Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 90

LUẬN VĂN:

Tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng

Bắc bộ hiện nay


Mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài


Đã từ lâu, ở mọi vùng quê trên đất nước Việt Nam thường diễn ra những ngày lễ
hội gắn với các truyền thuyết và sự tích về các Nữ thần.
Tín ngưỡng thờ Mẫu là một tín ngưỡng dân gian mang sắc thái nguyên thủy và có
chiều dài lịch sử hàng ngàn năm, nó phát triển theo sự phát triển đa dạng của tín ngưỡng
dân gian mà không theo một qui luật định sẵn nào. Tín ngưỡng thờ Mẫu được bảo tồn qua
lễ hội, qua niềm tin và qua đời sống tâm linh để tồn tại lâu dài trong đời sống tinh thần của
người dân đất Việt.
Việt Nam là một quốc gia đa tộc người, đa tôn giáo và nhiều loại hình tín ngưỡng.
Tuy nhiên, ngay từ khi hình thành, văn hóa Việt Nam đã mang tính thống nhất, nhưng vẫn
có những nét riêng về văn hóa, đánh dấu sự khác biệt giữa tộc người này với tộc người
khác.
Vấn đề giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc đã được Đảng ta đặc biệt quan tâm trong
bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay. Mặt khác, chúng ta đang thực hiện công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước thì việc tiếp thu những thành tựu khoa học- kỹ thuật thế giới đang là cơ
hội để chúng ta tiếp thu những thành quả trí tuệ của loài người. Một vấn đề đặt ra là muốn
đa dạng văn hóa thì phải mở rộng giao lưu, hội nhập với các nền văn hóa khác để tiếp thu
những tinh hoa văn hóa của nhân loại.Tuy nhiên, khi giao lưu, hội nhập với các nền văn
hóa khác thì việc giữ gìn bản sắc văn hóa riêng độc đáo cho mỗi dân tộc, mỗi quốc gia gặp
nhiều khó khăn và trở ngại.
Trong Văn kiện hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành trung ương Đảng (khóa VIII),
đưa ra quan điểm chỉ đạo cơ bản: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục
tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội ” và “Nền văn hóa mà chúng ta
xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” [10, tr.55].
Chúng ta biết rằng, tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam là một tín ngưỡng có từ rất
lâu. Nó là một tín ngưỡng dân gian có nguồn gốc bản địa và bắt nguồn từ nền văn minh
nông nghiệp lúa nước và là một hình thức tôn vinh người phụ nữ làm Quốc Mẫu, Thánh
Mẫu, Vương Mẫu…nhiều nơi những cơ sở thờ Mẫu đã trở thành những trung tâm thờ
Mẫu lớn như Phủ Dầy, Phủ Tây Hồ, Đền Sòng…
Thờ Mẫu nói chung và thờ Mẫu Tam phủ - Tứ phủ là một khái niệm tương đối phức
tạp. Về phương diện điện thần thì thờ Mẫu bước đầu đã hình thành một hệ thống và có
những nghi lễ điển hình như hầu bóng(hầu đồng)… mà các tín ngưỡng dân gian khác
không có. Vì thế, tính phức tạp lại càng tăng lên khi có nhiều quan điểm khác nhau về thờ
Mẫu. Có quan điểm cho rằng thờ Mẫu đã trở thành một tôn giáo sơ khai, nhưng lại có
những quan điểm không đồng tình, chỉ khẳng định thờ Mẫu là một tín ngưỡng dân gian…
Điều này càng thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học, đặc biệt là những
người quan tâm đến lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo.
Công cuộc đổi mới đất nước hai mươi năm qua ở nước ta đã đạt được những thành
tựu quan trọng trong các lĩnh vực đời sống xã hội. ở lĩnh vực tôn giáo, tín ngưỡng cũng có
những biến đổi căn bản, trên cả phương diện nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn của
công tác tôn giáo.
Ngày nay, trong xu thế quốc tế hóa, toàn cầu hóa đang diễn ra trên toàn thế giới.
Việt Nam cũng đang hòa nhập vào xu thế đó. Tuy nhiên, chúng ta gặp phải một thách thức
không nhỏ, khi mà bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế ngày càng rộng rãi như hiện nay. Vấn đề
giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc như thế nào là việc làm cần thiết, có lẽ chúng ta
không cần nhắc lại tác hại của việc đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc. Điều quan trọng là
phải tìm được những giải pháp giữ gìn và phát huy những yếu tố tích cực của bản sắc văn
hóa dân tộc trong bối cảnh hiện nay.
Tôn giáo, tín ngưỡng là một nhu cầu tâm linh của một bộ phận cư dân trong xã hội.
Trong hệ thống tín ngưỡng dân gian Việt Nam thì tín ngưỡng thờ Mẫu là một loại hình tín
ngưỡng dân gian khá phổ biến trong xã hội. Theo thống kê của Viện Hán Nôm năm 1991 thì:
“Trong số 1000 di tích được giới thiệu thì đã có 250 di tích thờ cúng các vị thần hay danh
nhân là nữ” [45, tr.24].
Tín ngưỡng thờ Mẫu gần gũi với thiên nhiên, đất trời, gắn với thân phận của người
phụ nữ Việt Nam … Người ta đến với Mẫu để tìm chỗ dựa về tinh thần, tìm được sự che
chở của người mẹ…dẫu biết rằng khi đến với tín ngưỡng này con người cầu xin từ những
cái vô hình, để hy vọng có thể nhận được những cái hữu hình.
Tôn giáo - tín ngưỡng - mê tín dị đoan, là ba khái niệm rất phức tạp, là vấn đề đang
được sự quan tâm của nhiều người, nhiều ngành khoa học khác nhau. Hiện nay, Đảng và
Nhà nước ta cho phép phục hồi một số lễ hội truyền thống, trong đó có cả tín ngưỡng thờ
Mẫu. Ngoài ra, nhu cầu trở về cội như một xu thế vừa tự phát lại vừa tự giác đã kéo theo
hiện tượng mà trước kia được liệt vào dạng “mê tín dị đoan”, nhưng nay lại đang diễn ra
khá phổ biến ở nhiều nơi, nhiều di tích và công khai, đó là nghi thức hầu bóng (hầu đồng)
trong thờ Mẫu. Vấn đề đặt ra là cần loại bỏ “mê tín dị đoan” nhưng phải tôn trọng quyền tự
do tín ngưỡng của công dân được pháp luật bảo vệ. Song đối mặt với thực tế cuộc sống đó là
điều hết sức nhạy cảm và phức tạp. Hiện nay, chưa có căn cứ rõ ràng để phân biệt cái gì là văn
hóa, cái gì là phản văn hóa; cái gì là “ mê tín”, cái gì là “dị đoan” trong hình thức sinh hoạt
tín ngưỡng thờ Mẫu.
Trong xã hội hiện nay đang tồn tại một số cá nhân lợi dụng niềm tin của một số
người vào thần thánh, lợi dụng chính sách tự do tín ngưỡng của Đảng và Nhà nước ta đã
tìm mọi cách “kinh doanh” trên lĩnh vực tín ngưỡng nói chung và tín ngưỡng thờ Mẫu nói
riêng nhằm trục lợi cá nhân, gây mất ổn định xã hội … Đây là điều mà các cơ quan quản lý
các ngành, các cấp cần phối hợp làm rõ để mọi người cùng hiểu và tránh xa những hiện tượng
tiêu cực này.
Tín ngưỡng thờ Mẫu là một nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân đã tồn tại
trong lịch sử và cả thời đại ngày nay. “Mẫu” là hình tượng, một biểu trưng và là sự kết tinh
sống động của đời sống văn hóa tinh thần của con người Việt Nam. “Mẫu ” có sức hấp dẫn
đặc biệt, nhưng cũng đặt ra không ít các vấn đề cho nhiều nhà khoa học, nhiều người
nghiên cứu quan tâm theo nhiều hướng khác nhau trong toàn xã hội.
Đến với “Mẫu” không chỉ dừng lại ở việc đáp ứng những nhu cầu đời sống tâm
linh, tín ngưỡng thờ Mẫu còn là hiện tượng sinh hoạt văn hóa dân gian phong phú, hấp dẫn
có sức lôi cuốn con người. Người ta đến với “Mẫu ” còn có cả sự đồng cảm về giá trị văn
hóa và góp phần củng cố ý thức cộng đồng của dân tộc Việt Nam.
Với những lý do trên, nên tôi chọn vấn đề: " Tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng
Bắc bộ hiện nay ", làm đề tài luận văn thạc sĩ chuyên ngành Tôn giáo học.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài


Trong phần tình hình nghiên cứu đề tài này, luận văn chỉ xin nêu một số tác phẩm
của một số tác giả trong nước viết về tín ngưỡng thờ Mẫu.
Theo GS Vũ Ngọc Khánh tính từ thế kỷ XVII đến nay (không kể đến những ý kiến
viện dẫn hoặc phân tích trên các sách báo và các thần tích lưu tại các địa phương và các
phủ điện thờ) sơ bộ đã có 25 công trình với ba ngôn ngữ (Hán nôm, Việt, Pháp) viết về
Chúa Liễu - Mẫu Liễu Hạnh gồm: Sách Hán Nôm (Vân Cát Lê gia ngọc phả; Truyền kỳ
tân phả; Vân Cát thần nữ cổ lục …), sách Quốc ngữ và chữ Pháp (Nam Hải dị nhân của
Phan Kế Bính; Truyện thần nữ Vân Cát của Thiên Đình hay Nam Phong 1930; Sự tích
Liễu Hạnh công chúa của Trọng Hối 1959; Leculte des immortels…Nguyễn Văn Huyên
1944.
Về Thánh Mẫu Liễu Hạnh thì: “Lê Gia ngọc phả vẫn là tài liệu trước nhất ghi chép
về Liễu Hạnh. Và có thể khẳng định là Đoàn Thị Điểm đã dựa vào truyền thuyết dân gian
để sáng tạo, hư cấu nhiều hơn” [24, tr.35].
Sau khi miền Nam được giải phóng (1975) cả nước được thống nhất, chúng ta có
nhiều điều kiện tập trung nghiên cứu. Vì thế, đã có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều
cuộc hội thảo và các bài viết về tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam (không kể những bài viết
trong báo và tạp chí) cơ bản đó là:
- “Đạo Mẫu ở Việt Nam” năm 1996 hay cuốn “Đạo Mẫu và các hình thức Shaman
trong các tộc người ở Việt Nam và Châu á ” năm 2004 của tác giả Ngô Đức Thịnh (chủ
biên). ở đây, tác giả đã đưa ra những luận chứng khẳng định tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt
Nam đã trở thành Đạo Mẫu. Quan điểm này hiện nay có nhiều nhà khoa học chưa đồng
tình.
- “Văn hóa tâm linh Nam bộ” của Nguyễn Đăng Duy (1997), tác giả có viết một
chương về tín ngưỡng thờ Mẫu, nhưng là thờ Mẫu ở Nam bộ.
- Cuốn “di sản văn hóa dân tộc trong tín ngưỡng và tôn giáo ở Việt Nam ”, tác giả Lê
Quang Trứ (2000) có bài viết về tín ngưỡng thờ Mẫu nhưng còn sơ sài, tác giả giới thiệu dàn
đều bốn loại hình tín ngưỡng chủ yếu tại Việt Nam.
- Cuốn “Lịch sử tín ngưỡng Đông Nam á ” xuất bản năm 2000, tái bản năm 2003
của TS Trương Sĩ Hùng (chủ biên), trong đó có bài viết: Thờ Mẫu Việt Nam một tín
ngưỡng điển hình ở Đông Nam á. Tác giả giới thiệu về lễ hội thờ Mẫu và bước đầu đưa ra
kết luận tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam mang sắc thái điển hình ở Đông Nam á.
- Phân viện nghiên cứu văn hóa nghệ thuật thành phố Huế (2001) viết cuốn “Tín
ngưỡng thờ Mẫu ở Miền Trung”do Nguyễn Hữu Thông (chủ biên) lại một lần nữa khẳng
định về tục thờ Mẫu và diễn trình của tục thờ Mẫu, các tác giả đi sâu vào các nữ thần ở
Miền Trung, đặc biệt là Thần Nữ YANA.
- GS Vũ Ngọc Khánh, tác giả của cuốn sách “ Tín ngưỡng dân gian Việt Nam ”(tái
bản có sửa chữa, bổ sung)(2001), tác giả có viết về các tín ngưỡng dân gian Việt Nam hiện
nay, trong đó có cả tín ngưỡng thờ Mẫu, tín ngưỡng Tam phủ - Tứ phủ, nhưng không
nghiên cứu sâu từng loại hình tín ngưỡng mà chỉ nêu khái quát từng loại hình tín ngưỡng
dân gian mà thôi.
- Cuốn “Lễ hội dân gian ở Nam bộ” (2003) của TS Trương Quốc Thắng có bài viết:
Lễ hội thờ Mẫu - Nữ thần nguyên gốc từ sinh hoạt dân gian Bắc Bộ. Tác giả chủ yếu giới
thiệu con đường đưa tín ngưỡng thờ Mẫu ở miền Bắc vào miền Nam như thế nào?.
- Cũng trong năm 2003, tác giả Nguyễn Chí Bền viết cuốn “Văn hóa dân gian
những phác thảo”. Cuốn sách này tác giả đề cập đến tục thờ Mẫu của người Việt nhưng ở
vùng Nam Bộ.
- Cuốn “Văn hóa Thánh Mẫu ” của Đặng Văn Lung (2004), tác giả đã rất tâm huyết
với vấn đề “Mẫu ” nên đưa ra rất nhiều các tư liệu về các “Mẫu” nhưng lại viết dưới góc
độ văn hóa, văn học và lịch sử chứ chưa xét dưới góc độ tín ngưỡng và tôn giáo.
- Năm 2005, cuốn sách “Góp phần tìm hiểu tín ngưỡng dân gian ở Việt Nam ” do
TS Nguyễn Đức Lữ (chủ biên) cũng viết về tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam, nhưng chỉ đề
cập đến khái niệm thờ Mẫu và một số đặc điểm của tín ngưỡng thờ Mẫu, chưa đi sâu vào
nguồn gốc, vai trò…của tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam.
- Năm 2005, Mai Thanh Hải là tác giả cuốn sách “Tìm hiểu tín ngưỡng truyền thống
Việt Nam ”. Tác giả đưa ra quan điểm thờ Mẫu ở Việt Nam có cội nguồn bản địa và thờ
Mẫu bắt nguồn từ triết lý nhân sinh.
Trên đây chỉ là một số tác phẩm cơ bản của các nhà nghiên cứu trong nước, trong
những năm gần đây về tín ngưỡng thờ Mẫu, tác giả luận văn mà chưa có điều kiện liệt kê
tất cả những danh mục viết về tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam hiện đang có ở nhiều tác
phẩm và bài viết. Và cũng chưa có cơ hội được đọc hết các luận văn nghiên cứu về tín
ngưỡng thờ Mẫu và Mẫu Tam phủ - Tứ phủ của các tác giả Việt Nam dưới các góc độ
khác nhau.
Tác giả luận văn đã tiếp thu, kế thừa thành quả của các công trình nghiên cứu của
các nhà khoa học, các tác giả đi trước, kết hợp với những kiến thức do chính bản thân sưu
tầm, tích lũy chọn lọc trong quá trình học tập, công tác và khảo sát thực tế về tín ngưỡng
thờ Mẫu tại các trung tâm thờ Mẫu, chúng tôi muốn nghiên cứu và làm sáng tỏ thêm về tín
ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ hiện nay.

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn


* Mục đích:
Trên cơ sở khảo sát, đánh giá thực trạng, đặc điểm và vai trò của tín ngưỡng thờ
Mẫu, nhằm đưa ra những giải pháp, kiến nghị phát huy những giá trị tích cực và khắc phục
những hạn chế trong tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ hiện nay.
* Nhiệm vụ:
Để đạt được mục đích trên, luận văn cần thực hiện một số nhiệm vụ cơ bản sau:
-Làm rõ khái niệm, nguồn gốc, đặc điểm và vai trò của tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng
bằng Bắc bộ.
- Khảo sát, nghiên cứu, đánh giá và rút ra một số nhận xét trong tín ngưỡng thờ
Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ.
- Đưa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm phát huy những giá trị tích cực và hạn
chế những ảnh hưởng tiêu cực của tín ngưỡng thờ Mẫu tới đời sống xã hội Việt Nam hiện
nay.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu


Tín ngưỡng thờ Mẫu ở nước ta đã có từ rất lâu, nó đã bám rễ ăn sâu vào đời sống
tinh thần của người dân từ Bắc vào Nam. Vì thời gian và trình độ hạn chế với đề tài này,
tác giả luận văn xin được giới hạn:
- Đối tượng nghiên cứu: Tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ với những đặc
điểm, vai trò của nó.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Không nghiên cứu nữ thần và nghi thức thờ cúng, lễ hội của tín ngưỡng thờ Mẫu.
+ Không gian: Nghiên cứu thực trạng trung tâm thờ Mẫu Phủ Dầy, Phủ Tây Hồ ở
đồng bằng Bắc bộ và Đền Sòng (Đền Sòng cũng là một trung tâm thờ Mẫu Liễu Hạnh, có
quan hệ mật thiết với Phủ Dầy và Phủ Tây Hồ. Tỉnh Thanh Hóa còn là tỉnh nằm liền kề vùng
đồng bằng Bắc bộ).
+ Thời gian: Kể từ khi có nghị quyết 24- NQ/TW của Bộ chính trị về tăng cường
công tác tôn giáo trong tình hình mới năm 1990 cho tới nay.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu


* Cơ sở lý luận:
Dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan
điểm, đường lối, chính sách của Đảng, Pháp luật của Nhà Nước về tín ngưỡng, tôn giáo
…làm cơ sở lý luận chung cho toàn luận văn.
* Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn quán triệt những nguyên tắc phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử trong nghiên cứu; đồng thời sử dụng những phương pháp khác như:
điều tra khảo sát, thống kê và tổng hợp, phương pháp lôgíc, lịch sử, điền giã…để đạt mục
đích và thực hiện những nhiệm vụ mà luận văn đã đặt ra.

6. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn
Luận văn tổng hợp, khái quát hóa những đặc điểm và vai trò của tín ngưỡng thờ
Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ.
Dự báo xu hướng biến đổi của tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ trong
những năm tới.
Từ góc độ nghiên cứu lý luận, khảo sát thực tiễn tác giả luận văn bước đầu đưa ra
những giải pháp và kiến nghị cơ bản nhằm phát huy những giá trị tích cực và hạn chế tiêu
cực đối với tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ.
7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn góp phần nhận diện tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ với đặc
điểm của nó.
Luận văn giúp cho người đọc hiểu thêm về tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ
và nét sinh hoạt văn hóa dân gian truyền thống đậm đà bản sắc dân tộc của người Việt
Nam.
Ngoài ra, luận văn còn là nguồn tài liệu tham khảo cho trường chính trị các tỉnh, các
Học viện khu vực và những người làm công tác quản lý văn hóa, nghiên cứu, giảng dạy về
tín ngưỡng, tôn giáo.
Thông qua nội dung luận văn, giúp cho các nhà quản lý hiểu thêm một phần nào đó
nhằm phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức trong thờ Mẫu. Đồng thời, hạn chế những
mặt tiêu cực của loại hình tín ngưỡng này.

8. Kết cấu luận văn


Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn có 3
chương, 9 tiết.
Chương 1
Tín ngưỡng thờ mẫu ở đồng bằng bắc bộ

1.1. Khái niệm, nguồn gốc hình thành và các loại hình tín ngưỡng thờ mẫu ở
đồng bằng Bắc bộ
1.1.1. Khái niệm tín ngưỡng thờ Mẫu
Để tìm hiểu khái niệm tín ngưỡng thờ Mẫu, trước tiên ta phải tìm hiểu sơ qua khái
niệm tín ngưỡng, tôn giáo là như thế nào? bởi vì hiện nay các nhà khoa học vẫn chưa có
một quan điểm thống nhất xem thờ Mẫu là tín ngưỡng hay tôn giáo.
Chủ nghĩa Mác- Lênin coi tín ngưỡng, tôn giáo là một loại hình thái ý thức xã hội
phản ánh một cách hoang đường, hư ảo hiện thực khách quan. Điều này đã được
Ph.Ăngghen khẳng định: “Tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo vào
trong đầu óc của con người” [31, tr.437].
Chủ nghĩa duy tâm khách quan cho rằng: Tín ngưỡng, tôn giáo là một sức mạnh
thần bí, thuộc lĩnh vực "tinh thần" tồn tại vĩnh hằng, là cái chủ yếu đem lại sinh khí, sức
mạnh cho con người. Đại diện cho trường phái này là Platon, Hêghen…
Đối với các nhà thần học như Tômat Đacanh, Etôrotcho… xem tín ngưỡng, tôn giáo
là niềm tin vào cái thiêng, cái huyền bí, ở đó chứa đựng những yếu tố siêu nhiên, nó có
một sức mạnh, một quyền lực to lớn có thể cứu giúp con người khỏi khổ đau và có được
hạnh phúc và sự bình yên.
Tín ngưỡng và tôn giáo có sự khác nhau, song lại có quan hệ mật thiết mà ranh giới
để phân biệt chúng chỉ là tương đối.
Tín ngưỡng là một khái niệm rộng hơn khái niệm tôn giáo.Trong giáo trình Chủ
nghĩa xã hội Khoa học có viết:
Tín ngưỡng là niềm tin và sự ngưỡng mộ của con người vào một hiện
tượng, một lực lượng, một điều gì đó và thông thường để chỉ một niềm tin tôn
giáo. Còn tôn giáo thường được hiểu là một trong những hình thức tín ngưỡng
có quan niệm, ý thức, hành vi và các tổ chức tôn giáo [19, tr.449].
Về mặt thuật ngữ tín ngưỡng, tôn giáo hiện nay trên thế giới được sử dụng như sau:
Tiếng Việt Tiếng Anh Tiếng Pháp

Tín ngưỡng Belief Croyance(niềm tin)

Tôn giáo Religion Religion

Việt Nam từ trước đến hiện nay, vấn đề tín ngưỡng cũng có nhiều quan điểm khác
nhau.
GS Đặng Nghiệm Vạn, với quan điểm là:
Thuật ngữ tín ngưỡng có thể có hai nghĩa. Khi nói đến tự do tín ngưỡng,
người ngoại quốc có thể hiểu đó là niềm tin nói chung (belief, lelieve, croyance)
hay niềm tin tôn giáo (belief, believe, croyance riligieuse). Nếu hiểu tín ngưỡng là
niềm tin thì có một phần ở ngoài tôn giáo, nếu hiểu là niềm tin tôn giáo (belief,
believer theo nghĩa hẹp croyance riligieuse) thì tín ngưỡng chỉ là một bộ phận chủ
yếu nhất cấu thành của tôn giáo [50tr.76].
Các học giả như Toan ánh, Phan Kế Bính… Xem tín ngưỡng là tín ngưỡng dân gian
với các nghi lễ thờ cúng thể hiện qua lễ hội, tập quán, phong tục truyền thống của dân tộc
Việt Nam.
Có ý kiến khác thì cho rằng nội hàm cơ bản của tín ngưỡng là “Lòng tin, sự
ngưỡng vọng của con người vào một lực lượng siêu nhiên nào đó - một lực lượng siêu
thực, hư ảo, vô hình” [30, tr.6].
Nguyễn Chính cho tín ngưỡng là tâm linh, vì tín ngưỡng và tâm linh là hạt nhân
của tín ngưỡng tôn giáo. Đây là niềm tin, sự trông cậy và yêu quý một thế lực siêu nhiên
mà với tri thức con người và kinh nghiệm chưa đủ để giải thích và lý giải được.
Có một quan điểm khác gần giống như GS. Đặng Nghiêm Vạn. Ông cho rằng: “tín
ngưỡng nếu hiểu theo nguyên nghĩa dịch từ chữ Croyance của tiếng Pháp, thì chỉ có nghĩa
là sự tin vào một điều gì đó, và thông thường hay được dùng để chỉ một niềm tin tôn
giáo(Croyance religieuse)” [38, tr.50]. Cũng theo tác giả này thì “tín ngưỡng ”, nếu xét về
mặt ngữ nghĩa, chỉ là một niềm tin tôn giáo; còn những dạng thức sinh hoạt tâm linh mà
chúng ta thường gọi là “tín ngưỡng”, tức là những dạng thức tôn giáo chưa đạt tới cấp độ
của một tôn giáo hiểu theo nghĩa cấu thành của nó thì các nhà tôn giáo học thường dùng
với thuật ngữ là “sự thờ cúng” hay “sự thờ phụng”, dịch từ chữ Culte của tiếng Pháp hay
chữ Whorship của tiếng Anh.
Trong Hán-Việt từ điển, Đào Duy Anh đã giải nghĩa: Tín ngưỡng là lòng ngưỡng
mộ mê tín đối với một tôn giáo hay một chủ nghĩa.
Ngoài ra, còn có quan điểm cho rằng: “tín ngưỡng đồng nghĩa với tâm linh (niềm
tin thiêng liêng) cũng có nghĩa tâm linh không phải là tôn giáo, tâm linh chỉ là khả năng
dẫn tới tôn giáo” [40, tr.97].
Hay Tín ngưỡng là một hình thái ý thức xã hội, là một nhu cầu của xã hội và
“một khi những nhu cầu ấy chưa được những hình thái của ý thức xã hội hoàn toàn thỏa
mãn thì đối với một số tầng lớp xã hội, tôn giáo- tín ngưỡng vẫn là nguồn gốc của giá
trị, niềm an ủi, sự nâng đỡ về tâm lý…” [46, tr.12].
Hiện nay, Nhà nước ta cũng phân biệt rõ ràng giữa tín ngưỡng và tôn giáo. điều này
thể hiện ngay trong pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo(năm 2004); hay trong Nghị định của
Chính phủ hướng dẫn thi hành một số điều của pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo (2005) …
Trong Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo. ChươngI, điều 3 có qui định như sau:
Hoạt động tín ngưỡng là hoạt động thể hiện sự tôn thờ tổ tiên; tưởng
niệm và tôn vinh những người có công với nước, với cộng đồng; thờ cúng thần,
thánh, biểu tượng có tính truyền thống và các hoạt động tín ngưỡng dân gian
khác tiêu biểu cho những giá trị tốt đẹp về lịch sử, văn hóa, đạo đức xã hội [3,
tr.10].
Hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau về tín ngưỡng và tôn giáo. Giữa tôn giáo
và tín ngưỡng tuy có điểm giống nhau nhưng vẫn có những sự khác biệt, đó là:
- Tôn giáo được hình thành, tồn tại trên cơ sở lý luận chặt chẽ và có tính hệ thống
cao. Nghi lễ trong tôn giáo được thực hiện mang tính bắt buộc đối với tín đồ, được duy trì
thường xuyên, cùng với những qui định khác. Còn tín ngưỡng được hình thành và tồn tại
dựa trên cơ sở lý luận chưa chặt chẽ, thiếu tính hệ thống. Cho nên tín ngưỡng phần lớn
mang tính dân gian, gần gũi với đời thường và phần nghi lễ được thể hiện đơn giản, không
bắt buộc đối với người theo.
- ở tôn giáo, niềm tin được đặc biệt đề cao, có thể đó là đức tin, nó đòi hỏi có cách
lý giải mang tính lôgic, hệ thống và được xây dựng trên cơ sở thế giới quan, nhân sinh
quan, ý thức, tình cảm... Còn tín ngưỡng, niềm tin không trở thành đức tin mà niềm tin ấy
mang tính huyền hoặc, mờ ảo, không rõ ràng mà dựa vào sự cảm nhận của chủ thể tín
ngưỡng. Nói cách khác, xét về mặt nào đó thì tín ngưỡng có nội hàm hẹp hơn tôn giáo, bởi
vì tôn giáo nào cũng có tín ngưỡng, niềm tin, đức tin tôn giáo nhưng không phải mọi hình
thức tín ngưỡng đều là tôn giáo.
- Tôn giáo thường có một số yếu tố như: Đấng sáng tạo, kinh sách, giáo chủ, hệ
thống giáo lý, tổ chức giáo hội rất điển hình, có qui mô lớn và theo một hệ thống chặt chẽ. Vì
vậy, tôn giáo là một thực thể xã hội, nó có tác động lớn tới đời sống xã hội, còn tín ngưỡng thì
thiếu các yếu tố này hoặc chỉ là sự thể hiện mờ nhạt, mang tính sơ khai.
Tuy nhiên, giữa tín ngưỡng và tôn giáo cũng có điểm tương đồng sau:
- Tôn giáo và tín ngưỡng đều là sự thể hiện niềm tin, sự ngưỡng mộ của chủ thể con
người vào một thực thể siêu nhiên nào đó như Thượng đế, Thần, Phật, Thánh…và đều bắt
nguồn từ những nguyên nhân xã hội, nhận thức và tâm lý trong quá trình hình thành và tồn
tại. Chủ thể của niềm tin trong tín ngưỡng và tôn giáo là một người, một nhóm người và có
thể là một giai cấp trong xã hội.
- Bản chất của niềm tin trong tín ngưỡng và tôn giáo là khẳng định sự tồn tại và sự
cứu giúp của thần thánh đối với con người. Cho nên, điều cốt lõi của tín ngưỡng và tôn
giáo là niềm tin vào cái siêu thực, đấng thiêng liêng.
- Cả tín ngưỡng và tôn giáo là sự phản ánh hư ảo của ý thức xã hội về tồn tại xã hội,
chịu sự quy định của các tồn tại xã hội, đều có chức năng bù đắp hư ảo, xoa dịu nỗi đau
hiện thực của con người, hướng con người tới sự giải thoát về mặt tinh thần.
Vậy có thể quan niệm tín ngưỡng như sau: Tín ngưỡng là một bộ phận của ý thức
xã hội, là một yếu tố thuộc lĩnh vực đời sống tinh thần, là hệ quả của các quan hệ xã hội,
được hình thành bởi quá trình lịch sử-văn hóa, là sự biểu hiện niềm tin dưới dạng tâm lý
xã hội vào cái thiêng liêng thông qua hệ thống lễ nghi thờ cúng của con người và cộng
đồng người trong xã hội.
Thuật ngữ tín ngưỡng bao gồm: Tín ngưỡng tôn giáo và tín ngưỡng dân gian.
Tín ngưỡng tôn giáo là niềm tin vào lực lượng siêu nhiên theo những nguyên tắc
thực hành tôn giáo nhất định.
Theo GS,TS Phạm Ngọc Quang :
Tín ngưỡng dân gian cũng có thể và cần được xem là một yếu tố, một bộ
phận văn hóa dân gian. Từ quan niệm đó, nếu văn hóa dân gian (folklore) được
hiểu là loại hình văn hóa ra đời nhờ sự sáng tạo của chính nhân dân, thì tín
ngưỡng dân gian cũng có thể xem là loại hình tín ngưỡng tôn giáo do chính
nhân dân - trước hết là những người lao động -sáng tạo ra trên cơ sở những tri
thức phản ánh sai lạc dưới dạng kinh nghiệm cảm tính từ cuộc sống thường nhật
của bản thân mình [30, tr.8].
Tín ngưỡng dân gian còn phản ánh những ước nguyện tâm linh của con người và
cả cộng động, là niềm tin vào thần linh thông qua những nghi lễ, gắn liền với phong tục
tập quán, truyền thống.
Khi đề cập đến sự tương đồng và khác nhau giữa tín ngưỡng với tôn giáo cũng cần
làm rõ sự giống nhau và khác nhau giữa tín ngưỡng với mê tín, mê tín với mê tín dị đoan.
Trong thực tế, việc phân biệt sinh hoạt tín ngưỡng với hoạt động mê tín dị đoan là
không dễ nhưng chúng ta cần cố gắng phân biệt để ứng xử phù hợp.
Từ điển Tiếng Việt năm 1992 của Trung tâm Từ điền Ngôn ngữ- Viện Ngôn ngữ học-
Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn,trang 976 thì định nghĩa:
Mê tín =1. Tin một cách mù quáng vào những cái thần bí, vào những chuyện thần
thánh ma quỉ, số mệnh …
Mê tín=2. Ưa chuộng, tin một cách mù quáng không biết suy xét.
Tuy nhiên tôn giáo và tín ngưỡng đều xây dựng trên những điều “thần bí, huyền
hoặc”, vấn đề là “thần bí, huyền hoặc” đến đâu thì được xem là mê tín, di đoan. Khái niệm
này còn phụ thuộc vào cách nhìn nhận của từng người, từng tôn giáo khác nhau.
Ví dụ: Công Giáo cho rằng tất cả những tôn giáo khác ngoài Công giáo là tà đạo, là
mê tín dị đoan. điều này không đúng; ở một số tộc người thiểu số ở Việt Nam vào ngày
mùng 1 và mùng 2 tết họ tổ chức lên đồng để mừng ngày mới, đây cũng không phải là dị
đoan.
Hay trong Từ điển Tôn giáo do Mai Thanh Hải (Chủ biên) - Nhà xuất bản Từ điển
Bách khoa - Hà Nội 2003 có viết: Mê tín là tin nhảm, tin xằng bậy, không thấy, không hiểu
mà nhắm mắt tin theo mù quáng, tin theo một cách mê muội ….làm hại đến đời sống vật
chất và tinh thần của mọi người.
Cần phân biệt và nhận thức đúng vấn đề: Mê tín, dị đoan và mê tín dị đoan.
Thực chất của tín ngưỡng và tôn giáo là mê tín vì đều tin vào những điều không có thực,
nhưng bản chất của tín ngưỡng và tôn giáo là không có dị đoan.
Dị đoan: Là những điều quái lạ huyền hoặc do tin vào những điều nhảm nhí mà có
gọi là dị đoan (dị là khác thường; đoan là lắm mối, nhiều rắc rối, lắm vấn đề).
Tín ngưỡng và mê tín dị đoan có quan hệ chặt chẽ với nhau và giữa chúng là một
ranh giới mỏng manh. Chúng ta nên coi tín ngưỡng chỉ là niềm tin và sự ngưỡng mộ của
một người nào đó vào một hiện tượng, một lực lượng nào đó … mà thông thường được chỉ
một niềm tin tôn giáo. Theo nghĩa rộng, tín ngưỡng bao hàm cả tôn giáo; Theo nghĩa hẹp
tín ngưỡng là đức tin - là một bộ phận cấu thành của tôn giáo.
Dị đoan là hệ quả của mê tín, làm theo những điều quái dị không thật, không hợp lẽ
phải. Dị đoan là mức cao hơn của mê tín. Ví dụ: nghe theo lời “thánh phán” về đốt nhà,
uống nước tàn nhang, nước thải …dẫn đến thiệt hại về tài sản và sức khỏe. Cũng có thể từ
mê tín dị đoan dẫn đến hiện tượng tôn giáo mới, tôn giáo lạ, tà giáo.
Mê tín dị đoan là niềm tin của con người vào các lực lượng siêu nhiên đến mức độ
mê muội, cuồng tín với những hành vi cực đoan, thái quá, phi nhân tính, phản văn hóa. Mê
tín dị đoan thường gây ra hậu quả tiêu cực đến đời sống xã hội. Hiện tượng mê tín dị đoan
thường gắn liền với các hình thức sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo.
Trong các văn bản của đảng ta thì: Mê tín dị đoan là tin một cách mù quáng mê
muội vào những điều mơ hồ dẫn đến những hành vi gây hậu quả tiêu cực đến sức khỏe,
thời gian, tài sản, tính mạng cho cá nhân, gia đình, xã hội và cộng đồng.

* Tín ngưỡng thờ Mẫu


ở Việt Nam đa phần các nhà nghiên cứu tôn giáo cho rằng tín ngưỡng thờ Mẫu là
một loại hình tín ngưỡng dân gian, đã thu hút khá nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên
cứu thuộc nhiều chuyên ngành khác nhau. Nội hàm của tín ngưỡng thờ Mẫu được dùng để
biểu thị sự tôn vinh, một nhân vật nào đó, hay có thể đồng nhất với việc thờ các vị nữ thần
hiển linh, được tôn phong là Mẫu như: Quốc Mẫu, Vương Mẫu, Thánh Mẫu…
Tín ngưỡng thờ Mẫu còn được hiểu theo một nghĩa hẹp hơn đó chỉ là dạng hình
thức tín ngưỡng với tên gọi là Mẫu Tam phủ - Tứ phủ, hình thức thờ cúng những vị Mẫu
cai quản trong vũ trụ.
Vấn đề thờ Mẫu là loại hình gì ? Đã có nhiều câu trả lời khác nhau cho câu hỏi này.
Hiện nay, chưa có cách đánh giá thống nhất về thờ Mẫu nhưng cơ bản có bốn loại ư kiến
đánh giá về thờ Mẫu:
Loại thứ nhất: Xem thờ Mẫu đã và đang trở thành một tôn giáo sơ khai.
Loại thứ hai: Xem thờ Mẫu là một tín ngưỡng dân gian.
Loại thứ ba: Xem thờ Mẫu vừa là tín ngưỡng vừa là tập tục truyền thống.
Loại thứ tư: Xem thờ Mẫu là một Đạo nhưng “Đạo” là con đường, cách thức.
Sau đây, tác giả luận văn xin nêu ra một số quan niệm của các nhà khoa học và các
học giả trong nước về các quan điểm của bốn loại đánh giá thờ Mẫu đã nêu ở trên:
* Quan điểm thứ nhất: Xem thờ Mẫu đã và đang trở thành một tôn giáo sơ khai.
Có quan điểm cho rằng: “Đạo Mẫu trong quá trình nảy sinh, vận động và biến đổi
đã và đang chuyển hóa từ tín ngưỡng nguyên thủy để trở thành một tôn giáo sơ khai” [29,
tr.88].
Và nên khẳng định Đạo Mẫu: “Đã là một tôn giáo chứ không còn là một tín
ngưỡng, kiểu như thờ cúng tổ tiên trong gia đình hay thờ cúng anh hùng dân tộc tại một số
đền riêng lẻ. Đạo Mẫu đã có những hoạt động mang tính đặc trưng tôn giáo” [28, tr.502].
Hoặc: Nếu nhìn tục thờ Mẫu trong cội nguồn và quá trình phát triển có tác giả cho
rằng: “Về phương diện điện thần của Đạo Mẫu ta thấy bước đầu đã được hệ thống hóa,
tiến từ đa thần của tín ngưỡng nguyên thủy đến thần điện của tôn giáo, mà Mẫu giữ vị trí
trung tâm như Đức Phật hay chúa Jêsu” [42,tr.22].
Có lý do để có quan điểm như vậy, bởi vì thờ Mẫu đã từng hình thành một cộng
đồng các tín đồ với các thứ bậc khác nhau. Từ trước những năm 1975 ở Miền Nam đã từng
hình thành một cộng đồng mang tính giáo hội, mang tên Tiên Thiên Thánh Mẫu Giáo, tập
hợp các tín đồ toàn Miền Nam (nhưng sau năm 1975 tổ chức này không còn nữa). Còn ở
Miền Bắc, tuy hình thức thờ Mẫu có từ rất sớm nhưng cũng chỉ hạn chế trong phạm vi các đền,
phủ (Phủ Dầy, Đền Sòng, Phủ Tây Hồ) dù những nơi đó đã trở thành trung tâm thờ Mẫu.
* Quan điểm thứ hai: Xem thờ Mẫu là một loại hình tín ngưỡng dân gian.
Có ý kiến cho rằng tín ngưỡng Mẫu ở nước ta là một tín ngưỡng và tác giả này viết:
“Về mặt tâm linh, cũng như quy mô tín đồ nó đầy đủ yếu tố một tôn giáo, nhưng nó lại
thiếu hẳn một triết thuyết để đủ sức trở thành một tôn giáo hoàn chỉnh [16, tr.276].
Khác với những quan điểm cho rằng thờ Mẫu có thể trở thành một tôn giáo sơ khai,
tác giả Nguyễn Hữu Thông lại có ý kiến là: Tín ngưỡng thờ Mẫu tuy là sản phẩm bản địa
chịu nhiều ảnh hưởng của các loại hình tôn giáo chính thống như Nho, Phật, Lão nhưng
các tôn giáo này đều đã bị dân gian hóa rồi mới bồi đắp vào tòa điện Mẫu. Và tác giả viết:
“ Hình tượng Mẫu hoàn toàn là sản phẩm của loại hình tín ngưỡng dân gian chứ không
phải là một tôn giáo chính thống. Xu thế biến Mẫu thành Tôn giáo chính thống như hiện
nay của một số cá nhân là việc làm trái qui luật, không đúng với tiến trình phát triển…"
[46, tr.53-54].
GS Đinh Gia Khánh cho rằng: “Thờ Mẫu là một tín ngưỡng có nguồn gốc dân gian,
một tín ngưỡng bản địa, khác với các tôn giáo phổ quát” [22, tr.8].
* Quan điểm thứ ba: Xem thờ Mẫu là tín ngưỡng, là tập tục truyền thống.
Theo TS Trương Sĩ Hùng thì: “ Trường hợp tục thờ Mẫu ở Việt Nam biểu hiện rất rõ,
phát triển đến mức gần như một tôn giáo của người Kinh” [22, tr.78].
Tác giả Mai Thanh Hải với quan niệm thờ Mẫu là tục lệ. Tác giả viết: “Tục thờ
Mẫu có sức lan truyền mạnh tới mức nhiều nơi đã lan tỏa mạnh mẽ…” [15, tr.151].
* Quan điểm thứ tư: Coi thờ Mẫu là một Đạo nhưng “Đạo” là con đường, cách
thức chứ không theo nghĩa tôn giáo:
Nhà nghiên cứu văn hóa Nguyễn Đăng Duy khẳng định thờ Mẫu là một tín ngưỡng
và ông cho rằng: “ở đây cũng vẫn hiểu đạo thờ mẫu chưa phải là tôn giáo vì nó không có
tín điều giáo lý, giáo chủ, đạo là con đường, là cách theo” [7, tr.141].
Một số nhà nghiên cứu khác thì gọi là đạo Mẫu. “đạo” ở đây không có nghĩa là một
tôn giáo như đạo Kitô, đạo Phật, đạo Ixlam, mà phải hiểu như là đạo làm con, đạo làm
người, đạo hiếu…. Trong cuốn “tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam” tác giả
Ngô Đức Thịnh viết: “trong công trình này, đây đó chúng tôi sử dụng thuật ngữ “đạo” như
đạo Mẫu, đạo tổ tiên… khái niệm đạo ở đây theo ý nghĩa là “con đường”, “cách thức” đưa
con người đạt tới niềm tin vào cái thiêng liêng, siêu nhiên” [44, tr.17].
Theo quan điểm của tác giả và quan niệm truyền thống, khá phổ biến thì thờ Mẫu vẫn
được coi là một tín ngưỡng dân gian với những lý do cơ bản sau:
Một là, thờ Mẫu được hình thành trong chế độ mẫu hệ, nó bắt nguồn từ thờ nữ thần.
Hai là, thờ Mẫu thiếu những tiêu chí cơ bản để cấu thành một tôn giáo như sáng thế
luận, giáo luật, giáo lý, giáo hội, hệ thống tổ chức….theo nghĩa đầy đủ của nó.
Ba là, trong thờ Mẫu yếu tố niềm tin còn dựa vào sự cảm nhận của chủ thể, chưa
mang tính hệ thống.
Bốn là, trong các văn bản pháp luật của Nhà Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam chỉ thừa nhận có 6 tôn giáo ở Việt Nam hiện nay là: Phật giáo, Công giáo, Hồi giáo,
đạo Tin Lành, đạo Hòa Hảo, đạo Cao đài.
Với bốn lý do trên, trong luận văn này tác giả xin sử dụng thuật ngữ “tín ngưỡng
thờ Mẫu”.
“Mẫu” là xuất phát từ Hán-Việt, còn thuần Việt là Mẹ, Mụ. Nghĩa ban đầu Mẫu
(mẹ) đều chỉ người phụ nữ sinh ra con. Mẫu (mẹ) còn có ý nghĩa tôn vinh, tôn xưng như
Mẫu nghi thiên hạ, Mẹ Âu Cơ, Mẫu Liễu Hạnh, Mẫu Thượng Ngàn…
Vậy có thể hiểu: Tín ngưỡng thờ Mẫu là một loại hình tín ngưỡng bắt nguồn từ tín
ngưỡng thờ nữ thần(nhưng không phải tất cả nữ thần đều là Mẫu),là một bộ phận của ý thức
xã hội, được hình thành từ chế độ thị tộc mẫu hệ, để tôn vinh những người phụ nữ có công với
nước, với cộng đồng tiêu biểu cho những giá trị tốt đẹp về lịch sử, văn hoá, đạo đức xã hội
làm Thánh mẫu, Vương mẫu… và qua đó người ta gửi gắm niềm tin vào sự che chở, giúp đỡ
của các lực lượng siêu nhiên thuộc nữ thần.

1.1.2. Nguồn gốc hình thành và các loại hình tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng
Bắc bộ
1.1.2.1. Nguồn gốc hình thành của tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ
Tôn giáo, tín ngưỡng nói chung và tín ngưỡng thờ Mẫu nói riêng cũng ra đời từ
nguồn gốc kinh tế-xã hội, nhận thức và tâm lý tình cảm.
Theo quan điểm Mác-xít thì tín ngưỡng, tôn giáo là một hiện tượng lịch sử xã hội,
là một bộ phận của ý thức xã hội. Cho nên, nó có quy luật hình thành, tồn tại và phát triển
riêng, được nảy sinh trên cơ sở kinh tế-xã hội nhất định, chịu sự quy định của tồn tại xã
hội.
Chúng ta đã biết cho đến thời trung kỳ đồ đá cũ mới bắt đầu xuất hiện nghi lễ mai
táng người chết của người Neandectan và lúc này mầm mống của tôn giáo cũng xuất hiện
và nó chỉ xuất hiện khi con người bắt đầu biết quan sát. Thời kỳ này, ý thức về tổ tiên là
một yếu tố của ý thức công xã nguyên thủy, phản ánh sự bất lực của con người trước sức
mạnh của tự nhiên. “Từ đó nảy sinh ra hàng loạt các hình thái đặc biệt của tôn giáo nguyên
thủy như sùng bái tự nhiên, ma thuật, chủ nghĩa tô tem” [4, tr.8].
Trong xã hội nguyên thủy, con người cũng biết tạc tượng bằng nhiều chất liệu khác
nhau như sừng, ngà voi… chủ đề của tượng cũng rất đa dạng từ những con vật thân thuộc
hàng ngày đến con người và “đặc biệt là tượng phụ nữ-tượng trưng cho sự bảo tồn và phát
triển của thị tộc và của giống nòi” [4, tr.10].
ở một giai đoạn lịch sử nhất định, sự nhận thức của con người về thế giới khách
quan là có giới hạn. Song ở thời kỳ lịch sử cụ thể thì khoảng cách giữa “biết” và “chưa
biết” vẫn tồn tại. Nhận thức là một quá trình phức tạp và đầy mâu thuẫn. Theo Lênin :
“Nhận thức phát triển theo đường xoắn trôn ốc, đường ngoằn nghèo. Bất cứ một sự xơ
cứng phiến diện, thẳng tuột nào cũng có thể dẫn đến chủ nghĩa duy tâm [32, tr.57].
Sự phát triển của trình độ nhận thức, trình độ tư duy của người nguyên thủy nên con
người mới có ý thức về thế giới xung quanh. Chúng ta biết rằng, không phải ngay khi con
người xuất hiện thì tín ngưỡng cũng xuất hiện, ngược lại tín ngưỡng chỉ ra đời trong một
hoàn cảnh lịch sử nhất định, khi mà khả năng trừu tượng hóa của con người đạt đến một
trình độ nhất định, trình độ sản xuất đạt tới mức nào đó và khái niệm “Sợ”có từ khi con
người biết sấm, sét, lũ lụt, hạn hán…
Sự thờ cúng của thị tộc mẫu hệ ở các bộ lạc Bắc Mỹ còn thể hiện ở bộ lạc người
Xerin theo Tôcarev: “Với chế độ mẫu quyền thể hiện rất rõ nét, có thể thấy được một vài
yếu tố của sự thờ cúng các phụ nữ đã chết, nói cho đúng hơn là sự sợ hãi trước các phụ nữ
đã chết đó ” [47, tr.297].
Như vậy, tín ngưỡng thờ cúng được sinh ra trong một thời kỳ hết sức nguyên thủy,
nó bắt nguồn từ trong thị tộc mẫu hệ và là sản phẩm của sự kết hợp giữa: ý niệm về linh
hồn người chết, thần che chở cho gia đình và thị tộc (đặc biệt là hình ảnh phụ nữ) và tổ tiên
tôtem.
Ngoài ra, tâm lý và tình cảm của con người cũng là một trong những nguyên nhân
cho sự ra đời hình thức tín ngưỡng. Xét dưới góc độ triết học thì tâm lý, tình cảm là một bộ
phận của ý thức xã hội; tín ngưỡng, tôn giáo được hình thành trên cơ sở của tâm lý, tình
cảm con người và cộng đồng người trong xã hội. Con người luôn tự hỏi về nguồn gốc của
mọi sự vật, hiện tượng cũng như số phận của con người. Về những vấn đề này thì đôi khi
những giải đáp khoa học hay triết học chưa đủ thỏa mãn, trong tình hình đó thì tín ngưỡng,
tôn giáo lại có thể đem lại cho con người một lời giải thích không chính xác, nhưng có sức
hấp dẫn, thuyết phục bởi nó có tính huyền bí, tính lôgíc của nó.
Tín ngưỡng, tôn giáo hình thành trên cơ sở niềm tin vào những sức mạnh siêu
nhiên, sự che chở…của các thần, thánh…. Xét về mặt tư duy lôgíc của lý trí thì niềm tin ấy
là phi lý, song lại có lý vì nó bắt nguồn từ ước muốn mang tính bản năng của con người.
Con người có nhu cầu là được tâm sự, giải tỏa những bức xúc trong đời sống tinh
thần và luôn có nhu cầu vươn tới một cuộc sống tốt đẹp. Vì thế, họ cần rất nhiều thứ ngoài
vật chất, lý trí, đạo lý truyền thống…đó là sự thiêng liêng, “bù đắp hư ảo”. Điều đó chỉ có
ở tín ngưỡng, tôn giáo.
Chúng ta phải nghiên cứu đến một khía cạnh tâm lý khác của con người đó là lòng
biết ơn đến công sinh thành, sự kính trọng, tình yêu thương… đó chính là điều mà chế độ
mẫu hệ tồn tại dai dẳng trong đời sống các dân tộc, hay bắt nguồn từ hình tượng tôn thờ
giới nữ, phản ánh vai trò của người mẹ, người mẹ là biểu tượng cho sự bảo tồn sinh sôi
giống nòi.
Trên đây là một số nguyên nhân để dẫn đến sự ra đời của một hình thức tín ngưỡng
nói chung, còn tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ thì ra đời trong một hoàn cảnh,
điều kiện mang đặc thù riêng.
Tín ngưỡng thờ Mẫu là một tín ngưỡng có nguồn gốc bản địa và: “ có thể là tín
ngưỡng sớm nhất của con người Việt trước khi du nhập tam giáo Phật, Nho và Đạo” [15,
tr.145].
Cho tới nay, tín ngưỡng thờ Mẫu ở nước ta chưa biết chính xác có từ khi nào,
nhưng có ý kiến cho rằng: “ Người ta tin mẹ thần linh này đã xuất hiện từ buổi hồng hoang
hay ít nhất là từ lúc người Việt khai thác đồng bằng Bắc bộ [40, tr.100].
Có thể nhận định tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt xuất hiện vào khoảng thế kỷ
thứ III hoặc thứ II trước công nguyên. Bởi vì Phật giáo là tôn giáo nước ngoài đưa vào
Việt Nam sớm nhất, có tác giả đã viết: “có tài liệu nói đạo Phật vào ta khoảng thế kỷ thứ
III trước công nguyên, dưới thời vua A-Dục” [14, tr.141].
Ngoài ra, theo TS. Trần Đăng Sinh thì: “Đến thế kỷ thứ III, II trước công nguyên
đỉnh tam giác châu thổ sông Hồng (vùng Đông Anh- Hà Nội và Từ Sơn - Bắc Ninh) đã là
địa bàn chung sống của người Âu Việt và Lạc Việt ” [36, tr.63].
Tín ngưỡng thờ Mẫu ra đời ở Việt Nam còn xuất phát từ nền văn minh nông
nghiệp lúa nước điển hình, thờ Mẫu nảy nở trên một miền đất nhiều đời trồng cây lúa
nước. Đối với dân cư nông nghiệp thì hình ảnh người mẹ từ việc hái lượm đã tìm ra hạt lúa
để từ đó trở thành hồn lúa như một tác giả đã nhận xét: “Trong các loại cây trồng, lúa là
cây duy nhất trong thời kỳ làm đòng được các tộc người ở Đông Dương gọi là có chửa
(Việt) = bun(cơ ho) = mtian(Giarai) như người mẹ; là cây duy nhất được coi có hồn (Việt)
= soan(Cơho)…” [13, tr.196].
Cuộc sống nông nghiệp luôn coi trọng yếu tố Đất(Mẹ) - yếu tố âm và đối lập với
yếu tố Trời (Cha)- yếu tố dương. Vì thế, trong tâm thức tín ngưỡng của người dân vai trò
bà mẹ- yếu tố nữ đã tạo nên ấn tượng sâu nặng trong nhân dân. Cũng chính từ đây, nữ thần
Mẹ Lúa là tín ngưỡng chung của hầu hết dân cư các tộc người trồng lúa nước mà ngày nay
vẫn còn thấy tồn tại ở nhiều tộc người thiểu số miền núi nước ta.
Người và vạn vật sinh sôi nảy nở thì khái niệm Trời - Đất, Âm - Dương được hình
thành trong tư duy nguyên thủy thô sơ. ở Việt Nam cũng biểu hiện khá rõ niềm tin “Vạn
vật hữu linh” của chính họ. Vì vậy, “ Các thần trời, thần núi, thần sông…xuất hiện khá
sớm và ngự trị trong đời sống tâm linh của hầu hết các tộc người” [21, tr.77].
Việt Nam là một quốc gia nằm ở vùng Đông Nam á, có đồi núi, đồng bằng, có sông
có biển, có khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm… Vì vậy có điều kiện để nông nghiệp lúa
nước được phát triển, khái niệm Đất, Nước được định hướng và gắn chặt với nữ thần (mẹ),
với tộc người, với quê hương xứ sở.
Tín ngưỡng thờ “mẹ” bắt nguồn từ thời kỳ Mẫu hệ, nhưng ở Việt Nam nói chung và
ở đồng bằng Bắc bộ nói riêng, người phụ nữ có vị trí đặc biệt hơn so với các nơi khác.
Người phụ nữ đảm nhận hầu hết những công việc từ nội trợ, chăm lo việc cấy hái trong
công việc đồng áng lại kiêm luôn là người tiểu thương chạy chợ lo cung -tiêu cho gia
đình… Cũng chính từ nơi này, để khai thác triệt để tính đa dạng của địa hình và môi
trường sinh thái, người dân ở vùng đồng bằng Bắc bộ ngoài việc sản xuất nông nghiệp là
chính, còn biết làm những ngành nghề kinh tế khác. Từ rất sớm, ở đồng bằng Bắc bộ đã ra
đời những làng nghề truyền thống và cũng chính nhờ đó xuất hiện các mẹ là tổ sư các
ngành nghề.
đồng bằng Bắc bộ là một trong những vùng văn hóa độc đáo và đặc sắc trong sự
phong phú và đa dạng của nền văn hóa Việt Nam. Nó được kiến tạo bởi hệ thống sông
Hồng và sông Thái Bình bao gồm phần bằng, phần trũng của các tỉnh, thành phố: Hà Nội, Hải
Dương, Hà Tây, Hưng Yên, Nam Định, Hà Nam, Thái Bình, Ninh Bình, Bắc Ninh, Bắc
Giang, Quảng Ninh và Vĩnh phúc.
Người Việt xưa kia sống nhờ vào thiên nhiên rất nhiều, nhưng cũng phải chống
chọi nhiều với thiên nhiên. Do đó, con người luôn cầu mong sự phù hộ, giúp đỡ của các
“Mẹ” thiên nhiên và các Mẫu có nguồn gốc nhiên thần cũng lần lượt ra đời.
Với Mẫu Thoải (mẹ của lực lượng sáng tạo ra mọi sông nước) có rất nhiều dị bản
huyền tích về Mẫu Thoải khác nhau. Nhưng tựu chung đó là “Mẫu” trị vì sông nước, xuất
thân từ dòng dõi Long Vương - Thần Long.
Các huyền thoại, sự tích về Mẫu Thoải đến nay chưa được rõ ràng vì mỗi nơi hiểu
theo một cách. Tuy nhiên, lại có những điểm chung cơ bản. Mẫu Thoải có nguồn gốc thủy
thần, ít nhiều gắn với Lạc Long Quân, Kinh Dương Vương, Kinh Xuyên là những nhân vật
nửa huyền thoại, nửa lịch sử là thủy tổ tộc người Việt chúng ta. Hiện nay, tại Tuyên Quang
người dân đã: “Suy tôn bà là Mẫu Thoải (Mẹ nước), lập đền thờ ở Tuyên Quang gọi là đền
Giùm, nay thuộc Yên Sơn, trên hữu ngạn sông Lô” [35, tr.122].
Mẫu Thượng Ngàn cũng có nhiều dị bản và truyền thuyết khác nhau, nhưng tựu
chung lại thì Mẫu Thượng Ngàn là con hay cháu Vua Hùng và đã được hiển thánh làm vị
thần bảo hộ cho núi rừng, bản làng. Mẫu Thượng Ngàn là hóa thân của Thánh Mẫu trông
coi miền rừng núi, địa bàn chính sinh sống của nhiều dân tộc thiểu số, đền thờ Mẫu
Thượng Ngàn có ở khắp nơi, nhưng có hai nơi thờ phụng chính là suối Mỡ (Bắc Giang) và
Bắc Lệ (Lạng Sơn).
Như vậy, các Mẫu được nhập vào một số nhân vật ít nhiều gắn bó với các nhân vật
nửa lịch sử, nửa huyền thoại của lịch sử dân tộc buổi đầu dựng nước và giữ nước, để các
Mẫu có tiểu sử. Mẫu Thượng Thiên-cai quản lực lượng sáng tạo ra miền trời, chủ của mọi
vòng quay thời gian, thời tiết và khí hậu theo mùa và ở trên tận trời xanh nên ít được nhắc
đến. Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Thoải thì được lịch sử hóa, truyền thuyết hóa với nhiều dị
bản khác nhau và “Các quan niệm xô bồ lẫn lộn trong dân gian là bình thường, không lấy
gì làm lạ [23, tr. 89].
Xuất phát từ những truyền thuyết trên thì Mẫu Thoải ra đời sớm hơn Mẫu Thượng
Ngàn. Bởi vì, Mẫu Thượng Ngàn gắn với thời Hùng Vương(là con trai của Lạc Long Quân
và là cháu của Kinh Dương Vương), còn Mẫu Thoải thì gắn với thời Kinh Dương Vương,
Lạc Long Quân.
Đại Việt sử ký toàn thư có viết: “ Kinh Dương Vương lấy con gái của Động Đình
Quân tên là Thần Long, sinh ra Lạc Long Quân” [12, tr.62].
Có một tài liệu viết về ngôi đền thờ Mẫu cổ nhất nước ta là:
Ngôi đền cổ nhất nước ta phải chăng là đền thờ Mẫu, thường gọi là đền
Tiên ở ngã ba Hạc, nơi hợp lưu ba dòng sông Hồng - Lô - Đà, theo truyền thuyết
là nơi Kinh Dương Vương lập nước Hùng, chọn xây Tiên Cát Cung cho Thứ phi
Ngọc Nương ở. Khi bà hóa, biến thành đền thờ “ Thủy tổ Quốc mẫu Thần Long
Hồng Đăng ”, tự là Thanh Minh, húy là Ngàn, hiệu là Từ Phú, mẫu là hoàng hậu
nước Xích Quỷ, vợ vua Kinh Dương Vương, mẹ vua Lạc Long Quân, hàng năm
giỗ ngày 10 tháng 10 [15, tr.155-156].
Ngôi đền có thể là ngôi đền thờ Mẫu cổ nhất, được tác giả Mai Thanh Hải tìm hiểu
và ghi nhận là: “Năm 1949, đền bị súng đạn quân Pháp tàn phá; năm 1965-1966, bom Mỹ
lại hủy nốt móng nền di tích. Cho đến nay đã cơ bản dựng lại đền ở ngã ba sông Hồng đón
sông Lô chảy xuôi…” [15, tr.156].
Dựa vào các tài liệu trên, mặc dù tác giả luận văn chưa có điều kiện đi khảo sát thực tế
ngôi đền, nhưng có thể tạm đưa ra một nhận xét là: Rất có thể ngôi đền cổ nhất mà nhà nghiên
cứu Mai Thanh Hải viết trên là đền thờ Mẫu Thoải.
Có thể nói rằng, Mẫu Thoải và Mẫu Thượng Ngàn là khởi nguồn cho tín ngưỡng
thờ Mẫu sau này, gắn với con người từ khi còn cư trú ở vùng rừng núi. Tác giả Nguyễn
Đăng Duy cho rằng: “Những ngôi đền, miếu thờ mẫu này thường ở ngã ba sông hoặc dọc
ven sông, trên con đường di chuyển dần xuống trung du đồng bằng” [7, tr.133].
Mẫu Địa ở đồng bằng Bắc bộ hiện nay, có những quan điểm và cách giải thích khác
nhau. Nhưng theo quan niệm trong dân gian, quan điểm của một số nhà nghiên cứu và tác
giả luận văn thì: Mẫu Địa - Mẫu Đệ tứ, “do quyền năng của Mẫu địa cực kỳ to lớn bao
trùm, bàng bạc khắp tất cả núi rừng sông biển, nên sự tồn tại của cõi Thượng Ngàn, Thủy
Phủ thì đã hàm chứa luôn cả phủ địa” [46, tr.111].
Mẫu Địa có những quyền năng to lớn. Đất là nguồn sinh nở bất tận, nó gắn liền với
nền văn minh nông nghiệp lúa nước. Đối với con người từ xa xưa cho đến tận ngày nay,
đất sản xuất ra các hình thái sinh sống và cũng chính đất là nơi gửi người chết vào khi an
nghỉ …Chính vì thế Mẫu Địa đương nhiên tồn tại trong vũ trụ.
Thánh Mẫu Liễu Hạnh thường được đồng nhất với Mẫu địa- địa Tiên Thánh Mẫu vì
cốt lõi ban đầu, những yếu tố cơ bản của địa Tiên Thánh Mẫu là người trần lấy vợ tiên.
Trong tâm thức người dân Việt Nam, Mẫu Liễu Hạnh là:
“Mẫu Thượng Thiên” - Mẹ ở trên trời giáng xuống,
“ Mẫu nghi thiên hạ” - Mẹ của muôn dân,
“Tứ bất tử” trong tín ngưỡng dân gian (Mẫu Liễu Hạnh, Phù Đổng Thiên Vương,
Chử Đổng Tử và Thánh Tản Viên).
Khi Mẫu Liễu Hạnh xuất hiện, không rõ từ khi nào đã trở thành một vị thần chủ đạo
của tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ. “Phủ” trong tín ngưỡng thờ Mẫu mang ý nghĩa rộng và
bao quát, nó ứng với các miền khác nhau trong vũ trụ. Tuy là ra đời sau nhưng Mẫu Liễu
Hạnh lại thường được đặt vào vị trí trang trọng nhất trên ban thờ Mẫu Tứ phủ.
Thánh Mẫu Liễu Hạnh xuất hiện đã có nhiều truyền thuyết khác nhau, bà có thể vừa
là Thiên thần (Tiên) vừa là Nhân thần đối với đời sống trần gian, với cha mẹ, chồng con,
chu du khắp nơi, trừ ác, ban lộc…Mẫu Liễu Hạnh có thể biến thành Mẫu Thiên, có lúc lại
đồng nhất với Mẫu Địa và Mẫu Thoải.
Có nhiều truyền thuyết khác nhau về Mẫu Liễu Hạnh nhưng đa phần cho rằng: Mẫu
Liễu Hạnh vốn là công chúa Quỳnh Hoa bị phạm lỗi do đánh vỡ chén ngọc của Ngọc
Hoàng Thượng Đế, và bị Ngọc Hoàng đày xuống trần gian và đầu thai vào nhà vợ chồng
Lê Thái Công ở Làng An Thái, xã Vân Cát huyện Thiên Bản (nay là Vụ Bản) Nam Định.
Tác giả Nguyễn Duy Hinh với tư cách là nhà nghiên cứu về Đạo Giáo khi nghiên cứu
về Mẫu Liễu Hạnh, Ông cho rằng Mẫu Liễu Hạnh: “ Không phải giáng tiên, không phải trích
tiên, không phải thi tiên mà là Mẫu chăn dắt đàn con” [20, tr.738].
Theo dấu ấn của Đạo giáo thì du tiên và giáng tiên không phải là đầu thai mang xác
người nên không nằm trong Đạo giáo mà chỉ có trích tiên nằm trong dấu ấn của Đạo giáo.
Hiện nay, ở đồng bằng Bắc bộ Mẫu Liễu Hạnh (Vân Cát thần nữ) là nhân vật linh
thiêng, phổ biến của tín ngưỡng thờ Mẫu. Nhiều khi được xếp đứng đầu và là biến thể cao
nhất trong tín ngưỡng “Tam phủ - Tứ phủ”
Mẫu Liễu Hạnh ra đời là sản phẩm của xã hội lịch sử Việt nam, cụ thể hơn đó là
giai đoạn phong kiến Việt Nam thời Lê. Thực tế lịch sử của đất nước khi Mẫu Liễu Hạnh
được sinh ra là: ở đất Vụ Bản giữa không gian các thế lực phong kiến thời Lê (Thanh
Hóa), Trần (Nam Định) mà Mẫu đầu thai sinh vào nhà họ Lê lấy chồng họ Trần, phải
chăng đó là tập hợp sức mạnh oai hùng Trần thắng Nguyên, Lê thắng Minh, mà cũng là
Phật giáo thời nhà Trần còn Nho giáo thời nhà Lê. Tại sao Mẫu Liễu Hạnh lại xuất hiện
trong bối cảnh có lúc xã hội thanh bình có khi loạn lạc, các thế lực phong kiến Lê-Mạc,
Trịnh-Nguyễn phân tranh…
Có thể nói Mẫu Liễu Hạnh ra đời đã làm hoàn chỉnh hệ thống thờ Tam phủ - Tứ
phủ và thể hiện đầy đủ triết lý thờ Mẫu, triết lý theo vũ trụ quan phương Đông.
Từ thờ nữ thần, thờ Mẫu trong quá trình phát triển đến Mẫu Tam phủ - Tứ phủ có sự
ảnh hưởng của Đạo giáo Trung Quốc. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng: Trong tín ngưỡng thờ
Mẫu thì nơi thờ phụng chính của Thánh Mẫu Liễu Hạnh chỉ gọi là “phủ” như Phủ Dầy (Nam
Định), Phủ Tây Hồ (Hà Nội) có thể xuất phát từ khi trong xã hội xuất hiện những phủ Chúa,
cung Vua thời Trịnh - Nguyễn. Còn trước đó không gian thiêng liêng thờ Mẫu chỉ là những ngôi
đền, miếu.
Hiện nay: “chưa ai có thể trả lời chắc chắn Tam phủ - Tứ phủ của Đạo Mẫu có từ
bao giờ” [ 45, tr.30].
Tuy nhiên, “có thể tin rằng Tam phủ có trước Tứ Phủ ” [45, tr.30].
GS. Ngô Đức Thịnh cũng đã đưa ra một mốc thời gian muộn nhất cho sự ra đời của
hình thức thờ Mẫu Tam phủ. Đó là: “Có lẽ muộn nhất cũng là từ thời Lý” [42, tr.18].

1.1.2.2. Các loại hình tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ
Hiện nay, tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam nói chung và ở đồng bằng Bắc bộ nói
riêng rất phong phú và đa dạng, không chỉ là thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh mà xét về mặt
tổng thể, tín ngưỡng thờ Mẫu bao gồm:
Một là, dựa vào các thần tích, sử liệu, nguồn gốc …để phân loại các Mẫu theo:
Thứ nhất, mẫu huyền thoại và Mẫu lịch sử.
- Mẫu huyền thoại như: Mẹ của Phù Đổng Thiên Vương tước hiệu là Đổng Xung Thiên
Thần Vương Mẫu (đền thờ chính ở Thị Cầu - Bắc Ninh); bà chúa Liễu Hạnh tước hiệu là Thánh
Mẫu Liễu Hạnh được thờ ở rất nhiều nơi;…
- Mẫu Lịch sử: Những Mẫu là nhân vật lịch sử có thực sau khi chết vì nhiều lý do
được suy tôn là thánh thần như: ỷ Lan Hoàng Thái Hậu - nguyên phi của vua Lý Thánh
Tông(đền thờ chính ở Gia Lâm - Hà Nội và đền Yên Thái -Hà Nội); bà Phạm Thị Ngọc
Trần -Hoàng Hậu, vợ cả của vua Lê Thái Tổ và là mẹ của Lê Thái Tông.
Thứ hai, Mẫu trong nước và Mẫu nước ngoài.
- Mẫu trong nước như: Mẫu Liễu Hạnh, Mẫu Âu Cơ, Mẫu Man Nương…
-Mẫu Nước ngoài như: Thái Hậu họ Dương và ba công chúa của vua Tống Bình
(Trung Quốc), được tôn phong là Quốc Mẫu Vương bà Tứ vị thánh nương, được thờ ở đền
Cờn (Quỳnh Lưu - Nghệ An); Thiên Hậu Thánh Mẫu người Phúc Kiến Trung Quốc thờ ở
Thành phố Hồ Chí Minh, Quảng Ninh và đền thờ Thiên Hậu cũng có ở: “Tại Hưng Yên
nơi phố Hiến có ba nơi là phố Bắc Hà, Hiến Hạ và Đông Đô quảng hội” [33, tr.211].
Thứ ba, Mẫu nhiên thần và Mẫu nhân thần.
- Mẫu nhiên thần có: Mẫu Thoải, Mẫu Thượng Ngàn, Thần núi Tam Đảo được
phong là Tam Đảo Sơn trụ Quốc Mẫu Thái phu nhân chi thần (Thờ ở đền Tây Thiên trên
núi Tam Đảo), …
- Mẫu nhân thần có: ỷ Lan Hoàng Thái Hậu, Phạm Thị Ngọc Trần -Hoàng Hậu, vợ
cả của vua Lê Thái Tổ và là mẹ của Lê Thái Tông…
Thứ tư, Mẫu có nguồn gốc quyền quý và Mẫu có nguồn gốc bình dân.
- Mẫu có nguồn gốc quyền quý như: Các Thái Hậu, Hoàng Hậu, Công chúa…
những người này có tài năng, đức độ và có công với nước nhà sau khi mất được tôn xưng
là Mẫu như: Mẹ của Vua lê Thánh Tông, Tống Hậu, Thái Hậu họ Đỗ tương truyền là mẹ
của Lý Thần Tông, con gái của Vua Hùng Nghị Vương (đền thờ ở Vĩnh Phú),…
- Mẫu có nguồn gốc bình dân như: Nàng Vũ Thị Khiết người con gái nghèo ở bến
Vũ Điện, huyện Lý Nhân, tỉnh Nam Định, là vợ chàng lính thú Trương Sinh, “Nhưng rồi
phải lấy cái chết để chứng minh cho tấm lòng cao cả ấy của mình. Đời sau thương nàng, lập
đền thờ, tôn là Thánh Mẫu” [32, tr.224].
Bà mẹ của ba người con đều có công giúp Vua Hùng chống giặc được phong là Soa
NươngThánh Mẫu (thờ ở miếu Mạnh Lương- Đông Anh- Hà Nội)…
Thứ năm, Mẫu được thờ theo tước hiệu: Có 3 loại.
- Loại 1: Tước hiệu Vương Mẫu có: Mẹ của Phù Đổng Thiên Vương mang tước
hiệu là Đổng Xung Thiên Thần Vương Mẫu.
- Loại 2: Tước Hiệu Quốc Mẫu có: Bà Âu Cơ, là mẹ của tất cả con dân đất Việt, là
Mẫu của cả nước. Bà Mang tước hiệu Quốc Mẫu Âu Cơ và được thờ ở đền Quốc Mẫu
trong khu vực di tích đền Hùng -Lâm Thao- Phú Thọ
Bà Phạm Thị Ngọc Trần, Hoàng hậu, vợ cả của vua Lê Thái Tổ và là mẹ của Lê
Thái Tông, bà được phong là Cung Từ Quốc Thái Mẫu, sau đó năm 1437 lại truy tôn là
Cung Từ Quang Mục Quốc Thái Mẫu và được thờ ở huyện Lôi Dương- Thanh Hóa.
Hoàng Hậu vua Tống độ Tông (Trung Quốc) được triều đình Phong kiến Việt Nam
tôn phong là Quốc Mẫu cũng nằm trong trường hợp này. Bà được sắc phong là Thượng
đẳng Quốc Mẫu Vương bà Tứ Vị Thánh Nương.
Quốc Mẫu là vị Thần núi Tam đảo được phong là Tam đảo Sơn trụ Quốc Mẫu Thái
phu nhân Chi Thần, thờ ở đền Tây Thiên trên Núi Tam Đảo…
- Loại 3: Tước hiệu Thánh Mẫu có: Thánh Mẫu Man Nương (thờ ở chùa Dâu-Bắc
Ninh); Thánh Mẫu ỷ Lan; Thánh Mẫu Liễu Hạnh; Tứ vị Thánh Nương (Đại Càn tứ vị
thánh Mẫu - Ninh Bình; Đại Càn quốc gia Nam Hải tam tòa Tứ vị hồng thánh nương đại
nương - Nam định; Đại Càn quốc gia Nam hải Tam tòa tứ vị thánh nương - Hà Nội; Nam
Việt Tống triều quốc mẫu tứ vị hồng nương Càn hải linh từ - Hà Nam; Tứ thánh miếu sự
tích - Bắc Ninh); …
Thứ sáu, Mẫu địa phương và Mẫu cả nước.
- Mẫu địa phương: Một số địa phương ở đồng bằng Bắc bộ người ta còn tôn vinh một
số nữ thần địa phương thành những Thánh Mẫu và các Bà cũng được thờ cúng bên cạnh
các vị Thánh Mẫu được thờ trên cả nước.Việc thờ các bà chúa, vua bà, thánh mẫu là hiện
tượng khá phổ biến mà tỉnh Bắc Ninh là một địa phương điển hình: Tại huyện Yên Phong
có bà Chúa Chóa và đền Chóa (xã Dũng Liệt) là vị thần Mẫu của 11 làng Chóa ven bờ
sông Cầu; ở thị xã Bắc Ninh có đền thờ mẹ của Phù Đổng Thiên Vương; ở Từ Sơn (Bắc
Ninh) có thờ Thánh Mẫu Phạm Thị là mẹ của vua Lý Công Uẩn…
- Mẫu được thờ ở cả nước có: Quốc Mẫu Âu Cơ, Mẫu Liễu Hạnh…

1.1.3.2. Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ - Tứ phủ


Ngoài các hình thức thờ Mẫu như đã trình bày ở trên, ở đồng bằng Bắc bộ còn có
một loại hình Thờ Mẫu rất độc đáo và đang tồn tại khá phổ biến đối với người dân ở đây,
đó là tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ - Tứ phủ. Các vị Mẫu trong Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam
phủ - Tứ phủ gồm có: Mẫu Liễu Hạnh, Mẫu Thượng Thiên (Có lúc đồng nhất với Mẫu
Liễu Hạnh), Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Thoải và Mẫu địa.
Trong tâm thức người dân, từ xa xưa đã có sự tôn thờ người mẹ. Mẹ đem lại cho ta
chỗ dựa bằng tấm lòng, vào cánh tay của mẹ … Trong rừng sâu những con thú rất dữ tợn,
bạo tàn mà vẫn vâng lời mẹ Núi. Sóng, gió có thể hung dữ nhưng phải nghe theo lời mẹ
Biển. Từ đó ra đời sự tôn thờ mẹ Rừng, mẹ Nước. Đã có hai mẹ của Rừng và Nước, vậy
tại sao lại không có mẹ của Trời và đã xuất hiện thêm mẹ của Trời. Bà mẹ của Trời với
chức năng quản lý cõi Thiên. Các bà mẹ trên dần dần được ghép cho các huyền thoại, sự
tích để rồi các “mẹ” trở thành Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Thoải và Mẫu Thượng Thiên,
người ta dành cho mỗi bà một phủ, một tòa riêng. Tam tòa ở đây có thể hiểu theo ba
cõi(Trời, Non, Nước).Vì thế xuất hiện tín ngưỡng thờ Mẫu Tam Phủ- Tam tòa Thánh Mẫu.
Đây là thế giới quan dân giã của người Việt từ thời hoang sơ.
Khi có thêm một phủ mới là Địa phủ thì Tam phủ biến thành Tứ phủ, nhưng:
“Không rõ từ lúc nào mà Tam phủ biến thành Tứ phủ ” [42, tr.17].
Từ khi xuất hiện “Mẫu” cai quản từng miền vũ trụ hình thành thì bản thân nó đã
chứa đựng những nhân tố về vũ trụ luận nguyên sơ thêm vào đó là các niềm tin. Từ đó các
điện thờ được dựng lên (có nơi gọi là Tòa) và dần được sắp xếp thành hệ thống và gọi đó
là tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ - Tứ phủ hay Tam tòa tứ phủ.
“Mẫu” có quyền năng sáng tạo vũ trụ duy nhất, nhưng lại hóa thân thành Tam vị,
Tứ vị Thánh Mẫu cai quản các miền khác nhau của vũ trụ:Thiên Phủ (miền trời), Địa Phủ
(miền đất), Thoải Phủ (Thủy Phủ- miền sông biển), Nhạc Phủ (miền rừng núi). đứng đầu
mỗi Phủ là một vị Thánh Mẫu tương ứng với: Mẫu Thượng Thiên - cai quản Thiên Phủ;
Mẫu Địa (địa Tiên Thánh Mẫu) - cai quản Địa Phủ; Mẫu Thoải -cai quản Thoải Phủ và
Mẫu Thượng Ngàn - cai quản Nhạc Phủ. Các Mẫu cai quản các miền vũ trụ có nhiều
truyền thuyết, huyền thoại khác nhau.
Trong quá trình biến đổi, phát triển từ thờ Mẫu đến Mẫu Tam phủ rồi Tứ phủ,
chúng ta chú ý tới giai đoạn từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII, xã hội luôn có những biến
động. Cuộc sống của nhân dân vô cùng khó khăn, bên cạnh đó sự không ổn định là tình
trạng chung cho cuộc sống của mọi tầng lớp xã hội. Từ những lý do trên, người ta mong có
một sức mạnh kỳ diệu để giải phóng con người ra khỏi chế độ phong kiến đang suy yếu,
một xã hội rối loạn và các cuộc khởi nghiã nông dân triền miên. Vì thế, họ cần có một
Mẫu nữa, Mẫu này phải ở cõi nhân sinh mà sự hiện diện của bà ở khắp mọi nơi, mang tính
phổ quát và gần gũi với những con người và họ mong muốn có một nhân vật Thánh Mẫu
có thân phận như một người phụ nữ bình thường. Vào khoảng thế kỷ XVI, vừa là nhu cầu
phát triển nội tại của thứ tín ngưỡng thờ Mẫu có từ trước, vừa là khát vọng của quần chúng
nhân dân, vì thế tín ngưỡng thờ Mẫu bản địa Việt Nam đã thờ thêm một “Mẫu” mang tính
phổ biến đó là Mẫu Liễu Hạnh - quan niệm dân gian thường coi Bà là hóa thân, thậm chí
đồng nhất với Mẫu Thượng Thiên (vì bà là con gái của Ngọc Hoàng Thượng Đế) và có lúc
là Mẫu Địa.
Mẫu Liễu Hạnh ra đời ở thế kỷ XVI, nhưng cho đến nay: “Chưa có tài liệu chính
xác để khẳng định Tứ phủ ra đời từ bao giờ” [25, tr.420].
Cũng có thể từ Tam phủ chuyển sang Tứ phủ là sự thể hiện tư duy trong dân gian,
từ Tam phủ lên Tứ phủ cho đầy đủ về vũ trụ.
Sự xuất hiện của Thánh Mẫu Liễu Hạnh đã làm cho tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ
nâng lên một trình độ cao hơn và toàn diện hơn.
Chúng ta đều biết nếu như từ tín ngưỡng thờ Mẫu đến tín ngưỡng thờ Mẫu Tam Phủ
đã có một sự phát triển từ cụ thể lên phổ quát, thì từ tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ đến tín
ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ lại có sự phát triển ở chỗ tính phổ quát ấy được bổ sung bằng
những quan niệm nhân sinh và vũ trụ, nó thể hiện tính hệ thống cao hơn, đặc biệt là những
nghi thức, lễ hội.
Tác giả Nguyễn Hồng Dương nhận xét rằng: “Mẫu Tam phủ - Tứ phủ bước đầu đã
hình thành một hệ thống thờ cúng trong các đền, phủ, những nghi lễ thờ cúng đã được
chuẩn hóa” [51, tr.561].
Trong điện thần thờ Mẫu Tứ phủ, Mẫu Thượng Thiên đã bị lu mờ bên cạnh Mẫu
Liễu Hạnh. Phải chăng Mẫu Thượng Thiên vì ở quá xa trên tận trời cao nên không gắn với
nhu cầu thực tế, cuộc sống hàng ngày của người dân nên bị lãng quên. Mẫu Liễu Hạnh
xuất hiện đã kéo theo những thần linh trong tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ gần với đời
thường, với trần gian.
Một điều đáng chú ý là đa số trong các điện thờ hiện nay chỉ có Tam Tòa Thánh
Mẫu. Trong đó tượng Mẫu Liễu Hạnh được đặt ở giữa và hai bên là Mẫu Thượng Ngàn và
Mẫu Thoải. Không có tượng Mẫu Thượng Thiên là do theo quan niệm dân gian Mẫu Liễu
Hạnh cũng vốn là con gái của Ngọc Hoàng. Có thể với lý do đó mà Mẫu Liễu Hạnh đồng
thời là hóa thân của Mẫu Thượng Thiên và Mẫu địa (địa Tiên Thánh Mẫu)
Tác giả Nguyễn Thị Nga cho rằng: “Tín ngưỡng Thờ Mẫu Tứ phủ lúc đầu là tín
ngưỡng của người Việt ở Bắc Bộ, sau đó mở rộng ra khắp các vùng trong cả nước” [30,
tr.143]. Đến nay, đã ghi nhận hơn 250 di tích thờ cúng các nữ thần, trong đó số đông được gọi
là Mẫu, Thánh Mẫu, Vương Mẫu, Quốc Mẫu.

1.2. Đặc điểm, vai trò và ảnh hưởng của tín ngưỡng thờ mẫu ở đồng bằng Bắc
bộ hiện nay
1.2.1. Đặc điểm của Tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ
Đất nước ta là một quốc gia trải dài, có rất nhiều vùng miền, vốn đặc điểm khác
nhau về địa lý, lịch sử. Tình hình kinh tế-xã hội-văn hóa-tư tưởng, lối sống và con người
cũng khác nhau nên có ảnh hưởng đến phong cách lối sống, tình hình tín ngưỡng cũng
mang những sắc thái không giống nhau.
Đặc điểm của tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ, vốn xuất phát từ hiện tượng
thờ nữ thần có nguồn gốc từ rất lâu đời của người Việt. Tuy nhiên, không phải tất cả nữ
thần đều là Mẫu. Trong luận văn này tác giả xin chỉ đề cập đến đặc điểm tín ngưỡng thờ
Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ hiện nay.
* Đặc điểm thứ nhất: Tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ mang tính tiểu
nông, dân dã và quần chúng:
Bắt nguồn từ cư dân trồng lúa nước ở vùng nhiệt đới gió mùa, cho nên từ quan niệm
đến lối nghĩ, nếp sống của người Việt về cơ bản thể hiện những đặc trưng của người nông
dân. Cụ thể, trong tiềm thức người ta quan niệm việc tôn thờ thần Đất, thần Lúa, …đều
đồng nhất với Âm và nhân hóa thành Nữ tính- Mẹ.
Có thể nói tín ngưỡng Tứ phủ: “Là tín ngưỡng dân dã của người Việt, lọc bỏ những dòng
chảy bên lề làm méo mó ý nghĩa khởi nguyên, thì đạo Mẫu biểu hiện một phần tư duy nông dân
được kết tụ lại qua quá trình lịch sử” [39, tr.138].
Tín ngưỡng thờ Mẫu có chứa đựng yếu tố “ ma thuật” thu hút mọi người bằng nhiều
hình thái văn hóa dân gian như nhảy múa, bài trí điện thờ rực rỡ không theo một qui định
nào. Nhiều người đi lễ và đến những nơi thờ Mẫu mà không hiểu nơi đó thờ những ai và
có những quyền phép gì? họ đến để cầu xin làm ăn buôn bán có lời (lãi), con cháu được
bình an, tai qua nạn khỏi… Họ cho rằng Mẫu có thể cứu hộ độ trì cho muôn vàn chúng
sinh, không phân biệt sang hèn, giầu nghèo… với nhiều mong muốn và nỗi niềm khác
nhau. Đây là kết quả tất yếu của nền văn hóa nông nghiệp ở trình độ thấp.
Ngoài ra, nơi thờ tự của tín ngưỡng thờ Mẫu có thể rất khiêm tốn, có thể chỉ là một gian
thờ bên cạnh ngôi đền hay ngôi chùa nhỏ nào đó, thậm chí chỉ là một ban thờ khiêm tốn tại một
góc chùa theo kiểu “Tiền Phật, hậu Thánh”…
Tuy nhiên, sinh hoạt tín ngưỡng thờ Mẫu vẫn là loại hình sinh hoạt Văn hóa mang đậm
tính dân dã, bình dân. Một tác giả viết rằng tín ngưỡng thờ Mẫu: “ Có thể phản ánh đậm nét
tâm hồn người Việt, nó có một sức sống mãnh liệt, uyển chuyển, tự điều chỉnh để phù hợp với
mọi hoàn cảnh lịch sử ” [5, tr.18].
Tính dân dã, tính quần chúng của tín ngưỡng thờ Mẫu còn biểu hiện ở chỗ, không
phải học thuộc điều răn, cấm kỵ, không lễ nghi cầu kỳ, phức tạp, không có những giáo
lý…nên nó dễ đi vào quần chúng, dễ chấp nhận.
* Đặc điểm thứ hai: Nơi thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ có tính hỗn dung với các tín
ngưỡng, tôn giáo khác:
Tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ là tín ngưỡng thờ đa thần. Hầu hết các
làng, xã ở đồng bằng Bắc bộ đều có đền, miếu, đình, chùa … Giữa tam giáo(Phật, Nho,
Lão) và tín ngưỡng dân gian, trong đó có tín ngưỡng thờ Mẫu có mối quan hệ chặt chẽ.
Chúng đan xen, thâm nhập vào nhau, cùng tồn tại trong quá khứ và trong hiện tại.
Trong các nơi thờ cúng như đền, phủ, miếu, điện thờ các Mẫu còn có cả một hệ
thống các vị thần linh vốn xuất thân từ những tôn giáo, tín ngưỡng khác như Đạo giáo,
Phật giáo, Nho giáo, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên… trong đó các Thánh Mẫu luôn được
khẳng định ở vị trí trang trọng nhất. Và “ tại cửa Mẫu những buổi hành lễ như vậy qua sự
hiện diện của các vị giáng đồng, những chư vị thuộc đủ mọi dân tộc …” [34, tr.129].
Tín ngưỡng thờ Mẫu là một tín ngưỡng không đóng khung trong một khuôn hình
mà: “ Bung ra nhiều cung cách dáng vẻ, nhiều khi còn mở toang cửa cho các thần thánh
của các tôn giáo, tín ngưỡng khác ùa vào như một liên kết vui vẻ ” [15, tr.154-155].
* Đặc điểm thứ ba: Tín ngưỡng thờ Mẫu mang tính phổ biến:
Tín ngưỡng thờ Mẫu là loại hình tín ngưỡng dân gian. Vì vậy, nó có một vai trò và
vị trí khá quan trọng, đáp ứng nhu cầu trong đời sống thường nhật của một bộ phận quần
chúng nhân dân. Thờ Mẫu có mặt ở khắp mọi nơi trên đất nước ta, từ Bắc vào Nam, từ miền
xuôi đến miền núi, có cả ở đô thị lẫn nông thôn và ở nhiều tộc người. Trong cuốn sách “Các
nữ thần Việt Nam”, bước đầu đã tập hợp và giới thiệu 75 vị nữ thần tiêu biểu của nước ta.
Trong đó có nhiều vị nữ thần được phong là Mẫu, Thánh Mẫu và: “Người xưa cũng đã từng
thống kê được các vị Tiên thuần Việt có tới 14/27 vị tiên nữ”[29, tr.82].
Hiện nay, các Mẫu được thờ dưới nhiều hình thức tôn giáo, tín ngưỡng khác nhau
đó là: Mẫu được thờ ở trong Chùa, Phủ, Đền, Điện, Miếu.
* Đặc điểm thứ tư: Niềm tin trong tín ngưỡng phải được vật chất hóa tức nó được
gửi vào vật tin và nó là niềm tin cảm xúc nên chấp nhận những cái “phi lý” và đây cũng là
đặc điểm của văn hóa dân gian Việt Nam. Vì thế vật được tin cũng chấp nhận yếu tố “phi
lý ” và chuyển hóa thành nhân vật được thờ. Lúc này xuất hiện quá trình thiêng hóa. Quá
trình này thể hiện:
Thứ nhất, huyền thoại hóa các Mẫu, là quá trình gán (biến) cho các nhân vật “Mẫu”
một hoặc nhiều huyền thoại.
Ví dụ: Mẫu Thoải có truyền thuyết cho rằng bà là con gái của Động Đình Quân-
Thần Long là vợ của Vua Kinh Dương Vương sau đó sinh ra Sùng Lãm. Sùng Lãm tự
xưng là Lạc Long Quân.
Truyền thuyết khác lại cho là Mẫu Thoải là vợ hoàng tử Kinh Xuyên, là con gái của
Long Vương ở Động Đình Hồ (Trung Quốc). Bà rất yêu chồng, nhưng bị vợ hai của chồng
là Thảo Mai ghen ghét và vu cáo nên bà bị chồng nhốt vào rừng sâu, thú dữ không làm hại
bà, còn nuôi bà sống. Bà đã gặp và nhờ một nho sĩ chuyển thư cho cha mình, nhờ thế mà
bà được cứu thoát…Người đời tôn bà là Mẫu Thoải, lập đền thờ ở Tuyên Quang.
Thứ hai, lịch sử hóa các Mẫu, là biến các “Mẫu” và các thần linh của tín ngưỡng
thờ Mẫu thành các nhân vật lịch sử gắn với quá trình dựng nước và giữ nước của Dân tộc.
Chẳng hạn, thời Hùng Vương không có vua (một số nhà Khoa học lại cho rằng đó là thời
kỳ công xã nguyên thủy nên không thể có Vua, Vua là từ mượn của thời Phong kiến),
nhưng do ý thức về lịch sử nên đã xây dựng nên những huyền thoại có vua Hùng. Từ
“Hùng” xuất phát từ Hán chỉ người đứng đầu, thủ lĩnh bộ lạc và bắt đầu là chữ “Khun” hay
“Cun” của người Việt Mường.
Thứ ba, địa phương hóa là biến các nhân vật “Mẫu” được thờ là người địa phương.
Ví dụ ở Thuận Thành(Bắc Ninh) có một truyền thuyết Mẫu Âu Cơ sinh ra 100 quả trứng
và nở thành 100 con và đã lập đền thờ Bà ở đó. Hay ở Từ Sơn(Bắc Ninh) có truyền thuyết
và đền thờ Thánh Mẫu Phạm Thị-là mẹ của vị vua khởi nghiệp triều Lý là Lý Công Uẩn;
Bà vợ ba đề Thám(Yên Thế), Cô Chín đồng Mỏ (Lạng Sơn) đều được nhân dân lập đền
thờ và gọi đó là nơi thờ Mẫu.
Thứ tư, trần gian hóa. Các nhân vật Mẫu được thờ không chỉ được xây dựng với
những truyền thuyết, huyền thoại mà còn có cả lý lịch, nguồn gốc là nhân vật có thật trong
nhân gian, có công trạng cụ thể, và được Nhà nước phong kiến phong sắc, biên soạn thần
tích … Chẳng hạn Mẫu Liễu Hạnh là con gái của vợ chồng Lê Thái Công ở xã Vân Cát,
huyện Thiên Bản thuộc trấn Sơn Nam…; Mẫu Thượng Ngàn là con cháu Vua Hùng …
Các “Mẫu” này đã có nguồn gốc xuất thân, với những kỳ tích, công lao gắn với lịch
sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta.
* Đặc điểm thứ năm: Trong tín ngưỡng thờ Mẫu (nhất là thờ MẫuTam phủ - Tứ
phủ), các Mẫu luôn có sự kết hợp đan xen giữa tư duy mang tính vũ trụ luận (trời, đất,
nước), tư duy huyền thoại (thiên thần, sơn thần, thủy thần) và tư duy lịch sử (Lạc Long
Quân, Âu Cơ, Hùng Vương). Ngoài ra, Các “Mẫu” còn được nhân dân tạo cho một lý lịch,
một quyền năng đối với con người. Thông thường các “Mẫu” được người dân gắn cho
những đặc tính siêu nhiên, huyền bí. Ví như Bà Chúa Thượng Ngàn với tư cách là Đức
Thánh Mẫu trong hệ thống Thánh Mẫu, là cốt lõi tinh hoa, là cơ sở triết lý của tín ngưỡng
thờ Mẫu ở Việt Nam. Mẫu Liễu Hạnh, bà có thể che chở, giúp đỡ, trừng phạt.. đối với
người khi tin và đi theo tín ngưỡng Mẫu này.
* Đặc điểm thứ sáu: Văn hóa Việt Nam có nhiều ảnh hưởng của văn hóa ngoại lai
như nền văn hóa ấn Độ, Trung Quốc. Tuy nhiên, tín ngưỡng thờ Mẫu lại là một loại hình
tín ngưỡng mang bản chất thuần Việt mà văn hóa Hán (Trung Quốc) và văn hóa ấn Độ rất
mờ nhạt. Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ - Tứ phủ là hình thức điển hình nhất. Có thể nói,
không ở đâu lại có thể thờ Mẫu của bốn miền như thờ Mẫu của người Việt, trong đó Mẫu
Liễu Hạnh là một nữ thần nhưng lại được xếp một trong “tứ bất tử” của dân gian và nhờ có
sự xuất hiện Mẫu Liễu Hạnh thì tín ngưỡng thờ Mẫu đạt đến trình độ hoàn chỉnh về triết lý
tôn thờ Mẫu.

1.2.2. Vai trò, ảnh hưởng của tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ hiện
nay
Tín ngưỡng thờ Mẫu xuất hiện từ rất sớm, nó đã tồn tại cùng chiều dài lịch sử của
dân tộc. Vì vậy, nó có vai trò, ảnh hưởng đến nhiều mặt của đời sống xã hội.Vai trò, ảnh
hưởng đó ngày nay được thể hiện trong các lĩnh vực sau:
Một là, vai trò, ảnh hưởng của tín ngưỡng thờ Mẫu trong đời sống văn hóa, chính
trị- xã hội.
Việt Nam hiện nay còn tồn tại nhiều loại hình tín ngưỡng, tôn giáo. Trong đó tín
ngưỡng thờ Mẫu thu hút rất nhiều người, các sinh hoạt tín ngưỡng thời gian trước đây diễn
ra bán công khai, nay với chính sách tự do tín ngưỡng và tôn giáo của Nhà nước ta thì nó
trở nên công khai hơn, tự do hơn. Chính vì thế, vai trò và ảnh hưởng của tín ngưỡng thờ
Mẫu đối với chính trị - xã hội càng lớn.
Thực tế cho thấy, nếu một số người trong chúng ta từ một cách nhìn nào đó coi sinh
hoạt tín ngưỡng thờ Mẫu như một thứ trở lực xã hội gây hao tổn thì giờ, tiền bạc …mà đi
đến bài trừ hoặc cấm đoán một cách thái quá loại hình tín ngưỡng dân gian này, có thể dẫn
tới việc vi phạm quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân. Ngược lại, nếu chúng ta để hiện
tượng lợi dụng chính sách tự do tín ngưỡng và tôn giáo của Nhà nước ta để chống lại Nhà
nước, phá hoại sự nghiệp đoàn kết toàn dân, hoạt động mê tín dị đoan …điều này cũng ảnh
hưởng không nhỏ tới đời sống văn hóa - xã hội, dẫn tới những hậu quả khôn lường.
GS,TS Phạm Ngọc Quang cho rằng: “Không chỉ tôn giáo, mà cả tín ngưỡng dân gian
cũng có quan hệ chặt chẽ với chính trị, pháp quyền [30, tr.17].
Việc thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ cũng có những vai trò tích cực đối với cộng
đồng, cho dù nhiều Mẫu chỉ là một nhân vật huyền thoại nhưng vẫn mang tính chất hiện
thực. Thờ Mẫu đã phản ánh được trong lịch sử văn hóa của tổ tiên ta là những cư dân nông
nghiệp trồng lúa nước và vai trò quan trọng của người phụ nữ luôn có vị trí quan trọng
trong gia đình, xã hội và trong đời sống cộng đồng. Có thể nói: “Người tiểu nông Bắc Bộ
đã sử dụng tôn giáo tín ngưỡng truyền thống như chỗ dựa tinh thần không thể thiếu qua
nhiều thế kỷ ” [49, tr.389].
Tín ngưỡng thờ Mẫu đóng vai trò quan trọng trong việc dung nạp các tín ngưỡng,
tôn giáo khác ở Việt Nam. Góp phần trong truyền thống hòa đồng các tôn giáo, tín
ngưỡng: Thánh, Thần, Phật, …đều phù hộ độ trì cho con người. Tín ngưỡng thờ Mẫu với
tư cách là một tín ngưỡng bản địa, còn có sự ảnh hưởng ngược lại đối với tôn giáo ngoại
nhập như Phật giáo, Công giáo…
Tín ngưỡng thờ Mẫu còn có vai trò là liên kết tinh thần giữa những người có cùng
một niềm tin vào các “Mẫu ”, người ta có thể liên kết với nhau đôi lúc rất chặt chẽ trên
nhiều phương diện ngay cả khi họ không cùng ý thức chính trị. Bởi vì, bản thân tín ngưỡng
này đã có sức mạnh cố kết tinh thần mạnh mẽ. Sự cố kế ấy được nâng lên nhờ sự “ linh
thiêng” của các “Mẫu ” và các thần trong tín ngưỡng thờ Mẫu. Nếu tổ chức tốt các sinh
hoạt tín ngưỡng thờ Mẫu ở các vùng, các địa phương sẽ làm tăng cường tình đoàn kết, cảm
thông lẫn nhau một cách sâu sắc hơn giữa các thành phần và các tầng lớp khác nhau trong
xã hội.
Những giá trị văn hóa của Tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ cũng được
xem là có vai trò, vị trí vô cùng quan trọng trong sinh hoạt tín ngưỡng, nếu gạt bỏ những
tiêu cực thì tín ngưỡng thờ Mẫu đã góp phần đáng kể cho bản sắc văn hóa Việt Nam: Từ
truyền thuyết, văn chầu, trang phục trong điện thần đều là nét độc đáo về văn hóa, nghệ
thuật. Ngoài ra, bên cạnh hát chầu văn theo nhạc điệu còn có múa đồng. đó là những di sản
văn hóa dân tộc rất quí giá cần được đánh giá đúng mực, cần bảo tồn và phát triển.
Hai là, vai trò, ảnh hưởng của tín ngưỡng thờ Mẫu đối với đời sống tinh thần và
đạo đức truyền thống của người Việt Nam.
Khi xã hội phát triển toàn diện thì cuộc sống của nhân dân lao động cũng không
ngừng được cải thiện và nâng cao về mọi mặt. Trong đó, tín ngưỡng cũng trở nên không
thể thiếu được đối với một bộ phận cư dân có nhu cầu trong đời sống tâm linh của họ. Tín
ngưỡng thờ Mẫu cũng là một nhu cầu thuộc đời sống tinh thần của một số người.
Từ việc nghiên cứu khảo sát thực trạng văn hóa lễ hội truyền thống của tín ngưỡng
thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ đã cho thấy vai trò của phần “lễ” và phần “hội” trong xã hội
ngày nay là là rất to lớn. Ngoài việc chấn hưng nền văn hóa dân tộc, nó còn lưu truyền
những tinh hoa văn hóa giầu bản sắc địa phương, có tính chất vùng miền…vốn có từ xa
xưa do cha ông để lại cho con cháu sau này. Nó giúp cho thế hệ con cháu đời sau nhớ về
cội nguồn lịch sử dân tộc, ca ngợi Mẹ khởi thủy, Mẹ dạy nghề … bởi vì các Mẹ là anh
hùng văn hóa, anh hùng dân tộc. ý thức về cộng đồng cũng được củng cố thêm trong lễ hội
của tín ngưỡng thờ Mẫu.
Trong tín ngưỡng thờ Mẫu, cái đẹp của lễ hội là đề cao và khuyến khích chính
những phẩm chất tốt đẹp của cộng đồng được thể hiện qua các nhân vật được cử lễ. Các
hình tượng nhân vật trong tín ngưỡng thờ Mẫu thực chất là tinh hoa và thể hiện khát vọng
của cộng đồng tích tụ lại trong đấy mà thôi.
Tín ngưỡng thờ Mẫu còn là nơi gửi gắm niềm tin, hy vọng, là chỗ dựa tâm linh cho
một bộ phận dân cư khi họ tin và đi theo thứ tín ngưỡng này. Ngoài ra, lễ hội trong tín
ngưỡng thờ Mẫu còn mang tính thiêng liêng, phản ánh tình cảm, sự ngưỡng mộ về vai trò
của người mẹ trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong sinh hoạt của tín ngưỡng thờ
Mẫu đã giúp liên kết mọi người, thậm chí vượt ra khỏi giới hạn của tư tưởng định kiến tôn
giáo hoặc sự cục bộ địa phương để cùng hướng về một đối tượng linh thiêng, với một lễ
hội thống nhất. Nó còn phát khởi mối thiện tâm trong mỗi con người trong các mối quan
hệ xã hội.
Biểu tượng của các Mẫu được thờ ở đồng bằng Bắc bộ bao giờ cũng mang một ý
chí kiên cường, sức mạnh tổng hợp để chiến thắng giặc ngoại xâm, thiên tai nhằm xây
dựng và bảo vệ tổ quốc. Đây chính là nét đẹp truyền thống của người Việt Nam. Vai trò và
ảnh hưởng của tín ngưỡng và lễ hội trong tín ngưỡng thờ Mẫu còn được thể hiện qua cách
ứng xử, tấm lòng, tâm hồn thật đẹp của các nhân vật được tôn thờ, nhất là những cái đẹp
của người phụ nữ Việt Nam là một biểu tượng cần được đề cao và luôn ghi nhớ.
Thực tế, khi một ai đó bước chân vào những nơi thờ tự họ đều nghĩ rằng đây là
chốn linh thiêng. Cho nên, tín ngưỡng có thể khơi dậy tính lương thiện và bản chất chân
thành của con người vì họ muốn thể hiện sự tốt đẹp của mình trước những vị thần linh.
Khi con người tin vào một tín ngưỡng hay một tôn giáo nào đó thì người ta tin rằng
với không gian và thời gian linh thiêng đó, mọi lời cầu xin sẽ được thiêng hóa vì đã có các
thánh chứng giám. Họ tin vào điều đó, có thể đời họ chưa thực hiện được, nhưng đời con
cháu họ sẽ đạt được. Trong chiều sâu tâm thức của con người, niềm tin đã đánh thức và
thúc giục họ đến một nhu cầu hiện thực hóa những đối tượng họ tin dưới dạng lý tưởng
nhất. Mặt khác, người Việt luôn tâm niệm rằng con cái được hưởng phúc từ người mẹ nên
có câu “phúc đức tại mẫu”. Vì vậy tín ngưỡng thờ Mẫu đã góp một phần vào việc giáo dục
và hướng con người đến với Chân - Thiện - Mỹ.
Hình ảnh người Mẹ trong tín ngưỡng thờ Mẫu cũng là người Mẹ có công sinh thành
và nuôi dưỡng đàn con:
Một lòng thờ Mẹ, kính Cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con
Và tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ là một loại hình tín ngưỡng dân gian gắn
liền với tập tục, truyền thống văn hóa đạo đức của người Việt Nam.
Ba là, vai trò, ảnh hưởng trong quá trình hội nhập kinh tế và văn hóa Quốc tế.
Chúng ta đã biết, giữa văn hóa với kinh tế- xã hội có một mối quan hệ chặt chẽ với
nhau. Vì vậy, Đảng ta đã đưa ra quan điểm chỉ đạo: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã
hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế -xã hội’’[10, tr.55].
Với những định hướng trên, chúng ta đã đặt Việt Nam trong bối cảnh: “thế giới đã
bước vào nền văn minh mới, văn minh trí tuệ, còn văn hóa không chỉ gắn với phát triển mà
còn có khả năng điều tiết sự phát triển đúng hướng” [8, tr.210].
Khi nước ta thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, đây cũng là điều kiện để cho sự
tích hợp và phát huy mọi tiềm năng văn hóa tinh thần vốn có của dân tộc, là tiền đề cho sự
mở rộng mọi mối quan hệ tiếp xúc, giao lưu, hội nhập văn hóa giữa các vùng, miền trong
và ngoài nước. Con người có cơ hội bày tỏ những tâm tư nguyện vọng của mình, vừa được
giao lưu tình cảm với cộng đồng …Nhưng xuất hiện cùng lúc này là hàng loạt vấn đề đặt
ra do cơ chế thị trường đem lại.
Xu hướng “thương mại hóa” lại ảnh hưởng đến lễ hội dân gian của loại hình thờ
Mẫu. ảnh hưởng của kinh tế thị trường còn bộc lộ đến một số người dân sở tại nơi có đền,
phủ, miếu thờ Mẫu. Họ đến với Mẫu không còn xuất phát từ nhu cầu tâm linh mà bởi nhu
cầu kinh tế.
Thực tế, trong thời đại ngày nay khi mà xu hướng quốc tế hóa, toàn cầu hóa đang
phát triển ở nước ta, hiện đang có nguy cơ lãng quên hoặc không quan tâm đến những giá
trị của tín ngưỡng truyền thống, những sự kiện lịch sử của dân tộc mà ông, cha đã để lại.
Đây là lúc hãy phát huy vai trò, ảnh hưởng của tín ngưỡng dân gian nói chung và tín
ngưỡng thờ Mẫu nói riêng vào phần “lễ” và “hội” để mọi người cùng tham gia những lễ
hội đó. Hạn chế những tác động và du nhập của văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng ngoại lai có
hại cho sự phát triển văn hóa của dân tộc ta. Từ đó, giáo dục lòng yêu nước, truyền thống
lịch sử, văn hóa, truyền thống “uống nước nhớ nguồn” cho thế hệ con cháu và mọi người
dân.
Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đang được thực hiện, nền kinh tế
nước ta đã phần nào khởi sắc. Nhưng một hiện tượng khá nổi bật mà rất nhiều người quan
tâm, ngay cả những quốc gia được coi là phát triển cũng không tránh khỏi đó là sự chênh
lệch khá lớn giữa những người được coi là giầu có và những người còn quá nghèo. Sự bất
bình đẳng đó thường ngày là khoảng cách giữa mọi người có thể tách biệt về thân phận,
địa vị xã hội, các thành phần kinh tế …nhưng với những người tin và đi theo tín ngưỡng
thì khi vào đền, phủ,miếu, chùa đứng trước ban thờ, điện thờ, trước những làn khói hương
thì mọi người đều bình đẳng, dân chủ, không phân biệt giầu nghèo…

1.3. đôi nét về mối quan hệ giữa tín ngưỡng thờ Mẫu với các loại hình tín
ngưỡng, Tôn giáo khác ở đồng bằng Bắc bộ hiện nay
đạo giáo Trung quốc có mặt trong tín ngưỡng thờ Mẫu, đó là hình ảnh của Mẫu
Liễu Hạnh, là tiên từ trên trời phạm lỗi đánh vỡ chén ngọc bị đầy xuống trần gian, đầu thai
thành người mang tên Giáng tiên.
ảnh hưởng của đạo giáo trong tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ - Tứ phủ là khá rõ.
Chúng ta đã biết thời đinh, tiền Lê, Lý, Trần thì Lão giáo là một trong “Tam giáo đồng
nguyên”. Tuy nhiên, đến thời Lê thì Lão Giáo bị suy thoái không thịnh hành như Nho giáo
nhưng triết lý và pháp thuật của đạo giáo Trung Quốc vẫn được lưu hành, việc Vua Lê
Thần Tông cho phép lập ra Nội đạo Tràng. Ngoài ra, có một số vị thánh trong đạo giáo
cũng có mặt trong điện thần Tứ phủ của tín ngưỡng thờ Mẫu như Ngọc Hoàng, Nam Tào,
Bắc đẩu, Thái Thượng Lão Quân. Cùng với nó là các phép thuật của thánh Mẫu Liễu Hạnh

GS. Ngô đức Thịnh cho rằng: “ việc tồn tại phủ thứ tư là nhạc phủ là một nét đặc
thù của Đạo giáo dân gian Việt Nam” [45, tr. 30].
Phật giáo và tín ngưỡng thờ Mẫu cũng có mối quan hệ gắn bó với nhau rất chặt chẽ.
Ngay từ khi du nhập và nước ta, Phật giáo đã tự điều chỉnh để phù hợp với những tín
ngưỡng và phong tục tập quán truyền thống nước ta.
Chúng ta đã biết đến câu chuyện ở đồng bằng Bắc bộ là nhà sư Khâu đà La vô tình
bước qua người nàng Man Nương, sau đó Nàng mang thai sinh ra bé gái sau thành Thạch
Quang Phật và sinh ra hiện tượng Tứ Pháp. Nguồn gốc của hiện tượng Tứ Pháp là nữ thần
Mây - Mưa - Sấm - Chớp. Man Nương trở thành Phật Mẫu Man Nương.
Một chứng minh nữa được dẫn ra rằng giữa Phật giáo và tín ngưỡng thờ Mẫu có
quan hệ với nhau. Sự tích ở “Sùng sơn đại chiến” giữa bà chúa Liễu Hạnh với thuật pháp
Nội đạo Tràng và quân lính triều đình. Cũng tại đây, Bà có uy lực và phép thuật hơn bao
giờ hết, tuy nhiên Tiên chúa vẫn bị lừa và phải biến thành con rồng và trốn vào trong một
giếng nước. Lúc đó Thích Ca Mầu Ni biết chuyện, đáp mây xuống cứu Tiên Chúa và Liễu
Hạnh đã quy phục đức Phật và quy y cửa Phật. Từ đó trở đi Thánh Mẫu tồn tại trong
khuôn viên chùa của khắp đồng bằng Bắc bộ nói riêng và hầu hết làng quê Việt Nam nói
chung một cấu trúc đa phần là “tiền Phật, hậu Mẫu”, cũng có một số ngôi chùa thì ban thờ
Mẫu đặt cạnh với ban thờ Phật (Chùa Bồ đề - Hà Nội), và một số chùa điện thờ Mẫu đặt
trước ban thờ Phật(Chùa Vân Hồ - Hà Nội).Như vậy, tín ngưỡng thờ Mẫu luôn có trong sự
tồn tại của các ngôi chùa thờ Phật ở Việt Nam. Phật - Mẫu có mối quan hệ gắn bó tương
giao và dung hòa, nương tựa vào nhau để cùng tồn tại và phát triển.
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên với tín ngưỡng thờ Mẫu cũng tiếp thu và ảnh hưởng lẫn
nhau. Điện thần của tín ngưỡng thờ Mẫu mang tính gia tộc có mẹ, có Cha, nói cách khác là
có Vua Cha trong tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ - Tứ phủ đó là đức Thánh Trần, nhưng có
khi đức Thánh Trần được đồng nhất với Vua Cha Bát Hải đại Vương thuộc dòng Long
Thần. Ngày giỗ Vua Cha cũng là ngày giỗ đứcThánh Trần. Mẹ là Mẹ Âu Cơ được gọi là
Quốc Mẫu, là mẹ của tất cả con dân đất Việt, là Mẫu của cả nước. Mẹ Âu Cơ được thờ
cúng theo tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên chứ không phải theo tín ngưỡng nào khác. Dân gian
có câu “tháng tám giỗ Cha, tháng ba giỗ Mẹ”. Việc thờ cúng Quốc Mẫu Âu Cơ không như
thờ cúng tổ tiên trong gia đình là lập bàn thờ tại nhà mà là một dạng phóng đại của mô
thức thờ cúng tổ tiên gia đình. Việc thờ cúng mẹ Âu Cơ được đặt ở đền Quốc Mẫu trên
vùng đất Tổ cùng với Vua Hùng. Ngoài ra, giỗ mẹ tháng ba diễn ra ở các ngôi đền thờ
Mẫu,và trung tâm vẫn là Phủ Dầy, nơi giáng sinh cũng là nơi hóa của Thánh Mẫu Liễu
Hạnh vào đúng ngày 3 tháng 3 hàng năm.
Mặt khác theo GS. Ngô đức Thịnh thì : Việc thờ Cô và thờ Cậu trong tín ngưỡng
thờ Mẫu có cội nguồn sâu xa từ việc thờ cúng những người chết trẻ. Bà Cô, ông Mãnh một
yếu tố rất quan trọng trong thờ cúng tổ tiên ở các gia tộc và dòng họ.
Tín ngưỡng thờ Mẫu còn có mối liên hệ với Nho giáo. Nó đề cao “dương sinh” tức
đề cao Phụ quyền (đối lập với chế độ Mẫu quyền của tín ngưỡng Mẫu). Người Việt từ lâu
sống dưới chế độ Phụ quyền cho nên khi xuất hiện Mẫu Liễu Hạnh ở thế kỷ XVI thì họ tìm
thấy một niềm tin thần thánh mà từ lâu đang thường trực trong tâm thức họ, đó là hình ảnh
về người mẹ bao dung, vị tha, che chở cho đàn con, …
Theo quan niệm của Nho giáo thì Cha của Mẫu Liễu Hạnh là ở trên trời và được mẹ
trần gian nuôi dưỡng (mẹ Đất). đất chính là mẹ từ nghìn năm nay được thờ phụng, tôn
kính. Theo thuyết của nho giáo thì trời đất cùng một thể, người là yếu tố nối giữa trời và
đất. Mẫu Liễu Hạnh là yếu tố, là cầu nối giữa trời và đất. Mặt khác, Mẫu Liễu Hạnh lại tài
hoa, thông minh, biết ngâm thơ vịnh nguyệt với tao nhân mặc khách, đàm đạo thơ với các
danh nho như Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan…
Ngoài ra, nhìn vào điện thờ của tín ngưỡng thờ Mẫu chúng ta có thể nhận ra vị trí
của các thần linh và các chư vị thần thánh đã được sắp xếp theo trật tự của một triều đình
phong kiến ảnh hưởng Nho giáo với tam cung, lục viện. Mỗi cõi đều có quyền lực như một
triều đình….
Ngoài ra, tín ngưỡng thờ Mẫu còn có quan hệ với tín ngưỡng Tứ Bất Tử vì Thánh
Mẫu Liễu Hạnh là một trong bốn vị thánh của tín ngưỡng tứ bất tử. Không những thế, tín
ngưỡng thờ Thành Hoàng của Việt Nam cũng có liên quan đến tín ngưỡng thờ Mẫu. Đó là, có
những vị vừa là Mẫu vừa là Thành Hoàng của một số làng như: Bà Mẫu Thoải “nơi chính
được hân hạnh thờ bà làm thành hoàng ở làng Viêm Xá, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh”
[18, tr.46].
Chương 2
tín ngưỡng thờ Mẫu qua khảo sát một số trung tâm thờ Mẫu và những vấn đề đặt ra
hiện nay

2.1. Thực trạng tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng bắc bộ hiện nay
Không một vùng quê nào trên đất nước Việt Nam nói chung và ở đồng bằng Bắc bộ
nói riêng, lại không có những truyền thuyết gắn các bà Mẹ - các nữ thần. Tín ngưỡng thờ
Mẫu là một tín ngưỡng có chiều dài lịch sử cùng với lịch sử dựng nước, giữ nước của dân
tộc ta.
Tín ngưỡng thờ Mẫu đã và đang trở thành vấn đề trung tâm của nhiều cuộc hội
thảo, nhiều công trình nghiên cứu từ trước tới nay trong hệ thống tín ngưỡng dân gian. đó
là Thánh Mẫu Liễu Hạnh - một trong Tứ Bất Tử của người Việt, đại diện cho thế giới tinh
thần, là chỗ dựa cho đời sống tâm linh của con người. Mẫu Liễu Hạnh là Mẫu có quyền uy
lớn nhất trong tín ngưỡng Mẫu Tam phủ - Tứ phủ, là một nhân vật nửa có thật, nửa được
nhân dân xây dựng thêm bằng những truyền thuyết gắn liền với những thời kỳ lịch sử của
dân tộc. Mẫu Liễu Hạnh đã góp phần làm hoàn thiện tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ - Tứ
phủ. Khác với những truyền thuyết về nữ thần và các Mẫu khác, cuộc đời trần thế của
Giáng Tiên quá ngắn. Lúc sống nơi trần thế, là một người phụ nữ bình thường, không có
công lao gì to lớn, nhưng khi chết lại trở thành thánh uy linh, làm được tất cả mọi
thứ…Mặt khác, Mẫu Liễu Hạnh đã có được sự kết hợp với những mức độ khác nhau với
đạo giáo, Phật giáo…
Chúng ta biết rằng, trong dân gian vai trò của Mẫu Liễu Hạnh trong đời sống tâm
linh của người dân rất đặc biệt. Không phải các Mẫu khác trong tín ngưỡng thờ Mẫu
không linh ứng và cứu giúp, phù hộ cho người dân. Tuy nhiên, Mẫu Liễu Hạnh được nhân
dân tôn thờ, ngưỡng vọng hơn bất cứ vị Thánh Mẫu nào khác và việc tôn thờ ấy từ lâu đã
trở thành một hình thức sinh hoạt tín ngưỡng - văn hóa của cả cộng đồng. Thánh Mẫu Liễu
Hạnh đã hội tụ đủ yếu tố Thần Thánh và con người, rất lý tưởng nhưng lại rất hiện thực, ở
rất cao xa nhưng cũng rất gần gũi với con người và là hiện thân của một người phụ nữ bình
thường, dân dã.
Với những lý do trên, trong khuôn khổ luận văn này tác giả luận văn chỉ xin đề cập đến
thực trạng ba trung tâm thờ Mẫu Liễu Hạnh(Mẫu Tứ phủ) hiện nay. đó là: Phủ Dầy (Nam định),
Đền Sòng(Thanh Hóa) và Phủ Tây Hồ (Hà Nội).

2.1.1. Giới thiệu một số trung tâm thờ Mẫu

* Phủ Dầy:
Phủ Dầy là di tích thờ Mẫu Liễu Hạnh - quê hương của Thánh Mẫu Liễu Hạnh.
Phủ Dầy là một quần thể di tích lịch sử văn hóa đã được Nhà nước xếp hạng cấp
quốc gia từ năm 1975.
Phủ “Dầy” hay “Giầy” gắn với những huyền thoại khác nhau về vùng đất, chẳng
hạn:
- Khi gọi Kẻ giầy - Phủ Giầy xuất phát từ truyền thuyết Bà Chúa Liễu Hạnh vì quá
nhớ thương gia đình, chồng con nên đã để lại một chiếc giầy ở trần gian trước khi về
thượng giới hoặc có huyền thoại: Vua đi qua vùng này và nghỉ đêm ở quán hàng của bà
chúa Liễu Hạnh, sau đó được tặng một đôi giầy nên đã lập nơi thờ tự và gọi đó là Phủ Dầy.
- Khi gọi Phủ Dầy còn vì chính nơi này có món bánh dày - giò nổi tiếng, lại có
người cho rằng: Kẻ Dày xuất phát từ nơi có gò đất nổi lên hình bánh dầy trước cửa phủ.
- Phủ Dầy bắt nguồn từ tên một làng cổ “ Kẻ giầy”. Theo “ Sự tích công chúa Liễu
Hạnh ” của Trọng Nội, Xuất bản năm 1959 thì: đời Vua Anh Tông (1557) làng kẻ Giầy đổi
thành xã An Thái gồm: Vân Cát, Vân Cầu, Vân La (Vân đình) và Vân Miếu. đến đời Gia
Long, Vân Cát chia thành 2 xã là Vân Cát và Kim Thái. Sang đời Tự đức (1860) xã An
Thái đổi thành 2 thôn Vân Cát và Tiên Hương xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, Tỉnh Nam
định.
Như vậy, Vân Cát là nơi sinh ra, Tiên Hương là quê chồng và là nơi chôn cất Mẫu
Liễu Hạnh khi Bà qua đời sau lần giáng trần thứ nhất. Phủ Dầy chính là “cái nôi” sinh ra
Thánh Mẫu Liễu Hạnh và là tên gọi chung cho một quần thể các di tích của tín ngưỡng thờ
Mẫu Liễu Hạnh ở huyện Vụ Bản Nam định. Tên di tích được gọi theo địa danh ở địa
phương.
Theo nhà nghiên cứu Bùi Văn Tam trong cuốn “ Phủ Dầy và tín ngưỡng Mẫu Liễu
Hạnh ”( tái bản năm 2004 thì): “Quần thể Phủ Dầy nằm trên địa bàn xã Kim Thái, chủ yếu
là hai thôn Vân Cát và Tiên Hương gồm 19 di tích…” [37, tr.32].
Tại Phủ Dầy có ba di tích lớn, tiêu biểu là Phủ Tiên Hương (còn gọi là phủ chính),
Phủ Vân Cát và Lăng Mẫu Liễu. Những di tích này cũng là di tích trực tiếp thờ phụng
Thánh Mẫu Liễu Hạnh. Ngoài ra, còn hơn chục đền phủ, chùa chiền có liên quan đến Mẫu
Liễu Hạnh. Luận văn này, chỉ xin đề cập đến ba di tích lớn, tiêu biểu liên quan trực tiếp
đến Thánh Mẫu Liễu Hạnh ở tại quê hương Thánh Mẫu trong quần thể Phủ Dầy.
Thứ nhất, Phủ Tiên Hương (phủ chính).
Phủ Tiên Hương thuộc thôn Tiên Hương, nằm cạnh đường giao thông liên xã. Năm
Dương Hóa thứ 8 triều vua Lê Thần Tông (1642) triều đình xuống chỉ cho địa phương xây
đền lợp ngói.Trải qua nhiều lần tu sửa, Phủ Tiên Hương vẫn còn dấu tích của phủ cổ trước
kia.
Năm 1996 Phủ Tiên Hương đã được sửa chữa lớn để thờ phụ thân của Mẫu Liễu
Hạnh và thờ cả đức Thánh Trần. Phủ Tiên Hương còn lưu giữ được một số sắc phong, sớm
nhất là đời Lê Chính Hòa, rồi đến Lê Vĩnh Thịnh, Lê Vĩnh Khánh đầu thế kỷ XVIII.Thánh
Mẫu được tôn là “Mạ vàng công chúa”, “Mẫu nghi thiên hạ”…
Khi đến phủ này, từ xa có thể nhìn thấy rõ vì phủ rất rộng. Từ ngoài bước vào
chúng ta gặp ngay một giếng tròn mang ý nghĩa tụ thủy để tụ phúc, giữa giếng tròn là một
ụ đất làm nơi cắm cờ mỗi khi mùa hội tới. Cán cờ là một cây tre hoặc một cây gỗ cao được
dựng đứng lên, đầu cây buộc một túm lá hoặc một con quạ gỗ với ý nghĩa là thiên sứ của
nhà trời. Cùng với túm lá (con quạ gỗ) là lá cờ thần lớn được treo lên đó. Tiếp đó là một
sân lớn là nơi khi mùa hội tới là nơi biểu diễn xếp chữ và bán hàng lưu niệm, sau sân lớn là
ba phương đình với phương du ở giữa và hai bên phương đình làm nơi gác chuông, gác
trống.
Tiếp tới ba phương đình là một hồ bán nguyệt, xuống hồ bán nguyệt có hai cầu
được lát bằng đá. đối xứng qua hồ, bên phải là nhà bia và lầu cậu, bên trái là nhà bia và lầu
cô.
Toàn khu phủ thờ ở Phủ Tiên Hương là sự liên kết của nhiều dãy nhà được nối liền với
nhau. Trong một dãy nhà có sự phân chia thành nhiều gian riêng và gọi đó là một cung. Từ
ngoài vào phía trước mặt gồm có những cung sau:
Đầu tiên là cung Đệ Tứ thờ Tứ phủ công đồng hay còn gọi là ban Công Đồng. Đối
xứng với cung Đệ Tứ bên trái là Ban Quan lớn Thủ phủ và bên phải là Ban Chầu Thủ phủ.
Tiếp theo là Ban thờ Đức Vua cha Ngọc Hoàng và Hội Đồng các quan hay Ngũ vị
vương quan. Đây là cung Đệ Tam.
Sau cung Đệ Tam là cung Đệ nhị. Cung này thờ Tứ Vị Chầu bà và ba bộ long ngai.
Cung Đệ nhất là cung thờ Tam Tòa Thánh Mẫu. Cung này ở trong cùng. Tuy nhiên,
đa phần nơi thờ Mẫu Tứ phủ có nội cung (cung cấm).
Nội cung của Phủ Tiên Hương có khám kính đặt tượng đồng Mẫu Liễu Hạnh cùng
với hai Mẫu Quang cung Quế Anh phu nhân và Quỳnh cung Duy Tiên phu nhân đều được
phong thần và sắc phong. Nội cung không phải ai cũng được vào và vào bất cứ lúc nào.
Chỉ được vào khi có sự đồng ý của những người trong ban quản lý phủ và những ngày có
lễ hội.
Bên cạnh dãy nhà thờ những cung chính, còn có một dãy nhà được gọi là Ban Trần
Triều. Trong dãy nhà này có đặt ban thờ Ban Trần Triều và Ban Đức Vương Phụ, Vương
Mẫu.
Phía sau dãy nhà chính là Động Sơn Trang, nơi này thờ bà Chúa Đệ Nhị Thượng
ngàn Hai Chầu và mười hai cô Sơn Trang.
Thứ hai, Phủ Vân Cát
Làng Vân Cát giáng sinh thần nữ
Cõi trời Nam bất tử hòa thân
Vốn xưa đệ nhị cung tiên
Phong lưu công chúa ở trên Thiên đình
(Văn chầu Thánh Mẫu)
Phủ Vân Cát nằm ở phía bắc thôn Vân Cát xã Kim Thái, di tích này cách Phủ Tiên
Hương chừng 1 Km. Từ Phủ Tiên Hương đi thẳng tới ủy ban nhân dân xã Kim Thái, bên
phải đi tới Lăng Mộ Thánh Mẫu, còn đi về bên trái là đi tới Phủ Vân Cát. Phủ nằm giữa
đền làng Vân Cát và Chùa Long Vân nơi thờ Phật, vì thế tạo nên một quần thể thờ Phật-
Mẫu - Thần.
Phủ Vân Cát nhìn về dãy núi An Thái phía Tây. Văn bia “Thánh Mẫu cố trạch linh
từ bi ký” được đặt ở Ngũ Vân Lâu trước phủ do Tổng tài quốc sư quán đời Nguyễn Cao
Xuân Dục soạn năm Thành Thái Tân Sửu (1901) viết về quá trình xây dựng phủ Vân Cát:
“ …là một lầu cổ miếu, chọn đất dựng nền từ thời Lê Cảnh Trị (1633- 1671), làm đơn giản
mà đẹp, Khoảng đời Cảnh Thịnh (1794- 1800) hội nguyên Trần Gia Du, thiếu tả giám Trần
Công Bản đã mở rộng ra. đến năm Kỷ Mão (1879) đời Tự đức, quan huyện Lê Kỳ đã sửa
lợp lại, đến năm Thành Thái thứ 12(1900) thì hoàn thành ”.
Từ ngoài vào, trước tiên ta gặp Ngũ Vân Lâu là gác chuông có năm cổng lớn được
xây từ đời Tự đức, kế tiếp là một cái hồ bán nguyệt ghép bằng đá. Giữa hồ bán nguyệt có
phương du nằm ở giữa và có hai cầu đá dẫn ra ngoài. Phương du gồm có ba gian làm bằng
gỗ lim, mái có góc uốn cong, xung quanh lan can được ghép bằng những tường hoa bằng
đá với những mảng phù điêu trạm khắc một số loài hoa và những con voi. Phương du có
bốn mặt thoáng, là nơi khách đứng xem kéo chữ vào ngày hội.
Nội phủ có bốn cung. Cung đệ nhất và cung đệ nhị đều ba gian, được tôn tạo và mở
rộng từ đời Tự đức năm Kỷ Mão (1879). Cả hai cung này đều bị gịăc Pháp phá hủy bằng
ném bom, năm 1959 dân làng xây dựng lại cung đệ nhất còn cung đệ nhị mới được tôn tạo
lại năm 1992.Cung đệ nhất là chính cung khép kín, cung này thờ Tam Tòa Thánh Mẫu,
tượng bằng đồng gồm có Mẫu Thượng Thiên ngồi giữa, Mẫu Thượng Ngàn bên trái, Mẫu
Thoải bên phải. Cung đệ nhị thờ Tứ vị chầu Bà và Tam tòa quan lớn, cung này được tôn
tạo lại năm 1992, đặc biệt có hai khám hai bên thờ Ông Hoàng Mười (bên phải) và Ông
Hoàng Ba(bên trái) Tiếp là cung đệ tam, tại đây thờ Công đồng tứ Phủ, cung này có thờ Bà
Chúa Bản đền. Cung đệ tứ hay còn gọi là tòa bái đường, cung này có thờ Quan Giám sát.
Thứ ba, Lăng mộ Thánh Mẫu.
Cùng với hai phủ chính, tại quần thể di tích Phủ Dầy còn có lăng mộ Thánh Mẫu
Liễu Hạnh, Lăng này ở giữa cánh đồng và nằm ở xã Tiên Hương. Thời Minh Mệnh (1820-
1840) quan huyện Vụ Bản cho người xây gạch quanh ngôi mộ cổ, tương truyền là mộ Liễu
Hạnh nhưng chỉ xây một bệ nhỏ cho mọi người đến đặt lễ vì nhân dân trong làng thường
hái những lá và thân cây mọc xung quanh bên ngôi mộ cổ về chữa bệnh.
Tương truyền năm 1937, Vua Bảo đại lấy vợ đã lâu nhưng không có con nên Nam
Phương Hoàng Hậu đến cầu tự ở Đền Sòng và được Mẫu ban cho Hoàng Tử Bảo Long.
Thánh Mẫu Liễu Hạnh đã báo mộng cho Hoàng Hậu biết mộ của mình ở ngôi Miếu xứ cây
đa Phủ Dầy để trả ơn đó Vua Bảo Đại đã cho dựng lăng để trả ơn Mẫu Liễu Hạnh. Theo
tác giả Trần đăng Ngọc thì: “Năm 1938 Vua Bảo đại đã cho “hội xuân Kinh” triều đình
Huế tiến hành hưng công xây dựng khu lăng Mẫu hoàn toàn bằng đá xanh và 60 búp sen
hồng” [ 45, tr.107].
Trung tâm của lăng là ngôi mộ Thánh Mẫu ghép bằng đá cao hình tám cạnh, chạm
khắc theo hình quẻ dịch. Hướng chính của lăng là hướng Tây quay về phía núi Tiên
Hương. Từ ngoài vào bước theo bậc tam cấp lên đến mộ phải qua 5 lớp tường toàn bằng đá
được chạm khắc, mỗi lớp tường vuông đều có cửa, cửa được bổ trụ bằng đá vuông với ba
mặt đều khắc câu đối và phía trên đặt các nụ sen bằng đá hồng nhạt tới 60 nụ sen đá.
Bao quanh lăng mộ là vườn cây bóng mát quanh năm, có 4 cột trụ cao to bốn góc,
tạo thành cảnh quan khu lăng mộ thêm trang nghiêm, long trọng. Ngôi mộ được đặt ngay
chính trung tâm và ở chỗ cao nhất của cả khu lăng.Tại bốn cửa ở bậc cuối cùng đều có một
bức bình phong bằng đá án ngữ. Phía sau cửa chính, nằm về hai phía góc đối diện với cửa
ra vào là hai nhà bia với bốn cột vươn lên.
Theo các tài liệu thì trước kia khu lăng mộ Thánh Mẫu không có nhà cho thủ từ ở,
nhưng hiện nay thì đã xuất hiện nơi ở của thủ từ và bao quanh khu lăng mộ là có hàng rào
bằng sắt. Bên cạnh khu lăng mộ còn có một gian ngôi nhà trong đó điện thờ được bài trí
như sau:
Ban thờ Mẫu nằm chính giữa, từ ngoài bước vào thì bên phải ngay cạnh ban thờ Mẫu
là ban thờ Bà Cai Bản mệnh, tiếp là ban thờ đức Thánh Trần. Bên trái của Ban thờ Mẫu là ban
thờ quan lớn đệ nhất và ban thờ Nhị Vị Cô Nương.

* đền Sòng:
đền Sòng (Sùng Sơn) ngày nay ở phường Bắc Sơn- Bỉm Sơn- Thanh Hóa, theo
truyền thuyết đây là nơi diễn ra cuộc đại chiến giữa Liễu Hạnh với thuật pháp Nội đạo
Tràng và quân lính triều đình. Cũng chính nơi này Bà đã dùng phép thuật, để trừ ma tà quỷ
ác để cứu giúp chúng sinh. Trong tiềm thức người dân nơi đây là nơi thật sự linh thiêng, là
nơi Thánh Mẫu hiển linh. ở Phủ Dầy tuy là nơi có lễ hội được tổ chức hàng năm rất lớn
vào tháng 3 âm lịch, là quê hương của Liễu Hạnh. Nhưng theo truyền thuyết ở Phủ Dầy là
nơi Mẫu Liễu Hạnh giáng trần lần thứ nhất, được đầu thai vào một cô gái, nên không có
phép thuật. Vì vậy trong dân gian có câu:
Đền Sòng thiêng nhất xứ Thanh
và Nhất vui là hội Phủ Dầy
Vui là vui vậy không tày Sòng Sơn
Đền Sòng nằm ở nơi sơn cảnh hữu tình, ngôi đền này được xây dựng vào thời Cảnh
Hưng. Một học giả người nước ngoài tên là H.Breton trong “Revue Indochnoise” (1922)
cũng ghi nhận: “ Tại đây có ngôi Đền Sùng Sơn. đền này dựng vào thời cảnh Hưng triều
vua Lê Hiển Tông (1740- 1786) ngay tại nơi chúa Liễu Hạnh tái hiện xuống trần” [1,
tr.43].
Về việc xây dựng đền thì không ai biết chính xác là vào ngày tháng năm nào ? và
chưa xác định được ai đã bỏ tiền của, công đức xây dựng đền?
Tuy nhiên, trong dân gian lại có truyền thuyết khác kể về lịch sử ngôi đền đó là: Có
một Ông lão được Nữ Chúa báo mộng phải xây dựng một ngôi đền để thờ Thánh Mẫu
Liễu Hạnh. Hôm sau ông lão cầm một cây gậy tre và cắm xuống mảnh đất đã chọn và khấn
rằng: “Nếu Thánh Mẫu bằng lòng đồng ý chọn nơi đây làm nơi xây đền thì xin làm cho
cây tre được mọc lên tươi tốt”. Một thời gian sau cây tre trở nên xanh tốt, bén rễ đâm chồi
lá tốt tươi lạ thường. Và người dân đã xây dựng ngôi đền trên mảnh đất ấy.
Lúc mới xây dựng ngôi đền không được rộng rãi, khang trang và đẹp như bây giờ,
trải qua nhiều lần sửa chữa, cải tạo thì Đền Sòng mới được như ngày hôm nay.
Đền Sòng nhìn về phía Tây Bắc, cạnh đền có một chiếc cầu bằng đá do Hoàng Thái
Hậu nhà Lê xây dựng từ năm thứ 33 Triều Cảnh Hưng.Khi Bà đi qua Đền Sòng, thấy cảnh
sắc tuyệt đẹp và do lòng mến mộ nơi đây, nên Bà đã bỏ tiền bạc ra để tu sửa đền và xây
nên chiếc cầu đá đó. Bên cạnh đền có núi, dưới có suối. Phía trước đền có một hồ nước tự
nhiên hình bán nguyệt, nước trong xanh quanh năm, chưa bao giờ cạn nước và hồ có tên
là: Hồ Cá thần. Hồ Cá thần có mạch nước ngầm chảy từ Dốc Xây theo chân núi qua hang
động núi đá vôi đưa nước về hồ. Hồ có hai khe nước nhỏ chảy lượn vòng quanh tạo nên
khu đất trước đền giống như một hòn đảo có hình tròn, hai khe nước này hợp lại với nhau
về phía trái đền hợp cùng 9 dòng nước từ dưới đất phun lên tạo thành 9 cái giếng. ở đó
người ta dựng một ngôi đền nhỏ, tục gọi là đền Chín Giếng. đền Chín Giếng cũng là nơi
thờ Mẫu Liễu Hạnh, tên Chín Giếng còn được gắn với tên cô hầu cận bên Thánh Mẫu Liễu
Hạnh.
Gần Hồ Cá thần có một đồi đất thấp, người ta gọi là núi Ngọc Bích, núi này làm án
cho ngôi đền. Có hai dãy núi bên tả và bên hữu nhô cao hẳn lên ở gần núi Ngọc Bích và
Hồ cá thần.
Đền Sòng ngày nay sau khi được nhà nước công nhận là di tích lịch sử văn hóa và
thắng cảnh cấp quốc gia (1993) và được trùng tu xây dựng vào năm 1998 thì Thần điện
của đền được bài trí như sau:
Đền Sòng có 3 cung liên tiếp.
- Cung đệ nhất: Gian giữa của cung này được thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh và tượng
của Thánh Mẫu được đặt uy nghi trong khảm sơn son thiếp vàng, hai bên là hai đệ tử thân
tín là Quế Nương và Thị Nương. Hai Gian bên thờ Mẫu Thoải và Mẫu Thượng Ngàn. Cung
này còn gọi là cung Tam tòa, Phía trong cùng của cung đệ nhất là Nội cung. Nội cung rất ít khi
được mở cửa, trừ những ngày lễ rước Thánh Mẫu hoặc những ngày lễ hội trọng đại của Phủ.
- Cung đệ nhị: Cung này thờ Ngọc Hoàng, hai bên là Nam Tào và Bắc đẩu.
Phía dưới Ngọc Hoàng, Nam Tào và Bắc đẩu là nơi thờ Hội đồng các quan (5 Quan
lớn). Bên cạnh cung đệ nhị có một nơi thờ Sơn Trang riêng.
- Cung đệ tam: Là nơi thờ các quan, các ông hoàng và các cô đệ tử. Trong đó có hai
Ông Hoàng Ba và Hoàng bẩy. Ngay cạnh cung này còn có một ban thờ riêng đức Thánh
Trần nằm về phía bên phải từ ngoài vào. Phía trước đền nơi có gò đất trông giống như đảo
nhỏ cũng có gian thờ đức Ông. Ngay trên con đường vào cửa còn có một ngôi đền nhỏ còn
gọi là đền Quan giám. Phía ngoài sân chính của đền là tượng Phật Bà Quan Âm.
Năm 1939, quan Bố chánh Thanh Hóa là Tôn Thất Toại cấp tiền và tổ chức cho
nhân dân trùng tu lại Đền Sòng. Ông cho mở rộng thêm nhà đón khách thập phương đến
vãn cảnh đền, cửa tam quan cũng được xây lại trong lần này góp phần cho ngôi đền khang
trang, đẹp đẽ và bề thế hơn trước. Trong lần trùng tu năm 1939, khi mà những người thợ
đào móng ở đoạn giữa cây bên trái và bức bình phong gần đấy, người ta đã đào được một
cái tráp bằng đồng hình chữ nhật. Trong cái tráp đó khi mở ra có một cuốn sách, có nhiều
tờ bằng đồng đề niên hiệu Vĩnh Tộ (1617- 1628) đời Vua Lê Nhân Tôn.
Nội dung cuốn sách là gia phả của gia đình Lê Thái Công người đã sinh ra Giáng
Tiên. đây là giá trị thực của lịch sử - văn hóa mà chúng ta được biết, có thể từ đây sẽ mở ra
nhiều giả thiết và những công trình nghiên cứu về Thánh Mẫu Liễu Hạnh?
Đền Sòng có một vai trò đặc biệt quan trọng trong việc hình thành hình tượng Mẫu
Liễu Hạnh. Như chúng ta đã biết Liễu Hạnh tuy hiển linh ở nhiều nơi nhưng chỉ đến Đền
Sòng thì Thánh Mẫu mới hiển thánh.
Theo tác giả Đặng Anh thì trong quá trình trùng tu Đền Sòng ngày 12/4/1939 có tìm
thấy một cuốn sách bằng đồng, ngay tờ đầu có viết thay đề mục là: “Niên sử giám gia
đình họ Lê, thuộc làng Vân Cát, huyện Thiên bản” [1, tr.28].
Cuốn sách có tờ bằng đồng, tất cả 5 tờ đã được dịch ra tiếng Việt. Tuy nhiên, cuốn
sách bằng đồng hiện nay không ai biết nó đang ở đâu và có còn hay mất. Theo GS. Vũ
Ngọc Khánh thì: “ Nguyên bản bằng đồng lá hiện nay không rõ ở đâu, song bản dịch có
được công bố trong cuộc hội thảo do Hội văn nghệ Thanh hóa mới tổ chức ngày 24-4-1992
” [24, tr.35].
Trong luận văn này, tác giả chỉ kế thừa những công trình nghiên cứu của những nhà
nghiên cứu đi trước mà chưa có điều kiện đi sâu vào tìm hiểu vấn đề này.
Theo tác giả đặng Anh là người viết cuốn sách “ Đền Sòng với huyền thoại Liễu
Hạnh Công Chúa”, xuất bản năm 2004, nhà xuất bản Thanh Hóa. Mặc dù, ông cũng chưa
có điều kiện thẩm định cuốn sách có tờ bằng đồng. Nhưng với những gì tác giả được biết
thì nội dung của cuốn sách được tìm thấy đó có nhiều mâu thuẫn đáng nghi ngờ. Đó là,
năm sinh của Giáng Tiên con Lê Tự Thắng là năm Thiên Hựu - 1557, tháng 8, lúc ấy ông
45 tuổi. Khi Ông Lê Tự Thắng làm bản di chúc này là năm Vĩnh Tộ 1623. Như vậy kể từ
năm ông 45 tuổi tức là năm 1557 đến năm làm di chúc năm 1623 là 86 năm, cộng với 45
tuổi thì khi ấy ông Lê Tự Thắng là 131 tuổi. Liệu ông có sống được như vậy không? Mặt
khác, có một điều mâu thuẫn nữa là lời ghi trong di chúc rằng “ Lúc bấy giờ tôi tự nhủ
thầm: ta đã 60 tuổi”- Tức là năm 1623.
Vì vậy, vấn đề xung quanh Liễu Hạnh thực sự còn nhiều băn khoăn và cần được
thảo luận nhiều hơn nữa.
Mẫu Liễu Hạnh đã có rất nhiều bài viết, cuộc hội thảo và những công trình nghiên
cứu. Nhưng cho đến nay vẫn còn những điều mà chúng ta chưa thể khẳng định và chưa thể
biết được nguồn gốc những tài liệu do đâu mà có và có từ khi nào? ví dụ như: “Cuốn sách
bằng đồng” (gồm năm tờ), Tiên Từ Phả Ký…Nghiên cứu Mẫu Liễu Hạnh là công việc khá
phức tạp, cần nghiên cứu trên nhiều góc độ khác nhau. Các văn bản ở các triều đại trước
đã góp một phần không nhỏ để chúng ta có thể đưa Mẫu Liễu Hạnh trở về đúng vị trí đời
thực của bà, ngoài những gì là truyền thuyết, huyền thoại thêu dệt về một vị Thánh Mẫu đã
ngự trị trong tâm linh của nhiều người từ bao đời nay.
Khi khảo sát thực trạng hai trung tâm thờ Mẫu Liễu Hạnh là Phủ Dầy và Đền Sòng,
có những tài liệu liên quan đến những văn bản được tìm thấy ở Phủ Dầy và Đền Sòng là
Tiên Từ Phả Ký và “Cuốn sách bằng đồng” liệu có phải là cùng một dòng viết họ hay
không ? Theo một nhà nghiên cứu thì: Trong Từ phả Tổ tiên của Mẫu vốn là họ Trần tên
húy là Tiên, vì tránh loạn nên đổi thành họ Lê và chạy đến vùng An Thái để lập nghiệp. Và
Liễu Hạnh sinh ngày giáp Dần năm Bính Thìn niên hiệu Thiên Hựu thứ 8 đời Lê Anh
Tông (1556). Tác giả này viết:
Từ cụ tổ đến Lê Công Chính (phụ thân của Mẫu Liễu) là 3 đời. Nếu tính mỗi
đời là 20 năm thì cụ tổ của Mẫu Liễu Hạnh đến vùng Côn Sơn vào khoảng cuối thế
kỷ XV… đây là thời kỳ khá yên bình… vì thế lý do đổi họ bởi loạn lạc là khó có
sức thuyết phục [17, tr.38].
Tuy nhiên, trong sách đại việt sử ký toàn thư có chép: tháng 8 niên hiệu Quang
thuận 1 (1460) tất cả họ Trần phải đổi thành họ Trình để kiêng húy. Có thể họ Trần của
Mẫu Liễu Hạnh đã đổi từ họ Trần sang họ Lê theo lệnh này. Cũng trong bài viết này tác
giả đỗ Thị Hảo còn viết thêm rằng: “Bản Liễu Hạnh Công chúa diễn âm cũng khẳng định
tổ tiên của Mẫu vốn là họ Trần. Và cho đến nay phần lớn người dân ở Vân Cát vẫn mang họ
Trần ” [18, tr.38]. Cũng có thể vì một lý do khác mà tổ tiên của Mẫu Liễu Hạnh vốn là họ Lê,
khi bị họ Mạc (Mạc đăng Dung) cướp ngôi nhà Lê nên phải đổi sang họ Trần ?
Về “Tiên Từ Phả Ký” - là gia phả dòng họ Trần Lê (họ của Mẫu Liễu Hạnh) do cụ
Trần Lê Hiệu (sinh năm 1914) và bác sĩ Trần Lê Văn (sinh năm 1932) -là cháu 16 đời của
Mẫu Liễu Hạnh, mới tìm lại được sau nhiều năm bị thất lạc. Theo tác giả đỗ Thị Hảo thì: “
Khảo sát văn bản hiện có - bản chụp của một bản sao chép lại, không thấy ghi tên người
viết Tiên Từ Phả Ký này. Thậm chí ngày tháng viết, tên người sao chép và ngày tháng sao
chép cũng không có …” [17, tr.37]. Vậy bản gốc Tiên Từ Phả Ký được viết từ bao giờ ?

* Phủ Tây Hồ:


Phủ Tây Hồ là một trong những trung tâm sinh hoạt văn hóa tâm linh của người
dân Hà Nội, là nơi gặp gỡ lần thứ hai giữa Thánh Mẫu Liễu Hạnh với Phùng Khắc Khoan.
Lúc đó, Phùng Khắc Khoan đi sứ ở Trung Quốc về, hồi tưởng lại những nơi đã đến lúc
trước nên đã cùng hai người bạn là hai danh sĩ họ Ngô và Lý theo lối Tây Hồ tản mạn. Khi
đã đến Tây Hồ thì cả ba người cùng đàm tự xướng họa, chợt thấy có một quán tửu lâu, làn
hoa khuất trúc, trước đề bốn chữ “Tây Hồ phong nguyệt ” và một đôi đối liễn:
Hồ chung nhàn nhật nguyệt
Thành hạ tiểu càn khôn.
(Dịch)
Trong cửa rèm rực rỡ, thấy một người nữ nhân đứng tựa cửa sổ bên ngoài. Ba danh
sĩ quyết định dừng chân và bước vào quán, khi bước vào thì có một cô gái lễ phép cúi đầu
chào: đây quán của Liễu nương, xin mời các vị vào uống rượu và ngâm thơ. Ba người
bước vào đã thấy bài thơ treo trên vách quán. Khi đọc hết bài thơ, Phùng Khắc Khoan chợt
nhớ tới cuộc gặp gỡ, xướng họa văn thơ với Liễu Hạnh công chúa ở Lạng Sơn. Đang lúc
đó thì cô gái lúc trước đưa ra một cái khay trên có tấm thiếp viết mấy chữ: Tây Hồ chiếm
nhất hồ thiên. Nghĩa là: Hồ Tây riêng chiếm một bầu trời. Và mọi người đều cho rằng đây
là câu đầu của một bài thơ, liền nối tiếp nhau cùng làm. Khi mà cả ba người đang làm thơ
thì bỗng từ trong nhà có tiếng ngâm của cô chủ quán vang ra:
Trăng tròn soi một bóng tiên thôi. đây cũng là câu kết của bài thơ do bốn người
làm.
Thời gian sau, Phùng Khắc Khoan và hai người bạn họ Lý, họ Ngô quay trở lại
quán cũ bên Hồ Tây thì quán cũ không còn nữa và chỉ thấy 4 câu thơ trên thân cây, đọc
xong Phùng Khắc Khoan giảng giải cho hai người bạn rõ ý tứ bài thơ và có thể dịch là:
Lấy mây làm xiêm áo, lấy gió làm xe
Sáng chơi trời đâu xuất, chiều về nơi khói mây
Người đời muốn biết tên ta chứ
Tiên nữ trên trời Ngọc Quỳnh Hoa.
Phùng Khắc Khoan đọc thơ và suy nghĩ, người mình gặp đây không phải là người
bình thường, Ông nhớ về những lần gặp ấy và tiếc rằng trước đây mình không hiểu ra.
Cùng với Phùng Khắc Khoan, cư dân quanh vùng Hồ Tây cũng thấy sự linh ứng của Bà
nên lập Phủ để thờ và gọi là Phủ Tây Hồ.
Phủ Tây Hồ nằm ở phía Tây Bắc Hồ Tây, trên bán đảo Tây Hồ thơ mộng, đến với
Phủ Tây Hồ, chúng ta nhận thấy ở đây có một cảnh đẹp lạ lùng. Phủ được xây ngay cạnh
Hồ Tây, khi chưa được tôn tạo, mở rộng diện tích mặt bằng và: “Thật kỳ lạ là, nước hồ và
thềm Phủ kề với nhau và nước không xâm phạm tất đất nào của Phủ. Địa thế này càng làm
tăng vẻ diệu linh của Phủ Mẫu Tây Hồ” [6, tr.23].
Phủ Tây Hồ được công nhận di tích lịch sử - văn hóa do Bộ văn hóa thông tin cấp
năm 1995. Phủ gồm có hai phần: Phủ chính và động Sơn Trang và cả hai đều quay mặt về
hướng Tây Nam.
Phủ chính được xây dựng khang trang và các ban thờ được bài trí cũng theo như các
Phủ Dầy và Đền Sòng. Trước cửa phủ chính, ngoài sân cũng có Lầu Cô và Lầu Cậu. Bên
trong nhà chính từ ngoài vào là ban thờ Hội đồng các quan gồm có Vua cha Ngọc Hoàng ở
giữa, bên trái là Nam Tào, bên phải là Bắc đẩu. Dưới ban thờ đức Vua Cha là điện thờ
quan Ngũ Dinh(ngũ Hổ) và ở trên cao là nhị vị Long xà (Thanh xà và Bạch xà). Tiếp theo
là điện thờ Tam tòa Thánh Mẫu gồm có: Mẫu Thượng Thiên, Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu
Thoải. Trong cùng là cung cấm nơi Thánh Mẫu Liễu Hạnh ngự không ai được vào, trừ
những người được giao nhiệm vụ trông coi Phủ.
Phần thứ hai của Phủ Tây Hồ là Động Sơn Trang, là điện thờ của bà chúa đệ Nhị
Thượng Ngàn. Động Sơn Trang vốn trước là một ngôi chùa thờ Phật, chỉ được cải tổ năm
1992 do sự đóng góp của khách thập phương và Ban quản lý trực tiếp của Phủ Tây Hồ
làm, dưới sự giám sát của xã Quảng An nay là Phường Quảng An- Quận Tây Hồ. Động
Sơn Trang bài trí theo tầng chứ không phải theo lớp như phủ chính. Năm 2005 Động Sơn
Trang được tu sửa lại, ngày nay nó càng trở nên khang trang và chắc chắn.
Trong Động Sơn Trang, là nơi thờ Mẫu đệ Nhị Thượng Ngàn Hai chầu và mười hai
cô Sơn Trang. Phần trên cùng là thờ Phật Bà nghìn mắt nghìn tay, tầng dưới là Mẫu Sòng
Sơn, hai bên là Tứ phủ chầu bà- những người giúp việc cho Mẫu Thượng Ngàn ở miền
Sơn Trang. Tầng tiếp theo là trung tâm của tòa Sơn Trang nơi thờ Mẫu đệ Nhị Thượng
Ngàn cùng mười hai cô Sơn trang, Nhị vị Chầu Bà ngồi hầu hai bên Mẫu đệ Nhị Thượng
Ngàn, thực hiện mệnh lệnh của hai Chầu bà là các thị thần và các cô, các cậu.

Một điều khác biệt hiện nay giữa Phủ Tây Hồ với Phủ Dầy và Đền Sòng là: Vào
những tháng đầu năm âm lịch Phủ Tây Hồ không tổ chức lễ hội và hầu bóng. Tuy nhiên,
Phủ Tây Hồ lúc nào cũng có nhiều người đến để xin sự phù hộ, che chở và xin lộc của các
Thánh Mẫu, cầu mong có một cuộc sống tốt đẹp hơn.

2.1.2. Thực trạng hoạt động của tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ hiện
nay
Trước tiên, hoạt động của tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ hiện nay chịu sự
tác động của những điều kiện lịch sử và xã hội hiện tại.
Hoạt động của tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ từ 1990 đến nay là tổng
hòa những yếu tố chủ quan và khách quan trong đời sống xã hội. Tín ngưỡng thờ Mẫu đã
trở thành một tín ngưỡng dân gian bản địa. Lễ hội của tín ngưỡng thờ Mẫu đã thu hút được
sự quan tâm của nhiều cơ quan ban ngành trong cả nước. Với sự lãnh đạo sáng suốt của
Đảng Cộng sản Việt Nam và lòng yêu nước, yêu nền độc lập, tự do, dân chủ nên nhân dân
ta đã có cả tình yêu đối với tất cả các di sản văn hóa quí báu mà ông cha để lại. Nghị quyết
Ban Chấp hành trung ương Đảng lần thứ năm (khóa VIII) đã đúng khi đề cao nguồn sức
mạnh to lớn này. Vì thế, các giá trị văn hóa truyền thống đã nhanh chóng được phục hồi và
khởi sắc khắp nơi.
Hiện nay, nghị quyết 24 của Bộ Chính trị …đã mở ra một hướng mới về chính sách
tín ngưỡng, tôn giáo. Nhưng kinh tế thị trường cũng mang lại những mặt trái của nó: Sự
phân hóa giầu nghèo, sự chênh lệch về mức sống giữa các tầng lớp dân cư hiện nay là một
trong nhiều nguyên nhân ảnh hưởng đến sự công bằng trong vấn đề hưởng thụ những giá
trị văn hóa tinh thần. Hậu quả của việc này là sự khác nhau về quan niệm đạo đức, lối
sống…điều này làm ảnh hưởng đến thuần phong mỹ tục, xem thường những giá trị văn
hóa truyền thống, bị sa vào những âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.
Đất nước Việt Nam ta đang trên đường đổi mới và hòa nhập. Đời sống vật chất
ngày càng được nâng cao, tinh thần thoải mái hơn và có điều kiện để chăm lo công việc
tâm linh, tín ngưỡng. Cho nên, những năm gần đây, ngày càng có nhiều người tìm đến với
tín ngưỡng thờ Mẫu, phần lớn để cầu bình an, công danh thành đạt, cầu thăng quan tiến
chức… Bên cạnh những biểu hiện tích cực, còn xuất hiện những biểu hiện tiêu cực như: Tệ
đốt vàng mã, xem bói, lên đồng giải hạn… Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu của công
cuộc đổi mới đất nước, chúng ta còn gặp phải những điều còn hạn chế cần khắc phục, đó là
sự phân hóa giầu nghèo, tham ô, tham những, những bất công lớn trong xã hội …Chính
những thiếu sót về mặt xã hội như thế càng khiến cho con người đến gần với tín ngưỡng và
tôn giáo.
Ngày nay, người dân ở đồng bằng Bắc bộ ngoài việc thờ phụng tổ tiên ở gia đình,
họ còn đến các đền, phủ, chùa để lễ “Mẫu” nhất là dịp đầu năm. Trước kia, đến những nơi
thờ Mẫu thường chỉ có những người làm ăn buôn bán nhưng nay đối tượng đó có cả đội
ngũ trí thức, công chức nhà nước. Về mặt tâm lý, có người quan niệm “có thờ có thiêng”,
nên họ đi cúng lễ để thoải mái về mặt tư tưởng.
Có quan niệm cho rằng những người buôn bán thì “mê tín” hơn, điều này không
đúng hoàn toàn, vì mê tín là tình trạng chung, có ở mọi tầng lớp người trong xã hội không
phân biệt giới tính, tộc người và thành phần giai cấp.
Tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ hiện nay, còn phụ thuộc vào từng địa
phương, từng thời điểm khác nhau mà tín ngưỡng này được biểu hiện dưới nhiều hình thức
khác nhau. Có những cơ sở thờ tự phần nghi lễ có phần đơn giản, nhưng phần ý thức và
tâm linh vẫn được đề cao.Ví dụ. Một trung tâm thờ Mẫu tứ phủ rất nổi tiếng là Phủ Tây Hồ
(Hà Nội) đã từ rất lâu hàng năm không tổ chức lễ hội rước Thánh Mẫu như Phủ Dầy hay
Đền Sòng và cũng chính Phủ này từ năm 1996 trở lại đây đã không cho đốt các đồ mã như
ti vi, nhà lầu, xe máy và hình nhân thế mạng. Thế nhưng mọi người vẫn đồng tình và đến
lễ ở Phủ Tây Hồ ngày càng đông.
Trong sự nghiệp đổi mới đất nước, chúng ta đã đạt được những thành tựu nhất định,
đã đưa đất nước sang thời kỳ phát triển mới. Ngoài việc chú trọng phát triển kinh tế, còn
chú trọng đến phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Hiện nay, Đảng và
Nhà nước ta xem văn hóa là động lực của phát triển kinh tế. Chính từ những tinh thần ấy,
nhiều địa phương đã kết hợp với Bộ văn hóa thông tin, sở văn hóa, phòng văn hóa và các
cấp chính quyền đã mở lại những lễ hội thờ Mẫu và đã tạo ra những nét đặc trưng trong tín
ngưỡng thờ Mẫu. Trong tín ngưỡng thờ Mẫu, người dân còn muốn thể hiện một quan
điểmư sống: Nhắc nhở các thế hệ sau này nhớ về cội nguồn, về tổ tiên người Việt (Lạc
Long Quân - Âu Cơ). Điều đó còn góp phần vào việc bảo tồn, gìn giữ và phát huy những
giá trị văn hóa cộng đồng, tăng thêm lòng tự hào và lòng yêu quê hương đất nước, đồng
thời góp phần bảo vệ an ninh xóm làng. Bởi vì, nơi nào đó xây dựng được văn hóa tín
ngưỡng thì giữ được phong tục tập quán truyền thống, tuân thủ đúng pháp luật của Nhà
nước, kể cả những luật tục dân gian.
Trong nghi lễ hầu đồng của tín ngưỡng thờ Mẫu, ngoại trừ những yếu tố tiêu cực,
còn có những giá trị văn hóa cần quan tâm. Ví dụ, trong lúc lên đồng những trang phục và
mầu sắc tương ứng với các vị thánh nhập vào các ông đồng, bà đồng thường mặc như: áo,
khăn, đồ trang sức… cầu kỳ và đa dạng. Đây cũng là một hình thức lưu giữ những trang
phục cổ truyền của dân tộc.
Các công trình kiến trúc của tín ngưỡng thờ Mẫu ngày nay còn là những di tích lịch
sử –văn hoá cần được bảo vệ. Một đặc điểm khi khaỏ sát các trung tâm thờ Mẫu ở đồng
bằng Bắc bộ mà tác giả nhận thấy, đó là kiến trúc thờ Mẫu thường xây dựng dưới dạng
quần thể, ít có công trình đơn chiếc, gắn với phong cảnh sơn thuỷ rất đẹp nên du khách
ngày nay mến mộ thường lui tới và trở thành nơi hội nhập, giao lưu văn hoá. Ngoài ra,
trong tín ngưỡng thờ Mẫu đã còn sử dụng nhiều loại hình nghệ thuật dân gian như: Âm
nhạc, múa hát, các bài văn chầu, những bức tượng Mẫu Tứ phủ, mầu sắc trang trí… đều là
nét độc đáo về văn hoá nghệ thuật. Đó là những di dản văn hoá dân tộc quí giá cần được
lưu giữ và đánh giá đúng mức.
ở đồng bằng Bắc bộ hiện nay, ngoài các các đền, phủ thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ
còn có một ngôi đền được rất nhiều người đến lễ vái và xin lộc… đó là đền Bà Chúa Kho
(Bắc Ninh) tuy bà chưa được tôn Thánh, nhưng lòng ngưỡng mộ của dân chúng đối với bà
rất lớn. Thêm vào đó là sự nghiệp phát triển của nền kinh tế thị trường, đền Bà Chúa Kho
đã trở thành một trung tâm thờ “Mẫu ” tầm cỡ Quốc gia, vì đã thu hút được đông đảo
khách thập phương trên mọi miền đất nước. Nếu ai đó tin vào thứ tín ngưỡng này đều có
thể đến đây vay tiền Bà hoặc xin “lộc rơi lộc vãi”. Đây là một hiện tượng đặc biệt trong tín
ngưỡng thờ “Mẫu” của nhân dân ta.
Một thực tế đang diễn ra tại các cơ sở thờ Mẫu hiện nay ở đồng bằng Bắc bộ đó là,
lợi dụng việc được phép phục hồi và phát triển một số lễ hội dân gian truyền thống nên
nhiều nơi đã “nhường” nơi thờ Mẫu thành nơi để mê tín dị đoan tồn tại. Có nhiều người
dựa vào chính sách này mà mở điện thờ Mẫu để cúng bái với mục đích ngoài tín ngưỡng
thông thường để mưu lợi cá nhân, để làm giầu bất chính, với đủ các ngón nghề từ xem bói,
thánh hiển linh, lên đồng, lập phủ. Cũng có nơi do thiếu sự quản lý chặt chẽ của cơ quan
chức năng đã gây ra nạn trộm cắp, lửa đảo, bắt chẹt người đến lễ hội. Hoặc có nơi đã biến
những khoảng không gian quanh nơi thờ tự thành địa điểm kinh doanh (Trông giữ xe, bán
quán, …). Đặc biệt, hiện nay ở đồng bằng Bắc bộ còn có hiện tượng khá phổ biến trong
hoạt động của tín ngưỡng nói chung và tín ngưỡng thờ Mẫu nói riêng, đó là hiện tượng
“khấn hộ” trong các cơ sở thờ tự. Hoạt động này thấy rõ nhất ở đền Bà Chúa Kho(Bắc
Ninh), đội quân “khấn hộ” này có thể làm dịch vụ “trọn gói” từ sắm sửa lễ vật, viết
sớ…khi có yêu cầu của người đi lễ.
Ngoài ra, còn xuất hiện những đội hầu đồng, hầu bóng “chuyên nghiệp” thành đội
“dịch vụ” đến các nơi để xin chầu ở các giá đồng làm giảm bớt sự linh thiêng của hình
thức sân khấu tâm linh đặc thù vốn có của nó, làm ô nhiễm môi trường văn hóa. Mặt khác,
những đội “chuyên nghiệp” này có những mầu sắc trang phục tùy ý không theo một qui
cách nào. Hơn nữa khi họ thực hiện nghi thức tế hay chầu, giọng họ giống một diễn viên
chèo, hay tuồng nên làm cho buổi lễ hầu đồng của tín ngưỡng thờ Mẫu mất đi sự trang
nghiêm và khác xa với tín ngưỡng truyền thống.
Hoạt động tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ hiện nay có những biểu hiện
không đơn giản. Tín ngưỡng thờ Mẫu bị ảnh hưởng bởi nhiều nguyên nhân khác nhau
trong xã hội và hiện tại nó đang tồn tại ở trạng thái vận động, biến đổi, đan xen các yếu tố
truyền thống - hiện đại, cái tiêu cực - cái tích cực.
Điểm đáng chú ý nữa đang tồn tại trong các lễ hội nói chung và lễ hội thờ Mẫu nói
riêng, đó là tính thương mại cũng xuất hiện trong cả phần lễ và phần hội. Thực tế cho thấy
ở Phủ Dầy chẳng hạn, Nhà nước và các cấp chính quyền không tài trợ kinh phí tổ chức lễ
hội, mặt khác các đền, phủ tổ chức lễ hội còn phải nộp ngân sách cho xã, mọi chi phí đều
do các phủ, đền tự lo và cân đối thu chi …Cho nên không tránh khỏi việc xuất hiện những
hình thức kinh doanh trong lễ hội.

2.2. Một vài nhận xét cơ bản khi khảo sát các trung tâm thờ Mẫu
* Nhận xét thứ nhất:
đối với tín ngưỡng thờ MẫuTứ phủ ở đồng bằng Bắc bộ, về điện thần ở các đền, phủ
đã tạo thành một hệ thống tương đối nhất quán. Một điện thần với khoảng hơn 50 vị thần
lớn nhỏ đều qui về vị thần chủ cao nhất, đó là Thánh Mẫu.
Giúp việc cho các Thánh Mẫu có nhiều vị Thánh thuộc hàng Quan, Chầu, Ông
Hoàng, Cô, Cậu và cũng được phân theo phủ như các vị Thánh Mẫu và là các nhiên thần
hay nhân thần, nhưng đều là hóa thân của các Mẫu, bao trùm và cai quản các miền vũ trụ
và nhân gian. Như đã trình bày ở phần đặc điểm thì hệ thống thờ của tín ngưỡng Thờ Mẫu
là thờ đa thần, nhưng quy tụ về Thánh Mẫu. Nơi thờ tự của tín ngưỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh
có tính hỗn dung với một số tín ngưỡng, tôn giáo khác.
Tín ngưỡng thờ Mẫu được phân thành các Hàng và các Phủ.
* Nhận xét thứ hai:
Về điện thần nói chung của tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ ở các trung tâm thờ Mẫu
gồm:
- Hàng Mẫu gồm:
+ Tam Tòa Thánh Mẫu: Có Mẫu Liễu Hạnh (Mẫu Thượng Thiên), Mẫu Thượng
Ngàn và Mẫu Thoải
+Tứ Phủ Công đồng (là toàn bộ chư vị thánh thần tập hợp từ bốn cõi của vũ trụ là
Trời, đất, Núi rừng, Sông nước) gồm: Mẫu Thượng Thiên, Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Thoải,
Mẫu địa.
+Tứ Vị Chầu Bà hoặc Tứ vị Thánh Bà là hóa thân, phục vụ trực tiếp của Tứ Vị
Thánh Mẫu. Nhiều vị trong hàng này đã hóa thân xuống trần gian để thành những vị anh
hùng giúp nước yên dân. Chầu Bà đại diện cho Tứ phủ, nhưng số lượng các vị Chầu có thể
tăng tới 10- 12 vị đó là:
Chầu Đệ Nhất - hóa thân của Mẫu Thượng Thiên
Chầu Đệ Nhị - hóa thân của Mẫu Thượng Ngàn - Vị Thánh thống soái trong các
hàng Chầu (khi giáng Bà thường mặc trang phục Mán màu xanh đặc trưng cho Nhạc Phủ)
Chầu Đệ Tam- hóa thân của Mẫu Thoải với trang phục mầu trắng; Chầu Bé được
thờ riêng ở Đền Bắc Lệ -Lạng Sơn … Chầu Năm ít khi giáng đồng nên ít người biết tới.
Ngoài ra còn có các vị Chầu khác, như Chầu Thất Tiên La ở Hưng Hà- Thái Bình; Chầu
Bát Nàn ở Đồng Mỏ - Lạng Sơn… Phần lớn các vị Thánh thuộc hàng Chầu đa phần có
nguồn gốc là người dân tộc ít người ở các vùng núi thuộc Nhạc Phủ. Các Thánh hàng Mẫu
chỉ giáng đồng chứ không nhập đồng.
- Hàng Quan có: Ngũ Vị Vương Quan- là một lực lượng (Nam) thực hiện ý đồ của
Thánh Mẫu, đứng sau hàng Mẫu và thuộc dòng Thủy phủ gồm: Gọi tên từ Quan Đệ Nhất
đến Quan Đệ Ngũ. Thường năm vị quan đầu hay giáng đồng nên có lai lịch rõ ràng hơn,
năm vị quan còn lại ít giáng đồng nên thường không đề cập tới. Ví dụ: Quan lớn Đệ Ngũ
tức quan lớn Tuần là tướng của nhà Trần hoặc là con trai của Trần Hưng Đạo là Trần Quốc
Tảng(hiện thờ ở Cửa Ông - Quảng Ninh); Quan Đệ Tam - với truyền thuyết là con Vua Bát
Hải Đại Vương, hóa thành một võ tướng của Hùng Vương(đền thờ chính ở Đền Lảnh-
Ninh Giang- Hải Dương)…
- Hàng các Ông Hoàng: Có thứ bậc dưới hàng Chầu Bà và Thập Vị vương Quan
nhưng cao hơn Hàng Cô và Hàng Cậu. Các Ông Hoàng này được gọi theo thứ tự từ Hoàng
Đệ Nhất đến Ông Hoàng Mười (trong đó có hai ông ở Thủy Cung -tương truyền, các Ông
Hoàng đều có gốc tích là con trai của Long Thần Bát Hải Đại Vương ở Hồ Động Đình).
Trong mười Ông Hoàng thường thì có sáu Ông giáng đồng nhưng chỉ có ba Ông là
giáng đồng thường xuyên, đó là Ông Hoàng Bơ(Ba) thờ ở Đề Lãnh - Hà Nam, Ông Hoàng
Bảy thờ ở Yên Bái và Ông Hoàng Mười thờ tại Bến củi Hà Tĩnh
- Sau hàng các Ông Hoàng là hàng Cô (theo thứ tự từ 1 đến 12) và hàng Cậu (theo
thứ tự từ 1 đến 10).
+ Hàng Cô được gọi theo tên từ cô Đệ Nhất (Cô Cả) đến cô thứ 12(Cô Bé). Các Cô
đều là các thị nữ của Thánh Mẫu và các Chầu. Các Cô có thể hóa thân vào vai trò khác
nhau của Tứ phủ khi giáng đồng.
+ Hàng Cậu- là những người chết trẻ (từ 1 -9 tuổi), hiển linh thành các bé Thánh.
Hàng Cậu không biết đích xác là 10 hay 12 vị thuộc hàng Cậu, có người cho rằng có 11 vị
thuộc hàng Cậu. Hàng cậu là những người phụ tá cho các Ông Hoàng và cũng gồm gọi
theo thứ tự từ Cậu Cả đến cậu Bé. Khi lên đồng không thể thiếu giá đồng Cậu Ba (Bơ) và
Cậu Bé.
- Ngũ Hổ (năm con hổ - là vị chúa cai quản rừng núi) và Ông Lót (Rắn - là vị chủ
thần nơi sông nước) cũng tồn tại trong điện thần của tín ngưỡng thờ Mẫu. Nơi thờ thần
Ngũ hổ ở hạ ban, nằm phía dưới điện thờ Tứ Phủ Công Đồng, còn Ông Lót với hình tượng
con Bạch Xà nằm ngang điện thờ chính.
- Ngọc Hoàng: Là vị thánh cao nhất trong tín ngưỡng thờ Mẫu, có ban thờ riêng ở
các đền, phủ. Ngọc Hoàng là vị thần linh cao nhất trong đạo giáo và Ngọc Hoàng đôi khi
lại đồng nhất với đức Thánh Trần, với Bát Hải Đại Vương trong nghi thức “tháng 8 giỗ
cha ”. Vua Cha ngọc Hoàng và Bát Hải Đại Vương chỉ ngự trên điện thần chứ không giáng
đồng.
* Nhận xét thứ ba:
Trong tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ, còn tồn tại Phủ Trần Triều- một phủ mang tính
chất Nhân Thần. Ông là một danh tướng, nhưng sau khi mất lại trở thành Ông Thánh với
quyền pháp của một đạo sĩ, đuổi tà ma và chữa bệnh cho phụ nữ. Thực tế, Ông là nhân vật
lịch sử, là thầy thuốc có tài chữa một số bệnh của phụ nữ. Việc Ông dùng phép thuật để trừ
tà Phạm Nhan nằm trong những đặc điểm của tín ngưỡng dân gian đó là lịch sử hóa và
huyền thoại hóa những công trạng của Ông. Từ đó họ khoác những vòng hào quang thần
thánh, và Trần Hưng Đạo đã trở thành Đức Thánh Trần trong đối tượng thờ cúng của loại
hình tín ngưỡng thờ Mẫu và được coi như một vị thánh hàng quan.
Nếu xét về phương diện điện thần của tín ngưỡng thờ Mẫu thì Đức Thánh Trần là
một vua cha, là một trong những vị Thánh của tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ (không phải là
một vị anh hùng Dân tộc trong tín ngưỡng thờ Anh hùng Dân tộc) và Ông lại là Nam thần.
Về hàng bậc Đức Thánh Trần thậm chí còn đồng nhất với vua cha trong đối xứng với Mẹ
và ngày giỗ, lễ hội đồng nhất với ngày giỗ “tháng tám giỗ Cha”. Về hàng bậc cũng như
phủ của Ông lại khó xác định trong tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ. Nơi thờ chính của Đức
Thánh Trần ở Kiếp Bạc - Hải Dương, ngôi Đền có ngọn núi xòe rộng ôm lấy núi Nam Tào
và Bắc Đẩu. Nhưng trong đền thờ đó lại không có điện thờ Mẫu. Tuy nhiên, theo quan
niệm dân gian thì Ông được ví như Ngọc Hoàng.
Theo GS Ngô Đức Thịnh thì việc Đức Thánh Trần đồng nhất với Vua cha trong
điện thần Tứ phủ và đối sánh với Thánh Mẫu, thì cũng không có gì khó hiểu vì: Với tư
cách là một vị tướng, một đạo sĩ của Đạo giáo, vốn gốc dòng họ gắn liền với miền sông
nước vùng hạ lưu, có những chiến công thủy chiến vang dội, Ông dễ được dân gian khoác
cho chiếc áo thần linh, quy về dòng thủy thần Long Vương. Cho nên Ông được thờ phụng
cùng với Bát Hải Đại Vương.
Trong điện của Thờ Mẫu, chúng ta có thể nhận ra rằng có hai thái cực Âm - Dương,
Cô- Cậu, Thánh Mẫu - Vua Cha…Như vậy, “thuộc dòng Thánh Mẫu, ta thấy số lượng các
vị thần trong mỗi hàng là chẵn:4,6,8,12. Còn dòng Vua Cha, Nam thần ….là con số lẻ và là
bội số của nó, tức 5 và 10” [45, tr.43]. Tại sao lại có những con số như vậy? Tác giả Ngô Đức
Thịnh giải thích rằng: “…trong đó con số lẻ là con số “cơ”(cố định) gắn với dương, đực,
đàn ông, nam tính, còn con số chẵn là con số “ngẫu” (không cố định) gắn với âm, cái,
nữ…” [45, tr.43].
* Nhận xét thứ tư:
Khi khảo sát các trung tâm thờ Mẫu Liễu Hạnh ở đồng bằng Bắc bộ thì một điều
đáng chú ý là: Những trung tâm thờ Mẫu Liễu Hạnh(MẫuTứ Phủ) đều là những nơi sơn
thủy hữu tình, phong cảnh đẹp và nằm ở những tuyến giao thông quan trọng và có ý nghĩa
về mặt chính trị- kinh tế như: Phủ Dầy trước kia nằm trong khu vực gắn với những sự kiện
lịch sử - chính trị của cả dân tộc từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII, là nơi giao tranh của các
cuộc chiến Nam- Bắc triều giữa nhà Mạc và nhà Lê - Trịnh…
Vào thế kỷ XVII ở Việt Nam đã phát triển thương mại và một số ngành nghề mang
tính đặc sản của địa phương vùng Phủ Dầy. đặc biệt ở Nam định có chợ Viềng; Phủ Tây
Hồ nằm ở Thành Thăng Long- Hà Nội-Trung tâm kinh tế- chính trị- Văn hóa của đất nước.
Đến thế kỷ XVI- XVIII, là thời kỳ kinh tế hàng hóa ở nước ta bắt đầu đầu phát
triển và đã xuất hiện Phố Hiến - Hưng Yên cùng với Thăng Long -Hà Nội, là hai đô thị lớn
của đồng bằng Bắc bộ.Phải chăng, tín ngưỡng thờ Mẫu xuất hiện khá phổ biến ở đồng
bằng Bắc bộ với bất kỳ tầng lớp nào, nhưng với những điều đáng chú ý ở trên đã tạo cho
tín ngưỡng thờ Mẫu có một ý nghĩa thật đặc biệt trong đời sống tinh thần của tầng lớp
buôn bán ? có lẽ vì thế mà Mẫu Liễu Hạnh luôn có sức hấp dẫn đặc biệt, là một Mẫu có
quyền năng đặc biệt tác động đến người đi lễ.
Trên đây là mấy nhận xét ban đầu của điện thần thờ Mẫu Liễu Hạnh ở một số trung
tâm thờ Mẫu. Tuy nhiên, ở mỗi địa phương, mỗi vùng có sự khác biệt nhưng nhìn chung
đều dựa vào cái khung cơ bản đó.
* Sự khác nhau cơ bản giữa hình thức thờ Mẫu Tam phủ - Tứ phủ với hình thức thờ
Mẫu khác:
Nghiên cứu về tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ, bên cạnh các đền thờ Mẫu
thuộc hệ thống Mẫu Tam phủ - Tứ phủ, còn tồn tại hình thức tín ngưỡng nằm ngoài hệ
thống Mẫu Tam phủ - Tứ phủ, đó là những cái tên như: Quốc Mẫu Âu Cơ, Thánh Mẫu ỷ
Lan, Vương Mẫu... Với những tên gọi đó tuy có khác nhau, nhưng đều bắt nguồn từ thờ nữ
thần, thuộc loại hình tín ngưỡng thờ thần.
Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ - Tứ phủ và tín ngưỡng thờ Mẫu nằm ngoài hệ thống
Tam phủ - Tứ phủ,đều có điểm chung là đều tôn thờ nữ thần và thờ Mẫu. Tuy nhiên,
không phải tất cả các nữ thần đều thành Bà, thành Chúa và đặc biệt thành Mẫu. Chúng ta
biết rằng tín ngưỡng thờ Mẫu bắt nguồn và phát triển trên cơ sở thờ nữ thần. Theo tác giả
Toan ánh thì: “ Nó thuộc loại hình tín ngưỡng thờ thần mà có người gọi là Thần đạo, một
đạo mang bản sắc Việt Nam rõ rệt nhất” [2, tr.110].
Tục thờ nữ thần là sự thừa nhận quyền năng và vị trí của phụ nữ trong lịch sử. Tín
ngưỡng thờ Mẫu là sự triển khai lòng kính trọng, tôn vinh, tôn xưng đối với người phụ nữ,
nó thể hiện khát vọng của con người luôn mong muốn và vươn tới những điều tốt đẹp
trong cuộc sống. Tín ngưỡng thờ Mẫu tuy bắt nguồn từ tục thờ nữ thần, nhưng không phải
mọi nữ thần đều được tôn vinh là Mẫu.
Cũng cần phân biệt tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ - Tứ phủ với tín ngưỡng thờ Mẫu
nói chung. Trước hết, ta phải nhìn nhận Mẫu trong hệ thống tôn thờ nữ thần của Việt Nam.
Việc tôn thờ nữ thần ở nước ta rất phổ biến và đã có từ xa xưa như hiện tượng bà Tứ Pháp,
Mẹ Lúa, Mẹ đất…Chúng ta không nên đồng nhất hoàn toàn giữa thờ Mẫu với Mẫu Tam
phủ - Tứ phủ (Tam tòa thánh Mẫu). Từ Nữ thần, thờ Mẫu đến Mẫu Tam phủ - Tứ phủ là
bước phát triển về nhiều mặt, trong đó thể hiện rõ nhất là hệ thống điện thờ.
Mẫu Tam phủ - Tứ phủ khác với tín ngưỡng thờ Mẫu thần và thờ thần. Mẫu Tam
phủ - Tứ phủ đã có những bước chuyển biến đáng kể về tính hệ thống, nó từ một tín
ngưỡng dân gian tản mạn, rời rạc nay bắt đầu quy về một hệ thống khá nhất quán về điện
thần và các phủ (Thiên phủ, địa phủ, Nhạc phủ…) và các hàng thần khá rõ.
Theo GS. Đinh Gia Khánh thì: “Nếu như từ tín ngưỡng thờ Mẫu đến đạo Tam phủ
đã có một sự phát triển từ cụ thể lên phổ quát, thì từ đạo Tam phủ đến đạo Tứ phủ lại có sự
phát triển ở chỗ tính phổ quát ấy được bổ sung bằng tính sinh động ” [22, tr.12].
Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ - Tứ phủ đã chứa đựng những nhân tố về vũ trụ luận
nguyên sơ, đã sáng tạo ra một không gian vũ trụ với bốn miền và mỗi Mẫu hóa thân vào
một miền để cai quản vũ trụ. Những quan niệm về vũ trụ luận và tín ngưỡng cổ sơ của
người Việt trong tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt cổ đã dần được hệ thống hóa lại và
nâng cao lên một mức. Đó là, quan niệm đồng nhất Mẫu - Mẹ với vũ trụ, mà hóa thân
thành Tam phủ - Tứ phủ. Một nghi lễ điển hình của loại hình tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ
- Tứ phủ là hình thức sân khấu tâm linh đặc thù Hầu bóng (hầu đồng) và lễ hội “tháng tám
giỗ cha, tháng ba giỗ mẹ ”. Tín ngưỡng thờ Mẫu ngoài thờ Mẫu Tam phủ - Tứ phủ thì
không có những nhân tố và nghi lễ điển hình như trên. Ngoài ra, các nghi lễ thờ cúng trong
các Đền, Phủ trong Mẫu Tam phủ - Tứ phủ đã được chuẩn hóa.
Khi Tam phủ trở thành Tứ phủ, cùng với sự xuất hiện của vị thần chủ là Mẫu Liễu
Hạnh thì hệ thống điện thần, quan niệm nhân sinh và vũ trụ cùng các nghi lễ, lễ hội càng
trở nên tính có hệ thống hơn. Tuy nhiên tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ - Tứ phủ không thể
tách rời hệ thống tôn thờ nữ thần ở Việt Nam. Trong điện thần của tín ngưỡng Tam phủ -
Tứ phủ là thờ đa thần, Mẫu và các hóa thân của Mẫu trong vai trò các Quan, Chầu, Ông
Hoàng, cậu… đều được lịch sử hóa thành các nhân vật lịch sử gắn với công cuộc dựng
nước và giữ nước của dân tộc ta.
Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ - Tứ phủ còn có điểm khác với tín ngưỡng thờ Mẫu
ngoài Tam phủ - Tứ phủ là nó đã hòa nhập với các tín ngưỡng, tôn giáo khác như Phật
giáo, Đạo giáo, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên…
Tín ngưỡng thờ Mẫu thần phát triển lên thành tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ rồi Tứ
phủ, có sự ảnh hưởng lớn của Đạo Giáo (Trung quốc). Về phương diện tín ngưỡng,tôn giáo
thì tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ - Tứ phủ đã vượt lên một trình độ cao hơn của một tín
ngưỡng dân dã nguyên sơ, nặng về thực hành.
Tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ với Liễu Hạnh là trung tâm đã thoát ra khỏi ảnh hưởng
của chế độ mẫu hệ, khác với việc các nữ thần trước nó đều phải gửi gắm thân phận vào các
biến thể của các biểu tượng khác như Cây gỗ Dâu (Mẫu Man Nương). ở giai đoạn này
nhận thức của con người đã có nhiều tiến bộ, họ biết xây dựng một nhân vật với những
hình tượng có thật của đời sống thường nhật với những tâm trạng, hành trang cũng như lý
trí ở mức độ lý tưởng hóa.

2.3. Những vấn đề đặt ra đối với tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ hiện
nay
Thực tiễn hiện nay là phải đối xử với tín ngưỡng thờ Mẫu như thế nào? xét đến
cùng thì thờ Mẫu hay thờ nữ thần gắn với truyền thống văn hóa dân gian của nhân dân ta
từ thời kỳ dựng nước. Cho đến nay, tín ngưỡng thờ Mẫu vẫn là một hiện tượng có sức hấp
dẫn đối với đời sống tâm linh của một số người. ở đây, vấn đề là phải tìm được mối quan
hệ giữa tín ngưỡng thờ Mẫu với nhu cầu đời sống tinh thần của người dân, phải tìm ra
những mặt tích cực phù hợp với chính sách tự do tín ngưỡng của Nhà nước ta.
Hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau chưa thống nhất về thờ Mẫu. Các quan
điểm đó là: Tục thờ Mẫu, đạo Mẫu, là tín ngưỡng dân gian, hoặc có ý kiến cho rằng: Nếu
xem xét tín ngưỡng thờ Mẫu từ các khía cạnh điện thần, nghi thức thờ cúng, các tín điều
mang quan niệm vũ trụ luận và ý thức xã hội, tín đồ và các hình thức tổ chức của nó, tính
cứu thế và mức độ phổ cập của tín ngưỡng này liệu ta có thể đặt vấn đề là tín ngưỡng thờ
Mẫu của người Việt từ một hình thức tín ngưỡng nguyên thủy đang dần trở thành một tôn
giáo dân dã sơ khai? Vấn đề này cần nghiên cứu nhiều hơn nữa.
Tín ngưỡng thờ Mẫu đã có từ rất lâu và có không ít những công trình nghiên cứu
về tín ngưỡng này, nhưng Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ - Tứ phủ chưa biết đích xác có từ
khi nào ? và khi nào Tam phủ trở thành Tứ phủ. Chúng ta cần tiếp tục nghiên cứu để tìm ra
thời gian xuất hiện của tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ - Tứ phủ.
Những năm gần đây, tín ngưỡng thờ Mẫu tạo ra những lễ hội của nhiều địa phương,
biểu hiện của xu hướng trở lại với nền văn hóa truyền thống của dân tộc. Tuy nhiên, nét
riêng trong sinh hoạt của tín ngưỡng thờ Mẫu đó là nghi lễ “hầu đồng”(hầu bóng) ở các
đền, phủ, điện… Trước kia các hoạt động này được coi là mê tín dị đoan, nhưng nay hầu
đồng(hầu bóng) diễn ra công khai cả ban ngày lẫn ban đêm ở nhiều nơi. Hiện nay, còn
nhiều ý kiến khác nhau về cách nhìn nhận, đánh giá về hiện tượng hầu đồng(hầu bóng).
Vậy vấn đề hầu đồng nên đánh giá và ứng xử như thế nào?
Chúng ta đã biết, ở các trung tâm thờ Mẫu Liễu Hạnh như Phủ Dầy, Đền Sòng các
lễ hội được tổ chức hàng năm thường vào một thời gian cố định. Trong lễ hội bao giờ cũng
gồm hai phần đó là phần lễ và phần hội. Tuy nhiên, có một trung tâm thờ Mẫu Tứ phủ là
Phủ Tây Hồ (Hà Nội) đã từ lâu hàng năm không có lên đồng và lễ hội như ở Đền Sòng hay
Phủ Dầy. Đây cũng là một vấn đề cần được xem xét?
Xã hội ngày càng phát triển, quan hệ giao lưu được mở rộng, Kinh tế thị trường
ngày càng lan rộng vào hệ thống tín ngưỡng và tôn giáo. Tín ngưỡng thờ Mẫu trên thực tế
với những biến dạng xa dần hiện tượng gốc của thờ Mẫu. Nội dung thờ cúng trong tín
ngưỡng thờ Mẫu rất phong phú, liên quan đến các đối tượng cử lễ và phần “Hội” trong
những lễ hội thờ Mẫu có phần mờ nhạt hơn phần “Lễ” và đây cũng là cơ sở để những phần
tử mê tín dị đoan có cơ hội phát triển.
Một nhà nghiên cứu đã viết về tín ngưỡng thờ Mẫu như sau:“ đạo thờ Mẫu mang
trên mình nó không ít những bụi bậm, vấy bẩn, nhảm nhí,… làm che lấp đi một biểu tượng
đẹp của con người Việt Nam cổ truyền. ” [42, tr.23]. Nhiệm vụ của chúng ta là làm thế nào
để trả lại những giá trị văn hóa và giá trị tâm linh đích thực của tín ngưỡng thờ Mẫu và loại
bỏ những yếu tố tiêu cực nảy sinh từ tín ngưỡng thờ Mẫu.
Chương 3
Những giải pháp và kiến nghị cơ bản
đối với Tín ngưỡng thờ Mẫu ở một số tỉnh
thuộc đồng bằng Bắc bộ hiện nay

3.1. Xu hướng biến đổi của Tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ hiện nay
Tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ đã có từ rất lâu, nó đã ăn sâu bám rễ vào
đời sống tinh thần của người dân từ thế hệ này sang thế hệ khác. Trước kia, tín ngưỡng thờ
Mẫu có một thời gian bị coi là hiện tượng mê tín dị đoan, bị coi nhẹ. Nhưng hiện nay, loại
hình tín ngưỡng này lại đang có xu hướng phục hồi và phát triển cả về bề rộng lẫn chiều
sâu. Các cơ sở thờ tự Mẫu đều được sửa sang bề thế, khang trang trên nguyên tắc bảo tồn
các kiến trúc cổ có từ trước. Các lễ hội dân gian truyền thống của tín ngưỡng thờ Mẫu
được phục hồi và tổ chức định kỳ, thu hút nhiều khách thập phương. Bên cạnh đó, các hủ
tục cũ cũng bùng ra cùng với một số hủ tục mới và nó có mặt ở khắp mọi nơi.
Kể từ khi có nghị quyết 24 “Về tăng cường công tác Tôn giáo trong tình hình mới”
năm 1990 thì tín ngưỡng thờ Mẫu đang có những sự thay đổi trên cả phương diện nhận
thức, cũng như hoạt động thực tiễn.
Chúng ta đã biết, tín ngưỡng thờ Mẫu đang dần phục hồi và phát triển cùng công
cuộc đổi mới toàn diện của đảng. Nhưng sự phục hồi và phát triển đó đang nổi lên có xu
hướng tập hợp các nữ thần có nguồn gốc từ các tôn giáo khác nhau. đó là kiểu đan ghép, tuân
thủ xu thế hòa nhi bất đồng và “ảnh hưởng của kinh tế thị trường, tục thờ thần Tài …làm nảy
sinh ra hiện tượng biến các nữ thần, thánh vốn liêm khiết thành kẻ cho vay nặng lãi, vay một
trả mười, dùng cả đô la âm phủ, như hiện tượng bà Chúa Kho (Bắc Ninh)” [50, tr.321].
Tín ngưỡng thờ Mẫu đang có xu hướng Mẫu át Phật ở một số nơi, đa số các ngôi
chùa ở đồng bằng Bắc bộ đều có điện thờ Mẫu. Trong đó, điện thần cũng có cách thức
phối tự các ngôi đền, Phủ …và hiện tượng phổ biến nhất hiện nay là “ tiền Phật, hậu Mẫu
”, Quan Âm trong Phật giáo ấn độ là nam thần, sang đến Việt Nam bị “mẫu hóa” thành
“Phật bà Quan Âm” và các “Mẫu ”ngự trong khuôn viên chùa Việt Nam nói chung và ở
đồng bằng Bắc bộ nói riêng dường như là một kết cấu thống nhất. Nếu vì một lý do nào đó
mà chùa nào chưa có nhà hay gian thờ Mẫu riêng ngay cạnh lối đi trong chùa thì các đệ tử
của tín ngưỡng Mẫu và dân chúng quanh vùng đều có ý thức phải cố gắng xây dựng càng
nhanh càng tốt. Thông thường thì nơi thờ Mẫu được thi công cùng lúc với khi xây dựng
chùa.
Ngoài ra, với cái lợi trước mắt một nơi đã bỏ vốn xây dựng, tu sửa cơ sở thờ tự để
thu hút “hầu bao” tiền cúng công đức của khách thập phương. Mặt khác, các “con nhang”,
“đệ tử” của Mẫu hầu hết là người làm ăn buôn bán. Vì vậy, họ không ngần ngại trong việc
đóng góp vào việc xây dựng và sửa chữa nơi thờ tự các Thánh Mẫu.
Ngày nay, khi xã hội đang có những biến đổi sâu sắc về kinh tế-chính trị, xã hội -
văn hóa thì hình thức hoạt động sinh hoạt tín ngưỡng thờ Mẫu ở nước ta vẫn duy trì, phát
triển và có những biểu hiện khá phức tạp. Tín ngưỡng thờ Mẫu đang có xu hướng tiến gần
tới mê tín dị đoan. Tuy nhiên, xu hướng chính và chủ đạo của tín ngưỡng dân gian nói
chung và tín ngưỡng thờ Mẫu nói riêng là một trong những hình thức sinh hoạt văn hóa tín
ngưỡng trong cộng đồng và được biểu hiện như một hoạt động mang tính xã hội, giáo dục.
Xu hướng lịch sử hóa, huyền thoại hóa các nhân vật lịch sử trong các hiện tượng tín
ngưỡng là xu hướng chủ đạo, là quy luật của tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Tín ngưỡng
thờ Mẫu cũng nằm trong xu hướng đó, nếu không gắn với lịch sử dựng nước và giữ nước
thì không thể tồn tại lâu dài trong nhân gian được. Có một hiện tượng nổi bật của tín
ngưỡng Việt Nam sau thời kỳ đổi mới, đó là Bà Chúa Kho(Bắc Ninh). Trong quan niệm
dân gian hiện nay thì Bà Chúa Kho: “ chưa được tôn Thánh, nhưng lòng ngưỡng mộ của
dân chúng đối với bà thật là kỳ diệu…đền Bà Chúa Kho đã trở thành trung tâm thờ cúng
tầm cỡ quốc gia” [29, tr.86-87].
Bà Chúa Kho không phải là một nhân vật được nghi chép trong chính sử, mà chỉ
được lưu truyền trong dân gian, Bà được gắn với thể chế nhà nước phong kiến Việt Nam.
Theo GS.TS Ngô đức Thịnh thì những tư liệu và truyền thuyết thu thập được về Bà
Chúa Kho cũng ít nhiều liên quan tới tục thờ Mẹ lúa nguyên thủy, và ông đã đưa ra một
giả thuyết cho rằng: “nguồn cội ban đầu của Bà Chúa Kho là nữ thần mẹ lúa” [ 45, tr.151].
Từ những năm 1990 trở lại đây, như mọi người đều biết xu hướng thờ cúng Bà
Chúa Kho(Bắc Ninh) nổi lên như một điển hình của tín ngưỡng dân gian Việt Nam sau
thời kỳ đổi mới. Di tích đền Bà Chúa Kho vốn nhỏ bé và có phần tĩnh lặng xưa kia, nay đã
thay da đổi thịt nhộn nhịp hẳn lên….Và những người đến cầu khấn không còn là những
nông dân như trước kia, mà nay chủ yếu là thương nhân, thị dân, viên chức nhà nước. Tác
giả viết: “một tín ngưỡng ban đầu mang tính hướng nội của cộng đồng làng xã nay trở
thành một tín ngưỡng mang tính hướng ngoại, tức chủ yếu phục vụ cho những người bên
ngoài cộng đồng” [45, tr.152].
Ngày nay, nhiều nơi trên đất nước ta, nhân dân đã lập đền để thờ các vị nữ anh hùng
dân tộc trong lịch sử như Bà Triệu, Bùi Thị Xuân, Võ Thị Sáu, Nguyễn Thị Định... Bên
cạnh đó, trong tâm thức của người dân, các Mẫu luôn luôn ở gần con người, thậm chí ở
ngay xóm làng, với mục đích là đáp ứng những nhu cầu tinh thần cho xóm làng. Ví dụ, ở
Yên Thế, nơi thờ vợ ba của Hoàng Hoa Thám, một nữ anh hùng dân tộc của đầu thế kỷ
XX, đã trở thành Mẫu và làm tăng thêm danh mục thờ Mẫu ở nước ta.
Cùng với xu hướng thiên về mê tín dị đoan là xu hướng thiên về hình thức, phô
trương gây lãng phí của cải và thời gian trong nghi lễ của tín ngưỡng thờ Mẫu. Ví dụ. Khi
đến các Phủ, Đền …để lễ các Thánh Mẫu có người mua rất nhiều thứ vàng mã đắt tiền, với
những mâm cỗ chay, mặn cao ngất. Thậm chí có người còn bỏ nhiều tiền để lập một hay
nhiều giá đồng với nhiều mục đích khác nhau.
Ngoài những xu hướng trên, tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ còn tồn tại
một xu hướng nữa đó là xu hướng “ thiết chế hóa” trong hệ thống lễ hội của loại hình tín
ngưỡng này. Chúng ta biết rằng trong một lễ hội, nhất là một lễ hội thờ Mẫu truyền thống
từ rất xưa của người Việt ở đồng bằng Bắc bộ thì bản thân những nhân tố “bên trong” còn
bị ảnh hưởng bởi nhân tố “bên ngoài”, đó là những ảnh hưởng của các thể chế nhà nước
thuộc các chế độ chính trị đương thời đang tồn tại. Các tác động, ảnh hưởng ấy một mặt là
yếu tố văn hóa truyền thống có được từ hàng ngàn năm, mặt khác nó lại mang yếu tố
“ngoại sinh” vì nó được chi phối nhiều của quá trình “thiết chế hóa” của hệ thống lễ hội
nói chung, với mục đích làm cho các lễ hội của loại hình tín ngưỡng thờ Mẫu này không
chỉ dừng lại là những sinh hoạt văn hóa dân gian thông thường mà dần từng bước sẽ trở
thành những thiết chế văn hóa với những chức năng xã hội ngày càng được xác định rõ
ràng bằng một cơ chế tổ chức, cơ sở vật chất, cơ sở thờ tự và sinh hoạt đặc thù của tín
ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ hiện nay.

3.2. Những giải Giải pháp chủ yếu


3.2.1. Một số vấn đề cần làm rõ trong hoạt động tín ngưỡng thờ Mẫu hiện nay
ở đồng bằng Bắc bộ
Trước khi đưa ra những giải pháp và kiến nghị nhằm phát huy những giá trị tích
cực, hạn chế những mặt tiêu cực của tín ngưỡng thờ Mẫu. Chúng ta nên nhận thức đúng
đắn, toàn diện và khách quan về sự tồn tại lâu dài của tín ngưỡng nói chung, tín ngưỡng
thờ Mẫu nói riêng trong xã hội hiện nay cùng với nhân loại giống như các thành tố khác
của thượng tầng kiến trúc và những thành tựu văn hóa khác.
Tín ngưỡng thờ Mẫu còn là một vấn đề văn hóa - xã hội có cơ sở vật chất (đền,
chùa, phủ…)và cơ sở xã hội (trong tâm thức bao đời của người dân từ trước đến nay “Mẫu
”đã ngự trị trong họ) để tồn tại lâu dài. Tín ngưỡng thờ Mẫu còn được nuôi dưỡng và lan
tỏa trong xã hội nhất là những năm gần đây từ khi Đảng và nhà nước ta có cách nhìn nhận
mới với bình diện rộng hơn thì tâm thức về tín ngưỡng lại càng có cơ sở để thâm nhập, tồn
tại lâu dài trong cá nhân và xã hội.
Thực tiễn xã hội còn có nhiều hiện tượng mà con người chưa giải thích, khám ra
được hết và thế giới là vô hạn mà khả năng con người có giới hạn. Mặt khác, con người
luôn phải tìm cách đấu tranh với những hiểm họa do thiên nhiên mang lại như: động đất,
sóng thần, bão lũ.... Cho nên con người phải tìm đến những lực lượng thần thánh ngoài bản
thân mình. Đây chính là mảnh đất để tín ngưỡng nảy nở, sinh sôi, trong đó có cả mê tín dị
đoan.
Theo G.S Đặng Nghiêm Vạn thì:
Sự may rủi trong cuộc sống ở một thời đại cạnh tranh, mạnh được yếu
thua….tất cả những điều trên hướng con người muốn tìm lại phút thảnh thơi
trong cuộc sống gần thiên nhiên thủa xưa …Trở về với lịch sử để tìm một lối
thoát cho tương lai. Đó là nhu cầu của con người thời hiện đại [38, tr.62].
Đúng như GS Đặng Nghiêm Vạn đã nhận xét ở trên, những năm gần đây một số lễ
hội và cơ sở thờ tự đã được nhân dân và Nhà nước quan tâm, hướng dẫn đã phục hồi trở lại
như lễ hội Đền Hùng, Lễ hội Phủ Dầy…Đây là việc làm cần thiết và nên tổ chức bởi vì nó
làm thức dậy lòng yêu quê hương đất nước, đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, giữ gìn bản
sắc văn hóa dân tộc…
Chúng ta nên duy trì và phát triển: “ Những hoạt động tín ngưỡng và lễ hội ứng đáp
những yêu cầu trên: Giữ gìn bản sắc dân tộc và tạo nên những phút bình thản để tưởng nhớ
lại quá khứ và tổ tiên” [38, tr.63].
Khi chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ, các thế lực thù địch
càng có cơ hội xuyên tạc chủ nghĩa Mác- Lênin, chủ nghĩa xã hội và những người cộng
sản. Chúng cho rằng, họ là những người vi phạm nhân quyền, vi phạm quyền tự do tín
ngưỡng của con người và những người Mác xít không bao giờ chấp nhận bất cứ một thứ
tín ngưỡng hay tôn giáo nào. Điều này thật vô lý, ví dụ ở Việt Nam: Đảng và Nhà nước
Việt Nam luôn coi trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân ngay từ những
ngày đầu thành lập và đến tận ngày nay, nó được thể hiện bằng Hiến pháp, các văn bản
luật và dưới luật. Đảng ta luôn coi tín ngưỡng, tôn giáo còn tồn tại lâu dài và là vấn đề có ý
nghĩa chiến lược.
Tại nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 12-3-2003 của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng có nêu: “Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang
và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta”[11, tr.48].
Ngay ở đất nước chủ nghĩa xã hội Cu Ba anh em, cũng có quan điểm giống chúng
ta, đó là tôn trọng quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng của nhân dân. Theo Chủ tịch Fidel thì:
“người ta có thể là một người Mác xít mà không phải từ bỏ niềm tin Kitô giáo của mình và
có thể kết hợp với người cộng sản Mác xít để biến đổi thế giới… ” [48, tr.289].
Chủ tịch Fidel còn cho rằng: Xã hội xã hội chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa
còn tìm cách phát triển đời sống tinh thần của con người. Ông nhấn mạnh: “Chúng tôi tìm
cách phát triển rộng rãi hơn các mặt vật chất và tinh thần của con người…Hơn nữa, anh có
thể kể thêm cả sự phát triển tinh thần theo nghĩa tôn giáo nữa. Chúng tôi đã đặt thành một
nguyên tắc là cá nhân phải có tự do và khả năng này” [48, tr.291].
Như vậy, tín ngưỡng nói chung và tín ngưỡng thờ Mẫu nói riêng là một sinh hoạt tư
tưởng của quần chúng nhân dân, nó như là biểu hiện cụ thể trong một bộ phận tự do tinh
thần của con người.
Tiếp theo, chúng ta nên làm rõ khái niệm hầu bóng(hầu đồng), để đưa ra những giải
pháp và kiến nghị sát với thực tế của tín ngưỡng thờ Mẫu hiện nay ở đồng bằng Bắc bộ.
Khái niệm hầu đồng (hầu bóng) được tác giả luận văn hiểu là:
“đồng ” là gốc chữ Hán chỉ người con trai nhỏ(ít tuổi) với tư chất trong trắng, ngây
thơ để thần linh có thể nhập vào.
Tuy nhiên, có một cách giải thích khác về Hầu bóng đó là: “Bóng đây là bóng
Thánh. Người ngồi đồng chỉ là cái Ghế của Thánh. Thánh là Cốt. Ghế là Đồng. Nhưng
Ghế hoàn toàn không phải là một thứ vật chất không tư duy, không tình cảm” [28, tr.502].
Và ở cách giải thích này thì tác giả Đặng Văn Lung cho rằng: Đồng vốn có nghĩa gốc là
Đều Cùng. Thánh và Ghế hòa hợp thì gọi là giá đồng.
Xuất phát từ việc thông qua một giá đồng làm trung gian - cầu nối để con người có
thể tiếp xúc với thế giới thần linh, nơi mà con người hy vọng và nghĩ rằng có thể giải quyết
những ước vọng và những bế tắc của họ.
Hoặc: “Hầu bóng - từ “bóng” chỉ vị thần linh nào đó chiếu nhập cái bóng (hồn) của
mình vào ông đồng hay bà đồng và những ông bà đồng này chỉ là những người hầu hạ cái
bóng thần linh ấy ” [43, tr.48].
Như vậy, ta có thể hiểu Hầu đồng hay hầu bóng: “ Là hiện tượng nhập hồn nhiều
lần của một vị thần linh. Trong đó mỗi vị thần linh nhập hồn (ốp đồng, giáng đồng), rồi
làm việc quan (thời gian thực hiện các nghi lễ, nhảy múa, ban lộc, phán truyền) và xuất
hồn (thăng đồng), được gọi là một giá đồng ” [41,tr.27-28].
Hầu bóng như sinh hoạt văn hóa tâm linh cần tôn trọng, còn đồng bóng biểu hiện
tính chất cuồng tín, nhảm nhí … của một số người làm nghề đồng bóng khi lợi dụng tâm lý
những người nhẹ dạ, cả tin, những người hay gặp trắc trở trong cuộc sống…để họ phải
sắm lễ giải hạn, làm con nuôi của thánh, lập bùa giải vận hạn…Những việc này mất khá
nhiều tiền của và công sức vì thế nên bài trừ.
Để an toàn cho mỗi người, chấm dứt hiện tượng mê tín dị đoan và để đảm bảo an
toàn cho xã hội, chúng ta không thể tìm mọi cách ngăn chặn mọi con đường tìm đến với
tín ngưỡng. Bởi vì, tín ngưỡng là nhu cầu tâm linh cần thiết của con người trong xã hội
loài người.
Hiện nay, vẫn còn có các quan điểm khác nhau về vần đề “hầu bóng” trong tín
ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ. Có quan điểm cho rằng đây là hiện tượng mê tín dị đoan, nhưng
có ý kiến khác lại coi đây chỉ là hiện tượng bình thường của một tín ngưỡng dân gian
không bị coi là mê tín dị đoan. Thực ra, vấn đề nhiều cấp lãnh đạo và nhiều người băn
khoăn hiện nay không phải là việc mở hội mà chính phần “lễ” của loại hình tín ngưỡng
này liên quan đến nghi thức hầu đồng. Để góp phần vào việc loại trừ hiện tượng mê tín dị
đoan trong tín ngưỡng thờ Mẫu, theo tác giả luận văn nên chăng phải có qui định rõ về
hoạt động trong nghi lễ hầu đồng. Có thể chia ra thành:
Loại 1: Hầu đồng thể hiện tính chất saman, phù thủy phương hại đến:
Một là, môi trường sinh thái như đốt và đổ vàng mã nhang đèn làm ô nhiễm môi
trường.
Hai là, ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng. Đó là hình thức chữa bệnh bằng các
loại bùa chú, nước thải…
Ba là, ảnh hưởng đến kinh tế, sản xuất và tâm lý của cộng đồng. Nhiều khi có người
phải bỏ một số tiền quá lớn ngoài khả năng của mình để theo một giá đồng, hoặc lợi dụng
thế lực của thần thánh qua mối giao hòa bí ẩn giữa những “ông đồng”, “bà đồng” với
những vị thần thánh do họ dựng nên. Mục đích là tạo ra những dự báo, những vấn đề có
ảnh hưởng đến nhiều mặt của cuộc sống người khác.
Bốn là, ổn định xã hội. Giải thích và phán xét những hiện tượng, nguyên nhân sự việc
trong mối quan hệ cộng đồng thiếu chứng lý khoa học, nhiều khi còn phản khoa học. Bởi vì,
chỉ dựa vào ngôn ngữ và danh nghĩa thần thánh.
Loại 2: Hầu đồng thể hiện tính chất saman, phù thủy không phương hại đến: Môi
trường sinh thái, sức khỏe cộng đồng, kinh tế, sản xuất, tinh thần và sự hoang mang trong
cộng đồng dân cư.
Sau khi chia thành hai loại như trên, nếu ai đó vi phạm hoặc có biểu hiện và mang
tính chất phương hại như loại 1 thì không cho thực hiện lễ thức hầu đồng.
Sinh hoạt tín ngưỡng thờ Mẫu gắn liền với loại hình nghệ thuật diễn xướng, đó là
âm nhạc, hát văn và lên đồng (Hầu đồng). Đây chính là điều dễ làm lan truyền cảm xúc
trong quần chúng, là nét văn hóa đậm mầu sắc dân tộc. Tuy nhiên, nó cũng là điểm yếu dễ
bị kích động và lợi dụng theo những mục đích khác nhau của nhóm người này, hay nhóm
người khác của xã hội và mê tín dị đoan xuất hiện. Để bảo tồn và phát triển các loại hình
nghệ thuật trong tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ, tác giả luận văn xin đưa ra một
vài suy nghĩ đối với những cơ sở thờ tự cho phép có sinh hoạt hầu đồng nhưng phải tuân
thủ những điều kiện sau:
- Điều kiện thứ nhất: Lời lẽ khi hát chầu văn phải được thông qua, tránh những lời
mơ mồ về chính trị. Các ông đồng, bà đồng được phép “mời” các thánh về giúp mọi người
gặp may mắn, bình an, mưa thuận gió hòa…
- Điều kiện thứ hai: Múa thiêng ở mức vừa phải, không làm những trò “ảo thuật”
với mục đích lừa bịp những người xung quanh, không có những hành vi vi phạm thuần
phong mỹ tục và đặc biệt những người ngồi xung quanh giá đồng không được tham dự.
- Điều kiện thứ ba: Múa thiêng chỉ được múa trong phạm vi nhỏ hẹp, không được
múa ra khỏi khu vực ban thờ.
- Điều kiện thứ tư: Những ông đồng, bà đồng không được phép nhận hoặc ép nộp tiền
hay có những lời lẽ làm ảnh hưởng đến vấn đề mê tín dị đoan.

3.2.2. Các giải pháp chung cơ bản


* Giải pháp thứ nhất: Có những hình thức tuyên truyền, giáo dục đường lối chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tự do không
tín ngưỡng. Đồng thời, chúng ta tìm cách để người dân hiểu và nhận thức được ranh giới
giữa sinh hoạt tín ngưỡng với các hoạt động mê tín dị đoan.
Mục đích của biện pháp này là giáo dục pháp luật cho mọi người dân để họ hiểu
được rằng:
Thứ nhất, mọi người dân đều có quyền tự do tín ngưỡng và tự do không tín ngưỡng,
tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào.
Thứ hai, kiên quyết xử lý nghiêm những kẻ lợi dụng tự do tín ngưỡng, tôn giáo để
phá vỡ sự ổn định chính trị - xã hội, gây rối trật tự công cộng, chia rẽ khối đại đoàn kết dân
tộc…
Tín ngưỡng là nhu cầu tinh thần thiết yếu của một bộ phận dân cư, nó đang và sẽ
tồn tại cùng dân tộc Việt Nam trong quá trình xây dựng đất nước Việt Nam dân chủ, văn
minh, hiện đại, giầu mạnh và tươi đẹp. Tự do tín ngưỡng đã được xác định ngay từ những
năm đầu lập quốc và được thể hiện trong Hiến pháp năm 1946, cũng như sau này nội hàm
về tự do tín ngưỡng đã được mở rộng, tiếp tục được ghi nhận và phát triển trong các bản
Hiến pháp.
Những năm gần đây, một số văn bản pháp luật tiếp tục cụ thể hóa tư tưởng của Hiến
pháp nước ta về tín ngưỡng và tôn giáo như: Nghị quyết số 25 -NQ/TW ngày 12-3-2003
của Ban chấp hành Trung ương Đảng;
Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo của ủy ban thường vụ Quốc hội (2004) …
Ngoài ra chúng ta phải có kế hoạch, biện pháp tuyên truyền những văn bản luật,
dưới luật…xuống tận người dân để họ hiểu được chính sách của Đảng và pháp luật của
Nhà nước.
Về mặt đường lối, chúng ta đã có chính sách tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng được
ban bố công khai và ngày càng cụ thể hóa. Chính sách tôn giáo, tín ngưỡng đó đều xuất
phát từ nhận thức khoa học, cơ sở lý luận khách quan và căn cứ vào từng nhiệm vụ chính
trị của từng giai đoạn …nên sát và đúng đắn. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là việc thấm nhuần
nội dung và ý nghĩa của chính sách đó lại không được lưu tâm đầy đủ đúng mức.
Thực tế tín ngưỡng ở vùng đồng bằng Bắc bộ là đa dạng và phong phú, bên cạnh
đời sống vật chất của người dân ngày càng được cải thiện. Vì thế, người dân ngày càng
quan tâm đến đời sống tinh thần trong đó có đời sống tâm linh và đời sống tâm linh của
người dân được thể hiện dưới nhiều hình thức, cách thức khác nhau. Không ít người cho
rằng, nếu có trình độ kinh tế và văn hóa cao sẽ không còn vấn đề tín ngưỡng. Điều này dễ
dẫn đến sự vi phạm sự tự do tín ngưỡng của người khác hoặc không ngăn chặn ảnh hưởng
của mê tín dị đoan.
Một vấn đề cần quan tâm nữa là, chúng ta phải làm cho cán bộ và nhân dân hiểu và
nhận thức đúng, đầy đủ thế nào là tự do tín ngưỡng và tự do không tín ngưỡng; tầm quan
trọng của việc bài trừ mê tín dị đoan là việc làm cần thiết như thế nào. Cần kiên trì giáo dục,
hạn chế những yếu tố thiếu lành mạnh, mê tín dị đoan trong nghi lễ của tín ngưỡng thờ Mẫu
như: “Thầy đồng tỉnh như sáo, thuốc lá phì phèo, hay lấy tiền một giá hàng triệu đồng. Nhưng
nếu hậu quả gây ra điều có hại cho đối tượng thì pháp luật phải can thiệp” [38, tr.65].
Ngoài việc tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của
nhân dân, chúng ta cũng cần làm cho mọi người thấy rõ những nguy hại của việc lợi dụng
chính sách tự do tín ngưỡng để hoạt động chia rẽ dân tộc, tổn hại đến tính mạng …Đảng
và Nhà nước ta còn qui định và hướng dẫn các hoạt động sinh hoạt tín ngưỡng theo đúng
qui định của pháp luật. Chúng ta phải tuyên truyền, giáo dục người dân để họ hiểu rằng:
Nhà nước Việt Nam sẽ kiên quyết xử lý nghiêm những kẻ lợi dụng tự do tín ngưỡng, tôn
giáo để phá vỡ sự ổn định chính trị - xã hội, gây rối trật tự công cộng, chia rẽ khối đại đoàn
kết dân tộc…
Trong văn kiện đại hội IV của Đảng cộng sản Việt Nam năm 1976 có ghi:
“…chống những hoạt động lợi dụng tôn giáo để làm hại đến lợi ích của Tổ quốc, của nhân
dân, của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ”[9, tr.161].
Đến Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương khóa IX (2003) cũng
nghi: “Nghiêm cấm lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động mê tín dị đoan, hoạt động trái
pháp luật và chính sách của Nhà nước” [11, tr.49].
Ngày nay, trong lĩnh vực tín ngưỡng, nhất là tín ngưỡng thờ Mẫu, các hiện tượng
mê tín dị đoan đang có xu hướng phát triển và lan tràn, đan xen vào các hoạt động tín
ngưỡng và các lễ hội dân gian. Vì vậy, cần phải đấu tranh ngăn chặn các hoạt động mê tín
dị đoan. Vấn đề bài trừ tệ nạn mê tín dị đoan đã được đề cập rất nhiều trong các nghị
quyết, thông tư (nhất là ngành văn hóa). Gần đây, tại nghị quyết số 25 - NQ/TW của Ban
chấp hành Trung ương Đảng cũng nêu: “Nghiêm cấm lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để
hoạt động mê tín dị đoan…”[11, tr.49].
* Giải pháp thứ hai: Từng bước nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.
Mục đích của biện pháp này là nâng cao trình độ nhận thức về văn hóa, khoa học,
kỹ thuật…từ đó phân biệt được cái đúng, cái sai, cái hay, cái dở…để rồi tự giác loại những
hiện tượng tiêu cực và phát huy những yếu tố tích cực trong tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng
bằng Bắc bộ hiện nay.
Con người luôn theo đuổi những hoạt động có mục đích nhằm thỏa mãn những nhu
cầu của mình. Con người luôn không tự hài lòng và thỏa mãn với những gì mình đang có
và trong cuộc sống họ luôn vươn tới những gì tốt đẹp. Khi những mong muốn, những nhu
cầu của con người không được thỏa mãn trong đời sống vật chất và cả trong đời sống tinh
thần thì họ nảy sinh nhu cầu cứu giúp, sự phù hộ độ trì của các bậc thần thánh. Tuy nhiên,
nếu thực hiện việc lễ bái ở mức thái quá sẽ dẫn tới những hành vi tiêu cực.
Để hạn chế những tiêu cực trong tín ngưỡng thờ Mẫu, chúng ta phải từng bước
nâng cao đời sống vật chất của nhân dân, phải bảo bảo các nhu cầu ăn, mặc, ở, việc
làm…cho nhân dân. Đồng thời phải khai thác triệt để những thế mạnh ở đồng bằng Bắc bộ
như: Các làng nghề truyền thống, đất đai đồng ruộng phì nhiêu, có đội ngũ lao động đông
đảo vừa có kinh nghiệm vừa có tri thức, phát huy hết công suất ở các khu công nghiệp
thuộc đồng bằng Bắc bộ…Từ đó người dân có điều kiện nâng cao văn hóa, hiểu biết khoa
học, thoát khỏi những hủ tục lạc hậu, những tư tưởng mê tín dị đoan.
Không chỉ dừng lại ở việc nâng cao đời sống vật chất, còn phải đồng thời nâng cao
đời sống tinh thần cho nhân dân. Chăm lo, xây dựng đời sống tinh thần cho nhân dân, dựa
trên cơ sở giữ gìn và phát huy những giá trị tinh thần truyền thống tốt đẹp, tiếp thu có chọn
lọc những tinh hoa văn hóa của nhân loại, hòa đồng nhưng không hòa tan…
Nâng cao đời sống văn hóa tinh thần cho nhân dân nhưng có sự lãnh đạo của Đảng,
đảm bảo quyền tự do, dân chủ của nhân dân…Khôi phục những lễ hội truyền thống nhằm
phát huy những giá trị tích cực của tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ như: Tính
hướng thiện của con người. Khi con nhang, đệ tử đi vào đền phủ, chùa đều thành tâm và sự
thành tâm này chính là tấm lòng chân thành của con người kính mộ các vị thánh thần.
Trong khi hát chầu văn sự hướng thiện hay tính giáo dục con người phải sống có nghĩa,
trọng nghĩa hơn tiền bạc, có lòng vị tha, ở hiền gặp lành…
Ngoài ra, cần phải nâng cao trình độ nhận thức của quần chúng nhân dân về mọi
mặt như: Nâng cao trình độ văn hóa, sự hiểu biết về chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, nâng cao nhận thức đúng đắn về tín ngưỡng, tôn giáo và đường lối, chính sách
nhất quán của Đảng và Nhà nước ta về quyền tự do tín ngưỡng của mọi người dân. Đồng
thời giáo dục đạo lý uống nước nhớ nguồn, lòng yêu nước, bản sắc văn hóa …của dân tộc
ta.
* Giải pháp thứ ba: Xây dựng môi trường văn hóa - xã hội lành mạnh. Cụ thể là
xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh tại các công trình tín ngưỡng thờ Mẫu.
Mục đích của biện pháp thứ ba này là tạo ra một môi trường của tín ngưỡng thờ
Mẫu lành mạnh trong lễ hội và những nghi thức thờ cúng trong tín ngưỡng từ đó, giảm
mạnh những yếu tố tiêu cực, mê tín dị đoan trong xã hội.
Xây dựng môi trường văn hóa- xã hội lành mạnh trong cơ sở tín ngưỡng đã được
đặt ra thành các chương trình hành động quốc gia do Bộ Văn hóa Thông tin đảm nhận.
Tuy nhiên, đây là vấn đề khó khăn, phức tạp nên cần dứt điểm từng giai đoạn, có sự phối
kết hợp chặt chẽ giữa các ngành có liên quan từ trung ương tới địa phương.
Chúng ta không quên bồi dưỡng kiến thức khoa học, bồi dưỡng về chủ nghĩa vô
thần để hướng các hoạt động tín ngưỡng vào việc xây dựng con người mới, xây dựng nền
văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, góp phần xây dựng sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.
Tại đền, phủ, miếu … những nơi thờ Mẫu là nơi thu hút nhiều người tham gia sinh
hoạt tâm linh, sinh hoạt văn hóa cộng đồng. Muốn có một môi trường văn hóa - xã hội
lành mạnh thì ngay từ những nơi này phải có những qui hoạch sắp xếp, hướng dẫn và quản
lý của các cấp chính quyền.
Xây dựng môi trương văn hóa - xã hội lành mạnh và lưu giữ nền văn hóa đậm đà
bản sắc dân tộc cùng với lễ hội truyền thống của dân tộc ta. Chúng ta phải biết kết hợp ba
yếu tố: Tính tín ngưỡng, tính văn hóa và tính dân tộc. Lễ là nguyên nhân thứ nhất dẫn đến
việc hình thành hội trong các lễ hội. Muốn phát triển nhiều hơn yếu tố hội, nhưng nếu mất
đi những yếu tố truyền thống dân tộc và tính tín ngưỡng hay tính “thiêng” của lễ, thì hội
cũng khó mà tồn tại được lâu dài.
Trong những lễ hội dân gian, bao giờ cũng đan xen yếu tố mê tín dị đoan. Để nhận
thức đúng đắn về tín ngưỡng và phân biệt nó với mê tín dị đoan là một vấn đề không đơn
giản. Vì thế, chúng ta phải khéo léo, mềm dẻo nhưng không mất đi tính nghiêm minh của
pháp luật, đồng thời phải cảnh giác và đấu tranh với những âm mưu thủ đoạn “diễn biến
hòa bình”.
* Giải pháp thứ tư: Kết hợp giữa biện pháp tuyên truyền và giáo dục với biện pháp
tổ chức, quản lý hành chính.
Mục đích của giải pháp này: Kết hợp tăng cường giáo dục nhận thức với biện pháp
tổ chức quản lý hành chính thì mới đạt hiệu quả cao.
Để có hiệu quả cao trong biện pháp này chúng ta cần kết hợp với công tác phổ biến
thế giới quan khoa học trong quần chúng, trước hết là đội ngũ thanh thiếu niên, thông qua
đoàn thể, nhà trường, …để chúng ta chủ động và nghiên cứu chính diện những tư tưởng nhân
sinh quan trong lĩnh vực tín ngưỡng.
Tuyên truyền, giáo dục cho quần chúng nhân dân nhận thức được hai mặt trong
hoạt động tín ngưỡng, từ đó họ có thái độ đối xử đúng đắn và tôn trọng quyền tự do tín
ngưỡng. Chúng ta đã biết, tín ngưỡng là sản phẩm của con người,vì vậy bản thân tín
ngưỡng không có yếu tố tiêu cực hay tích cực mà chỉ do con người sử dụng và đối xử với
nó như thế nào.
Trong biện pháp này, chúng ta cần tuyên truyền, giáo dục để mọi người hiểu được
vai trò và ảnh hưởng của tín ngưỡng thờ Mẫu với văn hóa - xã hội, tinh thần…đồng thời
phải tôn trọng đời sống tâm linh trong con người.
Giải quyết những vấn đề tín ngưỡng, tâm linh phải thực khéo léo và linh hoạt. Tuy
nhiên, chúng ta giải quyết không vượt qua giới hạn của Hiến pháp và pháp luật của Nhà
nước. Cần điều chỉnh, bổ sung và hoàn thiện những quy chế, qui định về lễ hội, việc cúng
lễ ở các đền chùa….
Các cấp chính quyền cũng cần phải xử phạt nghiêm khắc đối với những trường hợp
vi phạm nghiêm trọng, thường xuyên, có hệ thống các chính sách của Nhà nước về tự do
tín ngưỡng và lợi dụng tự do tín ngưỡng.
Tăng cường công tác quản lý hành chính còn là việc tăng cường hơn nữa chất lượng
công tác của cán bộ văn hóa, đặc biệt là cán bộ văn hóa cơ sở hoạt động trong lĩnh vực tôn
giáo, tín ngưỡng.
* Giải pháp thứ năm: Tăng cường công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học về tín
ngưỡng, tôn giáo.
Mục đích của giải pháp này là: Thứ nhất, đào tạo đội ngũ cán bộ các ban ngành từ
trung ương xuống địa phương về tín ngưỡng, tôn giáo.
Thứ hai, nghiên cứu các vấn đề đặt ra về tín ngưỡng nói chung, tín ngưỡng thờ Mẫu
nói riêng và đưa ra hướng giải quyết. Từ đó, giúp các cơ quan quản lý, các cơ sở thờ tự và
các địa phương có hoạt động liên quan đến tín ngưỡng thờ Mẫu đưa ra những nhận định,
những chủ trương, chính sách… sát với thực tế hiện tại của loại hình tín ngưỡng thờ Mẫu
này.
Để giải pháp này được thực hiện, trước tiên chúng ta phải nghiên cứu tiếp và đầu tư
cả kiến thức lẫn vật chất vào những vấn đề đang đặt ra về mặt lý luận của tín ngưỡng thờ
Mẫu hiện nay, sau đó cần đưa ra những quan điểm rõ ràng thống nhất trong một số hiện
tượng của tín ngưỡng thờ Mẫu. Cần mở nhiều lớp học ngắn hạn hơn nữa để cập nhật thông
tin, cung cấp kiến thức về tín ngưỡng cho người làm công tác tín ngưỡng, tôn giáo. Có thể
xây dựng thêm các trung tâm, các học viện, các viện đào tạo và nghiên cứu về tín ngưỡng,
tôn giáo; viết những tài liệu có tính chất tham khảo về loại hình tín ngưỡng thờ Mẫu. Đưa
sách và tài liệu xuống các địa phương cơ sở tham khảo, để có biện pháp quản lý tốt hơn,
tránh sự tùy tiện gây khó khăn phức tạp cho việc thực hiện quyền tự do tín ngưỡng của
nhân dân.
Hiện nay, đã có một số cơ quan khoa học nghiên cứu về tôn giáo và tín ngưỡng.
Năm 1998 Trung tâm nghiên cứu tiềm năng của con người được thành lập với mục đích
tìm hiểu, nghiên cứu về cơ thể, khả năng tiềm ẩn của con người nhằm làm sáng tỏ những
hiện tượng đã xuất hiện trong thực tế cuộc sống. Đồng thời, trung tâm này ra đời cũng
nhằm khai thác hết những khả năng “kỳ diệu” của con người để phục vụ cho lợi ích cộng
đồng và xã hội. Đây là một tiến bộ mới trong việc xây dựng tư tưởng khoa học, tiến bộ,
nhân văn của Nhà nước ta và cần phát triển thêm nhiều trung tâm nghiên cứu những hiện
tượng “kỳ lạ” của con người, để tránh sự giải thích lệch lạc và nghi hoặc của người dân.
Chúng ta nên mở rộng hợp tác và trao đổi kinh nghiệm với các nước khác, nhất là
với các nước trong khu vực như Trung Quốc về vấn đề tín ngưỡng, mê tín dị đoan nhưng
vẫn giữ được nét đẹp trong văn hóa tâm linh. Nhưng khi vận dụng những kinh nghiệm đó
phải dựa vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta.Ví dụ, Trung Quốc đã phát động phong trào
như chống khoa học giả hiệu, đây là một trong những kinh nghiệm mà chúng ta nên nghiên
cứu và tìm hiểu để áp dụng ở Việt Nam...
Vì tín ngưỡng và tôn giáo sẽ tồn tại lâu dài cùng dân tộc. Cho nên, cần phải có kế
hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác tín ngưỡng, tôn giáo không chỉ phục vụ
cho yêu cầu hiện tại mà còn phải đáp ứng cho tương lai. Muốn đạt được điều này cần đào tạo,
bồi dưỡng kiến thức về tín ngưỡng và nghiệp vụ công tác tín ngưỡng cho đội ngũ cán bộ làm
công tác này.
Tóm lại, có thể có rất nhiều giải pháp, nhưng có thể xem năm giải pháp trên là cơ
bản. Để hoạt động tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ hoạt động theo hướng tiến bộ,
hạn chế những tiêu cực cần thực hiện đồng bộ các giải pháp. Tuy nhiên, để hiện thực hóa
những giải pháp trên, phụ thuộc vào từng đặc thù riêng của từng địa phương, cũng cần
phải có những biện pháp cụ thể hoặc có thể tập trung ở biện pháp này hay biện pháp khác
nhiều hơn.

3.3. Một số kiến nghị nhằm đảm bảo tính khả thi của các giải pháp
Để những giải pháp trên được thực hiện có hiệu quả và đi vào thực tiễn cuộc sống.
Xin đưa ra một vài kiến nghị nhằm nhanh chóng đưa ra những quan điểm, hướng dẫn cụ
thể, kịp thời sát thực tế trong công tác tín ngưỡng nói chung và tín ngưỡng thờ Mẫu nói
riêng, góp phần cụ thể hóa đường lối chủ trương, chính sách tín ngưỡng của Đảng và Nhà
nước ta trong thời gian tới. Một số kiến nghị đó là:
3.3.1. Đối với Đảng, Nhà nước, Bộ Văn hóa Thông tin và Ban Tôn giáo Chính
phủ
- Cần thiết phải có quan điểm, thái độ rõ ràng để đưa ra những định hướng chỉ đạo
và qui định thống nhất chung trong toàn quốc đối với hiện tượng trong tín ngưỡng thờ
Mẫu, đó là nghi thức hầu đồng.
- Nhà nước hãy tiếp tục cho phép mở những lễ hội của tín ngưỡng thờ Mẫu được tổ
chức thường xuyên hàng năm như ở Phủ Dầy hay Đền Sòng. Thời gian lễ hội diễn ra
không quá dài (tối đa 3 này) tránh lãng phí và tốn kém nhưng vẫn cần trang trọng, vui vẻ
và giữ được hình thức sinh hoạt tín ngưỡng chung thiêng liêng của cả cộng đồng dân cư.
- Bộ Văn hóa Thông tin cần kết hợp với Ban Tôn giáo Chính phủ, sở Văn hóa
Thông tin các tỉnh, thành phố và các ban ngành, đoàn thể có liên quan có sự phân công,
phân định rõ ràng trách nhiệm đảm bảo không chồng chéo nhằm đạt hiệu quả cao trong
lĩnh vực tổ chức và quản lý lĩnh vực tín ngưỡng. Mở những cuộc hội thảo khoa học, tăng
cường mở những lớp bồi dưỡng kiến thức, chuyên môn cần thiết trong lĩnh vực tín ngưỡng
cho cán bộ và chuyên viên chuyên trách trong công tác nghiên cứu và quản lý ở các địa
phương. Tổ chức những cuộc trao đổi kinh nghiệm về tổ chức lễ hội của các địa phương.
- Đảng và Nhà nước cũng cần có chính sách bồi dưỡng nghiệp vụ và hình thức ưu
đãi đối với những người làm công tác văn hóa cơ sở, trang bị cho họ những phương tiện
tối thiểu để họ hoạt động. Đồng thời, đề nghị khen thưởng, xử phạt kịp thời những cán bộ
văn hóa hoạt động trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo.

3.3.2. Đối với Tỉnh ủy, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố và Sở Văn hóa Thông
tin các tỉnh, Thành phố
- Tăng cường hơn nữa công tác kiểm tra, quản lý chặt chẽ hoạt động in ấn, xuất bản
trên địa bàn và trên toàn quốc, đưa ra những biện pháp truy tìm và xử lý nghiêm minh
những cá nhân, tập thể in và xuất bản các sách mê tín dị đoan vi phạm qui định của Nhà
nước. Đồng thời phải có qui định chặt chẽ, thậm chí cấm bầy bán những loại sách hiện
đang được bày bán trước đền, phủ như: Sách không có tác giả, không nơi xuất bản, không
nơi phát hành, không giá bán…
- Phải có những qui định cụ thể về xây dựng, tôn tạo và hoạt động tín ngưỡng tại
các cơ sở tư nhân.
- Bộ văn hóa Thông tin, Sở văn hóa Thông tin Hà Nội, phòng văn hóa Quận Tây
Hồ, các nhà nghiên cứu, cùng các cấp chính quyền và nhân dân nơi có trung tâm thờ Mẫu
nổi tiếng là Phủ Tây Hồ hãy nghiên cứu, khảo sát và tìm hiểu để mở lại lễ hội ở Phủ Tây Hồ
đáp ứng hoạt động tham gia lễ hội của của người dân. Tuy nhiên, khi mở lễ hội phải lấy ý kiến
đóng góp của các cơ quan nghiên cứu, kinh nghiệm về phương thức tổ chức, quản lý… từ các lễ
hội khác như Phủ Dầy (Nam Định) hay Đền Sòng (Thanh Hóa) nhằm gạn đục khơi trong, tìm ra
những giá trị nhân văn quí giá trong các nghi thức tín ngưỡng thờ Mẫu.

3.3.3. Đối với phòng Văn hóa thông tin cấp quận, huyện và các cấp chính
quyền địa phương sở tại
- Thành lập ban quản lý di tích và lễ hội, thành viên trong ban quản lý cũng phải
biết ít nhiều về công tác tín ngưỡng, tôn giáo hiện nay và họ phải nhận thức đúng về đường
lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo.
Đồng thời những người này phải hạn chế đến mức tối đa những sơ xuất về thái độ, cũng
như cách thức tiến hành. Từ đó làm cho công tác quản lý đạt được hiệu quả cao.
- Đối với ban quản lý di tích và lễ hội, cần có sự quản lý toàn diện cả nội dung và
phương thức tiến hành, cả phần lễ, phần hội và kinh phí thu chi. Nhất là vấn đề công khai
tài chính.
- Đối với các cơ sở thờ tự cần có những phương thức tuyên truyền thần tích, lịch sử
ra đời của di tích, truyền thuyết của các nhân vật được thờ phụng, nội dung văn hóa và
những qui định của di tích để khách thập phương hiểu rõ những giá trị nhân văn và thực
hiện đúng các hoạt động trong sinh hoạt tín ngưỡng của mình.
- Vấn đề “hòm công đức”: Thực hiện mỗi đền, phủ, miếu …chỉ được phép đặt một
hòm công đức, có ban quản lý theo dõi nghiêm túc.
Kết luận

Thờ Mẫu ở Việt Nam cho đến nay vẫn còn có những quan niệm khác nhau. Có
quan điểm cho rằng đó là một tín ngưỡng, nhưng lại có người cho rằng đó là một đạo, một
tục thờ Mẫu. Thế nhưng, phần lớn các nhà nghiên cứu hiện nay coi thờ Mẫu là một tín
ngưỡng dân gian có nguồn gốc bản địa.
Tín ngưỡng thờ Mẫu là một tín ngưỡng gắn với nhiều truyền thống văn hóa dân
gian. Nó là một biểu trưng, một hình tượng của đời sống văn hóa tinh thần của người dân
Việt Nam và tín ngưỡng này đã có một sức hấp dẫn đặc biệt. Đã có rất nhiều công trình
nghiên cứu về hình thức tín ngưỡng này, nhưng cho đến nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa
được làm sáng tỏ và cần được nghiên cứu, thảo luận, giải quyết trong đời sống khoa học và
trong thực tiễn theo nhiều chiều khác nhau.
Đồng bằng Bắc bộ là một vùng có nhiều lễ hội, nhiều loại hình tín ngưỡng khác
nhau, phản ánh quá trình đấu tranh dựng nước, giữ nước của dân tộc ta và là nơi sản sinh
ra nền văn minh sông Hồng, là nơi tín ngưỡng thờ Mẫu nói chung và Mẫu Tam phủ - Tứ
phủ được thể hiện đậm nét. Nó thể hiện triết lý sống, một cách nhìn nhận về vũ trụ, hiện
tượng tự nhiên…
Tín ngưỡng thờ Mẫu từ lâu đã thâm nhập vào tâm hồn, lối sống của người Việt
Nam và đã trở thành bản sắc văn hóa độc đáo của dân tộc ta. Nó có nguồn gốc, bản chất
giống như những loại hình tín ngưỡng khác song nó có sắc thái riêng với những dấu ấn của
cư dân nông nghiệp trồng lúa nước điển hình và phụ nữ luôn có vai trò quan trọng trong
đời sống xã hội. Đối với cư dân nông nghiệp xưa, mọi sự vần xoay của vũ trụ và tạo hóa
đều được giải thích bằng quan niệm Âm - Dương tương khắc, tương sinh và các yếu tố
Đất, Nước, Lúa đều mang âm tính, mang tư cách mẹ. Trong tâm thức của người Việt Nam
quan niệm cả nước là một đại gia đình, chung huyết thống tất cả đều do mẹ Âu Cơ sinh ra.
Sản phẩm của Nho giáo sinh ra luân lý phụ quyền nhưng theo lẽ tự nhiên của Trời Đất thì
mẹ sinh ra con cái, không chỉ có sinh vật mà cả những vật vô tri vô giác cũng đều có Mẹ (Mẹ
đất, Mẹ nước, Mẹ lúa, Mẹ rừng…) và có lẽ khởi thủy của xã hội loài người là sống bằng “nguyên
lý Mẹ”.
Theo sự phát triển muôn màu, muôn vẻ của tín ngưỡng dân gian không theo qui luật
định sẵn nào và tư duy huyền thoại chính là chỗ dựa cho người nông dân xưa kia, giúp họ
tạo ra các thần linh vốn là các nhiên thần có một đời sống thực, một lý lịch rõ ràng như
người trần gian và trong một xã hội lịch sử nào đó và nhiều nữ thần xuất hiện dưới thời
vua Hùng và sau đó họ trở thành Thánh Mẫu.
Nhờ vào các đặc điểm của tín ngưỡng thờ Mẫu như Lịch sử hóa, trần gian hóa,
huyền thoại hóa mà lòng dân tin tưởng, việc tôn thờ các vị thần nữ cho dù các vị đó xuất
thân là nhân thần hay nhiên thần, thuộc tộc người nào có địa vị thế nào đều được phong
những tước hiệu cao quí:Thượng đẳng thần, trung đẳng thần …hay Vương Mẫu, Thánh
Mẫu…
Tín ngưỡng thờ mẹ ngày càng bổ sung thêm nhiều những câu chuyện huyền thoại,
chuyện lịch sử …để từ đó dân gian tôn một số Mẹ lên thành Mẫu, Mẫu Tam phủ, Mẫu Tứ
phủ và thành tín ngưỡng thờ Mẫu. Mặc dù, đó là thờ Mẫu hay Mẫu Tam phủ - Tứ phủ thì
đều bắt nguồn từ hiện tượng thờ nữ thần và đi kèm theo các Thánh Mẫu, còn có một đội
quân dưới quyền các Mẫu với những cái tên dân dã như: Cô Ba, cô Bảy, ông Hoàng Cả,
ông Hoàng Mười…và người ta còn đưa cả một triều đại vào chầu xung quanh đức Thánh
Mẫu như hệ thống các vị thần thuộc triều đại nhà Trần cũng có mặt trong điện thờ Mẫu Tứ
phủ.
Tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ thường chứa đựng nhiều yếu tố lịch sử
trong buổi đầu dựng nước và giữ nước, truyền thuyết dân gian, đan xen vào đó là những
yếu tố của nền văn hóa đặc sắc mang tính chất vùng miền, tính phổ biến và tính đa dạng.
Được hình thành từ rất lâu, nên tín ngưỡng thờ Mẫu trong quá trình tồn tại và phát
triển đã dung nạp, đan xen nhiều hình thức tín ngưỡng, tôn giáo khác. ở đồng bằng Bắc bộ
hình thức tín ngưỡng thờ Mẫu đã trở thành một tín ngưỡng rất gần gũi với mọi tầng lớp
dân cư trong xã hội, được nhân dân thờ phụng ở nhiều nơi, từ nông thôn đến thành thị, từ
miền núi xuống miền xuôi, trong Nam ngoài Bắc. Vì tín ngưỡng thờ Mẫu mang tính bình
dân, tiểu nông dân dã nên ngày càng thu hút nhiều người, nhiều đối tượng tin và theo thứ
tín ngưỡng này. Tín ngưỡng này ngoài những nghi lễ thờ cúng, còn sản sinh nhiều giá trị
văn hóa - nghệ thuật, góp phần bảo lưu nhiều yếu tố văn hóa có giá trị, đậm đà bản sắc dân
tộc. Ngoài ra, tín ngưỡng còn đáp ứng nhu cầu không thể thiếu và khát vọng của đời sống
thường nhật của con người.
Ngày nay, khi mà xu hướng toàn cầu hóa đang có mặt trên khắp các quốc gia và đất
nước ta đang có những biến đổi sâu sắc về kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội thì tín
ngưỡng thờ Mẫu cũng đang có những thay đổi cả về mặt lý luận lẫn nhận thức. Tuy nhiên,
những thay đổi đó có kèm theo cả xu hướng tiến gần tới những hiện tượng mê tín dị đoan,
xu hướng thương mại hóa tín ngưỡng. Song xu hướng chính vẫn là đưa hình thức sinh hoạt
tín ngưỡng thờ Mẫu trở thành hoạt động mang tính văn hóa và xã hội, trở thành nét đẹp
truyền thống dân gian trong sinh hoạt cộng đồng, đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng và
không tín ngưỡng của nhân dân.
Đảng và Nhà nước ta luôn quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh để xây dựng, thực hiện đường lối, chính sách về tín ngưỡng, tôn giáo và từ
thực tiễn hoạt động tín ngưỡng thờ Mẫu hiện nay ở đồng bằng Bắc bộ, tác giả luận văn đã
mạnh dạn đưa ra một số giải pháp và kiến nghị cơ bản như trên nhằm hạn chế một số tiêu
cực, phát huy hiệu quả những yếu tố tích cực của tín ngưỡng thờ Mẫu. Bên cạnh đó, phải
quán triệt và thực hiện đúng chủ trương, đường lối nhất quán của Đảng và pháp luật của
Nhà nước. Đánh giá đúng giá trị văn hóa, đạo đức của tín ngưỡng thờ Mẫu. Chúng ta đã,
đang và sẽ cùng với những giá trị văn hóa truyền thống của mình chủ động hội nhập, thực
hiện tốt công cuộc đổi mới đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ văn minh./.
Danh mục tài liệu tham khảo

1. Đặng Anh (2004), Đền Sòng với huyền thoại Liễu Hạnh công chúaNxb Thanh Hoá.
2. Toan ánh (1992), Tín ngưỡng Việt Nam, quyển thượng, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
3. Ban Tôn giáo Chính phủ (2005), Văn bản pháp luật Việt Nam về tín ngưỡng, tôn giáo,
Nxb Tôn giáo.
4. Đinh Ngọc Bảo - Đỗ Thanh Bình - Nghiêm Đình Vỳ (1998), Lịch sử thế giới từ thời cổ
đại đến năm 1918, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
5. Trần Lâm Biền (1992), "Mẫu thần điện", Tạp chí Văn hoá dân gian, (1), tr.18.
6. Lê Thị Chiêng (1997), Mẫu Liễu Tây Hồ, Phòng Văn hoá Thông tin quận Tây Hồ, Hà
Nội.
7. Nguyễn Đăng Duy (1998), Văn hoá tâm linh (tái bản có sửa chữa), Nxb Hà Nội.
8. Thành Duy (2006), Bản sắc dân tộc và hiện đại hoá văn hoá Việt Nam mấy vấn đề lý
luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam (1977), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Nxb
Sự thật, Hà Nội.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành
Trung ương khoá VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Hội nghị lần thứ bẩy Ban Chấp hành Trung
ương khoá IX (2003), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12. Đại Việt sử ký toàn thư (2006), Tập I, Nxb Văn học (in lại lần thứ 6).
13. Tạ Đức (1999), Nguồn gốc và sự phát triển của kiến trúc biểu tượng và ngôn ngữ
Đông Sơn, Nxb Hội Dân tộc học Việt Nam, Hà Nội.
14. Mai Thanh Hải (1998), Tôn giáo thế giới và Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà
Nội.
15. Mai Thanh Hải (2005), Tìm hiểu tín ngưỡng truyền thống Việt Nam, Nxb Văn hoá
Thông tin, Hà Nội.
16. Hoàng Quốc Hải (2001), Văn hoá phong tục, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội.
17. Đỗ Thị hảo (1992), "Về bản Tiên Từ Khả Ký của dòng họ Trần Lê vừa tìm lại được",
Tạp chí Văn học, (5).
18. Đỗ Thị Hảo, Mai Thị Ngọc Chúc (2001), Các nữ thần Việt Nam, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
19. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia (2004), Giáo trình chủ nghĩa
xã hội khoa học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
20. Nguyễn Duy Hinh (2003), Người Việt Nam với Đạo giáo, Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội.
21. Trương Sĩ Hùng (chủ biên) (2003), Mấy tín ngưỡng tôn giáo Đông Nam á, Nxb Thanh
niên, Hà Nội.
22. Đinh Gia Khánh (1992), "Tục thờ Mẫu và những truyền thống văn hoá dân gian ở Việt
Nam", Tạp chí Văn học, (5).
23. Vũ Ngọc Khánh (2001), Tín ngưỡng dân gian Việt Nam, Nxb Văn hoá Dân tộc, Hà
Nội.
24. Vũ Ngọc Khánh (1992), "Chúa Liễu qua nguồn thư tịch", Tạp chí Văn học, (5).
25. Vũ Ngọc Khánh (2004), Các bình diện văn hoá Việt Nam những điều học hỏi, Nxb
Văn hoá Thông tin, Hà Nội.
26. Vũ Ngọc Khánh - Mai Ngọc Chúc - Phạm Ngọc Hà (2002), Nữ thần và thánh Mẫu
Việt Nam, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
27. Nguyễn Quang Lê (2001), Khảo sát thực trạng văn hoá lễ hội truyền thống của
người Việt ở Đồng bằng Bắc bộ, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
28. Đặng Văn Lung (2004), Văn hoá thánh Mẫu, Nxb Văn hoá - Thông tin.
29. Hoàng Lương (2002), Lễ hội truyền thống của các dân tộc Việt Nam khu vực phía Bắc,
Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.
30. Nguyễn Đức Lữ (chủ biên) (2005), Góp phần tìm hiểu tín ngưỡng dân gian ở Việt
Nam, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
31. C.Mác - Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, Tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
32. Lê Hữu Nghĩa - Nguyễn Đức Lữ (chủ biên) (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo
và công tác tôn giáo, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
33. Nhiều tác giả (1999), Phong tục tập quán các dân tộc Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc,
Hà Nội.
34. Nguyễn Minh San (1994), Tiếp cận tín ngưỡng dân dã Việt Nam, Nxb Văn hoá dân
tộc, Hà Nội.
35. Nguyễn Minh San (1996), Những thần nữ danh tiếng trong văn hoá tín ngưỡng Việt
Nam, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
36. Trần Đăng Sinh (2002), Những khía cạnh triết học trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
của người Việt Nam ở Đồng bằng Bắc bộ hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
37. Bùi Văn Tam (2004), Phủ Dầy và tín ngưỡng Mẫu Liễu Hạnh, Nxb Văn hoá dân tộc,
Hà Nội (tái bản lần hai).
38. Hà Văn Tăng - Trương Thìn (chủ biên) (1999), Tín ngưỡng mê tín, Nxb Thanh niên.
39. Trương Thìn (2004), Nghi lễ thờ cúng tổ tiên, đền chùa, miếu truyền thống và hiện đại,
Nxb Hà Nội.
40. Trương Thìn (2005), Tôn trọng tự do tín ngưỡng bài trừ mê tín dị đoan, Nxb Văn hoá
Thông tin, Hà Nội.
41. Ngô Đức Thịnh (chủ biên) (1992), Hát văn, Nxb Văn hoá Dân tộc, Hà Nội.
42. Ngô Đức Thịnh (chủ biên) (1996), Đạo mẫu ở Việt Nam, Tập 1, Nxb Văn hóa Thông
tin, Hà Nội.
43. Ngô Đức Thịnh (1992), "Tục thờ Mẫu Liễu Hạnh - một sinh hoạt tín ngưỡng văn hoá
cộng đồng", Tạp chí Văn học, (5).
44. Ngô Đức Thịnh (chủ biên) (2001), Tín ngưỡng và văn hoá tín ngưỡng ở Việt Nam,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
45. Ngô Đức Thịnh (chủ biên) (2004), Đạo Mẫu và các hình thức shaman trong các tộc người
ở Việt Nam và châu á, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
46. Nguyễn Hữu Thông (chủ biên) (1995), Tín ngưỡng thờ Mẫu ở miền Trung Việt Nam,
Nxb Thuận Hoá, Huế.
47. X.A.Tôcarev (1994), Các hình thức tôn giáo sơ khai và sự phát triển của chúng, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
48. Uỷ ban Đoàn kết Công giáo yêu nước Việt Nam (1986), Fidel và tôn giáo những cuộc
trao đổi với linh mục Frelbetto, Thành phố Hồ Chí Minh xuất bản.
49. Đặng Nghiêm Vạn (1996), Về tôn giáo tín ngưỡng Việt Nam hiện nay, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
50. Đặng Nghiêm Vạn (2003), Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt Nam, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
51. Viện Khoa học xã hội Việt Nam - Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo (2004), Về tín ngưỡng và tôn
giáo ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

You might also like