Professional Documents
Culture Documents
Người Nhật đã học được gì từ phương Tây-3-2024
Người Nhật đã học được gì từ phương Tây-3-2024
Người Nhật đã học được gì từ phương Tây-3-2024
TRẦN THANH ÁI Vì nhận thấy người Nhật có tinh thần ham hiểu biết
và thiên hướng về suy lý, Francisco Xavier (1506-1652) và
2.3. Về địa lý hàng hải và thiên văn học Alessandro Valignano (1538-1606) đã quyết định trước tiên
Ngay từ năm 1525, người Nhật cũng đã có trong tay là dạy cho họ trật tự và vẻ đẹp của thế giới tự nhiên, nhằm
bản sao một bản đồ thế giới do người châu Âu vẽ, nghĩa mục đích hướng họ nhìn nhận sự hiện diện của Chúa Trời
là trước khi người Bồ Đào Nha đến Nhật. H. Nakamura đằng sau thế giới đó. Valignano cũng thấy cần thiết phải
cho biết là khi đến Hàn Châu (Trung Hoa), một tu sĩ Phật dạy cho giáo dân người Nhật các môn học nhân văn, và thế
giáo tên là Sosetsu đã sao chép một bản đồ thế giới có lẽ là ông có ý định thành lập trường Sao Paulo ở Funai năm
do người Bồ Đào Nha vẽ, và đã gửi về cho lãnh chúa Outi 1580. Ban đầu trường chỉ có một nhóm bảy hay tám học
Yosioki của vùng Yamaguti ở Nhật (Nakamura H. 1939, tr. viên trẻ người nước ngoài, họ được dạy ngữ pháp tiếng
119). Tuy nhiên, thông tin ít ỏi ấy chưa giúp người Nhật La-tinh và tiếng Nhật cơ bản cùng với các môn học về nhân
nhận ra những điều kỳ diệu mà phương Tây đã làm được văn (Yoshida T. 2004, tr. 153).
vào thời bấy giờ trong lĩnh vực phát kiến địa lý phục vụ Khi nhà truyền giáo Pedro Gomez (1533-1600) vừa mới
cho hàng hải. Do đó không cần phải nói người Nhật đã đến Nhật năm 1583 thì trường cũng bắt đầu dạy môn triết
kinh ngạc đến mức nào khi biết được là người Bồ Đào Nha học. Ông được giao nhiệm vụ biên soạn một tài liệu giáo
đã có thể vượt biển trong nhiều tháng trời để đến được khoa cho môn học này, có lẽ vì ông đã có kinh nghiệm dạy
vùng Viễn Đông, mang theo nhiều vật dụng mới lạ. Đó là tại trường dòng Tên ở Coimbra (Hiraoka K. 2008, tr. 82).
kết quả của hàng loạt tiến bộ về khoa học và kỹ thuật, đặc Năm 1593, quyển sách đầu tiên về thiên văn bằng tiếng La-
biệt là thiên văn học mà nhiều nước châu Âu nói chung, và tinh, được Pedro Gomez biên soạn để làm giáo trình trong
Bồ Đào Nha nói riêng đã dành nhiều thời gian nghiên cứu các chủng viện dòng Tên ở Nhật, mà người ta thường gọi
từ thế kỷ trước đó. Vì thế, khi truyền đạt cho người Nhật là Compendia (Những bài tóm tắt), trong đó phần đầu
những kiến thức mới mẻ ấy, các nhà truyền giáo đã chinh được đặt tên là De Sphaera (Về vũ trụ), được biết đến như
phục được họ ngay từ những năm đầu đặt chân lên xứ Mặt là tài liệu đầu tiên ở Nhật về thiên văn học phương Tây
Trời mọc (Boxer C. R. 1979, tr. 132) chẳng hạn như trái đất thời bấy giờ.
hình cầu chớ không phải là một mặt phẳng, vũ trụ mênh Vì vào nửa sau thế kỷ XVI ở châu Âu xảy ra nhiều cuộc
mông chớ không phải hình mái vòm như cái chén úp. tranh luận căng thẳng về thiên văn học sau khi Copernic
Tuy nhiên, các kiến thức ấy vẫn nằm trong thuyết địa tâm công bố quyển De revolutionibus orbium coelestium (Về
của Ptolemy, còn sự chuyển động
thuyết nhật tâm xoay vòng của các
của Copernic thì thiên thể), nên các
đang bị phê phán nhà truyền giáo
kịch liệt ở châu phải biên soạn cẩn
Âu, và bị cấm vào thận, để nội dung
năm 1613. truyền đạt được
Đồng hồ do Phó
vương Mexico tặng Đồng hồ do Nhật chế
Ieyasu năm 1611, tạo vào thế kỷ XVIII,
hiện được trưng bày hiện được trưng bày ở
tại Bảo tàng Kunozan Bảo tàng Paul Dupuy
Toshogu Museum. (Toulouse, Pháp)
mạch lạc và phù hợp với Kinh Thánh (Loureiro L. M. 2004, Năm 1635, Hayashi Kichizaemon, người bị kết tội tử
tr. 57). Hai năm sau đó tài liệu này được dịch sang tiếng hình năm 1646 vì đã truyền bá đạo Thiên Chúa, đã dịch
Nhật để những người không biết tiếng La-tinh có thể đọc và phát hành một công trình về thiên văn; đây là tài liệu
được; bản thảo tiếng Nhật của quyển sách này mới được dịch ra tiếng Nhật thứ hai từ sách phương Tây, trong
tìm thấy năm 1995 ở trường Magdalen College, Oxford đó ông tập hợp những gì đã học được từ người Bồ Đào
(Hiraoka R. 2008, tr. 83). Cũng theo tác giả này, từ tài liệu Nha, và đã truyền lại cho học trò của mình là Kobayashi
của Pedro Gomez mà vào những thập niên sau đó người (Kikuchi D. 1915, tr. 58). Nhiều tác giả cho rằng có lẽ đó là
ta đã biên soạn thành nhiều quyển tuy có tên khác, nhưng quyển Kenkon bensetsu, trong đó trình bày sự tương ứng
nội dung thì gần như giống nhau, đó là: Nigi ryakusetsu giữa thế giới vĩ mô và vi mô (Cook H. 2007, tr. 344). Một tác
二儀略説 Nhị nghi lược thuyết (Sơ lược về hai thế giới, giả khác cho biết có lẽ Hayashi đã tiếp nhận kiến thức về
Trời và Đất), Tenmon biyou 天文備要 Thiên văn bị yếu thiên văn từ Sawano Chūan, tên mới của nhà truyền giáo
(Tóm lược về thiên văn), Kenkon bensetsu 乾坤弁説 Càn bỏ đạo Christovão Ferreira, và cũng là người dịch sách của
khôn biện thuyết (Bàn về Càn Khôn), Nanban unkiron Pedro Gomez nói trên ra tiếng Nhật theo mẫu tự La-tinh
南蛮運気論 Nam man vận khí luận (Người Nam man bàn (romaji), rồi sau đó một thông ngôn ở Nagasaki tên là Nishi
về thuyết Vận khí). Những bản chép tay này là những tài Kichibei chuyển sang tiếng Nhật truyền thống (Yajima S.
liệu đầu tiên bằng tiếng Nhật giới thiệu đầy đủ về thiên văn 1964, tr. 342). Mặc dù các hoạt động của các nhà truyền giáo
học phương Tây, và được lưu hành trong giới học thuật dòng Tên kết thúc vào năm 1614 khi Mạc phủ Tokugawa ra
Nhật Bản trong suốt thời Edo (1603-1867) ngay cả trong lệnh cấm đạo Thiên Chúa, nhưng những tài liệu được biên
những cuộc đàn áp đạo Thiên Chúa (Hiraoka R. 2005, tr. soạn trong thời kỳ này vẫn tồn tại bất chấp các lệnh cấm,
100). và được lan truyền rộng rãi dưới hình thức chép tay suốt
Năm 1602, linh mục Charles Spinola quan sát được hiện các thế kỷ tiếp theo (Hiraoka R. 2022, tr. 98). Trong khi học
tượng nguyệt thực tại Nagasaki và đưa ra các tính toán về tập lý thuyết về thiên văn, người Nhật cũng đã tiếp cận với
đường kinh tuyến, tạo cơ sở ban đầu cho ngành khoa học những công cụ của người châu Âu, chẳng hạn như kính
bản đồ ở Nhật Bản. Có lẽ dưới sự tác động của Spinola mà viễn vọng: theo nhà nghiên cứu lịch sử khoa học Nhật Bản
tháng 5 năm 1605, người ta lợi dụng cơ hội các quý tộc có Yoshio Mikami thì kính viễn vọng đầu tiên được các nhà
mặt đông đủ ở kinh đô để dự lễ tấn phong của Tokugawa truyền giáo dòng Tên đem vào nước Nhật năm 1613, nghĩa
Hidetada nối ngôi cha là Tokugawa Ieyasu 徳川家康 (1543– là hai năm sau khi nó được biết đến ở Bồ Đào Nha (Leitão
1616), “các nhà truyền giáo thành lập một ‘Viện Hàn lâm’ ở F. 2001, tr. 904).
kinh đô và bắt đầu dạy về địa lý, hàng hải, lý thuyết về các Trong lĩnh vực hàng hải, trước khi người Bồ đến
hành tinh và triết học tự nhiên về sấm chớp, tuyết phủ…” Tanegashima năm 1543, người Nhật ra nước ngoài bằng
(Bernard H. 1937, tr. 192). thuyền mành của người Trung Hoa, vì họ chưa có kỹ thuật