Người Nhật đã học được gì từ phương Tây-3-2024

You might also like

Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 6

NGƯỜI NHẬT ĐÃ HỌC ĐƯỢC GÌ TỪ

NHỮNG NGƯỜI PHƯƠNG TÂY ĐẦU TIÊN


ĐẾN NHẬT ? (Tiếp theo kỳ trước)

TRẦN THANH ÁI Vì nhận thấy người Nhật có tinh thần ham hiểu biết
và thiên hướng về suy lý, Francisco Xavier (1506-1652) và
2.3. Về địa lý hàng hải và thiên văn học Alessandro Valignano (1538-1606) đã quyết định trước tiên
Ngay từ năm 1525, người Nhật cũng đã có trong tay là dạy cho họ trật tự và vẻ đẹp của thế giới tự nhiên, nhằm
bản sao một bản đồ thế giới do người châu Âu vẽ, nghĩa mục đích hướng họ nhìn nhận sự hiện diện của Chúa Trời
là trước khi người Bồ Đào Nha đến Nhật. H. Nakamura đằng sau thế giới đó. Valignano cũng thấy cần thiết phải
cho biết là khi đến Hàn Châu (Trung Hoa), một tu sĩ Phật dạy cho giáo dân người Nhật các môn học nhân văn, và thế
giáo tên là Sosetsu đã sao chép một bản đồ thế giới có lẽ là ông có ý định thành lập trường Sao Paulo ở Funai năm
do người Bồ Đào Nha vẽ, và đã gửi về cho lãnh chúa Outi 1580. Ban đầu trường chỉ có một nhóm bảy hay tám học
Yosioki của vùng Yamaguti ở Nhật (Nakamura H. 1939, tr. viên trẻ người nước ngoài, họ được dạy ngữ pháp tiếng
119). Tuy nhiên, thông tin ít ỏi ấy chưa giúp người Nhật La-tinh và tiếng Nhật cơ bản cùng với các môn học về nhân
nhận ra những điều kỳ diệu mà phương Tây đã làm được văn (Yoshida T. 2004, tr. 153).
vào thời bấy giờ trong lĩnh vực phát kiến địa lý phục vụ Khi nhà truyền giáo Pedro Gomez (1533-1600) vừa mới
cho hàng hải. Do đó không cần phải nói người Nhật đã đến Nhật năm 1583 thì trường cũng bắt đầu dạy môn triết
kinh ngạc đến mức nào khi biết được là người Bồ Đào Nha học. Ông được giao nhiệm vụ biên soạn một tài liệu giáo
đã có thể vượt biển trong nhiều tháng trời để đến được khoa cho môn học này, có lẽ vì ông đã có kinh nghiệm dạy
vùng Viễn Đông, mang theo nhiều vật dụng mới lạ. Đó là tại trường dòng Tên ở Coimbra (Hiraoka K. 2008, tr. 82).
kết quả của hàng loạt tiến bộ về khoa học và kỹ thuật, đặc Năm 1593, quyển sách đầu tiên về thiên văn bằng tiếng La-
biệt là thiên văn học mà nhiều nước châu Âu nói chung, và tinh, được Pedro Gomez biên soạn để làm giáo trình trong
Bồ Đào Nha nói riêng đã dành nhiều thời gian nghiên cứu các chủng viện dòng Tên ở Nhật, mà người ta thường gọi
từ thế kỷ trước đó. Vì thế, khi truyền đạt cho người Nhật là Compendia (Những bài tóm tắt), trong đó phần đầu
những kiến thức mới mẻ ấy, các nhà truyền giáo đã chinh được đặt tên là De Sphaera (Về vũ trụ), được biết đến như
phục được họ ngay từ những năm đầu đặt chân lên xứ Mặt là tài liệu đầu tiên ở Nhật về thiên văn học phương Tây
Trời mọc (Boxer C. R. 1979, tr. 132) chẳng hạn như trái đất thời bấy giờ.
hình cầu chớ không phải là một mặt phẳng, vũ trụ mênh Vì vào nửa sau thế kỷ XVI ở châu Âu xảy ra nhiều cuộc
mông chớ không phải hình mái vòm như cái chén úp. tranh luận căng thẳng về thiên văn học sau khi Copernic
Tuy nhiên, các kiến thức ấy vẫn nằm trong thuyết địa tâm công bố quyển De revolutionibus orbium coelestium (Về
của Ptolemy, còn sự chuyển động
thuyết nhật tâm xoay vòng của các
của Copernic thì thiên thể), nên các
đang bị phê phán nhà truyền giáo
kịch liệt ở châu phải biên soạn cẩn
Âu, và bị cấm vào thận, để nội dung
năm 1613. truyền đạt được

Đồng hồ do Phó
vương Mexico tặng Đồng hồ do Nhật chế
Ieyasu năm 1611, tạo vào thế kỷ XVIII,
hiện được trưng bày hiện được trưng bày ở
tại Bảo tàng Kunozan Bảo tàng Paul Dupuy
Toshogu Museum. (Toulouse, Pháp)

50 SỐ 561 THÁNG 3 NĂM 2024


Tuyển tập châm ngôn Qincvxv
(Kinkūshū 金句集), 1592-1593.

Trang bìa sách Esopo no


fabulas (Ngụ ngôn Aesop)
Trang bìa sách Heike monogatari viết bằng chữ bằng chữ romaji, 1593.
romaji, 1592.

mạch lạc và phù hợp với Kinh Thánh (Loureiro L. M. 2004, Năm 1635, Hayashi Kichizaemon, người bị kết tội tử
tr. 57). Hai năm sau đó tài liệu này được dịch sang tiếng hình năm 1646 vì đã truyền bá đạo Thiên Chúa, đã dịch
Nhật để những người không biết tiếng La-tinh có thể đọc và phát hành một công trình về thiên văn; đây là tài liệu
được; bản thảo tiếng Nhật của quyển sách này mới được dịch ra tiếng Nhật thứ hai từ sách phương Tây, trong
tìm thấy năm 1995 ở trường Magdalen College, Oxford đó ông tập hợp những gì đã học được từ người Bồ Đào
(Hiraoka R. 2008, tr. 83). Cũng theo tác giả này, từ tài liệu Nha, và đã truyền lại cho học trò của mình là Kobayashi
của Pedro Gomez mà vào những thập niên sau đó người (Kikuchi D. 1915, tr. 58). Nhiều tác giả cho rằng có lẽ đó là
ta đã biên soạn thành nhiều quyển tuy có tên khác, nhưng quyển Kenkon bensetsu, trong đó trình bày sự tương ứng
nội dung thì gần như giống nhau, đó là: Nigi ryakusetsu giữa thế giới vĩ mô và vi mô (Cook H. 2007, tr. 344). Một tác
二儀略説 Nhị nghi lược thuyết (Sơ lược về hai thế giới, giả khác cho biết có lẽ Hayashi đã tiếp nhận kiến thức về
Trời và Đất), Tenmon biyou 天文備要 Thiên văn bị yếu thiên văn từ Sawano Chūan, tên mới của nhà truyền giáo
(Tóm lược về thiên văn), Kenkon bensetsu 乾坤弁説 Càn bỏ đạo Christovão Ferreira, và cũng là người dịch sách của
khôn biện thuyết (Bàn về Càn Khôn), Nanban unkiron Pedro Gomez nói trên ra tiếng Nhật theo mẫu tự La-tinh
南蛮運気論 Nam man vận khí luận (Người Nam man bàn (romaji), rồi sau đó một thông ngôn ở Nagasaki tên là Nishi
về thuyết Vận khí). Những bản chép tay này là những tài Kichibei chuyển sang tiếng Nhật truyền thống (Yajima S.
liệu đầu tiên bằng tiếng Nhật giới thiệu đầy đủ về thiên văn 1964, tr. 342). Mặc dù các hoạt động của các nhà truyền giáo
học phương Tây, và được lưu hành trong giới học thuật dòng Tên kết thúc vào năm 1614 khi Mạc phủ Tokugawa ra
Nhật Bản trong suốt thời Edo (1603-1867) ngay cả trong lệnh cấm đạo Thiên Chúa, nhưng những tài liệu được biên
những cuộc đàn áp đạo Thiên Chúa (Hiraoka R. 2005, tr. soạn trong thời kỳ này vẫn tồn tại bất chấp các lệnh cấm,
100). và được lan truyền rộng rãi dưới hình thức chép tay suốt
Năm 1602, linh mục Charles Spinola quan sát được hiện các thế kỷ tiếp theo (Hiraoka R. 2022, tr. 98). Trong khi học
tượng nguyệt thực tại Nagasaki và đưa ra các tính toán về tập lý thuyết về thiên văn, người Nhật cũng đã tiếp cận với
đường kinh tuyến, tạo cơ sở ban đầu cho ngành khoa học những công cụ của người châu Âu, chẳng hạn như kính
bản đồ ở Nhật Bản. Có lẽ dưới sự tác động của Spinola mà viễn vọng: theo nhà nghiên cứu lịch sử khoa học Nhật Bản
tháng 5 năm 1605, người ta lợi dụng cơ hội các quý tộc có Yoshio Mikami thì kính viễn vọng đầu tiên được các nhà
mặt đông đủ ở kinh đô để dự lễ tấn phong của Tokugawa truyền giáo dòng Tên đem vào nước Nhật năm 1613, nghĩa
Hidetada nối ngôi cha là Tokugawa Ieyasu 徳川家康 (1543– là hai năm sau khi nó được biết đến ở Bồ Đào Nha (Leitão
1616), “các nhà truyền giáo thành lập một ‘Viện Hàn lâm’ ở F. 2001, tr. 904).
kinh đô và bắt đầu dạy về địa lý, hàng hải, lý thuyết về các Trong lĩnh vực hàng hải, trước khi người Bồ đến
hành tinh và triết học tự nhiên về sấm chớp, tuyết phủ…” Tanegashima năm 1543, người Nhật ra nước ngoài bằng
(Bernard H. 1937, tr. 192). thuyền mành của người Trung Hoa, vì họ chưa có kỹ thuật

SỐ 561 THÁNG 3 NĂM 2024 51


đóng thuyền đi biển xa (Yoshihiro Y. 2016, tr. 2). Nhưng sau thuận lợi trong việc truyền giáo. Francis Xavier là người
đó thì có sự tiến bộ rõ rệt: nhà nghiên cứu người Anh C. đầu tiên đã tặng đồng hồ châu Âu cho một lãnh chúa Nhật:
R. Boxer cho biết rằng ngành hàng hải có một số dấu ấn rõ tháng 4 năm 1551, khi diện kiến Ōuchi Yoshitaka 大内義隆
ràng của người Bồ Đào Nha. Các ngự châu ấn thuyền 御朱 (1507-1551) lãnh chúa vùng Suō (nay là Yamaguchi), ông đã
印船 thời kỳ đầu của Mạc phủ Tokugawa được trang bị một tặng nhiều quà phương xa, trong đó có một chiếc đồng hồ
phần theo thiết kế châu Âu, và vào thời Ieyasu, mọi thuyền cơ khí. Sự kiện này cũng đã được ghi trong quyển Ōuchi
buôn đi nước ngoài đều buộc phải có hoa tiêu người Bồ Yoshitaka ki 大内義隆記 (Tiểu sử Ōuchi Yoshitaka), xuất
Đào Nha (Boxer C. R. 1931, tr. 72). Tài liệu của người Hà Lan bản vào những năm 1779-1819 như sau: “Trong số nhiều
còn ghi lại là từ tháng 11 năm 1609 đến tháng 4 năm 1610, quà tặng các loại của khách đến từ Ấn Độ có một dụng cụ
Admiral Fransz Wittert chỉ huy hạm đội 4 chiếc thuyền chỉ độ dài không đổi của ngày và đêm khi gõ tích tắc suốt
chiến đã bắt được nhiều thuyền mành Nhật đi buôn ở Ma- 12 giờ, gõ vào một cái chuông theo các giai điệu 5 và 12 âm
nila, trên đó đều có người Bồ Đào Nha được sử dụng làm giai mà không cần phải gảy vào 13 dây đàn koto” (Hiraoka R.
hoa tiêu “theo lệnh của Tướng quân”, vì người Nhật không 2020, tr. 206). Tiếp đến, các lãnh chúa Oda Nobunaga (năm
tin vào năng lực hải hành của họ (Boxer C. R. 1929, tr. 57). 1569), Toyotomi Hideyoshi (năm 1591) và Tokugawa Ieyasu
Sau thời gian hợp tác với người Bồ Đào Nha, người (năm 1606) cũng được các sứ giả tặng đồng hồ. Chiếc đồng
Nhật cũng đã có ít nhiều kinh nghiệm về kỹ năng hàng hồ xưa nhất còn được lưu giữ đến ngày nay là chiếc chạy
hải, và những hiểu biết ấy đã được đúc kết lại trong quyển bằng dây cót mà phó vương Mexico là Luis de Velasco⁽¹)
Genna kōkaisho 元和航海書 [Nguyên Hòa hàng hải thư], tặng cho Tướng quân Ieyasu vào năm 1611, để cảm tạ về
còn được gọi là Genna kōkaiki 元和航海記 [Nguyên Hòa việc người Nhật đã cứu sống hơn 300 thủy thủ trên chiếc
hàng hải ký]. Đó là một tập hợp các kiến thức mà Ikeda thuyền San Francisco bị đắm ngoài khơi bờ biển Iwawada
Kōun 池田好運 đã học được từ viên thuyền trưởng Bồ (Chiba) năm 1609. Trên chiếc đồng hồ này có ghi tên người
Đào Nha Manoel Goncalvez trong cuộc hành trình đến chế tác là Hans de Evalo⁽²) (người Hà Lan) làm tại Madrid
Manila từ năm 1616, như ông đã viết trong chương dẫn năm 1581.
nhập (Shapinsky P. D. 2006, tr. 18). Tài liệu này gồm các Khoảng đầu thế kỷ XVII, việc sản xuất đồng hồ cơ khí ở
nội dung như sau: lịch mặt trời (almanac), bảng tính kinh Nhật Bản bắt đầu manh nha trong các trường học thuộc
độ và vĩ độ, các phương pháp xác định vĩ độ theo độ cao chủng viện dòng Tên ở quận Kyushu. Theo báo cáo thường
của mặt trời, các kỹ thuật đọc la bàn và 32 hướng, đo bằng niên năm 1601-1602, ban đầu một nhà truyền giáo dòng Tên
thước góc tư, thước trắc tinh (astrolabe), bản đồ hàng hải người Ý tên là Giovanni Nicolao (hoặc Cola, 1560-1626),
tuyến Nagasaki và Macao, Xiêm và Nhật, cách đo độ sâu chịu trách nhiệm hướng dẫn cho học viên, và lúc ấy các
đáy biển bằng dây dọi, những kiến thức cần thiết cho các thợ học việc Nagasaki cũng đã có thể kiếm thu nhập bằng
nhà hải hành và hoa tiêu, v.v. (Arima S. 1964, tr. 352-353). Tài cách tự tay mình chế tạo đồng hồ (Hiraoka R. 2020, tr. 212).
liệu này cho thấy sự pha trộn liên văn hóa trong nền mậu Chiếc đồng hồ mà Fr. Xavier mang vào nước Nhật vào
dịch châu ấn thuyền đã cho ra đời kỹ thuật hàng hải mới, năm 1551 là một đồng hồ cơ khí, vận hành bằng trọng
kết hợp giữa Á và Âu, và nhờ đó mà kinh nghiệm hàng hải lượng của quả cân; sau đó các thợ thủ công bản xứ dựa vào
được mở rộng hơn, như hải đồ Hayashibara và các hải đồ đó mà chế tác lại rất tinh xảo (Nakayama S. 1969, tr. 123).
khác (Shapinsky P. D. 2006, tr. 17). Bản chép tay năm 1618 Sách Owari-shi 尾張誌 (Vĩ Trương chí) của
của tài liệu này hiện được lưu giữ ở Đại học Kyoto (Yoshi- Masatsugu Fukada 深田正韶 (1773–1850) xuất bản năm
hiro Y. 2016, tr. 2). 1844 kể lại rằng khi đồng hồ của sứ thần Triều Tiên tặng
Ngoài ra cũng phải kể đến đóng góp của W. Adams, viên Ieyasu bị hỏng hóc, người thợ Sukezaemon Tsuda ở Kyo-
hoa tiêu trưởng người Anh của thuyền De Liefde cập vào to chẳng những đã sửa được mà còn chế tạo ra một chiếc
đảo Kyushu của Nhật năm 1600. Ngoài việc dạy cho người khác giống như vậy để dâng cho Ieyasu. Thành tích này
Nhật kỹ thuật đóng thuyền châu Âu, ông còn cho biết là đã giúp cho ông được tuyển dụng làm thợ chế tạo đồng
đã phổ biến kiến thức về hình học và toán học dùng trong hồ cho dòng họ Tokugawa ở Owari vào năm 1598. Vì thế
hàng hải cho Iyeasu, vì mặc dù dân Nhật là những người đi Owari-shi tôn vinh ông là người khai sinh ra ngành chế tạo
biển rất kiên cường, nhưng họ rất thiếu kỹ thuật đóng tàu đồng hồ ở Nhật (Yamaguchi M., 2002, tr. 73; Sasaki 2022,
tiên tiến và các công cụ đi biển, như trong thư viết năm 1613 tr. 65).
gửi về Công ty Đông Ấn (Rundall T. ed., 1850, tr. 71). Năm 1607, Rodrigues gặp con của tướng quân Ieyasu là
2.4. Kỹ thuật chế tác đồng hồ Hidetade, có trợ lý của ông là huynh Paul đi cùng. Sau đó
huynh này được yêu cầu ở lại kinh đô để sửa chiếc đồng hồ
Về phương diện chế tạo cơ khí, một trong những điều
được Nagasaki gửi tặng. Có lẽ huynh Paul là người Nhật
nổi bật trong thế kỷ XVI chính là việc các nhà truyền giáo
đầu tiên được huấn luyện trong các chủng viện dòng Tên
dòng Tên mang đồng hồ cơ khí phương Tây vào nước Nhật,
ở Nagasaki để chế tác và sửa chữa đồng hồ cơ khí. Dường
bởi lẽ thời ấy người Nhật chỉ có đồng hồ nước mà thôi,
như Rodrigues cũng đã từng lo việc bảo trì đồng hồ của
như ghi chép của Luis Frois năm 1585 (Danford R. K., Gill
Ieyasu (Hashimoto T. 2011, tr. 138-139).
R. D., and Reff D. T., 2014, tr. 117). Vì thế đồng hồ cơ khí của
Năm 1614 Mạc phủ ban hành sắc lệnh cấm truyền bá đạo
châu Âu rất được người Nhật ưa chuộng. Do đó, các nhà
Thiên Chúa, nên các chủng viện và các xưởng huấn luyện
truyền giáo thường dùng đồng hồ làm quà tặng độc đáo
kỹ thuật của dòng Tên cũng bị đóng cửa. Tuy nhiên, các
để có cơ hội tiếp cận giới lãnh đạo các nước, mong được
học viên vẫn có thể tiếp tục sử dụng tay nghề của họ trong

52 SỐ 561 THÁNG 3 NĂM 2024


cộng đồng, và dân chúng sẵn sàng bỏ tiền ra mua những dòng họ Taira và Minamoto thời Trung cổ, và dị bản
sản phẩm của họ (Cullen C. & Hiraoka R. 2019, tr. 236). Feiqe monogatari, Esopo no fabulas (Ngụ ngôn Aesop, năm
Theo R. Hiraoka, kỹ thuật chế tạo đồng hồ của các nhà 1593) và quyển Qincvxv (Kinkūshū 金句集 Kim cú tập, 1592-
truyền giáo dòng Tên đã đưa đến việc thành lập xưởng 1593), một tuyển tập châm ngôn lấy từ sách Trung Hoa cổ.
wadokei 和時計 (hồ thời kế), một loại đồng hồ cơ khí hiển Sau đó các sách công cụ dùng để tra cứu cũng được in
thị thời gian theo cách tính cổ truyền, và cái hồ thời kế đầu ấn như Dictionarium Latino-lusitanicum ac Japonicum (Từ
tiên được chế tạo vào năm 1623, được Tsuda Sukezaemon điển La-tinh – Bồ Đào Nha – Nhật, 1595), Racuyoxu (Từ
đem dâng cho Tokugawa Yoshinao, một lãnh chúa vùng điển Trung - Nhật, 1598) và Vocabulario da lingoa de Iapam
Ōwari (Hiraoka R. 2020, tr. 217). (Từ vựng tiếng Nhật, 1603–1604) (Orii Y. 2015, tr. 190).
2.5. Kỹ thuật in ấn bằng con chữ rời Chỉ trong vòng một thập niên, cả Nhật hoàng lẫn Tướng
quân đều thử nghiệm công cụ in ấn mới mẻ này để in sách
Kỹ thuật in ấn bằng con chữ rời được đưa vào Nhật bằng
thế tục bằng tiếng Trung Hoa, và việc này đã đưa việc in
hai nguồn gần như đồng thời: từ các nhà truyền giáo châu
ấn thoát khỏi sự chi phối của các học viện Phật giáo. Vào
Âu và từ đội quân viễn chinh Nhật mang về từ Triều Tiên.
những năm 1620, ở Kyoto đã có nhiều người kinh doanh
Các nhà truyền giáo dòng Tên ở Nhật đã thường xuyên sử
trong việc in ấn, cho ra đời nhiều sách vừa bằng tiếng Nhật
dụng kỹ thuật in ấn bằng con chữ rời bằng kim loại từ năm
và Trung Hoa, vừa sử dụng cách in con chữ rời lẫn cách in
1590 đến 1614, trong khi các đồng nghiệp của họ ở Trung
mộc bản. Đến khoảng năm 1650, phần lớn các tác phẩm
Hoa vẫn còn sử dụng phương pháp in bằng bảng khắc gỗ
kinh điển của văn học Nhật đã được in mộc bản, và nhiều
để in các tài liệu bằng những ngôn ngữ châu Âu, ngay cả
sách vở mới được viết ra, khiến ngành in ấn phát triển ồ
ở Quảng Đông, Bắc Kinh hay Hương Sơn. Giải thích lý do
ạt, và đội ngũ độc giả cũng gia tăng nhanh chóng vào thế
tại sao phải sử dụng kỹ thuật này, Valignano đã viết trong
kỷ XVII, đặc biệt là trong giới phụ nữ. Vì thế ngành kinh
thư đề ngày 1 tháng 12 năm 1587: “Các sách đạo của chúng
doanh xuất bản sách phát triển nhanh chóng, bắt đầu từ
ta sẽ không thể được đưa vào Nhật một cách bừa bãi, đặc
Kyoto lan nhanh qua Edo và Osaka, và đến cuối thế kỷ thì
biệt là những quyển bài bác các tư tưởng dị giáo và nhiều
đến gần như tất cả các jōkamachi, tức các thị trấn dưới
lạm dụng khác đôi khi đang thịnh hành trong cộng đồng
chân lâu đài (Kornicki P. 2007, tr. 112-113).
Thiên Chúa giáo ở châu Âu. Vì lý do ấy mà tôi đã đặt mua
Tuy nhiên, từ những năm 1640, việc in ấn bằng con chữ
một máy in mà tôi đang mang nó về Nhật, để chúng ta có
rời dần giảm sút, và kỹ thuật in mộc bản lại thịnh hành cho
thể in những sách ấy tại Nhật cho phù hợp để lưu hành tại
đến những năm 1880, và đến ngày nay người ta vẫn chưa
Nhật sau khi đã được kiểm duyệt và gạn lọc trước (Boxer
biết chính xác sự suy giảm ấy bắt nguồn những nguyên
C. R. 1967, tr. 189)
nhân nào (Kornicki P. 2007, tr. 112).
Ngoài việc in ấn các tài liệu truyền giáo, các chủng viện
còn tổ chức biên soạn tài liệu ra chữ romaji của Nhật, 2.6. Về kỹ thuật đóng tàu vượt đại dương
kể cả dịch sách phương Tây. Ba cuốn sách viết bằng chữ Năm 1596, lãnh chúa đảo Shikoku tịch thu chiếc thuyền
romaji được in vào năm 1592 và 1593 trong các tu viện của San Felipe bị chìm ven bờ biển khiến quan hệ giữa Nhật
dòng Tên trên đảo Amakusa được sử dụng con chữ rời là và Tây Ban Nha ở Manila xấu đi. Căng thẳng gia tăng tột
Heike monogatari 平家物語 (Bình gia Vật ngữ, Truyện độ khi quan nhiếp chính Hideyoshi ra lệnh tử hình 26
kể về Bình gia, năm 1592) kể về cuộc xung đột giữa người, vì lời tuyên bố trong lúc cao hứng của viên thuyền

Tranh vẽ cảnh W. Adams đóng chiếc thuyền đầu tiên


(Rogers H. T. 2016)

Mô hình chiếc thuyền thứ hai của W.


Adams (Rogers H. T. 2016)

SỐ 561 THÁNG 3 NĂM 2024 53


trưởng Matías de Landecho⁽³) như đổ dầu vào lửa. Sau khi pháp) trong việc khai thác mỏ bạc, là phương pháp thô sơ
Hideyoshi chết (tháng 9 năm 1598), Tokugawa Ieyasu và kém hiệu quả, trong khi đó người Tây Ban Nha ở Mexico
muốn xoa dịu các nhà truyền giáo và đồng thời tranh thủ và Peru từ năm 1571 đã sử dụng phương pháp hỗn hợp với
người Tây Ban Nha ở Philippines để phát triển đội thuyền thủy ngân, chì và một số chất khác, cho ra năng suất cao
của mình và nghề luyện kim. Vì thế, tháng 12 năm 1598, hơn hẳn (Kobata A. 1965, tr. 246). Vì thế đối với Ieyasu,
Ieyasu Tokugawa nhờ các nhà truyền giáo Jerónimo de việc áp dụng kỹ thuật này vào việc khai thác mỏ bạc có ý
Jesús thuộc dòng Phan Sinh làm trung gian để xin viên toàn nghĩa đặc biệt về mặt kinh tế lẫn chính trị trong việc ổn định
quyền Tây Ban Nha ở Philippines cử kỹ sư đóng thuyền đất nước mới vừa thống nhất. Thế nhưng kế hoạch mời
trọng tải lớn galleon và kỹ sư luyện kim đến Nhật (Suzu- gọi người Tây Ban Nha ở Manila vào năm 1598 đã thất bại
ki H. 2017, tr. 502). Người Tây Ban Nha rất cảnh giác khi như đã nói bên trên. Sau đó, cơ hội mới xuất hiện: Ieyasu
nhận được thông tin này, vì đối với họ, an toàn nhất cho muốn nhờ tay những người còn sống sót trên thuyền De
quần đảo Philippines là người Nhật không có thuyền đi Liefde để giúp họ áp dụng kỹ thuật mới trong khai thác mỏ
đại dương, để họ không đe dọa Philippines (Blair E. H. & (Massarella D. 1990, tr. 79), nhưng họ chỉ có thể giúp ông
Robertson J. A. 1904, tr. 251). Vì thế kế hoạch này không thể trong việc đóng thuyền mà thôi.
thực hiện được. Cơ hội kế đến là chuyến “viếng thăm không có trong
Như nhận xét của W. Adams đã dẫn bên trên, cho đến kế hoạch” vào năm 1609 của Rodrigo de Vivero, như cách
cuối thế kỷ XVI người Nhật chưa thể đóng được thuyền gọi của M. Cooper: tháng 9 năm 1609 trên đường trở về
vượt đại dương. Do đó sự xuất hiện của các thủy thủ Mexico sau khi mãn hạn làm toàn quyền Philippines,
thuyền De Liefde trên đất Nhật là cơ hội vô cùng quý báu thuyền San Francisco của ông bị chìm ngoài khơi cảng
cho Ieyasu để thực hiện tham vọng của mình về phát triển Iwawada của Nhật Bản. Thế là tướng quân Ieyasu nắm bắt
ngành đóng thuyền. Ông cũng không quên việc nâng cao cơ hội để thương lượng với Tây Ban Nha về trao đổi mậu
trình độ kỹ thuật trong khai thác các mỏ bạc, và hy vọng dịch, trong đó có yêu cầu cử sang Nhật 50 thợ khai thác
rằng đội ngũ nhân viên thuyền De Liefde có thể có nhiều mỏ. Ngay cả khi phía Tây Ban Nha đưa ra điều kiện được
kỹ năng cần thiết (Rogers H. T. 2016, tr. 52). Tuy nhiên chỉ tự do truyền đạo, thậm chí rất khắt khe như phải trích
có kiến thức về hàng hải và kỹ thuật đóng thuyền của W. 75% sản lượng mỏ khai thác được cho phía Tây Ban Nha,
Adams đáp ứng được mong đợi của Ieyasu: năm 1604, Mạc nhưng phía Nhật vẫn “chấp nhận tất cả, trừ điều khoản
phủ ra lệnh cho Adams và các đồng đội còn sống sót của liên quan đến người Hà Lan” (Vivero y Velasco R. de, 1830,
ông giúp viên Tư lệnh Hải quân Mukai Shogen ở Uraga tr. 24), tức là điều khoản yêu cầu Nhật phải trục xuất người
đóng chiếc thuyền đầu tiên theo kiểu phương Tây tải trọng Hà Lan khỏi đất nước Nhật Bản. Các dự thảo đã được gửi
80 tấn, dùng để nghiên cứu bờ biển Nhật Bản. Năm 1605, đến Hội đồng hoàng gia Tây Ban Nha, nhưng chưa kịp
ông cho đóng thêm một chiếc nữa, tải trọng 120 tấn, gần được phê chuẩn thì xảy ra vụ trục xuất tín đồ đạo Thiên
bằng chiếc De Liefde đã đưa W. Adams và đồng đội vượt Chúa năm 1614, khiến kế hoạch hợp tác với người Tây Ban
đại dương đến Nhật. Trong bức thư mở gửi bạn bè và Nha bị dừng lại. Trong bản tường trình của mình, Vivero y
đồng hương viết từ Nhật đề ngày 22 tháng 10 năm 1611, W. Velasco đã vô cùng tiếc nuối “phải chi Hội đồng hoàng gia
Adams nói rằng Tướng quân Tokugawa Ieyasu đi thuyền tích cực hơn thì đã không xảy ra vụ trục xuất ấy”, khiến họ
đến xem chiếc thuyền mới và tỏ vẻ rất hài lòng (Murakami chẳng những không còn hy vọng truyền đạo, mà còn mất
N. & Murakawa K. 1900, tr. 11). cơ hội giao thương với một đất nước mang lại rất nhiều
Qua việc tham gia đóng thuyền cùng với W. Adams, các lợi lộc, hơn cả châu Âu và châu Mỹ (Vivero y Velasco R. de,
thợ đến từ Ito, Edo và Uraga đã học được kỹ thuật đóng 1830, tr. 25-28).
thuyền phương Tây, và đã truyền kinh nghiệm từ thế hệ
3. KẾT LUẬN
này sang thế hệ khác. Chính vì thế mà khi chính sách tỏa
quốc bị hủy bỏ vào nửa cuối thế kỷ XIX thì ngành đóng tàu Như đã trình bày ở trên, ngay từ những thập niên đầu
thuyền của Nhật cũng phát triển ngay lập tức (Arima S. tiếp xúc với người châu Âu, người Nhật đã dũng cảm nhận
1964, tr. 354). ra sự thua kém của đất nước mình trên nhiều phương
2.7. Tìm cách học phương pháp khai thác mỏ của diện, nhất là phương diện kỹ thuật. Vì thế họ đã không từ
người Tây Ban Nha bỏ bất cứ cơ hội nào để tiếp cận nền khoa học và kỹ thuật
Từ năm 1571, khi Tây Ban Nha đặt chân lên Philippines phương Tây, thậm chí có cả việc một số lãnh chúa và nho sĩ
thì việc mậu dịch quốc tế có sự thay đổi quan trọng, với sự chấp nhận theo đạo Thiên Chúa để có cơ hội tiếp xúc với tri
xuất hiện một lượng lớn bạc được dùng làm phương tiện thức mới do các nhà truyền giáo nắm giữ. Chính tinh thần
thanh toán. Thế mà vào thời ấy, ở Nhật việc thanh toán ham hiểu biết đó đã giúp người Nhật nhanh chóng thu hẹp
trong các giao dịch nội địa, kể cả nộp thuế, có thể được khoảng cách giữa họ với các nước phương Tây, mặc dù từ
tiến hành bằng cả lúa gạo. Chính vì thế mà nhiếp chính năm 1639 Mạc phủ đã áp dụng chính sách tỏa quốc hơn hai
Toyotomi Hideyoshi 豊臣秀吉 (trị vì từ 1585–1598) và sau thế kỷ, khiến họ chỉ còn tiếp xúc được vài nước mà thôi.
đó là tướng quân Tokugawa Ieyasu 德川家康 (từ 1603– Đó chính là nền tảng vững chắc giúp phong trào canh tân
1616) đã tích cực thúc đẩy việc khai thác mỏ vàng và bạc dưới thời Minh Trị làm nên những bước đột phá thần kỳ
(Schottenhammer A. 2019, tr. 30). Thế nhưng thời ấy Nhật của Nhật Bản thời hiện đại.
vẫn còn sử dụng phương pháp haifuki⁽⁴) 灰吹銀 (khôi xúy Kỳ sau:
Những người Nhật đầu tiên đến phương Tây

54 SỐ 561 THÁNG 3 NĂM 2024


CHÚ THÍCH 15. Hiraoka R. 2020. Jesuits and Western Clock in Japan’s “Christian
1. Tên đầy đủ của Phó vương thứ 9 của Mexico là Luis de Velasco 1st Century”(1549–c.1650). Tạp chí Journal of Jesuit Studies, 7(2).
Marquess of Salinas del Río Pisuerga, nhưng nhiều tài liệu chỉ ghi là Luis 16. Hiraoka R. 2022. Deciphering Aristotle with Chinese Medical
de Velasco, khiến người đọc dễ nhầm với cha ông là Luis de Velasco y Cosmology: Nanban Unkiron and the Reception of Jesuit Cosmol-
Ruiz de Alarcón (1511-1564), cũng thường được viết ngắn gọn là Luis de ogy in Early Modern Japan. Trong Mak B. M. & Huntington E. 2022.
Velasco, phó vương thứ hai của Mexico. Overlapping Cosmologies in Asia. Leiden & Boston: Brill.
2. Năm 2013 các chuyên gia châu Âu đã thực hiện giám định bằng tia 17. Kikuchi K. 1915. The Introduction of Western Learning into Ja-
X và đã phát hiện ra rằng thật ra đồng hồ này được một người thợ Hà pan. Tạp chí The Rice Institute Pamphlet, Vol. 2, October 1915. Hous-
Lan khác, tên là Nicolas van Troestenberch, làm ở Bỉ năm 1573 (Koch A. ton (Texas): The Rice Institute.
2020, tr. 86). 18. Koch A. 2020. Diplomatic Devices: The Social Lives of Foreign
3. Một số tài liệu nói Matias de Landecho là hoa tiêu trưởng của chiếc Timepieces in Late Sixteenth- and Early Seventeenth-Century
San Felipe, và tuyên bố rằng chiến thuật của người Tây Ban Nha là nhà Japan.
truyền giáo đi trước và quân đội đến sau (Crasset J. 1689, tr. 24) như đã Tạp chí KronoScope Vol. 20 Issue 1.
từng làm ở châu Mỹ và Philippines. Một số tài liệu khác cho là vụ này 19.KornickiP.2007.TheBookbeyondtheWest:Japan,Korea,andViet-
liên quan đến một hoa tiêu khác, tên là Francisco de Olandia. nam. EliotS.&RoseJ.2007(eds.):ACompaniontotheHistoryoftheBook.
4. Một số tài liệu viết là haibuki. Massachusetts, Oxford: Blackwell Publishing Ltd.
20. Leitão, H. 2001. Galileo’s Telescopic Observations in Portugal.
Trong José Montesinos & Carlos Solís Santos (Eds.): Largo Campo di
Filosofare. Eurosymposium Galileo. Tenerife: Fundación Canaria Oro-
tava de Historia de la Ciencia.
21. Loureiro L. M. 2004. Jesuit textual strategies in Japan between
1549 and 1582. Tạp chí Bulletin of Portuguese - Japanese Studies, No
8 (june 2004).
22. Massarella D. 1990. A world elsewhere: Europe’s encounter with
Japan in the sixteenth and Seventeenth centuries. New Haven & Lon-
don: Yale University.
23. Murakami N. & Murakawa K. 1900. Letters Written by the English
Residents in Japan. Tokyo: The Sankosha.
24. Nakamura H. 1939. Les Cartes du Japon qui servaient de modèle
aux cartographes européens au début des relations de l’Occident
avec le Japon. Tạp chí Monumenta Nipponica, Vol. 2, No. 1.
25. Nakayama S. 1969. A history of Japanese astronomy – Chinese
background and Western impact. Cambridge, MA: Harvard Univer-
TÀI LIỆU THAM KHẢO VÀ TRÍCH DẪN sity Press.
1. Arima S. 1964. The Western Influence on Japanese Military Science, Ship- 26. Rogers H. T. 2016. Anjin – The Life and Times of Samurai William
building, and Navigation. Tạp chí Monumenta Nipponica, Vol. 19, No. 3-4. Adams, 1564–1620 as seen through Japanese Eyes. Folkestone:
2. Bernard H. 1937. Le Père Matthieu Ricci et la Société Chinoise de son temps Rennaisance Books.
(1552-1610), Tome 2. Tientsin: Hautes Etudes. 27. Rundall T. (ed.) 1850. Memorial of the Empire of Japan in the XVI
3. Blair E. H. & Robertson J. A. 1904. The Philippine Islands 1493-1898, Vol. 15. and XVII Centuries. New York: Burt Franklin, Publisher.
Cleveland (Ohio): The Arthur H. Clark Company. 28. Sasaki K. 2022. Section Four: Japan. Trong Turner A., Nye J. & Betts
4. Boxer C. R. 1929. The Affair of the “Madre de Deus”. J. eds., A General History of Horology. Oxford: Oxford University Press.
5. London: Kegan Paul, Trench, Trubner & Co. Ltd. 29. Schottenhammer A. 2019. Major “International” Currencies of
6. Boxer C. R. 1931. Notes on Early European Military Influence in Japan. China and Japan: The Use of Copper Coins, Silver Ingots and Paper
Trong Boxer C. R.: Dutch Merchants and Mariners in Asia 1602-1795. Money. Trong S. Serels, G. Campbell (eds.), Currencies of the Indian
7. Boxer C. R. 1967. The Christian Century in Japan 1549-1650. Ocean World. Switzerland: Springer Nature Switzerland AG.
Berkeley & Los Angeles: University of California Press. 30. Shapinsky P. D. 2006. Polyvocal Portolans: Nautical Charts and
8. Boxer C. R. 1979. Some aspects of Portuguese influence in Japan, 1542- Hybrid Maritime Cultures In Early Modern East Asia. Tạp chí Early
1640. Trong Papers on Portuguese, Dutch and Jesuit Influences in 16th and Modern Japan, Vol. 14 (January 2006).
17th-Century Japan. Washington D.C.: University Publications of America, Inc. 31. Suzuki K. 2017. Uraga Port between Manila and Acapulco. Trong
9. Cook J. H. 2007. Matters of exchange. New Haven & London: Yale University Proceedings of the 3rd Asia-Pacific Regional Conference on Underwater
Press. Cultural Heritage, hội thảo tổ chức tại Hong Kong từ ngày
10. Crasset J. 1689. Histoire de l’Eglise du Japon, Tome 2. Paris: Chez Estienne 27/11/2017 đến ngày 2/12/2017.
Michallet. 32. Vivero y Velasco R. de, 1830. Relation inédite d'un Voyage au
11. Cullen C. & Hiraoka R. 2019. The Geneva Sphere: An Astronomical Model Japon par Don Rodrigo de Vivero y Velasco. Tạp chí Revue des deux
from Seventeenth-Century Japan. Tạp chí Technology and Culture, Vol. 60, No. Mondes, Tome 2 Avril 1830.
1 (January 2019). 33. Yajima S. 1964. The European Influence on Physical Sciences in
12. Danford R. K., Gill R. D., and Reff D. T., 2014. The First European Description of Japan. Tạp chí Monumenta Nipponica, Vol. 19, No. 3/4 (1964).
Japan, 1585: A Critical English-Language Edition of Striking Contrasts in the Cus- 34. Yamaguchi M., 2002. Karakuri: The Ludic Relationship between
toms of Europe and Japan by Luis Frois, S.J. London and New York: Routledge. Man and Machine in Tokugawa Japan. Trong J. Hendry & M. Raveri
13. Hashimoto T. 2011. The Adoption and Adaptation of Mechanical Clocks (ed.). Japan at Play The ludic and the logic of power. London and New
in Japan. Trong F. Günergun & D. Raina 2011, Science between Europe and York: Routledge.
Asia. Dordrecht, Heidelberg, London, New York: Springer Science+Business 35. Yoshida T. 2004. A Japanese Reaction to Aristotelian Cosmology.
Media B.V. Trong Luis Saraiva (ed.): History of Mathematical Sciences: Portugal
14. Hiraoka R. 2005. Jesuit Cosmological Textbook in ‘the Christian century’ and East Asia II. New Jersey, London, Singapore: World Scientific
Japan: De sphaera of Pedro Gomez (Part I). Tạp chí Sources and Commentaries Publishing Co. Pte. Ltd.
in Exact Sciences (SCIAMVS), số 6. 36. Yoshihiro Y. 2016. Introduction of European Art of Navigation
Hiraoka R. 2008. The Transmission of Western Cosmology to 16th Century Ja- into Japan, sixteenth to eighteenth century. Báo cáo tại Hội nghị
pan. Trong Saraiva L. & Jami C. 2008: The Jesuits, the Padroado and East Asian Seventh IMEHA International Congress of Maritime History tổ chức tại
Science (1552–1773). New Jersey, London: World Scientific. Đại học Murdoch (Perth, Australia) ngày 27 tháng 6 năm 2016.

SỐ 561 THÁNG 3 NĂM 2024 55

You might also like