Professional Documents
Culture Documents
TL NVGNVTQT
TL NVGNVTQT
TL NVGNVTQT
Trình độ đào : Đạ i họ c
tạo : Chính quy
Hệ đào tạo
Ngành : Logistics và Quả n lý chuỗ i cung ứ ng
Chuyên ngành : Logistics và quả n lý chuỗ i cung ứ ng
Khoá học : 2021 Lớp: DH21LG1
Đề Tài 1 :Những tranh chấp phát sinh trong hoạt động giao nhận hàng hoá
xuất nhập khẩu bằng đường biển và cách phòng tránh những tranh chấp
này.
Giảng viên hướng dẫn : ThS Đinh Thu Phương
Sinh viên thực hiện :
Mã SV :
Mục lục.........................................................................................................................................................2
1.1. Khái niệm và phân loại hàng hóa vận chuyển bằng đường biển.......................................................4
1.1.1. Vận tải đường biển là gì?..............................................................................................................4
1.1.2. Các loại hàng hóa trong vận tải biển............................................................................................4
1.2. Vận chuyển hàng hoá đường biển bằng container..................................................................................7
1.2.1.1. Khái niệm container.......................................................................................................................7
1.2.1.2. Lịch sử phát triển container thế giới..............................................................................................8
1.2.2. Nguyên nhân ra đời của container...............................................................................................12
1.2.3. Ưu, nhược điểm của container.....................................................................................................12
1.3. Các phương pháp gửi hàng container................................................................................................13
1.3.1. Gửi hàng nguyên container (FCL–Full container load)...........................................................13
1.3.2. Gửi hàng lẻ (Less than container load)......................................................................................15
Chương 2: Quy trình tác nghiệp trong giao nhận hàng hóa vận chuyển bằng đường biển............................19
2.1. Sơ đồ quy trình giao nhận hàng hóa xuất nhập khẩu bằng đường biển.................................................19
2.2 . Chứng từ giao nhận hàng hóa bằng đường biển...................................................................................27
CHƯƠNG 3: NHỮNG TRANH CHẤP PHÁT SINH TRONG QUÁ TRÌNH GIAO NHẬN HÀNG HÓA XUẤT NHẬP
KHẨU BẰNG ĐƯỜNG BIỂN...........................................................................................................................40
3.1. Tranh chấp về tình trạng hàng hóa và cách phòng tránh................................................................40
3.2. Tranh chấp về đóng gói, bao bì, … và cách phòng tránh.................................................................42
3.3 . Tranh chấp về chứng từ và cách phòng tránh.................................................................................44
3.4 . Tranh chấp về giá cước và cách phòng tránh..................................................................................46
3.5 . Các phương pháp hay nhất để giải quyết tranh chấp và khiếu nại về chất lượng là gì?...........................48
CASE STUDY.................................................................................................................................................51
3.6. Bị đơn là người giao nhận hay người vận chuyển? Tranh chấp trong hợp đồng vận chuyển hàng hoá...51
3.7. Tranh chấp về tình trạng hàng hoá........................................................................................................54
Kết luận.......................................................................................................................................................55
Phụ lục...................................................................................................................................................55
Tài liệu tham khảo...............................................................................................................................58
1. Bộ luật hàng hải Việt Nam, 2015........................................................................................................58
2. Ths Đinh Thu Phương, Nghiệp Vụ Giao Nhận Vận Tải Quốc Tế...................................................58
3. Đỗ Quốc Dũng (2015), Giao nhận, vận tải và bảo hiểm, Nhà xuất bản Tài chính.........................58
4. Nguyễn Hồng Đàm, Hoàng Văn Châu, Nguyễn Như Tiến, Vũ Sỹ Tuấn (2003), Vận tải và giao
nhận trong ngoại thương, Nhà xuất bản Giao thông vận tải.......................................................................58
5. Vũ Thị Hải (2018), Nâng cao hiệu quả của quy trình giao nhận hàng hóa quốc tế tại công ty
TNHH Jet Delivery Logistics Việt Nam, Luận văn thạc sỹ..........................................................................58
6. Phạm Mạnh Hiền (2012), Nghiệp vụ giao nhận vận tải và bảo hiểm trong ngoại thương, Nhà
xuất bản Lao động – Xã hội............................................................................................................................58
7. Phạm Thị Nga (2016), Kinh tế vận tải và logistics, Nhà xuất bản Giao thông vận tải..................58
8. Nguyễn Như Tiến (2001), Hướng dẫn sử dụng Vận đơn đường biển trong thương mại và hàng
hải quốc tế, Nhà xuất bản Giao thông vận tải...............................................................................................58
9. http://vscs.vn/case-study-luat-hang-hai-mot-vu-kien-nham/...........................................................58
10. Tổng cục đường bộ Việt Nam (2018), Giáo trình Nghiệp vụ vận tải, Nhà xuất bản Giao thông
vận tải58
Chương 1: Tổng quan về hàng hóa vận chuyển bằng
đường biển
1.1. Khái niệm và phân loại hàng hóa vận chuyển bằng đường
biển.
1.1.1. Vận tải đường biển là gì?
Vận tải đường biển ra đời khá sớm so với các phương thức vận tải
khác. Ngay từ thế kỷ thứ V trước công nguyên con người đã biết
lợi dụng biển làm các tuyến đường giao thông để giao lưu các vùng
miền, các quốc gia với nhau trên thế giới. cho đến nay vận tải biển
được phát triển mạnh và trở thành nghành vận tải hiện đại trong hệ
thống vận tải quốc tế.
Do đặc điểm 2/3 diện tích bề mặt Trái Đất là biển và phương tiện
vận tải biển lại rất thích hợp cho việc vận chuyển hàng hóa có khối
lượng lớn và cự ly vận chuyển dài, nên vận tải biển là một trong
các phương thức vận tải ra sớm nhất và đóng vai trò đặc biệt quan
trọng trong nền kinh tế thương mại của xã hội loài người. Theo
thống kê, vận tải biển đảm trách tới 80% khối lượng hàng hóa trong
buôn bán quốc tế. Do vậy hầu hết các nước trên thế giới đều quan
tâm đến việc phát triển đội tàu và cảng biển trong chiến lược phát
triển ngoại thương của mình, thậm chí ngay cả nước không có cảng
biển cũng có đội tàu và họ mượn cảng của các nước khác để
chuyên chở hàng hóa như Lào mượn cảng Đà Nẵng của Việt Nam.
Như vậy, vận tải biển là phương thức vận tải sử dụng đương biển
để vận tải hàng hóa giữa hai hay nhiều nước (điểm đầu và điểm
cuối của quá trình vận tải là hai cảng thuộc hai quốc gia khác
nhau). Nói một cách dễ hiểu nhất, vận tải đường biển là hình thức
sử dụng phương tiện kết hợp cùng các cơ sở hạn tầng đường biển
để vận chuyển hàng hóa. Thông thường, phương tiện thường dùng
chính là tàu thuyền, còn cần cẩu, xe cẩu tự hành là các phương tiện
đóng vai trò xếp dỡ hàng hóa. Cảng biển, cảng trung chuyển tàu
thuyển là hệ thống cơ sở hạ tầng đường biển, phục vụ cho việc vận
chuyển hàng hóa.
1.1.2. Các loại hàng hóa trong vận tải biển.
Về cơ bản mọi loại hàng đều có thể vận chuyển bằng đường biển.
Tuy vậy, lô hàng được vận chuyển cũng phải lớn theo quy định tối
thiểu của các đơn vị dịch vụ vận tải,
Ngoài ra, do tính chậm chạp khi di chuyển trên biển nên với những
mặt hàng cần được giao nhận nhanh thì đây không phải là sự lựa
chọn tối ưu. Những loại hàng hóa phù hợp để vận chuyển bằng
đường biển là:
Các loại hàng đóng hộp, giày da vải, đồ chơi, kim loại: là những
mặt hàng ít tốn dung tích, lại có thời gian bảo quản lâu. Vì vậy
trong quá trình vận chuyển dài ngày vẫn không ảnh hưởng đến chất
lượng hàng hóa. Bên cạnh đó, nhờ dung tích nhỏ nên có vận
chuyển được số lượng hàng hóa lớn, giúp tiết kiệm chi phí cho
doanh nghiệp.
Khoáng sản: số lượng lớn nhưng giá thị trường thấp, do đó vận
chuyển bằng đường biển sẽ tối ưu về chi phí.
Hàng siêu trường, siêu trọng: là những loại hàng có kích thước lớn
và khối lượng nặng, không thể chuyên chở bằng những phương
thức vận tải khác.
Cùng với sự phát triển không ngừng của khoa học kỹ thuật thì hàng
hóa ngày càng nhiều và đa dạng. Có rất nhiều cách phân loại hàng
hóa khác nhau. Trong vận tải biển việc phân loại hàng hóa là nhằm
tìm ra các nhóm hàng có những đặc điểm gần với nhau để có các
biện pháp phân bố, sắp xếp và bảo quản hợp lý trong quá trình vận
chuyển hàng hóa.
1.1.2.1. Phân loại theo tính chất lý, hóa của hàng
Theo tính chất lý hóa của hàng ta có thể liệt kê ra đây rất nhiều loại
hàng nhưng gộp lại ta có thể phân thành ba nhóm hàng sau:
Nhóm hàng có tính xâm thực: là các loại hàng hóa khả năng làm
ảnh hưởng tới các hàng hóa khác xếp gần chúng. Các loại hàng này
có tính tỏa ẩm, một số loại hàng nguy hiểm, các loại hàng tỏa mùi
(như da thú ướp muối) và các loại hàng bay bụi (như cát).
Nhóm hàng bị xâm thực: là các loại hàng chịu sự tác động của các
loại hàng xếp trong nhóm thứ nhất khi xếp chung với chúng ở mức
độ nhất định. Các loại hàng dễ hấp thụ mùi vị (như trà, thuốc lá,...)
hay bị nhiễm bụi bẩn (như vải).
Nhóm hàng trung tính: là những loại hàng không chịu sự ảnh
hưởng và không tác động xấu đến các hàng xếp gần nó. Các loại
hàng trung tính như sắt thép, thép cuộn, thiết bị máy móc,...
Sự phân loại hàng theo tính chất lý hóa của chúng giúp người vận
chuyển phân bổ hàng xuống hầm tàu hợp lý, ngăn ngừa được sự hư
hỏng hàng do sự tác động qua lại giữa chúng với nhau.
1.1.2.2. Phân loại theo phương pháp vận tải biển.
Phân loại theo phương pháp vận tải nhằm tổ chức đúng các quy
trình vận chuyển và chuyển tải hàng. Đây là phương pháp phân loại
phổ biến trong vận tải biển hiện nay. Theo đó, người ta chia hàng
hóa thành 2 nhóm chính là: hàng bách hóa (general cargo) và hàng
rời (Bulk cargo).
(a) Hàng bách hóa: Là loại hàng được chở theo dạng từng đơn vị
xếp dỡ (đơn vị hóa: unitized). Hàng bách hóa có thể được chia
thành ba loại nhỏ sau:
Break bulk: nhóm hàng được chở dưới dạng thùng, hòm, pallet
hoặc các dạng bao, hộp (hay nói cách khác, nhóm hàng được đóng
trong thùng, hòm hoặc đóng vào từng pallet). Có thể thấy trong
hình ảnh dưới, nhóm hàng break bulk nhấn mạnh vào công cụ dùng
để tiêu chuẩn hóa hàng.
Mỗi công cụ chứa hàng giúp tiêu chuẩn hóa từng đơn vị hàng: 1
drump, 1 pallet, 1 thùng, 1 bao hàng (không quan trọng bên trong
chúng là gì). Khi giao nhận loại hàng này, ta sẽ đếm đủ từng kiện
hàng. Các loại tàu chở hàng này thường có thiết bị làm hàng riêng
(trên boong).
Neo bulk: nói về nhóm hàng mà từng mặt hàng trước khi được
đóng, ghép được hiêu và coi bản thân nó như một đơn vị hàng ví dụ
gỗ xẻ, giấy cuộn, sắt thanh,..
- Khác với nhóm Break Bulk trên, nhấn mạnh công cụ chứa hàng là
thứ dùng để tiêu chuẩn hóa, đơn vị hóa, biến loại hàng riêng lẻ
thành 1 đơn vị, phục vụ cho giao nhận bằng cách đếm từng đơn vị
hàng được tiêu chuẩn. Thì đối với nhóm Neo Bulk, việc giao nhận
nhóm hàng này cũng là đếm, nhưng với nhóm hàng này thì người ta
đếm trực tiếp từng đơn vị hàng mà không cần đếm công cụ để đóng
gói nó. Vì với đặc tính kích thước kiểu loại, chúng được coi bản
thân như 1 đơn vị hàng rời, không cần đóng trong, hay đóng trên
một dạng công cụ nào như bao, pallet, thùng gỗ,... Ví dụ hàng thép
thanh được đóng thành bó, và khi giao nhận người ta đếm từng bó
thép, nhưng các chúng vẫn thuộc nhóm Neo Bulk. Vì khác biệt cơ
bản như đã nói trên thép thanh bó không có công cụ dụng cụ nào
chứa đựng để tiêu chuẩn hóa chúng thành một đơn vị hàng.
- Hàng đóng container: Sự phát triển của vận tải container đã thôi
thúc việc sáng tạo ra một loại hàng bách hóa mới (gọi là hàng đóng
container). Việc vận chuyển hàng hóa này được thực hiện khi
chúng được đưa vào trong các container có đơn vị tiêu chuẩn (ví
dụ: 20', 40'), khi đó hàng hóa được gọi chung là hàng container.
(b) Hàng rời: là những loại hàng hóa không đóng gói, được chuyên
chở dưới dạng rời, thường với số lượng lớn. Hàng rời có thể được
chia làm 2 loại:
Hàng rời lỏng: Bao gồm các mặt hàng như xăng dầu, hóa chất,
nước, dầu thô,... được vận chuyển bằng tanker, tàu thủy, tàu hỏa,
đảm bảo an toàn. Loại hàng rời lỏng chiếm số lượng lớn được
chuyên chở hàng năm là LNG (Khí thiên nhiên hóa lỏng).
Hàng rời khô: Thường là các loại vật liệu (nguyên liệu thô đầu vào
để sản xuất) như than, quặng sắt, ngũ cốc, quặng bauxite và cát.
Ngoài ra nhóm này còn được gọi là hàng rời rắn với sự kết hợp từ
các phần tử nhỏ, hạt nhỏ hay còn gọi là hàng khô. Loại hàng rời
này sẽ được chở với khối lượng, số lượng lớn trên tàu như: lương
thực, bột mì, hạt rời, cà phê, nông sản, đá, vật liệu...
1.2. Vận chuyển hàng hoá đường biển bằng container.
1.2.1. Tổng quan về container.
1.2.1.1. Khái niệm container.
Theo tiêu chuẩn ISO 668:1995(E), container hàng hóa (freight
container) là một công cụ vận tải có những đặc điểm sau:
- Có đặc tính bền vững và đủ độ chắc tương ứng phù hợp cho việc sử
dụng lại;
- Được thiết kế đặc biệt để có thể chở hàng bằng một hay nhiều
phương thức vận tải, mà không cần phải dỡ ra và đóng lại dọc
đường;
- Được lắp đặt thiết bị cho phép xếp dỡ thuận tiện, đặc biệt khi
chuyển từ một phương thức vận tải này sang phương thức vận tải
khác;
- Được thiết kế dễ dàng cho việc đóng hàng vào và rút hàng ra khỏi
container;
- Có thể tích bên trong bằng hoặc hơn 1 mét khối (35,3 ft khối).
Thực tế thường hay gặp thuật ngữ container tiêu chuẩn quốc
tế (ISO container), đó là những container hàng hóa (như nêu trên)
tuân theo tất cả các tiêu chuẩn ISO liên quan về container đang có
hiệu lực tại thời điểm sản xuất container.
1.2.1.2. Lịch sử phát triển container thế giới.
Trước khi có container, hàng hóa thường được xếp dỡ thủ
công như hàng rời. Thông thường, hàng hóa sẽ được chất lên xe từ
nhà máy và đưa đến kho cảng, nơi chúng sẽ được dỡ hàng và cất
giữ chờ chuyến tàu tiếp theo. Khi tàu cập cảng, chúng sẽ được
chuyển sang mạn tàu cùng với các hàng hóa khác được hạ xuống
hoặc đưa vào hầm và được đóng gói bởi công nhân bến tàu. Con
tàu có thể ghé một số cảng khác trước khi dỡ hàng một lô hàng nhất
định. Mỗi chuyến thăm cảng sẽ làm trì hoãn việc vận chuyển hàng
hóa khác. Hàng hóa được giao sau đó có thể đã được dỡ xuống một
nhà kho khác trước khi được nhận và giao đến điểm đến của nó.
Việc xử lý nhiều lần và chậm trễ làm cho việc vận chuyển trở nên
tốn kém, mất thời gian và không đáng tin cậy.
Container hóa có nguồn gốc từ các vùng khai thác than ban
đầu ở Anh, bắt đầu từ cuối thế kỷ 18. Năm 1766, James Brindley
đã thiết kế chiếc thuyền hộp 'Starvationer' với 10 thùng chứa bằng
gỗ, để vận chuyển than từ Worsley Delph (mỏ đá) đến Manchester
bằng kênh đào Bridgewater. Năm 1795, Benjamin Outram mở
Little Eaton Gangway, trên đó than được chở trong các toa xe được
đóng tại Butterley Ironwork của ông. Những chiếc xe ngựa có bánh
xe trên đường gangway có dạng những chiếc container, chất đầy
than, có thể được chuyển từ các sà lan trên kênh Derby, mà Outram
cũng đã quảng cáo.
Vào những năm 1830, các tuyến đường sắt ở một số lục địa
đã chở các container có thể được chuyển sang các phương thức vận
tải khác. Đường sắt Liverpool và Manchester ở Vương quốc Anh là
một trong số đó. "Những hộp gỗ hình chữ nhật đơn giản, có 4 chiếc
thành một toa xe, chúng được sử dụng để vận chuyển than từ
xưởng ghép Lancashire đến Liverpool, nơi chúng được chuyển lên
xe ngựa bằng cần cẩu." Ban đầu được sử dụng để chuyển than lên
và xuống sà lan, "hộp rời" được sử dụng để chứa than từ cuối
những năm 1780, tại những nơi như Kênh Bridgewater. Đến những
năm 1840, hộp sắt cũng như hộp gỗ được sử dụng. Đầu những năm
1900 chứng kiến việc áp dụng các hộp container kín được thiết kế
để di chuyển giữa đường bộ và đường sắt.
Việc sử dụng các container vận chuyển bằng thép và nhôm
được tiêu chuẩn hóa bắt đầu vào cuối những năm 1940 và đầu
những năm 1950, khi các nhà khai thác vận tải biển thương mại và
quân đội Hoa Kỳ bắt đầu phát triển các đơn vị như vậy. [2] Trong
Chiến tranh thế giới thứ hai, Quân đội Hoa Kỳ bắt đầu thử nghiệm
với các container để vận chuyển hàng tiếp tế cho tiền tuyến. Hàng
hóa đang bị trì hoãn tại các cảng do thời gian yêu cầu của việc dỡ
hàng rời và dỡ hàng của tàu. Ngoài ra, các nguồn cung cấp bị ăn
cắp vặt và thiệt hại trong quá trình vận chuyển. Năm 1948, Quân
đoàn Vận tải Quân đội Hoa Kỳ đã phát triển "Transporter", một
thùng chứa bằng thép cứng, gấp nếp, có thể chở được
4.082 kg. Nó dài 8 ft 6 in (2,59 m), rộng 6 ft 3 in (1,91 m) và cao 6
ft 10 in (2,08 m), với cửa đôi ở một đầu, được gắn trên ván trượt và
có vòng nâng. bốn góc trên cùng.
Hình 6.1. Chuyển container hàng hóa trên Đường sắt London,
Midland và Scotland.
(Nguồn: https://en.wikipedia.org)
Sau khi chứng tỏ thành công ở Hàn Quốc, Transporter được
phát triển thành hệ thống thùng Container Express (CONEX) vào
cuối năm 1952. Hộp CONEX được phát triển trong Chiến tranh
Triều Tiên và được sử dụng để vận chuyển và lưu trữ vật tư trong
chiến tranh Triều Tiên và Việt Nam. Đây là loại thùng có tiêu
chuẩn 6 feet, và được coi là tiền thân của thùng container ngày nay.
Hình 6.2. Hộp Conex được cẩu lên xe tải của quân đội Mỹ
(Nguồn: https://en.wikipedia.org)
Container đã trở thành xương sống của hậu cần hỗ trợ cho
chiến tranh Việt Nam, và hầu hết các đơn vị Quân đội lớn đi vào
chiến trường mang theo phụ tùng và vật tư của họ trong container.
Nhiều container không bao giờ được trở lại từ chiến trường; chúng
đã được sử dụng làm các trụ sở chỉ huy, nhà phân phối, cửa hàng di
động, bunker,... Các thùng chứa này cung cấp hàng triệu feet vuông
kho chứa mà chiến trường thiếu.
Hình 6.3. Container được dùng làm kho chứa ở Vịnh Cam Ranh.
(Nguồn: http://www.idahostoragecontainers.com)
Bức ảnh trên cho thấy một số trong rất nhiều container dùng
làm kho chứa phụ tùng và vật tư.
Giai đoạn 1956 – 1966 là giai đoạn đánh dấu bước ngoặt
trong quá trình phát triển của container trên toàn thế giới. Nó được
áp dụng để chuyên chở các mặt hàng trên đường biển quốc tế và
ngày càng có nhiều loại container mới ra đời. Chính thức vào năm
1956, tàu chở container đầu tiên trên thế giới ra đời nhờ sự sáng lập
của Malcomb McLean.
Giai đoạn 1967 – 1980, container được áp dụng các tiêu
chuẩn mới ISO, làm cho số lượng container không ngừng tăng lên,
nhiều nước hình thanh hệ thống vận tải chuyên biệt bằng container
và các tuyến đường buôn bán quốc tế được container hóa cao.
Từ năm 1980 đến nay, với sự phát triển ngày càng nhanh của
công nghiệp hiện đại, Liên Hiệp Quốc đã ban hành công ước quốc
tế về vận tải đa phương thức, mở đường cho container phát triển
mạnh mẽ. Thời kỳ này tạo nên sự phát triển mạnh mẽ của các hãng
vận tải bằng container, khiến nó trở thành loại hình vận tải nhiều
nhất hiện nay.
1.2.2. Nguyên nhân ra đời của container
Việc sử dụng container trong vận chuyển hàng hóa làm tăng
tốc độ vận chuyển: Với thiết kế đặc biệt, container có thể chở hàng
bằng nhiều phương thức vận tải mà không cần phải dỡ ra và đóng
lại dọc đường.
Giảm thời gian chuyên chở: Hàng hóa được đóng vào các
container kín, cont lửng rất chắc chắn, người chuyên chở an tâm
vận chuyển với tốc độ ổn định ; không tốn nhiều thời gian khi chu
chuyển phương thức vận tải..
Giảm rủi ro cho đối tượng chuyên chở: Container là công cụ
chứa hàng bằng kim loại chắc chắn ; container có nhiều chủng
loại phù hợp với từng chủng loại hàng hóa cần vận chuyển. Do
vậy hàng hóa trong container được bảo đảm, giao hàng đúng
hạn nên đã giảm rùi ro cho người vận chuyển.
Giảm giá thành vận chuyển: Container có sức chứa lớn ; cùng
một cung đường người vận chuyển có thể kết hợp hàng.
1.2.3. Ưu, nhược điểm của container.
(a) Ưu điểm:
Đối với toàn xã hội:
- Giảm được chi phí vận tải trong toàn xã hội
- Hiện đại hóa cơ sở vật chất, kỹ thuật của hệ thống vận tải
- Tăng năng suất lao động xã hội
- Nâng cao chất lượng phục vụ của ngành vận tải
Đối với chủ hàng:
- Bảo vệ hàng hóa tránh mất cắp, nhiễm bẩn, hư hỏng
- Rút ngắn thời gian lưu thông của hàng hóa
- Có thể dùng container làm kho tạm
- Giảm các loại chi phí : bảo hiểm, bao bì, vận tải
Đối với người chuyên chở:
- Giảm thời gian đỗ bến
- Tận dụng dung tích tàu do giảm được khoảng trống
- Tăng lợi nhuận
- Giảm khiếu nại
Đối với NGN:
- Thuận lợi cho dịch vụ Door to Door
- Giảm khiếu nại
(b) Nhược điểm:
- Chi phí chế tạo container khá cao
- Một số mặt hàng siêu trọng, siêu cường, kích thước lớn không
thể dùng container để chuyên chở
Chi phí đầu tư lớn về cơ sở vật chất có liên quan như tàu biển,
cẩu, xe nâng...
1.3. Các phương pháp gửi hàng container.
Ngoài phương pháp gửi hàng container là FCL và LCL, chúng ta
còn có phương pháp kết hợp cả hai phương thức này.
1.3.1. Gửi hàng nguyên container (FCL–Full container load).
Các hãng tàu chợ định nghĩa thuật ngữ FCL như sau:
FCL là xếp hàng nguyên container, người gửi hàng và người nhận
hàng chịu trách nhiệm đóng gói hàng container và dỡ hàng khỏi
container. Khi người gửi hàng có khối lượng hàng đồng nhất đủ để
chứa đầy một container hoặc nhiều container, người ta thuê một
hoặc nhiều container để gửi hàng.
Theo cách gửi FCL/ FCL, trách nhiệm về giao nhận, bốc dỡ và các
chi phí khác được phân chia như sau:
a) Trách nhiệm của người gửi hàng (Shipper)
Người gửi hàng FCL sẽ có trách nhiệm:
- Thuê và vận chuyển container rỗng về kho hoặc nơi chứa hàng của
mình để đóng hàng.
- Ðóng hàng vào container kể cả việc chất xếp, chèn lót hàng trong
container.
- Ðánh mã ký hiệu hàng và ký hiệu chuyên chở.
- Làm thủ tục hải quan và niêm phong kẹp chì theo quy chế xuất
khẩu.
- Vận chuyển và giaocontainer cho người chuyên chở tại bãi
container (CY), đồng thời nhận vận đơn do người chuyên chở
cấp. cách xóa dữ liệu trùng trong excel
- Chịu các chi phí liên quan đến các thao tác nói trên.
Việc đóng hàng container cũng có thể tiến hành tại trạm đóng hàng
hoặc bãi container của người chuyên chở. Người gửi hàng phải vận
chuyển hàng hóa của mình ra bãi container và đóng hàng vào
container.
b) Trách nhiệm của người chuyên chở ( Carrier).
Người chuyên chở có những trách nhiệm sau:
- Phát hành vận đơn cho người gửi hàng.
- Quản lý, chăm sóc, gửi hàng hóa chất xếp trong container từ khi
nhận container tại bãi container (container yard) cảng gửi cho đến
khi giao hàng cho người nhận tại bãi container cảng đích.
- Bốc container từ bãi container cảng gửi xuống tàu để chuyên chở,
kể cả việc chất xếp container lên tàu.
- Dỡ container khỏi tàu lên bãi container cảng đích.
- Giao container cho người nhận có vận đơn hợp lệ tại bãi container.
- Chịu mọi chi phí về thao tác nói trên.
c) Trách nhiệm của người nhận chở hàng
- Người nhận chở hàng ở cảng đích có trách nhiệm:
- Thu xếp giấy tờ nhập khẩu và làm thủ tục hải quan cho lô hàng.
- Xuất trình vận đơn (B/L) hợp lệ với người chuyên chở để nhận
hàng tại bãi container.
- Vận chuyển container về kho bãi của mình, nhanh chóng rút hàng
và hoàn trả container rỗng cho người chuyên chở (hoặc công ty cho
thuê container). bút tkếtyển thuế gtgt
- Chịu mọi chi phí liên quan đến thao tác kể trên, kể cả chi phí
chuyên chở container đi về bãi chứa container.
1.3.2. Gửi hàng lẻ (Less than container load).
LCL là những lô hàng đóng chung trong một container mà người
gom hàng (người chuyên chở hoặc người giao nhận) phải chịu trách
nhiệm đóng hàng và dỡ hàng vào – ra container. Khi gửi hàng, nếu
hàng không đủ để đóng nguyên một container, chủ hàng có thể gửi
hàng theo phương pháp hàng lẻ.
Người kinh doanh chuyên chở hàng lẻ gọi là người gom hàng
(consolidator) sẽ tập hợp những lô hàng lẻ của nhiều chủ, tiến hành
sắp xếp, phân loại, kết hợp các lô hàng lẻ đóng vào container, niêm
phong kẹp chì theo quy chế xuất khẩu và làm thủ tục hải quan, bốc
container từ bãi chứa cảng gửi xuống tàu chở đi, dỡ container lên
bãi chứa cảng đích và giao cho người nhận hàng lẻ.
a) Trách nhiệm của người gửi hàng.
- Vận chuyển hàng hóa từ nơi chứa hàng của mình trong nội địa đến
giao cho người nhận hàng tại trạm đóng container (CFS –
Container Freight Station) của người gom hàng và chịu chi phí này.
- Chuyển cho người gom hàng những chứng từ cần thiết liên quan
đến hàng hóa, vận tải và quy chế thủ tục hải quan.
- Nhận vận đơn của người gom hàng (Bill of Lading) và trả cước
hàng lẻ.
b) Trách nhiệm người chuyên chở.
Ngưòi chuyên chở hàng lẻ có thể là người chuyên chở thực- tức là
các hãng tàu và cũng có thể là người đứng ra tổ chức việc chuyên
chở nhưng không có tàu.
Người chuyên chở thực:
Là người kinh doanh chuyên chở hàng hóa lẻ trên danh nghĩa
người gom hàng. Họ có trách nhiệm tiến hành nghiệp vụ chuyên
chở hàng lẻ rnhư đã nói ở trên, ký phát vận đơn thực (LCL/LCL)
cho người gửi hàng, bốc container xuống tàu, vận chuyển đến cảng
đích, dỡ container ra khỏi tàu, vận chuyển đến bãi trả hàng
và giao hàng lẻ cho người nhận hàng theo vận đơn mà mình đã ký
phát ở cảng đi.
Người tổ chức chuyên chở hàng lẻ.
- Là người đứng ra tổ chức chuyên chở hàng lẻ, thường do các công
ty giao nhận đứng ra kinh doanh trên danh nghĩa người gom hàng.
Như vậy trên danh nghĩa, họ chính là người chuyên chở chứ không
phải là người đại lý (Agent).
- Họ chịu trách nhiệm suốt quá trình vận chuyển hàng từ khi nhận
hàng lẻ tại cảng gửi cho đến khi giao hàng xong tại cảng đích. Vận
đơn người gom hàng (House Bill of Lading). Nhưng họ không có
phương tiện vận tải để tự kinh doanh chuyên chở vì vậy người gom
hàng phải thuê tàu của người chuyên chở thực tế để chở các lô hàng
lẻ đã xếp trong container và niêm phong, kẹp chì.
- Quan hệ giữa người gom hàng lúc này là quan hệ giữa người thuê
tàu và người chuyên chở.
- Người chuyên chở thực bốc container lên tàu, ký phát vận đơn cho
người gom hàng (Vận đơn chủ – Master Ocean of Bill Lading), vận
đơn cảng đích, dỡ container, vận chuyển đến bãi container và giao
cho đại lý hoặc đại diện của người gom hàng ở cảng đích.
c) Trách nhệm của người nhận hàng lẻ.
- Thu xếp giấy phép nhập khẩu và làm thủ tục hải quan cho lô hàng.
- Xuất trình vận đơn hợp lệ với người gom hàng hoặc đại diện của
người gom hàng để nhận hàng tại bãi trả hàng ở cảng đích.
- Nhanh chóng nhận hàng tại trạm trả hàng (CFS)
1.3.3. Gửi hàng kết hợp (FCL/LCL – LCL/FCL).
Phương pháp gửi hàng container này là sự kết hợp của phương
pháp FCL và LCL. Tuỳ theo điều kiện cụ thể, chủ hàng có thể thoả
thuận với người chuyên chở để áp dụng phương pháp gửi hàng
container kết hợp. Phương pháp gửi hàng kết hợp có thể là:
- Gửi nguyên, giao lẻ (FCL/LCL)
- Gửi lẻ, giao nguyên (LCL/FCL)
Khi giao hàng bằng phương pháp kết hợp, trách nhiệm của chủ
hàng và người chuyên chở cũng có sự thay đổi phù hợp. Ví dụ: Gửi
nguyên, giao lẻ (FCL/LCL) thì trách nhiệm của chủ gửi và người
chuyên chở khi gửi như là phương pháp gửi nguyên nhưng khi
nhận, trách nhiệm của chủ nhận và người chuyên chở như phương
pháp gửi hàng lẻ.
1.3.4. Ưu và nhược điểm của hàng FCL/LCL:
Giải thích :
- Chủ hàng đưa hàng đến cảng
- Trước khi giao hàng hoàn thành thủ tục hải quan
- Chủ hàng đăng ký với cảng số máng xếp dỡ, địa điểm xếp dỡ,
cầu tàu xếp dỡ
- Trước khi xếp hàng lên tàu liên hệ với thuyền trưởng lấy Cargo
plan
- Việc xếp hàng lên tàu do công nhân xếp dỡ của cảng làm và nhân
viên kiếm đếm ghi vào Tally Sheet
- Giao hàng xong chủ hàng lấy Mate's Receipt (Biên lai thuyền
phó) để đổi lấy B/L
- Thuyền trưởng lập bộ chứng từ thanh toán gửi cho người giao
hàng
- Thông báo cho người mua biết về việc đã giao hàng.
- Tính thường, phạt xếp dỡ cho tàu (nếu có)
Nhận hàng nhập khẩu
Tương tự quy trình giao hàng hóa xuất khẩu, việc nhận hàng
nhập khẩu thông qua các biển cũng chia thành 2 trường hợp:
nhận hàng nhập khẩu lưu kho, bãi của cảng và nhận hàng nhập
khẩu không lưu kho, bãi của cảng.
a. Nhận hàng nhập khẩu có lưu kho, bãi của cảng.
Đối với loại hàng này, việc giao hàng gồm 2 bước chính: cảng
nhận hàng từ tàu, sai đó giao cho cho chủ hàng
* Để có thể tiến hành dỡ hàng, 24 giờ trước khi tàu đến vị trí hoa
tiêu, chủ hàng phải giao cho cảng các chứng từ:
- Bản lược khai hàng hóa.
- Sơ đồ xếp hàng.
- Chi tiết hầm hàng.
- Chủ hàng làm thủ tục thanh toán để nhận D/O từ hãng tàu.
*Trực tiếp nhận hàng từ tàu và lập các chứng từ cần thiết trong
quá trình giao nhận hàng như:
- Biên bản giám định hầm tàu.
- Biên bản dỡ hàng (COR) đối với tổn thất rõ rệt.
- Thư dự kháng (LOR) đối với tổn thất không rõ rệt.
- Biên bản kết toán nhận hàng với tàu (ROROC).
- Biên bản giám định.
- Giấy chứng nhận hàng thiếu (CSC).
* Chủ hàng làm thủ tục hải quan, đưa hàng về kho riêng hoặc
phân phối hàng:
Ngày 10.5.2013 Lipsen Hong Kong ủy thác lại dịch vụ này cho
Lipsen Shanghai và yêu cầu Lipsen Shanghai thực hiện dịch vụ
vận chuyển với tư cách là người giao nhận. Lô hàng đã được
chuyển đi ngày 13.6.2013.
Lo lắng vì sẽ tốn nhiều chi phí phát sinh nếu hàng bị lưu tại cảng
nên Luyckx đề nghị hàng sẽ được trả với điều kiện Nexange phải
thanh toán số tiền hàng còn lại cho Luyckx, xem như là số tiền
bảo đảm. Leisger và Nexange đã đồng ý bằng miệng đề nghị như
vậy.
Nexange đã trả số tiền hàng còn lại cho Luyckx, nhưng yêu cầu
Luyckx chỉ trả 20.000 USD cho Leisger vì Nexange thấy một số
xe đạp bị tổn thất.
Trên cơ sở những sự việc nêu trên, Leisger đã nộp đơn khởi kiện
tại Tòa án Hàng hải Thượng Hải (Shanghai Maritime Court) vào
tháng 5.2014 với khiếu kiện rằng họ chưa bao giờ nhận được bất
kỳ khoản thanh toán tiền hàng nào và hàng đã bị mất do lỗi của
Lipsen Shanghai. Leisger đề nghị Tòa buộc Lipsen Shanghai bồi
thường đầy đủ số tiền là 46.845 USD (tương đương 288.185
Rmb – Nhân dân tệ) và lãi suất tương ứng.
Nguyên đơn cho rằng Lipsen Shanghai hoạt động như một người
vận chuyển nên phải thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng vận
chuyển hàng hóa bằng đường biển, đặc biệt là nghĩa vụ trả hàng
theo vận đơn gốc. Trong trường hợp cụ thể này, người vận
chuyển có trách nhiệm trả hàng mà không cần người nhận hàng
phải nộp vận đơn gốc.
Họ đã thực hiện tất cả các nghĩa vụ theo hợp đồng giao nhận và
không để xảy ra lỗi.
Phù hợp với thông lệ trong ngành giao nhận, Lipsen Shanghai
không thể kiểm soát hàng hóa và không có nghĩa vụ hoặc
phương tiện để làm việc đó sau khi thực hiện hợp đồng giao
nhận.
Hàng hóa đang ở đâu không phải là vấn đề đáng quan tâm của
Lipsen Shanghai và họ cũng không có nghĩa vụ xác định vị trí
của hàng hóa. Hàng đã thuộc quyền kiểm soát của người vận
chuyển và đại lý của họ.
Như vậy, Leisger đã sai khi xác định Lipsen Shanghai là người
vận chuyển, đúng ra thì Lipsen Shanghai là người giao nhận và
không có nghĩa vụ của người vận chuyển theo hợp đồng vận
chuyển hàng hóa bằng đường biển.
Trong khi nhấn mạnh rằng họ không có nghĩa vụ trả hàng theo
vận đơn gốc hoặc xác định vị trí hiện tại của hàng hóa, Lipsen
Shanghai cũng cho rằng người vận chuyển không có nghĩa vụ trả
hàng theo vận đơn gốc với lập luận dựa trên các căn cứ sau đây:
Theo thực tế nêu trên, người vận chuyển trong trường hợp này có
nghĩa vụ trả hàng khi hàng đến cảng ngay cả khi vận đơn gốc
không được ký phát. Do đó, hàng hóa không bị mất mà là được
trả theo thực tế vẫn làm và thỏa thuận ngầm trong hợp đồng.
Vì Leisger không yêu cầu Lipsen Shanghai phải có vận đơn gốc
do người vận chuyển ký phát nên Lipsen Shanghai không có lỗi
trong việc để người vận chuyển không ký phát vận đơn gốc.
– Việc vận chuyển hàng hóa đã không được đặt dưới sự kiểm
soát của Lipsen Shanghai. Họ không có nghĩa vụ phải kiểm soát
việc trả hàng tại cảng đến. Nếu Leisger cho rằng đã xảy ra bất kỳ
lỗi nào trong việc trả hàng thì họ phải yêu cầu người vận chuyển
và đại lý có liên quan bồi thường.
Kết luận
Vụ án kết thúc bằng hòa giải. Các bên đồng ý như sau: Lipsen
Shanghai phải trả Leisger Rmb 50.000 Rmb (Nhân dân tệ); Về án
phí, Leisger chịu một nửa của số tiền 883,73 Rmb; Không còn
phát sinh bất kỳ tranh chấp nào liên quan đến vụ án. Việc Lipsen
Shanghai phải trả 50.000 Rmb là ít hơn nhiều so với số tiền
288.185 Rmb mà Nguyên đơn đòi; hòa giải cũng giúp Bị đơn tiết
kiệm được nhiều chi phí khác, ví dụ như lệ phí công chứng.
Freight collect: cước phí trả sau (thu tại cảng dỡ hàng)
Verified Gross Mass weight (VGM): phiếu khai báo tổng trọng lượng
hàng
Safety of Life at sea (SOLAS): Công ước về an toàn sinh mạng con
người trên biển
Free time: thời gian miễn phí lưu cont, lưu bãi
AFR: Japan Advance Filling Rules Surcharge (AFR): phí khai báo
trước (quy tắc AFR của Nhật)
Master Bill of Lading (MBL): vận đơn chủ (từ Lines)
Terminal: bến
Remarks: chú ý