗ …đã miêu tả thực tại một cách chân thực và đã biểu thị
thái độ không đồng tình với thực tại ấy; phê phán nghiêm khắc thực tại ấy”.
Về nghệ thuật, Ngô Tất Tố vốn xuất thân từ nho học, nhưng “đối với một thể
loại mới mẻ như thể loại phóng sự, Ngô Tất Tố đã không tỏ vẻ bỡ ngỡ chút
nào. Trái lại, ngòi bút của ông khi nào cũng vững vàng, chắc chắn, lời văn
bao giờ cũng bình dị, sáng sủa và cô đúc”. Trong một số giáo trình, công
trình văn học sử, phóng sự của Ngô Tất Tố đặc biệt hai tập Việc làng và Tập
án cái đình đã được đánh giá cao. Nguyễn Đăng Mạnh trong Lịch sử văn
học Việt Nam, tập 5 (NXB Giáo dục, 1973) khẳng định: “Ngô Tất Tố là nhà
văn xuất sắc của nông thôn Việt Nam. Tập phóng sự có giá trị nhất của ông
là tập Việc làng”… “một tập án đanh thép về hủ tục và nạn cường hào ở
nông thôn Việt Nam trước cách mạng”. Nghệ thuật phóng sự của Ngô Tất
Tố trong Việc làng “có khuynh hướng đi gần với lối viết truyện ngắn…lối kể
chuyện của tác giả khá linh hoạt…con mắt quan sát và ngòi bút miêu tả của
Ngô Tất Tố khá sắc sảo…ngôn ngữ của Việc làng nói chung chính xác, giàu
hình ảnh. Tác giả tỏ ra khá thông thạo ngôn ngữ nông thôn”. Trong bài viết
Tiểu phẩm văn học và báo chí của Ngô Tất Tố, Hà Minh Đức khẳng định:
“Chính Ngô Tất Tố, ở thể loại phóng sự cũng đã tạo được thành công xuất
sắc. Tập án cái đình và phóng sự Việc làng là những trang viết phô bày sự
thực của làng quê bị trói buộc trong những hủ tục bao đời và cũng bộc lộ
thái độ phê phán thẳng thắn của nhà nho tiến bộ muốn giải thoát nông thôn
khỏi những ràng buộc lâu đời. Nhiều nhà xã hội học trong và ngoài nước
đánh giá và xem các tác phẩm trên như những tín hiệu tin cậy và chứng tích
của một thời của nông dân Việt Nam trước cách mạng”. Trong Hội thảo do
Trường Đại học Havard (Mỹ) tổ chức 1982, Ngô Tất Tố và di sản văn học
của ông được đặc biệt quan tâm, được đánh giá cao và khơi gợi được không

- 19 -
khí thảo luận sôi nổi, trong đó Việc làng đặc biệt được quan tâm, được đánh
giá cao về tính chân thực, phong phú về tư liệu và tiến bộ trong tư tưởng phê
phán. Trong tham luận của ông, Phan Cự Đệ đánh giá cao di sản của Ngô
Tất Tố trong đó có di sản phóng sự. Nhà nghiên cứu Pháp G.Buđaren, đề cập
đến “chủ nghĩa Đình – Đình chi phối, kìm hãm nông thôn Việt Nam trong
hủ tục”. Trước đó, Buđaren đã đánh giá cao tài năng của Ngô Tất Tố và giá
trị tác phẩm của nhà văn: Một nhà dân tộc học được đào tạo “bằng thực tiễn
quần chúng”. Theo G.Buđaren “Cảm hứng trong tác phẩm của ông là chống
“chủ nghĩa truyền thống” (Ở đây có nghĩa là phục cổ) một cách mạnh mẽ, rất
thực chứng và mang tính xã hội nếu không muốn nói là có màu sắc xã hội
chủ nghĩa. Sự khinh bỉ công khai của tác giả đối với những người bị bỏ sót
“trong lũy tre làng…Tác phẩm của ông (Ngô Tất Tố) ngày nay là một nơi
lưu trữ tuyệt vời, một bảo tàng mỹ lệ về những phong tục truyền thống đó”.
Với hai tập phóng sự Tập án cái đình và Việc làng, Ngô Tất Tố “đã chĩa mũi
dùi vào cơ cấu của bộ máy xã hội, các mối quan hệ giữa thân hào ở địa
phương với những người nông dân mù chữ bị chúng lừa đảo, chủ yếu trong
các dịp tế lễ, đình đám”.
Cùng với những công trình, bài viết trên, những năm gần đây trong
nhiều công trình tập hợp, biên soạn về Ngô Tất Tố và di sản văn học đồ sộ
của ông: Ngô Tất Tố với chúng ta; Ngô Tất Tố - Một tài năng đa dạng do
Mai Hương biên soạn; Ngô Tất Tố - về tác gia và tác phẩm do Mai Hương
và Tôn Phương Lan biên soạn; Di cảo báo chí Ngô Tất Tố - ý nghĩa lý luận
và thực tiễn do Phan Cự Đệ, Cao Đắc Điểm, Vũ Duy Thông và Nguyễn Gia
Quý biên soạn…đều có những bài viết tâm huyết, đánh giá cao giá trị và
đóng góp của phóng sự Ngô Tất Tố. Tác phẩm phóng sự của Ngô Tất Tố
cũng được trân trọng giới thiệu trong các bộ: Từ điển văn học, 2 tập (NXB
Khoa học Xã hội, 1984); Từ điển tác phẩm văn xuôi Việt Nam (từ cuối thế
kỷ XIX đến 1945) (NXB Văn học, 2001)…Phóng sự của Ngô Tất Tố cũng

- 20 -
trở thành đối tượng khảo sát, nghiên cứu của nhiều luận án, luận văn khoa
học các cấp.
Nhìn chung, càng ngày những giá trị của phóng sự Ngô Tất Tố càng
được khám phá sâu sắc, đa diện; càng được khẳng định chắc chắn hơn.
Từ việc khảo sát lịch sử nghiên cứu về phóng sự Việt Nam 1930 -
1945 và phóng sự của ba cây bút tiêu biểu Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố,
Tam Lang, chúng tôi nhận thấy vấn đề mới dừng lại ở mức độ:
. Đề cập tới một cách khái lược khi nghiên cứu về những vấn đề
chung của lịch sử văn học giai đoạn 1930 -1945.
. Đề cập tới từng khía cạnh, từng tác phẩm hoặc sáng tác của từng tác
giả riêng biệt.
. Tách phóng sự của các tác giả này ra khỏi báo chí, vốn là cái "nôi"
của phóng sự Việt Nam 1930 - 1945.
Từ thực tế đó chúng tôi nhận thấy:
- Cần thiết khảo sát một cách toàn diện, hệ thống phóng sự 1930 -
1945, đặc biệt đóng góp của ba cây bút phóng sự tiêu biểu Vũ Trọng Phụng,
Ngô Tất Tố, Tam Lang.
- Khảo sát, nghiên cứu phóng sự của các cây bút này và phóng sự
1930 - 1945 trong mối quan hệ chặt chẽ với báo chí và tiến trình hiện đại hóa
văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX .
- Từ đó rút ra được những thành tựu đóng góp của phóng sự Việt Nam
giai đoạn 1930 - 1945 nói chung và của ba tác giả Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất
Tố, Tam Lang nói riêng vào sự phát triển của thể loại phóng sự trong cả tiến
trình hiện đại hóa văn học Việt Nam hiện đại.
Và đó cũng là lý do chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài này.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Để triển khai đề tài, luận án sử dụng những phương pháp nghiên cứu
cơ bản sau:
- Văn học sử nhằm khôi phục lại diện mạo và tiến trình văn học 1930 - 1945.
- Phân tích và hệ thống để làm rõ đặc sắc của tác phẩm, của từng nhà
văn và hệ thống hóa nhằm khái quát các vấn đề.

- 21 -
- So sánh để làm rõ cái chung và riêng của từng tác giả cũng như giữa
3 tác giả Tam Lang, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố với các tác giả phóng sự
khác cùng thời.
- Phương pháp liên ngành văn học sử - báo chí nhằm làm rõ quan hệ
văn học và báo chí trong phóng sự của 3 cây bút và phóng sự trong giai đoạn
1930 - 1945.
Ngoài ra, chúng tôi sử dụng phương pháp phụ trợ thống kê - phân loại
làm cơ sở cho nhận định và so sánh.
5. Đóng góp mới của luận án:
- Khảo sát một cách toàn diện và hệ thống các di sản phóng sự của ba
cây bút phóng sự tiêu biểu đầu thế kỷ XX Tam Lang, Vũ Trọng Phụng, Ngô
Tất Tố, từ đó có cơ sở chắc chắn để khẳng định nét riêng trong cá tính sáng
tạo của từng cây bút, phần đóng góp và vị trí của ba cây bút này trong sự
phát triển của phóng sự Việt Nam.
- Đặt và khảo sát ba tác giả tiêu biểu trên nền chung của phóng sự Việt
Nam giai đoạn 1930 - 1945, luận án góp phần khái quát diện mạo của phóng
sự Việt Nam 1930 - 1945 và ở một phạm vi nhất định cho thấy sự phát triển
của thể loại này trong tiến trình văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX.
- Từ nghiên cứu ba tác giả và phóng sự 1930 - 1945 rút ra được những
bài học kinh nghiệm thẩm mỹ có ý nghĩa cho sự phát triển của phóng sự
trong giai đoạn đổi mới và hiện nay.
6. Cấu trúc của luận án:
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung
chính của luận án gồm ba chương:
- Chương 1: Khái niệm phóng sự và khái lược về phóng sự Việt Nam
giai đoạn 1930 - 1945.
- Chương 2: Đối tượng thẩm mỹ của phóng sự Tam Lang, Vũ Trọng
Phụng, Ngô Tất Tố.
- Chương 3: Đặc điểm của phóng sự Tam Lang, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng
Phụng (nhìn từ góc độ thể loại).

- 22 -
PHẦN NỘI DUNG

CHƢƠNG 1: KHÁI NIỆM PHÓNG SỰ - KHÁI LƢỢC VỀ


PHÓNG SỰ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1930 - 1945

1.1. Khái niệm về thể loại phóng sự


1.1.1. Sự hình thành của thể loại phóng sự
Phóng sự, tiếng Anh là reportage, bắt nguồn từ tiếng La tinh,
reportara có nghĩa thông báo một tin mới, về chuyến đi, giành được một cái
gì đó. Theo Karel Storkal, khoa Báo chí, trường Đại học Sác-Lơ, Cộng hòa
Séc, “phóng sự được ra đời do sự hiếu kỳ của con người, do niềm khát khao
muốn hiểu biết và muốn có những thông tin độc đáo và lý thú”. Theo ông,
người Anh là những người đầu tiên sử dụng thuật ngữ Phóng sự để “mô tả
một kỳ họp Quốc hội, những trận lụt, những đám cháy và những cuộc chiến
tranh” [158, 208]. Cũng theo Karel Storkal, phóng sự xuất hiện từ nửa sau
thế kỷ XIX, khi chủ báo Thời báo (……) cử phóng viên theo dõi với tư cách
một nhân chứng tại chỗ để miêu tả cuộc chiến tranh Crimê; khi một nhà báo
Pháp giàu tham vọng được viên cảnh sát trưởng Paris cho phép đi thăm và
mô tả về các nhà tù của Pháp. Việc miêu tả của các phóng viên này dựa trên
sự kể lại của các nhân chứng “mắt thấy tai nghe”. Cụ thể hơn Karel Storkal
nhận xét: thể loại phóng sự phát triển và khẳng định được vị trí của nó từ sau
chiến tranh thế giới thứ nhất với sự tham gia của những nhà văn nổi tiếng
như Giăng Cốc-tô, Gioóc-giơ Gi-ra, Ăng-đrê Mô-roa…Các tác giả cuốn
Bách khoa toàn cầu xuất bản tại Paris năm 1991 lại cho rằng: thể phóng sự
ra đời ở Mỹ trong chiến tranh Nam - Bắc (1861 - 1865) và nhanh chóng phát
triển trên mục Thời luận, trong các báo Anglo - Saxonne. Tuy nhiên, các tác
giả cũng cho biết, mặc dù xuất hiện sớm như vậy, nhưng vào thời điểm đó, ở

- 23 -
châu Âu, đặc biệt ở Pháp, các ký giả cũng còn khá dè dặt trong việc sử dụng
thể loại này. Trong bộ Từ điển khoa học văn học do Claus Träger chủ biên,
hai tác giả mục Phóng sự cho rằng: “Phóng sự là thể loại văn học phát triển
từ báo chí và dần hoàn thiện về mặt thể loại. Những thập niên đầu thế kỷ
XIX, đã có những phóng sự khá hấp dẫn: W.Ivring (Mỹ) với Sketch book
(1819) viết về ấn tượng của ông về nước Mỹ và nước Anh; Ch.Dickens
(Anh) đã mô tả cuộc sống của nước Anh trong cuốn Sketches by Boz (1835);
G. Weerth (Đức) với Englich Sketches (1843-1848); Th.Fontanes (Anh) với
Một mùa hè ở London (1854) [184; 434,435] …Từ đó, phóng sự đã trở thành
thể loại được yêu thích. Theo cuốn Từ điển văn học: Killy [185], mặc dù có
thể xuất hiện dạng tường thuật nhân chứng và mô tả du lịch có các hình thức
giống như phóng sự và nhiều khi được coi là phóng sự, nhưng thực tế, thể
loại phóng sự chỉ được hình thành trong thế kỷ XIX, song song với việc phát
triển ngày càng mạnh của thông tin đại chúng và các điều kiện phát hành.
Ngay sau chiến tranh thế giới thứ hai, Phóng sự đã trở thành thể loại văn học
phù hợp nhất thể hiện được những thay đổi có tính chất sâu sắc của xã hội và
sự tàn phá cuộc sống thường nhật của người dân. Sau đó, vào cuối thập kỷ
60-70, cùng với việc đánh giá cao các thể loại văn học có tính tài liệu - hành
động và sự phát triển, ảnh hưởng của trường phái Báo chí mới ở Mỹ, thể loại
phóng sự càng được đề cao và phát triển.
Nhìn như vậy, có thể thấy, mặc dù không xác định được một thời
điểm cụ thể cho sự ra đời của thể phóng sự, nhưng phần lớn ý kiến đều
khẳng định: sự xuất hiện và phát triển của thể loại phóng sự gắn với sự phát
triển của báo chí, “khi báo chí đã trưởng thành”; gắn với nhu cầu thưởng
thức, tiếp nhận thông tin mới, “độc đáo, lý thú” và xác thực của công chúng,
“người đọc ngày nay giàu kinh nghiệm mới, nhiều nguyện vọng, xúc động,
liên tưởng nên nhạy cảm hơn, nghiêm khắc hơn, khó tính hơn. Bất cứ cái gì

- 24 -
bằng phẳng, nhàm mòn hoặc dối trá đều làm họ bất bình” [158; 219,214] đặc
biệt sau chiến tranh “họ chán ngán sự hư cấu và khao khát muốn biết những
điều chân thực”. Bối cảnh xã hội với nhiều biến động, thăng trầm dữ dội cũng
là điều kiện kích thích sự ra đời và phát triển của một thể loại năng động này.
Mặc dù đã được manh nha sớm nhưng phóng sự chỉ thực sự “chín”, thực sự
hoàn thiện với tư cách một thể loại văn học - báo chí vào thế kỷ XIX, đặc biệt
những thập niên cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Những biến động dữ dội của
thế kỷ XX đã có những tác động sâu sắc đến đời sống, văn học, báo chí tạo ra
sự phát triển có tính chất bùng nổ của thể loại phóng sự.
“Từ một loại hình phóng sự nguyên thủy thuần túy tính chất báo chí
như ngắn, gọn, cụ thể, có tính tường thuật, tính tư liệu và thông tin” [184;
434]; “Từ chỗ đưa tin và miêu tả giản đơn những cuộc bàn cãi ở các tòa án”,
[158; 209] phóng sự đã trải qua một chặng đường phát triển và trở thành một
thể loại riêng. Vượt qua giới hạn của một loại hình trình bày các thông tin
thời sự, “một sự mô tả đơn giản”, “ghi lại đơn giản và máy móc những sự
kiện” (Mác Tu-ên), phóng sự đã “truyền đạt lại một cách có tác dụng truyền
cảm và mang tính phê bình, đánh giá” [184; 435]. Nó “không còn tự giới hạn
trong việc mô tả hiện thực trên bề mặt mà đã đạt tới những dạng thức chân
xác của hiện thực trong những biến đổi của nó cả về mặt sự kiện cũng như
về mặt cảm xúc” [158; 213] “là sự trả lời một loạt câu hỏi phức tạp liên quan
đến cuộc sống của chúng ta”, đề cập đến những biến cố chấn động như cuộc
Đại cách mạng Tháng Mười, những cuộc thám hiểm táo bạo vượt núi Anpơ,
những biến cố lớn của xã hội suốt trong những năm tháng chiến
tranh…Hàng loạt phóng sự mẫu mực, hấp dẫn của các cây bút phóng sự tên
tuổi ra đời: Mười ngày rung chuyển thế giới của Giôn-Rít; Nước Trung Hoa
bí mật của E.Keat; Thượng Cam Lĩnh của Lục Trụ Quốc; Viết dưới giá treo
cổ của G.Phuxich; những phóng sự chiến tranh của Ilia Êrenbua, Borit

- 25 -
Polevôi, Conxtantin Ximônốp…Ở các thiên phóng sự này việc tìm được
những đề tài mới, tạo được những phương thức cấu trúc mới và “việc tường
thuật hấp dẫn”, khiến phóng sự thực sự “là phản quang của những khuynh
hướng xã hội và đạo đức của thời đại”; “Có thể bắt mạch sự kiện”, có thể
làm “bản kiểm kê của thời điểm” một cách sinh động và hấp dẫn [158; 210-
211], đặc biệt trong những thời kỳ có những biến thiên xã hội và lịch sử
nhanh chóng, dữ dội. Với sự tìm tòi, sáng tạo và sự góp mặt ngày càng đông
đảo của những nhà văn tên tuổi trên thế giới, thể loại phóng sự ngày càng
hoàn thiện, ngày càng có sức hấp dẫn, trở thành thể loại không thể thiếu
được trong đời sống văn học, báo chí. Nhà văn Giăng Pôn Xáctơrơ còn coi:
“Phóng sự là một thể loại văn học và nó có thể trở thành một trong những
thể loại văn học quan trọng nhất ”.
Ở Việt Nam, mặc dù cũng có ý kiến cho rằng, phóng sự Việt Nam “kế
thừa mạch nguồn của các thiên ký sự, chú trọng sự kiện khách quan, tôn
trọng tính chính xác của đối tượng miêu tả của văn học viết bằng chữ Hán”;
“Lấy mạch nguồn từ loại hình văn học truyền thống có tính nguyên hợp văn
- sử” và “Có nguồn gốc từ văn hóa văn học dân tộc”; Phóng sự là kết quả
của sự tiếp nối, phát triển và hoàn thiện của thể loại ký sự truyền thống”,
nhưng hầu hết ý kiến của các nhà nghiên cứu đều thống nhất: đó là một thể
loại mới, hình thành vào đầu thế kỷ XX, gắn liền với sự phát triển của báo
chí, của hoạt động in ấn, xuất bản, với nhu cầu thưởng thức mới của công
chúng, với một kiểu nhà văn, nhà báo mới, đáp ứng nhu cầu phản ánh kịp
thời những vấn đề nóng bỏng của hiện thực đầy những mâu thuẫn gay gắt,
nhức nhối của xã hội Việt Nam đương thời. Theo Vũ Ngọc Phan, phóng sự
là một “lối văn hoàn toàn mới ở nước ta và cũng như ở các nước, nó là con
đầu lòng của nghề viết báo”. Ông còn khẳng định: “Những nhà viết báo nổi
danh nhất hoàn cầu đều là những nhà báo đã nổi danh về phóng sự (…)

- 26 -
Những thiên phóng sự xứng đáng với cái tên của nó đều có cái chức vụ giúp
cho người đời trong sự đào thải và cải cách” [138; 504]. Nhà phóng sự
Nguyễn Đình Lạp cũng khẳng định: phóng sự là một thể loại mới, được du
nhập vào Việt Nam những thập niên đầu thế kỷ XX. Trong Từ điển văn học
(bộ mới), nhà nghiên cứu Trần Hữu Tá cũng cho rằng: “Phóng sự ở Việt
Nam ra đời muộn. Dù cuối thế kỷ XIX Sài Gòn đã có báo, nhưng phải đến
đầu những năm 30 của thế kỷ XX, phóng sự mới xuất hiện”, và người mở
đầu cho thể loại này là nhà báo Tam Lang với phóng sự nổi tiếng Tôi kéo xe.
Chúng tôi cũng tán đồng quan điểm của các nhà nghiên cứu về sự hình thành
của thể loại phóng sự trong văn học Việt Nam.
1.1.2. Xung quanh khái niệm thể loại phóng sự
* Tính thông tin - Thời sự - Xác thực:
Khởi thủy, phóng sự chủ yếu tập trung vào chức năng thông tin, thời
sự. Mặc dù sau đó, qua thực tế phát triển, quan niệm về thể loại phóng sự đã
mở rộng, nhưng thông tin - thời sự - xác thực vẫn được coi là cốt lõi của mỗi
phóng sự. Hai tác giả Gunther và Ch.Träger trong bộ Từ điển khoa học văn
học do Claus Träger chủ biên, đã nhấn mạnh: “Một trong những đặc điểm cơ
bản nhất của phóng sự là tường thuật một cách trung thực, có tính thuyết
phục người đọc” [184; 435]. Trong cuốn Người phóng viên hoàn hảo,
Xtenlây Giônxơn và Giulian Narít cũng quan niệm “Phóng sự là một bài
tường thuật hoặc một bài báo được phát triển và xử lý một cách có văn
học…”. Tuy nhiên, theo hai tác giả “Điểm chính được nhấn mạnh là mặt
thông tin, mặt xử lý cụ thể chất liệu và sự việc”. Ở mỗi tác phẩm phóng sự,
người viết phải chú ý đến sự kiện khách quan tôn trọng tính xác thực của đối
tượng miêu tả và tính thời sự trực tiếp của vấn đề. Phóng sự phải trả lời
được những câu hỏi: Việc gì đã xảy ra? Việc đó quan hệ đến ai? Việc đó xảy
ra bao giờ? Nó đã xảy ra như thế nào? Vì sao nó đã xảy ra?. “Trung thành

- 27 -
tuyệt đối với thực tế” cũng là điều E.E.Kisch đặc biệt quan tâm và coi là yêu
cầu cơ bản nhất trong ba yêu cầu thiết cốt đối với một phóng sự. Phóng sự
phản ánh một cách chân thực sinh động những gì “đã nhìn và nghe thấy” (Từ
điển Le Petit Larous); phóng sự là biểu hiện chính xác, khách quan, bình
tĩnh, kiềm chế; nghiên cứu kỹ lưỡng, kiên nhẫn các sự kiện…(G.B.
Sumanta)”. Phóng sự là tường thuật những điều trông thấy…được đặc trưng
bởi sự quan trọng của miêu tả: Bầu không khí bao phủ sự việc, những chi
tiết hình tượng, những chi tiết về con người, hay những chi tiết độc đáo,
những màu sắc…Tất cả mọi thông tin đều phải xác định, ít nhất bằng sự trả
lời năm câu hỏi: Ai? Cái gì? Ở đâu? Khi nào? Như thế nào? Tại sao? Cho
phép đồng thời miêu tả và giải thích [Bách khoa toàn cầu, Paris 1991].
Trong tác phẩm Phóng sự: Tính chuyên nghiệp và đạo đức (2003) [155; 279]
M.I.Sostak cho rằng: Nhiệm vụ của người viết phóng sự là phải “mắt thấy
tai nghe”; xem xét bản chất của vấn đề, trình cho độc giả bức tranh “một
mảng của cuộc sống”. Phóng sự phải bao gồm tính rõ ràng - ngắn gọn - sắc
sảo; tính chính xác - xác thực - trách nhiệm; tính không thiên vị; tính cân
bằng; tính lương thiện trong trình bày các sự việc. “Bức tranh ghi lại trong
phóng sự chỉ có thể là bức tranh xác thực của cuộc sống, là bức tranh thời sự
của cuộc sống trước mặt, mà sự kiện xảy ra đó có thời gian và địa điểm rõ
ràng”. Do vậy, “Tính chân thực là sinh mệnh của phóng sự” [92; 223].
Nhìn như vậy, có thể thấy, điểm hội tụ đầu tiên của các nhà nghiên
cứu khi quan niệm về phóng sự là tính thông tin - thời sự - xác thực. Chính
nhờ vậy, phóng sự có vị trí, có tầm quan trọng đặc biệt đúng như Karel
Storkal khẳng định: “Trong những thời kỳ có những biến thiên xã hội và lịch
sử nhanh chóng, nó là thể loại đầu tiên có thể bắt mạch sự kiện, có thể nhận
xét đâu là những nhân tố mới, có thể làm “bản kiểm kê của thời điểm” một
cách sinh động và hấp dẫn” [92; 210].

- 28 -
Tuy là một thể loại mới, nhưng các nhà văn, nhà nghiên cứu Việt Nam
cũng rất quan tâm đến phóng sự - một thể loại “xung kích”, năng động và
hiệu quả trong việc “bắt mạch” và phản ánh những vấn đề nóng bỏng, cấp
thiết của đời sống xã hội. Cũng như các nhà nghiên cứu nước ngoài, các nhà
văn, nhà nghiên cứu Việt Nam khẳng định đặc điểm và cũng là ưu thế nổi
trội của phóng sự là ở tính thời sự, cập nhật - là khả năng thông tin và sức
mạnh của những sự thực “mắt thấy tai nghe”. Từng là người trực tiếp viết
phóng sự, “Ông vua phóng sự đất Bắc” Vũ Trọng Phụng quan niệm “Phóng
sự là một thiên truyện kể với cơ sở là những điều mà nhà báo đã từng mắt
thấy tai nghe” [Thư gửi vợ chồng bạn. Nguyễn Thanh Đanh và Đồng Thị
Bích Khuê, 31/12/1935]. Năm 1942, trong bộ Nhà văn hiện đại, khi bàn về
ký, các nhà viết ký, truyện ký lịch sử và các nhà viết phóng sự Vũ Đình Chí
(Tam Lang), Vũ Trọng Phụng, Trọng Lang, Ngô Tất Tố…nhà nghiên cứu
Vũ Ngọc Phan khẳng định năng lực phản ánh hiện thực của các tác phẩm ký
(trong đó bao gồm cả phóng sự) trong việc phản ánh một hiện thực xã hội
nhiều mâu thuẫn đương thời, khi “Hán học đã xế bóng và ánh sáng của Tây
học đang tỏ rạng” [139; 414]. Theo Vũ Ngọc Phan “không có lối văn nào
giúp ích cho việc cải cách, cho các nhà đương chức, nhà pháp luật và nhà xã
hội học bằng các thiên phóng sự” [139; 504-505]. Một trong những đặc điểm
và cũng là lợi thế tạo nên “sức mạnh” đó của phóng sự là do “Phóng sự là
thể loại trực tiếp…thăm dò lấy việc mà ghi…Phóng sự là ký sự, là có lời
phẩm bình, phóng sự ghi những điều mắt thấy, tai nghe, có tính cách thời sự
và có chỉ trích…” [139; 504, 505]. Trong tập bài giảng về phóng sự Muốn
làm phóng sự (năm 1950), nhà văn, nhà phóng sự Nguyễn Đình Lạp cũng
xác định “phóng sự là nghiên cứu, tìm hiểu một sự kiện gì rồi ghi chép lại
cho thật đúng [795]…Phóng sự là một bộ môn văn học chuyên tả thực rất
chân xác những sự kiện xã hội, cụ thể và hiện tại được ghi chép lại tại nơi

- 29 -
chốn xảy ra”. [120; 792]. Mục đích của phóng sự là “chỉ trình bày rất khách
quan những tài liệu xác thực cho độc giả để hiểu biết và nhất là để cung cấp
cho nhà xã hội học, nhà chính trị tìm cách giải quyết và phương pháp chạy
chữa” [120; 811]. Đúc rút từ thực tiễn phát triển của thể phóng sự, đặc biệt
của phóng sự Việt Nam, các nhà nghiên cứu Việt Nam khi bàn về thể phóng
sự đều khẳng định tính thông tin - thời sự - chân xác như một đặc trưng cơ
bản của thể loại. Trong Ký viết về chiến tranh cách mạng và xây dựng chủ
nghĩa xã hội, Hà Minh Đức đặc biệt nhấn mạnh đến tính thời sự, kịp thời của
phóng sự “thể loại xung kích”. Theo ông: “Phóng sự đặc biệt chú ý đến tính
chất thời sự của hiện tượng xã hội được phản ánh. Đó là vấn đề xã hội đang
được quan tâm chung, mọi người muốn được tìm hiểu và giải đáp. Cũng vì
thế phóng sự phải kịp thời. Một phóng sự mất thời gian tính sẽ hạn chế hẳn
tác dụng” [66; 71]. Trong quan niệm của Hà Minh Đức, phóng sự được tạo
nên từ hai yếu tố lịch sử và nghệ thuật, trong đó, “yếu tố lịch sử bộc lộ ở tính
chất phản ánh và tái hiện chân thực những sự kiện trong đời sống” [65;
147]. Đặc điểm cơ bản để phân biệt ký văn học (trong đó có phóng sự) với
các thể loại văn học khác, là ở chỗ ký “viết về cái có thật và tôn trọng tính
xác thực của đối tượng được miêu tả”… “tường thuật, miêu tả, biểu hiện,
bình luận về những sự kiện và con người có thật trong cuộc sống với nguyên
tắc phải tôn trọng tính xác thực và chú ý đến tính thời sự của đối tượng
miêu tả” [67; 191]. Từ những năm 60, Bùi Huy Phồn khẳng định, sức mạnh
của phóng sự là ở “tính mau lẹ, kịp thời, tính chiến đấu trực diện và sắc bén,
tác dụng thuyết phục người đọc bằng những số liệu người thật, việc thật”
[130; 127]. Trong tập giáo trình viết chung với Lê Bá Hán, năm 1985, Hà
Minh Đức một lần nữa khẳng định: “Về cơ bản, phóng sự cũng có đặc tính
của một thiên ký sự: chú trọng sự kiện khách quan, tôn trọng tính chính xác
của đối tượng miêu tả. Nhưng phóng sự lại đòi hỏi tính phóng sự trực tiếp.

- 30 -
Phóng sự được viết ra nhằm giải đáp những vấn đề nào đó mà xã hội quan
tâm…” [64; 357]. Trần Hữu Tá trong mục Phóng sự của Từ điển văn học
(Bộ mới) cùng với việc đưa ra những đặc điểm cơ bản của phóng sự trong đó
có “tính phát hiện”, “tính xác thực”, “tính thời sự nóng hổi của đề tài” còn
nhấn mạnh: “Để viết phóng sự thành công, người viết phải bám sát cuộc
sống, phát hiện những vấn đề gay cấn, có giá trị thời sự nóng hổi, có ý nghĩa
xã hội sâu sắc” [188; 1421]. Nhà báo Đức Dũng, cũng khẳng định: “Phóng
sự có mục đích tối thượng là thông tin thời sự về người thật việc thật trong
một quá trình phát sinh, phát triển; không chỉ dừng lại ở việc thông tin,
phóng sự còn cố gắng thẩm định hiện thực, trả lời những câu hỏi mà hiện
thực đề ra” [48; 81]. Phóng sự “có khả năng phản ánh hiện thực một cách có
bề dày và chiều sâu dưới dạng một bức tranh nóng bỏng hơi thở của đời
sống hiện thực” [50; 177]. Phạm Thành Hưng trong Thuật ngữ Báo chí -
Truyền thông cũng xác định: “Phóng sự là thể loại trần thuật diễn biến của
những sự kiện có ý nghĩa xã hội quan trọng mà tác giả đã chứng kiến, trải
nghiệm ít nhiều, với những ấn tượng, cảm xúc sống động […]. Tác phẩm
phóng sự thường thống hợp hai yếu tố có tác dụng tương hỗ: Thông tin về sự
kiện khách quan và quan điểm chủ kiến của tác giả” [94; 136-138]. Coi
phóng sự là một tiểu loại thuộc thể loại ký. Trong cuốn Năm bài giảng về thể
loại, Hoàng Ngọc Hiến cho rằng: Phóng sự “thường viết về cuộc đời thực
tại, về “người thật”, “việc thật”, “thường được viết như là sự phản ứng trực
tiếp với những biến cố thời sự, trước những vấn đề nóng bỏng đương được
đặt ra trong cuộc sống. Chính tính sự kiện của nội dung ký tạo ra cốt cách
chắc thiệt của thể loại này” [84; 5]. “Sức thuyết phục, lay động” của ký
trước hết là ở “tính sự kiện”. Nhà nghiên cứu cũng quan tâm đến sự truyền
đạt sự kiện trong phóng sự, theo ông phóng sự “đòi hỏi sự trung thực, sự
chính xác” [84; 5]. Sự sai lệch, dù chỉ một chi tiết nhỏ cũng có thể “giết”

- 31 -
chết một thiên phóng sự. Bởi vậy, tính chân thực phải được coi là “sinh
mệnh” của mỗi thiên phóng sự. Ông cũng tán đồng quan điểm của Hoàng
Phủ Ngọc Tường - một cây bút ký nổi tiếng - về năng lực phản ánh hiện thực
của thể ký (trong đó có phóng sự). Theo Hoàng Phủ Ngọc Tường, chính
nhiệm vụ thông tin đã mở ra cho thể ký “một khả năng tháo vát hiếm có” khi
đi vào phát hiện, chiếm lĩnh và phản ánh hiện thực đời sống. “Cùng với cảm
xúc văn học, bút ký còn chứa đựng tất cả sức nặng vật chất của các sự kiện
được giữ lại trong cái cõi thực vốn là bản gốc của tác phẩm”. [84; 6]. Năm
1992, trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học, do các nhà nghiên cứu Lê Bá
Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi chủ biên, các tác giả một lần nữa
khẳng định: Phóng sự là thể loại có ưu thế “ghi chép kịp thời những sự việc
nhằm làm sáng tỏ trước công luận một sự kiện, một vấn đề có liên quan đến
hoạt động và số phận của một hoặc nhiều người có ý nghĩa thời sự với địa
phương hay toàn xã hội. Mục đích của phóng sự là cung cấp cho dân chúng
những tri thức phong phú, đầy đủ, chính xác để họ có thể nhận thức, đánh giá
đúng người và sự việc mà họ đang quan tâm theo dõi” [190; 171].
Những ý kiến trên của các nhà văn, các nhà nghiên cứu trong và ngoài
nước đã cho thấy đặc trưng cơ bản, ưu thế cùng sứ mệnh đặc biệt của thể
phóng sự. Chính khả năng phản ánh và thông tin sự thật ở cái “thế trực tiếp”
(từ dùng của Đức Dũng) này đã khiến thể loại phóng sự có được những
thành công và thích ứng với đời sống hiện đại - vốn ẩn chứa những biến
thiên xã hội và lịch sử nhanh chóng, dữ dội. Điều đó cũng lý giải thuyết
phục sự bùng nổ, thăng hoa và đỉnh cao của phóng sự vào những thời điểm
xã hội có nhiều biến động lớn.
* Tính vấn đề, tính khái quát:
Như trên đã trình bày, tính thông tin - thời sự - chân xác là một đặc
trưng cơ bản của phóng sự. Tuy nhiên, phóng sự không cho phép thông tin

- 32 -
một cách tràn lan “nhàn nhạt” mà phải có sự khám phá, phát hiện, thông tin
phải có tính “vấn đề”, tính khái quát. Chính vì thế có người coi phóng sự là
một trong những phương tiện “điểm huyệt” quan trọng để khám phá và góp
phần giải quyết những vấn đề bức xúc, cấn cái nhất của đời sống. Vấn đề cần
quan tâm trong phóng sự là sự kiện nêu lên có khái quát được những nét bản
chất không? Có tiêu biểu cho cái chung và có giải đáp được những vấn đề
đang đặt ra, khẳng định được phương hướng, biện pháp hành động của quần
chúng không? Từ kinh nghiệm của báo chí Xô Viết, khi bàn về phóng sự,
nhà lý luận L.Timôphêép cũng nhấn mạnh đặc biệt đến việc tìm kiếm một sự
việc điển hình: “cái đặc trưng nhất đối với cuộc sống”. Thường phóng sự
phản ánh bức tranh xác thực về một khía cạnh nào đó của cuộc sống. Tuy
nhiên, phương thức phản ánh của phóng sự không phải là hư cấu như ở các
thể loại văn học khác, mà là “sự phản ánh trung thực những biến cố điển
hình được chọn lọc, kể cả những suy nghĩ nội tâm sâu sắc của nhân vật”
[92; 218]. Làm sao cho những chất liệu, sự kiện đó khi được đặt cạnh nhau
có thể “bật lên thành lửa” như cách nói của các nhà phê bình Liên Xô (cũ)
khi đánh giá những tác phẩm của Êrenbua. Như vậy, việc tìm chọn được
những sự kiện điển hình, những sự kiện mang tính “vấn đề” thực sự là một
kỹ năng của người viết phóng sự. Tài năng độc đáo của các nhà phóng sự
trước hết là ở “độ nhạy cảm với tin thời sự”, đồng thời “biết lựa chọn
nghiêm ngặt các sự kiện và chi tiết”. Người viết phóng sự phải biết lọc ra
trong dòng thác sự kiện của đời sống những sự kiện, sự việc “có triển vọng”,
“có tiếng vang”. Nói như Karel Storkal, người viết phóng sự giỏi là người
“biết cách làm nổi bật từ toàn bộ hiện tượng, cái gì cho thấy đặc trưng nhất
của những quy luật bên trong của hiện tượng và sự vận động của nó, và từ
một chi tiết được chọn kỹ, người phóng viên biết cách truyền cho người đọc
một tư tưởng chính xác [158; 215]. Việc chọn vấn đề để thể hiện trong
phóng sự do vậy, không thể là “ngẫu nhiên” hay “tùy hứng” chốc lát mà

- 33 -
“phải là kết quả của một ý đồ đã suy nghĩ chín, trong đó tác giả nhìn thấy
trước mắt mình cả cái chi tiết lẫn cái toàn cục” [158; 216]. Trong cuốn Từ
điển thuật ngữ văn học, các tác giả xác định: Nhiệm vụ của phóng sự là “làm
sáng tỏ trước công luận một sự kiện, một vấn đề” [190; 171]. Và như vậy,
vấn đề được phản ánh trong phóng sự phải là những vấn đề nóng hổi, thực
sự “có vấn đề”, chứa đựng những vấn đề nổi cộm của xã hội. Trong bài
giảng về thể phóng sự, Nguyễn Đình Lạp cũng yêu cầu Phóng sự phải “đi
sâu hẳn vào một hiện tượng xã hội, hay một vấn đề xã hội thường có tính
cách đặc biệt quan trọng. Phóng sự phải nhận xét kỹ càng, phân tích thấu
đáo vào một khía cạnh mọi mặt dù u uẩn bí mật đến đâu của vấn đề rồi lôi ra
ánh sáng” [120; 881]. Trong cuốn Ký viết về chiến tranh cách mạng và xây
dựng chủ nghĩa xã hội, Hà Minh Đức cũng nhấn mạnh: “Sự kiện lịch sử mà
phóng sự quan tâm phản ánh thường ở dạng vấn đề, một vấn đề cần được
làm sáng tỏ, được trình bày cụ thể và người viết cũng bộc lộ rõ chính kiến và
thái độ giải quyết” [66; 71]. Trong tiểu luận Nơi gặp gỡ của báo chí và văn
học, nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn cũng đặc biệt coi trọng tính vấn đề của
phóng sự “…Người viết phóng sự phải có thói quen xông xáo, khả năng
khơi gợi vấn đề thu hút được sự chú ý của dư luận” [133; 450]. Chỉ như vậy,
phóng sự mới có thể hoàn thành được sứ mệnh của nó, nói như nhà văn
Nguyễn Khải: “điển hình hóa cái cụ thể”. Từ những “vấn đề”, những sự kiện
cụ thể, khái quát được những vấn đề bản chất của đời sống xã hội và từ đó
có được những nhận xét và kết luận “tiếp cận bản chất của hiện thực, có khả
năng làm chấn động dư luận xã hội, xoay chuyển cả nhận thức, định kiến của
đông đảo người đọc - người đọc của một quốc gia, thậm chí người đọc trong
một phạm vi rất rộng của thế giới” [188; 1422] . Chính vì thế, nhiều phóng
sự đã tiến dần vào lĩnh vực khoa học xã hội và đã tạo nên những chủ đề mới
cho nghiên cứu khoa học xã hội. Phóng sự không chỉ làm tròn chức năng

- 34 -
thông tin mà còn “thức tỉnh bạn đọc về những vấn đề cần được giải quyết
trong cuộc sống” như cách nói của nhà báo Bungari Ivan Ga-nép.
Thực tế cho thấy, những phóng sự thành công, tạo được hiệu quả nghệ
thuật cao, trước hết là đã biết khơi trúng những sự kiện, những vấn đề “có
vấn đề” mà cả xã hội quan tâm và đỉnh cao của sự phát triển thể loại phóng
sự thường phụ thuộc vào các biến động về chính trị và xã hội, vào thời điểm
mà phóng sự đáp ứng được nhu cầu định hướng cho quần chúng, thông qua
những cảm nhận của chính người viết về những vấn đề đang làm “chấn
động” lịch sử, xã hội.

* Cái tôi chủ thể - nhân chứng trong phóng sự :

Bàn về một trong những đặc trưng của thể ký (trong đó có phóng sự)
“Ký là “sự nhức nhối của trí tuệ”, Hoàng Ngọc Hiến cho rằng: “Ký có thể
phản ánh bất kỳ sự thật nào trong xã hội, kể cả những điều khủng khiếp nhất.
Vấn đề là ở cách nhìn và thái độ tiếp cận. Một thái độ bàng quan, khinh bạc,
hằn học hay là một thái độ đau thương có trách nhiệm” [84; 14]. Ông dẫn lời
nhà văn Liên Xô Vaxiliev - tác giả những bài ký được giải thưởng Lê Nin
nói rằng năng khiếu viết ký ở ông thực chất là năng lực “thấy được sự nhếch
nhác và không chịu được sự nhếch nhác”, để khẳng định “ký là “nỗi đau của
trí tuệ”. Và “Đau thương là quyền lớn nhất của nhà văn để viết về những sự
việc tiêu cực. Chính nỗi đau khiến người viết không thể “bằng chân như vại”
trước những “đám cháy” hoặc làm ngơ trước “những điều trông thấy đau
lòng” [84; 14]. Người viết ký do vậy không chỉ phản ánh mà còn “kích
thích” hoạt động của trí tuệ, không thể chỉ bằng lòng với việc nêu lên
“những điều trông thấy” mà phải có sự hoạt động ráo riết của trí tuệ để tìm
hiểu, nghiên cứu, phân tích lý giải vấn đề. Hơn nữa còn phải thuyết phục
người đọc: sự tình đã như vậy, sự đổi mới là tất yếu. Chỉ như vậy, tác phẩm
mới có được những suy nghĩ, những ý kiến “đích đáng”, mới để lại được
những ấn tượng sâu sắc. Nhìn như vậy, có thể thấy - cái tôi chủ thể trong

- 35 -
phóng sự có một vai trò rất lớn. Người viết phóng sự do vậy, phải “nhập
cuộc”, có tinh thần chiến đấu cao và tính khuynh hướng rõ ràng: Nói như
nhà văn Hạ Diễn (Trung Quốc): “Để phản ánh thực tế, tác giả phải tiến hành
điều tra hết sức tỉ mỉ. Muốn có lập trường đúng tác giả phải tỏ ra can đảm và
có sức mạnh, giữ vững nguyên tắc và dám đấu tranh, không sợ - nếu cần - đi
đến cả hành động trước công lý. Tác giả phóng sự phải dám tố cáo các mâu
thuẫn, ca ngợi nồng nhiệt những con người và những sự việc mới làm cho
lịch sử tiến lên, phê phán và chỉ trích những kẻ ngăn trở dòng chảy của cuộc
sống”. Trên cơ sở xác định đặc điểm cơ bản của ký “là thể văn dùng để ghi
lại sự việc, ý nghĩ, cảm xúc”, Hoàng Như Mai cũng đặc biệt nhấn mạnh đến
vai trò của tác giả trong tác phẩm “Ký mang tính chất xác thực, chất liệu của
ký vốn đã có sẵn trong cuộc sống; vì vậy công việc lựa chọn lại là trách
nhiệm rõ ràng của người viết (…) Qua cái cách nhà văn lựa chọn, người ta
đánh giá vốn sống và thế giới quan của nhà văn một cách chính xác, cho
nên, nếu đọc truyện thường là người ta quên sự có mặt của tác giả thì khi
đọc ký, người ta luôn thấy vai trò của tác giả” [123; 62,62]. Đức Dũng cũng
cho rằng: “Trong phóng sự cái Tôi trần thuật được thể hiện một cách có bề
dày và có bản sắc. Chính vai trò của nhân vật trần thuật đã tạo nên những
khác biệt về đặc trưng của phóng sự”.
“Trong phóng sự, cái tôi - tác giả là người dẫn chuyện, người trình
bày, lý giải, người khâu nối những sự kiện mà tác phẩm đề cập tới” [48; 86].
Với tư cách là người trực tiếp chứng kiến đồng thời cũng là người nhập cuộc
và trình bày sự thật, cái tôi trần thuật - tác giả - nhân chứng khách quan đã
tạo được sự tin cậy cho công chúng, giúp họ có cảm giác được tiếp xúc trực
tiếp mắt thấy, tai nghe với sự thật, giúp cho việc phản ánh hiện thực chân
thực và sinh động.

Cái tôi trần thuật cũng góp phần quan trọng tạo ra giọng điệu của tác
phẩm phù hợp với đối tượng mô tả, thẩm định và cảm xúc, thái độ thẩm định

- 36 -
của người viết. Sự phong phú trong giọng điệu cùng với nghệ thuật dẫn
chuyện, trình bày, nghệ thuật miêu tả và vận dụng ngôn ngữ…sẽ tạo nên
thành công và sức hấp dẫn của phóng sự. Và tất cả những điều đó đều phụ
thuộc vào cái tôi trần thuật - nhân chứng. Theo nhận xét của Karel Storkal:
Từ góc độ thể loại, phóng sự đã có bước tiến dài; “phóng sự không còn tự
giới hạn trong việc mô tả hiện thực trên bề mặt mà đã đạt tới những dạng
thức chân xác của hiện thực trong những biến đổi của nó cả về mặt sự kiện
cũng như về mặt xúc cảm. Trong phóng sự hiện đại, không phải là một sự
ghi lại giản đơn, mà còn là sự trả lời một loạt câu hỏi phức tạp liên quan đến
cuộc sống chúng ta”. Muốn đạt tới điều đó tác giả phải có sự lựa chọn những
“vùng hiện thực” có ý nghĩa điển hình, những giọng điệu, những cách cấu
trúc, ngôn ngữ…phù hợp. Và ở đó, trình độ văn hóa, kinh nghiệm sống,
những khả năng nghề nghiệp của người viết sẽ đóng một vai trò quan trọng.
Chính vì thế mà Karel Storkal rất coi trọng và nhấn mạnh: “Hiện thực khách
quan phản ánh trong phóng sự không chỉ có ý nghĩa là thế giới quanh ta mà
còn cả sự tồn tại rất thực của người phóng viên với tư cách là một chủ thể
với những kinh nghiệm sống và những chứng kiến của anh ta nữa. Người
phóng viên cũng diễn tả cả mặt đó của thực tế nữa” [92; 214]. Điều đó có
nghĩa - cái tôi trần thuật - chứng kiến cũng chính là một đối tượng thẩm mỹ
được thể hiện trong phóng sự.

* Phóng sự - “cầu nối” giữa văn học và báo chí:

Bàn về thể loại phóng sự, cùng với việc nhấn mạnh chức năng thông
tin và việc xử lý cụ thể chất liệu và sự việc, hai giáo sư khoa Báo chí trường
đại học Tennétxi, G.Narít và X.Giônxơn, còn đặc biệt quan tâm đến việc
“phát triển và xử lý một cách có văn học” các vấn đề trong phóng sự. Điều
đó có nghĩa, các giáo sư này thừa nhận phóng sự có thể sử dụng những yếu
tố của văn học mà chất lượng tùy thuộc ở cá tính, ở tài năng của người viết.

- 37 -
Cũng như vậy trong Từ điển khoa học văn học, các tác giả khẳng định: một
trong những đặc điểm cơ bản nhất của Phóng sự là “tường thuật một cách
trung thực” đồng thời lại cũng phải “tường thuật” có tính thuyết phục người
đọc - có nghĩa là vượt qua giới hạn chỉ đưa thông tin…“phải làm sao cho
người đọc cảm nhận được sự kiện, thấy có tính nghệ thuật và có tác dụng
truyền cảm” [184; 435]. Vượt qua giới hạn của loại hình trình bày các thông
tin thời sự, phóng sự phải làm sao “truyền đạt lại một cách có tác dụng
truyền cảm và mang tính phê bình đánh giá” [184; 435]. Và như vậy, phóng
sự ngoài nhiệm vụ thông tin phải có cả ý nghĩa thẩm mỹ. Các nhà nghiên
cứu trong Từ điển: Một cái nhìn xếp phóng sự vào loại “phi hư cấu có sáng
tạo”. Về bản chất, phóng sự không thể xây dựng hình tượng bằng hư cấu như
trong văn học nhưng quá trình viết phóng sự phải là quá trình sáng tạo. Karel
Storkal, trường đại học Saclơ, cũng cho rằng, việc các nhà văn tên tuổi tham
gia vào địa hạt phóng sự đã làm thay đổi, tạo ra những ảnh hưởng lớn đến
tính cách nghệ thuật và sự phát triển của phóng sự. Theo ông, “vượt qua sự
mô tả đơn giản phóng sự đã phát triển tùy theo một hình tượng văn học, một
cuộc đối thoại, một chuyện kể về một con người…Tác giả các thiên phóng
sự sử dụng những phương pháp cấu trúc mới, tìm những đề tài mới…” và
nhờ thế, phóng sự có khả năng “trình bày một cách độc lập và có nghệ thuật”
hiện thực đời sống. Viết phóng sự là cả một quá trình sáng tạo nghệ thuật: từ
lựa chọn chủ đề đến đề tài; từ lựa chọn sự kiện và “gia công cụ thể chúng để
tạo ra một cái khung cấu trúc vững chắc…” đến lựa chọn những phương tiện
ngôn ngữ, giọng điệu phù hợp…làm sao mỗi tác phẩm phóng sự ngoài mục
đích thông tin, cung cấp nhận thức lý tính, còn thỏa mãn nhu cầu nhận thức
thẩm mỹ của công chúng; ngoài tác dụng nhận thức, tác dụng giáo dục, còn
có tác dụng thẩm mỹ như tác phẩm văn học.

Các nhà nghiên cứu Việt Nam cũng thừa nhận vai trò “cầu nối” giữa
văn học và báo chí của thể loại phóng sự. Từ năm 1942, trên cơ sở nền

- 38 -
phóng sự Việt Nam những thập niên đầu thế kỷ XX, nhà nghiên cứu Vũ
Ngọc Phan đã nhận xét và khẳng định: để “viết được một thiên phóng sự cho
hay nhà viết báo không những cần phải có tài đặc biệt về nghề báo mà còn
cần phải có nhiều “chất văn sỹ” [139; 560]. Trong cuốn Từ điển văn học,
Nguyễn Xuân Nam cho rằng: “phóng sự sẽ có thêm giá trị văn học khi nó đi
sâu khắc họa thế giới nội tâm, miêu tả tính cách nhân vật với lời văn giàu
hình ảnh và cảm xúc” [191; 220]. Viết mục phóng sự trong Từ điển văn học
(Bộ mới), Trần Hữu Tá cũng rất chú trọng đến giá trị thẩm mỹ, “chất văn
học” của phóng sự. Theo ông, những thiên phóng sự lớn vượt qua được sự
sàng lọc khắc nghiệt của thời gian, thường nhờ vào yếu tố quan trọng: chất
văn học và coi đó là một “tố chất rất đáng quý ” của phóng sự. Nhờ đó,
“phóng sự không chỉ làm tròn chức năng thông tin, phát hiện mà còn đậm
sắc thái trữ tình. Người đọc không chỉ thấy sự kiện (thông qua vô số tình tiết,
số liệu, thống kê…) mà còn thấy vấn đề; không chỉ thấy những phiến đoạn
khác nhau của đời sống mà còn đến được với thế giới nội tâm, hiểu được
hoàn cảnh và tính cách, thấm thía với số phận của một số nhân vật”. Chính
qua đó, “Rất tự nhiên, phóng sự trở thành cầu nối vững chắc cho hai vùng
đất báo chí và văn chương. Nó làm cho báo chí thêm sức hấp dẫn, đồng thời
làm cho văn chương thêm giàu có, gần với đời thường”. [188; 1422]. Trong
lý luận báo chí, từ lâu những phẩm chất văn học của thể loại phóng sự cũng
đã được quan tâm. Trên cơ sở xem xét tính thông tin sự kiện của báo chí với
tính nghệ thuật trong cách trình bày hiện thực của phóng sự, các nhà nghiên
cứu cho rằng: “Nếu ta hình dung đường ranh giới nối liền giữa tiểu thuyết
(hoặc truyện ngắn văn học) với các thể tài báo chí, thì cái đường ranh giới đó
là phóng sự” [92; 218]. Theo Đức Dũng: Phóng sự hiện “đã đạt tới sự chân
xác và đa dạng trong việc trình bày hiện thực - một hiện thực phức tạp liên
tục phát triển và biến động với những chi tiết cụ thể, với một năng lực khái

- 39 -
quát cao. Với bút pháp giàu chất văn học và cái tôi trần thuật vừa xúc cảm
vừa trí tuệ, phóng sự đã chứng tỏ một cách sinh động rằng “việc thông tin về
hiện thực có thể trình bày một cách độc lập và có nghệ thuật” (E.E.Kitsơ)
[48; 64-65] .

Phần lớn các nhà lý luận, nghiên cứu văn học Việt Nam đều xếp
phóng sự là một tiểu loại thuộc thể ký, hoặc một thể loại trong văn xuôi cùng
với các thể văn xuôi khác như: bút ký, tùy bút…Và như vậy, nghiễm nhiên
phóng sự là một thể loại văn học, mang những phẩm chất thẩm mỹ của văn
học…Theo Hà Minh Đức, các thể văn xuôi bút ký, tùy bút, phóng sự…đã
thể hiện hai yếu tố lịch sử và nghệ thuật, trong đó các yếu tố lịch sử không
phải “được tái hiện đơn thuần mà được giải thích theo những quan điểm mỹ
học nhất định và được phản ánh thông qua những hình tượng nghệ thuật cụ
thể” [65; 147]. Trong cuốn Năm bài giảng về thể loại, Hoàng Ngọc Hiến
cũng cho rằng: “Ký gần với văn báo chí…nhưng không có nghĩa là thể loại
này “bất cập” những phẩm giá của văn học: Có giọng điệu, tính đa nghĩa của
văn bản, câu văn có hồn, tạo ra được những bức tranh có không khí, những
nhân vật đặc sắc, hư cấu tài tình (dĩ nhiên là đúng chỗ)…Đọc những bài ký
hay có thể thấy rằng mọi phẩm giá văn học đều có trong văn học ký” [84; 6].
Theo ông, “có lẽ phóng sự là tiểu loại ký “báo chí ” hơn cả. Nhưng phóng sự
Kỹ nghệ lấy Tây của Vũ Trọng Phụng còn “văn học” hơn nhiều tác phẩm
văn học “đích thực” khác” [84; 6]. Đồng thời với việc khẳng định “nhiệm vụ
thông tin”, thậm chí coi đó là ưu thế khiến thể ký có được “khả năng tháo
vát hiếm có so với những thể loại văn xuôi khác” trong phản ánh hiện thực,
nhà viết ký tên tuổi Hoàng Phủ Ngọc Tường vẫn nhấn mạnh đến “cảm xúc
văn học” của ký, đó là cơ sở để ký có thể “vừa thực hiện sứ mệnh thông tin
của mình, vừa phá rào thoát khỏi người thực việc thực để đạt đến những yêu
cầu nghệ thuật khác” [130; 131,132].

- 40 -
Từ chỗ khẳng định “chất văn học” trong các tác phẩm phóng sự - một
thể loại vốn ra đời trong hoạt động báo chí; coi phóng sự là một thể loại báo
chí giàu chất văn học; thừa nhận phóng sự như “cầu nối” giữa báo chí và văn
học, hiện nhiều nhà nghiên cứu cho rằng: Nên có sự phân biệt giữa hai loại
phóng sự văn học và phóng sự báo chí. Theo Từ điển thuật ngữ văn học:
“Việc sử dụng một số phương tiện biểu đạt của văn học như các biện pháp tu
từ, ngôn ngữ giàu hình ảnh, hướng vào thế giới bên trong (ở một mức độ
nhất định) của nhân vật…khiến cho phóng sự vốn từ báo chí có thể trở thành
văn học, một số tác phẩm thuộc loại này thường được chấp nhận như là
những tác phẩm có giá trị” [190; 172]. Nhà báo Đức Dũng nhận xét: “Phóng
sự văn học đã đạt tới sự chân xác và đa dạng trong việc trình bày một hiện
thực phức tạp liên tục phát triển và biến động với một năng lực khái quát
cao. Trên cơ sở của những sự thật của đời sống, tác phẩm phóng sự văn học
vừa bảo đảm tính chân thực của nội dung, đồng thời còn biểu lộ suy nghĩ,
tình cảm của tác giả trước những vấn đề do sự kiện đặt ra”. Một số ý kiến đã
phân tích về những đặc trưng cơ bản của Phóng sự báo chí và phóng sự văn
học. Theo đó, cả hai loại phóng sự đều tôn trọng tính xác thực và tính thời
sự, tuy nhiên ở phóng sự văn học tính thời sự không còn là yêu cầu “thật cấp
bách” và tính xác thực cũng không phải là yêu cầu “ở mức độ tuyệt đối”.
Ngược lại, phóng sự văn học đòi hỏi cao hơn về “chất suy nghĩ và tình cảm
của chủ thể”. Đồng thời với việc đảm bảo tính chân thực của nội dung,
phóng sự văn học còn biểu lộ suy nghĩ, tình cảm của tác giả trước những vấn
đề do sự kiện đặt ra. Trong phóng sự văn học, cái Tôi tác giả được tự do lựa
chọn sự kiện điển hình, lựa chọn tình huống tiêu biểu để thể hiện lý tưởng
thẩm mỹ đồng thời cũng tự do lựa chọn những phương thức thể hiện để đạt
được hiệu quả nghệ thuật mong muốn - truyền tải đến công chúng những
thông tin thẩm mỹ có khả năng tác động vào cảm xúc. So với phóng sự báo
chí, phóng sự văn học sử dụng bút pháp mềm mại, linh hoạt, giàu hình ảnh;

- 41 -
người viết có thể bố trí, tổ chức tái tạo các sự kiện, chi tiết, tình huống, nhân
vật và tìm tới những kết cấu hợp lý, nhằm tạo được ấn tượng sâu đậm cho
người đọc, đạt tới giá trị “phản ánh - thông tin - thẩm mỹ ”.

Từ những quan niệm của các nhà văn, nhà nghiên cứu trong và ngoài
nước, có thể thấy, mặc dù ít nhiều khác nhau, nhưng tựu trung các ý kiến
đều khá thống nhất khi khẳng định những đặc trưng cơ bản của phóng sự.
Phóng sự bao giờ cũng phải mang ý nghĩa thời sự, cung cấp những thông tin,
những tri thức chính xác, phong phú, đầy đủ và sốt dẻo về những sự kiện,
vấn đề “điển hình” nhất của hiện thực đời sống xã hội. Phóng sự là tìm kiếm
một cách có hệ thống để trả lời cho 6 câu hỏi: Who (ai), What (cái gì), Where
(ở đâu), When (khi nào), How (như thế nào), Why (tại sao). “Cái tôi trần
thuật” có vai trò nổi bật trong phóng sự, nó vừa là nhân chứng khách quan,
đồng thời lại cũng là người nhập cuộc và cầu nối giữa công chúng với sự
thật. Những thiên phóng sự có giá trị là những tác phẩm đậm chất văn
chương, có giá trị thẩm mỹ cao thực sự là “cầu nối vững chắc cho hai vùng
đất văn học và báo chí”.

Xuyên suốt luận án, chúng tôi sẽ sử dụng quan niệm này, coi đó là cơ
sở để đi sâu nghiên cứu phóng sự Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 qua ba
cây bút tiêu biểu Tam Lang, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố.

1.2. Khái lƣợc về phóng sự Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945

1.2.1. Những tiền đề dẫn đến sự bùng nổ và phát triển của thể loại
phóng sự

Quá trình hình thành, vận động và phát triển của văn học Việt Nam
1930-1945 nói chung và thể phóng sự nói riêng gắn bó chặt chẽ với thực tiễn
đời sống xã hội, thực trạng tư tưởng, thẩm mỹ và văn hóa của thời đại. Riêng
với thể phóng sự, có thể nói, hiện thực đời sống giai đoạn này thực sự là
mảnh đất màu mỡ cho phóng sự phát triển. Nhiều tác phẩm thành công của

- 42 -
các cây bút phóng sự đặc sắc: Tam Lang, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố,
Trọng Lang, Nguyễn Đình Lạp, Vũ Bằng…là sự kết tinh một cách viên mãn
hiện thực đời sống với tài năng và những nhu cầu thẩm mỹ của công chúng
đương thời.

Trước hết, về những tiền đề chính trị, kinh tế, có thể thấy, với chính
sách đô hộ hà khắc, thâm hiểm của thực dân Pháp và sự lạc hậu, hèn kém,
nhu nhược và bóc lột tàn tệ của bọn địa chủ, phong kiến, Việt Nam đã trở
thành một xứ sở thuộc địa nghèo nàn, lạc hậu đến kiệt quệ. Thực hiện dã
tâm, muốn xóa tên Việt Nam (cùng với Lào và Campuchia) trên bản đồ thế
giới, thực dân Pháp đã ráo riết tiến hành chia nước “Đại Việt” thành ba khu
vực riêng rẽ Tonkin (Bắc Kỳ), Annam (Trung Kỳ) và Cochinchine (Nam
Kỳ) gắn với quyền “bảo hộ” của nước Pháp. Đồng thời chúng tiến hành hai
cuộc khai thác thuộc địa, bòn rút tài nguyên, vắt thu thuế khóa, bóc lột của
cải và nhân lực - một cuộc cướp đoạt “vô hạn độ” “đẫm máu và nước mắt”,
trên “chiếc lưng cao su của người An nam” . Với tư cách Thượng đẳng “mẫu
quốc”, thực dân Pháp thẳng thừng “lệnh” cho các sứ “hạ đẳng thuộc địa ở
Đông Dương (trong đó có Việt Nam), có trách nhiệm phải “cung phụng”
nước mẹ: “không được tự do có phương hướng riêng của nền kinh tế và tài
chính của mình mà phải quy tụ nó vào những mục đích do mẫu quốc chỉ đạo.
Đông Dương phải sáp nhập hệ thống mậu dịch của mình vào hệ thống của
mẫu quốc, phát triển sản xuất của mình vào lợi ích của mẫu quốc, cung cấp
những sản phẩm của đất đai và trong lòng đất mà nước Pháp đòi hỏi. Đồng
thời, Đông Dương phải để cho nước Pháp sử dụng nguồn nhân lực của mình,
hoặc làm trong các công binh xưởng hoặc cung cấp những quân số quan trọng
được tổ chức và biên chế đề điều đến các chiến trường ở phương Tây”. Hậu
quả là, người dân Việt Nam phải gánh chịu những hậu quả nặng nề.
Mất chủ quyền, mất đất đai, ruộng vườn đã thành nỗi ám ảnh, đe dọa
sự sinh tồn của cả một xứ sở 90% dân số là nông dân, bao đời nay chỉ biết

- 43 -
bám vào đất, “bới đất, lật cỏ” để duy trì đời sống. Mất đất, người nông dân bị
đánh bật ra khỏi làng quê của mình, đổ xô về các đô thị, đồn điền, hầm mỏ, nhà
máy, xí nghiệp của thực dân phong kiến mọc lên như nấm ở khắp nơi để vơ vét
lợi nhuận. Ở đó, họ lại “chết” thêm một lần nữa. Công cuộc khai thác đồn điền,
hầm mỏ của chính quyền thực dân gắn liền với thảm cảnh đói nghèo, lam lũ,
chết chóc, bị bần cùng hóa đến thê thảm của người dân An nam.
Đã thế, thuế má đánh vào người dân ngày càng nặng nề: Thuế không
chỉ đánh vào người sống mà còn đánh cả vào người chết, hàng trăm thứ thuế,
trong đó có cả những thứ thuế vô lý, “lạ lùng” như “thuế xia”. Thuế khóa
nặng nề đã mang lại những khoản ngân sách kếch xù cho chính quyền thực
dân. Chính nhờ những khoản thu từ thuế má, khai thác ruộng đất, tài nguyên
khoáng sản và tận dụng lao động rẻ mạt của người dân bản xứ mà “kể từ sau
1900, Đông Dương không chỉ tự trang trải kinh phí quân sự (14.000.000
phrăng mỗi năm) mà còn có thể gánh vác được mọi chi phí hành chính, khai
khẩn và nguồn chi cho công cuộc “bình định”.
Cùng với việc bị bóc lột thậm tệ ở trong nước, để thực hiện “nghĩa vụ”
với “mẫu quốc”, hàng trăm ngàn thanh niên Đông Dương (trong đó đa phần là
Việt Nam) bị đẩy sang các chiến trường châu Âu làm bia đỡ đạn, thê thảm trên
chiến trường, hàng chục ngàn trong số đó đã bỏ xác nơi đất khách quê người…
Có thể nói, dưới sự đô hộ của thực dân Pháp và sự hiệp sức của bọn
phong kiến, quan lại Việt Nam, đời sống của nông dân và công nhân, kể cả
một bộ phận trí thức ngày một cơ cực về vật chất, kiệt quệ về thể chất và o ép
héo mòn, khủng hoảng về tinh thần. Điều đó lý giải vì sao một trong những
nguồn cảm hứng chủ đạo của văn học Việt Nam (trước hết dòng văn học hiện
thực phê phán), đặc biệt của phóng sự - thể loại sát gần cuộc sống, có ưu thế
trong việc phản ánh kịp thời những vấn đề thời sự, thiết cốt của đời sống - lại
nghiêng về phê phán những “ung nhọt” xấu xa của đời sống xã hội đương thời.

- 44 -
Về lĩnh vực văn hóa, xã hội: Chính sách cai trị cùng công cuộc “khai
hóa văn minh” của Pháp đã tạo nên những biến đổi sâu sắc trong lòng xã hội,
văn hóa Việt Nam. Hệ tư tưởng phong kiến lung lay và dần lụi tàn. Sau cuộc
khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp, giai cấp tư sản Việt Nam
hình thành và ngày càng phát triển. Giao lưu kinh tế ngày càng mở rộng, dẫn
đến sự xuất hiện ngày càng nhiều những đô thị lớn. Lối sống tư sản và hệ tư
tưởng tư sản với quan niệm đề cao vai trò của cá nhân, đề cao quyền tự do,
dân chủ tràn lan. Văn hóa phương Tây cùng lối sống Âu hóa du nhập ngày
càng mạnh, xâm lấn và phá vỡ dần nền tảng đạo đức, luân lý gia đình truyền
thống Việt Nam, gây nên những xáo trộn, xung đột gay gắt. Có thể nói, trong
làn sóng Âu hóa, cuộc sống xã hội ngày càng nhốn nháo, càng bộc lộ những
sự giả dối, lố bịch, “nhơ bẩn”. Tất cả “quay cuồng, đảo điên đến chóng mặt,
biết bao tình huống trớ trêu, biết bao cuộc đời lên voi xuống chó, xuống chó
lại lên voi, ông hóa ra thằng, thằng hóa ra ông…”. Nói như Vũ Trọng Phụng
đó là xã hội nhố nhăng, “vô nghĩa lý”, “chó đểu”. Tình trạng xã hội “bát
nháo” “ối a bông phèng” ấy đã được phản ánh sâu sắc trong nhiều tác phẩm
xuất sắc của văn học Việt Nam giai đoạn đầu thế kỷ XX, đặc biệt trong hàng
loạt phóng sự tiêu biểu của các cây bút phóng sự Vũ Trọng Phụng, Tam
Lang, Ngô Tất Tố, Trọng Lang, Nguyễn Đình Lạp, Vũ Bằng…
Đứng từ góc độ tiếp nhận văn học, có thể thấy, trong điều kiện xã
hội mới, đã hình thành một lớp công chúng mới, với những thị hiếu và nhu
cầu mới. Thạch Lam (Việt Sinh) một trong những cây bút tiêu biểu của Tự
lực văn đoàn từng đã phát biểu trên chính tờ Phong hóa, cơ quan ngôn luận
của văn đoàn: “Đọc một quyển truyện, một tờ báo đầy những lời dạy bảo về
tam cương ngũ thường thì đọc ngay một cuốn luân lý cho xong, người ta đã
chán chường những văn chương như thế, người ta đã ham mê những truyện
chỉ cốt tả sự thật, không giảng luân lý, không dạy ai gì hết. Một quyển

- 45 -
truyện, một tờ báo muốn người ta ham đọc cần phải làm cho người ta vui
hoặc người ta cảm động, mà muốn cho người ta cảm động thì cần phải đúng
sự thật”. “Thị hiếu đại chúng hầu như thay đổi hoàn toàn”, nghiêng về
những sáng tác thể hiện được những vấn đề, những khát vọng cá nhân của
con người hoặc nữa những sự thật của đời sống xã hội. Chính đòi hỏi của
lớp công chúng này là cơ sở cho văn học nói chung, các thể loại văn học nói
riêng, đặc biệt phóng sự - thể loại nhạy cảm, năng động trước những biến
động của đời sống - có điều kiện phát triển và nở rộ.
Một trong những yếu tố quan trọng dẫn đến sự phát triển đột biến của
văn học nói chung, đặc biệt của thể phóng sự là sự phát triển nhanh chóng
của báo chí. Nếu như năm 1865 Gia định báo, tờ báo tiếng Việt đầu tiên ra
số đầu ở Sài Gòn và độc diễn trên làng báo Việt Nam suốt gần bốn thập kỷ
cho đến khi tờ Nông cổ mín đàm ra đời ở Nam Kỳ (1901) thì sau đó, hàng
loạt tờ báo như Đại Việt công báo (1905), Đăng cổ tùng báo (1907), Đông
Dương tạp chí (1913), Nam Phong tạp chí (1917), An Nam tạp chí (1922)
lần lượt ra đời…Theo thống kê, năm 1923 đã có 71 tờ báo; năm 1934 đã có
227 tờ; năm 1937 đã có 110 tờ nhật báo, 159 kỷ yếu và tạp chí; năm 1938 có
128 tờ nhật báo, 170 tạp chí và kỷ yếu…Không chỉ phát triển về số lượng,
kỹ thuật báo chí cũng ngày càng phát triển, với cả một hệ thống in ấn, phát
hành rộng khắp. Sự phát triển nhanh chóng của báo chí đã đáp ứng được nhu
cầu văn hóa, tinh thần ngày càng tăng của xã hội.
Báo chí Việt Nam đóng vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của
văn học. Đúng như nhà nghiên cứu Huỳnh Văn Tòng nhận xét trong Lịch sử
báo chí Việt Nam từ khởi thủy đến 1930: “Văn học hiện đại Việt Nam thoát
thai từ báo chí, khác với trường hợp ở các nước Tây phương là văn học đẻ ra
báo chí” [95; 234]. Các nhà nghiên cứu M.Durand và Nguyễn Trần Huân
thậm chí còn coi báo chí như một bộ phận của tiến trình văn học và như

- 46 -
“một thể loại, một động lực của văn học” [95; 235]. Thực tế, trong cả tiến
trình hiện đại hóa văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX, gần như tất cả các sáng
tác văn học, kể cả dịch thuật đều được đăng tải trên báo; các nhà văn đồng
thời là những nhà báo, phần lớn họ đều đi từ nghề báo. Những sáng tác của
các nhà văn giai đoạn này trong đó có Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Tam
Lang hầu như đều được đăng tải trước hết trên báo, sau đó mới được in
thành sách: Cạm bẫy người là phóng sự đầu tay của Vũ Trọng Phụng, đăng
lần đầu trên báo Nhật Tân từ số 2 (ngày 9/8/1935); Kỹ nghệ lấy Tây (Vũ
Trọng Phụng), đăng lần đầu trên báo Nhật Tân từ số 69 (ngày 5/12/1934),
NXB Phương Đông (Hà Nội) in sách lần đầu 1935; Cơm thầy cơm cô (Vũ
Trọng Phụng), đăng lần đầu trên Hà Nội báo từ số 12 (25/3/1936), NXB
Minh Phương in sách lần đầu 1937; Một huyện ăn Tết (Vũ Trọng Phụng)
đăng lần đầu ở Tiểu thuyết thứ bảy từ số 216 (18/2/1939) đến số 247
(25/2/1939). Việc làng (Ngô Tất Tố) đăng lần đầu trên báo Hà Nội tân văn
từ số 5/3/1940 đến số 17/9/1940, NXB Mai Lĩnh in thành sách lần đầu năm
1941; Tập án cái đình (Ngô Tất Tố) đăng lần đầu trên báo Con ong từ số
18/10/1939. Các phóng sự Tôi kéo xe, Đêm sông Hương, Lọng cụt cán,
Người…ngợm của Tam Lang đều đã được đăng trên các báo trước khi in
thành sách. Một số tờ báo như Phong hóa, Ngày nay (cơ quan ngôn luận của
Tự lực văn đoàn) còn chủ trương dùng tờ báo của mình để tiến hành một
cuộc cách mạng “về báo chí”. Cùng với những thể loại văn học mới, phóng
sự được dành một vị trí ưu ái trên tờ báo. Phong hóa, Ngày nay liên tục đăng
tải phóng sự của hai cây bút trong nhóm: Thạch Lam (tức Việt Sinh) với
những phóng sự Một tháng ở nhà thương, Nghe hát Quan họ một đêm ở
Lũng Giang, Trước Tết, Tết và sau Tết, Trẻ con lấy vợ và Hà Nội ban đêm
(viết chung với Tràng Khanh); Hoàng Đạo với phóng sự Trước vành móng
ngựa gồm nhiều phóng sự ngắn, đăng nhiều kỳ trên Ngày nay. Hầu hết

- 47 -
phóng sự của Trọng Lang: Trong làng chạy, Đời bí mật của sư vãi, Gà chọi,
Đồng bóng, Hà Nội lầm than, Làm dân…đều được in trên hai tờ báo của Tự
lực văn đoàn. Nhiều tờ báo đương thời: Tiểu thuyết thứ bảy, Hà Nội tân văn,
Trung Bắc chủ nhật, Ích hữu, Ngọ báo, Tương lai…đều dành “đất” cho
những phóng sự của các cây bút nổi tiếng như Vũ Bằng, Vũ Trọng Phụng,
Ngô Tất Tố, Trọng Lang, Tam Lang, Nguyễn Đình Lạp…Nhìn như vậy, có
thể thấy báo chí quả đã là cái nôi của phóng sự và phóng sự thực sự “là con
đầu lòng của nghề viết báo” (Vũ Ngọc Phan).
Trở lên, chúng tôi đã sơ bộ khảo sát những tiền đề xã hội, văn hóa,
dẫn đến sự hình thành và phát triển của thể phóng sự trong văn học Việt
Nam đầu thế kỷ XX và từ đó, những thành tựu đặc sắc của phóng sự giai
đoạn này nói chung, của ba cây bút tiêu biểu Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố,
Tam Lang nói riêng. Ra đời, gắn bó và phát triển trong bối cảnh xã hội đó,
phóng sự giai đoạn này mang những dấu ấn đặc sắc riêng cả về nội dung
phản ánh và nghệ thuật thể hiện - chúng tôi sẽ tập trung khảo sát kỹ lưỡng ở
các chương hai và ba của luận án.
1.2.2. Thành tựu của phóng sự Việt Nam 1930 - 1945
Tuy ra đời muộn hơn các thể loại khác, nhưng với ưu thế và đặc trưng
riêng của thể loại, phóng sự Việt Nam đã phát triển nhanh chóng, thu hút
được sự quan tâm của các nhà văn tên tuổi và đáp ứng được nhu cầu cấp
thiết của thời đại, của công chúng đương thời. Lắng lại sau nhiều thập kỷ,
giới nghiên cứu văn học Việt Nam đã khẳng định vị trí của thể loại phóng sự
Việt Nam về nhiều phương diện, đặc biệt ở nội dung xã hội và nghệ thuật
tiếp cận, thể hiện. Có thể nói, là một thể loại mới, nhưng phóng sự đã nhanh
chóng trở thành một thể loại độc lập có vị trí mũi nhọn trong đời sống báo
chí, văn học đương thời. Cùng với các thể loại thơ, kịch, truyện ngắn, tiểu
thuyết, phóng sự đã góp phần đáng kể tạo nên thành tựu rất đáng trân trọng

- 48 -
của văn học Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945, đặc biệt dòng văn học hiện
thực phê phán.
Nói đến phóng sự Việt Nam, không thể không nhắc tới tác phẩm Tôi
kéo xe (1932) và vai trò người mở đầu khai sinh cho một thể loại văn học
mới của Tam Lang. Tôi kéo xe cũng là tác phẩm mở đầu cho giai đoạn phát
triển rực rỡ của phóng sự Việt Nam. Cùng năm này trên báo Đông Tây liên
tiếp từ số 91 (18/6/1932) đến số 213 (14/7/1932), đăng phóng sự dài Trong
tiệm hút của Oặt Công. Nhiều thập niên liền đó, đặc biệt trong thời kỳ Mặt
trận dân chủ 1936 – 1939, phóng sự nở rộ với những tác giả và tác phẩm đặc
sắc, có giá trị: Vũ Trọng Phụng với Cạm bẫy người (1933), Kỹ nghệ lấy Tây
(1934), Dân biểu và dân biểu (1935), Cơm thầy cơm cô (1937), Lục xì
(1937), Một huyện ăn Tết (1939). Tam Lang với Tôi kéo xe (1932), Đêm
sông Hương (1938), Lọng cụt cán (1939), Người…ngợm (1940). Vũ Bằng
với Cai (1940). Trọng Lang với Trong làng “chạy” (1935), Đời bí mật của
sư vãi (1935), Đồng bóng (1936), Hà Nội lầm than (1937), Làm dân (1938),
Làm tiền (1939), Vợ lẽ nàng hầu (1939), Đời các ông lang (1941), Xôi thịt
(1945). Nguyễn Đình Lạp với Thanh niên trụy lạc (1937-1938), Chợ phiên
đi tới đâu (1937), Từ ái tình đến hôn nhân (1937). Ngô Tất Tố với Tập án
cái đình (1939), Việc làng (1940). Thạch Lam với Hà Nội ban đêm (1933),
Trẻ con lấy vợ (1933). Lê Văn Hiến với Ngục Kon Tum (1938)…
Cùng với thực trạng xã hội đô thị nhiễu nhương, đầy rẫy những tệ nạn,
cạm bẫy; hiện thực đời sống tối tăm, cơ cực “sau lũy tre”, với những hủ tục
nặng nề trói buộc người dân quê; cùng với sự bần cùng hóa, tha hóa của
những kiếp người “dưới đáy”…phóng sự giai đoạn này còn đề cập đến nhiều
vấn đề như: Hiện thực hà khắc và tinh thần kiên cường của các chiến sĩ trong
các nhà tù thực dân đế quốc (Ngục Kon Tum của Lê Văn Hiến; Tết của tù
đàn bà, Tù trẻ con của Nguyên Hồng; Một ngày ngàn thu của Tôn Quang

- 49 -
Phiệt; Côn Lôn địa ngục trần gian của Nguyễn Văn Nguyễn…); về các di
tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh của đất nước như Nam du đến Ngũ
Hành sơn, Thăm lăng Sĩ Vương của Nguyễn Trọng Thuật; Một cuộc hành
hương (Đi thăm Tức Mạc - quê cũ của Nhà Trần) của Lê Thanh và Trúc
Khê; Dâng hương đền Kiếp của Hoa Bằng và Cách Chi;…Cuộc đi chơi Huế
của Phục Ba; Qua đền Trấn Vũ của Ngọc Nhơn; Hương Sơn hành trình của
Nguyễn Văn Vĩnh…Ở mảng phóng sự này, có thể thấy rõ tình yêu quê
hương đất nước và lòng tự hào dân tộc của các cây bút phóng sự Việt Nam.
“Là con đầu lòng của nghề viết báo”, phóng sự đã giữ vai trò “trụ cột”
trong nhiều tờ báo. Nhiều chuyên mục trên các báo chuyển tải những phóng
sự đặc sắc của các tác giả giai đoạn này. Thống kê qua bộ Phóng sự Việt
Nam 1932 -1945 [26, 27, 28] gồm 3 tập ngót 4000 trang khổ 16x24 cm đã có
tới 63 tác giả, 117 tác phẩm phóng sự. Tất nhiên, con số đó chưa phải là tất
cả. Thực tế, nếu thống kê đầy đủ, trực tiếp qua các báo, các nhà xuất bản
đương thời, chắc chắn số lượng tác phẩm phóng sự giai đoạn này còn phong
phú hơn nhiều. Tuy nhiên, chỉ với những gì được tập hợp trong bộ phóng sự
đồ sộ này cũng đủ để khẳng định thành tựu đáng trân trọng của phóng sự
Việt Nam. Thực tế, ngay từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, một số phóng
sự đã được đăng rải rác trên các báo: Bắc kỳ du ký của Trương Vĩnh Ký
(1862); Hương Sơn hành trình của Nguyễn Văn Vĩnh (1914); Pháp du hành
trình nhật ký, Mười ngày ở Huế của Phạm Quỳnh (1914); Bài ký chơi Cổ
Loa của Tùng Vân - Nguyễn Đôn Phục (1924)…Nhưng, cho đến nay, giới
nghiên cứu văn học đều thống nhất khẳng định phải đến Tôi kéo xe của Tam
Lang, đăng trên Ngọ báo năm 1932, phóng sự với tư cách một thể loại văn
học mới chính thức được ra đời. Như một sự kích thích, Tôi kéo xe đã tạo
nên cả một phong trào viết phóng sự rầm rộ, sôi nổi từ Bắc chí Nam, với
nhiều cây bút sáng giá, với nhiều tác phẩm đặc sắc đủ sức vượt qua sự sàng
lọc nghiêm ngặt của thời gian, tạo nên một di sản phóng sự đồ sộ, góp phần

- 50 -
hoàn thiện quá trình hiện đại hóa văn học dân tộc và khẳng định thành tựu
chung của cả nền văn học.
Điều đáng quý và cũng là điểm đặc sắc của phóng sự giai đoạn 1930 -
1945 là: Trong thành tựu chung rực rỡ của cả nền phóng sự đã có sự kết tinh
viên mãn của những đỉnh cao, với những cá tính sáng tạo độc đáo. Ngoài ba
cây bút tiêu biểu Tam Lang, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố mà luận án sẽ tập
trung khảo sát kỹ ở hai chương sau, ở phần này, chúng tôi tập trung vào khẳng
định sự “bùng nổ” cũng như tiềm năng của đội ngũ các cây bút phóng sự.
Trọng Lang (Trần Tán Cửu): Là cây bút tiên phong sung sức, một
trong những người xây nền đắp móng cho văn học Việt Nam hiện đại nói
chung và thể phóng sự nói riêng. Trong cả đời cầm bút, Trọng Lang chỉ
chuyên chú, dồn cả tâm lực, tài năng cho thể loại phóng sự và bởi thế, số
lượng tác phẩm phóng sự của Trọng Lang phong phú, nhiều hơn cả lượng
tác phẩm của “Ông vua phóng sự đất Bắc” Vũ Trọng Phụng. Thống kê qua
bộ Phóng sự Việt Nam 1932-1945, số tác phẩm của Trọng Lang chiếm 1/10
(12/120 tác phẩm) và số trang in chiếm 1/7 (550/3740 trang) tổng số tác
phẩm và tổng số trang in trong cả bộ sách. Các tác phẩm chính của Trọng
Lang bao gồm: Trong làng chạy (báo Ngày nay, 1935); Gà chọi (báo Phong
hóa, 1935); Đời bí mật của sư vãi (báo Phong hóa, 1935-1936); Đồng bóng
(Phong hóa, 1935-1936); Hà Nội lầm than (Ngày nay, 1937); Làm dân
(Ngày nay, 1938), Một nhà trọ học (Ngày nay, 1938); Làm tiền (Ngày nay,
1939); Trong sương gió (Ngày nay, 1939); Những bữa cơm tự nhiên (Ngày
nay, 1939); Thầy Lang (Hà Nội tân văn, 1941); Tết trong lòng người ta (Hà
Nội tân văn, 1941); Xôi thịt (Ngày nay, 1945); Vợ lẽ nàng hầu (NXB Tự do,
1950) và Những đứa trẻ (NXB Tự do, 1950). Phóng sự của Trọng Lang đa
dạng, có những phóng sự ngắn (4 - 5 trang in), cũng có những phóng sự dài
(tới 152 trang in). Trong số đó có những tác phẩm thực sự gây được tiếng
vang: Hà Nội lầm than, Trong làng chạy, Làm dân, Làm tiền…

- 51 -
Cầm bút ở một giai đoạn đầy nhiễu nhương của xã hội, giống như Vũ
Trọng Phụng, Ngô Tất Tố và nhiều nhà văn, nhà báo có trách nhiệm, có tâm
huyết với đời, Trọng Lang đã có quan niệm riết róng về trách nhiệm của
người cầm bút, về mục đích, lẽ sống còn của văn chương. Trong bài tựa
Những đứa trẻ, ông đã bộc lộ quan niệm của mình: “Lòng thương chỉ muốn
nhường chỗ cho Lẽ sống của ngòi bút, tức là của mực và máu, thì cũng như
Lẽ sống của xương và máu, nhất là trong một giai đoạn mà con người đã có
thể cụ thể hóa Lòng thương, hy sinh sở trường vì một Lý tưởng óc cho là
cao, tâm cho là đẹp được.
Lẽ sống của xương máu là dẹp tan “bất lương, bất mãn” để lập căn
bản cho một đời sống hợp lý. Lẽ sống của mực máu là nêu “bất lương, bất
mãn”, ghi những tội ác đã gây nên đau khổ, để hướng dẫn và bảo chứng việc
làm của xương máu”. Từ suy nghĩ đó, các tác phẩm của Trọng Lang đã luồn
lách vào khắp những ngõ ngách của đời sống xã hội, mặc sức tung hoành ở
nhiều mảng đề tài, phản ánh những vấn đề gai góc, cấn cái nhất của cả đời
sống thành thị và nông thôn.
Con người bị bần cùng hóa đến thê thảm là một thực trạng đáng cảnh
báo của xã hội. Dù sống lầm lũi “Sau lũy tre” hay chen chúc ở chốn đô
thành, con người trong phóng sự của Trọng Lang đều bị dồn đuổi đến bước
đường cùng, suốt đời mắc bệnh “kiết”, bệnh “đói”. “Đời họ là một cái đói
dài” [27; 203], họ bị đẩy “từ chỗ đói này đến chỗ đói khác” [28; 23]. Trở đi
trở lại trong tác phẩm Trọng Lang là hình ảnh những con người khốn khổ
“hom hem”, “hom hem quá”, “mặt vàng bủng như thị”; những người đàn bà
xơ xác, “mặt đờ đẫn” với “cái buồn lặng lẽ và nhạt nhẽo như cố tật”; mấy
người cô đầu “đầu bù, tóc rối, mặt vàng bủng nhẵn thín như quả thị”; những
người thanh niên tội nghiệp “trai trẻ, không đầy hai mươi tuổi, gầy rom và
xanh leo, xanh lét” [28; 494]. Không chỉ thiếu ăn, những kẻ khốn khổ này
còn thiếu thốn cả chốn nương thân. Ở thôn quê, họ trú ngụ trong những túp

- 52 -
lều tồi tàn trơ trọi “không lửa, không giường, khói ám khắp nơi, cho đến cả
mặt người; những túp lều tranh “ẩm thấp hôi hám như nấm độc, những chỗ
đi về đã gần một thế kỷ rồi của cái nghèo xơ xác, nhưng kín đáo” [28; 28]. Ở
thị thành, họ phải chui rúc trong những ngách phố tồi tàn như những đoạn
“ruột thối”. “Giữa đoạn ruột thối dài ngoằn ngoèo” ấy, “nhung nhúc những
kẻ cắp, ăn mày, nhà thổ, chuột cống, du côn, máy nước…”. Không được
chăm sóc, chở che, họ lang thang kiếm sống nơi lề đường, xó chợ, gặp gì ăn
nấy cốt cho no. “Cái gì lợn ăn được thì con người cũng ăn được”. Vì nghèo
nên miếng ăn đã “là cái đích sống” được “coi trịnh trọng đến chừng nào” và
do vậy phần thú, phần vật, dường như là phần trội trong những con người -
vật này. Phóng sự của Trọng Lang đã vạch trần biết bao thủ đoạn, mánh
khóe “làm tiền” bẩn thỉu của con người ở cái bước đường cùng của nghèo
đói. Vì tiền những người thợ sửa ống nước, sửa đồng hồ cố tình dùng thủ
đoạn bẩn thỉu để móc túi khổ chủ. Vì tiền mà hai mẹ con gái làng chơi
“tranh nhau khách ráo riết, đến nỗi nói nhau thậm tệ” [28; 502]. Vì tiền mà
“tâm hồn người ta có thể thối nát đến bực tiếp khách ngay tại căn gác thờ
cha - nó vừa thấp, vừa bé như một cái chuồng chim”. Vì tiền, những người
có học cũng sẵn sàng bán rẻ danh dự để trở thành những kẻ ăn mày trơ tráo.
Ngòi bút của Trọng Lang cũng sắc sảo “ghi” lại những cảnh đời ô nhục,
nhơ nhuốc của những tên chồng hờ, những tên ma cô dắt gái, những tên “đĩ đực
khốn nạn khiến người đọc phải kinh tởm về sự tha hóa của loài người. Chúng
dắt gái cho khách để kiếm chút tiền “boa”; chúng sẵn sàng “làm chồng thuê”,
làm “nhân tình hờ” cho bọn đĩ lậu để có thể bảo lãnh mỗi khi gặp cảnh sát.
Một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến đói nghèo, tha hóa của
con người là những tệ nạn xấu xa - con đẻ của xã hội thực dân phong kiến.
Chưa có được sự lý giải thấu đáo, nhưng phóng sự Trọng Lang đã vạch trần
hiện thực nhơ bẩn ấy. Đó chính là sự nhũng nhiễu, “ăn bẩn” của những kẻ

- 53 -
làm quan. Ra làm quan là “cho cả họ được nhờ”, “là không nghĩ đến việc để
đức lại cho con cái về sau này nữa”, là phải biết “bóp họng dân”, nếu “lành”
quá sẽ bị các quan bạn cho là “rát hay là ngốc”…thì tệ nạn, tham nhũng, ăn
bẩn là chuyện hiển nhiên, đã thành “cơ chế” của xã hội. Nạn “xôi thịt” đã
thành tệ nạn phổ biến. Biết là Nhiêu Tr. bị oan, các cụ vẫn cứ phạt để được
chè chén. Bởi “các cụ trước tiên nghĩ đến xôi và thịt rồi mới nghĩ đến trộm”,
mà “xôi thịt chỉ có thể đầy ra ở nhà Nhiêu Tr. mà thôi”. Lệ làng được đặt ra
từ “tổ con chuồn chuồn” bao gồm một bộ ba chánh, phó tổng và lý trưởng.
Sở trường của phó tổng là bóp nặn dân đen “không một hủ tục nào là hắn
không duy trì nếu hủ tục ấy thoáng có mùi xôi thịt. Hắn có tài tìm ra xôi
thịt…quanh một xác chết, sau một đám cưới, giữa một nhà quanh năm chỉ
ăn rau…
Cùng với tệ tham quan, “ăn bẩn” là biết bao tệ nạn “bung” ra trong xã
hội thực dân. Trọng Lang đã hướng ngòi bút bóc trần những tệ nạn nhức
nhối đó: Nạn nghiện hút như một căn bệnh truyền nhiễm - tàn phá thê thảm
cả thể chất, tinh thần, nhân cách của con người; nạn mại dâm và muôn vàn
hình thức trá hình của nó - một vấn đề thời sự của đời sống thị thành, biến
bao người lương thiện trở thành “nô lệ của đêm vui”, thành những “con
thiêu thân phù du trước ngọn lửa”, thành “những con bò cái” bị “vắt đến giọt
sữa cuối cùng”; nạn trộm cắp, lưu manh (Trong làng chạy); nạn ăn mày ăn
xin, lừa lọc bỉ ổi (Hà Nội lầm than); nạn “lang băm” vô đạo mọc ra như
“nấm”. Ở đó toàn những Thầy lang tài đức đã “rơi vãi hết”, chỉ giỏi ngón lừa
đảo, bịp bợm (Thầy lang)…
Có thể nói, bằng tài năng, tấm lòng, phóng sự của Trọng Lang đã tập
trung phản ánh thực trạng đen tối của xã hội đương thời. Phóng sự Trọng
Lang vừa hàm chứa một dung lượng hiện thực rộng lớn, thấm đẫm hơi thở
đời sống, vừa đậm sâu tinh thần nhân văn và có sức hấp dẫn với người đọc.

- 54 -
Nguyễn Đình Lạp cũng là một trong những cây bút đặc sắc, góp phần
đáng kể vào thành tựu chung của phóng sự Việt Nam giai đoạn 1930-1945.
Sinh trưởng và gắn bó với Hà Nội, ông đã hiểu đến từng ngõ ngách của Hà
Nội và tập trung phản ánh những vấn đề nhức nhối của “Hà Nội lầm than”
thời thuộc Pháp. Ngoài hai tiểu thuyết phóng sự nổi tiếng Ngoại ô (1941),
Ngõ hẻm (1943), ăm ắp những tư liệu về đời sống cơ cực của người dân
nghèo Hà Nội, Nguyễn Đình Lạp đã viết nhiều phóng sự điều tra về muôn
mặt đời sống đương thời : Thanh niên trụy lạc, Chợ phiên đi tới đâu?; Từ ái
tình đến hôn nhân…Cũng viết về nạn mại dâm nhưng không chỉ nhận diện,
chỉ ra hiện trạng, Nguyễn Đình Lạp nghiêng hơn về cắt nghĩa những con
đường dồn đẩy những con người vốn “cũng ngây thơ, chất phác”, chỉ khác là
“sinh ra ở chốn nghèo hèn”, bị “loài người lừa dối” “- xô đẩy nó, giầy xéo
lên nó”, khiến nó đành “ngã xuống cái vực sâu để mà đau khổ, sống mãi cái
đời không ánh sáng, không hy vọng”, phải chịu “bao nhiêu sự nhục nhã, ê
chề bằng số tiền kiếm được sau những đêm ê chề nhục nhã” để kéo dài cuộc
đời nhục nhã, ê chề…[26 ; 206, 207]. “Đội ngũ” những kẻ bị dồn đẩy, cùng
đường ấy ngày một đông, Hà Nội có đến “5000 người làm nghề mãi dâm!”
“5000 cuộc đời vứt bỏ, bị giầy xéo giữa những trận cười! 5000 tấm linh hồn
vất vưởng như ngọn đèn trước gió, sống không một lời an ủi, chết không
một lời khóc than” [26; 210]. Nguyễn Đình Lạp đã xót xa cảnh báo thực
trạng suy thoái thê thảm của “2 vạn thanh niên” - “2 vạn cái đầu xanh” của
Hà Thành đương thời. Họ đang sa vào con đường trụy lạc khiến mọi người
phải “rùng mình, ghê tởm”. Hầu hết thanh niên chỉ “thờ một lý tưởng: khoái
lạc; đuổi một mục đích: tiền tài; dõi một ý muốn: cười cợt…chỉ có một ý
định thỏa mãn vật chất và giày xéo lên hết để đạt cái ý định ấy”. Thanh niên
sống không còn lý tưởng “những danh từ thiêng liêng; danh dự, tổ quốc,
nhân loại đối với họ chỉ là những làn khói tỏa, những tiếng cười sòa, những

- 55 -
câu gọn thon lỏn: “Ối chao, ít cần”. Đối với họ “sự chơi bời đã cần thiết như
cơm ăn, áo mặc, nước uống, khí trời”; “không có tiền, họ xoay xở, lường
gạt. Họ dối cha mẹ, dối anh em, dối bạn bè, dối xã hội” - để có tiền và dấn
vào những con đường lầy lội: Những “hộp đêm, những chiếu rượu, chiếu
bạc, những tiệm hút, tiệm nhảy và nhanh chóng bị tha hóa “lường gạt…ức
hiếp…tai ác một cách tàn nhẫn, thiểm độc vô cùng”. “Tất cả đối với họ chỉ
là con số không. Số có thì phải là “xác thịt, thuốc phiện, tiền, thật nhiều
tiền…Vì thế họ liều lĩnh, họ văng mạng, họ đểu giả cả trăm phần trăm” [26;
253]. Có thể nói, với Thanh niên trụy lạc, Nguyễn Đình Lạp đã phanh phui
tất cả sự “liều lĩnh và đểu giả”, “những bẩn thỉu, đọa đầy, đau đớn” của
thanh niên đương thời - những kẻ “đang giẫy giụa để sống vật vờ bên cái
chết…” - một “ung nhọt đầy máu mủ” của xã hội đương thời.
Với Từ tình ái đến hôn nhân, Nguyễn Đình Lạp lại bóc trần thực chất
cái gọi là “tình yêu” của thanh niên đương thời. Họ “có biết yêu gì đâu. Có
bao giờ yêu đâu. Chỉ có xác thịt thôi”. Với họ “Ái tình quả chỉ là sự cọ sát
của hai làn da”. “Chỉ thế thôi. Rồi hết…”. Chính vì không có tình yêu, nên
với họ hôn nhân cũng thật vô nghĩa và thực chất cũng chỉ là sự “giãy giụa
trong đau thương của tuyệt vọng” và tất yếu dẫn đến những kết cục bi thảm,
hoặc “bị dồn đến một con đường tắc tị”, đành tự kết liễu tuổi thanh xuân
bằng tự tử, bằng một chén thuốc phiện hòa dấm thanh, bằng nước cường
toan, hoặc đâm đầu xuống hồ, xuống sông, hoặc cắt mạch máu…Bởi thế,
trung bình mỗi năm Hà Thành có tới 200 vụ tự sát vì tình! “Ấy là chưa kể
biết bao người sống gượng gạo để kéo dài cuộc đời vô vị bằng những tờ giá
thú bất bình…biết bao nhiêu tuổi hoa niên…dang dở, đem chôn chặt cả
tương lai, cả hy vọng, cả cuộc đời vào những nhà tu kín hay những chùa
vắng, am thanh…biết bao nhiêu linh hồn đau khổ hơn nữa chìm ngập trong
vực hành lạc hay sa ngã vào cảnh giang hồ…”. [26; 294]. Những cảnh đa thê

- 56 -
“người năm bảy vợ” phổ biến. Lấy nhiều vợ “để thỏa mãn vật tính…để đấm
bóp khi họ nhọc mệt…, để tra khảo tiền bạc khi họ cần đến”, hoặc ngược lại
“độc thân” vì nhiều lý do: vì nghèo, vì ích kỷ, chỉ ham chơi bời trác táng, vì
không lo nổi luật cheo cưới nặng nề, để rồi lao vào những cuộc “chơi vụng
trộm. Rồi mắc các thứ bệnh tình” hay “ế chồng” và bị giam hãm vào cảnh cô
đơn, lạnh lùng “buồn tênh” đau khổ, “rồi yếu dần đi. Rồi buồn rầu. Rồi chán
nản tất cả mọi thứ. Rồi bẩn tính. Rồi cay độc. Rồi ghét đời”…”rồi sinh điên
dại” “rồi trụy lạc…biến thành một con số trong sổ đoạn trường”, “rồi chửa
hoang” sinh ra những đứa con hoang - những mầm họa nguy hiểm của xã
hội. Từ “độc thân”, “ế chồng” quả đã sinh ra muôn vàn tai họa. Ngoại tình
cũng là một căn bệnh trầm kha. Do con người luôn khát khao muốn tìm
“những cảm giác mới, những hình ảnh mới, những khoái cảm mới” nên tình
trạng “dan díu”, ngoại tình ngày càng phổ biến, ngày càng “bẩn thỉu, đê
tiện”. Có cuộc ngoại tình có tính toán hẳn hoi “có sự bằng lòng, thỏa thuận
cả vợ lẫn chồng…Họ “tự ngoại tình” là muốn được hưởng nhà cửa, tiền bạc,
ô tô, danh giá…”. Bởi thế, “biết bao kẻ tai to mặt lớn lặng lẽ dắt vợ mình
vào cổng hậu một nhà quyền quý để mong chóng được thăng trật, tăng lương
hay được phẩm hàm, chức tước…Biết bao nhiêu thằng đàn ông vô liêm sỉ tự
đàn áp lương tâm, giập tắt lửa ghen để tự hạ mình xuống làm thằng bồi xách
“bô” hầu hạ “người ta” trong khi “người ta” nô đùa, rú rít với vợ mình trên
giường…Biết bao con đàn bà ma quái dắt bạn về nhà, để mặc cho bạn phụng
sự vật tính chỉ vì người bạn nó giàu, lại khờ, lại dại… Ở đó, sự ngoại tình đã
thành một “tổ chức”, một sự buôn bán. Thật là bẩn thỉu, vô cùng bẩn thỉu.
Có thể nói, bằng sự khảo sát công phu, kỹ lưỡng, phóng sự của Nguyễn Đình
Lạp đã đặt ra và lý giải ngọn ngành những vấn đề bức bối của hiện thực xã
hội, đặc biệt những “mắt xích” cơ bản trong “dây chuyền” tha hóa của xã
hội. Dù chưa có được giải pháp, dù không gay gắt như Vũ Trọng Phụng,

- 57 -
nhưng phóng sự của Nguyễn Đình Lạp đã là sự cảnh báo có giá trị, thể hiện
rõ thái độ phê phán và tinh thần trách nhiệm của cây bút phóng sự sắc sảo.
Nói đến những cây bút phóng sự tiêu biểu của phóng sự Việt Nam
1930-1945, không thể không nhắc nhớ đến Thạch Lam với các bút danh
Việt Sinh, Thiện Sĩ…Ông là cây bút truyện ngắn tài năng, người đã mở một
lối đi riêng và thành danh với những sáng tác đậm chất hiện thực: Gió đầu
mùa, Sợi tóc…đồng thời cũng là tác giả của những tập phóng sự đặc sắc: Hà
Nội ban đêm, Trẻ con lấy vợ, Trước Tết, Tết và sau Tết, Nghe hát quan họ
một đêm ở Lũng Giang…
Ở Hà Nội ban đêm, ngòi bút Thạch Lam đi sâu vào nạn mại dâm, một
tệ nạn tràn lan như một bệnh dịch phá hoại thuần phong mỹ tục của dân tộc.
Có muôn nẻo đường dẫn đến nghề mại dâm. Nếu như từ góc độ xã hội,
Trọng Lang, Tam Lang, Vũ Trọng Phụng, Vũ Bằng…lý giải nguyên nhân
chủ yếu dẫn đến cái nghề “mạt hạng” này là do túng đói, thất nghiệp…thì từ
góc độ văn hóa, Thạch Lam còn nhấn mạnh thêm sự tha hóa xuống cấp về
đạo lý, nhân cách; thế lực vạn năng của đồng tiền đã thui chột những giá trị
nhân văn tốt đẹp của con người. Thực tế vẫn có những cô xinh như mộng
“ngây thơ thùy mị, có nghề nghiệp hẳn hoi…không đến nỗi thiếu ăn” nhưng
lười biếng mà lại cần nhiều tiền nên vẫn bán dâm “làm nhơ bẩn cái thân
mình, nhơ bẩn cái danh tiếng của cha mẹ”; lại có những mụ đàn bà, chồng
con đàng hoàng tử tế vẫn đi “kiếm khách” để trả nợ cờ bạc; những gái “tân
thời” lãng mạn, yêu đương quá đà, đến nỗi phải đi “đứng đường” bán rẻ
nhân phẩm của mình; những “me Tây” - hạng người “bắc cầu cho hai cái
văn minh” Âu - Á gặp nhau, coi lấy Tây là cái nghề để “đổi đời”. Thạch
Lam cũng vạch rõ, sự xâm hại của nạn mại dâm đến cả những khu vực văn
hóa truyền thống của dân tộc.
Cùng với nạn mại dâm, Thạch Lam cũng phản ánh một tệ nạn đáng
buồn, nhưng đã thành cố tật của xã hội phong kiến - nạn tảo hôn: Trẻ em lấy

- 58 -
vợ quả là chuyện bi hài phổ biến ở Việt Nam thời xưa. Tuy nhiên, từ góc
nhìn văn hóa, qua đám cưới của một đứa trẻ, Thạch Lam cũng cho thấy,
những nét riêng trong phong tục, văn hóa truyền thống. Với các phóng sự:
Trước Tết, Tết và sau Tết; Nghe hát quan họ một đêm ở Lũng Giang, Thạch
Lam đã thể hiện thế mạnh của một cây bút phóng sự tinh tế, sắc sảo khi đi
vào khai thác vấn đề phong tục, truyền thống văn hóa đặc sắc của Việt Nam
- điều cơ bản khu biệt ngòi bút phóng sự Thạch Lam với các cây bút cùng
thời và khẳng định phần đóng góp đáng trân trọng, không dễ thay thế của
ông trong làng phóng sự Việt Nam.
Nguyễn Tuân là nhà văn đa tài, ông dụng bút và thành công ở nhiều
thể loại, nhưng đặc biệt thành danh ở thể tùy bút, trong đó có những phóng
sự đặc sắc: Ngọn đèn dầu lạc (1939), Tàn đèn dầu lạc (1941). Bằng vốn
sống và sự trải nghiệm của bản thân trong ngót mười năm “phóng túng hình
hài”, “tự thiêu diệt” mình trong khói thuốc phiện, Nguyễn Tuân đã phơi bày
chân thực và sống động nạn thuốc phiện đã trở nên nhức nhối trong lòng xã
hội đương thời. Đây có thể coi là cuộc điều tra tư liệu toàn diện về sự bành
trướng của nạn thuốc phiện ở các đô thị, sự thâm nhập của nó vào các tầng
lớp xã hội và sức hủy hoại, tàn phá ghê gớm của nó đối với cả thể xác và
nhân cách con người, làm băng hoại cả những đạo đức truyền thống tốt đẹp
của dân tộc. Nguyễn Tuân đã phơi bày sinh động cả một thế giới nghiện
cùng đủ mọi tình cảnh và tâm trạng của những con nghiện. Họ thuộc đủ mọi
thành phần xã hội, mọi giới tính, mọi lứa tuổi, đủ cả người ta lẫn người Tây,
người Tàu. Cái thế giới nghiện “đông lắm, ấm cúng lắm” ấy “đang làm tối
xẩm” cả một xã hội. Thuốc phiện, xám, sái, muội đèn dầu lạc cùng ma lực
của nó lây lan, bao trùm “làm xám xịt” toàn bộ xã hội. Môi trường xã hội
đầy ám khí ấy như một thứ vi trùng nguy hiểm, xâm nhập không chỉ những
viên chức đã nghỉ hưu mà tấn công dữ dội vào cả lớp trẻ. Hầu hết thanh niên
đều biết đến “tòa nhà nhũn nhặn” - cái tiệm hút ở phố Hàng Buồm” - nơi

- 59 -
“bao nhiêu khởi điểm của những lịch sử nghiện ngập”. Không chỉ đám trí
thức Tây học, mà cả giới trí thức Nho học cũng không thoát khỏi vòng cám
dỗ của a phiến. Không chỉ hoành hành ở chốn phồn hoa đô hội mà nghiện
hút còn tấn công cả vào chốn cửa Thiền, cửa Phật. Cả “một vùng Yên Tử,
chùa nào cũng có bàn đèn. Khách thập phương có nổi cơn nghiện thì cứ bạch
thực cùng sư cụ”. Cả một loạt Hòa thượng núp bóng Bồ Đề không phải để
nghiên cứu Kinh phật, mong được lên cõi Niết Bàn hay cứu nhân độ thế như
những vị chân tu mà để ngày ngày tìm cảm giác siêu thoát trong cõi thuốc
phiện. Nguyễn Tuân đã chỉ rõ: thuốc phiện “như một người nhân tình nghiệt
chướng”, “cái giống thuốc phiện vốn là độc. Nó là một cái địa ngục trên hòn
đảo không có tên ở giữa biển đại dương mà chúng ta là những tù trọng án bị
vĩnh viễn đầy ra đấy”. Nó không chỉ hủy hoại thể xác mà còn như con “hồ li
tinh hút hết sinh khí”, hủy hoại nhân cách của những kẻ bầu bạn với nó.
Nguyễn Tuân đã khắc họa sinh động đủ các loại chân dung, từ thể xác đến
tinh thần của con nghiện. Tất thảy họ đều có “nước da xám bệch, cặp môi
thâm và tí lòng trắng ở cặp mắt mệt mỏi” hệt như những “cái xác chết đợi
nhập quan”. Họ luôn bị hành hạ bởi những cơn nghiện: người mỏi, buồn
chân buồn tay, muốn đập phá, nặng hơn thì thấy như có ròi đục trong tủy
xương, bụng thấy no nhưng miệng đói, lúc nào cũng chỉ muốn nằm thôi,
“…hai vai luôn mỏi. Khớp xương như rã hết cả ra. Mí mắt rất nặng. Mồm bã
ra. Thấy nước sợ như người bị chó dại cắn”. Với con nghiện cả thế giới chỉ
còn thu hẹp lại quanh cái bàn đèn. Họ trở thành vô cảm với thời gian. “Nói
đến giết thời giờ còn ai bền và kéo dài bằng dân ken cờ”. Họ sẵn sàng chà
đạp lên tất cả những đạo lý, tình cảm thiêng liêng của con người: “tình vợ,
tình bạn, tình của một công dân trai tráng đối với đất nước giữa những giờ
trọng đại”. Họ sẵn sàng sa đọa về nhân cách: để có tiền hút thuốc phiện, sư
Tâm Hoan đã trở thành một lái buôn thuốc phiện, rồi ăn bớt tiền trùng tu

- 60 -
chùa để hút thuốc và đánh bạc, “tàn nhẫn bóc lột Phật tổ”, khiến “hương và
nến đã biến cả sang khói thuốc và dầu lạc”. Sư còn xé cả sách kinh Phật để
lau chùi bàn đèn thuốc phiện và phàm tục hơn cả những kẻ phàm tục: đi tu
nhưng vẫn ăn mặn, nói láo, đánh bạc ăn tiền, chửi tục…Có thể nói, với hai
tập phóng sự Tàn đèn dầu lạc và Ngọn đèn dầu lạc, Nguyễn Tuân đã khắc
họa chân xác nhất những tấn bi kịch cả thể xác và tinh thần của những con
nghiện. Và đó cũng chính là giá trị hiện thực, giá trị nhân văn và phần đóng
góp riêng của phóng sự Nguyễn Tuân với thành tựu chung của thể loại
phóng sự Việt Nam 1930 - 1945.
Theo Lê Tràng Kiều, Vũ Bằng là một trong ba nhà văn họ Vũ - những
người mở đầu cho thể phóng sự ở Việt Nam: Tam Lang - Vũ Đình Chí, Tiêu
Liêu - Vũ Bằng và Thiên Hư - Vũ Trọng Phụng. Vũ Bằng viết nhiều thể
loại: tiểu thuyết, truyện ngắn, phê bình văn học…Riêng với thể phóng sự,
ngoài những bài phóng sự ngắn, nói đến Vũ Bằng, không thể không nhắc
đến phóng sự dài Cai, đăng nhiều kỳ trên báo Trung Bắc chủ nhật (1940) và
NXB Tân Dân xuất bản thành sách năm 1944. Trong phóng sự này, tác giả
đã ghi lại quá trình trở thành con nghiện từ điếu thuốc đầu tiên khiến nôn
nao khổ sở đến cảm giác khoan khoái ở những lần hút sau rồi “mê” hút, lấy
cớ phải viết văn làm báo, la cà khắp các tiệm hút, có khi hút cả tuần, rồi một
ngày hút vài ba lần, ngày càng dấn sâu vào cảnh nghiện ngập, cho đến khi
hai mươi ba tuổi, tác giả đã thành một con nghiện thực thụ; biến thành một
con người khác, suốt ngày nằm vật vã cạnh bàn đèn nửa đêm mới mò mẫm
về nhà. Chỉ đến khi sức khỏe ngày một suy kiệt, mặt mũi ám khói, môi thâm,
ho suốt đêm, tác giả mới thấm thía: “thuốc phiện làm cho người ta muốn
sống không được, mà muốn chết cũng không được nữa. Bao nhiêu cái thanh
cao nâng loài người lên trên loài vật đã thu vào trong cái giạ và làn khói
nâu”. Sợ hãi, tuyệt vọng nhưng không dứt bỏ nổi nàng tiên nâu, quá bế tắc,

- 61 -
tác giả đã phải nghĩ đến cái chết và tương lai đã thành xa lắc dù trong lòng
vẫn đau đáu với văn chương. Càng ngày tác giả càng rơi vào khủng hoảng.
Sống giữa môi trường ô uế toàn những ổ cờ bạc, những gái giang hồ và đám
hạ lưư, cuộc sống của tác giả cũng ngày càng “bẩn thỉu, bệ rạc và bê tha đến
cùng cực”. “Đêm đêm nằm mà ngẫm nghĩ thương cho số kiếp mình” và cảm
thấy “mọi vật đều như bưng mặt khóc”. Tết đến, chỉ còn một mình với cô
đơn dằn vặt và buồn tủi. Tương lai thật đen tối. Tác giả quyết tâm cai
nghiện…và nhờ vậy đã tìm thấy ánh sáng của cuộc đời.
Cai là lời tự thú chân thật quãng đời của một kẻ nghiện ngập. Được
viết bằng bút pháp miêu tả cảm giác, phân tích nội tâm tinh tế, sắc sảo, tác
phẩm là một thành công, ghi nhận đóng góp riêng của cây bút Vũ Bằng
trong mảng đề tài viết về nạn nghiện hút nói riêng và tệ nạn trầm trọng của
xã hội Việt Nam đầu thế kỷ nói chung.
Chúng ta có thể nói đến Hoàng Đạo với Trước vành móng ngựa
(1938). Tuy có viết truyện dài Con đường sáng và tập truyện ngắn Tiếng
đàn, nhưng Hoàng Đạo lại thành công ở phóng sự viết về những điều tai
nghe mắt thấy ở tòa án. Hoàng Đạo có một thời gian ngồi ghế lục sự tòa tiểu
hình Hà Nội nên những điều ông ghi chép rất thực, rất sinh động. Bằng một
bút pháp linh hoạt, ngôn ngữ đối thoại hài hước, tác giả cho người đọc “vừa
phì cười vừa thương tâm” vì những người dân nghèo khổ, hiền lành và ít
hiểu biết. Mặt khác qua phóng sự này, Hoàng Đạo cũng làm hiện lên thực
trạng xã hội Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám 1945: Cái nghèo và cái
dốt đã đẩy con người vào vòng lao lý và bọn quan tòa thì làm việc cảm tính,
tùy tiện. Phần lớn những “tội nhân” phải ra tòa, “đứng trước vành móng
ngựa” chính là những nạn nhân thê thảm, nghèo đói, ốm đau, thất học, ngẩn
ngơ không biết gì đến luật pháp. Một số lại sa vào những tệ nạn xã hội: ăn
cắp, mê tín dị đoan, ma túy…Lan Khai là nhà văn thiên về tiểu thuyết. Ông

- 62 -
viết nhiều loại tiểu thuyết: tiểu thuyết lịch sử, tiểu thuyết tâm lý và nổi tiếng
hơn là tiểu thuyết đường rừng: Tiếng gọi của rừng thẳm, Truyện đường
rừng, Suối đàn. “Đọc Lan Khai, người ta mới thấy nhà tiểu thuyết đưa người
ta vào tận rừng thẳm, dắt người ta một cách thân mật vào các gia đình Thổ
Mán, và cho người ta thấy được những tâm tính dị kỳ” [139; 898]. Chính sự
dị kỳ kích thích tính tò mò, trí tưởng tượng của người đọc. Và điều này cũng
rất đậm trong phóng sự của Lan Khai: Mọi rợ, Một buổi săn đêm. Ẩn sau vẻ
đẹp hoang dã, thơ mộng của núi rừng, tác giả miêu tả những cảnh, những nét
sinh hoạt của một xóm Mèo heo hút Nặm Tỉ, còn đầy những bí ẩn. Phóng sự
của Lan Khai như truyện ngắn, về một gia đình nghèo “Thực là một gia đình
kỳ dị: ba bố con tựa hồ ba người lạ, tình cờ gặp nhau trong một quán trọ bên
đường. Suốt ngày họ không nói với nhau một lời, trừ câu nào không thể
không nói được”. Tai nạn bất ngờ, người cha chết vì nghề mã phu, còn lại
Tum Điàng và cô em gái Tsi Na. Tác giả khai thác những lần quan hệ sinh lý
bản năng giữa hai anh em ruột này và gọi đó là “mọi rợ”? Nhưng thực ra
ngòi bút của Lan Khai đã làm cho cử chỉ, hành động của họ trở nên mới mẻ,
lôi cuốn. Ngọc Ước, một cây bút nữ cũng viết phóng sự về phong tục, tập
quán của một cộng đồng cư dân Thổ ở Miền Thượng du Bắc Kỳ: cách ăn ở,
trang phục của họ, chuyện ái tình, chuyện ma quỉ, chuyện ma chạy, việc đi
dự tiệc rượu ở nhà quan [27; 1177-1186]. Trên Nam Kỳ tuần báo, Thái Hữu
Thành có các phóng sự khảo cứu về người Mọi: Giống Mọi ở Đồng Nai
Thượng (1943), 15 ngày với Mọi có đuôi (1944), Mọi “Xà Niên” (1944),
Ngải Mọi ở Đồng Nai Thượng (1944) làm hiện lên hình ảnh và con người
nơi núi non hoang tịch với những phong tục, bùa ngải nhiều công năng kỳ lạ.
Chúng ta đánh giá cao đóng góp của Lê Văn Hiến, tác giả phóng sự
Ngục Kon Tum (1938). Ông là chiến sĩ cộng sản, tham gia hoạt động cách
mạng từ năm 1925, từng trải qua nhiều nhà tù của thực dân như Đaklay,

- 63 -
Đaktô, Kontum…Chính vì thế mà tập phóng sự có sức thuyết phục người
đọc bởi những chi tiết, số liệu cụ thể, chân thực. Ngục Kon Tum là bản cáo
trạng đanh thép lên án chế độ thực dân Pháp, vạch trần những tội ác đẫm
máu của chúng đối với những người yêu nước và cách mạng Đông Dương,
đồng thời phơi bày những chính sách, thủ đoạn của chính quyền đương thời
đàn áp, khủng bố, giết hại những chiến sĩ trong nhà tù. Tác phẩm ghi lại
những câu chuyện đầy uất hận của 295 tù nhân bị đày đến Kon Tum làm con
đường 14. “Giết được chừng nào hay chừng ấy…đó là lệnh bí mật của bọn
thực dân đối với chính trị phạm”. Với chế độ nhà tù dã man, chỉ trong vòng
6 tháng trên 170 người đã bỏ mạng, số còn lại chỉ còn da bọc xương. Trong
cái địa ngục trần gian ấy, những người cộng sản đã siết chặt đội ngũ đấu
tranh quyết liệt với kẻ thù. Trương Quang Trọng, Nguyễn Lung và nhiều
chiến sĩ khác, sẵn sàng đương đầu với cái chết, giữ vững tinh thần bất khuất,
hy sinh oanh liệt. Những tấm gương chói lọi về người cộng sản Việt Nam
được ghi lại sinh động, có ý nghĩa giáo dục mạnh mẽ. Ngục Kon Tum là một
trong những tác phẩm thành công của trào lưu văn học cách mạng vô sản giai
đoạn 1930 - 1945. Nó có giá trị như một vũ khí đấu tranh lúc bấy giờ và là
một tài liệu quý về lịch sử phong trào cách mạng chống ách thống trị thực dân
của dân tộc ta.
Nhìn tổng thể, đội ngũ các cây bút phóng sự rất phong phú, đa dạng:
có người là nhà văn, nhà báo chuyên nghiệp được định danh cao trong giới
văn bút, có người là nhà thơ, có người là nhà nghiên cứu, phê bình văn học,
rất nhiều người mà tên tuổi còn xa lạ với chúng ta…Tất cả đều góp phần làm
nên cái đặc sắc của thể loại phóng sự Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 này.
Bên cạnh Tam Lang, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố và một số nhà văn khác
đã nói ở trên như Trọng Lang, Nguyễn Đình Lạp, Nguyễn Tuân, Thạch Lam,
Vũ Bằng, Lê Văn Hiến, Lan Khai, Hoàng Đạo…còn có các nhà văn: Tô

- 64 -
Hoài với Mực tầu giấy bản (?), Lê Văn Trương với Mười năm lưu lạc (Phải
đem một trăm cái sướng đêm Tân hôn góp lại…) (1937), Trần Tiêu với
Thanh niên thôn quê (1938), Biểu Chánh với Hà Tiên du ngoạn (1943),
Lộng Chương với Hầu thánh (1942), Nguyễn Văn Vĩnh với Hương Sơn
hành trình (1914), Nguyễn Tiến Lãng với Lại tới thần kinh (1934)…Các nhà
nghiên cứu, phê bình văn học góp vào phóng sự chất du khảo, sáng rõ, khoa
học với Bài ký chơi Cổ Loa (1924) của Tùng Vân Nguyễn Đôn Phục; Hội
chợ năm nay có gì mới? (1924) của Trúc Hà; Viếng Tây đô (1943), Ba lần
xem Hội chợ Sài Gòn (1942), Thành phố Sài Gòn (1944) của Thiếu
Sơn…Và các nhà thơ cũng có những phóng sự mang dấu ấn riêng: J.Leiba
có Một thiếu nữ ở Hà thành, Một khúc “Hà Mãn Tử” não nùng (1936); Tú
Mỡ có Chợ phiên và chợ phiên (1938); Vân Đài có Bốn năm trên đảo Cát
Bà (1944). Trên tạp chí Nam Phong, Đông Hồ - Nguyễn Văn Kiêm in liên
tiếp nhiều số của năm 1930 phóng sự Cảnh vật Hà Tiên. Đây thực sự là một
quyển địa chí Hà Tiên, đề cập tới nhiều mặt của vùng đất giàu có thơ mộng
này. Và Thúc Tề (Lãng Tử) có Nợ văn (1941).
Chúng ta cũng cần nhắc đến những tác giả khác mà tên tuổi chưa nổi
và đóng góp của họ chưa nhiều nhưng có ý nghĩa trong sự hình thành, phát
triển thể loại phóng sự ở những năm đầu thế kỷ XX. Oặt Công viết Trong
tiệm hút (1932), một bút danh rất lạ, bằng lối văn hài hước, kéo dài 20 số
báo Đông Tây kể lại “chân tơ kẽ tóc” của “làng bẹp”. Bạch Đinh với phóng
sự châm biếm Những tiệm nhảy trước cửa Bồ Đề (1944). “Nhảy một mình -
mà mình ấy lại là phái yếu - trước những con mắt thèm muốn của bọn người
phái khỏe bị cấm dục có khi còn “lắm điều hay”…Cho nên tôi tưởng những
tiệm nhảy “tiên cách” ở các chùa chiền còn nguy hiểm gấp mấy những tiệm
“đăng xinh” phàm tục rải rác ở các nơi thành phố lớn” [27; 1240]. Rất nhiều
tác giả viết sau những chuyến đi, thăm thú vẻ đẹp thiên nhiên và sinh hoạt

- 65 -
văn hóa của người dân ở khắp mọi miền đất nước. Vũ Nhật kể về việc “đi
mây về gió” bằng đường hàng không từ Hà Nội đến Viên Chăn (Hà Nội
Vientiane trong hai giờ - 1942). Nhân Vân Đình đến vùng mỏ Quảng Ninh
đã viết Quảng Yên du ký (1932). Trường Sơn Chí ghi lại một lần Viếng mộ
hậu quân Võ Tánh và Đêm cuối cùng ở Hà Tiên (1943); Trúc Phong kể về
ngày Tết chơi biển (1934) với non nước Hà Tiên. Vân Thạch với Thăm chùa
bà Đanh (1942). Nhật Nham (Trịnh Như Tấu) với Sau tám năm trở lại thăm
Lao kay (1942) rồi lại Từ Hà Nội đến hồ Ba Bể (1942) khảo sát phong cảnh,
phong tục các dân tộc ít người trên những bản làng rừng núi. Biệt Lam (Trần
Huy Bá) với đi Buôn Mê Thuột (1942) rồi Hai tháng ở Oc Eo (hay là câu
chuyện đi đào vàng - 1944 - 1945). Huỳnh Văn Chính ghi lại Một cuộc hành
hương ở Hà Tiên (1932). Đặng Xuân Viện đi Thái Bình viết Thụy Anh du ký
(1931). Huỳnh Bảo Hòa viết Bà Nà du ký (1931); Trịnh Như Nghê ghi chép
lại ngày Tết Đà Lạt (1945). Mãn Khánh Dương Kỵ lại hướng vào người và
văn hóa Chăm: Indrpura Đồng Dương (1943) và Thiên y a na (1943). Có một
vài phóng sự về phong trào Hướng đạo của thanh niên sinh viên hoạt động xã
hội trong những tháng ngày sôi nổi: Minh Tuyền viết Thăm trại thanh niên
Tương Mai (1942), Vu Ngã viết Một vài kiến văn trong dịp đi thăm làng Bối
Khê (1943). Cá biệt, phóng sự của Tịnh Đề như Điều tra về thuốc lá (1944)
ghi chép các quy trình trồng trọt, khai thác, chế biến thuốc lá…
Trở lên, chúng tôi đã điểm qua một số tác phẩm và gương mặt tiêu
biểu của phóng sự Việt Nam giai đoạn 1930-1945. Thực tế, để làm nên diện
mạo và thành tựu rực rỡ, đa dạng của phóng sự giai đoạn này là cả một đội
ngũ đông đảo ngót một trăm tác giả, ở cả ba miền Bắc, Trung, Nam, “mỗi
người một vẻ”, mỗi người một thế mạnh riêng, một cá tính sáng tạo riêng
với những khu vực đề tài tâm đắc riêng. Tuy nhiên, với việc chọn phân tích
một số cây bút (chắc chắn còn rất phiến diện như trên), chúng tôi hy vọng ít

- 66 -
nhiều vừa cho thấy sự kết tinh, những đỉnh cao trên nền chung dày dặn vững
chãi của phóng sự đồng thời cũng có thể khái lược được nét chung của cả
một đội ngũ và thành tựu chung của một thể loại văn học có ưu thế đặc biệt
trong một giai đoạn phát triển rực rỡ “hoàng kim” của nó. Có thể nói, bằng
sự xông xáo, nhập cuộc, với tài năng, bản lĩnh và nghệ thuật già dặn, các cây
bút phóng sự Việt Nam 1930 - 1945 đã sáng tạo được một di sản phóng sự
đồ sộ về dung lượng; đặc sắc, hấp dẫn về nội dung và nghệ thuật; có giá trị
hoàn thiện một thể loại văn học mới, độc đáo, góp phần quan trọng tạo nên
thành tựu chung của giai đoạn văn học này. Ở những chương sau, khi đi vào
khảo sát cụ thể phóng sự của ba cây bút đặc sắc: Tam Lang, Ngô Tất Tố, Vũ
Trọng Phụng, chúng tôi cũng sẽ cố gắng làm nổi bật được những vấn đề
chung của phóng sự giai đoạn này.

Tiểu kết chƣơng 1

Để có cơ sở triển khai hai chương hai và ba của luận án, ở chương 1


luận án đi sâu khảo sát trước hết quan niệm về thể loại phóng sự. Khởi từ
một thể loại báo chí chú trọng chức năng tường thuật, thông tin, phóng sự đã
phát triển và hoàn thiện thành một thể loại riêng. Sự hình thành và phát triển
của phóng sự gắn liền với sự phát triển của báo chí; với nhu cầu tiếp nhận
những thông tin độc đáo, lý thú và xác thực của công chúng; với việc hình
thành một kiểu người viết mới dũng cảm, tâm huyết, đào sâu, “lộn trái” và
phản ánh chân xác hiện thực…Trên cơ sở khảo sát quan niệm của các nhà
văn, nhà nghiên cứu trong và ngoài nước, luận án đã đúc rút những đặc
trưng cơ bản của phóng sự: Tôn trọng tính thông tin - thời sự - xác thực; chú
trọng khai thác những vấn đề nóng bỏng, những sự kiện biến cố điển hình
của hiện thực, thông tin, trình bày nó “một cách độc lập và có nghệ thuật”, từ
đó có thể góp phần định hướng cho công chúng, giải quyết những vấn đề cấp
thiết của đời sống. Với tư cách nhân chứng khách quan và người nhập cuộc,

- 67 -
cái tôi chủ thể được thể hiện như một phần đối tượng khách quan của phóng
sự. Dầu ít nhiều trong cách quan niệm còn có sự khác biệt: coi phóng sự chỉ
là một thể loại báo chí hoặc là một thể loại văn học thuộc thể ký, hay các thể
thể loại văn xuôi nói chung, nhưng các ý kiến đều thống nhất cho rằng
phóng sự là “cầu nối”, là đường “ranh giới” nối liền giữa văn học và báo chí.

Từ những đặc trưng chung về thể loại, trong những điều kiện chính trị,
xã hội, văn hóa Việt Nam đầu thế kỷ XX: Những mâu thuẫn xã hội đã lên
đến đỉnh điểm; làn sóng Âu hóa xâm lấn ngày một mạnh, gây nên những xáo
trộn, xung đột gay gắt về lối sống, đạo đức, luân lý, thuần phong mỹ tục; sự
hình thành một kiểu nhà văn mới và một lớp công chúng mới; đặc biệt sự
phát triển nhanh chóng của báo chí “cái nôi của phóng sự”…phóng sự Việt
Nam đã hình thành, phát triển và đạt được những thành tựu rất đáng trân
trọng, tạo nên sự thăng hoa của thể loại. Trên nền phóng sự dày dặn, vững
chãi đó đã kết tinh những đỉnh cao, những phong cách lớn như Tam Lang,
Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Trọng Lang (Trần Tán Cửu), Nguyễn Đình
Lạp, Thạch Lam, Vũ Bằng, Nguyễn Tuân, Hoàng Đạo Lan Khai, Lê Văn
Hiến… và đó cũng chính là điểm đặc sắc của phóng sự Việt Nam giai đoạn
1930 - 1945.

- 68 -
CHƢƠNG 2: ĐỐI TƢỢNG THẨM MỸ CỦA PHÓNG SỰ
TAM LANG, VŨ TRỌNG PHỤNG, NGÔ TẤT TỐ

2.1. Phóng sự trong quan niệm của ba cây bút Vũ Trọng Phụng, Tam
Lang, Ngô Tất Tố:
Một trong những nguyên nhân cơ bản tạo nên thành tựu rực rỡ của
phóng sự giai đoạn này là chủ thể sáng tác - những cây bút giàu tài năng, bản
lĩnh, tâm huyết và năng động, với một quan niệm sâu sắc, tiến bộ về sứ
mệnh của người cầm bút. Vũ Trọng Phụng, Tam Lang, Ngô Tất Tố là ba
trong số những cây bút phóng sự xuất sắc của giai đoạn này. Đồng tình, chia
sẻ với quan niệm của V. Hugo: “Không thể làm một cuộc cách mạng với thứ
văn chương ba láp” (dẫn theo Tam Lang), từ nỗi “bức xúc” muốn phát huy
sức mạnh của “Cây bút tả chân”, “đem nghệ thuật phụng sự dân sinh” (Tam
Lang), các nhà văn này đã có ý thức rõ ràng về sứ mệnh cao cả của ngòi bút.
Vũ Trọng Phụng sinh trưởng trong một gia đình nghèo khó, nói như
Ngô Tất Tố là cái “nghèo gia truyền”. Trong cuộc mưu sinh, ông sớm phải
vật lộn với cuộc sống “khốn nạn”, phải chứng kiến và hiểu đến đáy cùng
thực trạng xã hội “khốn nạn”, “rặt những cái giả dối, những cái bẩn thỉu”,
“chỗ nào cũng đầy mưu cơ, xu nịnh, lừa đảo”, “chỗ nào cũng có tội ác và
trụy lạc”… Những cảnh đời ô trọc, đầy những “cái vết thương sâu quảng” “ô
uế, xấu xa” đó của xã hội đã khiến Vũ Trọng Phụng “ghê tởm” và hun đúc
trong ông một “niềm căm uất không nguôi”. Bởi thế, Vũ Trọng Phụng đã
đến với văn chương bằng một quan niệm rạch ròi: Kiên quyết chống lại thứ
văn chương “điêu trá”, không né tránh mà nhìn thẳng vào sự thật, vào những
“ung nhọt” của cuộc đời, “cố gắng nhìn vào nỗi đau” của con người, “nhìn
vào cái tâm địa của loài người”, thẳng thắn phơi bày sự thật. Tranh luận với
những văn phái cùng thời, Vũ Trọng Phụng đã kiên quyết bác lại quan điểm
của văn phái lãng mạn đương thời, dõng dạc tuyên bố quan điểm, động cơ và

- 69 -
mục đích lối viết tả chân mà ông kiên trì thực thi trong sáng tác: “Tả thực cái
xã hội khốn nạn, công kích cái xa hoa dâm đãng của bọn người có nhiều
tiền, kêu ca những sự thống khổ của dân nghèo bị bóc lột, bị áp chế, bị
cưỡng bức, muốn cho xã hội công bình hơn nữa, đừng có những chuyện ô
uế, dâm đãng mà bảo là nhỏ nhen, thì há dễ Zola, Hugo, Marbraux,
Dostoievsky, Maxim Goorki, lại cũng không là nhỏ nhen?”. Nhà văn đanh
thép khẳng định quan niệm văn chương của mình: “Các ông muốn tiểu
thuyết là tiểu thuyết. Tôi và các nhà văn cùng chí hướng như tôi, muốn tiểu
thuyết là sự thực ở đời…Các ông muốn theo thuyết tây thời, chỉ nói cái gì
thiên hạ thích nghe, nhất là sự giả dối. Chúng tôi chỉ muốn nói cái gì đúng
sự thật”. Nhưng không chỉ là phơi bày sự thật, văn chương, trong quan niệm
của Vũ Trọng Phụng, còn phải hướng tới cái đích cao quý, cải tạo xã hội -
tìm tới những phương thuốc hữu hiệu để chữa trị những “ung nhọt” cho
những vết thương xã hội “hàn miệng, lên da”. Vũ Trọng Phụng khẳng định:
“Tôi đã mang lấy nghiệp văn chương và càng trưởng thành tôi càng thấy
trong xã hội nhiều nỗi đau dằn vặt con người trong thể xác và trong tâm hồn.
Cái hố sâu ngăn cách người giàu và người nghèo ngày càng rộng và sâu…
Văn chương sẽ là một phương tiện tranh đấu của những người cầm bút muốn
loại khỏi xã hội con người những bất công, nhen lên trong lòng người nỗi
xót thương đối với kẻ bị chà đạp lên nhân phẩm, kẻ yếu, kẻ bị đày đọa vào
ngu tối, bị bóc lột, mỗi ngày kiếm ra đủ bữa ăn tối để nhịn vào sáng hôm
sau. Tôi sẽ cố gắng nhìn vào nỗi đau khổ của xã hội, may ra tìm được những
phương thuốc cho những cái ung nhọt đó có thể hàn miệng, lên da”. Quan
niệm văn chương tiến bộ đó của Vũ Trọng Phụng đã hướng định sáng tác
của nhà văn, tạo nên một phẩm chất riêng, dấu ấn sâu đậm và những giá trị
nhân văn sâu sắc trong sáng tác của Vũ Trọng Phụng nói chung và thể loại
phóng sự nói riêng.
Sau tập phóng sự đầu tay Cạm bẫy người (1938), Vũ Trọng Phụng
liên tiếp cho xuất bản các tập phóng sự dài Kỹ nghệ lấy Tây (1934), Cơm

- 70 -
thầy cơm cô (1936), Lục xì (1937) và Một huyện ăn Tết (1936)…làm xôn
xao dư luận và nhanh chóng được khẳng định là cây bút phóng sự “sắc sảo
và khôn ngoan” (Vũ Ngọc Phan). Phần lớn phóng sự của Vũ Trọng Phụng
hướng nhập vào nguồn cảm hứng chủ đạo của phóng sự giai đoạn này: hiện
thực đời sống thành thị trong cơn sốt Âu hóa, theo cách nói của Vũ Trọng
Phụng là một “trận cuồng phong dữ dội”. Không “chớt chát”, phóng sự của
Vũ Trọng Phụng là những cuộc săn lùng ráo riết tận hang ổ của những tội ác
hoặc điều tra đến căn nguyên, gốc rễ, từ bên trong những tệ nạn, những thảm
trạng xã hội, “lộn trái” xã hội để tìm ra “mặt trái cuộc đời”.
Từ chỗ đứng của một nhà nho nghèo tiến bộ yêu nước, thương dân,
Ngô Tất Tố có ý thức sâu sắc dùng cây bút như một “mũi dao nhọn”, một
“khẩu súng”, để đả phá đến cùng bọn thực dân, phong kiến, bênh vực những
người dân nghèo đói, lầm lũi. Ông là “một nhà báo bút chiến: Bút chiến đối
với Ngô Tất Tố như cá với nước” (Nguyễn Đức Bính). Chính vì thế ngay từ
thời điểm ấy, Ngô Tất Tố đã đứng vững trên lập trường dân chủ, tiến bộ để
quyết liệt tố cáo phanh phui, để kết án, “chôn sống” kẻ thù và bênh vực cho
những người cùng khổ “dưới đáy” của xã hội - những người “muốn sống
không được sống, muốn chết không được chết” đang chìm ngập trong cảnh
đói khát đến tuyệt vọng “vì bóc lột, vì thiên tai, vì thất nghiệp” và vô vàn nỗi
đau khổ, hoạn nạn khác: nạn sưu cao, thuế nặng, nạn cho vay nặng lãi, nạn
“xôi thịt”, nạn đói, nạn rét và bao trùm là nạn quan lại thực dân “bóp hầu,
bóp cổ, nạo đến xương tủy họ”. Hơn ở đâu hết, phóng sự của Ngô Tất Tố đã
thể hiện sâu đậm quan niệm tiến bộ của một nhà văn, nhà báo đầy bản lĩnh,
tâm huyết và đầy tài năng.
Cầm bút vào thời xã hội nhiễu nhương, “trào lưu văn chương lãng
mạn như tiểu thuyết Tuyết Hồng Lệ sử, Tố Tâm, truyện của Từ Trẩm Á gây
ủy mị nơi người đọc như kiểu thơ của Tương Phố”, Tam Lang nhận thức rõ:
“Nếu làm văn làm báo mà không cổ động bằng xã hội thì không làm tròn
bổn phận” [139; 16]. Bởi thế, Tam Lang “ôm ấp một hoài bão, một lý tưởng:

- 71 -
cải tạo xã hội với một cuộc cách mạng bằng giấy bút, đả phá mọi áp bức bất
công”; dùng văn chương, báo chí như “một lợi khí cải tạo xã hội có sức
mạnh vạn năng”. Theo ông, “Người làm báo muốn đạt được thiên chức của
mình trước hết phải biết nói sự thật, dám nói sự thật”. Chính khát vọng nói
được sự thực ấy đã thúc đẩy Tam Lang “tìm cách chung sống với giới phu
xe, phu đồn điền, phu hầm mỏ, giới thiếu nhi phạm pháp, giới hành khất
màn trời chiếu đất, biến những điều mắt thấy tai nghe thành phóng sự dài,
phóng sự ngắn, để phô bày ra cái chân diện mục của xã hội một cách tuyệt
đối khách quan”. Không chỉ thế, trong quan niệm của Tam Lang, người cầm
bút “còn phải có con mắt tinh luyện biết nhìn góc cạnh của mỗi việc để nhặt
tin, viết tin và loan tin…còn phải có cái mũi đánh hơi tìm việc”. Ông dõng
dạc: “Vì không muốn mình còn là một người viết báo lỗi thời, tôi đã thay đổi
hẳn cả ngòi bút, lẫn bình mực…dứt khoát bỏ hẳn lối văn lãng mạn, ghi chép
những điều tai nghe mắt thấy bằng lối văn tả chân”. Đồng thời để những
phóng sự của mình đủ sức hấp dẫn và phát huy hiệu quả nghệ thuật trong
công chúng, Tam Lang ý thức đầy đủ, người cầm bút phải dày công lao động
hết mình “không một người nào say mê làm báo mà không biết viết văn.
Viết văn rồi mà vẫn luyện văn cho câu văn ngày càng hay thêm, ý văn ngày
càng đạt thêm theo tinh thần cầu tiến”. Những quan niệm của Tam Lang
thực sự là những bài học giàu ý nghĩa. Đó là cơ sở để Tam Lang có được
những đóng góp rất đáng trân trọng với tư cách người mở đường mạnh bạo
và bản lĩnh, có trách nhiệm với ngòi bút của mình.
Chính những quan niệm tiến bộ này đã chi phối, để lại dấu ấn trên
những tập phóng sự đặc sắc có sức sống lâu bền của các ông mà Luận án sẽ
đi sâu khảo sát.
2.2. Phóng sự phanh phui những “ung nhọt” của xã hội
2.2.1. Phơi bày những tệ nạn xã hội
Nạn khủng hoảng kinh tế 1923-1933 đã khiến xã hội Việt Nam phân
hóa một cách trầm trọng: Các nhà buôn lớn phá sản dẫn đến thất nghiệp của

- 72 -
thợ thuyền, công chức; nông thôn xơ xác, đói nghèo tiêu điều vì chế độ bóc
lột tàn tệ của địa chủ, phong kiến, ngày càng có nhiều người đổ ra thành phố
xung vào và làm đông đúc thêm đội quân thất nghiệp. Chính từ đói nghèo, từ
nạn thất nghiệp, đã sản sinh ra vô vàn tệ nạn xã hội. Phóng sự của Tam
Lang, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố đã khơi đến tận cùng những tệ nạn
“gớm guốc” tràn lan như nấm đó trong lòng xã hội đương thời.
* Nạn mại dâm…
Mại dâm là căn bệnh nguy hiểm, nhưng lại “cần thiết” cho xã hội.
Đây cũng là một trong những vấn đề nhức nhối mà các cây bút phóng sự,
đặc biệt Tam Lang và Vũ Trọng Phụng tập trung phản ánh. Từ kết quả điều
tra công phu của tác giả ở một làng me Tây “mọc” lên bên cạnh trại Lính lê
dương ở Thị Cầu, Bắc Ninh, Vũ Trọng Phụng hoàn thành tập phóng sự Kỹ
nghệ lấy Tây. Qua tập phóng sự đặc sắc này, có thể thấy việc lấy Tây thực sự
là một “nghề”, một “kỹ nghệ” - sản phẩm của chủ nghĩa thực dân ở Việt
Nam. Thực chất đó chỉ là những cuộc “hôn nhân” thực dụng: “người vợ chỉ
coi chồng là cái tủ bạc”, còn chồng ngược lại, lấy vợ cũng chỉ vì một tính
toán thực dụng “nuôi đầy tớ họ sợ nó ăn cắp, thà lấy một người vợ để vừa sai
bảo, vừa được…việc khác nữa”, cốt cho qua thời gian đăng lính ở Việt Nam.
Hôn nhân do vậy chỉ là những cuộc chung đụng theo “hợp đồng”. Bởi thế,
mỗi me thường lấy nhiều chồng và ngược lại chồng cũng thay vợ như thay
áo. Vũ Trọng Phụng chua chát vạch rõ thực chất việc lấy Tây chỉ là một
“nghề”, một thứ mại dâm mạt hạng: làm “điếm” kiêm đầy tớ cho một bọn
lính viễn chinh dâm ô, hung dữ và thô lỗ. Nhưng là “nghề” mà lại là “nghề”
có “truyền thống” nên cũng phải có những “ngón nghề” và sự cạnh tranh
nghiệt ngã với đủ cả “dèm pha”, “phá giá” lừa đảo “hớt tay” nhau; cũng phải
chịu sự chi phối nghiệt ngã của luật “cung cầu” của cái thị trường quái gở.
Đằng sau cái “kỹ nghệ lấy Tây” là bao nhiêu hậu quả tai hại: sự suy thoái về

- 73 -
phong hóa, đạo đức, nhân phẩm; sự cạn kiệt về nhân tính, là số phận bi đát
của những cuộc “cẩu hợp”, “một khi mà người đàn bà chỉ nghĩ đến tiền,
người đàn ông chỉ nghĩ đến nhục dục” và biết bao số phận đắng cay, lỡ dở,
tủi nhục ê chề thậm chí không lối thoát của những người đàn bà khốn khổ -
hiện thân cho những nỗi bi thương của người dân nô lệ một thời. Kỹ nghệ
lấy Tây do vậy ẩn chứa một giá trị hiện thực, giá trị nhân văn sâu sắc.
Nếu Kỹ nghệ lấy Tây đề cập tới nạn mại dâm trá hình dưới hình thức
những cuộc “hôn nhân” thì Lục xì trực tiếp mổ xẻ nạn mại dâm - một tệ nạn
nghiêm trọng của xã hội đương thời. Tác giả đã đưa ra những con số nhức
nhối phản ánh thực trạng mại dâm ở đất Hà thành “nghìn năm văn vật” thời
ấy: Năm nghìn gái mại dâm chính thức, “cứ ba mươi lăm người tử tế thì lại
có một người làm đĩ ”. Và hệ quả tất yếu là những hậu quả khủng khiếp của
nạn mại dâm đối với xã hội: 47% binh lính Pháp ở Bắc Kỳ mắc bệnh hoa
liễu; 70% người bị mù, chột của dân Nam là do vi trùng lậu mà ra; 1/4 trẻ sơ
sinh chết yểu là do bố mẹ có nọc bệnh giang mai hoặc những biến chứng của
bệnh ấy. Quả là những điều mà phàm người nào quan tâm đến xã hội, lo sợ
cho giống nòi đều cũng phải biết” và không khỏi rùng mình. Không dừng lại
ở hiện trạng, tác giả đã đi sâu truy tìm “nguyên nhân đã làm lung lay cả một
nền luân lý và làm cho bệnh hoa liễu càng truyền nhiễm mạnh” và cảnh tỉnh,
báo động “nạn mại dâm nó hại cả giống nòi…phải cứu chữa trước hết”.
Nhưng điều trớ trêu là trong thực tế, đó lại là căn bệnh không thể cứu chữa
và giá như có thể cứu chữa được thì các nhà cầm quyền cũng không dám
cứu chữa triệt để. Tại sao lại như vậy? Vũ Trọng Phụng tìm lời giải cho câu
hỏi bằng cách đi sâu phân tích bản chất xã hội của căn bệnh “kỳ lạ” này.
Ông đã vạch rõ đó là “một nạn bất hủ, không tránh không được”, nhưng lại
“cũng là một sự không có không được”. Tuy “nó là một vết thương rất đáng
ghê tởm của nhân loại”, song “không có nó thì nhân loại sẽ không đứng
vững và mất thế quân bình”. Rút dây sẽ động rừng. Chỉ nói riêng ở Hà thành

- 74 -
thời ấy, nếu xóa bỏ được nạn mại dâm thì theo tác giả, “chín trăm binh lính
không có vợ, không theo nổi lý thuyết nhịn nhục, tiết chế dâm dục sẽ bất
bình. Các mụ Tú bà tân thời cùng các chị em nhà thổ sẽ thất nghiệp, ba mươi
bảy ông chủ săm và hơn một trăm bồi săm sẽ thất nghiệp, sáu trăm mười ba
ông chủ tiệm thuốc phiện chính thức hoặc không có môn bài sẽ tự tử, năm
nghìn gái đĩ lậu thuế sẽ làm loạn cả Kinh đô; quỹ của thành phố sẽ hao hụt
1388$86 hàng năm; các đạo binh thất nghiệp gồm bồi săm, ma cô, phu xe
đêm sẽ ghê gớm vô cùng, sẽ gây ra những vụ cướp bóc, trộm cắp đáng sợ vô
cùng…”. Trừ cho hết nghề mại dâm, do vậy “sẽ là một sự nguy hiểm” cho
xã hội. Đó là lý do khiến người ta cứ phải duy trì cái “sự hại cần thiết” này,
không “giải phóng nghề mại dâm mà cũng không thắt buộc”, chỉ đối phó qua
loa, làm “cho phải phép” đối với một tai họa khủng khiếp như vậy. Thực ra,
đây là đề tài được nhiều cây bút đương thời đề cập, nhưng có thể nói, chưa
có cây bút nào có được cách nhìn nhận vấn đề sâu sắc, có được cách lý giải
vấn đề thấu đáo, có được sự phân tích, đánh giá xác đáng về nạn mại dâm
như Vũ Trọng Phụng ở Lục xì. Tác phẩm do vậy, “xứng đáng là một phóng
sự có giá trị khoa học lớn trong lịch sử văn học của ta…một mẫu mực về
văn chương phục vụ xã hội và khoa học”.
Đêm sông Hương của Tam Lang thêm một nốt nhấn đầy ám ảnh về
căn bệnh mại dâm nguy hiểm của xã hội đương thời. Để viết được thiên
phóng sự này, Tam Lang đã cất công vào Huế, tìm biết cuộc sống của những
gái ăn sương, cùng những nỗi khổ cực nhọc nhằn của những cô gái Huế
nghèo làm cái nghề bị xã hội khinh bỉ. Lệ Th. (Đêm sông Hương) - một cô
gái con nhà quan lại nhưng vì hoàn cảnh gia đình đã phải “đi khách” từ năm
mới 15 tuổi, phải phục vụ khách trên những chuyến “thuyền hoa” - những
nhà săm trá hình bồng bềnh trên mặt nước sông Hương. Với Ông “Mần lục
lộ”, Tam Lang lại phơi bày một sự thật đau lòng về nghề “điếm lậu” tràn lan
ở Huế. Để che mắt, những cô gái khốn khổ làm nghề mại dâm ở Huế thường

- 75 -
phải có hai nghề: nghề ngỏ (ban ngày bán hàng rong, quà vặt) và nghề “ăn
sương” mỗi khi màn đêm buông xuống. Nghề mại dâm ở Huế cũng thật
“thiên hình vạn trạng”. Có khi cuộc “mua bán” được che đậy dưới cái vỏ
phong lưư, đài các, vừa trần tục vừa thơ mộng. Lầu xanh kín đáo, xa hoa,
khách làng chơi tới lui cũng là những bậc vương tôn công tử. Chìm đắm
trong cảnh thiếu nữ với cây đàn Tàu trên vách, gảy một bản đàn, khách chơi
“như người bị ru vào cảnh mộng, một đêm chung mộng với hoa” (Tại vườn
Tĩnh Tâm một tối). Nhưng đa phần là những cuộc chơi sòng phẳng, nhiều
khi đến trắng trợn, bỉ ổi của khách làng chơi đủ hạng với những cô gái điếm
hạ lưu tàn tạ, diễn ra ở những nhà săm rẻ tiền, nhớp nhúa và u ám đến hãi
hùng.
Sau những điều tra sát sao, Tam Lang đã phát hiện, cùng với phần
đông cô gái phải dấn thân vào nghề mại dâm vì cuộc mưu sinh, vì miếng
cơm manh áo, còn có những người đàn bà giàu có, hư hỏng sa chân vào
chốn bùn nhơ nhớp đó. Đến như Mệ X., một mệnh phụ phu nhân “mặt sức,
miệng xinh, quần áo sang trọng như một bà hoàng”, vẻ đài các toát ra trong
từng cử chỉ điệu bộ, cũng có lúc thậm thụt, to nhỏ với tên cò mồi dẫn khách,
đi bán thân để lấy tiền gỡ nợ thua bạc (Mệ X.). Không chỉ phơi bày đến tận
cùng cái nhơ nhớp, thê thảm của mại dâm ở Huế, Tam Lang đã chỉ ra rằng,
đó đã là căn bệnh phổ biến, nhức nhối của cả xã hội. Dường như, bên cạnh
cuộc sống đói nghèo, vất vả lam lũ nhưng lương thiện còn có một cuộc sống
khác với những mặt trái dơ dáy của nó, đang làm băng hoại những giá trị
đạo đức, tinh thần của một đất nước, một dân tộc mà người cầm bút, cần có
bản lĩnh phanh phui, lật tẩy đến đáy cùng.
Không có những phóng sự chuyên tập điều tra trực tiếp về tệ nạn
“quái quỷ” này, nhưng trong một số phóng sự, đặc biệt khi đề cập đến sự
xuống cấp của văn hóa, đạo lý, phong tục về bọn “lang băm” “dao cầu
thuyền tán” ăn theo những tệ nạn này, Ngô Tất Tố đã sắc sảo lý giải căn

- 76 -
nguyên, đồng thời cảnh báo những hiểm họa cho cả một giống nòi trước nạn
dịch nguy hại đó. Tình trạng “bệnh tim la” ngày một “thịnh vượng” đến nỗi
thanh niên ở thành thị “ít người thoát khỏi cái bệnh quái gở ấy”. Có người
mắc đi mắc lại đến năm bảy lần mà vẫn không chừa. Trong các gia đình vợ
chồng còn trẻ…nhiều đứa trẻ con vì cái di độc của hoa liễu mà chốc lở, gầy
còm, xanh xao, sống một vài tuổi thì chết, thật là tội nghiệp”. Nhà văn cảnh
báo: “Trong máu An Nam vi trùng hoa liễu lẫn vào đã nhiều”, vì thế “Chỉ độ
năm chục năm nữa, nó sẽ làm cho nòi giống của mình điêu linh dần dần,
không khéo một ngày kia sẽ đến tiêu diệt”. Từ chỗ phải lo sợ phải đối phó
với nạn nhân mãn, dân tộc Việt Nam sẽ phải đối mặt với nạn diệt vong…và
đó, thực sự là “tai vạ của văn minh vật chất”. Có thể nói, phóng sự của Vũ
Trọng Phụng, Tam Lang, Ngô Tất Tố đã dựng lên cả một xã hội nhớp nhúa,
nhày nhụa với đủ thứ “dơ dáy” ở cái buổi “mưa Âu gió Mỹ ” đó.
* Nạn quan tham, bóc lột tàn tệ, nạo vét đến xương tủy người dân
nghèo cũng là một vấn nạn nhức nhối của xã hội thực dân phong kiến Việt
Nam.
Với Một huyện ăn Tết, Vũ Trọng Phụng đã tập trung phản ánh những
mảng hiện thực nhức nhối ở nông thôn - nạn tham nhũng. Viết về Một huyện
ăn Tết nhưng tác giả chú mục lật tẩy cả một hệ thống, một bộ máy tham
nhũng, “ăn tiền” ở thôn quê. Cứ vào dịp Tết, quan huyện lại ký “giấy phép”
cho lính đi “tuần tra”. Đội quân “ăn cướp có giấy phép” này tổ chức nhiều
đợt về sục sạo khắp các làng xã, buộc đám chức sắc địa phương phải hối lộ
cho chúng. Sống “ký sinh” “ăn theo” với đội quân và guồng máy tham
nhũng này là đám thày nho lỡ thời chuyên sống bằng nghề thảo đơn từ cũng
nhân dịp về các địa phương để “tống tiền” trắng trợn, bất nhân với những
đối tượng cần nhờ vả viết đơn…Từ hai mươi Tết, đám lính cơ đã “sôi lên
sùng sục” “đi ăn cướp có giấy phép”. Hai mươi ba Tết, các thầy nho đi thăm
cuối năm nhưng thực chất là những cuộc “tống tiền”. Hai sáu Tết, cai lệ

- 77 -
được phép đi tuần “sướng rú lên”. Cái cách “xoay tiền”, “tống tiền” hàng
năm cứ lặp lại diễn ra như bất biến, như một căn bệnh “kinh niên” vô
phương cứu chữa của xã hội. Số tiền “cướp” được sẽ chia theo tỷ lệ đã định:
một nửa nộp lên ông quản cơ để “biếu các quan trên, cụ Bố, cụ Thượng, ông
Đồn”. Số còn lại trích biếu ông cụ lục sự, rồi chia nhau. Ở đây, Vũ Trọng
Phụng đã sắc sảo khám phá ra cả một bộ máy hành chính tham nhũng từ
dưới lên trên. Tham nhũng đã thành bản chất, đã là quy luật không thể tránh
được của cơ chế xã hội thuộc địa. Ông mỉa mai, chua chát: “Thì ra cách tổ
chức xã hội kim thời….đã là chu đáo đến tột bậc. Xã hội thì như một bộ máy
tinh tế mà cá nhân là những bánh xe, nếu một cái quay thì bao nhiêu cái khác
cũng phải quay theo…chẳng một ai lại có thể đứng ra ngoài công lệ; cá lớn
nuốt cá bé, vì cái phận sự nộp của đút, hoạt động từ dưới lên trên”. Với Một
huyện ăn Tết, Vũ Trọng Phụng càng chứng tỏ tinh thần nhập cuộc và tấm
lòng ưu ái, đầy day dứt với số phận của người dân nghèo và sự sắc sảo mổ
xẻ những “ung nhọt” của xã hội.
* Nạn lừa đảo bịp bợm
Giữa lòng xã hội nhố nhăng, lộn xộn, nhiễu nhương những năm đầu
thế kỷ XX, cùng với những tệ nạn “nhớp nhúa” trên, các cây bút phóng sự
còn tập trung lật tẩy bộ mặt thật của bọn cờ gian bạc bịp, bọn “dây máu ăn
phần” hoặc “lợi dụng “đục nước béo cò” kiếm ăn vô lương, làm giàu vô lối
trên nỗi khốn khó của dân lành, trong đó có bọn “dao cầu thuyền tán”. Nếu
như Trọng Lang, trong phóng sự Thầy lang đã vạch trần chân tướng bọn
Thầy lang dốt nát bịp bợm, tài đức đã “rơi vãi hết”, chỉ giỏi ngón lừa đảo,
bịp bợm, thì trong Dao cầu thuyền tán, Ngô Tất Tố lại một lần nữa bóc mẽ
bộ mặt bọn lang băm - những thánh sư nghề lừa gạt chuyên sống và làm giàu
bằng những mưu chước lừa đảo bẩn thỉu, bất lương. Những nạn nhân tội
nghiệp như Anh Xuân “từng trải năm sáu ông lang, tống vào bụng bao nhiêu

- 78 -
thứ thuốc” mà kết cục vẫn phải “bỏ cha, bỏ mẹ mà đi” một cách oan uổng,
chỉ vì xã hội nhan nhản những ông “cứu thế độ dân” dởm. Họ “chỉ cầu có
người ốm để bán thuốc chứ họ không cần chữa bệnh”. Họ “có tài làm cho
bệnh lớn ra”. Trong thời buổi khủng hoảng kinh tế, buôn bán nghề gì cũng bị
thua lỗ, nhưng những “thầy lang” này vẫn phát đạt, vẫn “tấy” lên một cách
không ngờ. “Một kẻ kiết xác đóng vai ông lang trong vài năm đã thấy họ có
tiền mua nhà, mua đất, tậu ô tô, dấn vốn có hàng nghìn vạn”. Bí quyết của sự
“phát đạt” là do “họ dùng toàn ngón “bịp”, “bịp bằng quảng cáo nói một
cách vô liêm sỉ, bịp bằng cửa hàng đồ sộ, bịp bằng lọ thuốc chế theo kiểu
Tây, bịp bằng lời nói khôn khéo quyến rũ người bệnh”. Ngô Tất Tố chua
chát bình luận: “Mỗi lần họ bịp, ấy là một người chết”. Hiệp sức gây tội ác
với bọn lang băm là bọn buôn bán thuốc với vô vàn mánh khóe bịp bợm.
Hiệu thuốc “Ông trăng” (Dao cầu thuyền tán) “không biết thẹn” với các
ngón lừa: từ quảng cáo láo, đến chữa bệnh khoán…và trơ tráo tuyên bố, chỉ
cần “Mỗi người phải lừa một lần” là họ đã đủ giàu rồi. Ngón bịp của Thầy
lang con thỏ đực còn “cao tay” hơn “bịp bằng hoành phi câu đối chói lọi trong
nhà; bịp bằng lời nói mềm mỏng ngọt ngào như mẹ dầu dỗ khách; bịp bằng
mánh khóe quan nọ quan kia uống thuốc của mình mà khỏi bệnh; bịp bằng lối
dùng thuốc không thưởng, không phạt; bịp bằng phép bán những vị trọng cho
con bệnh hoặc bắt con bệnh phải uống những tễ thuốc ba bốn chục đồng”.
Kết cục là “chung quanh lưỡi dao cầu thuyền tán” của những kẻ bịp
bợm ấy “đống xương vô tội đã cao bằng đầu”. Một khi xã hội “phát” về
những tệ nạn, nạn mãi dâm, nạn hoa liễu “đương ở thời kỳ bành trướng”,
“thịnh vượng”, thì bọn lang băm, đặc biệt các thầy lang chữa bệnh hoa liễu,
bệnh “hạ bộ” “phát đạt” là điều tất nhiên. Thực ra, “không phải thần thánh gì
đâu, họ toàn là hạng vô học thức và vô giáo dục…không biết nghề thuốc là
gì”, chỉ “nhờ về những lời quảng cáo vô liêm sỉ mà lừa thiên hạ”. Bởi vì
“trong hai nhăm triệu con rồng, cháu tiên, mỗi người bị lừa một bận thì họ

- 79 -
giàu sụ”. Mà ở cái thời thực dân phong kiến bị bưng bít ấy, các “con rồng
cháu tiên” “trình độ còn thấp quá”, chưa lừa họ đã bị mắc lừa.
Cạm bẫy người của Vũ Trọng Phụng phản ánh một mặt trái dơ dáy
của xã hội - nạn cờ bạc bịp. Ở đây, Vũ Trọng Phụng không chú tâm thuật lại,
mô tả lại những cảnh sát phạt trên các chiếu bạc mà sắc sảo vạch rõ hoạt
động cờ bạc bịp là một “nghề”, một “kỹ nghệ” - con đẻ của một xã hội lừa
bịp. Nó có hẳn một tổ chức, một “cơ chế hoạt động” dưới sự chỉ đạo của
những tên trùm bịp sừng sỏ như Ấm B. Nó có cả một “bộ máy hoạt động
chạy việc với hàng loạt đồ đệ đàn em từ những kẻ thừa hành, những tay trùm
du côn đến những kẻ chuyên dắt “mòng”, giữ két của làng bịp”. Dưới sự chỉ
đạo của “Bộ tham mưu”, bộ máy cờ bạc bịp hoạt động hối hả: phái binh đi,
rút binh về, “điều binh khiển tướng từ xa”. Chúng còn có cả “xưởng chế tạo
khí giới” chuyên nghiên cứu, sản xuất những “khí giới” thiện nghệ trăm trận
trăm thắng phục vụ cho kỹ nghệ bạc bịp. Dưới nhiều mánh khóe, vỏ bọc,
“cạm bẫy” bạc bịp giăng khắp nơi, ngày càng rộng. Với tài nghệ và kỹ nghệ
hoàn hảo, đánh bạc không còn là chuyện đỏ đen mà là thủ thuật của các đòn,
ngón, mánh bịp bợm…Ngòi bút tài tình của Vũ Trọng Phụng đã len lỏi vào
mọi ngõ ngách làng bạc bịp, phơi trần tất cả những ngón lừa lọc, bẩn thỉu với
những chuyện thương tâm, bỉ ổi hoặc nực cười của cái “nghề” bạc bịp. “Mỗi
sòng bạc là một bãi tha ma chôn người sống” (Nguyễn Công Hoan). Có thể
nói với việc khám phá một trong những thứ “cạm bẫy” nguy hiểm của xã hội,
Cạm bẫy người là tác phẩm có giá trị tố cáo, giá trị nhân văn sâu sắc.
2.2.2. Tình trạng bần cùng hóa, tha hóa con người và văn hóa

Đây cũng là một nội dung thẩm mỹ cơ bản thể hiện sâu đậm giá trị hiện
thực và giá trị nhân văn của phóng sự Tam Lang, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố.

- 80 -
* Con người điêu đứng trong những nỗi bần cùng khốn khổ:
Nằm trong dòng cảm hứng nghệ thuật chủ đạo của cả một giai đoạn
văn học (1930-1945), phóng sự của Tam Lang, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất
Tố đã thể hiện sâu đậm sự bi thảm, cùng cực của những con người nhỏ bé,
“dưới đáy”. Ngay từ những sáng tác đầu tay của Vũ Trọng Phụng người đọc
đã bị ám ảnh bởi hình ảnh “những cụ già” chống gậy bước đi, ném mình vào
khoảng tối”; bà lão mù lòa “bị gió thổi tung xuống ruộng”, “bị quạ mổ nát
nhừ”; những người mẹ “mặt bủng da chì, đầu tóc rũ rợi”; những đứa trẻ vừa
lọt lòng đã “còng lưng mà khóc, khóc ngằn ngặt hàng mấy giờ đồng hồ, lặng
cả tiếng đi mà hết hơi”; những đứa trẻ tàn phế “nổi, chìm, trôi, dạt, lênh đênh
như những cánh bèo mặt nước, như những mảng bọt giữa sông”; những ông
lão ăn mày “đầu hai thứ tóc, mắt kèm nhèm, quần áo rách như tổ đỉa “chết
thê thảm trong cơn đói rét”…Có thể nói, đó là cả một thế giới “khố rách áo
ôm” bị đè nén, bị ruồng rẫy, bị gạt đuổi, loại trừ ra khỏi xã hội. Càng ngày
và đặc biệt ở thể phóng sự, với ưu thế riêng của thể loại - Vũ Trọng Phụng
càng quyết liệt phanh phui những thủ đoạn bóc lột tàn tệ của bọn thực dân,
phong kiến, đẩy con người vào cảnh bần hàn, cơ cực. Nhìn từ phía cổng hậu
của Hà thành hoa lệ, Cơm thầy cơm cô đã phản ánh sâu sắc tình cảnh khốn
khổ của những người dân quê nghèo đói, bị “bật” ra khỏi mảnh đất chôn
nhau, cắt rốn của mình, lần hồi ra Hà Nội, chấp nhận một nghề nghiệp cực
nhục - đi ở - để kiếm sống. Đoàn người rách rưới, lam lũ ấy bị xua đuổi khỏi
quê hương bởi đủ thứ tai họa: nạn hạn hán, lụt lội, sưu cao, thuế nặng, nạn
quan lại cường hào bóc lột, hà hiếp và muôn vàn hủ tục nặng nề. Như những
con thiêu thân, họ lao về “ánh sáng của Kinh thành” mong tìm được ở chốn
ngỡ như “thiên đường” ấy một công việc có thể đắp đổi miếng cơm, manh
áo. Nhưng Hà thành hoa lệ vẫy gọi họ đến để ban ngày “ra ngồi bày hàng ở
những ngã ba, ngã bảy”, những chợ bán người, trông chờ vào sự chào hàng
của những mụ chủ thầu hết sức xảo quyệt mong được bán sức lao động rẻ
mạt của mình lấy vài xu và ban đêm lại “được nằm trong một xó sân ngửi
mùi nước cống, mùi cứt gà và cứt người, nhịn đói nằm co mà nhìn trời”.
Những kẻ may mắn hơn, tìm được việc làm cũng thật khốn khổ, điêu đứng
vì bị “ăn đói, làm no”, bị ngược đãi, đày đọa và chỉ được nhận đồng tiền

- 81 -
công rẻ mạt. Chết dở ở thôn quê, những người dân khốn khổ đó đã bỏ cửa,
bỏ nhà, tìm đến với Hà thành “để chết đói một lần thứ hai” nữa.
Nếu như Vũ Trọng Phụng thường viết về nỗi điêu đứng khốn khổ của
những người dân nghèo thành thị hoặc người nông dân bị bật khỏi quê
hương, bản quán, sống nhờ, sống gửi nơi “đô thành” thì Ngô Tất Tố tập
trung khơi sâu vào cuộc sống quằn quại không lối thoát của người dân quê
“sau lũy tre xanh”. Làm no hay cái ăn trong những ngày nước ngập là thảm
cảnh của người dân quê cùng lúc phải gánh chịu đủ thứ nạn từ nạn đói, nạn
bị bóc lột, bị bần cùng đến “đáy”, đến thiên tai, lụt lội….Giữa “cái vùng
nước mông mênh…bao nhiêu những nhà tranh vách đất chỉ còn trông thấy
những mái úp sập sè”, bên những đàn trâu “con đứng, con nằm”, thỉnh
thoảng lại “rống lên” vì “thèm cơm, đói cỏ”, là những con người khốn khổ:
“một người đàn ông, vóc rạc hom hem, đầu trọc tếu, ngồi thu hình trong
chiếc áo bành tô rách mướp”, là “mấy đứa trẻ lau nhau…” với những “bộ
mặt gầy còm hốc hác”, “những cặp mắt trõm, lờ đờ, đần độn”. Tất cả, đang
vô vọng, không hạt cơm, củ khoai, củ sắn, chỉ còn biết sống nhờ đất. Cơm
được chế từ đất, thức ăn được chế từ đất, đến cả “quà” cũng lại được chế từ
đất. Để đến được đoạn ăn đất những người dân khốn khổ ấy đã phải ăn từ
ngọn cau đến “xót lòng”, đến hạt nhãn chát xít, thậm chí ăn tranh với lũ ruồi
nhặng từng mảnh vỏ mít…Ngoại trừ những ngày Tết, quanh năm, họ phải lần
hồi, bới đất, lật cỏ, “sáng chế” những món ăn quái lạ để “đánh lừa cái dạ dày”.
Có thể nói, Làm no hay cái ăn trong những ngày nước ngập là thiên tuyệt bút
về nghệ thuật làm no hay nghệ thuật đánh lừa cái đói. Đó cũng là sự chia sẻ
đầy nhân ái Ngô Tất Tố dành cho những số phận hẩm hiu, “mờ xám” ở làng
quê và là lời tố cáo đanh thép đối với chính quyền thực dân phong kiến bóc
lột, nạo vét đến xương tủy, đẩy người nông dân đến đáy cùng của nghèo nàn,
tăm tối, bần cùng.
Với Tôi kéo xe, Tam Lang đã phản ánh đời sống cơ cực nhọc nhằn của
những người phu xe, những con “ngựa người”. Công việc nặng nhọc “chạy

- 82 -
suốt ngày, ăn không đủ. Tấm thân lại dầm mưa dãi nắng”, nhưng đồng công
lại vô cùng rẻ mạt. Khách đi xe nhiều kẻ bần tiện, keo kiệt từng xu nhưng lại
hách dịch, sẵn sàng “thượng cẳng chân hạ cẳng tay” đánh đập và chửi mắng
phu xe. Có người kéo từ trưa đến tối được bảy hào, trả thuế sáu hào, bảy xu
cơm, hai xu trọ, một chinh bát nước chè tươi, còn lại một chinh chưa kể
diêm thuốc. Vo véo làm cả ngày mà không đủ nuôi thân. Những người phu
thiếu thuế bị đánh đập tàn nhẫn. Có người chỉ bớt lại một hào trong túi quần,
bị cai xe khám được, đánh ộc cả máu mồm. Lao động vất vả, nhưng điều
kiện ăn uống sinh hoạt của họ vô cùng thiếu thốn. Nơi ăn uống vô cùng bẩn
thỉu, hôi thối; thức ăn toàn những cái đầu thừa đuôi thẹo “trứng ung, thịt ôi,
cá ươn, gà toi…chó ốm” thậm chí cả “những món khoai thừa họ đã bỏ vào
nồi nước gạo rồi” phu xe lại mò lên ăn. Thức ăn ấy, ăn với loại “cơm thổi
bằng những thứ gạo hẩm đã hết cả nhựa. Nước mắm thì là thứ nước hàng
pha với muối mặn ăn cho đỡ tốn”. Chỉ nhìn đã thấy “lợm lòng”. Tam Lang
đã xót xa chứng kiến “những giọt nước mắt khô như máu” của những kiếp
“ngựa người”. Ông cảm thông chia sẻ với “ngàn rưỡi người phu xe Hà Nội
khi đó chỉ vì bát gạo mà làm cái nghề kéo người: Bất cứ trời rét hay trời
nóng, đang mưa như trút nước hay đang nắng như hun trời, đút đầu qua hai
cái càng gỗ, anh em phu xe phải thúc tay, co vó, chạy bở hơi tai, mình mẩy
nhễ nhại mồ hôi, áo quần ướt như dúng nước”. Họ khó nhọc như thế chỉ để
kiếm “năm ba xu, một hào, một cuốc. Vừa đúng số tiền để mua ít cơm đút
miệng, cái thứ cơm thổi bằng gạo hẩm trộn với ít nước hàng”. Họ “Ăn để mà
sống…Nhưng sống nào đã được yên? Họ còn phải nghe những lời thô bỉ của
người ngồi xe chửi rõ vào lỗ tai, chịu những cái dùi khui của các ông cảnh sát,
những cái càng xe bắt ốc của Cai xe đánh đập vào mình…”. Tôi kéo xe với
cách viết cụ thể, chân thực, sinh động đã giúp người đọc cảm nhận sâu sắc về
tình trạng bị bần cùng hóa thê thảm của tầng lớp dân nghèo thành thị Việt
Nam những thập niên đầu thế kỷ XX.

- 83 -
Có thể nói, với ngòi bút tả chân sắc sảo, ba cây bút Vũ Trọng Phụng,
Tam Lang, Ngô Tất Tỗ đã hoàn thiện bộ phác thảo về chân dung “những người
khốn khổ” thuộc những giai tầng thấp hèn trong xã hội bị bần cùng hóa vì đủ lý
do “vì bóc lột, vì thiên tai, vì thất nghiệp, vì xã hội nhiễu nhương”.
* Sự tha hóa thê thảm của lớp người “dưới đáy”
Như một hệ quả tất yếu, đói nghèo, bần cùng tất sẽ dẫn đến tha hóa.
Đây là một đề tài các nhà văn hiện thực giai đoạn 1930 - 1945 đã khai thác
và khai thác thành công, để lại được những tác phẩm xuất sắc, có sức sống
bền lâu trong văn học sử dân tộc. Chí Phèo (trong tác phẩm cùng tên) của
Nam Cao phản ánh quá trình tha hóa thê thảm của người nông dân. Từ một
người lương thiện, chỉ mong được làm ăn lương thiện, đói nghèo đã biến Chí
Phèo thành một kẻ lưu manh “vào tù ra tội”, cũng biết rạch mặt, ăn vạ, cũng
biết chửi bới, la làng…rồi đỉnh điểm là “du côn”, xách vỏ chai vào nhà, đòi
“hỏi tội Bá Kiến”. Mất hết nhân cách, mất hết tính người, đến đáy cùng, Chí
Phèo dù muốn cũng đã hết đường trở lại làm người lương thiện. Những
người trí thức khốn khó như Hộ, Điền, như Thứ trong Sống mòn, Trăng sáng
của Nam Cao dần cũng bị tha hóa thê thảm trong cuộc sống bế tắc “chẳng
biết làm gì ngoài cái việc kiếm thức ăn đổ vào cái dạ dày”, mà cũng không
kiếm nổi. Cuộc sống eo xèo vì miếng cơm, manh áo ngày cứ một ghì họ sát
đất, khiến cuộc đời của họ cứ “mòn đi, gỉ ra”, giết chết dần khát vọng sống
của họ. Hàng loạt nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Công Hoan cũng chịu
chung số phận vật hóa, tha hóa dần nhân tính. Từ có hiếu đến bất hiếu, từ
trong sạch đến bẩn thỉu, từ thật thà đến giả dối, từ thủy chung đến phản
bội…đó là những sự tha hóa thường thấy trong xã hội đương thời. Chỉ vì
thói đố kỵ và lòng ham muốn ích kỷ, vì cái lý thuyết “vơ vào” một cách kỳ
quặc “không được lợi cái này, thì ai tội đếch gì mà hết lòng” mà bà Phán
(Tôi xin hết lòng) tìm cách bằng mọi giá chiếm đoạt mái tóc đẹp của cô bạn
gái tội nghiệp đang bị bệnh. Một thiếu nữ đầy nhân tình, nhưng với ai cũng

- 84 -
thề sống, thề chết là giữ trinh tiết với người ấy, để cuối cùng sinh ra một
giống “oẳn tà roằn”. Những ông Nghè Luật, bác sĩ, kỹ sư, ông tú văn
chương, ông huyện tư pháp, ông tham lục lộ, “bao năm du học” để “văn
minh”, thoát được tình cảnh “nước mình cái gì cũng hèn kém”, rốt cuộc lại
giở thói ti tiện móc ví của nhau (Cái ví ấy của ai). Những ông Phủ, bà Phủ
“cài độ”, “bắt nọn” đẩy nhau vào thế bí để thỏa mãn chuyện riêng tư (Ai
khôn, Đàn bà là giống yếu…). Đến những nhân vật tưởng như thật lương
thiện, đáng thương như “con ngựa người” trong bước đường cùng cũng buộc
phải tìm cách lừa con “người ngựa” kéo đi kiếm khách (Người ngựa và ngựa
người). Một thằng bé ăn mày không ai cho buộc phải leo lên cây, tự đánh
ngã mình, lừa là thương tật để được mọi người thương hại bố thí và có được
“cái vốn để sinh nhai” (Cái vốn để sinh nhai). Những đứa trẻ vốn hiền lành,
chỉ vì quá đói, chỉ vì một “bữa no” đã phải bất đắc dĩ liều mạng ăn cắp và trở
thành kẻ ăn cắp khốn nạn (Thằng ăn cắp, Bữa no…đòn). Được coi là “nhà
văn của những lớp người cùng khổ”, Nguyên Hồng đã viết bằng cả tấm lòng
yêu thương của mình với những con người “dưới đáy”. Không chỉ phản ánh
cái nghèo hèn, đói khổ của lớp người thuộc “thế giới cần lao dưới đáy của xã
hội thị thành”, trang viết của Nguyên Hồng đã tố cáo đến cùng xã hội đã làm
tha hóa con người. Sự lừa lọc đã đẩy Tám Bính từ cô gái ngây thơ, trong
sáng vào tình cảnh rùng rợn, đáng ghê sợ của một “bỉ vỏ” và một kết cục bi
thảm: “thoáng phút chốc Bính thấy hết cả mọi sự tuyệt vọng tối tăm từ nay
trở đi không lúc nào không xâu xé tâm can Bính và Bính sẽ sống một cuộc
đời khốn nạn dài vô cùng vô tận”.
Xã hội thực dân phong kiến đã tạo ra một môi trường xã hội phi nhân
tính xấu xa, tàn ác, bất công làm tha hóa trầm trọng con người. Trong Cơm
thầy cơm cô, Vũ Trọng Phụng đã sắc sảo chỉ ra thực trạng Hà Thành đầu thế
kỷ. Cái “Hà Thành không có sự tổ chức…”, những người lịch sự tưởng Hà
Thành lịch sự, mà các nhà xã hội học - cũng tưởng Hà Thành không có

- 85 -
chuyện “bi thương”. Nhưng “chính ra nó rất là bi thương”. “Nó đã cất tiếng
gọi dân quê bỏ những nơi đồng khô cỏ héo đến đây để chết đói một lần thứ
hai sau khi bỏ cửa bỏ nhà. Nó đã làm cho giá con người phải ngang hàng với
giá loài vật”. Cùng với những cây bút Nam Cao, Nguyên Hồng, Nguyễn
Công Hoan, Nguyễn Đình Lạp và các nhà văn hiện thực phê phán đương
thời, với tài năng, tấm lòng đau đớn và sự sắc sảo, qua phóng sự Tam Lang,
Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố đã cho thấy: hơn cả bóc lột, bần cùng hóa, quá
trình tha hóa và sự tha hóa làm biến chất con người - là tội ác, đáng ghê tởm
và đáng lên án nhất trong cái xã hội “chó đểu”, “vô nghĩa lý” đương thời.
Cuộc sống “Cơm thầy cơm cô” đã làm tha hóa, biến chất con người
ghê gớm. “Nó đã làm cho một bọn trẻ đực vào nhà hỏa lò với một bọn trẻ cái
làm nghề mại dâm”. Hàng loạt người dân quê vốn trước đó hiền lành, chất
phác chỉ biết lam làm chăm chỉ chịu thương chịu khó, đã trở thành lưu
manh, côn đồ “có những con sen được ông chủ quý hơn vợ. Có những thằng
nhỏ bỏ thuốc độc định giết cả nhà bà chủ. Có những anh bếp nhổ đờm vào
nồi cá kho. Có những thằng xe được ngủ giường Hồng Kông với bà chủ. Có
những quân đốt nhà của chủ”. Điển hình cho sự tha hóa này là cái Đũi (Cơm
thầy cơm cô). Vốn là cô gái quê mùa hiền lành, sau khi bị hãm hiếp, “sau khi
bị tai họa của chú Oẳn”, Đũi đã hận đời rồi trả thù đời “trở nên một ả thiện
nghệ trong việc khiêu dâm và mãi dâm” và luôn muốn thành cô đào, bà Ký,
bà Phán để được nhập giới thượng lưu. Trong Tôi kéo xe, Tam Lang cũng đã
tố cáo sự bất công và bất lương của xã hội thực dân, đẩy những người phu xe
tội nghiệp đến chỗ tha hóa thê thảm. Anh Tư - một phu xe nghèo khốn, vì
thiếu tiền đóng thuế xe, bị bọn cai xe đánh đập dã man. Sau trận đòn đó, anh
nhận thấy vây quanh anh là một xã hội “chó đểu”, tất cả chỉ vì đồng tiền
“ngoài đồng tiền không còn cái gì hơn. Nhân đức, lễ nghĩa…vứt đi, vứt đi
hết”. Anh dấn sâu vào con đường tha hóa “dúng tay” làm cả những việc

- 86 -
trước kia anh cho là “khốn nạn” và trở thành ma cô, dẫn gái cho chủ săm:
“Đêm, cầm cái tay xe đón mấy thằng mất dạy mà tán phiệu rồi dắt chúng nó
đi, thế là mình ăn cả vào lưng gái lẫn lưng chúng nó”. Và khi có tiền anh lao
vào trụy lạc, hút thuốc phiện, uống rượu rồi tự thỏa mãn. “Một đêm vớ được
hai đám là mình đã phè phưỡn, say sưa, rượu nốc hàng chai, phiện hút thả
cửa” [26; 57]. Nhưng, để “hành nghề” ma cô được, Tư cũng phải dùng đủ
mọi mánh khóe lừa lọc. “Không những phải láu, phải bịp; lại còn phải biết
nhiều sòng nhiều thổ - lại phải biết cách lừa giắt dụ dỗ nó đi. Đứa không
nghe, phải dọa nạt cho nó phải nghe; đứa khát kê (tiền) phải lấy chuyện kê ra
dữ nó” [26; 58]. Lại còn phải tùy loại gái mà có cách “dữ” hiệu quả: Phải
biết khấu bộp với loại gái hàng phố hư thân mất nết; thả ngón với loại gái
buôn thúng bán mẹt; phải thuốc loại con gái nhà quê…nghĩa là anh Tư đã trở
thành hạng “cáo già”, đã đến đáy cùng của sự tha hóa, bất lương.
Những “me Tây” trong Kỹ nghệ lấy Tây của Vũ Trọng Phụng cũng đã
bị cái nghề “quái quỷ” ấy tha hóa dần, trắng trợn biến thành món hàng trong
những hợp đồng đổi chác bẩn thỉu. Ở đó người đàn bà chỉ nghĩ đến tiền, họ
chỉ coi những ông chồng Tây như những cái “tủ bạc”. Người đàn ông, ngược
lại “chỉ nghĩ đến nhục dục”, lấy vợ cũng chỉ vì một tính toán thực dụng
“nuôi đầy tớ họ sợ nó ăn cắp, thà lấy một người vợ để vừa sai bảo, vừa
được…việc khác nữa”. Những cuộc hôn nhân - thực chất chỉ là những cuộc
chung đụng theo hợp đồng, chỉ là những cuộc “cẩu hợp”, do vậy, nó đã làm
tha hóa biến chất bao nhiêu con người tội nghiệp. Trong sự cạnh tranh nghiệt
ngã của cái “nghề” lấy Tây, mỗi người cũng phải dạn dĩ trong những thủ
đoạn, tàn nhẫn và bẩn thỉu, phải biết “dèm pha”, “phá giá”, “lừa đảo” “hớt
tay” nhau. Và do vậy, đằng sau cái Kỹ nghệ lấy Tây ấy không chỉ là sự suy
thoái về phong hóa mà còn là sự tha hóa về lương tâm, đạo đức nhân phẩm;
sự cạn kiệt về nhân tính của cả một lớp người khốn khổ. Bộ mặt trơ lỳ của

- 87 -
bà Kiểm Lâm trong đêm tân hôn là một minh chứng rùng rợn cho sự xuống
cấp đáng báo động về nhân phẩm “cái mặt thản nhiên đến nỗi tôi thấy nó cứ
trơ như đá, vững như đồng…cứ “gan lỳ tướng quân, như mặt Từ Hải lúc
chết đứng”, không hề mảy may biểu lộ “một chút cảm tưởng nào” [27; 722].
Lăn lộn trong nghề cờ bạc bịp, vì đồng tiền, các con bạc trong Cạm
bẫy người của Vũ Trọng Phụng cũng bị tha hóa tồi tệ. Ngòi bút tài tình của
Vũ Trọng Phụng đã len lỏi mọi ngõ ngách làng bạc bịp, phơi trần tất cả
những ngón lừa lọc, bẩn thỉu của cái “nghề” bạc bịp ấy. Nhà văn cũng đã đi
đến cùng và cho thấy một nghịch lý đau lòng: Càng sành sỏi trong “nghề”
bao nhiêu, thì nhân tình, nhân tính càng cạn kiệt bấy nhiêu, sự tha hóa của
con người càng trầm trọng bấy nhiêu. Mỉa mai, chua chát, Vũ Trọng Phụng
đã bóc trần sự táng tận lương tâm của những kẻ hành nghề bạc bịp. Để có
tiền chơi bời, trác táng, chúng không ngần ngại biến cả những người ruột thịt
của mình thành “mòng”, dắt bọn bịp về nhà “lột” cả bố đẻ, “thịt” cả chú
ruột; có kẻ “lột” cả áo bạn đem cầm lấy tiền gỡ bạc, “nướng” vào canh bạc
toàn bộ số tiền hàng xóm tang gia nhờ mua áo quan…Khủng khiếp hơn là sự
bất nhẫn của “tình đồng đạc” ngay trong làng bịp. Chính những kẻ bạc bịp
đã chua chát thấm thía “nghề bịp không phải là nghề đạo lý, mà làng bịp xử
với nhau cũng chẳng có tình nghĩa gì, có nhân nghĩa cũng chỉ là nhân nghĩa
của quân đạo tặc mà thôi”. Bởi thế, những cảnh hành xử: giở mặt với bạn
hữu, ăn chặn ăn bớt của nhau, bịp già bắt nạt bịp non, “thịt nhau”, đâm nhau
“lòi ruột”…đã là những cảnh “thường tình” như cơm bữa của làng bịp. Có
thể nói, những cạm bẫy giăng mắc dày đặc ấy đã giết chết nhân phẩm, làm
tha hóa, lưu manh hóa thê thảm nhân cách của con người.
Xoáy sâu vào sự tha hóa của lớp người “dưới đáy”, nêu bật tình cảnh
tha hóa thảm thiết của họ, đồng thời truy cứu đến cùng nguyên nhân dẫn đến
sự tha hóa của họ: do những bất công, tàn bạo của bọn chủ, bọn bóc lột; do

- 88 -
cuộc mưu sinh nhọc nhằn, khốn khó và sự bế tắc, trong “ bước đường
cùng”…các cây bút phóng sự tài năng Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Tam
Lang đã cảnh báo một thực trạng tồi tệ của xã hội và gián tiếp cho thấy, nhu
cầu phải thay đổi môi trường sống, tạo ra một “hoàn cảnh nhân đạo” hơn cho
con người. Đó là giá trị hiện thực, giá trị nhân văn sâu sắc đằm sâu trong di
sản phóng sự của ba nhà văn, ba cây bút “tả chân tuyệt xảo”.
Trong xã hội “chó đểu”, “ối a bông phèng” ấy không chỉ người nghèo
bị bần cùng, tha hóa mà chính tầng lớp được coi là “thượng lưư” là ông bà
chủ càng bị tha hóa, lưu manh hóa trầm trọng hơn. Trong con mắt của bọn
cơm thầy, cơm cô, các ông chủ bà chủ thật tầm thường, bẩn thỉu. Với họ, chỉ
có tiền, đồng tiền là trên hết, mọi mối quan hệ, kể cả quan hệ máu mủ ruột
thịt cũng bị chi phối bởi đồng tiền, cũng vô nghĩa. Họ sẵn sàng vì tiền mà
chà đạp lên mọi thứ nhân phẩm, tình cảm, đạo lý. Chỉ vì “ăn nhầm” một
miếng chả rươi của con trai, ông Phán (Cơm thầy cơm cô) đã bị con gắt
mắng, xỉ vả gọi bố là thằng nọ, thằng kia “Thằng thuê gác trong, thằng thuê
gác ngoài mà vợ người ta để phần cơm người ta, mà lại nhầm! Nhầm kể
cũng lạ” [28; 736]. Một ông chủ nuôi chó tử tế, chó ăn thịt, ăn súp nhưng để
bố mình áo nâu, quần vá, suốt ngày làm lụng vất vả và sẵn sàng chửi “tiên
sư bố” khi ông bố đánh chó của mình. Quan hệ trong các gia đình chủ đã đến
độ tồi tệ. Nhiều gia đình, cả vợ chồng đều ngoại tình, đối xử với nhau thô bỉ.
Có những ông chủ ngủ với đứa ở; có bà chủ dâm bôn với thằng nhỏ. Sự tha
hóa về đạo đức, nhân cách của bọn chủ có quyền, có tiền đã đến độ rùng rợn,
đúng như bọn cơm thầy cơm cô nhận xét “Càng những quân giàu có, thì lại
càng keo bẩn, chó đểu, không ra loài người” [28; 745].
Có biết bao nhiêu con đường dẫn đến tha hóa và có thể nói, sự tha hóa
đã thành căn bệnh lây lan ở mọi đối tượng, giai tầng trong xã hội đương thời.
Bằng hàng loạt phóng sự sắc sảo, Vũ Trọng Phụng, Tam Lang, Ngô Tất Tố

- 89 -
đã cảnh báo về sự tha hóa, xuống cấp trầm trọng về nhân phẩm, đạo lý, văn
hóa của con người. Đó vừa là kết quả tất yếu của một xã hội đầy bất công,
cạm bẫy và nhơ bẩn, vừa là nguyên nhân dẫn đến tình trạng xã hội: “quan lại
thì tham nhũng, đàn bà thì hư hỏng, đàn ông thì dâm bôn, một tụi văn sĩ thì
đầu cơ, xảo quyệt”.
* Sự suy đồi của văn hóa, phong hóa
Cùng với nghèo đói như một căn bệnh kinh niên, “gia truyền” từ đời
này sang đời khác, người dân quê còn điêu đứng vì sự trói buộc của biết bao
hủ tục nặng nề, vô lối. Với tập phóng sự đặc sắc Việc làng, Ngô Tất Tố đã
dựng lại những câu chuyện thương tâm về số phận của những người nông
dân suốt đời bị đày đọa điêu đứng vì những gánh nặng hủ tục, lệ làng -
những mối tai họa khủng khiếp đối với họ. Cụ Thượng Lão Việt suốt một
đời “chăm chỉ, cần kiệm lao lực”, chỉ vì “những tục lệ quái gở, man rợ…tự
do kế tiếp nhau chồng chất trên vai” mà “không ngóc đầu được”, ngay cả lúc
hấp hối “gánh tệ tục ấy còn đè ép chưa tha”. Để chạy đám vào ngôi cho đứa
cháu mới 3 tháng tuổi, sau này lớn lên được thoát khỏi số phận nhục nhã của
dân ngụ cư, gia đình bác Cả Mão đã phải bán đi một mẫu hai ruộng cả nhà
chắt bóp mãi mới tậu được. Thế là, để đổi lấy cái “ngôi ở đình” của đứa cháu
3 tháng tuổi, “được ăn miếng thịt phần làng”, được bình đẳng đóng góp lệ
làng…cả một gia đình đã rơi vào tình cảnh kiệt quệ trắng tay. Phần lớn câu
chuyện của Việc làng tập trung vạch trần thủ đoạn thâm độc của bọn cường
hào địa chủ ở nông thôn. Chúng chủ mưu bày đặt, duy trì các hủ tục như
những phương tiện để hà hiếp, áp bức, bóc lột đến cùng người dân quê. Cần
tiền để tiêu pha vô tội vạ, cần chè chén, là chúng bày đặt trò ép “bán cỗ”,
“bán chức”. Để có tiền mua chức “lý cựu” do bọn lý dịch ép bán cho, gia
đình ông Lũy (Góc chiếu giữa đình) phải bán cả gần mẫu ruộng và nửa con
trâu – tài sản mà vợ chồng ông phải suốt đời tằn tiện, chắt chiu gây dựng

- 90 -
mới có nổi. Ngoài ra, ông còn phải vay thêm hơn bảy mươi đồng nữa. Mua
được chức rồi, còn lệ khao chức. Và, sau bữa khao chức (buộc phải linh
đình) ấy, bà Cựu buồn bã cắp nón lên Hà Nội đi ở vú và ông Cựu lại trở về
với kiếp cày thuê. Ông Linh Phúc (Cỗ oản tuần sóc) còn rơi vào tình cảnh
thảm thương hơn. Vợ chết, một mình quanh năm đầu tắt mặt tối mới chỉ
kiếm nổi miếng ngô, miếng khoai nuôi ba đứa con nhỏ. Nhưng chẳng may,
ông Phúc được lên ngôi “ông trùm” và do đó, mỗi năm lại phải lo thêm hai
cỗ oản Sóc vọng. Trong nhà không có đồng xu, giữa cơn mưa gió, ông phải
dỡ cả mái nhà đang trú ngụ bán lấy tiền để lo sửa cỗ oản Sóc. Người phu xe
khốn khổ (Món nợ chung thân), có vợ bị hậu sản chết. Để lo đám tang cho
vợ theo đúng “lệ làng” anh phải chạy vạy vay lãi hơn ba chục đồng bạc, tiền
công kéo xe hàng tháng của anh chỉ vừa đủ để trả tiền lãi. Và thế là chỉ một
bữa lệ làng anh phu xe phải chịu một món nợ lãi chung thân. Còn biết bao
câu chuyện đau lòng từ những thủ đoạn tinh vi của bọn chức dịch lợi dụng
tâm lý tập truyền của người dân quê, bày vẽ ra những lệ tục nhiêu khê, phiền
toái để hành hạ họ. Để mong có được nén hương làng cúng giỗ cho sau khi
chết bà Tư Ty góa chồng, không con (Nén hương sau khi chết) đã phải lo
chạy “đặt hậu”, nộp ruộng, nộp tiền cho làng, lại còn phải chịu đựng không
biết bao nhiêu dồn ép của bọn Lý hào. Vì lo sửa lễ “xôi mới” nhiêu khê, tốn
kém, ông Lễ tội nghiệp (Hạt xôi mới) không những không còn hạt gạo nào
mà còn phải bòn bán đến cả chum vại. Và còn bao nỗi giày vò, điêu đứng
nữa: Lo con gà thờ cho lễ lên lão làng ở tuổi năm mươi (Con gà thờ); lo các
thủ tục cho cái chức “thủ hiệu trống” vơ với trong đám “dãy chà” (Đôi giày
mất dậy); lo chạy vạy sửa lỗi với làng để không rơi vào tình cảnh “lúc sống
không ai ngồi với, lúc chết làng chẳng lo cho”. Đến cùng, vì không lo nổi, đã
phải thắt cổ tự tử (Một tiệc ăn vạ)…Có thể nói, hàng trăm hủ tục, hàng trăm
mối lo vây xiết thân phận tội nghiệp của người dân quê. “Xôi thịt” đã thành

- 91 -
một tệ nạn ở chốn hương thôn. Xung quanh miếng ăn là bao nhiêu chuyện
thê thảm, đau lòng. Nhiều câu chuyện của Việc làng đã xoáy sâu vào những
khía cạnh đau lòng đó xung quanh miếng ăn. Bằng sự thông hiểu sâu sắc về
con người và cuộc sống nông thôn, bằng tấm lòng cảm thông chân thành với
những nỗi thống khổ của người dân quê bị giày vò, chèn ép dưới những
gánh hủ tục nặng nề, Ngô Tất Tố đã dựng được tài tình một tập tranh biếm
họa đặc sắc về những hủ tục “quái gở, mọi rợ” ở nông thôn Việt Nam trước
Cách mạng tháng Tám. Chính đó là một trong những nguyên nhân, dẫn đến
thảm cảnh bị bần cùng, đói nghèo đến thảm thiết của người dân quê.
Cùng với Việc làng, với mười bài phóng sự đặc sắc trong Tập án cái
đình, Ngô Tất Tố đã “đem các ổ hủ bại mọi rợ chắp lại làm thiên điều tra”,
phản ánh mọi khía cạnh hủ tục ở chốn đình trung. Đó là những nghi lễ phiền
phức, hủ bại mà bọn hương lý cố bày đặt duy trì vừa để củng cố uy thế của
kẻ thống trị, để “nhử” lòng tham danh lợi, địa vị của kẻ có của, đặc biệt gieo
tai vạ cho người dân lành. Ở thời buổi nhiễu nhương đó, Đình trung không
còn là chốn linh thiêng nữa. Ở đó, đầy những chuyện nực cười. Những thần
tích hoang đường, “bi thảm” xung quanh những cái đình làng và các vị
Thành Hoàng làng. “Những ông ăn cướp ăn trộm ngang nhiên được làm
thượng đẳng phúc thần…” cả đến cái ông “bốn cẳng” cũng được làm Thành
hoàng. Những vị Thành hoàng “không hình, không bóng” nhưng lại là
“những đấng thiêng liêng” luôn luôn ngự ở đầu, ở vai và có thể “làm oai làm
phúc”, khiến những người dân phải khúm núm sợ sệt, thờ phụng; ở đó đã
diễn ra biết bao “trò” hủ bại, những lễ nghi vừa nực cười, vừa phiền toái tốn
kém để “đuổi bệt” (Mỗi năm một lần đánh đuổi Thành Hoàng) hoặc để giải
“hèm” kỷ niệm sự nghiệp đạo trích của vị Thành Hoàng (Ông Thành Hoàng
ấy đã bị cách rồi)…Hài hước và sắc sảo, Ngô Tất Tố đã dựng lại những
cảnh tượng đầy bi hài do những hủ tục gây ra. Những hủ tục hiến tế giả dối

- 92 -
(Một đám ma vui), ở đó những người chủ tang “hiếu thảo” bày ra linh đình,
tốn kém nhưng chủ tế lại vừa tế, vừa ngủ, ngáy khè khè ngay trước hương
án”. Phần lớn các thiên phóng sự dành phản ánh những hủ tục xôi thịt ở
chốn đình trung. Những cuộc thi giết lợn để cúng thần nhiêu khê, tốn kém
“mỗi cỗ phải tốn hàng trăm bạc”, nhưng ai cũng “phải cố”, bởi “nếu chậm,
cỗ bé thì sẽ mang tiếng với làng nước”; những cuộc ganh đua giành “lợn
anh, lợn em” giữa hai giáp Đông - Đoài, mà tai họa bổ vào đầu khắp mọi
người “không thể chối, không thể bỏ”, nếu bỏ sẽ phải chịu nỗi nhục “thiếu
đóng, thiếu góp”, có sống ở làng cũng như chết. Đó là những mâm cỗ vĩ đại
“144 bát đĩa xếp vào chiếc mâm bằng chiếu” của các cụ chuyên bắt thuế lợn,
khiến “bao nhiêu chủ chứa phải điêu đứng, bao nhiêu con lợn chết theo với
cuộc chứa đó. Nhiều người làm ăn gom góp từ trẻ đến già chỉ chứa một bữa
là hết”. Đó là những bữa khao “Ông đám”, ở đó cả làng “ăn như tằm ăn rỗi”,
khiến khổ chủ phải “bán nhà, bán đất để trang trải những món tiền lợn, tiền
gạo mà chạ đã ăn”. Là những bữa cháo khao làng, “cháo xem ỷ” mà chín
mươi chín phần trăm là rượu thịt, “lo cho được một bữa cháo đó nhà giàu
phải hết hàng trăm, nhà nghèo cũng tốn vài ba chục bạc…”. Thực chất đó là
những hủ tục mọi rợ chế độ thực dân phong kiến cố tình duy trì ở nông thôn.
Mỗi hủ tục là một vòng dây nghiệt ngã, thắt buộc những người dân quê nghèo
khó trong vòng nghèo đói, tăm tối, cùng quẫn, không lối thoát.
2.3. Khách quan chân thực, phóng sự khơi gạn đến tận cùng sự thật
2.3.1. Khách quan, chân thực
Không nhìn qua lăng kính chủ quan hay cái vỏ bên ngoài cuộc sống,
Tam Lang, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố tiếp cận hiện thực, sống với hiện
thực, phát hiện và khai thác những thông tin, khách quan chân thực. Một số
nhà báo phương Tây quan niệm phóng sự là sự tìm kiếm có hệ thống để trả
lời cho 6 câu hỏi, 5 w, 1 h: Who (ai), What (cái gì), Where (ở đâu), When

- 93 -
(khi nào), Why (tại sao), How (như thế nào), thì cái chính vẫn là xác định
tính khách quan, chân thực của các sự kiện: Xẩy ra với ai (đối tượng). Cái gì
đã xẩy ra (sự kiện). Xẩy ra ở đâu (địa điểm). Xẩy ra khi nào (thời gian). Xẩy
ra như thế nào (quá trình diễn biến). Tại sao xẩy ra (nguyên nhân). Ở đây
chưa chú ý đến tính chất của sự kiện, tầm quan trọng và tác động của sự kiện
đối với con người, xã hội. Nói là khách quan chân thực nhưng phóng sự bao
giờ cũng thể hiện một khuynh hướng tư tưởng, tán thành hay phản đối,
khẳng định hay phủ định, ca ngợi biểu dương hay phê phán…để tạo dư luận
xã hội và vì vậy có ý nghĩa xã hội nhất định.
Tính chân thực, xác thực của sự kiện đòi hỏi người viết phóng sự phải
thật sự hiểu biết lĩnh vực mà mình điều tra. Tác giả đồng thời là nhân chứng
đáng tin cậy. Có thể nói, qua các phóng sự, chúng ta thấy rất rõ sự nhập cuộc
của các nhà văn Vũ Trọng Phụng, Tam Lang, Ngô Tất Tố. Tam Lang viết
Đêm sông Hương nên đã vào Huế, để mắt thấy tai nghe những mánh khóe
“ngón nghề” của các cô gái làm nghề mại dâm. Trong mấy ngày đêm ở Huế
ông đã viết được bảy bài phóng sự đăng báo. Tác giả đã làm quen với Lệ
Th., một cô gái con nhà quan nhưng vì hoàn cảnh nên phải “đi khách” từ
năm 15 tuổi, hoặc đến Một hàng nem ở Đế đô để chứng kiến sự trắng trợn,
bỉ ổi của những cô điếm hạ lưu. Có những lúc tác giả phải đóng vai một nhà
thám tử bỏ công theo dõi, nghe trộm những lời đối đáp khả nghi giữa “người
bán hàng” và “người mua hàng”, tìm đến địa điểm hẹn hò, lần theo dấu vết
để tìm hiểu sự thật phục vụ cho việc điều tra của mình (Nhà hàng với khách
hàng). Vì vậy, những sự việc, chi tiết tác giả đưa ra, gây ấn tượng và sự tin
cậy ở người đọc. Để viết Tôi kéo xe, Tam Lang đã nhập vai người phu xe
kéo, đi kéo xe 6 ngày để thấm cái khổ và cảm nhận được cảnh sống của
người phu xe kéo. Đi sâu vào đời sống của những “người ngựa” ấy ông đã
“lân la chung sống với một phu xe nhà nghề, đã biết rõ những bí mật của
nghề, ghi lại viết thành bài trên tờ Ngọ báo, 20 kỳ liên tiếp trước khi cho in

- 94 -
thành sách” [142, 68]. Tam Lang đến nơi họp thường niên của Viện Dân
biểu Bắc Kỳ viết tin tường thuật, vẽ chân dung Ông nghị Ba, từ một cai xe
quẳng tiền ra mua được chức Nghị viện, nhưng chỉ là “Nghị gật” [142, 70].
Phóng sự của Tam Lang chân thật, khách quan “không có gì là bịa đặt cả”.
Nó thu hút người đọc chính ở sự thật. Sự thật cụ thể, hiện tại, gắn với cuộc
sống xã hội, hiện tại mà nhiều người quan tâm. Sau này tự thuật [142, 64]
Tam Lang đã nói lên những suy nghĩ với tư cách là một nhà báo viết phóng
sự: Bài Chị đầm, tô phở với con chó chết in trên Ngọ báo “quí vị và các bạn
ngờ tôi đã…thêm mắm muối vào câu chuyện chăng? Một trăm lần không!
Ngày ấy, sự tình cờ - vị thần hỗ trợ cho nghề phóng viên đã dun dủi tôi là
một khách hàng của gánh phở rong…cho tôi chứng kiến từ phút đầu tiên đến
phút cuối cùng sự việc”. Đấy là sự thực. Và vì sự thực “thúc đẩy tôi tìm cách
chung sống với giới phu xe, phu đồn điền, phu hầm mỏ, giới thiếu nhi phạm
pháp, giới hành khất màn trời chiếu đất”, biến những điều mắt thấy tai nghe
thành phóng sự dài, phóng sự ngắn “bày ra cái chân diện mục của xã hội một
cách tuyệt đối khách quan”. Những sự việc Tam Lang đưa ra đều chân thực
sinh động. Chính cái tôi nhân vật - tác giả đòi thêm tiền xe tạo ra cuộc đối
thoại này:
“Tôi đứng lên, chìa đồng hào người bồi vừa trao tay xong:
- Me sừ bẩy dề moa ăngco, mesừ alê loong tẳng
Ông khách tôi sừng sộ nhẩy ra:
- Tu veux encore des cadouilles? Sale vache!
Miệng nói, tay anh ta cởi chiếc thắt lưng da đóng quai ngoài bụng,
nhấp nhoáng một chiếc khóa đồng.
Lúc ấy tôi mới nhận biết ông khách của tôi là một ông Cai mắt xanh,
tóc quăn. Nghe người ta chửi vào mặt đã xong, tôi còn muốn được thêm một
trận đòn, phải cứ làm ra mặt bướng:
- Bẩy dề ăngco, moa ba connét

- 95 -
Quả nhiên tôi không đỡ kịp một quả đấm, vùng chạy kêu ầm lên:
- Ối ông Đội xếp! Ối Cậptên!
Phố vắng mà người đổ ra xem đông.
Tôi nghe rõ một tiếng đàn bà:
- Ồi, còn chuyện gì nữa, lại culi xe vòi tiền, bị nó đánh!” [16, 20]
Để có được những thiên phóng sự khách quan chân thực, Vũ Trọng
Phụng đã đi thực tế, đến thực địa ghi chép, phân tích. Cái tôi tác giả - nhân
chứng, luôn xuất hiện, đứng ra phân bua với người đọc: Toàn là chuyện
thực, mắt thấy tai nghe, mà nhà văn là người trong cuộc, trong Cạm bẫy
người (1933), Kỹ nghệ lấy Tây (1934), Cơm thầy cơm cô (1936), Lục xì
(1937)…Viết phóng sự đòi hỏi nhà văn nhập cuộc, chứng kiến, ghi lại đúng
việc đúng người. Có trường hợp nhà văn không trực tiếp tham dự mà dựa
vào nhân chứng để tường thuật, mô tả, nhưng nhà văn phải hóa thân trở
thành nhân chứng. Và như thế người đọc sẽ yên tâm rằng sự kiện, sự việc
mà tác phẩm nêu ra là chân thực khách quan. Vũ Bằng kể lại: “Phụng có một
cái tài đặc biệt là không hề biết đánh bạc là gì, mà tập phóng sự đầu tiên viết
cho báo Nhật Tân, anh dám đề cập đến vấn đề bạc bịp. Thực ra anh cũng
chưa hề quan sát một vụ “đánh bờ” bao giờ, nhưng anh viết như người đánh
bạc thông thạo nhất, đó là nhờ một người anh là ông Trưởng Tảo, cũng ở
phố Hàng Bạc, nói chuyện lại để cho anh viết” [37, 109]. Nghe kể, nhưng
cái tôi - nhân vật trong phóng sự là cái tôi - tác giả cùng tham dự vào sự
việc, sự kiện. Tôi cùng con trai ông phán đi đón bịp về “thịt” ông bố, rồi tôi
trở thành “một tay tập sự trong một xưởng máy của nền kỹ nghệ bạc bịp”.
Đến Kỹ nghệ lấy Tây thì nhà văn hoàn toàn là người chứng kiến, người đi
điều tra, hỏi chuyện, tìm hiểu mọi ngóc ngách của cái nghề lấy Tây quái đản
ấy và đã bị bọn lính lê dương nghi ngờ đến “ăn trộm ái tình” đe dọa. “Tôi đã
đội vào đầu một cái cát két, ôm dưới nách một cái cặp nhỏ đáp chuyến xe

- 96 -
hơi thứ nhất đi Thị Cầu” [4, 16]. Với tư cách người làm nghề nhật trình, một
phóng viên, ông ghi lại chân thực cái tỉnh “quốc tế” Thị Cầu với 300 lính lê
dương đủ loại người Đức, Lỗ, Bồ, Nga, Pháp…”Mà 300 lính ít ra cũng phải
chế tạo được 350 me Tây và vì bao giờ cũng phải có một số các me nghỉ
việc. Thí dụ cứ cho là 50 me “thất nghiệp” thôi, ta cũng có thể đoán được
những sự cạnh tranh hèn hạ, phỗng tay trên nhau, phá giá nhau” [4, 18].
Còn bọn lê dương thì đây: Đi mi tốp, một “người hùng”, bỏ nước Nga
sang Paris rồi đăng vào đội lính lê dương, có đến 14 đời vợ, 9 người là đàn
bà Bắc Kỳ, nó “coi như thuê gái trong một hạn dài vậy”. Một gã lê dương
người Đức, vốn là tên giết người, bỏ xứ ra đi. “Những ông khổng lồ, tóc đỏ,
mắt xanh, nói thì oang oang như gắt, chân tay hay giơ lên như sừng sộ” [4,
50]…”lấy vợ cũng như nuôi đầy tớ”. Và các me Tây: bà Kiểm Lâm, vốn là
cô gái đẹp của một nhà giàu quyền thế, “xuất thân lấy chồng xivin hẳn hoi.
Sau chồng về Tây, phải giang hồ lưu lạc, lâm đến cảnh đi lấy cô lô nhần.
Bây giờ thì đến với các anh lính lê dương cũng không xong. Xưa kia giữa
lúc đương xuân, nào có phải đâu tôi không lấy nổi một tấm chồng ta danh
giá” [4, 32]. “Cô thiếu nữ đa cảm khi xưa nay đến nỗi hóa ra một “con quái
vật” trên đời [4, 33]. Bà Ách Nhoáng, bà hoàng hậu mất ngôi trong nghề ở
Việt Trì, bà Cẩm ở chùa Thông, bây giờ già làm bà Nguyệt ăn hỏa hồng, bà
Đồng Đền ở Phủ Lạng giàu có, bà Đội Chóp tổ sư nghề lấy Tây. “Vạn trẻ
con lai vô thừa nhận với số vạn nữa thiếu niên, thiếu nữ lai có Pháp tịch,
được hiển đạt, tội ấy và công ấy ở cả bà Đội Chóp mà ra [4, 55]. Oanh liệt
nhất là bà Tây Cú, bà Chánh Tý, bà La Oa, bà Duy Kiềng. Rồi bà Đội Tứ,
con sư tử đã về già nhưng còn oai phong…Tất cả chỉ là làm đĩ mạt hạng
kiếm tiền (“chúng tôi lấy họ là vì tiền”), không cần giữ giá “Thế nào họ cũng
lấy, cho bao nhiêu tiền họ cũng không suy bì cao hạ. Rồi chị nọ dèm pha chị
kia. Phỗng tay trên nhau, phá giá nhau. Thí dụ ở một nơi này, một người

- 97 -
đang giữ một cái giá cao như thế này, bỗng tự nhiên có một người lạ không
biết từ đâu đến nhảy vào giữa mà treo cái bảng đại giảm giá” [4, 82]…
Sự khách quan chân thực ở Lục xì trước hết là ở cách đi lấy tài liệu, để
quan sát, phỏng vấn, xác minh cho “công cuộc khảo cứu về nạn mại dâm”.
Tác giả nói với bác sĩ Joyeux, quan Chánh Giám đốc nhà Lục xì: “Nạn mại
dâm hiện giờ đương là một vấn đề hệ trọng…Lấy tư cách nhà ngôn luận
chúng tôi muốn được phép vào nhà Lục xì để viết một thiên phóng sự, ngõ
hầu quốc dân của chúng tôi được biết rằng Nhà nước đối phó với nạn hoa
liễu ra làm sao” [28, 776]. Giám đốc nhà Lục xì đã tiếp, cung cấp tài liệu cho
tác giả hy vọng các nhà báo “không được cố ý nói sai sự thực”. Và vui vẻ
tạm biệt: A bientôt, Monsieur Phụng! Rồi cùng với vài ba đồng sự, tác giả
vào thăm nhà Lục xì “Cái viện bảo tàng những điều ô uế” [28, 794]: phòng
khám bệnh, phòng ngủ rộng có tường ngăn đôi, vì “đêm đêm bọn gái có giấy
xưa kia vẫn trèo tường sang đánh đập bọn gái lậu vì lẽ bọn này “buôn bán
không có môn bài” và cạnh tranh họ một cách bất chính” [28, 795]. Lớp học
trên tường có những bức vẽ những câu cách ngôn khuyên người ta giữ gìn
thân thể. Các cô gái ở nhà Lục xì thì: “cô này có một bộ mặt ngơ ngẩn, nhà
quê, ngu đần. Ả kia có vẻ tinh quái, biết “đời là gì” lắm. Thị nọ lại có dáng
điệu ngông nghênh, du côn nữa, có thể đánh nhau tay đôi với lính Tây đen ở
ngõ Hàng Mành…Một cái nhân loại hỗn độn, bất trị, vừa đáng ghê tởm và
vừa đáng thương xót. Một cái phần tử mà Dâm thần hoặc nạn đói khát đã
đảo lộn các ngôi thứ để xếp vào cùng một hạng” [28, 805]. Trong nhà Lục
xì, các cô gái phải học: học…làm đĩ. “Muốn trở nên một gái đĩ tốt, điều cốt
yếu là biết vệ sinh” [28, 819]. Và Một ngày khám bệnh: Độ chừng năm chục
chiếc xe tay từ thập phương kéo đến? Ngõ Yên Thái, phố Gia Ngư, phố Đào
Duy Từ, phố Cửa Đông, Đường Thành, ngõ Nam Ngư, phố An Sát Siêu…độ
chừng 80 cô “có những cô ả mặt mũi khô héo với những quần áo tươi tốt.

- 98 -
Lại có những cô mặt mũi sạch sẽ với những cái áo ốm yếu và bẩn thỉu. Có
người vấn tóc trần, đeo kiềng vàng lối Huế, hoặc cúp tóc nhuộm đỏ và uốn
quăn. Lại có thị vận cả măng tô rất hợp thời trang” [28, 811]. Những cái môi
tô son hình quả tim, những cái lông mày chạy sếch, những cái mi mắt quầng
đen…“Thảng hoặc trong số tám chục ả ấy cũng có độ vài ba thị là có cái
ngây thơ đài các đầy thi vị” [28, 811]…Nhưng đem theo biết bao những
bệnh tình ô uế!
Qua phóng sự người đọc như thấy hiện lên trước mắt những cảnh
những người thật kinh hoàng và bẩn thỉu. Cái thế giới “cơm thầy cơm cô”
được miêu tả đến chân tơ kẽ tóc. Một hàng cơm “khi ta mới bước chân vào
thì bổn phận ta là hãy lập tức buồn nôn buồn ọe. Nó là mùi cá mè, mùi thịt
trâu, thịt lợn thiu, mùi lòng lợn, lòng bò, mùi me chua, mùi dưa khú…Thôi
thì đủ một trăm nghìn thứ mùi khó chịu” [4, 88]. Và phía trong là nơi ngủ:
“Chân tôi chưa bao giờ phải dẫm lên trên một lớp bùn quánh và nhớp nháp
đến như thế. Đến chỗ mấy cái giường cách nhau mỗi giường một manh cót
thì tôi không biết nên đặt lưng vào giường nào, vì giường nào cũng thấy đầy
những người là người, nằm ngổn nằm ngang” [4, 89]. Tôi leo lên gian gác,
tường thì vàng ệch những khói ám, mặt sàn có mấy cái chiếu, “bọn cơm thầy
cơm cô nằm ngổn ngang như lợn cả”. Chính ở trong cái thế giới ấy, tác giả
tốc ký lại được cảnh một gia đình khốn nạn giữa hai bố con vì một miếng ăn.
Một nhà giàu có mà “ông gọi bà bằng tên những giống vật và bà lấy những
chỗ hiểm trong thân thể người đàn bà ra đặt danh từ (nom) và trạng từ
(adjective) lại cho cái mặt phúc hậu của ông. Cảnh người nhà quê, chờ đợi
người đến thuê mướn ở một góc phố: “Người ta chửi nhau cho vui và bắt
chấy cho nhau cắn đỡ đói”. Thật thương tâm: “Nó đã cất tiếng gọi dân quê
bỏ những nơi đồng khô cỏ héo đến đây để chết đói một lần thứ hai sau khi
bỏ cửa bỏ nhà. Nó đã làm cho một bọn trẻ đực vào nhà hỏa lò và một bọn trẻ

- 99 -
cái làm nghề mại dâm” [4, 95]. Tác giả ghi lại câu chuyện của con sen Đũi:
con một lý trưởng, ra tỉnh đi ở, chủ là một me Tây, hết duyên về già làm
những chuyện bất nhân đồi bại. Cái Đũi kể lại: “Tôi lúc ấy mới có 13 tuổi
đầu mà nó nhét giẻ vào mồm tôi giữ hai chân tôi cho thằng oẳn cứ việc hiếp
lấy hiếp để” [4, 105]. Rồi những người nhà quê “ngày một, ngày hai, ăn
chực nằm chờ, hoặc dân hàng cơm, hoặc hè nhà hát “để kiếm việc làm, để có
người thuê”. “Mười ba người…cũng như con thiêu thân, bay vào đống lửa,
cho nên mới bị quáng mắt vì những ánh sáng của Kinh thành” [4, 119].
Những kiếp sống tủi nhục, nhơ bẩn dưới đáy xã hội được nhà văn ghi lại
chân thực khách quan qua những cái nhìn, thấy hay qua những câu chuyện
kể của bọn “cơm thầy cơm cô”. Tác giả khẳng định: “Một thằng nhỏ không
biết thêu dệt như một nhà văn, thì chuyện của một thằng nhỏ kể có thể tin
được là đúng chín mươi phần trăm sự thực” [4, 132].
Ngô Tất Tố hoàn toàn nhập cuộc. Ông dẫn dắt trình bày, lý giải những
chi tiết và tổ chức ý kiến của các đối tượng đối thoại. Cái tôi tác giả - nhân
chứng chủ động khơi lên những vấn đề phỏng vấn, mô tả biện luận. Không
bao giờ là người đứng ngoài quan sát, Ngô Tất Tố hỏi chuyện, ghi chép,
phân tích cái hiện thực hiện tại u ám nặng nề ở chốn đình trung, ở nông thôn
bùn lầy nước đọng một cách chân thực đến tận ngõ ngách của sự việc. Ông
đi thuyền nan, len lỏi dưới những rặng tre, cây cối xiêu đổ, quên cả nhọc
nhằn thực hiện được “cái ý muốn mục kích cảnh điêu linh cùng khổ của dân
lụt” [27, 35]. Ông gặp những người dân mất chỗ ở, không có cái ăn: “Những
cái bộ mặt gầy còm, hốc hác ấy như thiếp một màu vàng lợt, làm nổi những
cặp mắt trõm lờ đờ đần độn” [27, 36]. Những câu hỏi trực tiếp của tác giả và
những câu trả lời của người dân là sự thực khốn cùng, thê thảm. Cái ăn trong
những ngày nước ngập của họ: Đất sét trắng “vật đi vật lại như ta nện đầu
rau, rồi thái từng miếng mỏng như ta thái bánh dầy, đặt vào mủng, mẹt đem

- 100 -
phơi khô. Khi dùng nó thì phải có nõn sắn lót thật đầy xuống đáy nồi, rồi
mỗi lượt đất lại một lượt cá tép, rồi cho vài duộc tương. Bắc lên đun thì tra
thêm tí nước cho khỏi khê. Cứ nhỏ lửa đun mãi cho tương cạn cá chín,
những cái béo của tương, của cá ngấm vào đất sét đỏ như miếng hồng Tầu
thế là được” [27, 38]. Rồi lại làm no bằng rau ngổ, bèo Tây, củ chuối, hạt
nhãn, vỏ mít, bã đậu…Mà những khi không lụt lội thì quanh năm họ vẫn
phải ăn độn “chỉ mong một ngày được ba xu với hai bữa cơm no cũng còn
khó”. “Có chăng chỉ những ngày giỗ Tết thì dù túng kiết thế nào cũng cố
dành dụm kiếm lưng cơm quả trứng, thoi vàng nén hương cho tinh sạch.
Những ngày ấy mới là ngày ăn uống sang trọng” [27, 42].
Ngô Tất Tố đến từng làng, từng nhà, gặp từng người, nạn nhân của
những hủ tục, mô tả sâu sắc, chi tiết từng sự việc. “Sau nửa tiếng đồng hồ
nấp dưới bóng rợp cây đa để lau cho ráo bồ hôi và nghỉ cho tinh con mắt,
ông P. một người đưa đường của tôi, dẫn tôi vào nhà người quen ông ấy.
Chúng tôi chờ coi cảnh tượng buổi tối. Mồng bốn tháng tư. Tối nay năm
thôn của V.L tề tập cả ở thôn T. để diễn một cuộc đánh đuổi thành hoàng.”
[25, 146]. “Tôi đã thân hành đến tận làng ấy bằng cái công trình cuốc bộ
năm, sáu cây số sau khi xuống ga xe lửa Xuân Kiều…là để coi một cuộc thi
giết lợn” [25, 159]. Một đám ma, Ngô Tất Tố cũng ý thức: “Tôi rất muốn
được tới nơi tìm thêm hạnh phúc cho hai con mắt” [25, 203]. Và ông chứng
kiến, ghi lại: “Khách khứa đã đông nghìn nghịt. Người ta mời tôi ngồi lên
chiếc phản giữa rạp sau khi người đón đồ lễ đã dùng mâm đồng mà đệ đồ lễ
của tôi vào bàn thờ. Hiếu chủ cúi mặt xuống đầu gậy tre, lom khom từ trong
bậc cửa đi đến chỗ tôi. Ông ta gật đầu chào tôi và giơ ống tay áo xô bưng
miệng mời tôi vào ngồi trong nhà. Đó là người ta đãi tôi vào bậc thượng
khách” [25, 204]. Từ đây, tác giả quan sát, mô tả: “Đám to thật! Khắp các
cột nhà, cột rạp, cột nào cũng có câu đối, giấy xanh. Ngoài rạp cũng như

- 101 -
trong nhà, trướng sa tanh, câu đối cát bá che kín các bức vách và các bức
thuận. Quan tài cụ Bá lù lù nằm ở gian nhà chính giữa. Hợp với hương án
trong kê trước giường thờ và hương án ngoài kê giáp bực cửa, nó đã thành ra
hình chữ “công” để chứa một lũ con cháu trắng lốp giống như một đàn bồ
câu trắng” [25, 205]. Đàn sáo kèn trống, cúng tế mấy ngày. Người ta kéo đến
ăn uống, các quan viên thì bàn đèn, tổ tôm. Hết tuần rượu thứ nhất, ông
Đông Tán xướng một tiếng “bái” rồi lại người xuống uống rượu. Theo lời
xướng, hiếu chủ phục ở trước hương án!
Mâm rượu gần tàn, ông Tán đứng lên xướng “hâng”. Mãi mãi không
thấy hiếu chủ ngẩng lên, tôi tưởng ông ấy cố làm như thế.
Một lát trước hương án có tiếng ngáy khè khè. Té ra tế chủ đương
giấc” [25, 208].
Cái tôi - tác giả “bảo lãnh” tính xác thực cho những sự việc, sự kiện.
Cái giọng điệu ung dung đĩnh đạc bảo đảm cho tính khách quan, trung thực.
Phóng sự của Ngô Tất Tố, chứng minh rằng ông không chủ quan, tưởng
tượng mà tất cả những gì ông viết đều là cụ thể, chi tiết, chân thực, ông là
nhân chứng, là người trong cuộc.
“Tôi mới nhô vào đến sân, bác Cả lật đật chạy ra đón lên nhà trên với
một bộ điệu vui vẻ.
Mới buổi sáng sớm, trong nhà đã thấy rộn rịp lạ thường.
Ở gian bên kia, độ bảy, tám ông ngổn ngang nằm vây một chiếc khay
đèn thuốc phiện. Với những cặp môi xám xịt và dài vều và những chiếc quần
cháo lòng, áo ba đờ xuy rách lòi khố tải, các ông ấy như muốn bảo cho tôi
biết đây toàn là hạng kỳ dịch kiêm tín đồ của đức chúa Phù dung.
Dãy phản bên này, hai bàn tổ tôm kế nhau. Bên trong vang những
tiếng ăn tiếng phỗng; bàn ngoài đương ỏm tỏi cãi nhau về sự đánh thấp đánh
cao” [25, 218]. Đấy là cảnh một đám vào ngôi cho thằng con mới đẻ được ba

- 102 -
tháng của nhà bác Cả Mão. Có được như thế đã phải mất tiền: “Cụ chưởng lễ
ba chục, ông chánh hội hai chục, ông lý trưởng mười lăm đồng, ông phó lý
và ông phó hội mỗi người mười hai đồng, thư ký, trưởng bạ mỗi người năm
đồng. Những số tiền ấy hết ngoài trăm đồng rồi. Lại còn ăn uống từ chiều
hôm qua đến giờ…Ở chốn thôn quê ăn uống là sự đầu tiên” [25, 222]. Vậy
là khổ chủ phải bán đi một mẫu hai ruộng lấy hai trăm đồng trả nợ. Thế là
mất cả một cơ nghiệp. Một cái tệ nạn “vào ngôi” để khỏi mang tiếng “ngụ
cư”, một hủ tục ấy đã làm lụn bại bao gia đình. Và còn những hủ tục khác,
kỳ quái mà bọn hương lý đặt ra, duy trì để kiếm ăn, đục khoét dân làng. Ngô
Tất Tố ghi lại tục một tiệc ăn vạ. Ông đến chơi một người bạn ở một làng
nọ, gặp cảnh ông già trẻ nhỏ lũ lượt “vui như đám hội”, tiếng lợn kêu, với
những dao thớt, bát đĩa rổ rá, ở nẻo cuối làng… Người bạn cho biết: đó là
một đám ăn vạ. Nguyên do, một trong bốn ông “trùm” của làng đến nhà ông
lão Sửu vay gánh thóc, lão đi vắng, mụ vợ chối không có, ông trùm kia lấy
thế làm thù. Cách vài hôm sau, mượn việc làng, cãi nhau với lão Sửu, rồi
hắn vu cho lão chửi “làng” và đem chuyện đó trình “làng”, bắt vạ lão Sửu.
“Cuộc ăn vạ này chúng làm hại lão ta đến hơn trăm bạc. Bởi vì chúng ăn to
lắm, ăn suốt từ trên xuống dưới. Những đứa con nít toét mắt, ỏng bụng mà anh
thấy đó, cũng đều được ăn tất. Chúng nó cũng là “làng”. Hễ ai là “làng” hôm
nay đều được ra ăn, chỉ trừ đàn bà và những đứa trẻ con ẵm ngửa” [25, 280].
Tác giả ghi tiếp: “Chiều hôm ấy, tôi còn ở đó, đã có tin nói lão Sửu thắt cổ chết
ở trong nhà” [25, 281]. Cái sự thực khách quan tàn nhẫn ấy, vừa chi tiết sống
động vừa khái quát bởi nhân chứng trực tiếp quan sát, trần thuật.
Một điều cần khẳng định: Khách quan chân thực trong các phóng sự
của Tam Lang, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố không bao giờ là lạnh lùng, vô
cảm, dửng dưng trước những cảnh đời, kiếp người khốn khổ. Các phóng sự
của ba nhà văn trên đều khơi gạn đến tận cùng sự thật thê thảm bằng những
trang viết đầy thông cảm xót thương, nhất là với những người lao động,

- 103 -
những nông dân bé cổ thấp miệng suốt đời bị đè đầu cưỡi cổ. Tam Lang,
mặc bộ quần áo phu xe, nghe người ta mắng chửi, chịu người ta đánh đòn,
ông thấm thía: “Làm cái nghề này sống lâu làm sao được? Chạy suốt ngày.
Ăn không đủ. Tấm thân lại dầm mưa dãi nắng…Người làm culi xe kéo,
người chết non…” [16, 25]. Và ông đồng cảm với anh Tư, phu xe, nhân vật
chính của phóng sự Tôi kéo xe: làm cái nghề chạy quanh năm suốt ngày này,
“ăn chẳng có gì béo bở, ở cũng ở chui ở rúc, lại còn dãi gió dầm mưa, phơi
sương, phơi nắng, đến đá cũng phải ốm đừng nói là người. Nhưng giời đã
đẩy vào kiếp ấy, cũng chẳng chống lại được với giời. Biết giữ được phần nào
hãy cứ hay phần ấy” [16, 52]. Rồi cảnh một cô gái điếm ế không có tiền giả
tiền xe: “Cảnh khổ gặp nhau. Mình khổ, không ngờ nó lại khổ hơn mình.
Nghĩ thế rồi nước mắt tôi cứ chảy xuống giòng giòng, miệng tôi thì nghẹn
lại, cổ tôi như có người ghì bóp” [16, 72].
Vũ Trọng Phụng có khi hài hước, trào phúng nhưng cũng là cười ra
nước mắt, thương cho các me Tây quay cuồng trong guồng máy của một “kỹ
nghệ” kỳ quái, xót xa cho những cô gái phải đến Lục xì, những đứa trẻ vạ
vật trong kiếp cơm thầy cơm cô.
Ngô Tất Tố điềm tĩnh, nhưng phóng sự của ông thường điểm những tiếng
thở dài chán ngán, não nề, day dứt vì những điều mắt thấy tai nghe về những
thân phận bèo bọt ở chốn bùn lầy nước đọng, những hủ tục đang hủy hoại con
người và xã hội. Cũng từ đấy, phóng sự của Tam Lang, Vũ Trọng Phụng, Ngô
Tất Tố còn là bản cáo trạng đanh thép đối với xã hội thực dân phong kiến, gợi ra
nhiều điều cần thiết cho xã hội đương thời và cho cả hôm nay. Tuy nhiên, một
đôi khi chính vì quá khách quan nên còn có chi tiết (ví như trong Lục xì)
thiếu chọn lọc, có phần tự nhiên, vụn vặt, ít nhiều cũng ảnh hưởng đến tâm
lý của người tiếp nhận.
2.3.2. Truy tìm nguyên nhân, đề xuất giải pháp
Phóng sự của Tam Lang, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố tập trung phê
phán xã hội. Xã hội và cách quản lý xã hội đã tạo ra những con người,

- 104 -
những sự việc làm tha hóa con người, băng hoại đạo đức, hủy hoại giống
nòi. Sự thực Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX có những chuyển biến
quan trọng trong xã hội, chính trị, kinh tế văn hóa ảnh hưởng trực tiếp, mạnh
mẽ tới đời sống, quan niệm sống, lối sống, tâm lý, tư tưởng tình cảm của con
người. Hai cuộc khai thác thuộc địa dã man của thực dân Pháp lần đầu trước
Đại chiến thứ nhất (1914-1918), lần hai từ sau Đại chiến thứ nhất năm 1919
và kéo dài cho đến trước cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới (1929-1933) đã
bần cùng hóa dân ta, đẩy nước ta đến nghèo nàn lạc hậu.
Nhưng cũng từ đấy hình thành một tầng lớp tư sản bản xứ, một tầng
lớp tiểu tư sản và thị dân có nhu cầu hưởng thụ và sống theo lối mới. Bên
cạnh đó, tầng lớp quan lại Nam triều cùng bọn tay chân vẫn sống và đục
khoét nông dân, nhưng lúc này tinh vi và xảo quyệt hơn. Cho nên tìm
nguyên nhân của những tệ nạn, sự khốn cùng của người dân là tìm trên một
cơ sở nền tảng của xã hội Việt Nam thực dân nửa phong kiến đã bước đến
cùng của sự thối nát mọt ruỗng. Một xã hội mà Vũ Trọng Phụng đã nhận xét
trên báo Tương lai số 9 ra ngày 25.3.1937: “Riêng tôi, xã hội này, tôi chỉ
thấy là khốn nạn: quan tham lại nhũng, đàn bà hư hỏng, đàn ông dâm bôn,
một tụi văn sĩ đầu cơ, xảo quyệt, mà cái xa hoa chơi bời của bọn giàu thì thật
là những câu chửi rủa vào cái xã hội dân quê, thợ thuyền thì bị lầm than, bị
bóc lột. Lạc quan được, cho đời là vui, là không cần cải cách, cho cái xã hội
chó đểu này là hay ho tốt đẹp, rồi ngồi mà đánh phấn bôi môi hình quả tim
để đi đua ngựa, chợ phiên, khiêu vũ, theo ý tôi thế là giả dối, là tự mình lừa
dối mình và di họa cho đời, nếu không là vô liêm sỉ một cách thành thực”
(Để đáp lời báo Ngày nay: Dâm hay không dâm?)
Đúng là xã hội lúc này đan xen, chồng chéo những sự kiện đau
thương, những bi hài, kệch cỡm. Các phóng sự của Tam Lang, Vũ Trọng
Phụng, Ngô Tất Tố không chỉ là để trả lời cho 6 câu hỏi: Who (ai), What (cái
gì), Where (ở đâu), When (khi nào), How (như thế nào), Why (tại sao) mà

- 105 -
bộc lộ rõ khuynh hướng tư tưởng thẩm mỹ của mình: đả phá những bất
công, thông cảm với những người nghèo khổ, tố cáo tội ác của bọn người có
quyền, phanh phui cái xấu và thể hiện tấm lòng nhân ái với những nạn nhân
của xã hội. Thế thì các sự việc, sự kiện trong phóng sự của ba nhà văn trên
xẩy ra với ai?
Những người lao động nghèo ở thành phố: người phu xe kéo - ngựa -
người - mô tả nỗi khốn cùng của họ, nhưng tác giả Tôi kéo xe cũng minh
định một thái độ, một định kiến và cũng là tấm lòng của mình: “Hạ một
người anh em hèn yếu từ chỗ thằng người xuống đến chỗ con ngựa, đưa hai
cái tay gỗ cho anh em rồi bảo: “tao ngồi lên cho mày kéo”, tức là mình bảo
anh em “mày không phải là người”.
Bị người một giống khinh thị một cách bất công rồi, người phu xe có
cần gì phải tự trọng?
Chúng ta cướp nhân phẩm của anh em mà chúng ta không biết. Anh
em làm những việc không có nhân cách, chúng ta còn khinh trách gì anh
em? [16, 94]. Nhà văn cho rằng trong giới phu xe cũng có nhiều người tốt
mà báo chí đã có lần khen: Những tấm lòng vàng trong manh áo rách. Và
ông khẳng định: “Tôi dám nói bạo một câu rằng: từ xưa đến nay, bao nhiêu
những chuyện tầm bậy mà những cu ly xe kéo đã làm, một phần lớn là lỗi ở
bọn trung lưu, thượng lưu trí thức mình. Ngồi lên lưng người ta mà: Ếp,
nhong nhong!, bảo người ta không đi bằng bốn chân sao được?
Người để người kéo người là loài người ôm chung một cái nhục.
Con ngựa kéo xe vì Trời sinh ra nó bốn cẳng. Thằng người không làm
cái việc của con ngựa vì Trời cho thằng người có hai chân.
Bởi thế tôi nói: người để người kéo người là người tự ôm lấy một cái
nhục chung” [16, 95].
Những người nông dân ở “những nơi thôn quê họ không làm gì cho có
đủ mỗi ngày hai bữa. Kinh thành đã cất tiếng gọi họ, cám dỗ họ. Khi ra đi,

- 106 -
chắc họ cũng không ngờ đến nông nỗi này. Họ chắc trong bụng họ là sẽ có
việc làm vẻ vang…Có lẽ họ đã phơi nắng, phơi mưa xin từng đồng trinh,
từng bát cơm, cùng đường rồi mới đến được Hà Nội” [16, 117]. Thế rồi giữa
bát trận đồ đường phố ngày một, ngày hai họ phải ăn chực nằm chờ hoặc sân
hàng cơm hoặc hè nhà hát làm món hàng ế ẩm “có khi không bằng giá súc
vật”. Từ những vùng nông thôn, dồn về thành thị, thế giới cơm thầy cơm cô
nhớp nháp, đói khát trở thành nô lệ cả về thân xác và tinh thần. Ở lại làng
quê, người nông dân chết dần chết mòn, chết thảm hại, vô nghĩa bởi những
hủ tục Việc làng ở chốn đình trung (Tập án cái đình). Chỉ vì vợ chửa khi
đang giữ chức ông đám mà ông Phức bị làng ăn vạ, phải bán nhà, bán đất để
trang trải những món tiền lợn, tiền rượu, tiền gạo mà làng đã ăn (Được một
trai, mất ba lợn). Có người mất cả cơ nghiệp vì một đám vào ngôi hay Hạt
gạo xôi mới. Ông Lũy vì một chức lý Cựu, phải bán ruộng, bán trâu và năm
hôm sau thì bà Cựu phải ra Hà Nội ở vú. Ông Phúc phải phá nhà ra bán vì
một Cỗ oản tuần sóc. Một người nông dân vay tiền làm ma vợ, phải trả lãi
hàng tháng thành Món nợ chung thân, “không lúc nào trả xong được món nợ
ấy. Bây giờ đã vậy không biết rồi khi về già, không kéo nổi cái xe kia thì
làm thế nào?” [25, 304]. Trên tờ Thời vụ ngày 5.4.1938 Ngô Tất Tố đã viết:
“Trong chốn hương thôn gây năm bè bảy mối chỉ vì miếng ăn, chỗ ngồi, sinh
ra đánh nhau, kiện nhau, kẻ bị giết, kẻ tự giết còn đầy rẫy ra đó. Thế mà bề
ngoài ta vẫn trông thấy đình rộng, trống kêu, cờ điều, tàn tía, mũ áo xênh
xang. Đó chỉ là cái lớp phủ ngoài lên trên sự thối tha, dơ dáy, thật cũng là
thảm thương thay! (Cứ để cho nó chết). Nhưng đâu chỉ vì miếng ăn? Dĩ
nhiên là có, đâu cũng xôi thịt, rượu chè, tác giả muốn lưu ý người đọc đi sâu
hơn, qua việc ăn uống ở chốn đình trung mà thấy được bộ mặt gian ác của
bọn cường hào cố tình duy trì những hủ tục quái gở, mọi rợ để trục lợi riêng.
Bọn chúng là chánh tổng, lý trưởng, tiên chỉ, chánh hội, chưởng bạ, các ông
quan về hưu…Bọn chúng là những người có thế lực nhất, có lý lẽ nhiều nhất

- 107 -
ở sau lũy tre, đồng thời lại nắm bộ máy chính quyền phong kiến thực dân ở cơ
sở. Cụ Thượng làng Lão Việt đến giờ hấp hối vẫn xót xa “Nhiều lúc tôi vẫn tự
phụ: tuy không thông minh, nhưng không đến nỗi ngu đần. Nhất là tôi không
lười biếng…
- Thật vậy, từ thuở mười bảy tuổi đầu đến giờ, tôi không chơi không
ngày nào, trừ ra những ngày đau ốm. Thôi thì cày sâu cuốc bẫm, buôn ngược
bán xuôi, không quản ngại một việc gì cả. Có lúc đã lên mỏ Hích lăn lộn với
đám phu mỏ…Những việc tôi làm, bất kỳ việc nào, tuy không phát đạt,
nhưng không thất bại bao giờ, chẳng lãi nhiều thì lãi ít. Vậy mà suốt đời
nghèo xác, nghèo xơ, ăn không đủ, mặc không đủ, cả nhà có một thằng con,
đành phải để nó dốt nát. Ông bảo vì cớ gì? Ấy là lỗi gánh việc làng” [25,
215] “Tôi ước ao rằng: sau khi tôi đã nhắm mắt, ông sẽ đem những tội ác
của nó mà phơi ra bóng mặt trời” [25, 216].
“Vì cớ gì? “Câu hỏi của cụ Thượng Lão Việt ở đầu phóng sự Việc
làng đã được nhà văn, nhà báo Ngô Tất Tố nhìn thấy và miêu tả suốt trong
16 chương sách tiếp theo. Với một tấm lòng thương cảm sâu sắc: Bác Cả
Mão vì muốn vào ngôi phải bán đi một mẫu hai ruộng. Bọn hương lý đặt ra
luật lệ: dân ngụ cư phải ba đời mới được “thành tổ” nghĩa là được ngang
hàng với người khác, mà muốn là dân chính cư thì phải khao làng, phải mất
tiền cho chưởng lễ, chánh hội, lý trưởng, phó lý, phó hội cho đến cả tiền cho
trương tuần…Ông Lũy, bà Lũy mất cả cơ nghiệp vì được cái chức lý Cựu,
bà Cựu, nhưng một phần vì bọn hương lý viện đến quỷ thần, không cho ông
bà hoãn việc khao làng đến khi gặt lúa tháng mười, đỡ phải vay mượn mất
lãi. Bọn cường hào cấu kết với nhau, vừa dụ dỗ, vừa hăm dọa bà Tư Tỵ -
một người đàn bà góa, không con cái, có ít vốn liếng dành dụm được phải
xin đặt hậu để khi chết làng thắp cho nén hương, làm cho bà mất hết năm
sào ruộng. Bác Hai Đắc chỉ vì quên biếu cụ chưởng lễ xâu lòng thờ, đã bị cụ

- 108 -
dọa nhất định đưa lên quan, để buộc bác phải theo những điều kiện: một là
giết lợn mời làng tế thánh để lấy một xâu lòng thờ biếu hắn; hai là phải
“đền” hắn 100 bạc. Bác Sửu, người nông dân hiền lành thật thà nhất làng bị
bọn “trùm nhất” vu cho tội chửi “làng” và bị làng ăn vạ, đến nỗi uất quá bác
phải tự tử…
Những phụ nữ, những cô gái “hàng phố hư thân mất nết”, có học hành
nhưng đua đòi theo lối sống mới. Những cô gái vì nhiều hoàn cảnh khác
nhau cùng dẫn đến con đường mại dâm: Các cô gái nghèo khổ kiếm sống, cô
gái con quan vì gia đình sa sút, có cả bậc mệnh phụ phu nhân “mặt sắc
miệng xinh, quần áo sang trọng như một bà hoàng” vì thua bạc cần tiền trả
nợ (Đêm sông Hương). Những cô gái Hà Nội “áo nhung quần tía, ô đầm, hoa
tai”. “Những đứa con nhà tử tế cũng đâm khốn kiếp vài giờ dăm ba đồng bạc
để cũng được như các tiểu thư khoe khoang bộ cánh, mua phấn son, hương
sáp, áo hàng mầu, giầy mang cá, bề ngoài như tiên giáng thế bề trong dơ dáy
chẳng biết đâu là cùng. Những đứa ấy người ta đã lấy hai tiếng cảnh sộp mà
gọi chung Cảnh sộp ở Hà Nội thì bây giờ có đến hàng rừng: hàng thịt, hàng
rau, hàng trứng hàng tôm, cô ký, mợ tham, con thầy thông, em ông
phán…Họ không khác gì đôi giầy mang cá họ lê ở ngoài đường, dưới cái mũ
nhung giát kính lóng lánh như kim cương, nó còn có cái mặt lót bên trong
nhớp những đất cát bồ hôi nhơ bẩn” [16, 69]. Những người phụ nữ đủ lứa
tuổi từ nhiều môi trường sống khác nhau kéo nhau lên Thị Cầu, Bắc Ninh
lấy Tây, xem như một nghề kiếm sống, kiếm tiền. Họ coi lính lê dương là cái
“tủ bạc”, còn lính lê dương “lấy vợ” cũng chỉ vì mục đích thực dụng: “Nuôi
đầy tớ họ sợ nó ăn cắp, thà lấy một người vợ để vừa được sai bảo, vừa
được…việc khác nữa” trong thời hạn đăng lính ở Việt Nam. Cho nên vợ, đối
với họ chỉ là “đồ chơi trong một hạn kha khá dài mà thôi” (Kỹ nghệ lấy Tây).
Trong số phụ nữ đó có cả các cô “đã đi học, có chữ nghĩa hẳn hoi” “vô số

- 109 -
con gái nhà tử tế, có khi con gái khuê các nữa” mà không phải chỉ có phụ nữ
Việt Nam, có cả gái Tàu, con gái nước “con trời” cũng làm đĩ khá đông ở
những khách sạn lớn phố Hàng Buồm, Hàng Lọng, có cả những cô kỹ nữ
Nhật Bản bé nhỏ mắt một mí [9; 100-101], có cả phụ nữ Tây phương, hoặc
có chồng hoặc chưa chồng, hợp thành một phái truyền nhiễm bệnh hoa
liễu…Thế là đủ cả thế giới phụ nữ. Thế là cái nghề mại dâm đã sớm được
“quốc tế hóa”. Không chỉ dừng ở việc phản ánh, các cây bút phóng sự đã đi
sâu lý giải nguyên nhân của căn bệnh này, nguyên nhân dẫn đến “quốc tế
hóa” của cái nghề quái gở. Trước hết do nghèo khó khôn cùng. “Nghề làm đĩ
ở đâu cũng chung một đường lối cả. Sự nghèo khó là khởi điểm của đường
lối đó cũng như khởi điểm của trăm ngàn đường lối khác tối tăm ngập lụt
những bùn nhơ” (Đêm sông Hương). Sự khốn cùng là nguyên nhân đẩy
người phụ nữ vào con đường mại dâm. Họ cần sống, cần tiền để sống. Họ
phần nhiều là gái quê, thất nghiệp “Những đàn bà đủ các thứ tuổi, quần áo
lam lũ, rách rưới, rận chấy nhiều gớm chết. Trên mặt mũi và mình mẩy có
những dấu hiệu của bệnh giang mai chứ chẳng không. Dễ thường họ tự đánh
giá họ cho nên họ bán mình một cách rẻ đến nỗi không còn phải sợ gì sự
cạnh tranh phá giá nào nữa. Tại phố Mã Mây người ta thuê một căn phòng
nhỏ và một người đàn bà có hai hào. Tại phố Đường Thành, Cửa Đông trong
những cái hố sâu xung quanh trại lính hay là ở những bãi cỏ hoang giáp với
con đường xe lửa…thì cái giá tiền chỉ là năm xu hoặc nếu có sự cò kè bớt
một thêm hai thì lại chỉ còn là ba xu” [9; 106-107]. Có cả hạng làm đĩ vì bần
cùng trong chốc lát, đó là hạng phụ nữ hư hỏng đã có nghề hoặc một địa vị
gì đó trong xã hội nhưng vì sa ngã. Những nữ sinh nghèo muốn có món đồ
trang sức. Một số khác lo tiền nướng vào cờ bạc hay khao khát “sắm sửa một
thứ hàng phù phiếm chi đó” [9; 104]. Một số phụ nữ có chồng “kết duyên
với những ông viên chức ít lương nhưng mà lại cứ thích sống cảnh đời vương
giả” [9; 123]. Và các cô đầm, các cô gái phương Tây, “những đầm đĩ thực thụ

- 110 -
thường được che chở bằng một công việc gì, một cửa hàng gì hoặc là bằng
những tay làng chơi, hoặc những người đỡ đần thế lực, đến nỗi chỉ trông thấy
mặt họ thôi, bọn cảnh sát con gái hay là cả cảnh binh giới, đều phải sợ hãi, rồi
thì chịu nhắm mắt làm ngơ hơn là gây ra những việc lôi thôi to” [9; 123].
Các phóng sự cũng chỉ ra một nguyên nhân nữa: sản phẩm của cuộc
Âu hóa “Một làn sóng Âu hóa vừa đây đã nhóm lên trong phái thiếu niên
tràn vào đám dân chúng hủ lậu và như một làn sóng bạc đầu đã đánh đổ (dẫu
là chỉ có bề mặt) mất cả bàn thờ ông vải và lôi cuốn đi mất luân lý và phong
tục nghìn năm” [9; 114] “Tất cả các nhà chuyên trách đều kết án cái làn sóng
văn minh vật chất nghĩa là cuộc Âu hóa của thanh niên nam nữ” [9; 124].
Bọn lừa đảo, bạc bịp với tổ sư Ấm B, “trùm đảng bạc bịp”, vốn “dòng
dõi gia thế” cùng với Cả Ủn và lũ tay chân, Ấm B tạo ra một “lưới nhện”
của một “kỹ nghệ bạc bịp”. Những Tham Ngọc (Xuân), Ký Vũ, Ba Mỹ Ký,
Mỹ Bối, Vân…quay cuồng dưới bàn tay quỉ thuật của lão trùm. Qua đấy
chúng ta thấy được tình trạng và tốc độ lưu manh hóa của loại tiểu tư sản lớp
dưới và dân nghèo thành thị Việt Nam vào những năm 30 của thế kỷ trước.
Có người chơi bời lêu lổng (Vân). Có người nghèo đói phải lo chạy gạo từng
bữa, lại còn lo tiền thuốc cho mẹ già đau yếu (Ký Vũ). Có người vốn là thợ
mạ đồ vàng giả, làm ăn khá, rồi làm môn đồ Ấm B thành một “tay bạc bịp đã
lũa” bị sa hố bị một “bài học” ác nghiệt nên đổ bệnh hiểm nghèo (Ba Mỹ
Ký). Có người, vốn là đầy tớ, tinh ranh (Xuân) đến mức ông chủ cũng phục:
cho nó quần áo, cấp cả một vốn lớn hai chục bạc rồi mở rộng hai cánh cửa
giải phóng cho nó đi “chu du thiên hạ”. Độ ấy Xuân mới 15 tuổi. “Khi đội
lốt học trò, khi đội lốt cậu Ngẩu nhà quê, đã lăn lộn trong đám vã, đám trếch
(valetaille) trước khi đụng chạm với phái thợ, phái thầy.
Trước, người ta gọi nó là thằng, sau người ta lên chức cho nó là bác.
Sau nữa đến thầy, sau cùng, đến ông. Vốn là kẻ tinh khôn, anh chàng Xuân
coi đời là một lớp học. Sự lịch thiệp tìm ở cái giao thiệp, sự kiến thức góp

- 111 -
nhặt được trong báo chí, anh chàng Xuân càng biết đóng đủ mọi vai kịch
trên sân khấu cuộc đời” [28; 635]. Rồi đội lốt ông Tham Ngọc đến những
chỗ sang trọng trí thức, có thể đả động được cả đến cái bộ mặt trái của Hội
Quốc Liên” [28; 635].
Tất cả những con người ấy, những hành động ấy đều từ nguyên nhân:
nghèo đói, kinh tế khó khăn, “thời buổi chật vật, kiếm tiền” “Nói cho cùng,
chỉ tại kinh tế thôi” [28; 651]. Và tệ nạn xã hội kẻ giàu người nghèo đều
muốn “đỏ, đen”, thành kính “Đạo Đỏ Đen” đến nỗi, Vân, viết thư cho tác giả
(tôi, chú Ph…): “Chú phải biết - bọn Mường, bọn Mán ở các núi bây giờ
cũng biết tổ tôm, tài bàn đủ ngón rồi, văn minh ghê” [28; 645].
Vậy là những đói rách, những cảnh ngựa - người, những hủ tục hủ bại,
những kiếp sống ê chề, lừa đảo bịp bợm, bán trôn nuôi miệng…đều do xã
hội. “Cái xã hội này, thật vậy, là một xã hội khốn khổ khốn nạn quá đi mất.
Cái nghèo đói, sự bệ rạc về vật chất cũng như sự bệ rạc về tinh thần” [9;
105] Mỹ Bối, vốn là chủ cửa hàng vàng bạc, làm đệ tử của Ấm B…triết lý:
“Hiền lành tử tế vào thời buổi này không sống được, ông ạ. Thời buổi này là
thời buổi…Bá đạo, ông có nhận ra không?” [28; 653]. Đến như Ấm
B…quân sư nghề bạc bịp cũng phải thú nhận, phân bua: “Tại sao tôi, dòng
dõi gia thế lại làm đến cái nghề…bất nhã này ? Thưa ông nếu tôi có thật
không ra gì thì cái đó cũng chẳng phải lỗi tự tôi, tôi đã bị hại về hoàn cảnh
xấu của xã hội. Nhưng tôi chỉ phải tự trách mình và vẫn nên sự trách xã hội”
[28; 580].
Trong phóng sự Tôi kéo xe, Tam Lang cũng khẳng định:
“- Ở xã hội An Nam mà có hạng người kéo người là lỗi tại ai?
…Nếu ông đã cạn suy, tôi dám chắc mười mươi ông phải nói thật rằng:
- Lỗi tại xã hội” [16; 93].
Và qua hết các phóng sự của Ngô Tất Tố truy đến cùng là tội ác của bọn
nhân danh “làng” điều hành bộ máy xã hội ở thôn quê: những chánh hội, lý

- 112 -
trưởng, phó lý…cho đến trương tuần. Đói rách , ê chề cũng chính vì cái xã
hội đó.
Với ý thức trách nhiệm về ngòi bút của mình Tam Lang, Vũ Trọng
Phụng, Ngô Tất Tố đã tập trung nêu bật lên những góc khuất, những vấn đề
thời sự bức xúc của xã hội, truy tìm nguyên nhân và tích cực hơn đề xuất các
giải pháp, gợi ra cách cải tạo xã hội. Tất nhiên là cải tạo xã hội theo quan
niệm của các nhà văn lúc đó, không phải theo hướng cách mạng thay đổi
toàn thể chế độ xã hội. Cho nên, chúng ta dễ hiểu, cụ Thượng làng Lão Việt
của Ngô Tất Tố, trước khi chết ao ước phái trí thức để ý đến dân quê, “khai
hóa cho dân quê”. Cụ mong rằng sau khi cụ nhắm mắt : “ông (nhà văn –
Ph.M.) sẽ đem những tội ác của nó (những hủ tục, việc làng – Ph.M.) mà
phơi ra bóng mặt trời” [25; 216]. Và nhà văn đáp lại: “Cho được an ủi vong
hồn cụ, tôi phải minh oan cho cụ và cho những người như cụ bằng thiên
phóng sự này”. Lời cầu khẩn của cụ Thượng cũng chỉ là ảo tưởng. Và sự
hưởng ứng của nhà văn cũng chỉ là “phóng sự” mà thôi. Ở các nước khác,
như nhà văn Vũ Ngọc Phan đã viết: “Người ta thường căn cứ vào những
thiên phóng sự có giá trị để định lại pháp luật, sửa đổi hình phạt, cải tạo xã
hội…Không có lối văn nào thiết thực bằng văn phóng sự và không có lối
văn nào giúp ích cho việc cải cách cho nhà đương chức, nhà pháp luật và
nhà xã hội học bằng các thiên phóng sự [139; 505]. Ở Việt Nam thuộc địa
trước đây, không thể mong có được những điều ấy ở chính quyền thực dân
phong kiến.
Tam Lang chủ trương “cách mạng xã hội bằng cái thiện chứ không
gây tranh đấu giai cấp”. Theo ông người viết văn viết báo đều “ôm ấp một
hoài bão, một lý tưởng: cải tạo xã hội với một cuộc cách mạng bằng giấy bút,
đả phá mọi áp bức bất công” [142; 88]. Trong Tôi kéo xe, Tam Lang cải tạo xã
hội bằng đề nghị dùng xe ba bánh người đạp người (như xe xích lô hiện nay)
thay cho xe kéo (ngựa - người). Xe kéo làm nhục quốc thể nên bỏ đi thay bằng

- 113 -
xe người đạp người. “Coi nó lịch sự mà có vẻ nhân đạo hơn vì người đạp
cũng được ngồi, không phải co hai chân, cắm cổ cắm đầu mà chạy” [16; 100].
Vũ Trọng Phụng đề xuất giải pháp loại trừ dần nạn mại dâm bằng
cách hưởng ứng dự án Sellier, đại khái như: “Đóng cửa các nhà thanh lâu
hoặc bất cứ những nơi nào gây ra truỵ lạc, bài trừ bọn người sống về nghề
hoa nguyệt (chủ săm, mụ giầu, ma cô, bồi dắt gái…), chăm nom những
xưởng kỹ nghệ dùng nhân công đàn bà, con gái, truy nã bọn buôn người xuất
dương…Không có những phúc đường dành riêng cho bọn kỹ nữ nữa…Còn
đối với nạn hoa liễu, thì cách chiến đấu là: Giáo dục về nam nữ (education
sexuelle) bằng trường học, phim ảnh, diễn đàn, truyền đơn, yết thị…Trừng
trị rất nặng những kẻ, bất kể đàn ông hay đàn bà, đổ bệnh hoa liễu cho người
khác…[9; 170-171]. Nhưng theo nhà văn, thực hành được cũng không phải
là dễ như bác sĩ Joyeux đã nêu hai lý do: - Trình độ dân chúng thấp kém - Sự
tổ chức về mặt cai trị, tư pháp, cảnh sát và vệ sinh (tức y tế) chưa đủ dùng.
Vậy thì đó là công việc của tương lai. “Đến ngày ấy, trong xã hội Việt Nam
sẽ có nhiều sự thay đổi, nhiều cuộc “cách mệnh”, nhiều vụ “loạn lạc”. Người
ta sẽ bỏ nhà lục xì, giải tán ngạch đội con gái (tức cảnh sát theo dõi gái
điếm; chữ Pháp: Police de Moeurs = cảnh sát phong tục), đóng cửa những
nhà săm. Tòa án trừng trị bỏ tù những gái ăn sương, bọn ma cô, những người
đổ bệnh hoa liễu cho kẻ khác.
Người ta sẽ dạy bảo những điều cần biết về nam nữ giao hợp ở các
trường sơ học cho lũ trẻ con đương tuổi dậy thì!” [9; 173-194]. Cuối cùng
nhà văn kêu gọi: “Nhưng mà muốn đến được cái chặng đường ấy thì xin
những ai có tư tưởng xã hội, có bụng thương đời, trong máu còn đủ nhiệt độ
để mà bất bình về những mối bất công, nên sốt sắng lên một chút. Những
nhà viết báo, những ông dân biểu - nếu thật lòng muốn giải phóng cho phụ
nữ nước nhà thoát khỏi chế độ mại dâm nô lệ, nên sửa soạn kêu đòi cho
được cái luật Sellier, một cách cũng sốt sắng như các ngài vẫn kêu đòi tự do.
Vì rằng nếu không một ai nhúc nhích chút nào, thì các nhà cầm quyền
ở đây cũng chẳng phải hấp tấp mà làm gì” [9; 175]. Không chỉ nhạy cảm,
sắc sảo trong việc tiếp cận, lựa chọn vấn đề, sự việc, các cây bút Tam Lang,

- 114 -
Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố đều rất ráo riết trong việc khám phá phản ánh
bản chất của sự việc. Các nhà văn thường từ các hiện tượng lần trở lại
nguyên nhân, lý giải hiện tượng và ở một số trường hợp đã đề xuất giải
pháp. Viết Đêm sông Hương, Tôi kéo xe, Tam Lang không chỉ dừng lại ở
việc phản ánh, tố cáo hiện thực mà đã đi sâu lý giải bản chất xã hội của
những cái nghề nhọc nhằn, cực nhục đó. Ngô Tất Tố qua Tập án cái đình,
Việc làng cũng đẩy đến tận cùng, vạch rõ thủ phạm gây ra hủ tục và lý giải
nguyên nhân tồn tại những hủ tục man rợ ấy. Vũ Trọng Phụng cho thấy
nguyên nhân dẫn người nông dân đến tình cảnh phải “bật” khỏi làng quê,
bản quán, chạy ra chốn kinh thành để bị đẩy vào vòng bần cùng hóa mới
“chết thêm một lần thứ hai nữa” và bị tha hóa biến chất đến tồi tệ, khiến
người ta phải “hãi hùng kinh ngạc về loài người”. Ở Lục xì, Kỹ nghệ lấy Tây,
ông không chỉ chú tâm phản ánh hiện tượng “mọc” lên một cái nghề mới kỳ
quặc mà khẳng định đó là cả một “kỹ nghệ” có tổ chức, có cạnh tranh, mánh
lới, có đào tạo, học nghề, thất nghiệp - sản phẩm của chủ nghĩa thực dân ở
Việt Nam. Sâu xa hơn, Vũ Trọng Phụng còn lý giải bản chất “sức sống” của
cái nghề tuy là “hại” nhưng lại “là một nạn bất hủ”, một “sự hại cần thiết”,
cần cho sự duy trì xã hội.
Không dửng dưng vô cảm, hời hợt, Vũ Trọng Phụng, Tam Lang, Ngô
Tất Tố đã viết bằng cả tấm lòng nhập cuộc và ý thức trách nhiệm của người
cầm bút. Chính nhờ thế, phóng sự của các ông có ý nghĩa xã hội, giá trị nhân
văn sâu sắc.
Tiểu kết chƣơng 2
Trên cơ sở khảo sát sâu kỹ toàn bộ phóng sự của Vũ Trọng Phụng,
Ngô Tất Tố, Tam Lang, đặt trong nền chung của phóng sự và văn học Việt
Nam giai đoạn 1930-1945, rộng hơn, trong bối cảnh xã hội Việt Nam những
thập niên đầu thế kỷ XX, chương 2 của luận án tập trung phân tích làm sáng
tỏ những nội dung thẩm mỹ cơ bản trong di sản phóng sự của ba cây bút tiêu
biểu này.
Cầm bút trong một xã hội “khốn nạn”, “ối a bông phèng”, cả ba cây
bút “tả chân tuyệt xảo” này đã phát huy tối đa ưu thế của thể phóng sự,

- 115 -
phanh phui, mổ xẻ đến cùng những “ung nhọt” xấu xa nhơ nhớp của xã hội
với đủ các tệ nạn: Nạn mại dâm, nạn lừa đảo bịp bợm, nạn cờ bạc, nghiện
hút và bao trùm là nạn quan tham bóc lột tàn tệ, nạo vét đến xương tủy của
người dân. Những tệ nạn khủng khiếp ấy, tất dẫn đến những hậu quả tồi tệ:
sự bần cùng hóa, tha hóa thê thảm của con người và tình trạng suy đồi xuống
cấp trầm trọng về đạo đức, phong hóa.
Các phóng sự của Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Tam Lang có tính
chân thực cao: chi tiết sự việc, sự kiện, con người được khai thác triệt để,
đào sâu đến tận cùng sự thật. Các tác giả đồng thời là nhân chứng (hoặc
thông qua những nhân chứng tin cậy) mắt thấy tai nghe, ghi lại, có khi
phỏng vấn, gợi câu hỏi, dẫn dắt câu chuyện, làm cho câu chuyện hấp dẫn sinh
động và bộc lộ ý nghĩa sâu xa của nó, đồng thời cũng làm hiện lên chân dung
tính cách nhân vật.
Từ thực trạng xã hội ấy, từ tấm lòng, thái độ, trách nhiệm của người
cầm bút, các nhà văn phanh phui cái xấu, tố cáo tội ác bọn người có quyền,
có tiền, thông cảm với những nạn nhân xã hội, truy tìm nguyên nhân, đề xuất
cách giải quyết: Đói khổ nghèo nàn lạc hậu, nhưng nguyên nhân chính là do
xã hội, xã hội bần cùng hóa, tha hóa con người. Bước đầu các nhà văn đề
xuất giải pháp cải tạo xã hội theo quan điểm của họ lúc đó, tuy ít nhiều còn
mang tính chất cải lương: muốn cải tạo xã hội bằng việc thiện, bằng giấy bút
chứ “không gây ra đấu tranh giai cấp”, nhưng điều đó cũng thể hiện bản lĩnh,
tâm huyết của các nhà văn. Những thành tựu và ý nghĩa xã hội - chính trị sâu
xa của phóng sự Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Tam Lang là hệ quả tất yếu
từ quan niệm nghệ thuật tiến bộ của cả ba cây bút.

- 116 -
CHƢƠNG 3: ĐẶC ĐIỂM CỦA PHÓNG SỰ
TAM LANG, VŨ TRỌNG PHỤNG, NGÔ TẤT TỐ

Nằm chung trong phóng sự Việt Nam 1930 - 1945, do vậy, về mặt nội
dung cũng như những đặc sắc nghệ thuật của phóng sự Vũ Trọng Phụng,
Tam Lang, Ngô Tất Tố sẽ có chung một mẫu số. Mẫu số chung ấy đã được
khảo sát ở mặt này, mặt khác, khi lẻ tẻ, lúc khái quát trên những nét lớn.
Đi sâu vào phóng sự Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Tam Lang, từ góc
độ thể loại, chúng tôi thấy, phóng sự của ba tác giả này có những nét nổi
trội, độc đáo ở một số phương diện:
3.1. Cái tôi - chủ thể sáng tạo:
Theo chúng tôi, phóng sự với tư cách là một thể loại phải hội tụ một
số yếu tố: sự kiện cụ thể, sự kiện hiện tại đang diễn ra không thuộc về quá
khứ hay tương lai, sự kiện phải gắn với con người, xã hội hiện tại. Và như
vậy tính thời sự, tính chân thực và ý nghĩa xã hội sẽ làm nên giá trị của
phóng sự. Điều này cho phép chúng tôi tạm thời không đưa vào diện khảo
sát ở đây những tiểu thuyết, dù là tiểu thuyết phóng sự như Lều chõng của
Ngô Tất Tố, Giọt lệ sông Hương của Tam Lang, Số đỏ, Giông tố, Vỡ đê của
Vũ Trọng Phụng. Lều chõng là tiểu thuyết về sự giáo dục và khoa cử thời
phong kiến triều Nguyễn, làm sống lại không khí xã hội Việt Nam thời xưa
trong những kỳ thi cử. Bằng một ngòi bút tài hoa, sắc sảo, Ngô Tất Tố đã
dựng lại những cảnh những người, đặc biệt là khắc họa đậm nét tâm lý nhân
vật chính. Đào Vân Hạc tiêu biểu cho tầng lớp nho sĩ, ít nhiều giữ được chút
“thiên lương trong sáng”. Còn cái chế độ giáo dục và cách tổ chức thi cử lỗi
thời, thối nát thì cũng đã qua rồi. Giọt lệ sông Hương (Minh Châu lệ sử) là
quyển tiểu thuyết được xuất bản khá sớm (1930). Đây thực sự là một tiểu
thuyết. Một câu chuyện tình bi thảm, văn chương còn nhiều câu nhịp nhàng,

- 117 -
biền ngẫu. Nhân vật chính xưng “em”, tức Minh Châu, tự viết về mình.
Cũng như một số nhà văn hiện thực khác viết tiểu thuyết, như Ngô Tất Tố,
Nguyên Hồng, Tam Lang…Vũ Trọng Phụng xây dựng tiểu thuyết bằng
những kết cấu chặt chẽ, chia phần, chia chương, chia đoạn, nhân vật chính
xuyên suốt tác phẩm. Và cái chính là trong những tác phẩm ấy đậm đặc chất
phóng sự. Đúng như nhận xét của các tác giả Lược thảo lịch sử văn học Việt
Nam (Tập III): “Có thể nói các cuốn tiểu thuyết hiện thực của ta đều thoát
thai từ lối văn phóng sự. Có những nhà văn như Vũ Trọng Phụng chuyển từ
phóng sự sang tiểu thuyết; nhiều cuốn tiểu thuyết của ông chỉ là những thiên
phóng sự được tiểu thuyết hóa. Ngô Tất Tố, tác giả Tắt đèn đồng thời cũng
là tác giả “thiên phóng sự được tiểu thuyết hóa: Việc làng. Và Nguyên Hồng
tuy chưa viết phóng sự bao giờ, nhưng cuốn Bỉ vỏ, tác phẩm đầu tay của ông,
cũng bao hàm rất nhiều tính chất phóng sự” [135; 322]. Vậy nên tách phóng
sự và tiểu thuyết phóng sự sẽ có điều kiện làm rõ hơn đặc điểm phóng sự của
Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Tam Lang. Và cái “tôi” được chú ý ở đây là cái
“tôi” chủ thể sáng tạo, cái “tôi” nhà văn, nhà báo, không phải cái “tôi” nhập
vai, cái “tôi” nghệ thuật hóa.
3.1.1. Cái tôi bản lĩnh, giàu tâm huyết:
Nhạy cảm, sắc sảo dám nói sự thật - Cái sự thật đang được xã hội
quan tâm phải được phóng sự phản ánh kịp thời trong tinh thần chính xác,
xác thực và trách nhiệm. Cái “tôi” - ngôi thứ nhất nhập cuộc sống, xem xét
bản chất vấn đề, nêu lên và đặt giải pháp. Bởi thế người viết phóng sự cần có
bản lĩnh và tâm huyết. Tam Lang kể lại trong một bài tự thuật: “Bắt chước
Marise Choisy khoác bộ áo đĩ điếm thay y phục nhà văn, tôi lén nhà mang
nón áo phu xe, cầm hai càng xe, đưa chiếc xe từ nhà cai xe ra đường, chạy
thử kéo khách một chuyến về đêm để cảm giác được nỗi cực khổ nhọc nhằn
của kiếp ngựa người, những người phu xe chuyên nghiệp. Đi sâu vào đời

- 118 -
sống của những “người ngựa” này tôi đã lân la sống chung với một phu xe
nhà nghề để biết rõ bí mật của nghề, ghi lại, viết thành bài…Đến thiên
phóng sự Đêm sông Hương, tôi đã cất công vào Huế lần đầu tiên với dụng ý
tìm biết cuộc sống của những gái ăn sương cùng nỗi khổ cực nhọc nhằn của
những cô gái Huế nghèo làm nghề bị xã hội coi khinh” [142; 68-69]. Ngô
Tất Tố sống ở nông thôn nên mới viết được Việc làng, từng mở hiệu thuốc
Thọ y dân quán và viết sách thuốc cho Nhật Nam thư quán ở Hà Nội nên
mới viết được Dao cầu thuyền tán. Vũ Trọng Phụng tự đóng vai đứa ở để
dẫn chuyện, thuật chuyện về thực trạng đời sống của lớp người dưới đáy xã
hội cũ - thế giới của “cơm thầy cơm cô”. Thực ra những cây bút phóng sự
khác muốn điều tra, phỏng vấn, tìm hiểu sự việc đều phải nhập cuộc, phải
“đi thực tế” bằng cách này cách khác, có khi trực tiếp, có khi gián tiếp.
Thạch Lam, trong Hà Nội ban đêm (phóng sự về nạn mãi dâm ở Hà Nội)
cũng công nhận mình được mời đi hát bên Gia Lâm. “Tôi thuật lại dưới đây
một buổi đi hát mà không bao giờ tôi quên được vì cái buổi hát ấy làm cho
tôi hiểu rõ những sự khổ sở của chị em cô đào” [26; 703].
Các phóng sự của Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Tam Lang tập trung
vào những vấn đề bức xúc trong sinh hoạt xã hội: đời sống ở đô thị (Cạm
bẫy người, Cơm thầy cơm cô, Kỹ nghệ lấy Tây, Lục xì, Đêm sông Hương,
Tôi kéo xe…); những tệ nạn, hủ tục thối nát ở thôn quê (Việc làng, Tập án
cái đình, Một huyện ăn Tết…); những quan tham, những bọn người…ngợm
(Lọng cụt cán, Người…ngợm). Bấy nhiêu vấn đề được phát hiện kịp thời,
phanh phui, cảnh báo, có ý nghĩa xã hội sâu sắc, đòi hỏi người viết phóng sự
phải có tâm huyết, trách nhiệm bám sát cuộc sống mới nắm bắt được các sự
kiện, các chi tiết xác thực cụ thể. Đồng thời cũng phải có bản lĩnh, thậm chí
có khi phải dũng cảm để nói lên được những sự thật, không phù hợp, không
có lợi cho chính quyền hoặc những kẻ có quyền, có tiền của “thế lực đen”

- 119 -
trong xã hội. Trong Bốn mươi năm nói láo, Vũ Bằng đã kể về những ngày
làm báo Công dân có xu hướng đả kích quan trường, chống đối Chính phủ
bảo hộ với Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Tam Lang. Ông nêu lên một sự
việc “Tôi còn nhớ có một ông tri huyện họ Phạm làm tiền dân không được,
nhốt người ta vào nhà lao, đánh cho đến chết. Thư tố cáo gửi về nhà báo rồn
rập, chính gia đình nạn nhân lại ký giấy nhận chồng, cha họ bị đánh đến chết
và cam đoan chịu trách nhiệm nếu khai sai sự thật. Nhà báo, với mọi sự dè
dặt, chụp hình bức thư của gia đình nạn nhân lên và đặt vấn đề với các nhà
hữu trách một cách nhẹ nhàng, vậy mà số báo đăng tin ấy vừa ra, viên chánh
mật thám làm như trời sập, cho một lũ a dăng đến nhà báo mời cả chủ nhiệm
lẫn chủ bút đến để “trả lời” về một việc mà chi tiết sẽ được gợi ra sau.
Vô lý nhất là vừa đề cập đến vụ cố sát của viên tri huyện họ Phạm,
viên cò mật thám đập bàn đập ghế và tỏ ra tức bực, như chính y bị nhà báo
đả. Hơn thế lại còn bắt phải đình chỉ ngay loạt bài này và viết mấy câu xin
lỗi viên tri huyện” [37; 103]. Chính tập phóng sự Lọng cụt cán của Tam
Lang đụng đến các quan Nam triều nên đã bị cấm lưu hành, tàng trữ bởi Đạo
dụ của triều đình Huế. Như thế đủ biết, người viết phóng sự chỉ nhiệt tình,
tâm huyết thôi, không đủ mà còn phải có bản lĩnh đến những nơi cần đến,
can đảm nói lên sự thật, phơi bày mặt trái của xã hội bẩn thỉu, nhơ nhớp.
Mở đầu Kỹ nghệ lấy Tây, Vũ Trọng Phụng kể lại việc ngày mới đến
Thị Cầu lấy tài liệu, ông đã bị bọn lính lê dương nghi ngờ “ăn trộm ái tình”,
nạt nộ: “Tôi xin báo trước anh rằng nếu tôi bắt được quả tang anh làm một
chuyện bất lịch sự gì thì mặc lòng là thiệt hại cho tôi hoặc chỉ thiệt hại cho
ông bạn đồng ngũ của tôi ở đây, tôi cũng sẵn lòng “hầu hạ” anh ngay”. Và
khi thiên phóng sự này được in nhiều kỳ trên báo đã có những lá thư, trong
đó có cả của người Pháp gửi tới tòa soạn khuyên ngăn, “báo trước cho nhà
báo những sự kiện cáo mà nhà báo sẽ trải qua, nếu cứ tiếp tục đăng thiên

- 120 -
phóng sự này”. Có lúc nhà văn không phải là không băn khoăn, do dự: “Sợ
là hèn, nhưng cũng nhiều khi sợ không là hèn”. “Nhưng sức nặng từ trên cao
sẽ rơi xuống, nếu tôi cứ muốn nói nhiều…” [4; 86]. Và khi nghe bà Nghĩa,
cô giáo nhà Lục xì nhắc đến những “vị quận chúa” trong làng mại dâm,
trong nghề lấy Tây, nhưng vì sợ, nhà văn cũng không dám nêu tên những
con người danh tiếng ấy trong phóng sự của mình. Ông, thú nhận: “Những
đàn bà mà chúng ta thừa biết có cái danh tiếng vang lừng, song tôi không
thuật vào đây, vì rằng ở đời này vẫn sẵn có người thừa độc ác để lôi mình ra
tòa án [28; 825]. Hoặc có khi bị tai tiếng, bị chê trách về nhân cách, đức độ,
Vũ Trọng Phụng đã phải thanh minh: “cái việc “điều tra phỏng vấn” cũng bị
coi là một việc lấy cớ để đi chơi bậy, mà sự tường thuật những điều ấy lên
mặt báo cũng bị một số người coi là nối giáo cho giặc, dâm uế, khiêu dâm”.
“Nhưng tôi không phải đi “điều tra” các nhà săm, các tổ quỷ, ở những nơi
ngõ hẻm hang cùng. Không cần phải đút lót cho bọn bồi săm, bọn phu xe
đêm, cũng không cần phải ôm ấp vào lòng những gái đĩ có môn bài hay gái
đĩ lậu thuế, mà mới biết được cuộc đồi phong bại tục hay là những cái tai hại
của nạn mãi dâm.
Tôi chỉ việc điều tra trong những sách vở thảo luận về vấn đề ấy” [28;
830]. Vào đầu tập phóng sự Tôi kéo xe Tam Lang cũng phải phân bua “Xin
các bạn cho phép chúng tôi giấu những địa chỉ và tên người để chúng tôi có
thể tỏ được rằng: viết những trang ký sự này chúng tôi không có ý khen hoặc
chỉ trích ai, mục đích chỉ muốn phác họa một bức tranh tả các cảnh sinh hoạt
khổ sở của một hạng người trong xã hội” (Tôi kéo xe - 16, 9). Mà những
điều ấy, cảnh ấy là hoàn toàn có thực. Sau này, năm 1971, ông khẳng định
thêm với sinh viên Văn khoa Sài Gòn: “Chính tôi viết cuốn Giọt lệ sông
Hương là hoàn toàn tưởng tượng, bịa nhưng viết văn xã hội thì phải đi sâu
vào cảnh sống mới được. Cuốn Tôi kéo xe không có gì bịa đặt cả” [142; 17].

- 121 -
Trọng Lang cũng có lúc khó chịu: “Trong một tiệm nhảy, giữa hai cốc rượu,
một người đàn ông đã tìm đến tôi. Ông ta vận Tây, vẻ mặt lành và buồn, đột
ngột hỏi tôi:
- Ông có phải là Trọng Lang, tác giả Hà Nội lầm than?
Tôi hơi khó chịu. Vì từ lúc viết về các cô đào nhảy, tôi đã thành
một người “đáng ghét” của một vài Bar và của một số ít gái nhảy không…
"biết điều”.
Có người khuyên tôi: “Anh nên coi chừng!” [28; 122]. Như vậy, từ
những tâm lý “đề phòng” ở trên, chúng ta thấy rõ người viết phóng sự gặp
phải không ít những phiền toái.
Những năm đầu thế kỷ XX, văn học Việt Nam chuyển sang một quá
trình mới, hiện đại hóa, phát triển và định hình các thể loại văn học: tiểu
thuyết, truyện ngắn, kịch nói, phóng sự…Phóng sự gắn với báo chí. Báo chí
là cái nôi của phóng sự. Và người viết phóng sự cũng chính là người viết
báo. Theo Vũ Ngọc Phan thì “Những nhà viết báo nổi danh nhất hoàn cầu
đều là những nhà viết báo đã nổi danh về phóng sự” [138; 505]. Tam Lang,
Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố đều là những nhà báo cự phách. Tam Lang
viết cho Ngọ báo, Ích hữu, Tri tân và làm cả chủ bút báo Vịt đực; Vũ Trọng
Phụng viết cho các báo Nhật tân, Tương lai, Hà Nội báo; Tiểu thuyết thứ
bảy…Ngô Tất Tố viết cho báo Công dân, Con ong, Thời vụ, Hà Nội tân
văn…Chính nghề báo giúp, bắt buộc các nhà văn đi sâu, nhanh nhạy khám
phá hiện thực. Ngược lại các nhà văn đã gia tăng thêm chất “văn” cho các
phóng sự. Những bức xúc của đời sống xã hội lúc này đầy rẫy, phơi bày tất
cả những lố lăng, tha hóa, suy thoái đạo đức và thực trạng khốn khổ bần
cùng của những kiếp lầm than, từ thành thị tới nông thôn. Tam Lang, Vũ
Trọng Phụng tập trung phóng sự vào đời sống xã hội ở các đô thị: những
người lao động, những phu xe, đời sống của những đứa ở “cơm thầy cơm

- 122 -
cô”, những hạng người rởm đời, ích kỷ, đê tiện những cô gái “bán hoa” và
vấn nạn “kỹ nghệ lấy Tây”… Ngô Tất Tố đi vào những vấn đề, những hủ tục
ở thôn quê, nông dân cứ chết dần chết mòn vì những lệ làng, mà bọn hương
lý đặt ra để đục khoét dân lành.
Tập phóng sự đầu tiên trong văn chương Việt Nam là Tôi kéo xe
(1932) của Tam Lang. Ông cũng là người đầu tiên, hòa nhập với người lao
khổ, “mượn bộ quần áo nâu của một bạn áo ngắn khoác vào mình rồi mạnh
bạo đi làm xe”. Nhân vật “tôi” quan sát và chứng kiến những cảnh khổ của
người, những bất công ở đời. Người phu xe thiếu thuế bị đánh đập tàn nhẫn.
Có người giấu lại một hào trong gấu quần, bị cai xe khám được đánh ộc máu
mồm. Bữa ăn của họ ở các hàng cơm bẩn thỉu toàn những cái đầu thừa đuôi
thẹo: trứng ung, thịt ôi, cá ươn, gà toi, chó ốm! “Đó là chưa kể những món thịt
súp ở các hàng cơm Tây, họ đã ninh lấy nước, hay những món khoai thừa họ
bỏ vào nồi nước gạo rồi lại được cái bàn tay của những đứa tham lợi mò lên”
[26; 31]. Và nơi ở của họ là “một gian nhà lá vách xiêu cột vẹo, chật như cái
hũ, chứa đến chục người” mà ở đấy còn có bàn đèn thuốc phiện, bài bạc.
Cùng năm 1932, Tam Lang viết phóng sự Đêm sông Hương bằng ngòi
bút sắc sảo, tác giả ghi lại những điều “mắt thấy tai nghe”: những nhà săm
trá hình, những thân phận thấp hèn vì cuộc mưu sinh, những cảnh đời ngang
trái của cô gái con quan, những người đàn bà giàu có sa chân vào chốn bùn
nhơ vì những lý do khác.
Vũ Trọng Phụng, “ông vua phóng sự” đi vào “làng bịp”, len lỏi mọi
ngóc ngách bẩn thỉu, vô lương tâm của những kẻ làm “nghề” cờ bạc. Ông
vạch trần những thủ đoạn, những “đòn”, “ngón”, “mánh”…của một tổ chức
“đen” dưới sự điều khiển của một “tổ sư”, một tên trùm sừng sỏ. Bọn bạc
bịp giăng mắc cạm bẫy khắp nơi, “Săn đón khắp các cửa ô của Hà thành,
bao bọc Hà thành vào trong một “lưới nhện” ghê gớm”, tàn phá đạo đức, đời

- 123 -
sống xã hội (Cạm bẫy người). Tiếp đó Vũ Trọng Phụng phát hiện và điều tra
một cái nghề “độc đáo” chưa nơi nào có: nghề lấy Tây. Đây là một nghề
kiếm ăn, kiếm tiền, thực chất là một cách mại dâm mạt hạng, kiêm đầy tớ có
thời hạn cho bọn lê dương trong thời gian đăng lính ở Việt Nam. Đây là
“những sự trạng người trước chưa ai gặp thấy, những sự trạng người sau
không thấy nữa, những sự trạng chỉ riêng mình được mục kích” (Phùng Tất
Đắc). Đúng là chỉ riêng Vũ Trọng Phụng được chứng kiến, nhận xét, bình
luận về cái “kỹ nghệ lấy Tây” quái gở ấy.
Ở phóng sự Lục xì, Vũ Trọng Phụng tiếp cận, miêu tả nạn mại dâm từ
một góc độ khác, điều tra khảo cứu như một công trình khoa học. Vì vậy
điểm đến trước hết của nhà văn là tìm gặp Giám đốc nhà Lục xì (Bệnh viện
chữa trị bệnh cho các cô gái mại dâm), bác sĩ Joyeux để lấy tài liệu, nghiên
cứu tài liệu, đến nhà Lục xì quan sát kiểm chứng, từ đó nhận xét toàn cảnh
nạn mại dâm ở Hà Nội.
Viết về cuộc sống bần cùng của những con sen thằng ở, Vũ Trọng
Phụng đóng vai, nhập vào môi trường “cơm thầy cơm cô” để quan sát cái
môi trường ấy cũng là cái xã hội hiện tại “Nó đã làm cho bọn trẻ đực vào
nhà hỏa lò với một bọn trẻ cái làm nghề mại dâm”. Và mở rộng ra nhiều
kiểu người, nhiều lớp người khác mà ở họ ti tiện, bất nhân, xảo quyệt trở
thành lối sống, nhân cách.
Ngô Tất Tố, bám sát nông thôn, khảo sát mô tả những hủ tục ở chốn
đình trung và những tai vạ mà người dân lành phải gánh chịu (Tâp án cái
đình), những lệ làng quái gở, man rợ, nạn “xôi thịt”, những cảnh đau lòng
xung quanh miếng ăn (Việc làng). Bằng cái nhìn chân thực sâu sắc Ngô Tất
Tố “mục kích cảnh điêu linh cùng khổ của dân lụt”. Để thay bữa cơm hàng
ngày, họ om đất với cá, lấy hạt nhãn, vỏ mít, bã đậu, củ chuối, bèo
tây…đánh lừa dạ dày (Làm no hay Cái ăn trong những ngày nước ngập).

- 124 -
Nhà văn bóc trần những thủ đoạn làm tiền của bọn lang băm dốt nát vô
lương tâm (Dao cầu thuyền tán)…

Thạch Lam, Trọng Lang cũng viết về nạn mại dâm ở Hà Nội. Hà Nội
ban đêm (1933) của Thạch Lam gồm một số chuyện kể: một cô gái xinh đẹp
ở phố, nhưng nghèo, cô muốn phong lưu, cô dùng vốn “tự có” - Vợ thầy ký
vì cờ bạc đi kiếm tiền trả nợ - Những cô gái bán dâm đã có “số đỏ” - Một cô
gái bố chết nằm trong quan tài ở phòng trong, phải gượng cười, gượng hát
với khách ở nhà ngoài…Năm 1938, Trọng Lang xuất bản Hà Nội lầm than
“nói đến một hạng phụ nữ nô lệ tạm thời trong những đêm mua vui của
người có tiền”. Nhà văn khảo sát mô tả các bước đường “tiến thân” của họ:
gái nhảy, cô đầu, nhà thổ. Và cái đói rét, nhục nhã, đau đớn của họ cũng theo
đó mà tăng lên. Cũng như Thạch Lam, phóng sự của Trọng Lang là những
cảnh đời, số phận cùng những mánh khóe xoay tiền của những cô gái mại
dâm. Cả Thạch Lam và Trọng Lang đều không nêu được nguyên nhân
những tệ nạn xã hội. Và cũng chỉ nói những điều, những việc diễn ra mà
chưa đi tới cùng, chưa khái quát lên những hậu quả tai hại như là “quốc nạn”
lại càng chưa thể đề ra những biện pháp để loại trừ những ung nhọt nhức
nhối đang hủy hoại nòi giống. Phóng sự của Thạch Lam, Trọng Lang khác
với các phóng sự của Vũ Trọng Phụng, Tam Lang, Ngô Tất Tố là ở đó.

3.1.2. Cái tôi hiểu biết sâu rộng.

Đọc các phóng sự của Tam Lang, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố,
chúng ta không thể không đặt câu hỏi: Sự hiểu biết, vốn văn hóa, kiến thức
văn chương của các nhà văn này sao lại phong phú đến vậy? Nhất là Vũ
Trọng Phụng và Ngô Tất Tố. Ngô Tất Tố đã đành. Năm 22 tuổi ông ứng thí
thi Hương và đỗ đầu khảo hạch toàn tỉnh Bắc Ninh, sau đó đi dạy học rồi
viết văn, viết báo. Vũ Trọng Phụng chỉ mới có bằng tiểu học, vào đời kiếm
sống bằng nghề báo, nghề văn và lúc này còn rất trẻ, mới ngơài hai mươi

- 125 -
tuổi. Tam Lang sinh trưởng trong một gia đình công chức từng học trường
sư phạm, nhưng bỏ dở chuyển sang viết báo.

Vốn kiến thức không phải nhà văn nào cũng bộc lộ như nhau. Tam
Lang hiểu rất kỹ sự cùng cực của người phu xe, giọt nước mắt của họ “khô
khan như pha lẫn máu” và cả những mánh khóe, sự tha hóa của họ, sự tàn ác
dã man của bọn chủ xe, cai xe. Ông đả kích triều đình Huế, quan phủ, quan
huyện, quan hưu (Nguyễn Năng Quốc, Hoàng Trọng Phu) đến những ông
Tây An Nam, những bọn người…ngợm (chủ báo, chủ đất, chủ mồ, chủ
mỏ…) và phanh phui tệ nạn mại dâm…tức là đi vào nhiều góc khuất của đời
sống xã hội. Đấy là lợi thế của người làm báo. Nghề làm báo, tác phong
người làm báo nhanh nhạy xông xáo giúp cho Tam Lang thực hiện được
mục đích của mình.
Cũng như Tam Lang, Vũ Trọng Phụng khơi đến tận cùng sự lừa bịp
của bọn cờ bạc bịp, sự khổ nhục của người dân quê ra Hà thành “để chết đói
một lần thứ hai” trong cảnh sống “cơm thầy cơm cô”, miêu tả cái nghề quái
đản - nghề lấy Tây, thực chất cũng là mại dâm và những tệ nạn, hậu quả của
mại dâm, thành ung nhọt nhức nhối xã hội.
Ngô Tất Tố có một vùng trời riêng rộng lớn - nông thôn Việt Nam với
những người nông dân bé cổ thấp miệng, thoi thóp dưới những ách nặng
man rợ của những hủ tục.
Chúng ta thấy vốn sống thực tế tràn ngập các tác phẩm của cả ba nhà
văn, đồng thời còn nhận ra vốn văn hóa sâu rộng ở từng cây bút phóng sự.
Vốn văn hóa, sự hiểu biết này hình thành trong quá trình học hỏi, tích lũy
liên tục kiên trì bền bỉ. Tam Lang, Ngô Tất Tố là thế. Vũ Trọng Phụng càng
phải thế: “Dù bận rộn việc viết lách đến mấy đi nữa, tuần nào anh cũng đọc
hàng chục tờ báo Pháp để học thêm”. “Phụng là người có thứ tự, phàm có tài
liệu gì hay, lạ thì cất đi, cho nên vào lúc một tuần báo ở Huế đả kích anh viết

- 126 -
văn khiêu dâm, anh đã lên tiếng trả lời rất vững, kèm nhiều chứng cớ và tài
liệu rất “búa” làm cho một linh mục phải nhận là anh có lý” [37; 110]. Cái
tôi – tác giả không chỉ chăm chú vào những sự, những việc đang khai thác,
mô tả, mà thường có những liên hệ so sánh, dẫn chứng kiến thức sách vở
đông tây kim cổ trong nước ngoài nước. Điều này ít thấy ở các cây bút viết
phóng sự cùng thời và cũng ít gặp trong phóng sự Việt Nam đương đại.
Tam Lang, Vũ Trọng Phụng tôn sùng nữ nhà văn Marise Choisy, trẻ,
đẹp, sáu tháng mặc bộ quần áo gái điếm: “Bắt chước Marise Choisy đổi lấy
bộ áo con đòi vào ở thổ, tôi cũng mượn bộ quần áo nâu của bạn áo ngắn,
khoác vào mình rồi mạnh bạo đi làm xe” [26; 18] “Marise Choisy mới năm
ngoái đây cũng đã phải khoác áo con đòi. Mà thiên phóng sự “Carnet d’une
femme de chambre 1933” không phải là không có giá trị trước mắt nhà xã
hội học” [4; 88]. Vốn kiến thức của Tam Lang được tích lũy qua sách báo và
chủ yếu là qua những lần đi vào thực tế đời sống. Ông đề cập tới R. Rolland
(1866-1944) nhà văn tiến bộ Pháp và phê phán việc triều đình Huế cấm lưu
hành quyển Comment empêcher la guerre của nhà văn này. Ông đả kích tri phủ
Nho Quan, Ninh Bình Nguyễn Lập Lễ “không bao giờ chịu mở cho to con mắt
để đọc một trang sách nói về chủ nghĩa của Lý Ninh” (Lênin) [26; 118].
Phóng sự của Vũ Trọng Phụng kể chuyện thằng nhỏ mà tác giả đã
nuôi trong một phút thích khôi hài để khi bạn hữu đến chơi nhà “anh nào
cũng gập đôi người lại mà cười như phim Charlot” [4; 134], chuyện đối đáp
giữa hai bố con một nhà vô phúc kia mà “Victor Hugo cũng chưa hề tưởng
tượng ra được một kẻ khốn nạn đến như thế” [4; 93]. Vũ Trọng Phụng dẫn ra
cả những nhận xét đánh giá từ các thông tin báo chí Pháp: Bullet Médico
Chir, L’Oeuvre…về sự bỉ ổi của bọn người thuộc ngạch “đội con gái” ở An
Nam cũng như ở Pháp hoặc ý kiến của các nhà văn lớn của Pháp đánh giá
con người: “Victor Hugo đã nói: Trong nhân loại, không có một ai lại trong

- 127 -
sạch đến bậc không đáng phải chịu một thứ hình phạt gì”. Anatole France
cũng viết: “Sự ngây thơ thường chỉ là một cái may hơn là một cái đức hạnh”
[28; 804]. Có khi nhà văn dẫn ngạn ngữ Pháp: “Tôi nhắc lại với bà Limougie
câu này: La peur du gendarime est le commencement de la sagesse” (Đã biết
sợ cảnh binh thì đã bắt đầu trở nên khôn và ngoan) [28; 803]. Và cái vốn văn
hóa văn chương Việt Nam từ dân gian đến bác học, từ cổ điển đến hiện đại
đã được Vũ Trọng Phung vận dụng rất linh hoạt, sinh động, phong phú. dưới
những hình thức khác nhau làm cho phóng sự Vũ Trọng Phụng có nhiều sắc
thái thẩm mỹ. Ông dùng mấy điệu hát chèo thịnh hành ở làng quê. Ông nhại
một câu ca dao để nói về một me Tây có chồng về Pháp. “Mặt sông nước
chảy lờ đờ - ông về bên ấy bao giờ ông sang” [4; 50] . Ông dựa vào thơ Hồ
Xuân Hương để lý giải nguyên nhân các cô gái thành thị trở nên hư hỏng:
“chữ liễu có nét ngang khi duyên thiên chưa thấy nhô đầu dọc” [28; 806].
Ông đổi lại một câu thơ của Nguyễn Huy Tự trong Cung oán ngâm khúc khi
thấy các me Tây “có những nét mặt khó tả” thập thò trong cánh cửa hay sau
bức mành mành:

Bóng gương lấp ló trong mành


Cỏ cây cũng…sợ nổi tình mây mưa [4; 43]

Đặc biệt ông lẩy Kiều, nhại Kiều rất nhiều, rất hóm, rất hoạt. Có khi
dùng nguyên văn để nói về các cô gái trong nghề lấy Tây, làm đĩ: Nhị đào
thà bẻ cho người tình chung. Này con thuộc lấy làm lòng - Vành ngoài bảy
chữ, vành trong tám nghề. Nước vỏ lựu máu mào gà - Đổi hoa lót xuống
chiếu nằm…Có khi nhại Kiều cho hợp với bọn cờ gian bạc lận: Tấm lòng đi
bịp từ nay xin chừa. Có khi diễn nôm câu Kiều cho đúng cảnh, đúng tình:
“cái tòa thiên nhiên dầy dầy sẵn đúc đã bị những mảnh lượt là phủ kín”
[4; 80]. Vũ Trọng Phụng hài hước khi nhắc đến chuyện tình của con sen Đũi

- 128 -
và so sánh với Đạm Thủy - Tố Tâm trong Tố Tâm, Mộng Hà và Lệ Anh
trong Tuyết hồng lệ sử, chuyện hai anh lính lê dương “cầu hôn” bà Kiểm
Lâm “Bà Kiểm Lâm nào phải đâu còn là người mà “mê nàng bao nhiêu
người làm thơ” như Mỵ Nương của ông Nguyễn Nhược Pháp” [4; 68]…
Phóng sự Ngô Tất Tố chứa đựng một khối lượng kiến thức sâu rộng
mà nhà văn có được qua con đường học hành và vốn sống phong phú ở làng
quê. Ngô Tất Tố thực sự là uyên bác. Nhà văn đã viết: “Tôi đã lăn lóc nhiều
năm ở thôn quê…Tôi đem cái ổ hủ bại mọi rợ chắp lại làm thiên điều tra…”
[25; 158]. Qua tâm sự của cụ Thượng làng Lão Việt trong giờ hấp hối, Ngô
Tất Tố bày tỏ quan điểm của mình: “Những cái tục lệ quái gở, mọi rợ mới
được tự do kế tiếp nhau, chồng chất trên vai chúng tôi.
Nhiều lúc tôi muốn hắt cái gánh nặng ấy đi, nhưng sức một mình
không thể làm nổi, đành phải è cổ mà chịu.
Một người chăm chỉ, cần kiệm, lao lực như tôi, chỉ vì một gánh tệ tục
đè ép, đến nỗi suốt đời không ngóc đầu được, bây giờ sắp chết, gánh tệ tục
ấy vẫn còn đè ép chưa tha, ông bảo có oan uổng không?
Vậy mà nó vẫn được coi như vị thần thiêng, không ai đả động đến nó.
Lạ thay!” [25; 216]. Gắn với những hiểu biết tường tận về nông thôn, những
phong tục và hủ tục là những hiểu biết sâu sắc của nhà văn về lịch sử, văn
hóa phương Đông: Từ những trò chơi dân gian đố lá của tuổi thơ trong sáng
đến chữ nghĩa điển cố trong các tác phẩm văn chương Việt Nam; từ cách
mua chức đến lai lịch cái đình; từ các luật lệ ở làng quê đến sử ta, sử
Tàu…Nhà văn giải thích: “Trong các món chơi đùa của trẻ con, đố là thứ có
ích. Cổ nhân nghĩ ra kiểu ấy, không phải chỉ cốt cho con trẻ tiêu khiển, các
cụ còn muốn cho chúng nó thuộc biết các loài cây nữa, đọc Truyện Kiều
thấy câu:
May thay giải cấu tương phùng
Gặp tuần đố lá, thỏa lòng tìm hoa

- 129 -
Hẳn ông đã tưởng tượng được cái thú vị của món chơi ấy?” [27; 46].
Ngô Tất Tố ghi lại vì một Góc chiếu giữa đình, mua chức lý Cựu,
người nông dân phải bán trâu bán ruộng lấy tiền nộp cho làng, khao làng
một bữa, mà còn mang nợ, vợ phải đi ở vú. Và chức ông đám: “Phận sự của
viên chức này đại khái chia ra hai hạng: Làng nào có riêng ông từ, ông tế,
ông đám chỉ có một việc nuôi lợn cúng thần, người ta gọi là cai đám. Làng
nào không có ông từ, ông tế, ông đám tuy không phải vì nhà thánh phụng
dưỡng con heo, nhưng phải kiêm lĩnh cả hai chức đó, nghĩa là ngày thường
ông đám là kẻ trông nom đình đền, khi có đình đám cúng bái, ông đám được
súng sính mũ áo, làm chủ các cuộc tế lễ” [25; 165]. Chức thủ hiệu chỉ là
người cầm dùi đánh trống. Khi làng có đám “thủ hiệu được có sở riêng tại
đình, góp tiền góp gạo ăn uống ở đó, khi nào đoạn đám mới về”. Những
ngày rước thần, thủ hiệu được đóng đai, đi ủng, đội mũ võ, mặc áo thụng, có
người che lọng có người cắp cháp đi hầu. “Xứng với bấy nhiêu sự sang
trọng, ngoài những quần lành, áo mới, các vị thủ hiệu lúc nào cũng phải xỏ
chân vào giầy, không được phép đi dép, đi guốc” [25; 237]. Những tục lệ hủ
bại: Lệ nuôi “ông ỷ”, gà thờ, lệ vào ngôi của dân ngụ cư để được ngang hàng
với những người khác. “Ở làng mà không có ngôi, thật là một sự nhục nhã.
Những lúc tứ quý, kỳ phúc, người ta thì phần ăn, phần gói, mình thì chẳng
có miếng gì. Những lúc hội hè đình đám, người ta rước cờ, rước quạt, mình
chỉ đóng vai khiêng chiêng. Như thế cũng đã khổ rồi. Hơn nữa lỡ có cha già
mẹ héo làng giáp có chôn cho đâu!” [25; 221]. Nhà văn đưa cả sử ta, sử Tàu
ra để làm rõ việc thờ thành hoàng. “Chúng ta đã thường thấy trong sách Tàu:
chú cai phu có thể làm vua nhà Hán, anh bợm bạc có thể làm vua nhà Tống,
thằng nhỏ của chùa Hoàng Giác có thể làm vua nhà Minh và vô số những
ông cắn cơm không vỡ chỉ nhờ cái tài đẻ vào nhà vua mà nghiễm nhiên ngồi
trên ngai vàng, cố nhiên chúng ta không lấy làm lạ, khi thấy những ông chết

- 130 -
đói, chết rét, những ông ăn cướp ăn trộm ngang nhiên được làm thượng đẳng
phúc thần” [25; 147]. Và lai lịch cái đình: “Cái đình của ta vốn là bắt chước
của Tàu: trong đời Tần Hán, hương thôn nước Tàu thường thường có đình
cất ở bên đường, năm dặm một cái nhỏ, mười dặm một cái lớn. Khi ấy cái
đình chỉ là cái quán làm nơi hành khách nghỉ chân và chỗ cung ứng những
cuộc đưa tiễn. Truyện Kiều đã nói đến. Như là:
Bề ngoài mười dặm trường đình
Vương ông bầy tiệc tiễn hành đưa theo.
Hay là:
Tiễn đưa một chén quan hà
Xuân đình thoát đã đổi ra cao đình
Ấy đó, công dụng cái đình của Tàu ngày xưa, chẳng qua có vậy. Vậy
mà đến khi sang ta, nó đã thay đổi khác hẳn [25; 155-156].
Cũng không phải chỉ có thế, độ sâu sắc, uyên thâm của ba nhà phóng
sự, ba nhà văn còn là ở chỗ các tác phẩm của các ông đã vượt khỏi những
mô tả, phản ánh sự việc đơn thuần, mà đi sâu phân tích, đưa dẫn chứng, số
liệu, lý giải, rút ra nhận xét mang tính khảo cứu. Tam Lang châm biếm, đả
kích nhưng vẫn dựa vào cứ liệu xác thực: “Chùa Quán Sứ! Cái tên gọi ấy, cứ
như Nam sử chép lại thì nguyên từ đời Hậu Lê đặt ra.
Vì ngôi chùa đường Richaud (nay là phố Quán Sứ) ngoài việc chứa
mấy ông sư còn là chỗ để mấy ông sứ Tàu mỗi khi sang sứ bên ta, tạm trú.
Vật đổi sao dời, những “chuyện cổ” ấy đến nay không còn nữa.
Các quan Tàu sang ta bây giờ đã có lãnh sự quán của họ.
Mà các quan ta bây giờ mỗi khi về chí sĩ cũng đổi “mốt” chơi không
làm bạn với cúc tùng như các quan đời trước nữa để làm bạn với hoa Đàm
đuốc Tuệ, hay nói nôm na cho dễ hiểu là các ngài cũng tấp tểnh làm sư”.
Các quan hưu Nguyễn Năng Quốc, Hoàng Trọng Phu, rồi vô số quan lớn,

- 131 -
quan bé ở Bắc, Trung Kỳ đua nhau đến chùa này, vậy chùa Quán Sứ nên gọi
phắt nó là chùa…”Quan Sư”! (Đổi tên chùa Quán Sứ) [26; 112]. Phóng sự
Một ngày ở xứ Chàm của Tam Lang thì đúng là một khảo cứu về đời sống ,
sinh hoạt phong tục của người Chàm. Trong gia đình, người đàn bà đóng vai
trò trụ cột, từ việc nhỏ đến việc lớn. Người Chàm nhà nào cũng có “hòn đá
đánh lửa riêng, cho lửa bắt vào một thứ mồi làm bằng một chất nõn cây mềm
phơi khô tẩm nhựa thông để sẵn”. Người Chàm không ai nghiện thuốc
phiện nhưng “trầu thuốc thì cả đàn ông và đàn bà đều ăn luôn mồm, có
người một ngày nhai đến vài chục miếng”. Họ “không cần biết thế nào là
một chiếc đồng hồ, thế nào là một cuốn lịch, chỉ lấy mặt trời chia ngày, mặt
trăng chia tháng để sống” [26; 119]. Nhiều tập phóng sự của Vũ Trọng
Phụng mang tính khảo cứu. Khảo cứu về “làng nghề”. Làng nghề bịp (Cạm
bẫy người), làng nghề lấy Tây (Kỹ nghệ lấy Tây). Các làng nghề ấy có cơ
chế tổ chức, tôn ti trật tự của một “kỹ nghệ”. Công trình khảo cứu rõ nhất
của Vũ Trọng Phụng là Lục xì. Chính nhà văn đã viết ngay khi mở đầu
phóng sự này: “Phóng sự về nhà Lục xì thì đó lại còn là một công cuộc khảo
cứu về nạn mại dâm” [28; 774].
Để thực hiện công trình khảo cứu có giá trị khoa học, nhà văn tìm gặp
ông Giám đốc nhà Lục xì: Bác sĩ Joyeux, ông này còn giữ cả chức Giám đốc
ngạch Vệ sinh thành phố (ngày nay là Sở Y tế) để lấy tài liệu nghiên cứu và
đến nhà Lục xì (có thể là gián tiếp) để phân tích, xác minh. Nhà văn trao đổi
với bác sĩ để biết rõ từ “Lục xì” quái gở do phiên âm chữ luck sir trong tiếng
Anh là khám bệnh, lại đi hỏi han các cụ già để biết “một ít lịch sử”
nhà Lục xì từ khởi thủy trước năm 1900 ở phố Hàng Cân, năm 1902 trở đi ở
phố Hàng Lọng và hiện tại, năm 1926 ở góc phố trước Tòa án Hà Nội. Ở đây
có những con số thật nhức nhối và hãi hùng. Đất Hà Thành “ngàn năm văn
vật” thời ấy có 5000 gái mại dâm chính thức. “Cứ 35 người tử tế thì lại có
một người làm đĩ”, chưa kể đến con số cô đầu, gái nhảy ở các vùng ngoại ô.

- 132 -
Và hậu quả là năm 1914 binh lính Pháp ở Bắc Kỳ 74% mắc bệnh hoa liễu,
những người chột và mù của dân ta, 70% là do vi trùng lậu, “bốn nghìn trẻ
con mới đẻ mà chết thì trung bình có chừng một nghìn đứa trẻ, theo lối nói
kiêng của người mình là sài, đẹn, là bỏ là mất, là khó nuôi, nhưng theo khoa
học, thì chết vì bố mẹ có nọc giang mai, hoặc những biến chứng của bệnh
ấy” [28; 783]. Lại một chỗ khác nhà văn đưa ra con số: 16 mụ Tú Bà với 185
gái nhà thổ, 37 ông chủ săm, 613 ông chủ tiệm thuốc phiện, 5.000 gái đĩ lậu
thuế…[28; 790]. “Nhà Lục xì của Hà Nội chỉ chứa được có 200 người, mặc
lòng số kỹ nữ phải bắt giam vào Lục xì là những 5.000. Trong khi đó “đội
con gái” có năm, sáu người phải đi kiểm phòng ngủ trong các nhà săm” [28;
791]. Nhà văn khảo sát kỹ và phân loại các đối tượng nghiên cứu của mình:
Gái đĩ có giấy, có môn bài. Gái đĩ lậu. Cô đầu (ả đào). Gái nhảy. Me Tây Đầm
lai. Đầm thật. Theo phóng sự Thanh niên trụy lạc của Nguyễn Đình Lạp, số gái
làm nghề mại dâm ở Hà Nội cũng là 5.000, số cô đầu là 1.400 (ở các vùng
ngoại ô: Khâm Thiên, Ngã Tư Sở, Gia Quất, Gia Lâm…) số gái nhảy là 200,
tiêm hút là 300 với 1.500 bàn đèn [115; 283-284]. Nêu thêm như thế để thấy
những con số Vũ Trọng Phụng đưa ra là có cơ sở, tin cậy.
Công trình khảo cứu của Vũ Trọng Phụng, lý giải về những “nguyên
nhân đã làm lung lay cả một nền luân lý và làm cho bệnh hoa liễu càng
truyền nhiễm mạnh” đó là cái nghèo, là “sự khao khát về học hành, sức cám
dỗ của những nghề nghiệp mới đã đưa dắt số đông thiếu niên đến nơi phồn
hoa đô hội để mà thoát khỏi những luân lý của gia đình, sự say sưa cách làm
giàu dễ dàng, sự hưởng thụ mọi cách ăn chơi của thành phố Tây, sự vô cai
quản của bố mẹ” [9; 26]. Tác giả nêu lên cái “quốc nạn” đó không thể cứu
chữa được, nhà cầm quyền cũng không dám cứu chữa triệt để. Đó là sự hại
cần có, “một nạn bất hủ, không tránh được”. Tuy “nó là một vết thương rất
đáng ghê tởm của nhân loại”, song “không có nó thì nhân loại sẽ không
đứng vững và mất thế quân bình”. Ở Hà Nội thời ấy, nếu xóa bỏ nạn mại

- 133 -
dâm thì theo tác giả, 900 binh lính không có vợ không theo nổi lý thuyết
nhịn nhục, sẽ bất bình, các mụ Tú Bà, 5.000 gái đĩ thất nghiệp, các ông chủ
săm, bồi săm, các ông chủ tiệm thuốc phiện sẽ làm loạn cả Kinh Đô, bọn ma
cô, phu xe đêm mất việc sẽ gây ra những vụ trộm cướp nguy hiểm vô
cùng…Đó là lý do, khiến người ta chỉ đối phó qua loa, làm “cho phải phép”
đối với một tai họa khủng khiếp như vậy. Các phóng sự về nạn mại dâm của
Tam Lang (Đêm sông Hương), Trọng Lang (Hà Nội lầm than), Thạch Lam
(Hà Nội ban đêm)…chủ yếu phản ánh những thảm khốc và cảnh báo những
nguy cơ làm băng hoại đạo đức, nhân phẩm, giống nòi bằng những nghiên
cứu, luận cứ khoa học.
Ở phóng sự của Ngô Tất Tố, dù dài, dù ngắn, người đọc đều nhận ra
chất khảo cứu. Kiến thức về y học trong Dao cầu thuyền tán, kiến thức về
địa văn hóa trong Non nước Cao Bằng, kiến thức về các phong tục, hủ tục ở
làng quê trong Tập án cái đình, Việc làng, khi cần thiết ông chú dẫn cả sử
sách để minh chứng. Nhà văn giải thích cấu trúc bên trong của ngôi đình rất
tỉ mỉ: “Thường thường cái đình ở nhà quê, không kể hành lang, giải vũ, ít ra
cũng phải có đủ ba lớp. Ngoài nhất thì nhà tiền tế, dùng để tế lễ khi có đám
lớn. Chính giữa là đình dùng để họp hành ăn uống và lễ bái trong các tiệc
thường. Chuôm bầu là lớp trong nhất, nối liền với đình bằng kiểu “trồng
diêm” hay kiểu “chuôi duộc”, long ngai bài vị của thành hoàng để ở trong
đó. Bởi vì thành hoàng làng nào tức là vua của làng ấy, cho nên chuôm bầu
mới được coi là nơi nghiêm cẩn, người ta hay gọi nó là hậu cung.
Ngoài chỗ chuôm bầu giáp nhau với đình, tất nhiên phải có một nếp
cửa võng. Ở nhiều làng, cái cửa võng ấy đã phải chạm đến chín từng rồng
phượng cho đúng với chữ “cửu trùng”. Qua nếp cửa võng, còn một lần cửa
nữa mới đến chuôm bầu. Lần cửa trong này, quanh năm đều đóng im ỉm.
Cho đến những lúc tế lễ, cánh cửa tuy có hé ra giây lát để cho người có việc

- 134 -
ra vào, nhưng ở bên ngoài vẫn phải buông mành xùm xụp. Trừ ông thủ từ là
người đối với thành hoàng vẫn kiêm ba chức: quan hoạn, lính thị vệ và ngự
tiền văn phòng bí thư, không ai được qua lại cửa đó. Ngoài lớp cửa ấy thì
thôi; trong bầu không có một cái cửa nào khác, dù là một cái cửa sổ để lấy
ánh sáng” [25; 178-179]. Thật là lý thú khi chúng ta biết được những kiến
thức chuyên sâu như vậy. Nhà văn hóa học có thể dựa vào đây để nghiên
cứu, phục chế lại các ngôi đình cổ Việt Nam. Hầu như các phóng sự của
Ngô Tất Tố đều cùng một cách trình bày rành mạch có sức thuyết phục khoa
học như thế. Đây là một hủ tục hủ bại - Miếng thịt chùi dao: Việc nuôi lợn
thờ. Hàng năm cứ đến ba mươi tháng Chạp thì rước ỷ thờ. Ngoài bữa khao
làng từ 23 tháng ấy, hôm nay gia chủ lại phải thết làng một bữa cháo nữa,
người ta gọi là “cháo xem ỷ”. Tiếng gọi là cháo kỳ thực vẫn chỉ là rượu và
thịt. Người ta dùng đủ cờ, quạt, tàn, tán, chiêng trống để rước ông ỷ ra đình.
“Lễ đó mới là trình để bộ hạ của thần biết rằng: Ông ỷ nguyên vẹn,
béo tốt, không có vết tích bệnh tật gì hết. Điều đó ở nước An Nam kể cũng
không lạ. Thuở xưa làng Nghi Tàm còn phải tiến chim sâm cầm, mỗi lần có
chim sắp sửa đem đi, đều phải trình qua quan Thượng, quan Bố tỉnh mình và
mỗi lần xin được mấy chữ “vũ mao tề mỹ” của các ông ấy đều phải tốn kém
mấy chục quan tiền và lạy sầy trán là khác. Dương sao, âm vậy, người còn
thế huống chi là thần” [25; 194].
Và con dao dùng để làm thịt ông ỷ, pha thịt ông ỷ cũng như việc chùi
con dao ấy (chùi dao bằng thịt) phải qua nhiều thủ tục lôi thôi. Chùi dao
cũng như thái thịt là chức trách của bàn ba. Khi được lệnh, người đầu bàn ba
cầm dao cắt một miếng “nầm”. “Nó là giải thịt ở bụng con lợn chạy theo
chiều dài của một giẫy vú”. “Số thịt đó chỉ được một cân, lệ làng như vậy”.
Người nào lên đến bàn ấy cũng có cái diệu thủ ấy. Hình như trong mắt của
những người bàn ba “đã có một quả cân riêng, họ định bao nhiêu được bấy

- 135 -
nhiêu, không phải dùng đến cân nữa” [25; 196]. Miếng nầm ấy dùng làm
khăn chùi dao và ông đầu bàn ba được hưởng miếng thịt chùi dao. Giả sử
người đầu bàn ba bận việc hay tang chế không có mặt ở đình, thì người dưới
quyền làm thay việc đó, nhưng miếng thịt chùi dao vẫn là phần của người
đầu bàn ba. Nếu miếng thịt ấy bị mất hoặc bị ăn cắp khi truy ra thì “kẻ phạm
tội cực kỳ nguy ngập, Nghèo thì van xin mỏi gối, giầu thì bị làng mổ lợn ăn
vạ” [25; 197]. Đó là lệ làng. Cái lệ mà bao kẻ quyền thế bám vào để “xôi thịt”
và bao người dân lương thiện phải khốn đốn vì nó. Rồi lệ làng xôi mới “có
lắm người chỉ sửa một “ván” xôi mới mà mất cả cơ nghiệp” [25; 255]. Lệ làng
nuôi gà thờ, gia chủ khổ sở như gặp tai nạn lớn vì gà ốm. Cái lệ làng “có thể
gây ra cho người ta một món nợ lãi chung thân không trả hết” [25; 304].
Đúng là với Ngô Tất Tố, mỗi phóng sự là một công trình khảo cứu về
xã hội, về văn hóa, phong tục mà ở đấy mỗi cái lệ làng là một thòng lọng xiết
chặt vào số phận mỗi người dân quê. Không phải ngẫu nhiên mà G.Buđaren
đánh giá xác đáng: Ngô Tất Tố là một nhà dân tộc học được đào luyện từ thực
tế. Mặc dù vậy, cũng phải thấy rằng, ở một đôi chỗ chất “khảo cứu” quá sâu
lại nặng về sách vở nên phóng sự còn có phần nặng nề, ít tính cập nhật, thời
sự - vốn là một ưu thế nổi trội của thể loại.
3.2. Thủ pháp nghệ thuật đa dạng, độc đáo
Các nhà nghiên cứu, dù có dị biệt, vẫn có sự đồng thuận chung trong
quan niệm về phóng sự:
- Trong phóng sự, vai trò cái Tôi trần thuật rất quan trọng.
- Phóng sự phản ánh sự việc, sự kiện, con người với những hoạt động
có ý nghĩa chính trị xã hội.
- Phóng sự là một thể loại báo chí.
- Trong phóng sự có thể sử dụng cả những bút pháp của văn học như
tả bình và các biện pháp tu từ, ngôn ngữ hình ảnh, hướng vào nội tâm “nhân

- 136 -
vật” ở mức độ nhất định [157; 52]. Vậy thì ba nhà văn Tam Lang, Vũ Trọng
Phụng, Ngô Tất Tố khi viết phóng sự càng bị “ràng buộc” nhiều bởi những
thủ pháp nghệ thuật văn chương. Phóng sự của ba ông đậm chất văn chương,
có khả năng dựng lên những bức tranh vừa cụ thể vừa khát quát về cuộc
sống trong sự vận động phát triển của nó. Các phóng sự đã phản ánh đời
sống thông qua những nguyên mẫu sinh động, với nghệ thuật dẫn chuyện,
nghệ thuật trình bày, chọn lọc chi tiết, nghệ thuật miêu tả, đặc tả chân dung
và với những giọng điệu thích hợp, linh hoạt.

3.2.1. Dựng cảnh:


Cũng như các đồng nghiệp Trọng Lang, Vũ Bằng, Nguyễn Đình Lạp,
Nguyễn Tuân…Tam Lang, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố thường xây dựng
tác phẩm theo một chủ để, làm nổi rõ sự kiện, con người trong một quá trình
với vai trò dẫn dắt, tổ chức của nhân vật trần thuật. Cái tôi tác giả, nhân vật
trần thuật là người nêu vấn đề, mô tả chi tiết, lý giải sự việc. Trong phóng
sự, người đọc thấy các tác giả thường mô tả, tường thuật kết hợp với nghị
luận. Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Tam Lang mô tả, dựng cảnh, dựng
người rất tài tình.

Tam Lang chọn lọc chi tiết dựng cảnh một bữa cơm đêm của phu xe:
“Trước mắt tôi, một bát canh sáo bò bốc khói lên ngùn ngùn. Nóng sốt như
thế mà tôi đoán chừng nó chẳng ngon lành gì cho lắm, vì trong bát canh đục
ngầu như nước cống, mấy khoanh lòng bò lều bều nổi như những xác chết
đuối dưới mấy đám hành răm. Cạnh đấy, một đĩa lòng già trông cũng chẳng
ngon gì hơn.
Ít tiền làm gì được miếng ngon! Hai xu sáo lòng! Hai xu lòng già!
Cầm bát cơm, chan nước sáo, và…tôi thấy dạ dầy tôi nó đi một mạch
từ bụng lên đến cổ. Có lẽ món ruột già nhà hàng làm không kỹ, nên và xong

- 137 -
một miếng, tôi tưởng như tôi đã nuốt phải cả một bãi phân bò” [16; 32]. Cái
tôi tác giả
- nhân vật trần thuật cho chúng ta thấy rõ một cảnh tượng thê thảm
của người phu xe thiếu thuế:
- “Bác làm phúc, hôm nay cháu thiếu mất hai hầu
- Phúc với đức gì, không đủ thuế thì gán áo
- Bác để cho đến mai, cháu kéo…
Không đợi người này nói hết, mụ đàn bà the thé nói vào:
- Mai mấy kia gì, áo nó đâu bắt lấy!
- Cháu chỉ có một cái quần…Xe ế, nhỡ phải một hôm, bà trông lại…
Lần này thằng áo nòng nọc không nói, cúi rút chiếc càng bắt ốc trong
gậm sấn lại đánh vào lưng người kia ba cái luôn tay:
- Ối giời ôi!
- Mày thiếu thuế còn bướng có phải không?
- Nó nỏ mồm, đánh bỏ mẹ nó đi cho bà…quai thêm cho nó mấy cái.
Mụ đàn bà búi tóc ngược, sấn sổ đứng dậy. Túm đầu người kia dìm
xuống, mụ vừa tát vừa lên gối, chửi rủa một hồi.
Trên bục, mấy người nọ - chừng là phu xe cả - vẫn ngủ say. Một thằng
tỉnh ngủ hơn, ngóc cổ lên nhìn, rồi lại nằm ngủ lại” [16; 28-29]. Và, cảnh
mấy trăm phu chen chúc trong đêm nằm chờ xuống tàu đi Tân Thế giới “như
một cảnh địa ngục ở trần gian” (Một đêm trước). Đấy là lối tả chân lạnh
lùng, cận cảnh, sinh động. Cảnh trong các phóng sự ít khi chỉ là cảnh mà
nhìn vào cảnh chúng ta đều thấy những sự việc đang hình thành, phát triển.
Từ những cảnh ăn, ở, thiếu thuế…của người phu xe là những cực nhục ê chề
đau đớn của cả một lớp người lao động trong một xã hội tàn nhẫn, bất nhân.
Vũ Trọng Phụng dùng một lối “tả chân triệt để làm cho người đọc có
cái cảm tưởng như thấy trước mắt một cảnh tượng bẩn thỉu ghê gớm”

- 138 -
[139; 518] trong Kỹ nghệ lấy Tây: “Hai mươi thước trước mắt tôi, trong một
gian nhà gỗ lợp lá kia, dưới ánh sáng yếu ớt một ngọn đèn dầu, tôi thấy bóng
dáng một người lính hai tay gãi sườn, chân giang rộng, đứng nghênh ngang
lấp cả cái cửa mà nhìn vào để cho một người đàn bà áo trắng quần trắng,
cũng to nhớn chẳng kém, tóc đã sổ, sừng sộ xỉa xói vào mặt rồi ân ái tặng
mình những câu văn chương:
- Vă tăng! Ê tút suyt! (Bước ngay tức khắc!)…
- Rê pét tơ cơ tuy viêng đờ đia (Mày thử nói lại những lời vừa nói tao nghe!)…

Bốp một cái, cái tát đã vội chấm câu cho những câu mắng nhiếc với
đe dọa “lăng loàn”. Người vợ lùi lại đằng sau hai bước, tay bưng giữ lấy mặt
và cúi đầu đứng im. Nhưng than ôi! Anh chồng bây giờ lại muốn cho vợ nói
nữa, nói nhiều hơn trước, nói tệ hơn trước. Vì rằng lúc ấy nó mới xông vào,
hai tay nắm lại mà tặng vợ những cái “quai hàm” hình như trên sân đánh bốc
nó muốn cho kẻ địch bị một miếng “nốc ao” để mình chiếm giải vậy! Tức thì
tiếng mấy đứa trẻ con òa khóc lên như ri. Nhanh như chớp, một thằng bé độ
10 tuổi từ trong nhà chạy vụt ra. Nó sang nhà bên cạnh đấm cửa. Rồi thì, từ
hai nhà bên cạnh đều thấy tiếng cửa mở và có hai bác lính lê dương khác,
quần áo ngủ, đi guốc ta, vừa chạy sang cái nhà “khổ chủ” ở giữa vừa lầu
nhầu…Sau ba phút, phố Nhà Ngựa hết vắng vẻ, vì đã đầy những đàn bà con
trẻ chạy ra xem” [4; 28-29]. Đây là một cảnh nữa, cảnh bọn cơm thầy cơm
cô, ban ngày vạ vật kiếm sống, tối đến lăn lóc trong những xó tối quán cơm.
“Chân tôi chưa bao giờ phải dẫm lên trên một lớp bùn quánh và nhớp nháp
đến như thế. Đến chỗ mấy cái giường cách nhau mỗi giường một manh cót
thì tôi không biết nên đặt lưng vào giường nào, vì giường nào cũng đã thấy
đầy những người là người, nằm ngổn nằm ngang…Tôi đương bỡ ngỡ thì
thấy bà chủ hàng cơm quát: - Thằng Hai đâu! Bảo nó lên sân gác, chỗ những
đứa ở ấy mà nằm!…

- 139 -
Tôi theo lời, leo thang…Lên đến nơi thì…Bọn cơm thầy cơm cô nằm
ngổn ngang như lợn cả, bọn đực nằm phía bên kia, bọn cái nằm phía bên
này. Bốn thằng nhỏ bằng chạc tuổi tôi với ba con sen, một con độ lên mười,
một con 15, còn một con nữa trông đã đứng tuổi. Trong khi hai đứa trẻ nằm
hớ hênh vô ý thì con đứng tuổi khép nép vào một xó tường, khẽ nâng cái
quạt nhìn tôi” [4; 89-90]. Như vậy cảnh mà toàn sự đời, số phận của những
con người nhỏ bé tội nghiệp: Từng đoàn người rách rưới bị bật khỏi làng quê
lếch thếch kéo nhau về kinh thành, những đám đông láo nháo, hỗn tạp,
những sinh hoạt của đám con sen Cơm thầy cơm cô đã phơi bày thực trạng
đời sống của những người dưới đáy xã hội. Cách miêu tả của Tam Lang, Vũ
Trọng Phụng là đi thẳng vào vấn đề, sự việc, không lượn vòng, dạo đầu, lấy
đà. Cách miêu tả trực tiếp, trực diện này đập ngay vào mắt người đọc như
cuộn phim quay cận cảnh. Sự việc tự nói lên vấn đề không cần bình luận, ghi
chú. Ngô Tất Tố rất giỏi tả việc. Ông tả cặn kẽ từ đầu tới cuối, từ phát sinh
phát triển đến kết thúc. Ông dựng cảnh, tạo không khí, chuẩn bị tư thế tiếp
nhận cho người đọc. Sự việc diễn ra như một cuộn phim quay chậm, rõ nét,
khúc chiết: Cảnh những đám đông hành lễ, đám ma, đám vào ngôi, cảnh thi
giết lợn, nghệ thuật băm thịt gà, cảnh sửa xôi mới, nuôi gà thờ…(Tập án cái
đình, Việc làng), cảnh ngập lụt, đói khát ở làng quê (Làm no hay Cái ăn
trong những ngày nước ngập). Nhà văn mô tả Một tiệc ăn vạ: Bắt đầu, ông
gặp và nghe các bà đi chợ bàn tán. Khi ông tới cổng làng thì là một cảnh
tượng: “Người làng ở trong các xóm, lũ lượt kéo ra con đường giữa làng, già
có, trẻ có, con nít cũng có. Trái lại với quang cảnh của đoạn đường lúc nãy,
ở đây rất nhiều đàn ông, thỉnh thoảng mới có một người đàn bà. Với những
tiếng cười cười, nói nói, vui như đám hội, người ta đổ xô về nẻo cuối làng.
Xen lộn vào sự xôn xao của đám đông người ở trong các xóm, lại có tiếng
lợn eng éc…Đám người lúc nãy lần lượt tiến vào cửa điếm. Các ông già và

- 140 -
người cao tuổi lên thẳng tòa chính, còn người ít tuổi và đám con nít thì
xuống hai tòa giải vũ. Giây lát ba bọn đàn ông lực lưỡng khiêng ba con lợn
bị trói đặt vào trước sân và một lũ người khác đài tải tới đó đủ hết các thứ:
bát, đĩa, dao, thớt, rổ, rá và nồi ba mươi. Rồi đó, bọn này bắc nồi đun nước,
bọn kia đè lợn chọc tiết” [25; 278-279]. Đó là một đám ăn vạ! Từ đấy tác giả
mới lý giải sự việc, nguyên nhân dẫn đến “ăn vạ”. Trong Nghệ thuật băm
thịt gà, Ngô Tất Tố dạo đầu bằng việc đến thăm bạn học cũ. Đúng lúc nhà
bạn có “việc làng”, “chứa hàng xóm”: “Người đến mỗi lúc một đông. Già
có, trẻ có, đứng bóng có. Toàn là đàn ông tất cả. Trong nhà giường phản chật
hết, người nhà phải quét cái thềm mưa ướt rờm rợp, rồi chải chiếu lên, để
làm chỗ ngồi cho mấy ông tí nhau.
Hàng xóm vẫn lục tục kéo đến với những bàn chân đất lấm bê bê. Ai
cũng như nấy, sau khi đã đến bể nước dội qua người ta đi nhón lên thềm,
chùi chân vào cái chổi rơm làm phép, rồi bước xàm xạp lên chiếu” [25; 231].
Người kéo đến đông như thế, mà chỉ có một mâm xôi gà, con gà “ước chừng
một người ăn cố mới hết”. Nhưng con gà phải chia làm tám mươi ba suất
cho hai mươi ba cỗ, “thật là một kỳ công”. Cái kỳ công của thằng Mới ở
nghệ thuật băm thịt gà. Nhà văn mô tả tỉ mỉ cử chỉ, tư thế, động tác của
thằng Mới: Pha sỏ gà làm năm, phao gà làm bốn. Miếng sỏ nào cũng có dính
một tí mỏ, miếng phao gà nào cũng có đầu bầu đầu nhọn. Và cánh gà hắn
chặt làm hơn mười miếng. Bây giờ đến mình gà: “Hắn lách lưỡi dao vào
sườn con gà, cắt riêng hai cái tỏi gà bỏ ra góc mâm. Rồi lật ngửa con gà lên
thớt, hắn ướm dao vào giữa xương sống và giơ dao chém luôn hai nhát theo
chiều dài cái xương ấy. Con gà bị tách ra làm hai mảnh. Mỗi mảnh đều có
một nửa xương sống. Một tay giữ thỏi thịt gà, một tay cầm con dao phay,
hắn băm lia lịa như không chú ý gì hết. Nhưng mà hình như tay hắn đã có cỡ
sẵn, cho nên con dao của hắn giơ lên, không nhát nào cao, không nhát nào
thấp. Mười nhát như một, nó chỉ lên khỏi mặt thớt độ một gang và cách cái

- 141 -
ngón tay hắn độ vài ba phân. Tiếng dao công cốc vào mặt thớt, nhịp nhàng
như tiếng mõ của phường chèo, không lúc nào mau, cũng không lúc nào
thưa. Mỗi tiếng cốc là một miếng thịt băng ra. Miếng nào như miếng ấy, đứt
suốt từ xương đến da, không còn dính nhau mảy may.
Trông những miếng thịt của hắn bốc ra góc mâm, mới đẹp làm sao!
Không dập, không nát, không bong da, nó giống như tập cánh con bươm
bướm. Nếu để trước môi mà thổi có thể bay được mười mét” [25, 234]. Cái
mình gà băm được 92 miếng. Ba đời làm nghề ấy, thằng Mới mới thạo được
như thế, người khác dễ ai làm nổi. Và tác giả chỉ còn cách “dâng cho ông
Mới ấy cái chức nghệ sĩ”. Mô tả và bình luận. Bình luận thường là sau khi sự
việc kết thúc. Ngô Tất Tố nhẩn nha dẫn người đọc đi hết cảnh này đến cảnh
khác, cuối cùng có lời bàn, tỏ thái độ: có khi là tiếng thở dài, có khi như là
tiếng cười chua chát. Không phải tất cả, đa phần là u ám, nặng nề.
Ba nhà văn Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Tam Lang đã thể hiện khả
năng quan sát sắc sảo, lựa chọn tình tiết tinh tế, đặc sắc có ý nghĩa và một
khả năng dựng cảnh tài tình. Cảnh như được “vẽ ra” làm sống động những
bức tranh hiện thực đời sống, tạo được sức ám ảnh đối với người đọc.
Nhưng cả ba tác giả không phải chỉ chú tâm mô tả cảnh, dựng cảnh mà qua
cảnh để hướng tới những vấn đề có ý nghĩa nhân văn, nhân bản sâu sắc.
3.2.2. Dựng chân dung nhân vật :

Thông thường phóng sự là một bức tranh thời sự, đầy ắp hơi thở cuộc
sống được tái hiện bằng những sự việc, con người xác thực. Con người trong
phóng sự có thể có bản sắc, sinh động nhưng chủ yếu đó chỉ là những nhân
chứng, những “công cụ” tác động đến sự việc, vì vậy người viết phóng sự
“có quyền” mô tả diện mạo hành vi con người nhằm phục vụ thông tin mà
không nhằm đi sâu vào nội tâm, tính cách nhân vật. Tuy nhiên ở Lọng cụt
cán (1939), Người…ngợm (1940), Tam Lang đã mô tả tài tình những chân

- 142 -
dung của xã hội đương thời cả về ngoại hình và tính cách, đặc biệt những
hạng người “dởm nhất”: những ông chủ báo, ông chủ mồ, bà chủ đất, bà chủ
mỏ, mợ đốc Bốn…Mỗi nhân vật một cá tính sắc nét. Nhân vật Tư trong Tôi
kéo xe cũng được phác họa chân thực. Bằng một ngòi bút sắc sảo, Vũ Trọng
Phụng dựng được nhiều chân dung nhân vật đặc sắc: Trùm Ấm B (Cạm bẫy
người), con sen Đũi (Cơm thầy cơm cô), Thị Lành (Lục xì), bà Kiểm Lâm,
bà Ách Nhoáng, cô đầm lai Suzanne (Kỹ nghệ lấy Tây), ông chủ lục sự già
(Một huyện ăn Tết). Những nhân vật thảm thương hoặc bọn sâu mọt đục
khoét “hiện hình” đậm nét trong các phóng sự của Ngô Tất Tố: cụ Thượng
làng Lão Việt (Lớp người bị bỏ sót), ông Thư và con trai Cả Thi (Cái án ông
cụ), Hai Thuyết (Đôi giầy mất dạy), ông Lũy (Góc chiếu giữa đình), lão
Điển lễ xảo quyệt (Nén hương sau khi chết)…

Thế giới nhân vật trong phóng sự Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Tam
Lang đông đúc, đa dạng, hỗn tạp đủ mọi giới, mọi lớp người của nhân loại,
của thế giới:
- Người nông dân và bọn cường hào quan lại - những tầng lớp cơ hữu
của nền kinh tế nông nghiệp, phong kiến. Họ nghèo hèn nhưng vẫn muốn có
“địa vị”, muốn chiếm một “góc chiếu giữa đình”, muốn có danh có phận ở
làng. Bọn chánh hội, lý trưởng, trương tuần…tìm cách, hùa nhau kiếm ăn,
xoay tiền, chiếm ruộng của dân (Việc làng). Bọn quan lớn, quan bé: Thượng
thư, tri huyện, tri phủ, bố chánh, quan Hàn, quan Khâm Thiên giám. Ông
Nghị tham lam và dốt nát (Lọng cụt cán, Người…ngợm). Bọn lính cơ, lính lệ
sắp đến ngày Tết lại “sôi lên sùng sục” “đi ăn cướp có giấy phép”, tống tiền
từ người dân đến lý trưởng ở các vùng thôn quê (Một huyện ăn Tết).
- Những người lao động cực khổ từ nhiều nơi, nhiều nguồn gốc đổ về
thành phố. Người phu xe (Tôi kéo xe), Người phu mộ đi Tân thế giới (Một đêm
trước). Người nhà quê bị ánh sáng kinh thành lôi cuốn (Cơm thầy cơm cô).

- 143 -
- Bọn lừa đảo bịp bợm: những “trùm”, “mòng”, “két”, “tạ”…giăng
mắc khắp nơi, đưa Hà Thành vào “lưới nhện” cờ gian bạc lận của “kỹ nghệ
bạc bịp” (Cạm bẫy người); bọn Thầy lang bịp bợm, lừa đảo trong nghề “dao
cầu thuyền tán”.
- Những đại diện và những đứa con kỳ quái của chủ nghĩa thực dân.
Thống sứ Châtel “muốn nâng cao phẩm giá anh em xe kéo”, đã đặt ra những
điều kiện khắt khe (Xa phu…bất túc), Đốc lý Virgiti, viên quan “đứng đầu
Thủ đô Bắc Kỳ” “y phục xềnh xoàng - áo một màu, quần một màu khác, ca
vát cũ kỹ, đôi giày không đánh kem”, bác sĩ Joyeux và thanh tra Mas (Lục
xì). Rồi những thày thông, thày ký, ông Tây An Nam. Những cô gái mại
dâm thực thụ, những cô gái mại dâm trốn thuế, những cô gái mại dâm trá
hình: phụ nữ Tây phương, kỹ nữ Tàu, Nhật…(Kỹ nghệ lấy Tây, Lục xì).
Những tên lính lê dương thuộc nhiều quốc tịch: Pháp, Nga, Đức, Bồ…(Kỹ
nghệ lấy Tây). Thật là cả một thế giới.
Thế giới nhân vật trong phóng sự Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Tam
Lang đều có quan hệ mật thiết với nhân vật Tôi. Nhân vật Tôi luôn xuất hiện
để phỏng vấn, dẫn dắt câu chuyện, có khi nhập vai để cùng thấm thía, cảm
nhận lẽ đời, hiểu sự đời, có khi đứng riêng ra để quan sát, chiêm nghiệm,
bình luận. Nhân vật Tôi trong phóng sự bao giờ cũng là tác giả. Cái Tôi tác
giả với tư cách là người trực tiếp chứng kiến và trình bày sự việc. Người đọc
có cảm giác và tin sự việc được tác phẩm nêu lên là thực, là những điều tác
giả của nó từng mắt thấy tai nghe.
Nhân vật Tôi của Tam Lang chân thành dễ dàng hòa nhập với tầng lớp
bình dân: mượn bộ quần áo nâu, đội lên đầu chiếc nón lá phu xe kéo rồi
“mạnh bạo đi làm xe” (Tôi kéo xe), hoặc đóng vai thám tử ghi lại những sự
thật về khách hàng với nhà hàng trong nghề mại dâm. Cái Tôi tác giả Ngô
Tất Tố trong các phóng sự của ông lại rất từ tốn, ung dung, sang trọng, hiểu

- 144 -
biết nhiều, uyên thâm mà lịch lãm. Nhân vật Tôi đến tận nơi quan sát tỏ
tường vừa kể vừa nêu cảm tưởng. Nhân vật Tôi thường xuất hiện trong ba tư
thế. 1- Tôi đi đến một địa phương, một làng nào đó, chứng kiến, nghe kể
những việc, những người ở đó: Một người đưa đường tôi, dẫn tôi đến làng
V.L xem 5 thôn của làng đêm đó diễn trò đánh đuổi thành hoàng. “Tôi đã
thân hành tới tận làng ấy bằng cái công trình cuốc bộ năm, sáu cây số sau
khi xuống ga xe lửa” để coi một cuộc thi giết lợn. Tôi được mời đến dự một
đám ma to – đám ma cụ Bá, người cùng tổng. “Người ta mời tôi ngồi lên
chiếc phản giữa rạp sau khi người đón đồ lễ đã dùng mâm đồng mà đệ đồ lễ
của tôi vào bàn thờ”. 2- Tôi đến thăm bạn học cũ ở các vùng quê, vừa chứng
kiến vừa được nghe bạn kể: “Tôi đủng đỉnh đi vào giữa làng để tìm đến nhà
người bạn”. “Rồi vừa đi, anh ta vừa kể cho tôi nghe đầu đuôi vụ án mạng
ấy” (Cái án ông cụ). “Tôi lững thững đi vào cổng làng” “Bắt đầu câu
chuyện, tôi phải hỏi ngay anh Trúc đám ấy là đám gì, đám gì mà đủ từ ông
bạc đầu đến lũ trẻ con” (Một tiệc ăn vạ). “Tôi đành đội mưa dò trên con
đường lầm lội, định cố đi tới nhà một người bạn rồi nghỉ luôn thể. Nhưng
khi mới đến sân đình, trời càng mưa to, không thể liều đi được nữa, tôi phải
lánh lên sân đình “và quan sát cảnh các cụ trong làng chia nhau Miếng thịt
giỗ hậu. 3- Tôi trọ và dạy học ở các địa phương, quen biết những việc,
những người các địa phương đó: “Tôi đã trọ học ở làng Th.S trong huyện
Tiên Du. Vì nhà trọ kế tiếp với đình làng ấy, nên tôi biết ông Đám Phức, biết
việc làng ăn vạ Đám Phức (Được một trai, mất ba lợn). “Tôi vừa về đến nhà
trọ, đã thấy người nhà ông Lũy sang mời. Lần này là ba”. “Vì tôi trọ học ở
gần nhà ông thành ra quen ông”, được ông mời dự bữa khao làng sau khi
mua được chức lý Cựu (Góc chiếu giữa đình). Với tư cách là nhân chứng,
cái tôi trần thuật đưa ra những việc thật, người thật, xác thực.
Nhân vật Tôi trong phóng sự Vũ Trọng Phụng, nhiều biến hóa tài tình,
linh hoạt, thông minh, láu lỉnh, thành thạo và thành công trong nhiều vai

- 145 -
diễn. Thâm nhập vào làng cờ bạc (Cạm bẫy người) nhân vật Tôi đầu tiên là
một tay thợ tập sự trong làng nghề “Kỹ nghệ bạc bịp” tiếp đến một kẻ tôn
thờ “Đạo đỏ đen”, làm đồ đệ trung thành đến mức là tri kỷ của làng bịp,
quan hệ hầu hết với những nhân vật chủ chốt của làng nghề từ quân sư (Ấm
B..) đến “kỹ sư” chuyên chế tạo khí giới” cho làng bịp (Ba Mỹ Ký). Trong
phóng sự Cơm thầy cơm cô, nhân vật Tôi thủ vai thằng nhỏ, hóa trang đúng
“mốt” để dễ hòa chung “cùng hội cùng thuyền” với đám con sen thằng ở, lại
thêu dệt cái lý lịch “con dòng cháu giống” nhưng hiện tại đang thất cơ lỡ vận
để gạ gẫm con sen Đũi cùng “tính cuộc vuông tròn”. Và nhân vật Tôi ấy
trong tư cách là nhà báo, đi đến tận nơi, ngõ ngách, tìm hiểu điều tra, phỏng
vấn, ghi chép, phác họa những chân dung nhân vật sắc nét, thảm thương có,
lố bịch có, trâng tráo có, bẩn thỉu có…Nhân vật Tôi ở đây có bản lĩnh, dũng
cảm và đầy lòng nhân ái, trách nhiệm. Đến “cái viện bảo tàng những điều ô
uế” (Lục xì) để thấy thực trạng, tìm nguyên nhân và đề nghị giải pháp. Đến
Thị Cầu (Bắc Ninh) để phóng sự về các me Tây lấy lính lê dương, dù phải
qua những nhiêu khê, phiền phức (Kỹ nghệ lấy Tây). Đến một huyện đường,
nằm bên khay đèn của ông lục sự già để có thể “nhìn khắp xung quanh” một
huyện ăn Tết, biết được những ngón xoay tiền của bọn lính cơ, lính lệ,
những thầy nho “tống tiền” vào dịp cuối năm (Một huyện ăn Tết)…Có thể
nói, nhân vật Tôi của Vũ Trọng Phụng đã thâm nhập sâu vào thế giới nhân
vật. Có khi chỉ huy dẫn dắt, có lúc lôi kéo các nhân vật hành động theo ý
mình, hoặc “tri kỷ” để thấu hết được ruột gan của nhân vật mà tác giả cần
điều tra, tường thuật…
Xuất phát từ mục đích phóng sự, từ đối tượng cần mô tả, ngòi bút của
các tác giả khi sắc sảo hài hước châm biếm mỉa mai, chua chát, khi lại lý lẽ,
lý giải tràn đầy cảm xúc, nhưng bao giờ các chân dung nhân vật cũng được
hiện lên “như vẽ” trước mắt người đọc. Tam Lang có tài dựng những chân
dung biếm họa bọn người…ngợm lố bịch. Một mụ me Tây, Tây chồng về
nước, lấy ông chủ Mỏ già khọm, lão già chết, lại lấy chồng khác nhưng vẫn

- 146 -
lắm nhân tình mà vẫn luôn ao ước bốn chữ vàng “Tiết hạnh khả phong” (Bà
chủ Mỏ). Một bà vợ ông thầu khoán, từ quê kệch “nhuốm” qua “màu thành
thị” trở nên lố lăng, nhất là những khi tiếp những người thân ở quê ra thăm
(Bà chủ Đất). Một ông chủ Mộ - cai mộ phu, bây giờ leo lên ghế Hội trưởng
một Hội thiện, trông coi về việc yên nghỉ cho “mấy cái xác chết” tức là ông
chủ Mồ đề xóa đi cái tiếng xấu, keo bẩn, tàn nhẫn, trước kia làm cai mộ phu
(Ông chủ Mồ). Một anh cai xe dốt nát bỏ tiền ra mua được ghế nghị viên
(Ông nghị Ba). Một ông quan Hàn vốn làm nghề đi…hót “thu thiên hạ chi
nhân tâm”, sau gặp vận mua được bài ngà Hàn lâm. Nhưng người đời vẫn
gọi là quan Hàn…Hót (Quan Hàn…Hót). Nhân vật Tư trong Tôi kéo xe
được khắc họa kỹ, hiện lên với lý lịch rõ ràng, từ quá trình học tập, lao động,
đến những biến cố trong đời, kinh nghiệm nghề nghiệp và sự tha hóa về
nhân cách, lối sống: Tạng con nhà học trò, gia cảnh khốn đốn, đi kéo xe nuôi
mẹ. “Một hôm lính Đoan về khám rượu chẳng biết thế nào lại bắt được
thúng cơm bã ở sau vườn nhà”, thế là bị bắt, nhà và xe cũng bị tịch ký cả. Ra
tù, mẹ đã chết. “Tôi hỏi thăm đến chỗ chôn mẹ, rồi ngay hôm ấy, gạt nước
mắt, xách khăn gói ra đi”. Năm ấy hai mươi tám tuổi đầu. Lần hồi lên Hà
Nội, lại kiếp cu li với nhiều ngón nghề, cảnh ngộ thảm thương, bị lừa, thiếu
thuế bị cai xe đánh đập tàn nhẫn. Sau đó biến chất thành quái vật: “Từ hôm
ấy, tôi trông những người xung quanh tôi toàn như loài rắn loài rết…Thế
rồi tôi phạm vào một tội ác, rồi tôi làm nghề ma-cô đi dụ gái, rồi tôi nghiện
thuốc phiện, rồi tôi ăn nói đểu cáng, vạch quần đứng đái vào chân ngay
giữa phố không thẹn…” [16; 78]. “Từ hôm ấy mắt tôi chỉ trông thấy một
vật, là tiền! Ngoài đồng tiền, không còn có cái gì hơn. Nhân, đức, lễ,
nghĩa…vứt đi, vứt đi hết [16; 79]. Nhân vật anh Tư hiện lên qua những cử
chỉ hành động, tâm lý, lời nói rất sinh động.
Người đọc khó quên nhân vật Ấm B…trong Cạm bẫy người của Vũ
Trọng Phụng: “Dòng dõi gia thế”…rong chơi bài bạc từ lúc thiếu thời, đã
phá tan cơ nghiệp, hư hỏng, tiệt đường công dân tiến thủ. Sau quá nửa đời

- 147 -
người sống bằng nghề cờ bạc, “lắm phen phải đóng những vai mòng với
quých cho một lũ bạc bịp tiền bối họ móc xé ruột gan”…bây giờ được tôn
là…trùm đảng bạc bịp. Nhà văn mô tả: “Ông ta người trông đẫy đà, bệ vệ
như một ông huyện hoặc một viên tri châu nào. Hai con mắt rất sắc sảo, có
đủ vẻ đối địch với đời, tiểu nhân cũng được mà quân tử cũng được. Miệng
nói có duyên một cách lạ, thường hay mỉm cười để “giá trị” cho câu chuyện,
nhất là những lúc gọi đến thằng nhỏ thì tiếng đồng sang sảng, thật là có
giọng quan” [28; 580]. Đó là những tính cách trong cái gian hùng của một
tay anh chị. Là một tay xảo quyệt, quyết đoán, dằn mặt với Tham Ngọc, có
thể “thịt nhau” đâm nhau “lòi ruột” đối thủ nhưng Ấm B…vẫn là một con
người có trước có sau với đám thuộc hạ, cư xử có tình với Ba Mỹ Ký. Đôi
lúc hắn tỏ ra ân hận, xót xa vì không nối được con đường công danh của ông
cha hoặc uất ức trả thù, “trả thù cái bọn đã làm tôi hư hỏng”. “Đó có là công
lý không? Tôi tưởng: làm việc thiện để đền ơn các việc thiện, lấy việc ác để
trả nghĩa việc ác, thế mới là biết sống ở đời” [28; 580]. Một nhân vật đầy
nội tâm và cử chỉ, ngôn ngữ lời nói, dáng vẻ cũng rất đặc biệt, riêng biệt.
Con sen Đũi trong Cơm thầy cơm cô là nhân vật được khắc họa bằng
một “cuốn tiểu thuyết” vừa thương hại vừa hài hước, đúng hơn là bi hài. Từ
một gái quê hiền lành nó “trở nên một ả thiện nghệ trong việc khiêu dâm và
mại dâm”. Sau vụ “tai biến dâm sự” - bị hiếp, cái Đũi tự nguyện theo một
“lộ trình” tha hóa. Nó ao ước đi làm cô đầu để mong có phen làm bà phán,
bà ký. Nó rắp tâm quỷ quyệt: “Tôi muốn cho chúng nó phải mê tôi, yêu tôi,
bắt nhân tình với tôi, chiều chuộng tôi kia. Rồi anh xem, con này mà lên làm
nhà tơ thì rồi nhiều thằng khổ [4; 114]. Các nhân vật trong phóng sự của Vũ
Trọng Phụng đều tha hóa theo một “lộ trình” chung. Lộ trình ấy nhân vật Ái
trong Kỹ nghệ lấy Tây đã trải đời và đúc kết: “Khi một người đã sa ngã, hoặc
tự mình, hoặc do người khác xô đẩy cũng vậy, đã ngã một lần là rồi cứ ngã
mãi” [4; 65]. Bà Kiểm Lâm là một nhân vật tự mình lựa chọn, quyết định

- 148 -
đường đi cho cuộc đời mình: “Con gái một nhà quyền thế vì lắm của, lại
đẹp…Ngay bây giờ, cái mặt phong trần của bà cũng vẫn còn phảng phất
những nét đẹp hồi xuân xưa”. Lúc đương xuân, còn hưởng mọi sự giàu sang,
cô gái trẻ đa tình đã yêu một người không thành. Thế rồi… “Lấy chồng xi
vin hẳn hoi. Sau chồng về Tây, phải giang hồ lưu lạc, lâm vào cảnh đi lấy cô
lô nhần. Bây giờ thì đến với các anh lính lê dương” [4; 32]. Đã có ba con với
ba đời chồng trước vẫn quyết liệt khi cần bỏ chồng để tính “bước thêm một
bước nữa”. Tính cách mạnh mẽ của nhân vật này, thể hiện ở những suy nghĩ,
lời nói và cả hành động táo tợn của một “con quái vật”. Và bà Đội Tứ đanh
đá, bà Ách Nhoáng bị mất ngôi hoàng hậu ở Việt Trì…đều là những nhân
vật cùng đường, bế tắc, tàn tạ. Mỗi nhân vật là một cảnh, một vẻ, một số
phận, làm “rối loạn” thêm cái thế giới nhân vật, nhưng vẫn chịu sự giật giây
điều khiển của nhân vật Tôi - bản sao tác giả.
Ngô Tất Tố dựng nhân vật bằng đường nét mềm mại hơn đúng như
cách “vẽ truyền thần”. Dù là đám đông hay cá thể riêng lẻ, nhân vật trong
phóng sự của ông hiện lên đều nhếch nhác lam lũ, thảm thương hoặc tham
lam bần tiện, vô liêm sỉ.
Những cụ Thượng, ông Lũy, ông Phúc, ông Phức, ông Sửu, bà Tư Tỵ,
bác Cả Mão, bác Hai Đắc, anh Hai Thuyết…toàn những nhân vật mà tác giả
mục sở thị, nét vẻ chi tiết, tạo ra được những hình dáng, hoàn cảnh, thân
phận khác nhau nhưng vẫn khai quát được bộ mặt nông thôn Việt Nam thời
ấy, thời những người nông dân cứ ngoi ngóp trong cái vũng bùn của những
hủ tục. Và bọn có quyền ở nông thôn thì trắng trợn tìm cách bòn rút đến tận
xương tủy người dân. Những chưởng lễ, chánh hội, lý trưởng, phó lý, phó
hội, thư ký, trưởng bạ, hương trưởng, lý cựu, trương tuần…đều xoay tiền.
Đến các bô lão, trai đinh bò bướu cũng phải có bữa ăn đấm miệng thì mọi
việc mới ổn. Chính bọn chúng núp dưới danh nghĩa “làng” “việc làng” bày

- 149 -
đặt ra và duy trì những hủ tục để có cớ ăn uống, hút sách bê tha, bệ rạc. Và
cũng từ cái nền xám xịt ấy, chân dung nhân vật khổ chủ, nổi lên rất sinh
động: tất tưởi mà mãn nguyện với tâm lý được ngang hàng với mọi người
khi có “việc làng”. Nhân vật Cả Mão ở đây vui vẻ mà chịu đựng, nhẫn nhục.
Nhẫn nhục chịu đựng vì đã được danh giá, được là người làng, không còn
phải mang tiếng dân ngụ cư.
Trong tâm thức và lối sống người Việt, làng có vị trí đặc biệt quan
trọng. Người có làng tức là có một quê hương, bản quán, một chỗ dựa tinh
thần, vật chất và được vui buồn cùng làng. Nhà nước phong kiến Trung
ương đã biến làng thành đơn vị hành chính tự quản và tự giải quyết các công
việc trong phạm vi mỗi làng. Những kẻ có phẩm hàm chức tước được Nhà
nước trao giữ quyền cai trị làng (như lý trưởng, phó lý…) đều có quyền lợi
nhất định. Cùng với bọn này là các bô lão trong làng (nhờ tuổi thọ) cũng
được giữ những vai trò quan trọng trong việc quyết định công việc của làng.
Hai thế lực xã hội này nắm quyền sinh, quyền sát số phận dân làng. Họ đề ra
những luật lệ có lợi cho họ, bắt dân làng phải theo, bác Cả Mão lại càng phải
theo. Dân ngụ cư phải ba đời mới được vào ngôi để thành dân chính cư.
Thằng con bác mới ba tháng tuổi đã vào ngôi. Vào ngôi phải mất tiền, rải
tiền từ trên xuống, từ cụ chưởng lễ, lý trưởng đến trương tuần, phải chồng tiền
cúng các bô lão, phải mời làng ăn uống. “Ở chốn thôn quê, ăn uống là sự đầu
tiên”. Cỗ bàn linh đình. Mua nhiều thịt đã “quá giết lợn”, cụ chưởng lễ thích ăn
thịt cầy, phải giết thêm con cầy. “Chẳng lẽ mời dân làng ăn uống trong nhà,
ngoài đình lại không có gì. Bởi thế chúng tôi phải sửa cỗ xôi, con gà để ra lễ
thờ…Còn tiền rượu, còn tiền thuốc phiện, còn tiền cung đốn họ đánh tổ tôm”
[25; 223]. Ông em trai bác Cả Mão còn bảo “Thôi thế cũng còn là may”.
Chân dung bác Cả Mão, dưới ngòi bút Ngô Tất Tố, khi hiện khi ẩn,
nhưng rất ấn tượng. “Tôi mới nhô vào đến sân, bác Cả lật đật chạy ra đón

- 150 -
lên nhà trên với một điệu bộ vui vẻ” [25; 218]. Tay gãi tai, tay bưng nước
bác mời khách. Bên bàn tổ tôm đã có tiếng gọi.
“- Anh Cả đâu! Cho mượn hai đồng đánh thêm hội nữa. Đen quá, cả
hội chẳng ù ván nào!”. Bằng một tiếng vâng đầy giọng thành tâm, bác Cả
Mão nhanh nhẩu chạy xuống chạy lên: “Cung kính trao hai đồng bạc cho
một ông trong bàn tổ tôm”, rồi tung tăng ra sân.
Lại một ông trong đám thuốc phiện gọi
“- Anh Cả đâu! Lên đây tôi bảo.
Một tiếng dạ lớn, bác Cả Mão từ sân vào thềm, rồi khoanh tay đứng
tựa vào cột:
- Bẩm cụ dạy gì con ạ?

Lại một tiếng dạ rất lễ phép, bác Cả Mão rón rén lui ra” [25; 220]
Cứ lễ phép như thế, vâng dạ như thế, ba hôm sau “bác Cả Mão sang
nhà tôi trọ, dạm bán cho ông chủ nhà một mẫu hai ruộng, lấy trăm đồng bạc
để trang công nợ. Vui vẻ bác khoe với tôi:
- Tất cả tôi lo hết gần hai trăm. Của nhà có hơn một trăm, còn thì đều
phải đi vay. Nhưng tôi cũng lấy làm hả. Từ nay trở đi, cháu đã có ngôi ở
đình, chúng tôi sẽ được ăn miếng thịt phần việc làng của nó…!” [27; 224].
Đúng là cái tâm lý “một miếng giữa làng hơn một sàng xó bếp” của những
người nông dân thật thà, chất phác đến tội nghiệp.
Dù được dựng bằng bút pháp biếm họa hoặc hiện thực sinh động hoặc
theo lối “vẽ truyền thần”…thế giới nhân vật trong phóng sự Vũ Trọng
Phụng, Ngô Tất Tố, Tam Lang thật đa dạng. Mỗi nhân vật là một kiểu, một
số phận riêng biệt nhưng cũng rất tiêu biểu cho những lớp người của cái xã
hội thực dân phong kiến đang trong quá trình tha hóa.
3.2.3. Nghệ thuật tổ chức tình huống dẫn dắt câu chuyện
Phóng sự của ba nhà văn Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Tam Lang
thường được tổ chức tình huống theo cách kết cấu hiện đại: đối tượng (ai, cái

- 151 -
gì), ở đâu, khi nào, như thế nào, tại sao…Thế nên, những sự kiện, những
nhân vật, chi tiết đều được chọn lọc tinh tế và được kết nối với nhau một
cách tự nhiên, xung quanh một chủ để chính. Các vấn đề có giá trị thời sự,
xã hội cấp thiết nằm trong một hệ thống được định hướng tư tưởng và ý đồ
nghệ thuật. Trong nhiều trường hợp, nghệ thuật tổ chức tình huống, dẫn dắt
câu chuyện, tạo nên một cốt truyện làm cho phóng sự có dáng dấp của
truyện, truyện ngắn hay phóng sự tiểu thuyết như Vũ Trọng Phụng đã gọi
Cạm bẫy người như thế khi in báo Nhật Tân năm 1933. Điều này không
riêng ở ba nhà văn trên mà là chung của nhiều cây bút viết phóng sự lúc đó.
Hà Nội ban đêm (1933) của Thạch Lam có nhiều chương, mỗi chương như
một chuyện kể: một cô gái xinh đẹp nhưng nghèo, tìm cách kiếm tiền. Vợ
một thầy ký vì thua bạc, cần tiền. Các cô me mới, cần tiền. Cảnh khổ nhục
của chị em “số đỏ”. Sự biến chất của hát ả đào…Tất cả làm nên cảnh Hà Nội
ban đêm, nạn mại dâm ở Hà Nội. Hà Nội lầm than (1938) của Trọng Lang
cũng tập trung vào chủ đề mại dâm, hạng phụ nữ nô lệ tạm thời trong những
đêm mua vui của bọn có tiền. Các phần: Gái nhảy, Cô đầu, Nhà thổ đều móc
nối, liên hệ với nhau tạo thành bức tranh liên hoàn. Phóng sự Từ ái
tình…đến hôn nhân (1937) của Nguyễn Đình Lạp gồm nhiều phần: Những
vụ án tình, Người năm bảy vợ, Kẻ không vợ nào, Ế chồng, Chửa hoang,
Những đứa con hoang, Dì ghẻ con chồng, Ngoại tình. Đó là những vấn đề
quan trọng và nhức nhối xoay quanh câu chuyện ái tình và hôn nhân. Tập
phóng sự 11 chương Ngọn đèn dầu lạc (1939) của Nguyễn Tuân là những
cảnh, những kiểu tiêm, hút thuốc phiện ở các tiệm Hà Nội,có lúc ở tận Hồng
Kông xa xôi nhưng vẫn là những ngóc ngách của sinh hoạt chốn bàn đèn
thuốc phiện.
Cạm bẫy người, Kỹ nghệ lấy Tây, Cơm thầy cơm cô, Lục xì của Vũ
Trọng Phụng; Tập án cái đình, Việc làng của Ngô Tất Tố; Tôi kéo xe, Đêm
sông Hương của Tam Lang…đều tập trung làm nổi bật vấn đề trọng tâm, có
ý nghĩa thời sự, bức xúc mà xã hội quan tâm. Ở đây cái Tôi tác giả - nhân

- 152 -
vật trần thuật, dẫn dắt sắp xếp các chi tiết, các sự việc, các nhân vật theo
những tuyến vấn đề, tư tưởng. Các sự kiện nhỏ phục tùng sự kiện lớn, các
việc phụ bổ sung cho việc chính, nhân vật đám đông làm nền cho nhân vật
trung tâm hoạt động. Tam Lang nhanh nhạy, khéo léo đã thâm nhập và điều
tra ghi lại được nhiều mánh khóe và “ngón nghề” của các cô gái làm nghề
mại dâm ở đất cố đô Huế (Đêm sông Hương). Thú chơi “thuyền hoa” trên
mặt nước sông Hương - “Thuyền hoa” tức là những nhà săm trá hình bồng
bềnh trên sông nước. Những cô gái ôm đàn thơ mộng hay ở một cửa hàng
nem rẻ tiền…Các chi tiết, các sự việc kết lại với nhau tạo nên một thảm cảnh
thương tâm “Cô gái làm nghề mại dâm ở Huế thường có hai nghề: một nghề
ngỏ và một nghề kín (điếm lậu). Nghề bán quà vặt, bán hàng rong…lúc ban
ngày là nghề ngỏ. Khi màn đêm buông xuống, những người đàn bà đó lại đi
hành nghề kín và phần nhiều họ trông vào đó để nuôi sống mình cùng gia
đình” [187; 462]. Ở Tôi kéo xe, Tam Lang xâu chuỗi các chi tiết, các sự việc
làm nổi bật chân dung phu xe - anh Tư. Kết cấu thời gian của thiên phóng sự
này không theo trật tự, tuần tự mà theo lời kể - nhân vật trần thuật: Thời gian
hiện tại - thời gian quá khứ - thời gian hiện tại. Cái Tôi - tác giả nhập cuộc,
hành động, suy nghĩ, cảm xúc, thấm thía cảnh đời phu xe và chứng kiến
cảnh khổ của một ông già kéo xe, sự tàn ác của bọn chủ, cai xe, bữa ăn và
chỗ ở của người phu xe (hiện tại). Từ đó nhân vật Tôi nghe anh Tư kể về anh
hơn mười năm qua trong nghề kéo xe (quá khứ) với những sự cố liên tiếp
biến anh từ một người lương thiện thành kẻ tha hóa đê tiện. Nhiều cảnh,
nhiều người, nhiều việc liên tiếp diễn ra dồn dập thê thảm, xót xa, bẩn
thỉu…vây quanh người kéo xe dìm họ vào vũng bùn của đói khổ, tệ nạn.
Cuối cùng (hiện tại) cái Tôi - tác giả biện luận, kết luận: cái nghề xe kéo là
cái nghề “nhục đến quốc thể”, cần thay đổi, loại bỏ.
Vũ Trọng Phụng tổ chức các tình huống dẫn dắt câu chuyện với tốc độ
khẩn trương hơn. Các chi tiết, sự việc đan xen, gấp gáp. Cái Tôi - tác giả
khoác áo phóng viên lúc nào cũng xông xáo, khôn ngoan nhạy bén, sắc sảo,

- 153 -
luôn luôn di chuyển từ địa điểm này tới địa điểm khác để điều tra, khảo sát,
móc nối các hiện tượng, xô đẩy các nhân vật ra “sân khấu” hoặc có khi đối
thoại, phân bua với độc giả. Chẳng hạn tập phóng sự Lục xì: “Tôi không phải
đi “điều tra” các nhà săm, các tổ quỷ, ở những nơi ngõ hẻm hang cùng.
Không cần phải đút lót bọn bồi săm, bọn phu xe đêm, cũng như không cần
phải ôm ấp vào lòng những gái đĩ có môn bài hay gái đĩ lậu thuế, mà mới
biết được cuộc đồi phong bại tục hay là những cái tai hại của nạn mại dâm.
Tôi chỉ việc điều tra trong những sách vở thảo luận về vấn đề ấy” [9; 99].
Nhưng để hoàn thành “công cuộc khảo cứu về nạn mại dâm”, nhà văn đã
sắp xếp cái kho tư liệu (tài liệu, sách vở và những chi tiết qua nghe, thấy)
theo những vấn đề, theo những đường dây sự kiện hấp dẫn lôi cuốn người
đọc. Ngay như các tít của từng chương cũng rất nghệ thuật. Nó gợi trí tò mò
khiến người đọc phải theo dõi nội dung. Và nội dung các chương lại móc nối
với nhau. Mở đầu là Cái xấu của thành phố đến Nàng thơ của gái Lục xì, Sự
hại cần phải có, Bọn gái của “sổ đoạn trường”, Một ngày khám bệnh, Cái
quan điểm của nhà chuyên trách phân loại gái mại dâm: gái đĩ có giấy. Gái
đĩ lậu. Cô đầu. Gái nhảy. Me Tây. Đầm lai. Đầm thật. Cầm giấy, Xé
giấy…Cuối cùng Tương lai sẽ ra sao? Biết đến ngày nào mới giải phóng
được phụ nữ? Cái xã hội một nghìn lần khốn nạn này” dù chỉ có thể xô đẩy
bọn người đáng thương “trước thì còn vào nạn “lãng mạn” và, sau cùng thì
vào vũng bùn mại dâm?” [9; 175]. Toàn bộ những vấn đề nhức nhối được
nêu lên và nhức nhối hơn là chưa có hướng giải quyết.
Cạm bẫy người 14 chương, 14 phóng sự nhỏ, khảo cứu nghề bịp. Tít
mỗi chương hấp dẫn, khái quát được nội dung, tinh thần của chương: Ông
thân tôi là “mòng”. Ông quân sư của bạc bịp. Đố anh nào bịp được mắt tôi.
Bốn đồng sấp ngửa. Ruột quân súc sắc. Xưởng chế tạo khí giới. Tấm lòng đi
bịp từ nay xin chừa…Cách dàn dựng tình tiết công phu, tổ chức các tình
huống bất ngờ thú vị. Chương đầu sinh động từ việc Vân gửi thư cho Ấm
B…xin viện binh đến “thịt” ngay bố đẻ mình. Tình huống này được “cài

- 154 -
đặt” sẵn để chương XI đột ngột hiện lên làm thay đổi câu chuyện. “Mong
ngài xếp cho một người có vẻ ông thanh phán, đúng chiều thứ bảy sang tôi
chơi. Chính ông thân tôi là mòng chắc chắn lắm, còn nhiều két nữa…Và báo
trước bằng thơ nói rõ hình dạng người mà ngài phái sang để chúng tôi ra ga
đón cho tiện”. Sự việc nhẫn tâm ấy diễn ra, kẻ đóng vai Tham Ngọc, là đàn
em “đáođể” của Ấm B…giở những thủ đoạn quỷ quyệt và bố đẻ Tham Vân
thua đến hơn sáu chục. Nhưng cũng chính lá thư ấy, mấy tháng sau là bảo
bối để Tham Ngọc xoay tiền Tham Vân. Một canh xóc đĩa Tham Vân được
ngót 40 đồng. Sáng hôm sau Tham Ngọc đến:
“- Bác vừa phát tài mà tôi túng quá, giúp tôi một ít cho tôi tiêu
- Bác lấy mấy đồng?
- Độ chừng bốn chục
- Tôi được có bốn chục mà bác đòi lấy cả bốn! Bác vô lý quá…
- Danh giá bác còn to hơn!
Tôi nghĩ mãi, không hiểu ý nó thế nào. Sau nó giơ một cái thư tôi đã
gửi cho Ấm B…khi trước.
- Cái này gửi về hầu cụ còn to chuyện hơn.” [28; 637]
Bị bắt chẹt, Tham Vân phải trao bốn chục bạc cho Tham Ngọc. “Ếm”
chi tiết, tạo tình huống như thế làm cho câu chuyện thêm ly kỳ hồi hộp. Nhà
văn đưa nhân vật Ba Mỹ Ký ra, nhưng qua nhân vật này người đọc rõ hơn
con người Ấm B…trùm bạc bịp. Quân sư Ấm B…phái Ba Mỹ Ký vào một
nơi “hang hùm nọc rắn” bị sa hố, bị bọn quých “thượng cẳng tay, hạ cẳng
chân”. Ba Mỹ Ký, vì thế, mắc chứng ho. “Ông Ấm phải đem bao nhiêu lối
“chế tạo khí giới” của ông ra truyền cho bác Ba để bác làm sinh kế…Ông
Ấm thuật chuyện rồi nói một cách cảm động:
- Rõ thương hại nó quá. Dễ thường nó ho lao!” [28; 620]
Một con người nguy hiểm cho xã hội té ra lại là người có thủy chung
nhất là khi Ấm B…đứng ra tổ chức đám tang cho Ba Mỹ Ký.

- 155 -
Tình huống trong phóng sự của Vũ Trọng Phụng thường tạo ra những
bất ngờ, đột biến, có lúc gần với những phóng sự điều tra hình sự về trật tự
an toàn xã hội. Các sự việc đan xen nhau. Cái trước là tiền đề cho cái sau và
mở ra liên kết với các sự việc khác tạo nên một “lưới nhện” cho kết cấu tác
phẩm.
Trong khi đó, Ngô Tất Tố dẫn dắt câu chuyện theo lối kể chuyện, vừa
quan sát vừa kể. Tập án cái đình, 11 chương là 11 chuyện kể về những hủ
tục; Việc làng, 16 chương là 16 chuyện kể về “miếng ăn” ở làng quê. Các
chương hoàn toàn độc lập, không liên quan với nhau nhưng có điểm chung
về chủ đề. Khi kể các chi tiết, các sự việc hiện tại, nhiều lúc Ngô Tất Tố
trình bày thêm tư liệu văn hóa, sách vở bổ sung và làm rõ hơn các chi tiết, sự
việc. Xung quanh “cái đình” là tục thờ thành hoàng làng, lắm khi vô lý buồn
cười. Kể lại tục thờ thành hoàng làng, tác giả đưa thêm những kiến thức từ
cái kho trí tuệ uyên bác của mình. Kể lại sự việc, tác giả thường là người
trực tiếp chứng kiến, thấy, nghe, ghi chép, nhẩn nha, rành rẽ, có khi vừa đi
vừa kể. Quang cảnh một vụ án mạng hiện ra trước mắt người đọc: Tuần phu
tay thước mã tấu, chiêng trống cờ quạt, tiếng gào khóc, một xác người cuộn
trong chiếu thành một đống xù xù, ruồi nhặng bay mùi tanh nồng nặc, một
người đàn ông bị trói ghì vào cột…Anh bạn tôi “vừa đi, anh ta vừa kể cho
tôi nghe đầu đuôi vụ án mạng ấy” (Cái án ông cụ). Kết cấu phóng sự của
Ngô Tất Tố được định trước: trình bày hiện trạng, sự việc sau đó nêu nguyên
nhân (Cái án ông cụ, Đôi giầy mất dạy, Mua cỗ, Cỗ oản tuần sóc, Một tiệc
ăn vạ, Một chiếc lăm lợn…). Tác giả tường thuật một cuộc “hỗn chiến” giữa
hai phe. “Càng đi gần lại, tiếng thét càng dữ thêm. Tiếp đến tiếng chửi phũ
phàng của cơn thịnh nộ, rồi đến tiếng kêu làng nước inh ỏi.
Trong khu văn chỉ của làng Đ.C. bóng người đen kịt. Và ở cổng làng
cũng như các ngả đường khác, đàn ông đàn bà tất cả chạy ra. Ai cũng như

- 156 -
nấy, mỗi người trong tay đều có một món khí giới, hoặc sào, hoặc gậy, hoặc
cán cuốc, hoặc đòn gánh, có người thì vác cả vồ đập đất. Tứ chi bát mạch,
nhất tề đổ vào đất văn chỉ với một bộ điệu hùng hổ.
- Đánh! đánh! đánh!
Mấy tiếng thét đánh vừa dứt, cuộc hỗn chiến tức thì bắt đầu (25, 288).
Rồi đòn gánh giơ lên, cuốc bổ xuống, tiếng kêu tiếng chửi chen nhau. “Các
toán viện binh các nơi vẫn tiếp tục kéo đến ầm ầm. Đáng sợ nhất là mấy mụ
đàn bà. Xắn váy, xắn áo và quấn búi tóc vểnh ngược, các mụ liều mạng xông
vào trận địa như là một đội quân cảm tử.
Tôi phải rùng mình sởn gáy, khi thấy một người lực điền thẳng cánh
giơ vồ đập đất bổ vào đầu một ông già vừa chui ra khỏi vòng vây.
Ông già ấy loạng choạng, lảo đảo như con gà toi dãy chết rồi ngã phục
vị xuống đất. Người lực điền kia lại vác chiếc vồ nghênh ngang vào trận.
Giữa đám túi bụi, thấp thoáng có bóng xanh xanh.
Khi đã lách qua vòng vây, bóng xanh xanh liền hiện ra thành hình người.
Ồ! Lạ! Trong đám ẩu đả lại có người mặc áo thụng lam và đội mũ
nhiễu hoa.
Tuy rằng đứng ở đằng xa, tôi cũng trông rõ hình dạng. Người ấy, hàm
râu đã dài, cái áo thung lam đã toạc, vạt trước, trên trán có một vết đỏ chạy
thẳng từ trán xuống cằm, có lẽ là vết máu chảy.
Chỉ kịp lật mũ vất xuống vệ đường, người ấy vén tay áo thụng, giằng
lấy chiếc gậy của một người khác, rồi quay vào đám đông người ra sức vụt
lấy vụt để.
Hình như bây giờ đến hồi loạn chiến, người ta chỉ cốt đánh cho sướng
tay, bất phân ai là phe thân, ai là phe thù” [25; 289].
Kết quả người thì mất miếng thịt khá to ở gò má, xương lòi ra, người
thì trán sưng, mắt híp lại, người thì mất mảng tóc đỉnh đầu, “thịt non phơi ra
đỏ hỏn”. Lý trưởng cắt tuần phiên canh gác và đi lùng bắt những kẻ tham

- 157 -
chiến. Cuộc hỗn chiến “gớm ghiếc” như thế với những cảnh, những người,
những việc được diễn tả khá sôi động và sinh động. Đến đây tác giả mới cho
biết nguyên nhân: “Một người cùng đi một đường với tôi; đã được chứng
kiến trận ẩu đả ấy và có biết rõ nguyên ủy. Cứ như anh ta đã nói, thì căn do
của thảm kịch chỉ tại một chiếc lăm lợn” [25; 201]. Ngày mai hội tư văn của
làng làm lễ tế tại văn chỉ. Hai ông tranh nhau chức chủ tế, bởi vì ai gánh công
việc chủ tế thì được phần chiếc lăm lợn, lệ làng là thế. Cách tổ chức dẫn dắt
câu chuyện theo lối này gợi tò mò cho người đọc. Người đọc phải theo dõi
nội dung cho đến hết tác phẩm mới rõ nguyên nhân của sự việc, vấn đề.
3.2.4. Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ
Phóng sự, nhất là phóng sự do các nhà văn viết, tính chất văn chương
đậm đặc hơn. Ở đấy bức tranh về đời sống hiện ra vừa cụ thể vừa khái quát
với nghệ thuật dẫn chuyện, nghệ thuật trình bày chi tiết, nghệ thuật miêu tả,
đặc tả chân dung và ngôn ngữ linh hoạt sống động. Vũ Trọng Phụng, Ngô
Tất Tố, Tam Lang sử dụng ngôn ngữ ở nhiều góc độ, cấp độ khác nhau tạo
ra những văn phong độc đáo nhưng tựu trung có mấy điểm chung sau đây:
Các tác giả qua việc sử dụng ngôn ngữ, thể hiện kiến thức và sự hiểu
biết nhất định về lĩnh vực, đề tài mà mình đi sâu khai thác: cuộc sống của
lớp người dưới đáy xã hội, nạn cờ bạc bịp, nạn mại dâm, những hủ tục và
mánh khóe bỉ ổi của bọn cầm quyền ở nông thôn trước Cách mạng tháng
Tám 1945.
Ngôn ngữ trong phóng sự của ba nhà văn giàu hình ảnh, biện pháp tu
từ kết hợp với một số phương pháp biểu đạt như đối thoại, tiếng lóng, tiếng
nhà nghề khắc họa được nội tâm nhân vật và vì vậy nâng cao được tính nghệ
thuật, sức hấp dẫn của tác phẩm.
Sử dụng ngôn ngữ đời thường, các phóng sự trở nên sinh động, cụ thể
gần gũi với cuộc sống hàng ngày. Chi tiết, sự việc vấn đề gắn với hiện tại,
của hiện tại đang diễn ra. Tính thời sự, cập nhật của phóng sự cũng là ở đấy.

- 158 -
Cấp độ từ vựng: Phóng sự sử dụng ngôn ngữ đời thường và vì vậy
khẩu ngữ như là “chất liệu” đặc trưng giúp cho việc mô tả, khắc họa môi
trường, nghề nghiệp, tâm lý nhân vật. Tam Lang, Vũ Trọng Phụng sử dụng
khẩu ngữ thành thị, Ngô Tất Tố dùng khẩu ngữ nông thôn phù hợp với từng
đối tượng. Một me Tây lõi đời: “Việc gì mà sợ? Có đánh chết cái ba vạn.
Bọn họ toàn một tính mềm nắn rắn buông mà thôi. Trừ phi bắt được quả
tang ngủ với giai hãy chịu, chứ đường đường chính chính ra mình phải mà
họ trái, thì…chửi thì chửi trả, đánh cũng đánh trả! Các cô có biết gái này
không? Đã có ba lần bị đấm một cái mà tát lại được ba cái đấy. Giơ dao lên
dọa, gái này cũng tốc phăng ngay cái coócxê lên! Anh nào cũng phải gờm!”
[4; 67]. Bà Đội Tứ đanh đá “lên lớp” cho các cô me mới vào nghề như thế.
Còn đây là lời con sen Đũi căm uất nói về con mụ chủ khốn nạn của nó: “ Ui
chao! Khổ tuyệt trần đời anh ạ. Tôi tưởng lúc ấy tôi chết ngay được!” “Ba
hôm sau tôi ra, vì nó quen mui lại bắt tôi tiếp khách nữa. Tiên sư bố nó, thật
là giời quả báo xui nên, nó bị xe ô tô đâm phải, gẫy mẹ nó ngay một
cẳng…Anh ạ, tôi cho có giời có ta lắm” [4; 105]. Ngôn ngữ của mụ chủ xe
mắng chửi anh phu xe thiếu thuế được Tam Lang chọn lọc làm rõ được sự
tàn ác của bọn người có tiền có quyền hành hạ người khác:
-“Mai với kia gì, áo nó đâu, bắt lấy!
- Nó nỏ mồm đánh bỏ mẹ nó đi cho bà…quai thêm cho nó mấy cái.
- Mày nắn lưng nó cho bà
- Bà đánh cho mày biết, từ giầy thì chừa những thói ăn gian” [16; 29]
Có ngôn ngữ của người phu xe kể lại trận đòn thừa sống thiếu chết
của mình đã chịu: “Giam tôi vào một gian buồng hẹp, trói ghì cánh khuỷu
tôi lại, bốn thằng nó chuyền tay nhau đấm đá. Đá chán, chúng thay lượt nhau
túm tóc lật ngửa mặt tôi lên mà vả rồi lại buộc thừng vào chỗ trói cánh
khuỷu mà giật tôi lên xà nhà. Lúc mới, tôi còn hăng máu, không thấy gì.
Sau, tôi thấy như hai cánh tay tôi lìa hẳn bả vai ra, hai má tôi bị lột mất lần

- 159 -
da, mà hai mạn xương sườn cũng như rời từng cái một” [16; 76]. Ngay đến
ngôn ngữ của nhân vật trần thuật cũng đậm chất khẩu ngữ. “Người cai
không có đấy, nhưng trên chiếc ghế vải anh ta ngồi lúc trước, tôi thấy có một
người đàn bà. Mụ này cởi trần, người to lớn, đang rũ tóc quạt phành phạch
như người quạt hỏa lò. Dưới mảnh yếm rộng không hơn chiếc mù soa thỗn
thện cặp vú sọ dừa to như hai chiếc ấm giỏ” [16; 28].
Trong phóng sự Ngô Tất Tố, ngôn ngữ tác giả là chủ yếu. Tác giả đi
điều tra, chứng kiến, hỏi chuyện, mô tả, dẫn chuyện. Khẩu ngữ trong câu văn
của ông không bốp chát, mạnh mẽ, giảo hoạt như khẩu ngữ của Vũ Trọng
Phụng, Tam Lang. Và điều quan trọng cần chú ý khẩu ngữ trong phóng sự
Vũ Trọng Phụng, Tam Lang là khẩu ngữ của người thành thị đang biến chất,
tha hóa khác với khẩu ngữ ở nông thôn của những người nông dân. Ngô Tất
Tố nhận xét: “Thì ra đức đại vương của làng T.D. vốn là đồng nghiệp với
chú Trích. Ngài là người về đời Lê, lúc sống rất giỏi về khoa đào tường
khoét ngạch. Thế nhưng ngài cũng bị bắt và bị xử tử. Chỉ vì nhờ được giờ
linh cho nên mới được tôn làm thành hoàng” [25; 182]. Chính ngôn ngữ tác
giả - nhân vật trần thuật làm nên giọng điệu ở đây: thâm trầm và châm biếm.
Nhưng trong phóng sự Ngô Tất Tố, ngôn ngữ của tác giả thường xen kẽ với
ngôn ngữ nhân vật. Nhiều trường hợp tác giả và nhân vật hoặc nhân vật với
nhân vật đối thoại với nhau: “Ông nói không thể nghe được. Mình đã hầu hạ
nhà thánh, vợ vẫn chửa bĩnh ruột ra. Thế mà còn bảo xin chạ châm chước,
thì phỏng châm chước làm sao. Chúng tôi cũng nể ông lắm, nhưng mà lệ
làng như thế, không ai dám bỏ. Nếu như chúng tôi không ăn vạ ông, lỡ ra
nhà thánh quở phạt, liệu dân làng này có yên được không?” [25; 170]. Đó là
lý lẽ hống hách của chức dịch trong làng với “nạn nhân”. Còn đây là lời
thanh minh của họ hàng khổ chủ với tác giả: “Ở chốn thôn quê, ăn uống là
sự đầu tiên. Muốn gì thì gì, hễ không có ăn thì việc không thành. Lúc trước
anh tôi cũng nghĩ như ông đã định chước sự ăn uống vì đã rắc tiền khắp mặt

- 160 -
chức dịch. Nhưng ông chánh hội không nghe. Ông ấy nói rằng thế nào cũng
phải đấm miệng cho các bô lão và bọn trai đinh bò bướu một bữa” [25; 222]
Ngô Tất Tố vốn là nhà nho có kiến thức Tây học, lại có thời gian hoạt
động viết báo ở Sài Gòn (1927-1930), nên trong phóng sự của ông ngoài
những từ chỉ phong tục, hủ tục ở làng quê như chuôm bầu, cái hèm, xin keo,
vào đám, vào ngôi, mua cỗ, tuần sóc…còn có lớp từ Hán Việt và từ địa
phương Nam Bộ.
- “Trống cái trong đình thúc mau như trống hộ đê. Tù và thổi liên
thanh bất chỉ” [25; 152].
- “Chúng tôi đã sắp đứt hơi vì muốn theo đuổi trò lạ đời ấy cho đến
cứu cánh” [25, 153].
- “Dân làng còn thưa vắng. Vì cuộc tế thần cử hành về đêm, những
người chấp sự vẫn chưa tới hết” [25; 173]
- “Nhân lúc vô sự, tôi liền đi đến nhà ảnh để coi” [25; 238]
Từ địa phương Nam Bộ không xuất hiện nhiều, Ngô Tất Tố chỉ dùng
hai từ phổ thông và dễ hiểu: ảnh (anh ấy) và ổng (ông ấy). Và hai từ ấy cũng
chỉ có ở 5 bài Đôi giầy mất dạy, Vũng lội làng Ngang, Đuổi giặc cho thần,
Miếng thịt chùi dao, Góc chiếu giữa đình: “Ông chủ nhà tôi rất mến ảnh,
quanh năm suốt tháng không dám rời ảnh mấy khi”, “Ổng cũng biết rằng
đàn bà ở đời không phải là thừa. Nhưng hơn ba chục năm làm thân đàn ông,
ổng chưa biết hơi đàn bà thế nào!”. “Vì tập hồ sơ của tội án cái đình đương
cần sưu tầm tài liệu nên khi thấy ổng giở câu chuyện đó, tôi tưởng như bắt
được của và tôi chờ đợi lời ổng một cách vui vẻ” “Trong cái đêm tắt đèn,
ông Ng.Tr.L. vẫn chưa nói hết mỹ tục của làng D.L. Mới đây, khi ở Vinh ra,
ổng đã bổ khuyết với tôi chỗ đó”. “Người ta bảo với tôi rằng: ổng rất thật thà
chân chỉ. Trước đó chừng mười lăm năm, ổng còn làm nghề cày thuê, vợ
ổng thì chuyên đi ở vú”.

- 161 -
Bên cạnh lớp từ ngữ trên chúng ta gặp nhiều từ lóng, tiếng lóng. Tiếng
lóng chỉ dùng riêng trong nội bộ một nhóm người với nhau, một thứ ngôn
ngữ đặc biệt, riêng biệt, nhưng lại được các nhà văn sử dụng khá thành công,
nhất là Tam Lang, Vũ Trọng Phụng. Điều đó chứng tỏ các cây bút phóng sự
am hiểu rất kỹ lưỡng nghề nghiệp và ngôn ngữ nghề nghiệp của từng đối
tượng được miêu tả. Tam Lang mỉa mai bọn người…ngợm bằng thứ ngôn
ngữ đời thường vừa hóm vừa hoạt, phù hợp với từng loại người: Bà Chủ mỏ
thường ngồi vắt nóc trên ghế. Mợ Đốc Bốn lau lớp phấn cũ, “trát lớp phấn
mới trên má, kẻ lại hai hàng lông mày cho được nhỏ như hai sợi chỉ, thoa lại
cặp môi cho thật thắm. Cái việc “cạo tường, quét vôi, kẻ hoa” ấy cũng đã
mất nửa ngày”. Bà Chủ đất thì “chiếc áo thắt đáy càng làm nổi bộ mông lồng
bàn, rồi cái “sơ mi” lụa viền đăng ten càng làm nẩy cặp vú sừng bò núng
nính”. Ông cũng sử dụng rất thành thạo tiếng nhà nghề, tiếng lóng của dân
nghiện, dân xe kéo: “Ngang hay hộp? - Ngang nhưng còn bền lắm, sái tư còn
con ong” (loại thuốc phiện tốt, khi hút phồng lên như con ong), khẩu bộp
(lừa đảo) cảnh sộp (gái đẹp hay người nhiều tiền) đánh nhựa (bắt), cắm đầm
(lúc đỗ xe đâm càng vào cửa những nhà Tây để chờ chuyến), “một thằng
trước khi bước lên xe đã cò kè từng đồng xu thì hảo chót rẫm gì mà
hảo!”…Vũ Trọng Phụng cá tính hóa nhân vật bằng những tiếng lóng đặc
trưng của dân bạc bịp trong Cạm bẫy người: mòng, két, tạ, thiếc, đòn Vân
Nam, đòn ve, đòn kim, trạc xếch…
Cấp độ câu văn: Trong phóng sự Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Tam
Lang thường sử dụng thành ngữ, tục ngữ nhằm diễn đạt, mô tả đúng cảnh,
đúng tình, đúng người, đồng thời cũng lột tả được đúng bản chất của sự việc,
vấn đề. Tính cô đọng, hàm súc, khái quát và hình tượng của thành ngữ tục
ngữ gây ấn tượng cho người đọc. Văn phóng sự của Tam Lang có sức biểu
cảm nhờ vào những thành ngữ tục ngữ: gà què ăn quẩn cối, đói đầu gối phải
bò, ăn cướp cơm chim, ngựa tìm đường cũ, nắm kẻ có tóc ai nắm kẻ trọc

- 162 -
đầu, một người làm quan cả họ được nhờ, thợ rào thì có búa, bà chúa thì có
tàn, ông quan thì có lọng, bòn nơi khố cậy đãi nơi quần hồng…
So với Tam Lang, câu văn phóng sự của Vũ Trọng Phụng và Ngô Tất
Tố có nhiều thành ngữ, tục ngữ hơn, nhất là phóng sự của Vũ Trọng Phụng.
Theo thống kê của chúng tôi Kỹ nghệ lấy Tây trong 75 trang in có 27, Cơm
thầy cơm cô trong 48 trang in có 42, Một huyện ăn Tết trong 15 trang in có
19, Tập án cái đình trong 63 trang in có 16, Việc làng trong 93 trang in có
20. Các thành ngữ tục ngữ được sử dụng hợp lý thích ứng với những hoàn
cảnh, công việc của từng hạng người. Ở Kỹ nghệ lấy Tây: cạn tàu ráo
máng, lá gió cành chim, quen thân mất nết, trốn chúa lộn chồng, tin đi mối
lại, điều nọ tiếng kia, ngồi lê đôi mách, trăm đường nghìn nỗi, trao xương
gửi thịt, qua ngày đoạn tháng, một người lấy Tây cả họ được nhờ, đầu trâu
mặt ngựa, mềm nắn rắn buông, tiền trao cháo múc, đâm bị thóc chọc bị gạo,
trơ như đá vững như đồng, gan lì tướng quân, bách niên giai lão…Đúng là
hành vi, cử chỉ, cách ứng xử của con người trong thế giới me Tây. Ở Cơm
thầy cơm cô các thành ngữ tục ngữ làm hiện lên những thân phận bèo bọt
của lớp người không chốn nương thân: nằm ngổn nằm ngang, ăn chực nằm
chờ, năm cha ba mẹ, tranh cơm cướp áo, chân lấm tay bùn, vái lấy vái để,
ăn đói làm no, vu oan giá họa, giận cá chém thớt, nóng lòng sốt ruột, nhị
rửa hoa tàn, sa cơ lỡ bước, khố rách áo ôm, công ăn việc làm, cơm thừa
canh cặn, con ong cái kiến…Ở Một huyện ăn Tết, các thành ngữ tục ngữ tập
trung vào những hành vi, cử chỉ, tâm tính của bọn lính cơ, lính lệ vô lương
tâm, nhân tháng củ mật, áp Tết tìm cách “đi ăn cướp có giấy phép”: năm hết
Tết đến, gà què ăn quẩn cối xay, gãi đầu gãi tai, sôi lên sùng sục, của ít lòng
nhiều, có đi có lại mới toại lòng nhau, an cư lạc nghiệp, cá lớn nuốt cá bé,
đòn sóc hai đầu, bạc là dân bất nhân là lính, được đằng chân lân đằng đầu,
ăn cơm mới rồi mới nói chuyện cũ, lạy mình như tế sao…
Trong hai tập phóng sự Tập án cái đình và Việc làng của Ngô Tất Tố,
các thành ngữ tục ngữ gắn với cuộc sống của người nông dân. Từ đó người

- 163 -
đọc nhận ra bức tranh hiện thực sinh động về nông thôn Việt Nam trước
Cách mạng 1945: tối như hũ nút, trời tối như mực, hôi như tổ ác, áo vải
quần nâu, trời giá như cắt, kiết xác mồng tơi, cày sâu cuốc bẫm, của ăn của
để, năm thiếp bẩy thê, chiêm khô mùa thối, sống làm sao thác cũng chiêm
bao làm vậy, buồn ngủ gặp chiếu manh, nghèo xác nghèo xơ, cha già mẹ
héo, mẹ nào con nấy, vắt cổ chầy ra nước, chối khan chối vã, mưa thuận gió
hòa, vai u thịt bắp, gắp lửa bỏ vào bàn tay…Câu văn có thành ngữ sinh động
vừa có sức gợi,vừa có sức khái quát. Điều này không chỉ Vũ Trọng Phụng,
Ngô Tất Tố, Tam Lang mà nhiều cây bút phóng sự khác cùng thời như: Trọng
Lang, Nguyễn Đình Lạp … cũng nhận ra và sử dụng rất thuần thục.
Khảo sát phóng sự của Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Tam Lang,
chúng tôi còn thấy cấu trúc câu văn ngắn gọn, tránh được lối mô tả hoặc giãi
bày dài dòng, tạo ra những đối thoại sinh động, đặc sắc. So sánh câu văn
trong tiểu thuyết Giọt lệ sông Hương và trong phóng sự Tôi kéo xe cùng của
Tam Lang sẽ rõ: “Lắm lúc mơ màng nghĩ đến quãng đời bảy tám năm trời về
trước lòng riêng lại như hiu quạnh, mà bâng khuâng thổn thức về những nỗi
cũ miền xưa. Tuổi xuân chưa qua, bên mái tóc xanh những thấy bóng dâu đã
xế, giải nước sông Hương đầy vơi giọt lệ, trong muôn năm nào ai thấy đến
cái tâm sự của mình. Nước mắt năm canh, có lúc thấm ướt mấy lần chăn gối,
tơ lòng trăm mối, cảm cơn gió lạnh mà động niềm hôm mai…” (Giọt lệ sông
Hương). “Thật chúng nó tàn nhẫn. Ăn cướp cơm chim, sống bám vào những
khố rách. Những thằng thế mà giới vẫn cho mát mặt, chẳng bù với mình, đầu
tắt mặt tối, ngày nắng đêm sương…Để mặc anh Tư chửi bới cho hả giận, tôi
vắt tay lên trán, mơ màng nằm nghĩ một mình. Ngoài trời, ngàn dâu đã xanh
ngắt bên sông…(Tôi kéo xe).
Vũ Trọng Phụng cùng viết về một đề tài, một chủ đề, nhưng câu văn
trong phóng sự và trong tiểu thuyết có khác nhau. Ở phóng sự nhanh gọn,
linh hoạt, sắc sảo hơn ở tiểu thuyết: “Huyền! - Huyền phải chính là Huyền. -

- 164 -
Thật là bất ngờ - Ừ, quả vậy - Huyền ơi, em còn nhớ các anh không? Em vào
hẳn đây đi – Trông các anh quen lắm” [8; 62-63]. Đó là đoạn đối thoại giữa
Huyền và hai anh bạn học cũ trong tiểu thuyết Làm đĩ. Còn đối thoại giữa
ông đốc tờ với cô gái phải khám bệnh “phong tình” trong phóng sự Lục xì
hiện rõ thân phận nhân vật:
- “Con này sao mày được tiếp khách như thế?
- Bẩm quan lớn, không thế thì nó bóp cổ con chết mất!
- Thế thì mày phải gọi đội xếp chứ!
- Bẩm…nhưng mà nó đã lột truồng con ra rồi!
- Mày không kêu cứu ai à?
- Bẩm, ở nhà săm chứ không ở nhà con. Hôm ấy săm vắng khách
- Một thằng
- Bẩm, đó là một thằng da đen ạ.” [9; 79]
Người đọc có thể bắt gặp nhiều đoạn đối thoại ngắn, độc đáo, hấp dẫn
trong các tập phóng sự khác của Vũ Trọng Phụng mà nhờ đó tính cách nhân
vật được khắc họa rất ấn tượng. Một phiên tòa đặc biệt, xử một người đặc
biệt – me Tây.
“ - Tên là gì?
- Nguyễn Thị Ba
- Bao nhiêu tuổi?
- Hăm nhăm
- Làm nghề gì?
- Trước lấy một ông phó đoan, sau lấy một ông…
- Im! Nghề gì chứ ai hỏi lấy chồng!
- Sau lấy một cập ten.
- Không có nghề phải không? Vô nghề nghiệp

- 165 -
- Việc gì mà vô nghề nghiệp?
- Thế làm nghề gì?
- Làm nghề gì? Làm nghề…làm nghề lấy Tây!” [4; 15]
Ngô Tất Tố cũng cấu trúc câu văn ngắn, súc tích khi điều tra, phóng
sự về một việc, một vấn đề nào đó. Nếu như ở tiểu thuyết Tắt đèn đối thoại
vẫn còn dềnh dàng:
- “Thế nào, mày nghĩ tao nói có phải hay không?
- Vâng, thưa hai cụ con cũng biết rằng cháu được sang đó nương nhờ
các cụ và cô Hai, thật là phúc cho nó lắm. Nhưng vì, nhà con thiếu hơn hai
đồng tiền sưu, mới phải đến kêu cửa cụ. Nếu cụ chỉ cho một đồng thì còn
hơn một đồng nữa, chúng con không biết chạy vào đâu được. Vậy xin hai cụ
nhón tay làm phúc…
- Thiếu bao nhiêu mặc kệ mày, kể lể làm gì? Mày định bổ vào nhà tao
đấy à?
- Thiếu một đồng nữa, thì xem trong nhà còn có cái gì đáng tiền, đem
mà bán nốt đi vậy! Chứ đứa con gái sáu tuổi, bây giờ cho không cũng không
đắt thay, ai động rồ mà trả mày hơn…
- Thưa lạy hai cụ, thật quả nhà con không còn cái gì đáng giá hai hào.
- Sao bảo nhà mày có con chó cái khôn lắm!
- À! Thưa cụ có! Nhưng nó mới đẻ, con nó hãy còn non lắm, có bán
không ai mua, nếu có người mua cho, chúng con đã không phải bán cháu!
- Nỏ đẻ mấy con? Con đã mở mắt chưa?
- Bẩm bốn con. Nó biết ăn cơm đã hai hôm nay…Hay là xin cụ đỡ con
hai đồng, lời lãi thế nào con cũng xin vâng. Chỉ độ hai phiên chợ nữa, mấy
con chó ấy cứng cát, bán được, thì con lại xin nộp cụ.
- Tiền tao có phải vở hến mà tao quẳng cho mày bây giờ? Dễ tao hám
lãi của mày lắm đấy? Thôi, thế này: chó non tao cũng mua vậy. Bắt cả con

- 166 -
chó cái và đàn chó con sang đây, tao trả cho một đồng nữa. Với con bé kia
một đồng là hai…Thế là nhà mày đủ tiền nộp sưu, lại khỏi nuôi chó, khỏi
nuôi con. Sướng nhé!” [25; 35]
Thì đến phóng sự Việc làng, câu văn gọn chắc và nhịp nhanh hơn:
“- Thưa các cụ làm bao nhiêu cỗ?
- Mày trông xem có bao nhiêu người kiến tại
- Bẩm ba mươi người tất cả
- Hàng xóm ta mấy mươi suất, cụ có nhớ không?
- Năm ngoái bảy mươi tám suất, năm nay mới thêm năm suất thế là
tám mươi ba suất cả thảy.
- Vậy thì phải làm hai mươi ba cỗ, tám cỗ kiến tại, một cỗ chứa, một
cỗ cho mày, còn mười ba cỗ làm phần” [25; 232].
Nhìn chung, câu văn phóng sự ngắn, chứa đựng nhiều thông tin, dùng
nhiều khẩu ngữ, thành ngữ tục ngữ, từ ngữ nhà nghề, đối thoại…bởi vì
phóng sự cần đưa đến cho người đọc một cảm nhận trực tiếp, sự việc, sự
kiện, con người cụ thể, sinh động như đang ở trước mắt. Và điều đó buộc
người viết phóng sự phải dùng thứ ngôn ngữ đời thường, linh hoạt và gần
gũi. Tất nhiên nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ, hành văn thế nào còn tùy thuộc
vào nhiều yếu tố: tư chất nhà văn, chất liệu và đối tượng mô tả…Vũ Trọng
Phụng, Ngô Tất Tố, Tam Lang có nét khác nhau nhưng vẫn hiện ra điểm
chung. Điểm chung đó nếu so với văn phóng sự của Nguyễn Tuân thì rõ.
Văn phóng sự Ngọn đèn dầu lạc của Nguyễn Tuân chậm rãi, nhẩn nha như
chân dung thể xác, tinh thần của các con nghiện, với những mô tả tỉ mỉ đến tỉ
mẩn cử chỉ, động tác của cái Tôi “thấy mình là một phế nhân”. Trong một
tiệm hút “đèn đóm như sao sa, tôi ngờ rằng đây là một đàn chay của bữa
cúng Thượng nguyên người ra làm lễ nhường sao”. “Tôi lăn kềnh ra sân, gối

- 167 -
đầu lên cái gối sứ tráng men xanh. Thấy lạnh gáy tôi nghĩ đến cái thớt để kê
đầu tên tử tù ở các pháp trường nước Hà Lan mà người ta xử tử bằng một cái
lưỡi búa tầm sét” [27; 523]. Và một đám con nghiện: “Họ nghển đầu lên bốc
những miếng lạp sườn, xúc thìa cơm hoặc gắp miếng bánh cuốn y như người
La Mã ăn yến tiệc bao giờ cũng nằm dài trên thứ trường kỷ” [27; 533].
3.3. Sự dung hợp các thể loại
Phóng sự là gì ? Đặc trưng của phóng sự ? Phóng sự báo chí và phóng
sự văn học? Là những vấn đề có thể còn phải trao đổi thêm. Nhưng, như
chúng tôi đã đề cập ở chương 1, dựa vào thực tiễn và thành tựu phóng sự
Việt Nam thời kỳ 1930-1945 thì phóng sự đã sử dụng linh hoạt những biện
pháp nghệ thuật của các thể loại văn học. Như vậy phóng sự, ký sự, truyện
ngắn, tiểu thuyết phóng sự thực sự có nhiều điểm gần nhau, giao thoa bên
cạnh những khác biệt. Nhà nghiên cứu Phan Trọng Thưởng đã viết một bài
phân tích sâu sắc về phóng sự Việt Nam (1932-1945): mối quan hệ giữa ký
sự trung đại và phóng sự hiện đại, tiêu chí nhận diện phóng sự hiện
đại…Ông viết: “Từ một phương diện khác, có thể thấy động cơ và mục đích
của ký sự trung đại và phóng sự hiện đại cũng khác nhau khá nhiều. Qua
những tác phẩm như Thượng kinh ký sự, Vũ Trung tùy bút hay Hoàng Lê
nhất thống chí ta thấy sau khi ghi chép, mô tả một sự kiện nào đó, tác giả
thường chỉ bày tỏ những chiêm nghiệm về thời thế, bình luận về chính sự,
đạo đức hay về một xã hội đang suy vi hoặc hưng thịnh theo quan niệm
riêng của mình. Trong khi đó ở phóng sự hiện đại, theo Nguyễn Đình Lạp là
tinh thần “nghiên cứu, tìm hiểu một sự kiện nào đó rồi ghi chép cho thật
đúng” với mục đích “cung cấp cho nhà xã hội học, nhà chính trị những
thông tin về tình hình xã hội, đạo đức…để họ tìm cách giải quyết”.
Như vậy là phóng sự tuy không đặt mục đích giải quyết vấn đề nhưng
nó lại nêu vấn đề, đề xuất vấn đề có tính cảnh báo xã hội trên cơ sở nghiên

- 168 -
cứu, tìm hiểu thực chất sự kiện. Ngay từ đầu, người viết phóng sự đã can dự,
thâm nhập vào sự kiện.
Với so sánh trên đây, có thể thấy ký sự và phóng sự là hai thể loại
khác nhau ra đời trong những điều kiện lịch sử và văn hóa, văn học khác
nhau, có những đặc trưng thẩm mỹ khác nhau. Song không phải là không có
những dấu hiệu, những cơ sở để nói đến mối liên hệ và những phát triển đột
biến của truyền thống văn học dân tộc” [173; 29-30]. Ông cũng nêu lên
những lúng túng khi xác định thể loại cho một số tác phẩm văn học: “Ngoài
những thiên phóng sự một kỳ hoặc nhiều kỳ đăng tải trên các báo mà đặc
trưng của nó đã khá rõ ràng, chúng ta vẫn gặp những tác phẩm không xác
định về mặt thể loại, nghĩa là có những tác phẩm vừa có thể xem là phóng
sự, vừa có thể xem là tiểu thuyết, vừa có thể xem là truyện vừa. Các tác
phẩm như Ngõ hẻm của Nguyễn Đình Lạp, Việc làng, Tắt đèn, Lều chõng
của Ngô Tất Tố, Hầu thánh của Lộng Chương…thường khiến cho chúng ta
lưỡng lự, phân vân giữa phóng sự và tiểu thuyết. Có lẽ vì vậy mà khái niệm
tiểu thuyết phóng sự được người ta dùng cho những tác phẩm thuộc loại
này” [173; 34]. Và cuối cùng, ông kết luận mở rộng tiêu chí cho khái niệm
phóng sự: “Từ trước tới nay, khi tiếp xúc với phóng sự, ít người xem những
thiên du ký, những điều tra, ghi chép, khảo cứu về lịch sử, văn hóa in trên
các báo Nam phong và Tri tân…là những thành tựu cùng loại. Nhưng khi
đọc kỹ các tác phẩm này, đối chiếu với những đặc trưng nổi bật nhất của
phóng sự, ta thấy chúng thực sự là những thiên phóng sự có giá trị. Nội dung
của nó thường mô tả cặn kẽ, tỉ mỉ hành trình đến một di tích, danh thắng,
một địa phương nào đó, mô tả lịch sử kiến trúc, quang cảnh lễ hội và những
xúc cảm chủ quan của tác giả. Cũng có khi đó là một bài điều tra xã hội học
hoặc dân tộc học có cứ liệu và số liệu cụ thể, kèm theo những khảo tả kỹ về
phong tục tập quán, về trang phục hay sinh hoạt văn hóa của một dân tộc nào
đó. Phương pháp tiến hành cũng như ý nghĩa của những bút ký, ghi chép này
không xa lắm so với các phóng sự một kỳ trên báo.

- 169 -
Như vậy, thành tựu của phóng sự 1932-1945 xét về thể loại không chỉ
có phóng sự một kỳ, hoặc nhiều kỳ trên báo mà còn có cả tiểu thuyết phóng
sự, những thiên du ký, khảo cứu phong tục, lịch sử văn hóa…mang đủ các
đặc trưng cơ bản nhất của phóng sự” [173; 36].
Từ quan niệm ấy, tác giả là một trong ba soạn giả bộ Phóng sự Việt
Nam 1932-1945 (3 tập) đã đưa vào công trình này cả tiểu thuyết Giọt lệ sông
Hương, Một ngày ở xứ Chàm của Tam Lang; Lều chõng, Nước non Cao
Bằng của Ngô Tất Tố; du ký Một chuyến đi của Nguyễn Tuân; Ngoại ô, Ngõ
hẻm của Nguyễn Đình Lạp…
Sự giao thoa các thể loại là sự thực và không tránh khỏi, đặc biệt tác
giả các phóng sự là nhà văn. Ngay như nhà báo viết phóng sự, thì phóng sự
hay, hấp dẫn vẫn chứa đựng ý nghĩa, giá trị nghệ thuật. Lý luận báo chí cũng
đã đưa ra nhận xét: “Phóng sự thông thường phản ánh sự thực bằng hình
ảnh, qua lối viết bằng hình ảnh ta có thể hình dung ra bức tranh xác thực về
một khía cạnh nào đó của cuộc sống. Ở đó phẩm chất tinh thần của con
người, bộ mặt xã hội trên từng mặt thường được nổi lên rất rõ. Bởi vậy,
những phóng sự hay thường toát ra cả ý nghĩa mỹ học”. “Nếu ta hình dung
đường ranh giới nối liền tiểu thuyết (hoặc truyện ngắn) với các thể tài báo
chí thì cái đường ranh giới đó có lẽ là phóng sự” [137; 193-194].
Chúng tôi khảo sát phóng sự Việt Nam thời kỳ 1930-1945, chủ yếu
qua các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Tam Lang và thấy rằng
quan niệm rạch ròi với các tiêu chí thể loại là khó khăn. Sự thực ở phóng sự
của ba nhà văn trên có sự dung hợp các thể loại: phóng sự và ký sự, phóng
sự và truyện ngắn, phóng sự và tiểu thuyết phóng sự.
3.3.1. Phóng sự và ký sự
Chúng tôi muốn nhắc lại một số ý kiến về thuật ngữ ký sự. “Ký sự:
loại ký ghi lại những diễn biến của cuộc sống xã hội, không hoặc rất ít xen

- 170 -
vào những bình luận chủ quan của người viết” [190; 520]. Từ điển văn học
(bộ mới), “Ký sự: Một thể loại nằm trong nhóm thể tài ký, chuyên ghi chép
một sự kiện, một câu chuyện tương đối hoàn chỉnh mà người ghi là người
trong cuộc, tham gia vào mọi diễn biến như một nhân vật dẫn chuyện hoặc
nhân vật chính…Đối tượng của ký sự là sự thật diễn ra ngoài ý định chủ
quan của tác giả, tác giả chỉ có thể lựa chọn để ghi lại theo cảm hứng và cảm
quan cá nhân chứ không có quyền hư cấu thêm…Nhưng so với phóng sự, ký
sự lại ít chất thời sự hơn, không chú trọng nhiều đến lượng thông tin mamg
tính báo chí nóng hổi, cũng không đặt mục tiêu tìm hiểu và đối thoại với
những hiện tượng đời sống đang chứa đựng các uẩn khúc cần được phanh
phui và giãi bày kiến nghị” [185; 788]. Và dẫn chứng Thượng kinh ký sự của
Lê Hữu Trác (1720-1799); Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi (1882) của
Trương Vĩnh Ký. Đầu thế kỷ XX trở đi, Hạn mạn du ký (1921) của Nguyễn
Bá Trác; Mười ngày ở Huế (1918) của Phạm Quỳnh; Ngục trung ký sự
(1927), Côn Lôn ký sự (1935) của Trần Huy Liệu; Ngục Kon Tum (1938) của
Lê Văn Hiến, rồi Ký sự Cao Lạng (1951) của Nguyễn Huy Tưởng…
Vậy thì quan niệm và dẫn chứng ký sự, du ký, phóng sự là gần gũi
nhau. Và ngay cả ý kiến ban đầu của chúng tôi (phần 3.1) đến đây cũng cần
điều chỉnh. Lý thuyết có tính lý tưởng, cuộc sống của thể loại lại vô cùng
phong phú, sinh động. Thực tế, chúng ta thấy nhiều phóng sự gọi là ký sự
cũng đúng. Tác giả chỉ ghi lại sự việc khách quan những điều mắt thấy tai
nghe, không bình luận. Sự việc đang diễn ra hoặc đã diễn ra từ trước, không
có tính cảnh báo và cũng không kiến nghị gì. Một ngày ở xứ Chàm của Tam
Lang, Nước non Cao Bằng của Ngô Tất Tố là thế. Và nhiều phóng sự trong
Tập án cái đình (Cuộc thi giết lợn, Được một trai, mất ba lợn, Ông thành
hoàng ấy đã bị cách rồi) trong Việc làng (Lớp người bị bỏ sót, Cỗ oản tuần
sóc…) cũng là thế. Cuộc thi giết lợn mở đầu: “Hồi ấy nhằm đầu tuần giữa
tháng giêng, cái tháng mà hầu khắp thôn quê Bắc Kỳ rộn rịp những tiếng

- 171 -
chiêng trống…”. Ngô Tất Tố ghi lại bốn tốp người với bốn con lợn lớn, thứ
lợn nuôi để cúng thần. Sau khi làm lễ lỉnh sinh xong, họ chọc tiết lợn, vừa
khiêng lợn vừa dội nước sôi, vừa chạy về nhà chủ lợn. “Chưa đầy một giờ
đồng hồ, họ đã làm xong một mâm cỗ lớn đủ cả giò, nem, ninh mọc, lục phủ
ngũ tạng con lợn và đệ ra đình cúng thần” [25; 163]. “Làng có năm sào
ruộng trao giải hễ ai làm xong trước và làm được cỗ nhất, nghĩa là cỗ có
nhiều món thì sẽ được cấy năm sào ruộng ấy. Kể ra năm sào ruộng không
đáng bao nhiêu, nhưng nếu chậm, cỗ bé, thì sẽ mang tiếng với làng nước”
[25; 164]. Kết luận tác giả viết: “Từ biệt ông chủ đi ra, bạn nói cho tôi biết,
làng ấy vẫn thờ một ông…tướng cướp. Chỉ có những ông tướng cướp mới
có cái kiểu giết lợn…“hỏa tốc” như vậy” [25; 164]. Được một trai, mất ba
lợn cũng dựng lại không khí một thời đã xa: “Hồi còn thời đại khoa cử tôi đã
trọ học ở làng Th.S. trong huyện Tiên Du. Vì nhà trọ kế tiếp với đình làng
ấy, nên tôi biết ông Đám Phức”. Ông Đám Phức bị mất chức, bị phạt vạ vì
vợ có bầu khi đang giữ chức ông Đám. Nhưng năm sau ông vui vẻ khoe “đã
sinh được thằng con trai. Cháu ngoan lắm” [25; 172]. Thời gian quá khứ
trong phóng sự Lớp người bị bỏ sót cụ thể hơn: “Hôm ấy, một hôm về cuối
mùa đông, cách đây độ hơn mười năm, trời xế chiều, tôi mới đến nhà cụ
Thượng Lão Việt”. Con gà thờ chỉ là phóng sự về việc nuôi gà thờ, chăm
sóc gà thờ và…luộc gà thờ. Kết quả khi đôi gà đã được đem ra đình và đưa
lên chùa, ông chủ nuôi gà sung sướng: “Đời tôi như thế là mãn nguyện”.
Những phóng sự trên đúng là những ghi chép về những tục lệ, hủ tục mà tác
giả là người quan sát khách quan, trung thực.
3.3.2. Phóng sự và truyện ngắn
Truyện ngắn là “truyện bằng văn xuôi, có dung lượng nhỏ, số trang ít,
miêu tả một khía cạnh tính cách, một mẩu trong cuộc đời của nhân vật”
[190; 1054]. Truyện ngắn là “thể tài tác phẩm tự sự cỡ nhỏ, thường được
viết bằng văn xuôi, đề cập hầu hết các phương diện của đời sống con người

- 172 -
và xã hội. Nét nổi bật của truyện ngắn là sự giới hạn về dung lượng; tác
phẩm truyện ngắn thích hợp với việc người tiếp nhận (độc giả) đọc nó liền
một mạch không nghỉ…Truyện ngắn thường nhằm khắc họa một hiện tượng,
phát hiện một đặc tính trong quan hệ con người hay trong đời sống tâm hồn
con người. Truyện ngắn thường ít nhân vật, ít sự kiện phức tạp, chồng chéo.
Nhân vật truyện ngắn ít khi trở thành một thế giới hoàn chỉnh, một tính cách
đầy đặn, thường khi là hiện thân cho một trạng thái quan hệ xã hội, ý thức xã
hội hoặc trạng thái tồn tại của con người.
Cốt truyện của truyện ngắn thường giới hạn về thời gian, không gian,
nó có chức năng nhận ra một điều gì sâu sắc về cuộc đời, về con người. Kết
cấu truyện ngắn thường không gồm nhiều tầng nhiều tuyến mà được dựng
theo kiểu tương phản hoặc liên tưởng” [30, 361-362]. Từ hai định nghĩa trên,
chúng tôi hiểu truyện ngắn:
- Đề cập hầu hết các phương diện của đời sống con người và xã hội.
- Có dung lượng nhỏ, số trang ít.
- Miêu tả một khía cạnh tính cách, một mẩu trong cuộc đời của nhân vật.
- Truyện ngắn thường ít nhân vật, ít sự kiện phức tạp, nhân vật ít khi
là một tính cách hoàn chỉnh.
Và vì vậy, theo quan sát của chúng tôi, nhiều phóng sự của Vũ Trọng
Phụng, Ngô Tất Tố, Tam Lang có dáng dấp truyện ngắn. Giáo sư Nguyễn
Đăng Mạnh khi nói về Việc làng cũng lưu ý: “Việc làng có khuynh hướng đi
gần tới lối viết truyện ngắn. Mười bảy chương sách là mười bảy câu chuyện
về hủ tục mà quanh đi quẩn lại chủ yến vẫn là nạn xôi thịt, nhưng người đọc
không thấy đơn điệu. Lối kể chuyện của tác giả nói chung linh hoạt: hoặc tác
giả đi từ một hiện tượng kết quả hết sức nghiêm trọng như một vụ án mạng,
một cuộc ẩu đả…tới nguyên nhân rất nhỏ nhen của nó: một quân “ông cụ”
(quân bài tổ tôm) giết chết hai mạng người (Cái án ông cụ), bằng một cuộc
tranh luận giữa một số dân làng về một sự việc đột xuất trong hay đánh nhau

- 173 -
sứt đầu mẻ tai vì Một cái lăm lợn…Có khi tác giả mở đầu thôn xóm làm cho
người đọc phải thắc mắc, sau đó mới đi vào câu chuyện (Một tiệc ăn vạ)…
[98; 386]. Trong Việc làng mỗi câu chuyện ngắn gọn, có nhan đề hấp dẫn
như truyện ngắn: Đôi giày mất dạy, Nén hương sau khi chết, Mua cỗ, Món
nợ chung thân…Mỗi truyện 4 hoặc 5 trang in, dài chừng 2 hay 3 ngàn chữ,
miêu tả một nhát cắt, một đoạn trong cuộc đời nhân vật: thằng Mới, nhà hắn
ba đời làm mõ làng, ba đời chuyên chặt thịt gà làm cỗ. Hắn biết rõ và thuần
thục trong nghệ thuật băm thịt gà: “Băm thịt gà thì phải dao sắc, thớt phẳng.
Nếu mà dao cùn thớt trũng, thì thịt sẽ bong hết da”, “Hắn sờ ngón tay vào
lưỡi con dao, xem có bén không. Và hắn lật cái trôn bát liếc luôn ba lượt thật
mạnh”. Hắn pha phao gà làm bốn, sỏ gà làm năm “miếng nào cũng dính một
tí mỏ”. Còn “cái mình con gà hắn băm được 92 miếng” (Nghệ thuật băm thịt
gà). Chuyện ông Lũy thật thà, vốn cày thuê cuốc mướn, vợ chuyên đi ở vú,
chăm chỉ, tiết kiệm lâu ngày nhà ông lên đến bậc có máu mặt trong làng. Ông
mua được chức Lý Cựu, thì mấy hôm sau, vợ ông, bà Cựu cắp nón sang Hà
Nội làm vú già. “Có gần mẫu ruộng và nửa con trâu đã bán hết cả, lại còn
nợ…nếu không đi làm thì lấy gì mà đóng họ?” (Góc chiếu giữa đình).
Nhiều phóng sự trong tập Người…ngợm của Tam Lang giống như
những truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan: Mợ Đốc Bốn, Ông chủ báo,
Ông chủ mồ, Ông Hàn…Hót, Ông Nghị Ba…Những chân dung biếm họa ấy
được khắc họa theo cách: giới thiệu nhân vật, hoàn cảnh xuất thân và từ đấy
là những cử chỉ, việc làm, lời nói…hiện lên từng tính cách của lớp
người…ngợm. Ông Ba nổi cơ đồ về nghề cai xe. Ông “quẳng tiền ra mua
phiếu cử tri” và trở thành ông Nghị. Rồi lại bỏ tiền lần thứ hai mua một ghế
ngồi trong Ban Trị sự Viện Dân biểu “lấy việc được quí quan sai khiến làm
vinh hạnh”. Suốt kỳ họp Viện, ông Nghị chỉ nói được một câu: “Kìa
cụ…Trưởng Viện, cụ làm thông ngôn cho tôi đi…” (Ông Nghị Ba). Ông Võ
Văn Ba vào làng Tây. Tên ông, ông viết và đọc theo giọng Tây là Maurice

- 174 -
Vo. Ông học lối sống Tây, sinh hoạt kiểu Tây, “chê người An Nam là giống
ngu dốt, khoa học vệ sinh không chịu biết, chỉ chú trọng vào việc lễ bái, thờ
phụng ông vải, le ông vai qu’est ce que cela veut dire? (ông vải là cái quái
gì?)”. Rồi ông khen thuần phong mỹ tục của dân quê Pháp (tuy chưa từng
bước chân sang Pháp), ông dọa sẽ về “Paghi” (Paris). Các bạn đồng sự của
ông gọi ông là Môrít…Vồ! (Ông Môrít…Vồ)
Một huyện ăn Tết của Vũ Trọng Phụng đúng là một truyện ngắn hiện
đại. Cách vào truyện, lối dẫn chuyện, điểm nhìn trần thuật thay đổi linh hoạt,
ngôn ngữ đa thanh, sắc sảo. Ở đấy hiện lên hai nhân vật (lục sự già, nho Kh.)
hai loại sâu mọt của cái xã hội Kim thời. “Xã hội thì như một bộ máy tinh tế,
mà cá nhân là những bánh xe , nếu một cái quay, thì bao nhiêu những cái
khác cũng phải quay theo, nếu một cái hỏng thì toàn bộ cũng phải ngừng lại.
Chẳng một ai lại có thể đứng ngoài công lệ: cá lớn nuốt cá bé” [28; 883].
Nhân vật Tôi tham dự vào cốt truyện, kể chuyện và nhận xét. Bên khay đèn
viên lục sự già, nhân vật Tôi có thể “nhìn khắp xung quanh” một huyện. Lão
lục sự tặc lưỡi và cười nhạt, “biết việc mình làm là bậy nhưng cứ làm mà
vẫn cứ có gan nói ra cho ai nấy đều biết chứ không thèm che đậy gì cả…Đã
làm việc cho quan mà không ăn hối lộ thì không xong, cho nên ông mới có
can đảm để tự do cho ai nấy phê bình việc làm của cả cái giới trong đó có
ông. Cái chỗ hơn đời của ông có lẽ là ở đấy. “Ta xấu, nhưng nhiều kẻ khác
cũng như ta, vậy thì ai cũng xấu hoặc là chẳng ai xấu cả”. Đó là câu ông hay
nói với tôi” [28; 880]. Nhân vật lục sự đối thoại làm rõ hành động và tâm lý
của bọn lính cơ, lính lệ và tâm địa của lão. Nho Kh. Thì “nhũn nhặn” nhưng
cũng đầy toan tính mưu mẹo xoay tiền. Cả câu chuyện được dẫn dắt bởi
nhân vật trần thuật. Nhân vật trần thuật kể chuyện và tác động vào cốt truyện
làm cho câu chuyện sinh động hấp dẫn.
3.3.3. Phóng sự và tiểu thuyết phóng sự
Năm 1936, trong bài Tựa cho Kỹ nghệ lấy Tây của Vũ Trọng Phụng,
Phùng Tất Đắc viết: “Cuốn sách này, tôi không muốn chỉ coi là một thiên

- 175 -
phóng sự. Tôi muốn đặt nó vào hàng những công trình có ảnh hưởng xa rộng
hơn, những công trình có thể vạch phương hướng cho văn nghệ, những công
trình giúp được tài liệu cho đời sau khảo xét về buổi này” [4; 9]. Trên Báo
Loa số 86 năm 1935, trong bài Tam Lang: Nhà văn tả chân, Trương Tửu cho
rằng “Tôi kéo xe là một quyển tiểu thuyết hơn là một cuốn phóng sự. Nếu là
phóng sự thì tả cái khổ của phu xe như vậy chưa đủ. Nếu là tiểu thuyết thì
cốt tả một người lương thiện đi làm xe gặp những cảnh trong nghề rồi biến
ra thế nào thì Tôi kéo xe hoàn toàn…Tôi kéo xe là quyển tiểu thuyết tả chân
giá trị nhất trong văn học Việt Nam hiện đại”. Trong Nhà văn hiện đại
(1941) Vũ Ngọc Phan nhận xét: “Vũ Trọng Phụng trong những năm đầu là
một cây bút phóng sự, một cây bút phóng sự sắc sảo và khôn ngoan, sau ông
luyện nó ra một cây bút tiểu thuyết, nhưng cái giọng phóng sự vẫn còn”
[139; 525]. Và ông gọi Tắt đèn, Lều chõng của Ngô Tất Tố là tiểu thuyết
phóng sự. Từ Tắt đèn đến “quyển tiểu thuyết phóng sự Lều chõng thì tác giả
đã tới một trình độ cao hơn về nghệ thuật” [139; 570]. Một số nhà nghiên
cứu khác cũng gọi Số đỏ, Giông tố, Vỡ đê của Vũ Trọng Phụng là tiểu thuyết
phóng sự.
Ý kiến của Phùng Tất Đắc khẳng định giá trị lâu dài của Kỹ nghệ lấy
Tây. Nó không bị giới hạn thời gian, không phải chỉ có giá trị thời sự, nhất
thời, nó vượt lên khuôn thước của phóng sự với ý nghĩa là công trình có thể
vạch hướng đi cho văn nghệ. Tôi kéo xe của Tam Lang, theo Trương Tửu,
không phải là phóng sự mà là tiểu thuyết. Những ý kiến, đánh giá trên, mặc
nhiên thỏa thuận: phóng sự và tiểu thuyết gần gũi nhau, giao thoa nhau. Một
số phóng sự dài có xu hướng tiểu thuyết hóa (Cạm bẫy người, Tôi kéo xe…),
một số tiểu thuyết “giọng phóng sự vẫn còn” (Giông tố, Số đỏ…) một số tiểu
thuyết phóng sự có thể được xếp vào phóng sự (Lều chõng, Ngoại ô, Ngõ
hẻm…).

Khảo sát các phóng sự của Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Tam Lang,
chúng tôi thấy có sự kết hợp giữa phóng sự và tiểu thuyết phóng sự. Tiểu

- 176 -
thuyết phóng sự chỉ là một thuật ngữ tạm quy ước, chưa được định danh theo
một định nghĩa, tiêu chí nào. Nhưng khi nói đến tiểu thuyết phóng sự là nói
tới tác phẩm chứa đựng hai tố chất: tiểu thuyết và phóng sự. Chất tiểu thuyết
thể hiện ở kết cấu tác phẩm, nhiều phần, nhiều chương móc nối với nhau
theo một định hướng chủ đề tư tưởng; nhân vật có nội tâm và hoạt động trải
dài, gần như xuyên suốt một tác phẩm, điểm nhìn trần thuật, ngôn ngữ trần
thuật thay đổi linh hoạt…Chất phóng sự đạt đến độ cần thiết nhất định bằng
những chi tiết, sự việc, sự kiện, con người, vấn đề có ý nghĩa xã hội, cập
nhật…Chất tiểu thuyết và chất phóng sự gắn với nhau chặt chẽ nhuần
nhuyễn tạo nên giá trị tác phẩm nghệ thuật. Vì vậy dễ hiểu khi Phùng Tất
Đắc cho Kỹ nghệ lấy Tây của Vũ Trọng Phụng không chỉ là phóng sự,
Trương Tửu gọi Tôi kéo xe của Tam Lang là tiểu thuyết, Vũ Trọng Phụng in
Cạm bẫy người trên báo Nhật tân năm 1933 ghi là phóng sự tiểu thuyết,
Ngoại ô của Nguyễn Đình Lạp, khi in sách (1941), ngoài bìa cũng đề là
phóng sự tiểu thuyết…Gần đây, tuyển tập Phóng sự Việt Nam 1932-1945 (3
tập), NXB Văn học, H. 2000 có cả Lều chõng của Ngô Tất Tố; Ngõ hẻm,
Ngoại ô của Nguyễn Đình Lạp…Thực tế ấy nói rằng ranh giới giữa phóng
sự và tiểu thuyết phóng sự còn nhiều “phân vân”, đường biên thể loại còn lờ
mờ chưa rõ nét. Quá trình hiện đại hóa văn học lúc này chưa hoàn tất, báo
chí và văn học chưa thực sự phân chia, văn xuôi nghệ thuật đang sống nhờ
báo chí thì sự giao thoa giữa các thể loại báo chí và văn xuôi tự sự là không
tránh khỏi.

Ở đây chúng tôi căn cứ vào những ý kiến trên, dựa vào những quan
niệm và công việc biên soạn các tuyển tập tác phẩm hiện có để nhận xét:
chất tiểu thuyết xâm nhập vào phóng sự và phóng sự (đặc biệt là các phóng
sự dài) có xu hướng tiểu thuyết hóa tạo nên tiểu thuyết phóng sự. Chẳng hạn
phóng sự dài Cạm bẫy người, 14 chương (14 phóng sự ngắn), mỗi chương
có một nhan đề, hấp dẫn gợi tò mò cho người đọc: I. Ông thân tôi là
“mòng”. II. Ông quân sư của bạc bịp. III. Đố anh nào bịt được mắt tôi. IV.

- 177 -
Ba nhân vật. V. Bốn đồng sấp ngửa…nhưng đều tập trung làm rõ “kỹ nghệ
bạc bịp” với chân dung “quân sư” bạc bịp. Trùm Ấm B. : xuất thân, thời trẻ
vào làng cờ gian bạc lận, lăn lóc ở các sòng bạc lớn nhỏ, nếm đủ cay đắng,
cuối cùng thành ông Trùm. Tính cách, hành trạng, tác phong, ngôn ngữ được
mô tả hoặc tự bộc lộ sinh động. Nhân vật Tôi dẫn dắt, xâu chuỗi các chi tiết,
sự việc, có khi đối thoại, có khi độc thoại, có khi để cho nhân vật Ấm B. tự
thú tự phơi bày tâm địa mưu mô xảo quyệt hoặc ưu ái tình nghĩa. Hay con
sen Đũi cũng là một cuốn tiểu thuyết, “cuốn tiểu thuyết của con sen Đũi”
(Cơm thầy cơm cô) khá hấp dẫn: Con bé nhà quê, hoàn cảnh xô đẩy, đau
lòng. Chuyện đời nó cũng nhiều tình tiết. Nó căm ghét chủ nhà “keo bẩn”
bần tiện và trả thù hiểm độc bằng cách làm hư hỏng hai thiếu niên con chủ
nhà. Người đọc có thể kể lại đầu đuôi câu chuyện của nó. Thế nhưng Cạm
bẫy người và Cơm thầy cơm cô vẫn đậm đặc những ghi chép, những cảnh,
những người, những chi tiết, sự việc thường nhật, hiện tại đang làm băng
hoại đạo đức, nhức nhối xã hội. Nó có tính cảnh báo những tệ nạn xã hội,
yêu cầu, hối thúc giải quyết của những bài báo…tức là đậm chất phóng sự.
Phóng sự Tôi kéo xe của Tam Lang, có ý nghĩa cập nhật và cấp thiết,
mô tả thực trạng lớp người lao động ở thành phố và là một lời yêu cầu cải
cách để hạn chế bớt sự khổ nhục cho người phu xe kéo. Nhưng 9 chương (từ
chương X đến chương XVIII) cũng là một cuốn tiểu thuyết về nhân vật anh Tư.
Qua hồi ức của anh Tư, người đọc thấy được hoàn cảnh xuất thân, những bất
trắc trong cuộc đời, những mánh khóe nhà nghề có được trong những tháng
ngày lăn lộn kiếm sống, sự tha hóa tâm hồn, lối sống…Mỗi chương là một
tình huống, một câu chuyện, có khi thương tâm mà có lúc thấy nó bẩn thỉu.
Liên kết các chương lại hiện lên tính cách một con người, một số phận, đặc
trưng cho giới phu xe kéo.
Vậy nên, trong các phóng sự chất tiểu thuyết được lồng ghép, nói cách
khác là được tiểu thuyết hóa làm cho tác phẩm tăng thêm tính văn chương
nghệ thuật đồng thời cũng làm rõ được chất nghệ sĩ của tác giả.

- 178 -
Tiểu kết chƣơng 3
Tóm lại, ở chương 3 luận án, chúng tôi khảo sát một số đặc điểm
phóng sự của Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Tam Lang ở các cấp độ: Cái tôi
chủ thể sáng tạo, những thủ pháp nghệ thuật độc đáo và sự dung hợp đan
xen các thể loại trong phóng sự của ba nhà văn.
Các nhà văn nhập cuộc, dũng cảm xông xáo nói lên sự thực: nỗi khổ
của người dân lao động thành thị, nông thôn; những tệ nạn xã hội: nạn cờ
bạc, nạn mại dâm, bọn lang băm lừa đảo…Ở đây cũng thể hiện một vốn
sống phong phú, một khả năng nắm bắt thực tế nhanh nhạy, sâu sắc, đặc biệt
là vốn kiến thức văn hóa sâu rộng của các tác giả. Nhiều phóng sự là những
khảo cứu - khảo cứu có tính khoa học, có lúc đạt tới sự uyên bác.
Các phóng sự của Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Tam Lang có tính chân
thực cao: chi tiết sự việc, sự kiện, con người được khai thác triệt để, đào sâu
đến tận cùng sự thật. Các tác giả đồng thời là nhân chứng (hoặc thông qua
những nhân chứng tin cậy) mắt thấy tai nghe, ghi lại, có khi phỏng vấn, gợi câu
hỏi, dẫn dắt câu chuyện, làm cho câu chuyện hấp dẫn sinh động và bộc lộ ý
nghĩa sâu xa của nó, đồng thời cũng làm hiện lên chân dung tính cách nhân vật.
Từ thực trạng xã hội ấy, từ tấm lòng, thái độ, trách nhiệm của người
cầm bút, các nhà văn phanh phui cái xấu, tố cáo tội ác bọn người có quyền,
có tiền, thông cảm với những nạn nhân xã hội, nêu lên nguyên nhân, đề xuất
cách giải quyết: Đói khổ nghèo nàn lạc hậu, nhưng nguyên nhân chính là do
xã hội, xã hội bần cùng hóa, tha hóa con người. Và các nhà văn đề xuất giải
pháp cải tạo xã hội theo quan điểm của họ lúc đó, mang tính chất cải lương,
chưa có tính chất cách mạng: muốn cải tạo xã hội bằng việc thiện, bằng giấy
bút chứ “không gây ra đấu tranh giai cấp”.
Về mặt nghệ thuật, luận án chú ý đến thủ pháp dựng cảnh, dựng
người, nghệ thuật tổ chức tình huống, dẫn dắt câu chuyện và nghệ thuật sử
dụng ngôn ngữ. Luận án cũng chỉ ra tình trạng đan xen giữa phóng sự và ký

- 179 -
sự, phóng sự và truyện ngắn, phóng sự và tiểu thuyết phóng sự - xu hướng
tiểu thuyết hóa phóng sự (ở các phóng sự dài). Sự dung hợp thể loại nới rộng
đường biên phóng sự và từ đó là một cái nhìn linh hoạt hơn, uyển chuyển
hơn về thuật ngữ phóng sự hiện đang còn nhiều ý kiến phân vân.

- 180 -
PHẦN KẾT LUẬN
1. Tổng kết văn học sử nửa đầu thế kỷ XX, các nhà nghiên cứu đều
nhất trí đánh giá: Đây là giai đoạn phát triển rực rỡ, với nhiều thành tựu trên
tất cả mọi phương diện theo xu hướng hiện đại hóa văn học dân tộc. Một
trong những thành tựu và cũng là đặc điểm nổi bật của giai đoạn văn học này
là sự hình thành, phát triển và hoàn thiện các thể loại văn học mới từ nhu cầu
phát triển nội tại của nền văn học và sự giao lưu, tiếp nhận sâu sắc ảnh
hưởng của văn học nước ngoài, đặc biệt văn học phương Tây. Là một trong
những thể loại mới, đã phát triển đến đỉnh cao ở giai đoạn này, phóng sự
Việt Nam 1930 - 1945 đã khẳng định được ưu thế, sức mạnh, thành tựu và
đóng góp quan trọng của thể loại vào thành tựu chung và quá trình hiện đại
hóa văn học dân tộc trong nửa đầu thế kỷ XX. Mặc dù còn một số hạn chế
khó tránh khỏi, nhưng dường như càng ngày giá trị đặc sắc và sức sống bền
bỉ của phóng sự 1930 - 1945 càng được khẳng định vững vàng hơn. Được
coi là thời kỳ “hoàng kim” của thể phóng sự, cho đến nay nhiều tác phẩm
phóng sự 1930 - 1945 vẫn là những mẫu mực nghệ thuật, cung cấp những
bài học kinh nghiệm thẩm mỹ quý báu cho những cây bút phóng sự hiện đại,
đương đại.

2. Xuất hiện trong một bối cảnh chính trị, văn hóa, xã hội đặc biệt: Khi
những mâu thuẫn trong lòng xã hội phong kiến - thuộc địa Việt Nam đã trở
nên gay gắt; khi làn sóng Âu hóa đã làm đảo điên, tạo nên những vết thương
nhức nhối cả trong đạo đức, luân lý, phong hóa, nếp sống của xã hội và con
người; khi con người ngày càng có ý thức về “cái tôi” cá nhân và thị hiếu
công chúng đã hoàn toàn thay đổi; khi đã hình thành một lớp người cầm bút
mới tâm huyết, bản lĩnh muốn lật tẩy đến cùng “những sự thật ở đời”, đặc biệt
sự phát triển nhanh chóng của báo chí, phóng sự Việt Nam 1930 - 1945 đã

- 181 -
phát huy được ưu thế, sức mạnh riêng của nó: nhanh nhạy, năng động phản
ánh những mảng hiện thực nóng hổi của đời sống, góp phần thiết thực, hiệu
quả chữa chạy những “vết thương”, những “ung nhọt” ghê tởm của xã hội,
theo cách nói của “ông vua phóng sự đất Bắc” Vũ Trọng Phụng.

3. Với đội ngũ sáng tác hùng hậu, tài năng, tâm huyết và có bản lĩnh,
ở cả ba miền Bắc - Trung - Nam, bao gồm cả Tây học và Nho học; với năng
lực sáng tạo dồi dào, đặc biệt độ nhạy cảm trong việc nắm bắt những vấn đề,
những sự kiện thời sự “có tính vấn đề” của hiện thực, các cây bút phóng sự
1930 - 1945 đã tạo được một di sản phóng sự đồ sộ gồm hàng trăm tác
phẩm, trong đó có những tác phẩm sáng giá “đáng khóc, đáng cười”. Được
khơi gạn trực tiếp từ những nguồn chất liệu hiện thực của đời sống, được kết
bện từ lượng thông tin đậm đặc và thấm đẫm chất văn học, phóng sự Việt
Nam 1930 - 1945 đã phản ánh bức tranh muôn mặt của đời sống. Ở đó có
đời sống thành thị “nhếch nhác”, tối tăm, nhốn nháo dưới cái vỏ hào hoa,
tráng lệ; có đời sống thôn quê đói nghèo, khốn đốn, bị bần cùng hóa đến kiệt
quệ; có sự xuống cấp nghiêm trọng cả về phong hóa, đạo đức, lối sống; ở đó
con người đang bị “vật hóa” đến thê thảm và rơi xuống đáy cùng của sự tha
hóa…Mặc dù cũng có những mảng màu sáng với những phóng sự viết về
phong tục đẹp trong đời sống văn hóa, tinh thần của dân tộc, về những danh
lam, thắng cảnh của đất nước, nhưng xám và tối vẫn là gam màu chủ đạo
trong bức tranh hiện thực của phóng sự Việt Nam 1930 - 1945.

4. Một trong những nét đặc sắc và cũng là thành công của phóng sự
giai đoạn này là sự kết tinh của những đỉnh cao, những phong cách lớn trên
nền chung rộng và vững chãi của phóng sự, tiêu biểu là ba cây bút Tam
Lang, Vũ Trọng Phụng và Ngô Tất Tố. Mỗi người một vẻ, cả ba cây bút “tả
chân tuyệt xảo” này đã phát huy tối đa ưu thế của thể phóng sự tập trung

- 182 -
phanh phui đến cùng những “ung nhọt”, những tệ nạn xấu xa, nhơ nhớp mọc
lên như nấm trong lòng xã hội đương thời. Nạn mại dâm, nạn cờ bạc bịp,
nạn nghiện hút, nạn lừa đảo, bịp bợm, nạn tham quan bóc lột, vơ vét thậm tệ.
Từ đó dẫn đến những hệ quả tồi tệ: Sự bần cùng hóa, sự tha hóa thê thảm
của con người và tình trạng đồi bại trầm trọng về phong hóa, luân lý, đạo
đức…Được viết bằng tình cảm chân thành, bằng ý thức công dân đầy trách
nhiệm, bằng quan niệm nghệ thuật chuẩn xác, riết róng, phóng sự của ba cây
bút Tam Lang, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố đã phản ánh kịp thời, sâu sắc
bản chất xã hội đương thời với những vấn đề bức xúc nhất của nó, góp phần
cải tạo xã hội “khốn nạn”, “ối a bông phèng” đó. Sáng tác của các ông do
vậy, thấm đẫm giá trị hiện thực, giá trị nhân văn.

5. Được viết không chỉ bằng “niềm phẫn uất không nguôi” mà còn
bằng nghệ thuật “tuyệt xảo”, già dặn, phóng sự của ba cây bút Tam Lang,
Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố do vậy, không chỉ cung cấp cho người đọc
những thông tin nóng hổi - chân xác, không chỉ có tác dụng “kích thích” tạo
nên “sự nhức nhối của trí tuệ”, không chỉ có tác dụng nhận thức, giáo dục
mà còn tạo được sự hấp dẫn, thỏa mãn nhu cầu thẩm mĩ của công chúng. Có
được điều đó là nhờ ở tài năng, ở bút pháp nghệ thuật độc đáo của chủ thể
sáng tạo: Từ việc phát huy năng lực của “cái tôi” chủ thể, nhập cuộc, dũng
cảm, nỗ lực sáp gần đời sống, khám phá những “vùng hiện thực” điển hình,
đến việc khai thác triệt để, đào sâu đến đáy cùng sự thật; từ nghệ thuật tổ
chức tình huống, dẫn dắt câu chuyện đến nghệ thuật dựng cảnh, dựng người
và sử dụng ngôn ngữ…tận dụng mọi ưu thế của thể loại và của các thể loại
khác nhằm đạt tới hiệu quả nghệ thuật, phản ánh kịp thời, sâu sắc hiện thực
cuộc sống và đậm đà chất văn học. Chính đó là ưu thế và cũng là đóng góp
đặc sắc của phóng sự Tam Lang, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố vào sự phát
triển của phóng sự Việt Nam 1930 - 1945 và rộng hơn vào thành tựu văn học
sử và quá trình hiện đại hóa văn học dân tộc.

- 183 -
THƯ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

A. Tác phẩm khảo sát:


Vũ Trọng Phụng:
1. Cạm bẫy người (phóng sự), đăng trên báo Nhật Tân, năm 1933; Đời nay
xuất bản 1935.
2. Giông tố (tiểu thuyết), Nxb Văn học (tái bản), H. 1996.
3. Kỹ nghệ lấy Tây (phóng sự), đăng trên báo Nhật Tân, năm 1934, Phương
Đông xuất bản, 1936.
4. Kỹ nghệ lấy Tây (phóng sự), Nxb Hà Nội (tái bản), 1989.
5. Dân biểu và dân biểu (phóng sự), đăng báo Công dân, 1935.
6. Cơm thầy, cơm cô (phóng sự) đăng Hà Nội báo, 1936; Minh Phương xuất
bản 1937.
7. Lục xì (phóng sự), đăng báo Tương lai, 1937; Minh Phương xuất bản 1937.
8. Làm đĩ, Nxb Văn học, Hà Nội, (tái bản) 1998.
9. Lục xì (phóng sự), Nxb Văn học, Hà Nội, (tái bản) 1998.
10. Một huyện ăn Tết (phóng sự), đăng trên Tiểu thuyết thứ bảy, 1939.
11. Vũ Trọng Phụng toàn tập, tập 1, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, 2000.
12. Vũ Trọng Phụng toàn tập, tập 2, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, 2000
13. Vũ Trọng Phụng toàn tập, tập 3, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, 2000
14. Vũ Trọng Phụng toàn tập, tập 4, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, 2000
15. Vũ Trọng Phụng toàn tập, tập 5, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, 2000
Tam Lang
16. Tôi kéo xe (phóng sự) - Hà Thành ngọ báo 1932, Trung Bắc Tân văn
xuất bản, Hà Nội, 1935.
17. Đêm sông Hương (phóng sự) - Nam Kỳ xuất bản, Hà Nội, 1938.
18. Lọng cụt cán (phóng sự châm biếm)- Tam Lang xuất bản, Hà Nội, 1939.

185
19. Người…ngợm (phóng sự châm biếm) - Trác Vỹ xuất bản, Hà Nội
1940…
Ngô Tất Tố
20. Dao cầu thuyền tán (phóng sự) - Báo Công dân, 1935.
21. Tập án cái đình (phóng sự) , báo Con ong ,1939.
22. Việc làng (phóng sự), Hà Nội tân văn, 1940; Mai Lĩnh xuất bản 1941.
23. Lều chõng (tiểu thuyết phóng sự), báo Thời vụ, Mai Lĩnh xuất bản,
1941.
24. Ngô Tất Tố tác phẩm, tập 1, Nxb Văn học, Hà Nội, 1972.
25. Ngô Tất Tố tác phẩm, tập 2, Nxb Văn học, Hà Nội, 1972.
Nhiều tác giả
26. Phóng sự Việt Nam 1932 - 1945, tập 1, Nxb Văn học, Hà Nội, 2000.
27. Phóng sự Việt Nam 1932 - 1945, tập 2, Nxb Văn học, Hà Nội, 2000.
28. Phóng sự Việt Nam 1932 - 1945, tập 3, Nxb Văn học, Hà Nội, 2000.
B. Tài liệu tham khảo
29. Hoài Anh (2001): “Ngô Tất Tố”, “Tam Lang”, “Vũ Trọng Phụng”.
Chân dung văn học, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội,
30. Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà
Nội.
31. Lại Nguyên Ân (1990), “Một khía cạnh ở nhà báo Vũ Trọng Phụng người
lược thuật thông tin quốc tế”, Tạp chí Văn học (2), tr. 37- 41, Hà Nội.
32. Lại Nguyên Ân - biên soạn (1992), Vũ Trọng Phụng tài năng và sự thật,
Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
33. Vũ Bằng (1970), “Cái tài, cái tật của Vũ Trọng Phụng”, Tạp chí Văn
học (114), tr.27- 41), Sài Gòn.
34. Vũ Bằng (1973), “Vũ Trọng Phụng, nhà văn dơ dáy hay trong sạch?”,
Giai phẩm văn học, Sài Gòn.
35. Vũ Bằng (1993), Thương nhớ mười hai, Nxb Văn học, Hà Nội (tái bản).

186
36. Vũ Bằng (1994), Miếng ngon Hà Nội, Nxb Văn học, Hà Nội (tái bản).
37. Vũ Bằng (2001), Bốn mươi năm nói láo, Nxb Văn hóa - Thông tin Hà
Nội (tái bản).
38. Trần Hòa Bình (2000), “Nguyễn Văn Vĩnh: Từ “bản năng chữ” đến
ý thức về một công cụ văn hóa”, Báo chí những điểm nhìn từ thực tiễn,
tập I, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, tr. 205-212.
39. Hoàng Cầm (1956), “Nhớ Vũ Trọng Phụng” trong cuốn : Vũ Trọng
Phụng với chúng ta, Nxb Minh Đức, Hà Nội.
40. A. Cácpentiê (1985), “Báo và văn”, Tạp chí Người làm báo (1), Hà Nội
tr. 49-62.
41. Trương Chính (1963), “Lời giới thiệu”, Lỗ Tấn tạp văn, tuyển tập, tập I,
Nxb Văn học, Hà Nội, tr. 5-19.
42. Trương Chính (2001), “Lời giới thiệu”, AQ chính truyện (tái bản), Nxb
Văn học, Hà Nội, tr. 5-13.
43. Nguyễn Đình Chú (1987), Cần nhận thức đúng thể ký văn học, Nxb Văn
học, Hà Nội.
44. Nguyễn Đình Chú (1989), “Cần nhận thức đúng thời kỳ văn học
1930 - 1945, Báo Giáo viên nhân dân (27-28-29-30-31).
45. Nguyễn Mạnh Côn (1966), “Vũ Trọng Phụng, một giàu có, một thiệt hại
của văn chương chúng ta”, Tạp chí Văn học (67), (Sài Gòn).
46. Bùi Ngọc Dung (1965), “Vũ Trọng Phụng, nhà văn hiện thực xã hội”
Tạp chí Văn học (44), (Sài Gòn).
47. Thành Duy (1965), “Mấy suy nghĩ về thể ký”, Tạp chí Văn học (7)
48. Đức Dũng (1996), Các thể ký báo chí, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
49. Đức Dũng (2000), Viết báo như thế nào, Nxb Văn hóa - Thông tin
Hà Nội.
50. Đức Dũng (2002), Sáng tạo tác phẩm báo chí, Nxb Văn hóa - Thông tin
Hà Nội.

187
51. Nguyễn Đức Đàn (1961), “Ngô Tất Tố một cây bút chiến đấu xuất sắc
trong văn học Việt Nam”, Nghiên cứu văn học (3).
52. Nguyễn Đức Đàn, Phan Cự Đệ (1962), Ngô Tất Tố, Nxb Văn hóa
Hà Nội.
53. Nguyễn Đức Đàn (1968), Đặc điểm văn học hiện thực phê phán
Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
54. Nguyễn Đức Đàn (1972), “Bàn về trường hợp Vũ Trọng Phụng” Tạp chí
Văn học (1), tr. 86-97, Hà Nội.
55. Trần Thanh Đạm - Hoàng Như Mai, Huỳnh Lý (1970), Vấn đề giảng dạy
tác phẩm văn học theo loại thể, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
56. Phùng Tất Đắc (1989), Kỹ nghệ lấy Tây, Cơm thầy cơm cô (Lời tựa)
Nxb Hà Nội.
57. Phan Cự Đệ (1961), “Vấn đề Vũ Trọng Phụng”, Văn học Việt Nam
1930 – 1945, 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
58. Phan Cự Đệ - sưu tầm và giới thiệu (1975), Ngô Tất Tố tác phẩm, tập 1,
Nxb Văn học, Hà Nội.
59. Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức (1979), Nhà văn Việt Nam, tập 1
Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
60. Phan Cự Đệ, Trần Đình Hượu, Nguyễn Trác, Lê Chí Dũng,
Hà Văn Đức, Nguyễn Hoành Khung (2003), Văn học Việt Nam (1930 -
1945) Nxb Giáo dục, Hà Nội.
61. Phan Cự Đệ - chủ biên, Cao Đắc Điểm, Vũ Duy Thông, Nguyễn Gia Quí
(2005), Di sản báo chí Ngô Tất Tố, ý nghĩa lý luận và thực tiễn, Nxb
Văn học, Hà Nội.
62. Phan Cự Đệ - chủ biên, Nguyễn Hoành Khung, Trần Hữu Tá – sưu tầm
biên soạn (1988), Tổng tập văn học Việt Nam, T 29A, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.

188
63. Nôen Duytơre (1988), “Bàn về văn học phóng sự”, Báo Văn nghệ (19)
Hà Nội.
64. Hà Minh Đức, Lê Bá Hán (1985): Cơ sở lý luận văn học, T2,
NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội
65. Hà Minh Đức (1962), Những nguyên lý về lý luận văn học, T3 - Thể loại
văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
66. Hà Minh Đức(1980), Ký viết về chiến tranh cách mạng và xây dựng
chủ nghĩa xã hội, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
67. Hà Minh Đức (1993), “Các thể ký văn học”, Lý luận văn học, Nxb Giáo
dục, Hà Nội, tr. 184-208.
68. Hà Minh Đức - chủ biên (1996), Báo chí, những vấn đề lý luận và
thực tiễn, tập 1 và 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
69. Hà Minh Đức (1997), Khảo luận văn chương (thể loại, tác giả), Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
70. Hà Minh Đức (1998), “Tiểu phẩm văn học và báo chí của Ngô Tất Tố”,
Tạp chí Văn học (11).
71. Hà Minh Đức (2000), “Phóng sự của Vũ Trọng Phụng”, Tạp chí Văn học
(1)
72. Hà Minh Đức (2000), Cơ sở lý luận báo chí - Đặc tính chung và
phong cách, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
73. Philippe Gaillard (2003), Nghề làm báo, Nxb Thông tấn, Hà Nội.
74. Ivan Ganép (1987), “Phóng sự viết tại chỗ”, Người làm báo, (2).
75. Granbennhicốp (2003), Báo chí trong kinh tế thị trường, Nxb Thông tấn,
Hà Nội.
76. N.A. Gulaiep (1982), Lý luận văn học, Nxb Đại học và trung học chuyên
nghiệp, Hà Nội.
77 . V.H. (1985), “Về những đặc trưng của các thể loại báo chí cơ bản”,
Người làm báo, (1).

189
78. Đỗ Xuân Hà (1987), Báo chí với thông tin quốc tế, Nxb Đại học Quốc
gia, Hà Nội.
79. Dương Quảng Hàm (1941), Việt Nam văn học sử yếu, Hà Nội
80. Dương Quảng Hàm (1993), Việt Nam văn học sử yếu, Nxb Đồng Tháp
(tái bản).
81. Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi - chủ biên (1992), Từ
điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
82. Lê Thị Đức Hạnh (1998), “Thể phóng sự và văn châm biếm của Tam
Lang”, Tạp chí Văn học (8), Hà Nội.
83. Loic Hervouet (1999), Viết cho độc giả, Hội Nhà báo Việt Nam, Hà Nội.
84. Hoàng Ngọc Hiến (1992), Năm bài giảng về thể loại, Nxb Hội Nhà văn,
Hà Nội.
85. Hoàng Ngọc Hiến (2002), “Dị ứng với cái Rởm - Một phương diện của
trào phúng Vũ Trọng Phụng”, Báo Văn nghệ (44).
86. Đỗ Đức Hiểu (1993), Đổi mới phê bình văn học, Nxb Khoa học xã hội -
Nhà xuất bản Mũi Cà Mau.
87. Phạm Văn Hoành (2004), “Đặc điểm của phóng sự báo chí hiện đại”,
Tạp chí Người làm báo (3).
88. Arnold Hoffmann (1987), Cách viết một bài báo, Thông tấn xã Việt
Nam, Hà Nội.
89. John Hohenberg (1974), Ký giả chuyên nghiệp, Hiện đại thư xã, Sài
Gòn.
90. Phạm Đình Hổ (1989), Vũ Trung tùy bút (tái bản), Nxb Trẻ và
Hội nghiên cứu giảng dạy văn học TP. Hồ Chí Minh.
91. Hội Nhà báo Việt Nam (1960), Bài giảng về tạp văn (Tài liệu nghiên cứu
nghiệp vụ báo chí), Hà Nội.
92. Hội Nhà báo Việt Nam (1992), Nghề nghiệp và công việc của nhà báo.
93. Đinh Hùng (1965), “Nhớ Vũ Trọng Phụng”, Tạp chí Văn học, Sài Gòn, (44).

190
94. Phạm Thành Hưng (2007), Thuật ngữ báo chí truyền thông, Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội.
95. Đỗ Quang Hưng - chủ biên (2000), Lịch sử báo chí Việt Nam 1865 -
1945, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
96. Mai Hương biên soạn (1993), Ngô Tất Tố với chúng ta, Nxb
Hội Nhà văn, Hà Nội.
97. Mai Hương biên soạn (2000), Vũ Trọng Phụng - một tài năng độc đáo,
Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
98. Mai Hương - Tôn Phương Lan biên soạn (2000), Ngô Tất Tố về tác gia
và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
99. Trần Đình Hượu - Lê Chí Dũng (1988), Văn học Việt Nam giai đoạn giao
thời 1900 - 1930, Nxb Đại học và giáo dục chuyên nghiệp, Hà Nội.
100. M.G.Khrapchencô (1978), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát
triển của văn học, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.
101. Nguyễn Hoành Khung (1989), Văn xuôi lãng mạn Việt Nam, I
(Lời giới thiệu), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
102. Nguyễn Hoành Khung (1984), “Nhìn lại và suy ngẫm xung quanh một
“vụ án” văn học”, Vũ Trọng Phụng con người và tác phẩm, Nxb Hội
Nhà văn, Hà Nội.
103. Nguyễn Hoành Khung (1988), “Vũ Trọng Phụng”, Lịch sử văn học
Việt Nam 1930 - 1945, 1, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp,
Hà Nội.
104. Nguyễn Hoành Khung (1989), “Vấn đề Vũ Trọng Phụng qua những
bước thăng trầm”, Báo Giáo viên nhân dân (27,28,29,30, 31).
105. Nguyễn Hoành Khung - Lại Nguyên Ân (biên soạn) (1994),
Vũ Trọng Phụng con người và tác phẩm, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
106. Lê Tràng Kiều (1969), “Viết về Vũ Trọng Phụng”, Tạp chí Văn học
(94), Sài Gòn.

191
107. Lê Đình Kỵ - Phương Lựu (1983), Cơ sở lý luận văn học, tập II, Nxb
Đại học và trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
108. Lê Đình Kỵ (1992), “Vấn đề đánh giá văn học Việt Nam 1932 -1945 và
đánh giá Vũ Trọng Phụng”, Tạp chí Văn học (6), Hà Nội.
109. Jean - Luc Martin - Lagardette (2003), Hướng dẫn cách viết báo, Nxb
Thông tấn, Hà Nội.
110. Tam Lang (1973), “Cảm nghĩ về Vũ Trọng Phụng”, Giai phẩm văn học
(70), Sài Gòn.
111. Tam Lang (1971) “Cuộc đời viết văn làm báo của Tam Lang”, Nghiên
cứu văn học (1932) - Sài Gòn.
112. Thanh Lãng (1972), Phê bình văn học thế hệ 32, I, Phong trào văn hóa
xuất bản, Sài Gòn.
113. Thanh Lãng (1972), Phê bình văn học thế hệ 32, II, Phong trào văn hóa
xuất bản, Sài Gòn.
114. Thanh Lãng (1995), 13 năm tranh luận văn học, I và II, Nxb Văn học –
Hội NCVGDVH, TP. Hồ Chí Minh.
115. Nguyễn Đình Lạp (1995), Tác phẩm chọn lọc, Nxb Hội Nhà văn, Hà
Nội.
116. Mã Giang Lân (2005), Những cuộc tranh luận văn học nửa đầu thế kỷ
XX, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
117. Nguyễn Hiến Lê (1938), Nghề viết văn, Tao đàn xuất bản.
118. Phong Lê (1999), Vẫn chuyện văn và người, Nxb Văn hóa Thông tin,
Hà Nội.
119. Phong Lê (2001), Văn học Việt Nam hiện đại (Những chân dung tiêu
biểu), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
120. Bạch Liên - sưu tầm, tập hợp (2003), Nguyễn Đình Lạp tác phẩm, Nxb
Văn hóa Thông tin, Hà Nội.Việt Nam 1900 - 1945, Nxb Văn hóa -
Thông tin, Hà Nội.

192
121. Nguyễn Triệu Luật (1965), “Vũ Trọng Phụng, hiện diện cần thiết cho
xã hội ngày nay, Tạp chí Văn học (44), Sài Gòn.
122. Lưu Trọng Lư (1989), “Nhớ Vũ Trọng Phụng”, Kiến thức ngày nay (21).
123. Hoàng Như Mai (1970), Vấn đề giảng dạy tác phẩm văn học theo thể
loại, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
124. Claudia Mast (2003), “Phóng sự về những cuộc hành trình”, trong cuốn
Truyền thông đại chúng - Công tác biên tập, Nxb Thông tấn, Hà Nội.
125. Nguyễn Đăng Mạnh (1979), Nhà văn, tư tưởng và phong cách,
Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.
126. Nguyễn Đăng Mạnh (1987), Tuyển tập Vũ Trọng Phụng (lời giới thiệu),
1, Nxb Văn học, Hà Nội.
127. Nguyễn Đăng Mạnh, Trần Hữu Tá (1987), Tuyển tập Vũ Trọng Phụng
(Lời giới thiệu), tập 2, Nxb Văn học, Hà Nội.
128. Nguyễn Đăng Mạnh (1989), Vũ Trọng Phụng “Ông vua phóng sự”,
Kỹ nghệ lấy Tây - Cơm thầy cơm cô, Nxb Văn học, Hà Nội.
129. Nguyễn Đăng Mạnh (1994), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của
nhà văn, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
130. Nguyễn Đăng Mạnh (chủ biên) (1986), Các nhà văn nói về văn, tập 2,
Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.
131. Vũ Thị Thanh Minh (2007), Thể loại phóng sự trong văn học Việt Nam
giai đoạn 1932-1945, Luận án TS.
132. Vương Trí Nhàn (1993), “Phóng sự không chết”, Báo Thể thao văn hóa
(28), Hà Nội.
133. Vương Trí Nhàn (1994), Phóng sự chọn lọc, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
134. Vương Trí Nhàn (1995), “Nơi gặp gỡ của báo chí và văn học”, Tạp chí
Văn học (1), Hà Nội, tr. 1-8.
135. Nhiều tác giả (1957), Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam; tập III, Nxb
Xây dựng, Hà Nội.

193
136. Nhiều tác giả (2005), Thể loại báo chí, Nxb Đại học Quốc gia TP. Hồ
Chí Minh.
137. Nhiều tác giả (1997), Giáo trình nghiệp vụ báo chí (Tập 2), Trường
Tuyên huấn Trung ương, Hà Nội.
138. Vũ Ngọc Phan (1989), Nhà văn hiện đại tập I, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội (tái bản).
139. Vũ Ngọc Phan (1989), Nhà văn hiện đại tập II, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội (tái bản).
140. Thái Phỉ (2000), “Văn chương dâm uế”, Vũ Trọng Phụng về tác giả và
tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
141. Thế Phong (1974), Lược sử văn nghệ Việt Nam, nhà văn tiền chiến
1930-1945, Vàng son xuất bản.
142. Thế Phong (1996), Cuộc đời viết văn làm báo Tam Lang - Tôi kéo xe,
Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
143. Bùi Huy Phồn (1951), Viết phóng sự, Hưng văn xuất bản.
144. Bùi Huy Phồn (1962), “Phóng sự - một thể văn xung kích”,
Báo Văn nghệ (63), Hà Nội.
145. G. Phu xích (1972), Viết dưới giá treo cổ, Nxb Văn học, Hà Nội.
146. Vũ Đức Phúc (1966), “Bàn về các thể ký trong văn học từ Cách mạng
tháng Tám đến nay”, Tạp chí Văn học (8), Hà Nội.
147. Vũ Đức Phúc (1976), “Trào lưu hiện thực chủ nghĩa trong văn học
Việt Nam từ 1930 - 1945”, Tạp chí Văn học (1), Hà Nội.
148. Hoàng Minh Phương (2000), Phương pháp hiện thực phóng sự báo chí,
Nxb TP. Hồ Chí Minh.
149. B. Pôlêvôi (1961), Viết ký sự, Nxb Văn học, Hà Nội.
150. G.N. Pôxpêlôp - chủ biên (1998), Dẫn luận nghiên cứu văn học, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.

194
151. E.I Pơrônin (1981), “Các thể loại thông tin, nghị luận, văn nghệ trên
báo chí Liên Xô”, Công tác báo chí (II).
152. Đỗ Quảng (1993), 30 năm phóng sự, Nxb Lao động, Hà Nội.
153. Leonard Raytêl - Ron Taylor (1993), Bước vào nghề báo, Nxb TP. Hồ
Chí Minh.
154. Giôn Rít (1997), Mười ngày rung chuyển thế giới, Nxb Văn học, Hà Nội.
155. M.I.Sostak (2003), Phóng sự : Tính chuyên nghiệp và đạo đức, Nxb
Thông tấn, Hà Nội.
156. Hoàng Thiếu Sơn - Lời giới thiệu (1993), Cạm bẫy người, Nxb Văn học
Hà Nội (tái bản).
157. Dương Xuân Sơn (2005), “Phóng sự”, trong cuốn Thể loại báo chí, Nxb
Đại học Quốc gia, TP. Hồ Chí Minh.
158. Karel Storkal (1992), “Phóng sự”, trong cuốn Nghề nghiệp và công việc
của nhà báo, Hội Nhà báo Việt Nam, Hà Nội.
159. T.J.S.Gióoc B.Sumanta (1987), Cách viết tin - Tài liệu tham khảo
nghiệp vụ Thông tấn xã Việt Nam, Hà Nội.
160. Trần Hữu Tá - biên soạn (1992), Vũ Trọng Phụng - hôm qua và hôm
nay, Nxb TP.Hồ Chí Minh.
161. Văn Tâm (1956), “Vũ Trọng Phụng, “Người thư ký của thời đại”, trong
cuốn Vũ Trọng Phụng với chúng ta, Nxb Minh Đức.
162. Văn Tâm (1957), Vũ Trọng Phụng, nhà văn hiện thực, Nxb Minh Đức.
163. Lỗ Tấn ( 1963), Tạp văn tuyển tập I, Nxb Văn học, Hà Nội.
164. Tạ Ngọc Tấn (1995), Tác phẩm báo chí, 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
165. Tạ Ngọc Tấn (1999), Từ lý luận đến thực tiễn báo chí,
Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
166. Hoài Thanh (1998, Bình luận văn chương, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
167. Lê Thanh (1936), “Báo tin văn, với sách Kỹ nghệ lấy Tây”, Hà Nội báo 18).

195
168. Nguyễn Hoài Thanh (1996), “Nghệ thuật tiếp cận hiện thực trong
phóng sự của Vũ Trọng Phụng”, Tạp chí Văn học (2), Hà Nội.
169. Nguyễn Hoài Thanh (1998), “Tìm hiểu thế giới nhân vật trong phóng
sự của Vũ Trọng Phụng”, Tạp chí Văn học (8), Hà Nội.
170. Nhữ Thành (1988), “Lời giới thiệu”, Sử ký Tư Mã Thiên, Nxb Văn học,
Hà Nội.
171. Nguyễn Ngọc Thiện biên soạn (2000), Vũ Trọng Phụng về tác gia và
tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
172. Nguyễn Ngọc Thiện (2002), “Vũ Trọng Phụng bàn về phóng sự và
tiểu thuyết tả chân”, Tạp chí Văn học (11), Hà Nội.
173. Phan Trọng Thưởng (2000), “Phóng sự Việt Nam (1932-1945) – Một
thành tựu đặc biệt của tiến trình văn học Việt Nam”, Tạp chí Văn học
(5) , Hà Nội.
174. Lê Ngọc Trà (1990), Lý luận và văn học, Nxb Trẻ, TP. Hồ Chí Minh.
175. Trần Thị Trâm (1994), “Vai trò của báo chí trong sự phát triển văn học
đầu thế kỷ XX”, Tạp chí Văn học (6), Hà Nội.
176. Trần Thị Trâm (2002), “Trọng Lang - cây bút phóng sự tiên phong”,
Tạp chí Báo chí và Tuyên truyền (2), Hà Nội.
177. Trần Thị Trâm (2002), “Mối giao lưu kỳ thú giữa văn học và báo chí
Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám 1945”, Tạp chí Báo chí và
Tuyên truyền (6), Hà Nội.
178. Nguyễn Quang Trung (1997), “Vũ Trọng Phụng và nhỡn quan
“vô nghĩa lý””, Tạp chí Văn học (4), Hà Nội.
179. Việt Trung (1960), “Vấn đề Vũ Trọng Phụng”, Tạp chí nghiên cứu Văn
học (5), Hà Nội.
180. Nguyễn Tuân (1939), “Một đêm họp đưa ma Phụng”, Tao đàn số đặc
biệt (12).

196
181. Lê Dục Tú (2003), “Phóng sự Việt Nam (1932 - 1945) - Những đóng
góp đặc sắc về mặt nghệ thuật, Tạp chí Văn học (2).
182. Nguyễn Huy Tưởng (1963), Tuyển tập ký sự, Nxb Văn học, Hà Nội.
183. Từ điển bách khoa Macquarie (1990), Đại học Macquarie, Sydney,
Australia (The Macquarie Encyclopedic Dictionary. (1990). Sydney:
Macquarie University).
184. Từ điển khoa học văn học (Wörterbuch der Literaturwissenschaft;
hrsg.von Claus Träger, 2.Aufl.), VEB Bibliographisches Institut
Leipzig, xuất bản lần 2, 1989.
185. Từ điển Killy (The Killy Dictionary).
186. Từ điển: Một cái nhìn (One Look dictionary of Wikipedia, the free
encyclopedia) (2009).
187. Từ điển Oxford số 2 (1989), Anh (The Oxford English Dictionary,
2nded. (1989). Oxford: OUP).
188. Từ điển Văn học (bộ mới), (2004), Nxb Thế giới, Hà Nội.
189. Từ điển tác phẩm văn xuôi Việt Nam (2001), Nxb Văn học, Hà Nội.
190. Từ điển thuật ngữ văn học (1992), Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
191. Từ điển Văn học (1984), T2, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
192. Văn (tạp chí), số đặc biệt tưởng niệm Vũ Trọng Phụng, Sài Gòn, 1967.
193. Viện Văn học (2003), Bản sắc hiện đại trong các tác phẩm
Vũ Trọng Phụng (Kỷ niệm 90 năm ngày sinh (1912 - 2002) của nhà
văn Vũ Trọng Phụng), Nxb Văn học.

197

You might also like