BÀI TẬP LỚN MÔN TRIẾT (1)

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 33

ĐẠI HỌC QUỐC GIA

ĐẠI HỌC BÁCH KHOA TP HỒ CHÍ MINH




BÀI TẬP LỚN HỌC PHẦN MÔN TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN

ĐỀ TÀI:
VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VỀ

Ý THỨC XÃ HỘI VÀO VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN

ĐẠI HỌC BÁCH KHOA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY

LỚP DL07 --- NHÓM 07 --- HK233


GVHD: TS. Trần Thị Hoa

STT Họ và tên MSSV


1 Lê Minh khương 2211703
2 Trần Tuấn Kiệt 2311787
3 Nguyễn Lý Phương Lam 2311804
4 Lê Ngọc Long 2311900
5 Nguyễn Việt Hưng 2352442
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH, 2024

BÁO CÁO KẾT QUẢ LÀM VIỆC NHÓM VÀ BẢNG ĐIỂM BTL
Môn: TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN – SP 1031
Nhóm/Lớp: DL07 Nhóm: 07
Đề tài:
VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VỀ Ý THỨC XÃ HỘI VÀO
VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN ĐẠI HỌC BÁCH KHOA THÀNH PHỐ HỒ
CHÍ MINH HIỆN NAY

STT Họ và tên MSSV Nhiệm vụ Kết quả Chữ ký

1 Lê Minh Khương 2211703 Chương 2-2.1-2.2 100%

2 Trần Tuấn Kiệt 2311787 Tổng hợp, Chương 1- 100%


1.1
3 Nguyễn Lý Phương Lam 2311804 Chương 1-1.1, Tiểu kết 100%
chương 1
4 Lê Ngọc Long 2311900 Phân chia nhiệm vụ 100%
cho thành viên, tổng
hợp,phần mở đầu,kết
luận chung
5 Nguyễn Việt Hưng 2352442 Chương 2-2.3, tiểu kết 100%
chương 2

Họ và tên nhóm trưởng:..Lê Ngọc Long.., SĐT:..0379126792..., Email:..long.lengoc1110@hcmut.edu.vn...


Nhận xét của GV:
….………………………………………………………………………………………………………...
……………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………
GIẢNG VIÊN
NHÓM TRƯỞNG
(Ký và ghi rõ họ, tên)
(Ký và ghi rõ họ,
tên)
Mục Lục
PHẦN MỞ ĐẦU.............................................................................................................................4

1. Tính cấp thiết của đề tài....................................................................................................4

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài.........................................................................5

3. Kết cấu của đề tài...............................................................................................................6

PHẦN NỘI DUNG.........................................................................................................................7

Chương 1.................................................................................................................................7

1.1. Những khái niệm cơ bản........................................................................................7

1.1.1. Khái niệm ý thức xã hội.............................................................................7

1.1.2. Kết cấu của ý thức xã hội...........................................................................8

1.1.3. Các hình thái ý thức xã hội........................................................................9

1.2. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội:.........................................................14

1.2.1. Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn tồn tại xã hội:..................................15

Tiểu kết chương...........................................................................................................17

Chương 2...............................................................................................................................18

2.1. Khái niệm “đạo đức”, “giáo dục đạo đức” và nội dung cơ bản của giáo dục
đạo đức cho sinh viên Việt Nam hiện nay..........................................................18

2.1.1 Khái niệm “đạo đức”, “giáo dục đạo đức”.............................................18

2.1.2 Nội dung cơ bản của giáo dục đạo đức cho sinh viên Việt Nam hiện
nay 20

2.2. Tình hình, đặc điểm của sinh viên trường Đại học Bách khoa Thành phố Hồ
Chí Minh và vai trò của việc giáo dục đạo đức cho sinh viên..........................24

2.2.1. Tình hình, đặc điểm của sinh viên trường Đại học Bách khoa Thành
phố Hồ Chí Minh..................................................................................................24

2.2.2. Vai trò của việc giáo dục đạo đức cho sinh viên trường Đại học Bách
khoa Thành phố Hồ Chí Minh............................................................................28
PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài


“Đời sống xã hội có hai lĩnh vực quan trọng là lĩnh vực vật chất và lĩnh vực tinh thần, đó
cũng chính là hai lĩnh vực tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Vì vậy, cùng với việc phân tích các quy
luật của sự phát triển xã hội, các quan hệ kinh tế và các quan hệ chính trị - xã hội thì không thể
không chú trọng đến mặt quan trọng khác của đời sống xã hội là ý thức xã hội. Trong triết học Mác
- Lênin, khái niệm ý thức xã hội gắn liền với khái niệm tồn tại xã hội” 1. Cùng với phạm trù tồn tại
xã hội, ý thức xã hội là phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử được vận dụng để giải quyết vấn đề
cơ bản của triết học trong lĩnh vực xã hội. Nếu “ý thức... không bao giờ có thể là cái gì khác hơn là
sự tồn tại được ý thức” thì ý thức xã hội chính là xã hội tự nhận thức về mình, về sự tồn tại xã hội
của mình và về hiện thực xung quanh mình. Nói cách khác, ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời
sống xã hội, là bộ phận hợp thành của văn hóa tinh thần của xã hội. Văn hóa tinh thần của xã hội
mang nặng dấu ấn đặc trưng của hình thái kinh tế - xã hội, của các giai cấp đã tạo ra nó.
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội, bao gồm những quy tắc,
những chuẩn mực có đánh giá cách ứng xử của con người với nhau và quan hệ với xã hội, được
thực hiện bởi niềm tin cá nhân vào những điều tốt đẹp trong cuộc sống, bởi truyền thống và thông
qua dư luận xã hội 2 .Các quan hệ đạo đức trong xã hội được điều chỉnh bởi phong tục, tập quán, dư
luận xã hội. Đạo đức không được ghi thành những điều luật cụ thể nhưng nó lại có một sức mạnh to
lớn trong điều chỉnh hành vi của con người, cổ vũ những việc làm tốt đẹp, những việc làm thiện,
phê phán, lên án những việc làm xấu, những việc làm ác.
Giáo dục đạo đức là một phần không thể thiếu của giáo dục tổng thể, đặc biệt là đối với sinh
viên. Nó giúp sinh viên hiểu và phát triển các giá trị và nguyên tắc đạo đức, và cung cấp cho họ các
kỹ năng cần thiết để đưa ra các quyết định đạo đức trong cuộc sống cá nhân và chuyên nghiệp. Giáo
dục đạo đức cũng giúp sinh viên trở thành các công dân tích cực, có trách nhiệm và tham gia tích
cực trong xã hội. Nó cũng giúp sinh viên trở thành các nhà lãnh đạo đạo đức, có khả năng đưa ra
các quyết định đạo đức và hướng dẫn người khác theo hướng đúng đắn.
Đảm bảo sự lãnh đạo của tổ chức Đảng và hoạt động của Đoàn Thanh niên trong việc giáo
dục đạo đức cho sinh viên. Coi tổ chức Đoàn là lực lượng quan trọng nhằm nâng cao nhận thức, rèn
luyện hành vi đạo đức cho đoàn viên, sinh viên. Ban giám hiệu nhà trường cần có sự chỉ đạo sát

1
Bộ Giáo dục đào tạo (2021), Giáo trính Triết học Mác-Lênin (Dành cho sinh viên đại học khối không chuyên ngành Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh) , Nxb, Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.188
2
Nguyễn Thị Lan Anh. (2021). Giáo dục đạo đức cho sinh viên ở các trường đại học, cao đẳng giai đoạn hiện nay. Tạp chí khoa
học Giáo dục Việt Nam. Số đặc biệt 5/2021.
4
sao, cụ thể gắn hoạt động Đoàn vào mục tiêu đào tạo của nhà trường, nhất là mục tiêu giáo dục đạo
đức mới. Đồng thời, tạo điều kiện hỗ trợ cho hoạt động của đoàn về cơ sở vật chất, kinh phí hoạt
động cũng như cố vấn cho họ về kế hoạch, cách thức hoạt động.
Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong giáo dục đạo đức cho sinh viên đã đạt được
những thành tựu, nhưng vẫn còn hạn chế cần khắc phục. Thiếu sự đồng bộ trong triển khai chương
trình, phương pháp giáo dục chưa phù hợp với nhu cầu sinh viên, vai trò của gia đình và xã hội
chưa được phát huy đầy đủ. Để cải thiện, cần đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục và tăng
cường vai trò của gia đình và xã hội.
Để chống lại các thế lực thù địch nhằm hạ thấp uy tín của Đảng hoặc nhằm xóa bỏ vai trò
lãnh đạo của Đảng, sinh viên cần thực hiện các hành động sau: tăng cường kiến thức và hiểu biết về
Đảng và những giá trị mà nó đại diện; tham gia các hoạt động và tổ chức do Đảng tổ chức; tham gia
các tổ chức sinh viên và hoạt động sinh viên; sử dụng các phương tiện truyền thông xã hội và các
kênh khác để chia sẻ thông tin và ý kiến của mình về Đảng và những giá trị mà nó đại diện; tham
gia các chương trình đào tạo và phát triển do Đảng tổ chức; tạo ra các mối quan hệ với các thành
viên khác của Đảng và tham gia các nhóm và tổ chức liên quan; tham gia các cuộc vận động và
chiến dịch do Đảng tổ chức; tôn trọng và bảo vệ quyền tự do ngôn luận và tư tưởng của mình.
Sinh viên, những người đang theo học tại các cơ sở giáo dục đại học, đóng vai trò quan trọng
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Họ không chỉ là nguồn
nhân lực tri thức quan trọng mà còn đóng góp vào nghiên cứu, phát triển khoa học và kỹ thuật. Tuy
nhiên, sinh viên cũng đối mặt với những hạn chế như thiếu kinh nghiệm thực tế và khả năng tự
quản lý chưa hoàn thiện. Để hoàn thiện vai trò của mình, sinh viên cần nỗ lực vượt qua những thử
thách này và tiếp tục phát triển cá nhân, sẵn sàng đóng góp tích cực vào xã hội và quốc gia.
Trường Đại học Bách Khoa Thành phố Hồ Chí Minh, với việc áp dụng quan điểm của Chủ
nghĩa Mác - Lênin vào giáo dục đạo đức, sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc đào tạo và phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội. Để kết thúc môn học Triết
học Mác - Lênin, nhóm sẽ thực hiện một bài tập lớn về đề tài: "Vận dụng quan điểm của Chủ nghĩa
Mác - Lênin về ý thức xã hội vào việc giáo dục đạo đức cho sinh viên tại Trường Đại học Bách
Khoa Thành phố Hồ Chí Minh." Bài tập lớn này sẽ giúp sinh viên hiểu rõ hơn về quan điểm của
Chủ nghĩa Mác - Lênin về ý thức xã hội và cách áp dụng nó vào việc giáo dục đạo đức cho sinh
viên.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài

5
Mục đích nghiên cứu đề tài: Đề tài nghiên cứu một cách hệ thống và toàn diện về quan điểm
của chủ nghĩa Mác - Lênin về ý thức xã hội. Trên cơ sở đó, đánh giá thực trạng và đưa ra các giải
pháp vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về ý thức xã hội vào việc giáo dục đạo đức
cho sinh viên Trường Đại học Bách Khoa Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài: Để đạt được mục đích nêu trên, đề tài cần phải thực hiện các
nhiệm vụ cơ bản sau đây:
Một là, trình bày, phân tích và làm rõ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về ý thức xã hội.
Hai là, trình bày, phân tích và làm rõ thực trạng giáo dục đạo đức cho sinh viên Trường Đại
học Bách Khoa hiện nay.
Ba là, đề tài đề xuất một số giải pháp giáo dục đạo đức cho sinh viên Trường Đại học Bách
Khoa Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
3. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu thành 2
chương, 5 tiết và 13 tiểu tiết.

6
PHẦN NỘI DUNG

Chương 1
QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN Ý THỨC XÃ HỘI
1.1. Những khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm ý thức xã hội
Ý thức xã hội là một nội dung vô cùng quan trọng của triết học Mác - Lênin. Từ
đó có thể thấy ý thức xã hội có ý nghĩa rất lớn trong việc xây dựng ý thức xã hội và
góp phần rất lớn trong quá trình xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa
“dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Do đó việc vận dụng quan
điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin trong việc giáo dục đạo đức cho sinh viên Việt Nam
nói chung và sinh viên trường đại học Bách Khoa TP.HCM nói riêng rất phù hợp.
Trước tiên ta phải đi làm rõ khái niệm ý thức xã hội, theo giáo trình Mác - Lênin thì “ý
thức xã hội là phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử được vận dụng để giải quyết vấn
đề cơ bản của triết học trong lĩnh vực xã hội. Nếu “ý thức... không bao giờ có thể là cái
gì khác hơn là sự tồn tại được ý thức” thì ý thức xã hội chính là xã hội tự nhận thức về
mình, về sự tồn tại xã hội của mình và về hiện thực xung quanh mình. Nói cách khác,
ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội, là bộ phận hợp thành của văn hóa
tinh thần của xã hội. Văn hóa tinh thần của xã hội mang nặng dấu ấn đặc trưng của
hình thái kinh tế - xã hội, của các giai cấp đã tạo ra nó.”1
Thực chất, ý thức xã hội là tập hợp các quan điểm, tri thức, tư tưởng, thói quen,
tâm trạng, tập quán, truyền thống của con người được nảy sinh ra trong quá trình xã
hội tồn tại, phản ánh xã hội qua từng giai đoạn trong lịch sử. Ý thức xã hội còn là một
khái niệm quan trọng trong chủ nghĩa Mác - Lênin vì nó giúp giải thích cách thức mà
xã hội được duy trì và thay đổi. Để hình dung rõ hơn về ý thức xã hội thì ta sẽ đi vào
ví dụ cụ thể để làm rõ. Ví dụ về ý thức xã hội điển hình có sự nổi bật trong truyền
thống yêu nước, nhân đạo nhân nghĩa của dân tộc và nhân dân Việt Nam thì rất cần cù
chăm chỉ với truyền thống hiếu học được truyền từ đời này sang đời khác, qua các tấm
gương anh hùng yêu nước, kháng chiến chống giặc ngoại xâm. Đó là một ý thức xã hội
và nó đóng vai trò quan trọng cho nền văn minh của dân tộc.
1
Bộ Giáo dục đào tạo (2021), Giáo trính Triết học Mác-Lênin (Dành cho sinh viên đại học khối không chuyên
ngành Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh), Nxb, Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.189

7
1.1.2. Kết cấu của ý thức xã hội
Ý thức xã hội phản tồn tại xã hội dưới nhiều hình thức khác nhau. Sự đa dạng
các hình thái ý thức xã hội là do tính nhiều mặt, nhiều vẻ và đa dạng của đời sống xã
hội quy định; chúng phản ánh xã hội theo những cách thức khác nhau. Tùy thuộc vào
góc độ xem xét, người ta thường chia ý thức xã hội thành ý thức xã hội thông thường,
ý thức lý luận, tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội.
Thứ nhất, ý thức xã hội thông thường hay ý thức thường ngày, “những tri thức,
những quan niệm của con người hình thành một cách trực tiếp trong các hoạt động
trực tiếp hằng ngày nhưng chưa được hệ thống hóa, chưa được tổng hợp và khái quát
hóa” 1. Đó là một hình thức phản ánh trực tiếp và sinh động các mặt khác nhau của
cuộc sống, hoạt động thường ngày của con người. Trong thực tiễn có rất nhiều ví dụ về
ý thức xã hội thông thường nhưng đáng chú ý được để tâm nhiều trong cuộc sống hàng
ngày như việc tôn trọng người khác ở nơi công cộng, giữ gìn vệ sinh cá nhân và tham
gia giao thông đúng quy định của pháp luật...
Thứ hai, ý thức lý luận hay là ý thức khoa học “là những tư tưởng, những quan
điểm được tổng hợp, được hệ thống hóa và khái quát hóa thành các học thuyết xã hội
dưới dạng các khái niệm, các phạm trù và các quy luật” 2. Ý thức lý luận hay là ý thức
khoa học có khả năng phản ánh hiện thực khách quan một cách sâu sắc, chính xác, bao
quát và vạch ra được những mối liên hệ khách quan, bản chất, tất yếu mang tính quy
luật của các sự vật và các quá trình xã hội. Đồng thời ý thức khoa học có khả năng
phản ánh vượt trước hiện thực. Nhưng ý thức khoa học lại không phong phú bằng ý
thức xã hội thông thường mặc dù ý thức xã hội thông thường có trình độ thấp hơn ý
thức lý luận. Nhưng sau cùng ý thức lý luận được hình thành dựa trên ý thức xã hội
thông thường như một cơ sở và tiền đề quan trọng. Ví dụ theo quan điểm của Mác -
Lênin thì văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa bảo tồn các giá trị truyền thống
vừa tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới. Do đó nhiều lễ hội truyền thống được phục
1
Bộ Giáo dục đào tạo (2021), Giáo trính Triết học Mác-Lênin (Dành cho sinh viên đại học khối không chuyên
ngành Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh), Nxb, Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.190
2
Bộ Giáo dục đào tạo (2021), Giáo trính Triết học Mác-Lênin (Dành cho sinh viên đại học khối không chuyên
ngành Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh), Nxb, Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.190

8
dựng và phát triển như Lễ hội Đền Hùng, Lễ hội Chùa Hương, Lễ hội Cồng Chiêng
Tây Nguyên,... Các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể được UNESCO công nhận và
bảo vệ. Các chương trình giáo dục về lịch sử, văn hóa dân tộc được tăng cường trong
các trường học.
Thứ ba, tâm lý xã hội, theo giáo trình triết học Mác - Lênin “tâm lý xã hội là ý
thức xã hội thể hiện trong ý thức cá nhân. Tâm lý xã hội bao gồm toàn bộ tư tưởng,
tình cảm, tâm trạng, thói quen, nếp sống, nếp nghĩ, phong tục, tập quán, ước muốn, ...
của một người, một tập đoàn người, một bộ phận xã hội hay của toàn thể xã hội hình
thành dưới tác động trực tiếp của cuộc sống hằng ngày của họ và phản ánh cuộc sống
đó”1 . Tâm lý xã hội là một phần quan trọng trong ý thức xã hội và cũng giống như ý
thức xã hội thông thường là tâm lý xã hội cũng phản ánh trực tiếp, sinh động cuộc
sống hàng ngày của con người. Tâm lý xã hội bao gồm rất nhiều yếu tố như tư tưởng,
tình cảm, tâm trạng, thói quen, nếp sống, nếp nghĩ, phong tục, tập quán, ước muốn và
nhiều yếu tố khác được hình thành do ảnh hưởng trực tiếp hằng ngày mà họ phải
thường xuyên tiếp xúc. Ví dụ như là một người đã có những thói quen và nếp sống ở
môi trường hiện tại nhưng khi tiếp xúc với môi trường mới thì họ phải tập thích nghi
với môi trường đó. Qua đó cho thấy rõ sự ảnh hưởng của tâm lý xã hội đến thói quen
và suy nghĩ của con người.
Thứ tư, hệ tư tưởng “là giai đoạn phát triển cao hơn của ý thức xã hội, là sự
nhận thức lý luận về tồn tại xã hội. Hệ tư tưởng có khả năng đi sâu vào bản chất của
mọi mối quan hệ xã hội; là kết quả của sự tổng kết, sự khái quát hóa các kinh nghiệm
xã hội để hình thành nên những quan điểm, những tư tưởng về chính trị, pháp luật,
triết học, đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo,v.v..” 2 . Một ví dụ về hệ tư tưởng là triết lý của
Mahatma Gandhi về chủ nghĩa phi bạo lực. Hệ tư tưởng này đề cao tinh thần hòa bình,
lòng yêu nước và sự hiểu biết thông qua việc từ chối bạo lực và thúc đẩy sự đoàn kết
xã hội. Nhờ có triết lý đó đã ảnh hưởng rất lớn đến phong trào đấu tranh cho độc lập ở
Ấn Độ và trên toàn thế giới. Hệ tư tưởng giúp chúng hiểu rõ hơn mọi thứ xung quanh,
không những thế còn khuyến khích chúng ta tìm kiếm những giải pháp sáng tạo và tiến
bộ cho xã hội.
1
Bộ Giáo dục đào tạo (2021), Giáo trính Triết học Mác-Lênin (Dành cho sinh viên đại học khối không chuyên
ngành Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh), Nxb, Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.190
2
Bộ Giáo dục đào tạo (2021), Giáo trính Triết học Mác-Lênin (Dành cho sinh viên đại học khối không chuyên
ngành Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh), Nxb, Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.190

9
Tóm lại, kết cấu của ý thức xã hội có thể thay đổi phụ thuộc vào điều kiện kinh
tế - xã hội, văn hóa - giáo dục, khoa học - kỹ thuật của mỗi xã hội. Và cũng được xem
là một vấn đề phức tạp và quan trọng trong triết học Mác - Lênin. Tuy nhiên, “mặc dù
tâm lý xã hội và hệ tư tưởng thuộc hai trình độ khác nhau của ý thức xã hội nhưng
chúng có mối liên hệ qua lại và tác động qua lại lẫn nhau. Nếu tâm lý xã hội có thể
thúc đẩy hoặc cản trở sự hình thành và sự tiếp nhận một hệ tư tưởng nào đó; có thể
giảm bớt sự xơ cứng hoặc công thức cứng nhắc của hệ tư tưởng, thì trái lại, hệ tư
tưởng khoa học có thể bổ sung, làm gia tăng hàm lượng trí tuệ cho tâm lý xã hội, góp
phần thúc đẩy tâm lý xã hội phát triển theo chiều hướng tích cực” 1 .Hiểu được kết cấu
của ý thức xã hội giúp chúng ta có cái nhìn toàn diện hơn về thế giới tinh thần của con
người và vai trò của ý thức xã hội trong xã hội.
1.1.3. Các hình thái ý thức xã hội
Như ở trên ta đã nói thì ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội ở nhiều hình thức
khác nhau. Nhưng ở đây có một số hình thức xã hội cơ bản ta có thể kể đến như: ý
thức chính trị, ý thức pháp quyền, ý thức đạo đức, ý thức thẩm mỹ (hay ý thức nghệ
thuật), ý thức tôn giáo, ý thức lý luận (hay ý thức khoa học), ý thức triết học. Sự phong
phú của các hình thái ý thức xã hội phản ánh sự phong phú của đời sống xã hội.
Thứ nhất, ý thức chính trị là hình thái “ý thức chính trị phản ánh các mối quan
hệ kinh tế của xã hội bằng ngôn ngữ chính trị cũng như mối quan hệ giữa các giai cấp,
các dân tộc, các quốc gia và thái độ của các giai cấp đối với quyền lực nhà nước. Hình
thái ý thức chính trị xuất hiện trong những xã hội có giai cấp và có nhà nước, vì vậy nó
thể hiện trực tiếp và rõ nhất lợi ích giai cấp” 2. Ý thức chính trị được thể hiện qua các
cương lĩnh, đường lối chính trị của các đảng, pháp luật của nhà nước, và là công cụ
thống trị của giai cấp thống trị. Hệ tư tưởng chính trị tiến bộ sẽ thúc đẩy phát triển xã
hội, trong khi hệ tư tưởng chính trị lạc hậu có thể làm chậm lại sự phát triển này.
Trong thời đại hiện nay, hệ tư tưởng của giai cấp công nhân được cho là tiến bộ, cách
mạng và khoa học, hướng tới xây dựng một xã hội mới hơn và bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa. Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân
dân lao động và dân tộc ta. Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta giành được độc lập, tự do và
1
Bộ Giáo dục đào tạo (2021), Giáo trính Triết học Mác-Lênin (Dành cho sinh viên đại học khối không chuyên
ngành Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh), Nxb, Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.191
2
Bộ Giáo dục đào tạo (2021), Giáo trính Triết học Mác-Lênin (Dành cho sinh viên đại học khối không chuyên
ngành Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh), Nxb, Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.192.

10
đang đổi mới đất nước, đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Ví dụ rõ hơn về ý thức
chính trị ở Việt Nam là người dân Việt Nam luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng,
tích cực tham gia các hoạt động chính trị, xã hội do Đảng phát động.
Thứ hai, ý thức pháp quyền “toàn bộ những tư tưởng, quan điểm của một giai
cấp về bản chất và vai trò của pháp luật, về quyền, trách nhiệm và nghĩa vụ của nhà
nước, của các tổ chức xã hội và của công dân, về tính hợp pháp và không hợp pháp
của hành vi con người trong xã hội.” Ý thức pháp quyền có mối quan hệ chặt chẽ với ý
thức chính trị. Ý thức pháp quyền phản ánh các mối quan hệ kinh tế của xã hội thông
qua ngôn ngữ pháp luật. Pháp luật không chỉ là ý chí của giai cấp thống trị mà còn là
công cụ bảo vệ và phản ánh lợi ích của các giai cấp trong xã hội. Trong xã hội giai cấp
đối kháng, các giai cấp có những quan điểm và thái độ khác nhau đối với pháp luật.
Ph. Ăngghen viết rằng, “ý thức pháp quyền của người ta bắt nguồn từ những điều kiện
sinh hoạt kinh tế của người ta”1 .Hệ tư tưởng pháp quyền tư sản thường coi pháp luật
là biểu hiện cao nhất của quyền tự nhiên của con người, nhưng thực tế, pháp luật tư
sản thường được thiết lập để bảo vệ chế độ tư bản và lợi ích của giai cấp tư sản. Trong
khi đó, hệ tư tưởng pháp quyền xã hội chủ nghĩa, như chủ nghĩa Mác - Lênin, phản
ánh lợi ích của toàn bộ nhân dân và bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa. Do đó, việc giáo
dục và nâng cao ý thức pháp luật cho toàn dân được coi là nhiệm vụ quan trọng và lâu
dài của hệ thống chính trị để đảm bảo sự phát triển và ổn định của xã hội. Ví dụ, ở
nước ta ý thức pháp quyền của xã hội ta là ý thức pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Sự
thống nhất cao về mặt lợi ích cơ bản giữa giai cấp công nhân và nhân dân lao động đã
tạo nên hệ thống pháp luật do nhà nước ban hành.
Thứ ba, ý thức đạo đức “là toàn bộ những quan niệm về thiện, ác, tốt, xấu,
lương tâm, trách nhiệm, nghĩa vụ, công bằng, hạnh phúc, v.v.. và về những quy tắc
đánh giá, những chuẩn mực điều chỉnh hành vi cùng cách ứng xử giữa các cá nhân với
nhau và giữa các cá nhân với xã hội.” 2 Ý thức đạo đức của con người phản ánh các
quan hệ kinh tế trong xã hội, đặc biệt là vị trí của giai cấp trong hệ thống sản xuất và
trao đổi. Sự phát triển của ý thức đạo đức không chỉ là một khía cạnh quan trọng của
sự tiến bộ xã hội mà còn là biểu hiện của bản chất xã hội. Trong các xã hội có giai cấp,

1
C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, t.18, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tr.379.
2
Bộ Giáo dục đào tạo (2021), Giáo trính Triết học Mác-Lênin (Dành cho sinh viên đại học khối không chuyên
ngành Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh), Nxb, Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.193.

11
nội dung chủ yếu của đạo đức thường phản ánh lợi ích của giai cấp thống trị. Điều này
dẫn đến sự đối lập trong các quan điểm đạo đức giữa các giai cấp và thể hiện rõ trong
các lực lượng xã hội. Tuy nhiên, cũng có những yếu tố đạo đức mang tính toàn nhân
loại, tồn tại và duy trì trật tự xã hội và các hoạt động hàng ngày của con người trong
các cộng đồng xã hội. Về mặt lịch sử, đạo đức đã tồn tại từ rất lâu và vẫn còn tồn tại
trong nền văn minh nhân loại. Hiện nay, trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường và
toàn cầu hóa, con người phải đối mặt với sự ảnh hưởng của nhiều giá trị đạo đức khác
nhau, từ truyền thống đến những giá trị mới phù hợp với thực tế hiện đại. Tóm lại, việc
giáo dục và nuôi dưỡng ý thức đạo đức là nhiệm vụ quan trọng, đặc biệt là đối với thế
hệ trẻ, để bảo đảm sự phát triển và ổn định của xã hội trong thời điểm hiện nay và
trong tương lai. Ví dụ ý thức đạo đức đã được thể hiện từ xa xưa, khi ông cha ta đã đúc
rút ra những bài học về đạo đức để răn dạy con người, thể hiện qua những câu ca dao,
tục ngữ như: uống nước nhớ nguồn; lá lành đùm lá rách; thức lâu mới biết đêm dài, ở
lâu mới biết con người có nhân;...
Thứ tư, “ý thức nghệ thuật hay ý thức thẩm mỹ hình thành rất sớm, từ trước khi
xã hội có sự phân chia giai cấp, cùng với sự ra đời của các hình thái nghệ thuật” 1 .Nó
phản ánh tồn tại xã hội và được thể hiện thông qua hình tượng nghệ thuật, là sự nhận
thức về cái chung trong cái riêng và về bản chất của các hiện tượng xã hội.ý thức nghệ
thuật và ý thức thẩm mỹ. Khác với khoa học và triết học sử dụng khái niệm và phạm
trù, nghệ thuật sử dụng hình tượng để phản ánh thế giới. Nó không phải lúc nào cũng
phản ánh hiện thực xã hội một cách trực tiếp, và sự phát triển của nó không luôn tương
ứng với sự phát triển chung của xã hội hoặc cơ sở vật chất xã hội. Nghệ thuật chân
chính liên kết chặt chẽ với cuộc sống của nhân dân và có giá trị thẩm mỹ cao, đáp ứng
nhu cầu thẩm mỹ của nhiều thế hệ. Nó ảnh hưởng tích cực đến sự trải nghiệm, xúc
cảm, và thúc đẩy sự tiến bộ xã hội. Đồng thời, nghệ thuật cũng có vai trò giáo dục,
hình thành thế giới quan và văn hóa tiên tiến cho các thế hệ tương lai. Nghệ thuật chân
chính liên kết chặt chẽ với cuộc sống của nhân dân và có giá trị thẩm mỹ cao, đáp ứng
nhu cầu thẩm mỹ của nhiều thế hệ. Nó ảnh hưởng tích cực đến sự trải nghiệm, xúc
cảm, và thúc đẩy sự tiến bộ xã hội. Đồng thời, nghệ thuật cũng có vai trò giáo dục,
hình thành thế giới quan và văn hóa tiên tiến cho các thế hệ tương lai. Tóm lại, nghệ
1
Bộ Giáo dục đào tạo (2021), Giáo trính Triết học Mác-Lênin (Dành cho sinh viên đại học khối không chuyên
ngành Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh), Nxb, Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.194.

12
thuật tiến bộ không chỉ phục vụ cho cộng đồng và dân tộc mình mà còn góp phần vào
sự tiến bộ chung của nhân loại, phục vụ cả thế hệ hiện tại và tương lai. Ví dụ các họa
sĩ, nhà thơ, nhà văn đã quan tâm phản ánh đến đời sống tâm hồn, tâm tư tình cảm của
con người, đặc biệt là tìm tòi phát hiện được những vẻ đẹp giản dị trong tâm hồn của
những con người bình dị.
Thứ năm, ý thức tôn giáo “là sự phản ánh hư ảo sức mạnh của giới tự nhiên bên
ngoài lẫn các quan hệ xã hội vào đầu óc con người.” 1. Trong giáo trình đã trình bày
quan điểm C. Mác, Ph. Ăngghen và V.I. Lênin về nguồn gốc và vai trò của tôn giáo
trong xã hội. Các tác giả nhấn mạnh rằng tôn giáo xuất hiện như một hình thái của ý
thức xã hội, được tạo dựng từ sự sợ hãi và bất lực của con người trước những sức
mạnh tự nhiên và xã hội mà họ không thể kiểm soát. Đặc biệt, sự bất lực của quần
chúng lao động trước sự bóc lột và áp bức của tầng lớp thống trị dẫn đến việc tôn giáo
trở thành một phương thức "đền bù hư ảo" cho những điều mà con người không thể
đạt được trong cuộc sống hiện thực. Đồng thời, tôn giáo cản trở sự nhận thức đúng đắn
của con người về thế giới, về xã hội, về bản thân mình và luôn bị các giai cấp thống trị
lợi dụng. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác, muốn xóa bỏ tôn giáo thì phải xóa bỏ
nguồn gốc xã hội của nó; đồng thời phải nâng cao năng lực nhận thức, trình độ học
vấn của con người. Nhưng bên cạnh đó thì ý thức tôn giáo tốt cũng mang lại nhiều lợi
ích. Trong những lúc khó khăn, nhiều người Việt Nam tìm đến tôn giáo để tìm kiếm sự
an ủi tinh thần. Họ tin rằng tôn giáo có thể giúp họ vượt qua những thử thách trong
cuộc sống và đạt được sự bình an trong tâm hồn. Ví dụ: khi gặp chuyện buồn, nhiều
người Việt Nam đi chùa cầu nguyện, tâm sự với các tu sĩ hoặc đọc kinh Phật để tìm sự
thanh thản.
Thứ sáu, ý thức lý luận hay ý thức khoa học. “Khoa học hình thành và phát
triển ở một giai đoạn nhất định của sự phát triển xã hội, của nhu cầu sản xuất xã hội và
sự phát triển năng lực tư duy của con người. Khoa học là sự khái quát cao nhất của
thực tiễn, là phương thức nắm bắt tất cả các hiện tượng của hiện thực, cung cấp những
tri thức chân thực về bản chất các hiện tượng, các quá trình, các quy luật của tự nhiên
và của xã hội. Vì vậy, khoa học và tôn giáo là những hiện tượng đối lập với nhau về
bản chất. Tôn giáo thù địch với lý trí con người, trong khi đó khoa học lại là sản phẩm
1
Bộ Giáo dục đào tạo (2021), Giáo trính Triết học Mác-Lênin (Dành cho sinh viên đại học khối không chuyên
ngành Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh), Nxb, Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.195.

13
cao nhất của lý trí và là sức mạnh của con người. Nếu ý thức tôn giáo là sự phản ánh
hư ảo sức mạnh của giới tự nhiên bên ngoài lẫn các quan hệ xã hội vào đầu óc con
người thì ý thức khoa học phản ánh hiện thực một cách chân thực và chính xác dựa
vào sự thật và lý trí của con người. Khác với tất cả các hình thái ý thức xã hội khác, ý
thức khoa học phản ánh sự vận động và sự phát triển của giới tự nhiên, của xã hội loài
người và của tư duy con người bằng tư duy lôgích, thông qua hệ thống các khái niệm,
các phạm trù, các quy luật và các lý thuyết. Nếu ý thức tôn giáo hướng con người vào
thế giới những ảo tưởng, siêu tự nhiên thì, trái lại, ý thức khoa học có nhiệm vụ cao cả
là hướng con người vào việc biến đổi hiện thực, cải tạo thế giới nhằm phục vụ cho nhu
cầu cuộc sống nhiều mặt và ngày càng tốt hơn, cao hơn của con người. Cùng với sự
phát triển của lịch sử nhân loại, vai trò của khoa học ngày càng tăng lên, đặc biệt là
trong giai đọan hiện nay khi tri thức khoa học, cả tri thức về tự nhiên lẫn tri thức về xã
hội và về con người, đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, khi nhân loại bước
vào thời đại phát triển mạnh mẽ của công nghệ kỹ thuật số và trí tuệ nhân tạo. Cùng
với đó, khoa học đang góp phần quan trọng vào việc giải quyết các vấn đề toàn cầu
của thời đại, ngăn chặn những tác động xấu do sự vô ý thức và sự tham lam của con
người trong quá trình phát triển kinh tế.” 1 .Ví dụ như định luật của Newton về chuyển
động là tập hợp của định luật cơ học phát biểu bởi nhà bác học Isaac Newton, đặt nền
tảng cho cơ học cổ điển (còn gọi là cơ học Newton).
Thứ bảy, ý thức triết học là “hình thức đặc biệt và cao nhất của tri thức
cũng như của ý thức xã hội” 2 . Theo giáo trình triết học Mác - Lênin đã nhấn mạnh
rằng triết học, đặc biệt là triết học Mác - Lênin, không chỉ tổng kết lịch sử phát triển
của khoa học và triết học mà còn cung cấp một cái nhìn toàn diện về thế giới như một
chỉnh thể. Hegel khẳng định tầm quan trọng của triết học từ góc độ tinh thần, còn
Marx nhấn mạnh rằng triết học chân chính phản ánh tinh hoa của thời đại và có tác
động trực tiếp đến thế giới hiện thực, trở thành một phần thiết yếu của văn hóa. Triết
học, với vai trò là một hình thái ý thức xã hội, đặc biệt là triết học duy vật biện chứng,
đóng vai trò như một thế giới quan. Thế giới quan này giúp con người trả lời những
câu hỏi cơ bản về bản chất của thế giới, nguồn gốc và ý nghĩa của cuộc sống, cũng như
1
Bộ Giáo dục đào tạo (2021), Giáo trính Triết học Mác-Lênin (Dành cho sinh viên đại học khối không chuyên
ngành Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh), Nxb, Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.193.
2
Bộ Giáo dục đào tạo (2021), Giáo trính Triết học Mác-Lênin (Dành cho sinh viên đại học khối không chuyên
ngành Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh), Nxb, Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.193.

14
vị trí của con người trong thế giới. Nó không chỉ bao hàm nhân sinh quan mà còn giúp
nhận thức và đánh giá đúng đắn các hình thái ý thức xã hội khác, xác định vị trí và vai
trò của chúng trong đời sống xã hội, và hiểu được các quy luật và đặc điểm phát triển
của chúng.
1.2. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội:
Tính độc lập tương đối là một khái niệm trong triết học và xã hội học dùng để
chỉ mối quan hệ giữa các yếu tố trong hệ thống mà một yếu tố này có thể phát triển và
tồn tại một cách tương đối độc lập so với yếu tố khác, mặc dù chúng có sự tương tác
và ảnh hưởng lẫn nhau. Một ví dụ điển hình về tính độc lập tương đối đó chính là ý
thức xã hội và tồn tại xã hội, trong đó tồn tại xã hội quyết định nội dung và hình thức
của ý thức xã hội. Tuy nhiên, ý thức xã hội có thể phát triển theo những quy luật riêng
và có thể tác động trở lại làm thay đổi tồn tại xã hội.
Đầu tiên, tồn tại xã hội là “là toàn bộ sinh hoạt vật chất và những điều kiện sinh
hoạt vật chất của xã hội. Tồn tại xã hội của con người là thực tại xã hội khách quan, là
một kiểu vật chất xã hội, là các quan hệ xã hội vật chất được ý thức xã hội phản ánh.
“Trong các quan hệ xã hội vật chất ấy thì quan hệ giữa con người với giới tự nhiên và
quan hệ giữa con người với con người là những quan hệ cơ bản nhất bao gồm sản xuất
vật chất, hoàn cảnh tự nhiên, quan hệ sản xuất và phương thức sản xuất” 1 .Còn ý thức
xã hội là toàn bộ các quan điểm, tư tưởng, tâm lý và ý chí của con người phản ánh tồn
tại xã hội. Tồn tại xã hội quyết định nội dung, tính chất, đặc điểm, xu hướng vận động,
sự biến đổi và sự phát triển của các hình thái ý thức xã hội. Ví dụ: Trong các xã hội
phong kiến phương Đông như Trung Quốc, Việt Nam,... nền kinh tế nông nghiệp là
chủ yếu, với quan hệ sản xuất dựa trên quyền lực của địa chủ và nông dân. Các điều
kiện vật chất này tạo ra một cấu trúc xã hội mang tính giai cấp rõ rệt, nơi vua chúa và
địa chủ nắm quyền lực tuyệt đối. Điều này dẫn đến sự phát triển của Nho giáo như một
hệ tư tưởng chính thống, thúc đẩy các giá trị như tôn trọng trật tự xã hội, lòng hiếu
thảo, trung thành với vua và sự tuân thủ các quy tắc đạo đức 2.(Nho giáo: Tư tưởng này
khuyến khích sự ổn định và trật tự trong xã hội, phản ánh và củng cố cấu trúc giai cấp

1
Bộ Giáo dục đào tạo (2021), Giáo trính Triết học Mác-Lênin (Dành cho sinh viên đại học khối không chuyên
ngành Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh), Nxb, Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.188.
2
Tô Thị Phương Dung. (2023).So sánh chế độ nhà nước phong kiến phương Đông và phương Tây. So sánh chế
độ nhà nước phong kiến phương Đông và phương Tây (luatminhkhue.vn)

15
phong kiến3.). Mặc dù ý thức xã hội bị quyết định bởi tồn tại xã hội, nhưng nó cũng có
khả năng tác động ngược trở lại và có thể phát triển độc lập ở một mức độ nhất định -
có tính độc lập tương đối. Tính lạc hậu của ý thức xã hội: Ý thức xã hội có thể tồn tại
dưới hình thức cũ, lạc hậu so với sự phát triển của tồn tại xã hội. Tính tiến bộ của ý
thức xã hội: Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội, đóng vai trò tiên phong và
dẫn dắt sự phát triển của tồn tại xã hội. Sự ảnh hưởng của cá nhân và nhóm: Những cá
nhân hoặc nhóm có thể đóng vai trò quan trọng trong việc định hình và thay đổi ý thức
xã hội. Ý thức xã hội có tính kế thừa: Ý thức xã hội có thể tồn tại và ảnh hưởng một
thời gian dài sau khi tồn tại xã hội đã thay đổi Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý
thức xã hội: Ý thức xã hội có thể phát triển không đồng đều ở các vùng, miền khác
nhau, có khả năng độc lập trong không gian “Ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã
hội:Ý thức xã hội có khả năng phát triển theo quy luật riêng, tạo ra những hệ tư tưởng
mới, thậm chí đi ngược lại hoặc xa rời tồn tại xã hội”2. Tóm lại, tồn tại xã hội và ý thức
xã hội có mối quan hệ qua lại chặt chẽ, trong đó tồn tại xã hội đóng vai trò quyết định
cơ bản. Tuy nhiên, ý thức xã hội có tính độc lập tương đối, có khả năng tự phát triển
và tác động trở lại đối với tồn tại xã hội.
1.2.1. Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn tồn tại xã hội:

Trong tác phẩm “Ngày mười tám tháng Sương mù” của Louis Bonaparte,
C.Mác đã viết: “Con người làm ra lịch sử của chính mình, nhưng không phải làm theo
ý muốn tùy tiện của mình, trong những điều kiện tự mình chọn lấy mà là trong những
điều kiện trực tiếp có trước mắt, đã cho sẵn và do quá khứ để lại. Truyền thống của tất
cả các thế hệ đã chết đè nặng như quả núi lên đầu óc những người đang sống. Và ngay
khi con người có vẻ như là đang ra sức tự cải tạo mình và cải tạo sự vật, ra sức sáng
tạo ra một cái gì chưa từng có, thì chính trong thời kỳ khủng hoảng cách mạng như
thế, họ lại sợ sệt cầu viện đến những linh hồn của quá khứ, lại mượn tên tuổi, khẩu
hiệu chiến đấu, y phục của những linh hồn đó, để rồi đội cái lốt đáng kính ấy của
người xưa và dùng những lời lẽ vay mượn đó để trình diễn màn mới của lịch sử thế

1
Lê Kiều Hoa. (2023). Nho giáo là gì? Nội dung, nguồn gốc, đặc điểm của Nho giáo là gì ?. Nho giáo là gì? Nội
dung, nguồn gốc, đặc điểm của Nho giáo là gì? (luatminhkhue.vn)
2
Bộ Giáo dục đào tạo (2021), Giáo trính Triết học Mác-Lênin (Dành cho sinh viên đại học khối không chuyên
ngành Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh), Nxb, Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.198.

16
giới”3. Qua đoạn trích trên ta càng ý thức được rằng: đương thời những con người
đang sống trong một thời đại nào đó không phải chỉ chịu sự tác động, nhận thức của
những quy chế xã hội, của luật pháp mà đồng thời còn phải chịu ảnh hưởng từ những
tư tưởng của thời đại trước, số ít còn tồn tại đến tận xã hội hiện đại lúc bấy giờ - một
minh chứng điển hình cho “ý thức xã hội thường lạc hậu hơn tồn tại xã hội”. Vậy
những nguyên nhân đã làm cho ý thức xã hội thường lạc hậu hơn tồn tại xã hội là:
Thứ nhất, do tác động mạnh mẽ và nhiều mặt trong hoạt động thực tiễn của
con người nên tồn tại xã hội diễn ra với tốc độ nhanh hơn khả năng phản ánh của ý
thức xã hội. Một ví dụ điển hình về việc tồn tại xã hội thay đổi nhanh hơn so với khả
năng phản ánh của ý thức xã hội là sự phát triển của công nghệ thông tin và mạng
internet trong những thập kỷ gần đây. Chỉ trong vòng vài thập kỷ trở lại đây, công
nghệ thông tin và mạng internet đã phát triển mạnh mẽ, làm thay đổi căn bản cách con
người giao tiếp, làm việc, mua sắm, học tập, và giải trí. Việt Nam cũng nhanh chóng
hòa nhập với các cường quốc trên thế giới về cuộc cách mạng công nghiệp 3.0, 4.0;
các công nghệ mới như điện thoại thông minh, mạng xã hội, thương mại điện tử, và
làm việc từ xa đã trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống hàng ngày của
mọi người trong thời đại công nghệ, kỹ thuật số lên ngôi. Nếu như trước đây, chúng ta
muốn mua sắm vật dụng, nhu cầu thiết yếu thì phải đi đến siêu thị, chợ truyền thống…
nhưng giờ đây, với sự phát triển của thời đại chúng ta chỉ cần truy cập vào những nền
tảng, trang web bán hàng uy tín và ngồi ở nhà đợi hàng hóa được vận chuyển đến mà
không cần phải di chuyển xa xôi, bất tiện. Hay tiện ích “video call” cho những người
con xa xứ được gặp mặt bố mẹ, họ hàng bất kể lúc nào. Mặc dù công nghệ thông tin và
mạng internet đã phát triển nhanh chóng tuy nhiên tư duy xã hội và chính sách pháp
luật về công nghệ thường chậm chạp và lạc hậu hơn, đi đôi với những lợi ích thì chúng
ta còn phải đối mặt với những vấn đề rối ren khác. Ví dụ về giáo dục: Nhiều hệ thống
giáo dục vẫn duy trì các phương pháp giảng dạy truyền thống, chậm tích hợp công
nghệ số và phương pháp học trực tuyến, ngay cả khi công nghệ đã sẵn sàng để hỗ trợ
và cải thiện quá trình học tập. Ví dụ về chính sách pháp luật: Luật pháp và quy định về
quyền riêng tư, bảo vệ dữ liệu, và an ninh mạng thường không bắt kịp với tốc độ phát
triển của công nghệ, dẫn đến những lỗ hổng pháp lý và khó khăn trong việc bảo vệ

3
C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, t.8, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tr.145.

17
quyền lợi của người dùng. Luật an ninh mạng được Quốc hội thông qua vào ngày 12
tháng 6 năm 2018 và chính thức có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2019. Song, vào
thời điểm này, mạng xã hội đã trở nên rất phổ biến trên cả nước, thậm chí là gây ra
một số vi phạm xâm phạm quyền lợi, thông tin của người tiêu dùng trước khi Luật An
Ninh Mạng được ban bố và thi hành.
Thứ hai, do sức mạnh của thói quen, tập quán, truyền thống và do cả tính bảo
thủ của hình thái ý thức xã hội. Hơn nữa, những điều kiện tồn tại xã hội mới cũng chưa
đủ để làm cho những thói quen, tập quán và truyền thống cũ hoàn toàn mất đi 1. Điều
này có thể thấy rõ trong việc giữ gìn và bảo tồn các phương thức sản xuất truyền thống
trong nông nghiệp ở nhiều nơi trên thế giới, đặc biệt là ở nước ta. Ví dụ, dù đã có sự
phát triển nông nghiệp công nghệ cao và các phương pháp sản xuất hiện đại nhưng vẫn
có nhiều nông dân ở các vùng nông thôn vẫn duy trì các phương thức canh tác, chăm
sóc cây trồng, hay nuôi dưỡng gia súc theo những phương thức truyền thống. Mặc dù
họ có thể canh tác theo nhiều phương pháp hiện đại, sử dụng những công cụ hỗ trợ tân
tiến nhưng họ vẫn chọn phương pháp truyền thống từ bao đời tổ tiên truyền lại vì niềm
tin, tín ngưỡng đã bén rễ sâu trong tiềm thức của họ. “Sức mạnh của tập quán ở hàng
triệu người và hàng chục triệu người là một sức mạnh ghê gớm nhất”2.

Thứ ba, “ý thức xã hội gắn liền với lợi ích của những tập đoàn người, của các
giai cấp nào đó trong xã hội” 3. Các tập đoàn hay giai cấp lạc hậu thường níu kéo, bám
chặt vào những tư tưởng lạc hậu để bảo vệ và duy trì quyền lợi ích kỷ của họ, để chống
lại các lực lượng tiến bộ trong xã hội. Lấy ví dụ Vua Bảo Đại trong giai đoạn cuối
cùng của triều đình Nguyễn đã phải đương đầu với nhiều thách thức và biến động xã
hội trong bối cảnh cả nước Việt Nam đang trải qua quá trình đổi mới và cải cách dưới
sự ảnh hưởng của các phong trào dân chủ và cách mạng. Thứ nhất, duy trì phong tục,
tập quán và hình thái quản lý truyền thống: Vua Bảo Đại duy trì và hậu thuẫn các hình
thức phong kiến như hệ thống quan lại và các lễ nghi cung đình. Điều này thể hiện sự

1
Bộ Giáo dục đào tạo (2021), Giáo trính Triết học Mác-Lênin (Dành cho sinh viên đại học khối không chuyên
ngành Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh), Nxb, Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.198.
2
V.I.Lênin: Toàn tập, Sdd, t.41, tr.34
3
Bộ Giáo dục đào tạo (2021), Giáo trính Triết học Mác-Lênin (Dành cho sinh viên đại học khối không chuyên
ngành Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh), Nxb, Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.198.

18
bảo thủ của triều đình và các tầng lớp quan lại trong việc duy trì quyền lực và ưu thế
của mình trong xã hội. Thứ hai, sự chống đối với các phong trào cải cách: Mặc dù đã
có những nỗ lực cải cách từ các phong trào dân chủ và cách mạng nhưng vua Bảo Đại
và các lực lượng cổ hủ vẫn kháng cự và níu kéo vào các giá trị truyền thống để duy trì,
củng cố sự ổn định và quyền lợi của mình. Cuối cùng, áp lực từ các phong trào tiến bộ:
Dưới sự bao trùm của các phong trào tiến bộ và yêu cầu cải cách xã hội, vua Bảo Đại
phải đối mặt với áp lực và thay đổi từ các phong trào cải cách nhưng sự chậm trễ và sự
bảo thủ của triều đình đã khiến cho quá trình cải cách và thích ứng xã hội gặp nhiều
khó khăn.
Một ví dụ điển hình nữa về hiện tượng này là sự chống đối của các lực lượng cổ
hủ trong ngành công nghiệp dầu khí đối với việc chuyển đổi sang sử dụng năng lượng
tái tạo và bảo vệ môi trường. Các tập đoàn dầu khí có thể níu kéo và bảo vệ các
phương pháp khai thác truyền thống như khai thác dầu mỏ và khí đốt tự nhiên, thay vì
đầu tư vào năng lượng xanh và sạch hơn. Họ có thể lôi kéo các giai cấp có lợi ích vào
các cuộc chiến tranh ý thức để duy trì lợi ích kinh tế và chính trị của mình, thậm chí
chống đối các chính sách và công nghệ mới có thể gây thiệt hại đến môi trường và
cộng đồng. Điển hình là Petrovietnam là Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam, có vai
trò quan trọng trong ngành công nghiệp dầu khí của đất nước. Mặc dù PVN đã bắt đầu
quan tâm đến năng lượng tái tạo, nhưng sự chuyển đổi vẫn còn chậm chạp. Lý do
chính là lợi ích kinh tế và quyền lực của ngành dầu khí vẫn rất lớn, tạo ra sự chống đối
ngầm đối với việc chuyển đổi nhanh chóng sang các nguồn năng lượng mới.

Tiểu kết chương

Chương 2
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH
KHOA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY
2.1. Khái niệm “đạo đức”, “giáo dục đạo đức” và nội dung cơ bản của giáo dục
đạo đức cho sinh viên Việt Nam hiện nay
2.1.1 Khái niệm “đạo đức”, “giáo dục đạo đức”

19
Song song với sự vận và phát triển của xã hội thì đạo đức ra đời với tư cách là
một trong các hình thái của ý thức xã hội, xuất hiện từ khá sớm và có vai trò đặc biệt
quan trọng trong sự phát triển của xã hội. Đạo đức có một quá trình hình thành, tồn tại
và phát triển liên tục. Đạo đức được hiểu là “hệ thống các quy tắc, chuẩn mực xã hội
mà nhờ đó con người tự giác điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với lợi ích của
cộng đồng, của xã hội”1 .Trong thực tế, đạo đức là một hiện tượng xã hội phức tạp, có
cấu trúc bao gồm các yếu tố: ý thức đạo đức, hành vi đạo đức và quan hệ đạo đức. Để
hiểu rõ hơn về khái niệm của đạo đức, ta cần phải đi sâu vào quan hệ của các yếu tố
cấu thành cấu trúc đạo đức. Những yếu tố này không tồn tại độc lập mà có quan hệ
biện chứng với nhau.
Thứ nhất, hành vi đạo đức là quá trình thực hiện hóa ý thức đạo đức trong đời
sống. Nói cách khác, không có ý thức đạo đức thì không thể có hành vi đạo đức. Về
mặt cấu trúc, ý thức đạo đức gồm tình cảm đạo đức, tri thức đạo đức, lý tưởng đạo
đức, ý chí đạo đức, “trong đó tình cảm đạo đức là yếu tố quan trọng nhất, bởi vì, nếu
không có tình cảm đạo đức thì tất cả những khái niệm, những phạm trù và tri thức đạo
đức thu nhận được bằng con đường lý tính không thể chuyển hóa thành hành vi đạo
đức”2.
Thứ hai, ý thức đạo đức không thể hình thành ngoài quan hệ đạo đức và ngược
lại. Ý thức đạo đức hình thành trên cơ sở phản ánh các mối quan hệ giữa cá nhân với
cá nhân, giữa cá nhân với xã hội. Ý thức đạo đức nảy sinh do nhu cầu của đời sống xã
hội mà đầu tiên là nhu cầu phối hợp hoạt động trong lao động sản xuất vật chất. Sự
phát triển của sản xuất kéo theo sự phát triển của các quan hệ xã hội và đưa đến sự
phát triển của quan hệ đạo đức, làm cho chúng ngày càng đa dạng, phức tạp hơn. Quan
hệ đạo đức càng đa dạng, phức tạp càng là môi trường tốt cho con người hình thành ý
thức đạo đức sâu sắc và toàn diện.

Thứ ba, quan hệ đạo đức cơ sở dẫn đến hành vi đạo đức, hành vi đạo đức không
thể tách trời với quan hệ đạo đức. Hành vi đạo đức thể hiện không thể không thông
1
Mai Văn Bính (Chủ biên), Lê Thanh Hà, Nguyễn Thị Thanh Mai, Lưu Thu Thủy (2014), Giáo dục công dân
10, NXB Giáo dục Việt Nam, tr.62
2
Bộ Giáo dục và Đào tạo (2021), Giáo trình Triết học Mác - Lênin (Dành cho sinh viên đại học khối không
chuyên ngành Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.193.

20
qua quan hệ đạo đức, tùy vào từng mối quan hệ khác nhau mà con người có thể xác
định và đưa ra những hành vi đạo đức phù hợp. Ta có thể lấy nhiều ví dụ cho các mối
liên hệ chặt chẽ của các yếu tố trên: như trong mỗi đợt lũ lụt, đại dịch Covid,... hành vi
đạo đức suất hiện khắp mọi nơi là quyên góp, ủng hộ, san sẽ quần áo đồ ăn thức uống;
hỗ trợ những người khó khăn khi thực hiện cách ly; sự hi sinh không ngại khó khăn
của các y bác sĩ ở tuyến đầu chống dịch,... con người có ý thức những việc này là tốt
và thực hiện hóa bằng hành vi đạo đức, và tình yêu thương và đồng cảm giữa con
người với con người, giữa con người với xã hội thể hiện cho quan hệ đạo đức hình
thành nên ý thức đạo đức. Như vậy, có thể thấy đạo đức có vai trò đặc biệt quan trọng
không chỉ là “một trong những phương thức cơ bản để điều chỉnh hành vi con người,
một sự điều chỉnh hoàn toàn tự nguyện, tự giác, không vụ lợi trong một phạm vi rộng
lớn” mà “còn góp phần nhân đạo hóa con người và xã hội loài người, giúp con người
sống thiện, sống có ích”; không chỉ “thể hiện bản sắc dân tộc trong quan hệ quốc tế, là
cơ sở để mở rộng giao lưu giữa các giá trị văn hóa của dân tộc, quốc gia với các dân
tộc, quốc gia khác” mà còn “góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội, qua đó thúc
đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội”1.
Phát triển của xã hội là sự thay đổi về các khái niệm, chuẩn mực và các qui tắc
ứng xử lên từng cá nhân thuộc trong xã hội, chúng bao gồm các hành vi của con người
đối với xã hội, con người với con người. Những quy tắc, chuẩn mực ấy được xã hội
thừa nhận, và là một thành viên trong xã hội thì mỗi con người phải chịu sự giáo dục
nhất định về đạo đức. Vậy giáo dục đạo đức là gì? Theo tác giả Nguyễn Thị Lan Anh,
“giáo dục đạo đức là quá trình chuyển những tri thức, chuẩn mực đạo đức từ những
đòi hỏi bên ngoài của xã hội đối với cá nhân thành nhưng đòi hỏi bên trong của bản
thân thành niềm tin, nhu cầu, thói quen của người được giáo dục” 2. Theo tác giả Trần
Thanh Bình, “giáo dục đạo đức là quá trình hình thành cho con người những quan
điểm, những chuẩn mực đạo đức cơ bản của xã hội” 3. Như vậy, có thể hiểu giáo dục
đạo đức là quá trình đào tạo, bồi dưỡng, hình thành và phát triển nhân cách con người,

1
Ban tuyên giáo tỉnh ủy Hưng Yên .(2016). Đạo đức, lối sống và vai trò của đạo đức, lối sống trong đời sống xã
hội. https://tuyengiao.hungyen.dcs.vn/dao-duc-loi-song-va-vai-tro-cua-dao-duc-loi-song-trong-doi-song-xa-hoi-
c23470.html
2
Nguyễn Thị Lan Anh (2021), Giáo dục đạo đức cho sinh viên ở các trường đại học, cao đẳng giai đoạn hiện
nay. Tạp chí Khoa học Giáo dục Việt Nam, Số đặc biệt 5/ 2021, tr.53.
3
Trần Thanh Bình (2021), Giáo dục đạo đức thông qua hoạt động trải nghiệm trong trường phổ thông, Tạp chí
Khoa học quản lý giáo dục, Số 01(29), tháng 3/2021, tr.88.

21
giúp con người có những phẩm chất đạo đức đúng đắn và ý thức trách nhiệm của bản
thân về gia đình, xã hội, đất nước. Bản chất của giáo dục đạo đức là việc biến các quy
tắc, chuẩn mực của xã hội mà xã hội yêu cầu đối với một cá nhân và hình thành trong
các cá nhân đó các niềm tin, thói quen của bản than và từ đó đưa ra các hành vi đúng
đắn với chuẩn mực xã hội. Bản chất giáo dục đạo đức là một chuỗi những tác động có
tính định hướng của chủ thể giáo dục và yếu tố tự giáo dục của học sinh từ đó giúp học
sinh nhận thức đúng, tạo lập tình cảm và thái độ đúng, hình thành thói quen hành vi
văn minh trong cuộc sống, phù hợp với chuẩn mực xã hội. Từ đó nhân cách con người
mới được hình thành và phát triển. Việc giáo dục đạo đức có ý nghĩa rất quan trọng
trong việc phát triển của cá nhân và xã hội.
Thứ nhất, với sự phát triển và thay đổi nhanh chóng của xã hội hiện nay thì việc
giáo dục đạo đức giúp mỗi cá phải hiểu rõ và thúc đẩy quá trình học hỏi, nâng cao
nhận thức để theo kịp sự thay đổi của xã hội giúp đất nước ngày càng phát triển.
Thứ hai, giáo dục đạo đức góp phần xây dựng lên một cá nhân mạnh mẽ, với ý
chí, tính kỉ luật và cách ứng xử chuẩn mực trong xã hội.
Thứ ba, thông qua việc giáo dục đạo đức thì các giá trị đạo đức truyền thống,
tinh thần dân tộc sẽ được kế thừa. Chắc chắn không ai thấy xa lạ gì với câu “Tiên học
lễ, hậu học văn”. Ở hầu hết các trường các cấp đều gắn một tấm bảng treo câu này, và
dễ dàng nhận thấy khi bước vào cổng trường. Đó là thực tế cho thấy Việt Nam đã và
đang rất chú trọng vào việc giáo dục đạo đức cho mỗi cá nhân, và việc này vẫn diễn ra
xuyên suốt cho tới khi con người tham gia vào thị trường lao động, giáo dục đạo đức ở
từng lĩnh vực vẫn được tiếp tục như là đạo đức nghề y, đạo đức nghề giáo, đạo đức của
người nông dân,… Vì thế, dễ dàng nhận thấy việc giáo dục đạo đức không phải là việc
ngày một ngày hai mà nó là một quá trình hình thành theo sự phát triển nhận thức và ý
thức của con người, và sự phát triển xã hội.
Nói tóm lại, đạo đức là các quy tắc, chuẩn mực của xã hội về cái thiện và cái ác,
về đúng và sai, giáo dục đạo đức không những giúp từng các nhân hiểu thêm về các
chuẩn mực xã hội mà con nâng cao nhận thức và ý thức với các mối quan hệ, đặc biệt
là người thân, bạn bè, xã hội, đất nước, đánh giá được đâu là điều đúng, điều sai. Hiểu
rõ điều đó chúng ta có thể tự hiểu rõ mình nên làm gì, cần làm gì và phải làm như thế
nào để phát triển bản than nói riêng và xã hội nói chung.

22
2.1.2 Nội dung cơ bản của giáo dục đạo đức cho sinh viên Việt Nam hiện nay
Trước xu hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa như hiện nay, cách mạng công
nghệ 4.0 bùng nổ, đã và đang thâm nhập vào tất cả các lĩnh vực trong đời sống, mang
đến những thuận lợi nhất định trong quá trình học tập, nghiên cứu và làm việc. Việc
tiếp thu những thành tựu khoa học tiên tiến cần phải có đội ngũ tri thức cao, mà trong
số đó sinh viên ở các trường đại học, cao đẳng đóng vai trò hết sức quan trọng trong
công cuộc đổi mới đất nước cũng như phát huy những thành tựu khoa học mà cuộc
cách mạng công nghệ đem lại. Nhưng để làm được điều đó, quá trình giáo dục cho
sinh viên Việt Nam về mọi mặt phải cần được chú trọng hơn hết. Quá trình giáo dục
đạo đức cho sinh viên Việt là một trong những điều cốt lõi, đóng vai trò quyết định
trong việc hình thành những tư tưởng tiến bộ, phát huy những tinh thần cao thượng
ông cha ta để lại, góp phần xây dựng một đất nước Việt nam tươi đẹp và giàu mạnh.
Nội dung cơ bản của giáo dục đạo đức sinh viên Viêt Nam hiện nay có thể kể đến như
sau.
Thứ nhất, giáo dục cho sinh viên lòng yêu nước, tinh thần tự hào dân tộc, trung
thành với Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Giáo dục ý thức dân tộc, khơi dậy lòng
yêu nước, tự hào truyền thống lịch sử cha ông cho sinh viên là yêu cầu cấp thiết. Đặc
biệt trong bối cảnh hiện nay, khi mà khoa học công nghệ phát triển mạnh mẽ, với
nhiều yếu tố chủ quan và khách quan tác động đa phương diện, càng cần tăng cường
thực hiện giáo dục, lòng yêu nước, tính tự tôn dân tộc trong sinh viên một cách cẩn
trọng và có hệ thống. Toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế đem đến những cơ hội to lớn và
bình đẳng cho các quốc gia trên thế giới, song cũng đặt các nước phải đối mặt với
nhiều nguy cơ, thách thức, kéo theo sự suy giảm trong tinh thần tự hào dân tộc, chủ
nghĩa yêu nước. Trong tiến trình hội nhập quốc tế toàn diện về chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội, nhiều người trẻ dễ mất phương hướng hoặc trở nên ích kỷ hơn, họ không
còn quan tâm đến những mục tiêu chung của tập thể mà thu mình lại trước việc tiếp
cận những điều mới từ xã hội. Dẫn đến nhiều sinh viên thờ ơ trước sự phát triển của
đất nước mình. Dân tộc ta có truyền thống văn hóa cởi mở dễ dàng tiếp thu các giá trị
văn hóa từ bên ngoài du. Nhưng, các giá trị văn hóa truyền thống có sự liên kết chặt
chẽ trên nền tảng là lòng yêu nước, tinh thần tự tôn dân tộc, sự trung thành với Tổ
quốc. Vì thế, nền văn hóa dân tộc không bị mai một hay đồng hóa mặc dù đã trải qua

23
hàng nghìn năm Bắc thuộc, nhiều chục năm bị cai trị bởi thực dân, đế quốc phương
Tây với chính sách văn hóa thực dân, áp đặt vào những văn hóa tư sản. Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã khẳng định: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. đó là một truyền
thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại
sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy
hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước” 1. Bởi vậy, khơi dậy
và phát huy tinh thần yêu nước, long tự tôn dân tộc và lòng trung thành với Tổ quốc ở
người trẻ đặc biệt là sinh viên Việt Nam vô cùng quan trọng, giúp duy trì các giá trị
văn hóa của đất nước ta, bất kể sự du nhập của các giá trị văn hóa từ bên ngoài.
Thứ hai, giáo dục cho sinh viên tinh thần đoàn kết, tập thể, chống chủ nghĩa cá
nhân. Tinh thần đoàn kết là yếu tố quan trọng nhất để xây dựng một đất nước, một xã
hội vững mạnh và tốt đẹp. Nó đóng vai trò rất quan trọng đối với mỗi người và cả xã
hội. Tinh thần đoàn kết là khi con người trong một tổ chức hay một tập thể hướng đến
cùng một mục tiêu, một lí tưởng và cố gắng hết sức để đạt được mục tiêu đó. Ngoài ra,
tinh thần đoàn kết còn bao gồm tình yêu thương giữa con người với con người, sẵn
sàng đồng cảm, chia sẻ, thấu hiểu và giúp đỡ người khác khi họ gặp khó khăn. Với quá
trình hội nhập quốc tế hiện nay, rất cần đến thế hệ tri thức trẻ vừa có đức, có tài, có sức
khỏe, tư duy tiến bộ… hơn hết, phải có ý thức cộng đồng, tinh thần đoàn kết tạo sức
mạnh đưa đất nước phát triển, hội nhập quốc tế sâu rộng. Thách thức đặt ra là chủ
nghĩa cá nhân nằm ngay trong chính mỗi con người chúng ta, là “kẻ địch ở trong
lòng”. Việc nhận thức chủ được nghĩa cá nhân là “kẻ thù hung ác”, là trở ngại lớn nhất
trong quá trình hình thành tư tưởng, xây dựng đạo đức trong mỗi sinh viên là rất quan
trọng. Giáo dục cho sinh viên tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái là điều cần thiết.
Mỗi sinh viên cần phải có lập trường vững vàng, kiểm soát được ham muốn, cám dỗ,
khiến hành vi không vượt qua lằn ranh của pháp luật và đạo đức xã hội, gắn quyền lợi
của mình trong quyền lợi của tập thể, của cả dân tộc để góp phần vào công cuộc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thứ ba, giáo dục cho sinh viên tinh thần tự giác, ý chí phấn đấu vươn lên, có ý
thức trách nhiệm trong học tập và trong lao động. Trong suốt tiến trình lãnh đạo, Đảng
và Nhà nước ta chưa bao giờ xem nhẹ vai trò của đội ngũ tri thức tiên tiến là sinh viên

1
Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 12, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.33.

24
và luôn quan tâm đến công tác giáo dục và rèn luyện bản lĩnh chính trị, nâng cao lý
tưởng cách mạng, tinh thần trách nhiệm, chí cầu tiến. Hiện nay, mặt trái của nền kinh
tế thị trường và quá trình toàn cầu hóa ngày càng sâu rộng và phức tạp đã làm cho một
bộ phận sinh viên có biểu hiện non kém về năng lực, dao động về lập trường, không
chịu khó phấn đấu, thiếu trách nhiệm và dũng khí vươn lên để khẳng định bản thân.
Bên cạnh những thời cơ, thuận lợi, đất nước ta vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thế hệ trẻ đặc biệt là sinh viên cần được
giáo dục toàn diện, không ngừng phấn đấu và trưởng thành để tiếp nối sự nghiệp vẻ
vang mà các bậc tiền bối đã vạch ra. Vì vậy, việc sinh viên Việt Nam thấm nhuần và
thực hiện nghiêm nêu cao tinh thần trách nhiệm một cách hiệu quả được thể hiện trong
nhiều khía cạnh của cuộc sống và học tập.
Thứ tư, giáo dục cho sinh viên truyền thống tôn sư trọng đạo. Tôn sư trọng đạo
là tư tưởng bắt nguồn từ Nho giáo. Trong quan điểm của Nho giáo, sự học và vai trò
của người thầy luôn được đề cao. Ông cha ta đã tiếp thu tư tưởng này theo tinh thần
thiết thực, linh hoạt, dung hòa, lược bớt các nghi lễ mang tính hình thức rườm rà, chú
trọng đến nội dung, thái độ coi trọng tri thức và mối quan hệ của thầy và trò. Tôn sư
trọng đạo đã trở thành một truyền thống văn hóa, đạo đức quý giá của người Việt
Nam. Nhờ coi trọng việc học, tôn kính người thầy, nhân dân ta đã xây dựng nên một
nền văn hiến bền vững. Thời đại nào cũng có những tấm gương hiếu học, nhiều người
thầy mẫu mực và những câu chuyện cảm động về tình nghĩa thầy và trò. Thầy, cô giáo
được coi là những người đã chèo lái con thuyền để đưa học trò sang bến đỗ. Trước
thời thế như bây giờ, tri thức của con người được coi là động lực phát triển. Vị trí, vai
trò người thầy không ngừng được nâng lên. Người thầy chân chính luôn được xã hội
tôn vinh, kính trọng. Tuy nhiên, những năm gần đây xã hội đã gióng lên những hồi
chuông cảnh báo về sự “xuống cấp” đạo đức của một bộ phận không nhỏ sinh viên. Để
giáo dục truyền thống “tôn sư trọng đạo” cho sinh viên hiện nay, trước hết cần tăng
cường và nâng cao hiệu quả giáo dục từ gia đình. Đây là môi trường giáo dục đầu tiên
mà sinh viên tiếp xúc, sống và phát triển. Sự giáo dục từ phía gia đình có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng, thậm chí giữ vai trò quyết định tới sự hình thành nhân cách, đạo đức
của mỗi sinh viên. Hơn hết, nhà trường phải quan tâm giáo dục đạo đức, giáo dục các
giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc cho sinh viên và phải thực hiện thường xuyên,

25
liên tục trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu cho đến khi ra trường.
Thứ năm, giáo dục cho sinh viên kỹ năng sống. Việc giáo dục kỹ năng sống là
hết sức cần thiết, giúp sinh viên rèn luyện hành vi có trách nhiệm với bản thân, gia
đình và cộng đồng, có khả năng ứng phó tích cực trước sức ép của cuộc sống và sự lôi
kéo của các thế lực thù địch, phòng ngừa những hành vi có hại cho sức khỏe thể chất
và tinh thần của của sinh viên, giúp các em chọn lọc cách ứng xử phù hợp trong các
tình huống của cuộc sống. Tăng cường giáo dục đạo đức, rèn luyện kỹ năng sống cho
sinh viên là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong giáo dục đại học.
Thứ sáu, giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên đáp yêu cầu của sự
nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Trong các lĩnh vực của thị
trường lao động thì đạo đức của người trong nghề là điều bắt buộc phải biết trước khi
tham gia vào thị trường lao động của lĩnh vực đấy. Tác giả Nguyễn Thị Lan Anh định
nghĩa đạo đức nghề nghiệp là “những yêu cầu đạo đức đặc biệt có liên quan đến việc
tiến hành một hoạt động nghề nghiệp nào đó, là tổng hợp của các quy tắc, nguyên tắc
chuẩn mực của một lĩnh vực nghề nghiệp trong đời sống” 1. Chính nhờ những quy tắc
này, mọi người trong lĩnh vực của mình tự giác điều chỉnh hành vi của mình sao cho
phù hợp với lợi ích của xã hội. Từ khi đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường, hội
nhập quốc tế sâu rộng và mạnh mẽ đã làm cho nền kinh tế đất nước phát triển nhanh
chóng thì cũng là lúc mặt trái của nó có nguy cơ bùng phát. Vì vậy, ngay từ khi ở
giảng đường, sinh viên phải được giáo dục đạo đức nghề nghiệp để có thể thấy rõ
những mặt trái của xã hội khi ra trường. Việc tích hợp giáo dục đạo đức nghề nghiệp
qua các hoạt động đào tạo là cách tốt nhất để sinh viên nắm bắt và nhận thức đúng
trong quá trình làm việc sau này. Cụ thể: Một là, tích hợp giáo dục đạo đức nghề
nghiệp cho sinh viên qua hoạt động dạy học. Thông qua dạy học các môn học trong
chương trình đào tạo sẽ làm cho sinh viên có ý thức tự giác chiếm lĩnh các khái niệm
đạo đức nghề
nghiệp một cách có hệ thống và toàn diện về ngành học mà sinh viên đang theo đuổi.
Sinh viên sẽ định hình cho mình những phẩm chất cần có của một người lao động
trong tương lai. Từ đó, sinh sẽ có những định hướng đúng đắn trong việc ứng xử trước
các tình huống để rèn luyện cho mình tác phong đúng mực. Hai là, tích hợp giáo dục
1
Nguyễn Thị Lan Anh (2021), Giáo dục đạo đức cho sinh viên ở các trường đại học, cao đẳng giai đoạn hiện
nay. Tạp chí Khoa học Giáo dục Việt Nam, Số đặc biệt 5/ 2021, tr.56.

26
đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên qua các hoạt động ngoài giờ. Nếu như hoạt động
dạy học trên lớp là cơ sở nền tảng mang tính định hướng, phát triển đạo đức nghề
nghiệp cho sinh viên thì hoạt động ngoài giờ mang tính bổ sung, củng cố và có ý nghĩa
hoàn thiện chương trình. Do đó, hoạt động ngoài giờ không thể thiếu trong quá trình
đào tạo cho sinh viên. Hoạt động này như một phương tiện hữu hiệu mạng lại hiệu quả
rất tốt và là phương tiện chủ đạo để giáo dục văn hóa, giáo dục đạo đức nghề nghiệp
cho sinh viên nhằm phát triển nhân cách toàn diện cho sinh viên. Tóm lại, thông qua
việc giáo dục đạo đức truyền thống cho sinh viên sẽ góp phần giữ gìn và phát huy
những giá trị tốt đẹp trong xã hội hiện nay, giúp ngày càng nêu cao tinh thân tự tôn
dân tộc. Hơn thế nữa, giáo dục đạo đức có tác dụng làm thức tỉnh trong sinh viên
những tình cảm đạo đức, đó là sự quan tâm, chia sẻ, sống có trách nhiệm, biết quan
tâm đến lợi ích của tập thể, của xã hội, luôn đấu tranh với cái xấu, cái vô đạo đức.

2.2. Tình hình, đặc điểm của sinh viên trường Đại học Bách khoa Thành phố
Hồ Chí Minh và vai trò của việc giáo dục đạo đức cho sinh viên
2.2.1. Tình hình, đặc điểm của sinh viên trường Đại học Bách khoa Thành
phố Hồ Chí Minh

Trường Đại học Bách khoa - Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh là một
trong những trường đại học uy tín và có truyền thống lâu đời tại Việt Nam. Được
thành lập vào năm 1957, cơ sở chính tại quận 10, TP.HCM, cơ sở thứ hai tọa lạc tại
Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương. Là một trong những trung tâm đào tạo và nghiên
cứu hàng đầu của đất nước. Trường được biết đến với các chương trình đào tạo đa
dạng từ cấp độ đại học, sau đại học cho đến tiến sĩ, bao gồm nhiều ngành khoa học kỹ
thuật, công nghệ thông tin, kỹ thuật cơ khí, điện tử viễn thông, và nhiều lĩnh vực khác.
Trường còn có các chương trình đào tạo song bằng và liên kết quốc tế, thu hút sự tham
gia của sinh viên và giảng viên từ nhiều quốc gia. “Hiện trường đang quản lý 12
Khoa/Trung tâm đào tạo, đào tạo 39 ngành bậc Đại học, 34 ngành bậc Thạc sĩ, 32
ngành bậc Tiến sĩ với tổng số hơn 23.000 sinh viên, trên 2.100 học viên cao học và
gần 300 nghiên cứu sinh”1. Với quá trình hình thành và phát triển hơn 65 năm, cùng
1
Cổng thông tin Trường đại học Bách Khoa, Đại học quốc gia TPHCM, Giới thiệu trường đại học Bách Khoa –
Lịch sử hình thành, Cổng thông tin trường ĐHBK ĐHQG-HCM (hcmut.edu.vn)

27
với vị thế và truyền thống giáo dục tại Việt Nam, nhà trường đã đào tạo cho xã hội
nhiều kỹ sư, nhà khoa học, quản lý cấp cao... trong và ngoài nước. Trường Đại học
Bách khoa - Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh là một trong những trường tiên
phong trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế ở các tỉnh phía Nam, đặc biệt là
vùng Đông Nam Bộ, TP Hồ Chí Minh và đồng bằng sông Cửu Long - khu vực năng
động, giàu tiềm năng, đứng hàng đầu trong cả nước về nhiều lĩnh vực hoạt động kinh
tế - xã hội cũng như tỷ trọng đóng góp cho ngân sách Nhà nước. Với thế mạnh về
nghiên cứu khoa học, hằng năm có trung bình 200 bài báo khoa học được đăng trên
các tạp chí uy tín thế giới. Đồng thời, trường có nhiều hợp đồng công tác nghiên cứu
khoa học - chuyển giao công nghệ phục vụ đời sống mang lại hiệu quả kinh tế cao, đó
cũng chính là nhiệm vụ trọng tâm của Nhà trường và là điều kiện không thể thiếu để
giúp cho quá trình đào tạo đại học. Trường Đại học Bách khoa - ĐHQG-HCM có quan
hệ đối tác cùng hàng trăm thỏa thuận đã được ký kết với trường đại học và viện nghiên
cứu trên toàn thế giới.. Bên cạnh đó, Nhà trường đang hợp tác nghiên cứu, hợp tác đào
tạo với các địa phương, doanh nghiệp, đối tác trong và ngoài nước nhằm nghiên cứu,
tư vấn chính sách, phát triển nguồn nhân lực tại địa phương, nhất là các tỉnh, thành phố
phía Nam. Trường Đại học Bách khoa - ĐHQG-HCM cũng đang dẫn đầu cả nước về
chất lượng đào tạo. “Trường ĐH Bách khoa hiện đang dẫn đầu cả nước về số lượng
chương trình đào tạo được kiểm định quốc tế. Đối với cấp cơ sở giáo dục, Trường Đại
học Bách khoa - ĐHQG-HCM là Trường duy nhất trong nước đạt đồng thời hai chuẩn
kiểm định chất lượng quốc tế đối với cấp cơ sở giáo dục trong cùng một năm (2017),
bao gồm tiêu chuẩn HCERES (của Châu Âu) với thời gian công nhận là 5 năm (từ
2017 – 2022) và tiêu chuẩn AUN-QA thuộc Mạng lưới các trường Đại học Đông Nam
Á – AUN (ASEAN University Network). Đối với cấp chương trình đào tạo, tính đến
năm 2024, trường đã có 64 chương trình đào tạo được công nhận và tái chứng nhận đạt
chất lượng theo các tiêu chuẩn kiểm định quốc tế như ABET, AUN-QA, CTI, FIBAA,
ACBSP, AMBA, IACBE, AACSB và 01 chương trình đào tạo được chứng nhận đáp
ứng các tiêu chuẩn về giáo dục đại học với các tiêu chí đặc thù dành riêng cho các
ngành liên quan đến Công nghệ Thực phẩm (chứng nhận bởi IFT – Hoa Kỳ)”1
Để đạt được những thành tựu to lớn kể trên của Trường Đại học Bách khoa -
1
Cổng thông tin Trường đại học Bách Khoa, Đại học quốc gia TPHCM, Giới thiệu trường đại học Bách Khoa –
Lịch sử hình thành, Cổng thông tin trường ĐHBK ĐHQG-HCM (hcmut.edu.vn)

28
ĐHQG-HCM, phải kể đến yếu tố con người góp một phần không hề nhỏ vào công
cuộc phát triển bền vững của Nhà trường, đặc biệt là sinh viên đang theo học tại
trường. Sinh viên của trường có những thế mạnh nhất định, đã và đang phát huy tốt
những giá trị tốt đẹp góp phần vào xây dựng và phát triển Nhà trường.
Thứ nhất, về mặt học tập. Đã từ lâu, sinh viên trường đã được đánh giá rất cao
về mặt chuyên môn. Điểm tuyển sinh đầu vào của Nhà trường thuộc nhóm đứng đầu.
Điều đó chứng tỏ sinh viên của trường qua các khóa có tinh thần và khả năng học tập
rất tốt. Trường Đại học Bách Khoa cũng nổi tiếng với độ khó của đề kiểm tra học kỳ
các môn đại cương như Xác suất và Thống kê, Giải Tích, Đại số tuyến tính,… Để có
thể đối đầu với lượng kiến thức lớn như thế, rất nhiều nhóm học tập trong sinh viên
được hình thành. Các bạn sinh viên còn chủ động tổ chức các lớp học để ôn lại kiến
thức cho nhau trước các kỳ kiểm tra quan trọng. Điển hình là mỗi học kỳ, CLB Chúng
Ta Cùng Tiến đã tổ chức rất nhiều các buổi ôn tập miễn phí dành cho các bạn sinh viên
mà người đứng lớp chính là các bạn sinh viên, điều đó tạo nên sự gần gũi trong việc
học và từ đó cũng tăng tinh thần học tập của sinh viên. Khi trường tổ chức học tập trực
tiếp, các buổi ôn tập trực tiếp được tổ chức để tạo không gian cho các bạn sinh viên có
thể đến trao đổi và cùng nhau học tập. Trong thời gian việc học trực tiếp bị gián đoạn
bởi dịch bệnh Covid-19, sinh viên trường cũng linh hoạt tổ chức các buổi ôn tập online
để dễ dàng tiếp cận và lan tỏa tinh thần cho nhau. Bên cạnh đó là các buổi thi thử được
tổ chức định kỳ để giúp các bạn sinh viên đánh giá lại kiến thức cũng như có chiến
lược ôn tập tốt nhất. Tất cả hoạt động trên đều do sinh viên trường Đại học Bách Khoa
chủ động tổ chức với sự nhiệt tình và tinh thần cống hiến cao.
Thứ hai, về nghiên cứu khoa học. Hằng năm tại các khoa đều tổ chức Ngày hội
Kỹ thuật, với hoạt động này, các bạn sinh viên năm nhất được tiếp cận việc nghiên cứu
khoa học với những đề tài khác nhau. Thông qua việc nghiên cứu và trưng bày sản
phẩm trong Ngày hội Kỹ thuật, sinh viên đã thể hiện yếu tố sáng tạo và đổi mới trong
nhiều sản phẩm. Bên cạnh đó để hoàn thành được đề tài, các bạn còn phải nghiên cứu
các tài liệu tham khảo, những công trình khoa học đã được công bố để có thể nghiên
cứu thực nghiệm và tạo ra sản phẩm. Hoạt động này là tiền đề cũng như là bước đệm
to lớn giúp cho sinh viên nêu cao tinh thần học hỏi, thực hiện hóa đam mê với việc
nghiên cứu khoa học sau này. Các cuộc thi, hội thi cũngđược tổ chức ở quy mô cấp

29
trường, các bạn sinh viên Bách Khoa còn thể hiện tài năng ở những cuộc thi được các
trường trong khối kỹ thuật khác tổ chức, hay là các cuộc thi mang quy mô cấp thành
phố.
Thứ ba, về các hoạt động văn hóa thể thao. Hằng năm, tại nhiều khoa trong
trường đều tổ chức chương trình chào mừng Ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11 với nhiều
hoạt động văn nghê, thể dục thể thao để tri ân những cống hiến của thầy cô. Ngoài các
hoạt động được các khoa tổ chức, hoạt động được các câu lạc bộ tổ chức cũng đa dạng
không kém. Trường có nhiều câu lạc bộ âm nhạc, vào mỗi dịp năm học mới đều tổ
chức đợt tuyển thành viên mới và thu hút được sự tham gia của rất nhiều bạn sinh
viên, từ đó có thể thấy sinh viên trường không chỉ có học tập mà còn có những tài
năng trong lĩnh vực khác. Các hoạt động về thể dục thể thao tại trường cũng vô cùng
phát triển. Nhiều giải đấu, cuộc thi được tổ chức nhằm khuyến khích tinh thần tập
luyện thể dục thể thao của sinh viên. Hằng năm, Đoàn trường kết hợp cùng các bạn
sinh viên luôn tổ chức giải đấu BK Cup, tiền thân là giải bóng đá BK League - giải
bóng đã nam giữa các khoa với nhau. Tinh thần thể dục thể thao của sinh viên còn có
thể được thấy ở các kí túc xá khi mà mỗi chiều, trên các sân cỏ đều diễn ra các trận
bóng, trong khuôn viên kí túc xá có nhiều bạn chạy bộ nâng cao sức khỏe. Điều đó thể
hiện các hoạt động thể chất rất được các bạn sinh viên chú trọng.
Thứ tư, về các hoạt động phục vụ cộng đồng. Đây được coi là một trong những
hoạt động luôn được xem trọng trong các hoạt động của các bạn sinh viên. Hàng năm
cứ mỗi dịp tết, chiến dịch Xuân Tình Nguyện được các bạn sinh viên ở mỗi khoa triển
khai rất tích cực, tại mỗi khoa, sinh viên sẽ được xây dựng những chương trình, những
lịch hoạt động khác nhau nhằm tạo tính đa dạng. Nói đến tình nguyện không thể không
kể đến chiến dịch Mùa Hè Xanh diễn ra vào hè mỗi năm học, chiến dịch Mùa Hè Xanh
là một chiến dịch lâu đời được sinh viên ta hưởng ứng nhiệt tình nhiều năm nay. Bên
cạnh đó, cũng có nhiều mặt hạn chế tồn tại trong sinh viên trường ĐH Bách khoa.
Điển hình là việc phần đông các bạn sinh viên không có ý thức, trách nhiệm trong học
tập, hay bỏ bê bài vở, bỏ tiết không lí do và không nghiêm túc trong học tập, dẫn đến
việc rớt môn rất nhiều của sinh viên. Song, có rất nhiều các hoạt động phong trào
nhưng một số bạn sinh viên không có hứng thú tham gia vì nhiều lí do khác nhau.
Nhiều bạn do lười biếng, lười tham gia các hoạt động thể chất mà thay vào đó là các

30
trò chơi điện tử, chơi thâu đêm làm ảnh hưởng đến sức khoẻ, không những vậy việc ít
tham gia các phong trào cũng như tổ chức dẫn đến việc khả năng thích nghi cũng như
tính xã hội của các bạn sẽ bị yếu đi, ảnh hưởng đến việc đi làm hoặc tham gia xã hội
lao động sau này. Một vấn đề nữa là về đạo đức của sinh viên. Tương tưởng lệch lạc
của một bộ phận không ít ở sinh viên về các vấn đề xã hội, đã hình thành những thói
hư tật xấu ảnh hưởng rất nhiều trong chính cá nhân sinh viên cũng như cho xã hội. Xã
hội phát triển khiến con người tập trung nhiều vào lợi ích cá nhân, các bạn sinh viên
chưa quan tâm nhiều đến giáo dục chính trị, tư tưởng, nhiều bạn chỉ quan tâm đến
những vấn đề trong cuộc sống đời thường mà chưa để tâm đến những vấn đề vĩ mô của
đất nước. Nhiều thông tin xuyên tạc xuất hiện trên các trang mạng khiến cho các bạn
sinh viên có nhiều cái nhìn phiến diện, sai lầm về những vấn đề chính trị của đất nước.
Và không thể không nói đến sự thụ động trong việc tìm hiểu thông tin ở nhiều sinh
viên.
Từ đó cho ta thấy Trường Đại học Bách khoa - Đại học Quốc gia Thành phố Hồ
Chí Minh luôn tạo điều kiện, một môi trường tốt đẹp nhất để những bạn sinh viên có
thể phát huy tốt nhất những giá trị của riêng mình. Những giải thưởng về học tập,
nghiên cứu, và các hoạt động xã hội, văn hoá
thể thao đã minh chứng cho điều ấy. Nhưng cũng có một bộ phận sinh viên vẫn đang
trì hoãn, không nghiêm túc với chính bản thân trong học tập và phát triển những kỹ
năng cần thiết khi đang ngồi trên giảng đường để phục vụ tương lai của mình sau này.
2.2.2. Vai trò của việc giáo dục đạo đức cho sinh viên trường Đại học Bách
khoa Thành phố Hồ Chí Minh
Giáo dục đạo đức cho sinh viên hiện nay đang đang là được xem trọng không
chỉ của riêng trường Đại học Bách khoa Thành phố Hồ Chí Minh, mà còn là chủ
trương, đường lối của Đảng và Nhà nước ta đặt ra. Qua đó, cho thấy vai trò của việc
giáo dục đạo đức cho sinh viên là không thể phủ định và có ý nghĩa vô cùng quan
trọng. Thứ nhất, giáo dục đạo đức góp phần tích cực trong quá trình xây dựng phẩm
chất đạo đức cho sinh viên. Giáo dục đạo đức cho sinh viên, trước hết là giáo dục ý
thức chủ động, tự giác trong học tập, sinh hoạt thường ngày của mỗi sinh viên. Giáo
dục cách thức tự tổ chức ngăn nắp, kế hoạch ở khu ký túc xá trường học, giúp sinh
viên hình thành quan niệm sống tích cực, rèn luyện, xây dựng những phẩm chất đạo

31
đức cá nhân, những phẩm chất ý chí, tính kỉ luật, cách ứng xử nhân văn, tình người.
Thứ hai, giải pháp tiên quyết nhằm xây dựng môi trường văn hóa học đường. Xây
dựng môi trường văn hóa trong trường học nhằm mục đích tạo ra môi trường học
đường lành mạnh, nền nếp, văn minh, thanh lịch giàu tính nhân văn. Nói cách khác
xây dựng văn hóa trong trường học là sinh viên chủ động tạo ra chuẩn mực văn hóa,
hình thành nếp sống văn hóa trong mối quan hệ giữa con người với con người và con
người với môi trường tự nhiên ở trường học. Thực tế cho thấy, không thể xây dựng
môi trường văn hóa học đường lành mạnh, văn minh, mang tính nhân văn nếu không
chú trọng đến công tác giáo dục đạo đức cho sinh viên. Thứ ba, giúp sinh viên tiếp thu
những giá trị hiện đại. Ý thức tổ chức, kỉ luật, tác phong công nghiệp, thái độ tôn trọng
và tuân thủ pháp luật càng được hình thành và phát triển trong mỗi sinh viên. Đồng
thời, sinh viên còn được tiếp thu, kế thừa các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc,
từ đó góp phần hoàn thành mục tiêu xây dựng nền văn hóa tiên tiến, mang đậm bản sắc
văn hóa dân tộc.

32
33

You might also like