13-Đại-hội (1)

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 15

HỘI NGHỊ THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản ở Việt
Nam diễn ra từ ngày 6/1 đến 7/2/1930 tại Hồng Công (Trung Quốc), mang tầm vóc lịch sử của
Đại hội thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

Hội nghị đã hợp nhất 3 tổ chức Cộng sản ở Việt Nam là Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam
Cộng sản Đảng, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn thành một đảng duy nhất là Đảng Cộng sản
Việt Nam, với mục tiêu lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam tiến hành giải phóng dân tộc,
giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người, tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Hội nghị đã đề ra Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt và Điều lệ vắn tắt, trong đó, Chánh
cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt phản ánh nội dung cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
Cộng sản Việt Nam.

Hội nghị cũng ban hành Lời kêu gọi nhân dịp thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam của đồng chí
Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng sản Việt Nam gửi đến công nhân,
nông dân, binh lính, thanh niên, học sinh và tất cả đồng bào bị áp bức, bóc lột.

Đại hội I: Khôi phục tổ chức, thống nhất các phong trào đấu tranh cách mạng dưới sự lãnh
đạo của Đảng

Thời gian: từ 27 đến 31/3/1935

Địa điểm: Ma Cao (Trung Quốc)

Số lượng đảng viên: 600

Số lượng đại biểu tham dự Đại hội: 13

Tổng Bí thư do Đại hội bầu: Đồng chí Lê Hồng Phong

Ban Chấp hành Trung ương Đảng được bầu tại Đại hội: 13 đồng chí

Nhiệm vụ chính: Củng cố hệ thống tổ chức của Đảng từ Trung ương đến địa phương, từ trong
nước đến nước ngoài.

Đại hội đã thông qua Nghị quyết chính trị của Đảng; các nghị quyết về vận động công nhân, vận
động nông dân, vận động thanh niên, phụ nữ, binh lính, về mặt trận phản đế, về đội tự vệ, về các
dân tộc ít người...; Điều lệ của Đảng; Điều lệ của các tổ chức quần chúng của Đảng.

Đại hội cử đồng chí Nguyễn Ái Quốc làm đại diện của Đảng Cộng sản Đông Dương bên cạnh
Quốc tế Cộng sản.

Tháng 7/1936, đồng chí Hà Huy Tập được cử làm Tổng Bí thư.
Tháng 3/1938, đồng chí Nguyễn Văn Cừ được cử làm Tổng Bí thư.

Đại hội đại biểu lần thứ I của Đảng là một sự kiện lịch sử quan trọng, đánh dấu thắng lợi căn bản
của cuộc đấu tranh gìn giữ và khôi phục hệ thống tổ chức của Đảng từ trung ương đến cơ sở.
Đây là một điều kiện cơ bản và cần thiết để Đảng bước vào một thời kỳ đấu tranh mới với một
đội ngũ cán bộ đã được tôi luyện.

Đại hội II: Đưa cuộc kháng chiến chống Pháp đến thắng lợi hoàn toàn

Thời gian: Từ 11 đến 19/2/1951

Địa điểm: Xã Vinh Quang, huyện Chiêm Hoá, tỉnh Tuyên Quang

Số lượng đảng viên trong cả nước:766.349

Số lượng đại biểu tham dự Đại hội: 158

Chủ tịch Đảng được bầu tại Đại hội: Chủ tịch Hồ Chí Minh

Tổng Bí thư được bầu tại Đại hội: Đồng chí Trường Chinh

Ban Chấp hành Trung ương Đảng được bầu tại Đại hội: 29

Ủy viên Bộ Chính trị được bầu tại Đại hội: 7

Ủy viên Nhiệm vụ chính: Đưa cuộc kháng chiến chống Pháp đến thắng lợi hoàn toàn.

Đại hội đã tổng kết 21 năm Đảng lãnh đạo cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, 5 năm lãnh đạo
chính quyền non trẻ và công cuộc kháng chiến kiến quốc.

Do sự phát triển và yêu cầu của sự nghiệp cách mạng và kháng chiến, Đại hội quyết định xây
dựng ở mỗi nước Đông Dương một đảng cộng sản riêng. Ở Việt Nam, Đảng lấy tên là Đảng Lao
động Việt Nam.

Đại hội thông qua Điều lệ của Đảng Lao động Việt Nam. Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của
giai cấp công nhân và của nhân dân lao động Việt Nam.

Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng và xây dựng Đảng theo nguyên tắc một
Đảng vô sản kiểu mới, lấy tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt căn bản của
Đảng; phê bình, tự phê bình là quy luật phát triển của Đảng; phục vụ nhân dân là mục tiêu hoạt
động của Đảng. Đại hội đánh dấu một mốc quan trọng trong quá trình lãnh đạo và trưởng thành
của Đảng ta, đáp ứng yêu cầu cấp bách của thực tiễn, đưa cuộc kháng chiến chống Pháp đến
thắng lợi hoàn toàn.

Đại hội III: Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh thống nhất nước nhà
Thời gian: Từ 5 đến 10/9/1960

Địa điểm: Thủ đô Hà Nội

Số lượng đảng viên trong cả nước: 500.000

Số lượng đại biểu tham dự Đại hội: 525

Chủ tịch Đảng được bầu tại Đại hội: Chủ tịch Hồ Chí Minh

Bí thư thứ nhất được bầu tại Đại hội: Đồng chí Lê Duẩn

Ban Chấp hành Trung ương Đảng được bầu tại Đại hội: 47 uỷ viên

Bộ Chính trị được bầu tại Đại hội: 11 uỷ viên

Nhiệm vụ chính: Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà ở
miền Nam.

Đại hội đã tổng kết 30 năm lãnh đạo của Đảng, nêu lên những bài học có ý nghĩa lý luận và thực
tiễn của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Đại hội xác định nhiệm vụ cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là nhiệm vụ quyết định nhất
đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng nước ta. Cách mạng miền Nam có nhiệm vụ giải
phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, thực hiện hoà bình thống
nhất nước nhà, hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước. 2
nhiệm vụ có mục tiêu chung là thực hiện hoà bình thống nhất Tổ quốc, đều nhằm giải quyết mâu
thuẫn chung là mâu thuẫn giữa nhân dân ta với đế quốc Mỹ và tay sai của chúng.

Đại hội quyết nghị lấy ngày 3 tháng 2 dương lịch mỗi năm làm ngày kỷ niệm thành lập Đảng
Cộng sản Việt Nam.

Đại hội IV: Hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước
đi lên chủ nghĩa xã hội

Thời gian: Từ 14 đến 20/12/1976

Địa điểm: Thủ đô Hà Nội

Số lượng đảng viên trong cả nước: 1.550.000

Số lượng đại biểu tham dự Đại hội: 1.008

Tổng Bí thư được bầu tại Đại hội: Đồng chí Lê Duẩn
Ban Chấp hành Trung ương Đảng được bầu tại Đại hội: 101 uỷ viên chính thức, 32 ủy viên dự
khuyết.

Bộ Chính trị được bầu tại Đại hội: 14 uỷ viên chính thức, 3 ủy viên dự khuyết

Nhiệm vụ chính: Hàn gắn vết thương chiến tranh, từng bước khôi phục, phát triển đất nước.

Đại hội tổng kết những bài học lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đưa cả nước tiến
lên chủ nghĩa xã hội.

Đại hội xác định nhiệm vụ, phương châm và biện pháp công tác Đảng trong giai đoạn mới, bảo
đảm cho Đảng làm tròn trách nhiệm lãnh đạo nhân dân cả nước tiến hành cách mạng xã hội chủ
nghĩa.

Đại hội quyết định đổi tên Đảng Lao động Việt Nam thành Đảng Cộng sản Việt Nam và thông
qua Điều lệ mới gồm 11 chương và 59 điều, đặt lại chức vụ Tổng Bí thư thay chức Bí thư thứ
nhất, quy định nhiệm kỳ của Ban Chấp hành Trung ương là 5 năm.

Ðại hội V: Tất cả vì Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, vì hạnh phúc của nhân dân

Thời gian: từ 27 đến 31/3/1982

Địa điểm: Thủ đô Hà Nội

Số lượng Đảng viên trong cả nước: 1.727.000

Số lượng đại biểu tham dự Đại hội: 1.033

Tổng Bí thư được bầu tại Đại hội: Đồng chí Lê Duẩn

Ban Chấp hành Trung ương Đảng được bầu tại Đại hội: 116 uỷ viên

Bộ Chính trị được bầu tại Đại hội: 13 uỷ viên

Nhiệm vụ chính: Xây dựng chủ nghĩa xã hội trên toàn lãnh thổ Việt Nam.

Đại hội nhận định, đất nước đứng trước những khó khăn lớn về kinh tế và xã hội mà một phần
nguyên nhân là do khuyết điểm, sai lầm của các cơ quan Đảng và Nhà nước về lãnh đạo và quản
lý. Do đó, Đảng phải lãnh đạo nhân dân thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: Xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội và sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa.

Đại hội thông qua những nhiệm vụ văn hoá, xã hội; tăng cường nhà nước xã hội chủ nghĩa, phát
động phong trào cách mạng của quần chúng; chính sách đối ngoại; nhiệm vụ nâng cao sức chiến
đấu của Đảng. Đại hội đánh dấu một bước chuyển biến mới về sự lãnh đạo của Đảng trên con
đường đấu tranh “Tất cả vì Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, vì hạnh phúc của nhân dân”.
Đại hội VI: Khởi xướng và lãnh đạo sự nghiệp đổi mới đất nước

Thời gian: Từ 15 đến 18/12/1986

Địa điểm: Thủ đô Hà Nội

Số lượng đảng viên trong cả nước: 2.109.613

Số lượng đại biểu tham dự Đại hội: 1.129

Tổng Bí thư được bầu tại Đại hội: Đồng chí Nguyễn Văn Linh

Ban Chấp hành Trung ương được bầu tại Đại hội: 124 uỷ viên

Bộ Chính trị được bầu tại Đại hội: 13 uỷ viên

Nhiệm vụ chính: Thực hiện đổi mới đất nước (khởi xướng đưa đất nước tiến hành công cuộc đổi
mới)

Đại hội VI khẳng định quyết tâm đổi mới công tác lãnh đạo của Đảng theo tinh thần cách mạng
và khoa học. Đại hội đã đưa ra quan điểm mới về cải tạo XHCN, trong đó, phải xây dựng quan
hệ sản xuất mới trên cả ba mặt xây dựng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, chế độ quản lý và
chế độ phân phối XHCN.

Nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng, Đại hội VI của Đảng nhấn mạnh: Đảng phải đổi
mới về nhiều mặt: đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế; đổi mới tổ chức; đổi mới đội ngũ
cán bộ; đổi mới phong cách lãnh đạo và công tác. Nâng cao chất lượng đảng viên và sức mạnh
chiến đấu của tổ chức cơ sở, tăng cường đoàn kết nhất trí trong Đảng là nhiệm vụ quan trọng,
vừa cơ bản, vừa cấp bách của công tác xây dựng Đảng.

Đại hội VII: Đổi mới toàn diện, đồng bộ, đưa đất nước tiến lên theo con đường XHCN

Thời gian: từ 24 đến 27/6/1991

Địa điểm: Thủ đô Hà Nội

Số lượng đảng viên trong cả nước: 2.155.022

Số lượng đại biểu tham dự Đại hội: 1.176

Tổng Bí thư được bầu tại Đại hội: Đồng chí Đỗ Mười

Ban Chấp hành Trung ương Đảng được bầu tại Đại hội: 146 uỷ viên

Bộ Chính trị được bầu tại Đại hội: 13 uỷ viên


Nhiệm vụ chính: Tiếp tục thực hiện nhiệm vụ đưa đất nước đi theo con đường đổi mới. Đại hội
khẳng định: Đổi mới toàn diện, đồng bộ, có nguyên tắc và có bước đi vững chắc, đó là mệnh
lệnh của cuộc sống, là quá trình không thể đảo ngược.

Với nhiệm vụ “Tiếp tục thực hiện nhiệm vụ đưa đất nước đi theo con đường đổi mới”, Đại hội
VII lần đầu tiên thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH.

Đại hội một lần nữa khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công
nhân Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả
dân tộc. Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ
nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản.

Đại hội VIII: Tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước

Thời gian: từ 28/6 đến 1/7/1996.

Địa điểm: Thủ đô Hà Nội

Số lượng Đảng viên trong cả nước: 2.130.000

Số lượng đại biểu tham dự Đại hội: 1.198 đại biểu

Tổng Bí thư được bầu tại Đại hội: Đồng chí Đỗ Mười

Ban Chấp hành Trung ương bầu tại Đại hội: 170 uỷ viên

Bộ Chính trị bầu tại Đại hội: 19 uỷ viên

Nhiệm vụ chính: Thực hiện đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, quá độ lên chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Đại hội khẳng định: nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội, nhưng một số mặt còn chưa
vững chắc. Đại hội đã đưa ra các định hướng phát triển các lĩnh vực chủ yếu trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Đại hội VIII đánh dấu bước ngoặt chuyển đất nước ta sang thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá; vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, vững
bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ tư (khoá VIII, tháng
12/1997) bầu đồng chí Lê Khả Phiêu làm Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam.

Đại hội IX: Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Thời gian: Từ 19-22/4/2001

Địa điểm: Thủ đô Hà Nội


Số lượng đảng viên trong cả nước: 2.479.719

Số lượng đại biểu tham dự Đại hội: 1.168

Tổng Bí thư được bầu tại Đại hội: Đồng chí Nông Đức Mạnh

Ban Chấp hành Trung ương Đảng được bầu tại Đại hội: 150 uỷ viên

Bộ Chính trị được bầu tại Đại hội: 15 uỷ viên

Nhiệm vụ chính: Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Đại hội chỉ rõ mô hình tổng quát của thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam là phát triển kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo
định hướng XHCN.

Đại hội khẳng định phải coi trọng xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Đó là nhiệm vụ then
chốt, là yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của Đảng ta, là nhân tố bảo đảm thắng lợi của
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập khu vực và thế giới, xây dựng và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc.

Đại hội X: Huy động và sử dụng tốt mọi nguồn lực, sớm đưa đất nước ra khỏi tình trạng
kém phát triển

Thời gian: Từ 18 đến 25/4/2006

Địa điểm: Thủ đô Hà Nội

Số lượng đảng viên trong cả nước: 3,1 triệu

Số lượng đại biểu tham dự Đại hội: 1.176

Tổng Bí thư được bầu tại Đại hội: Đồng chí Nông Đức Mạnh

Ban Chấp hành Trung ương Đảng được bầu tại Đại hội: 160 uỷ viên chính thức, 21 ủy viên dự
khuyết

Bộ Chính trị được bầu tại Đại hội: 14 uỷ viên.

Nhiệm vụ chính: Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Ðảng, phát huy sức mạnh
toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém
phát triển.

Đại hội đánh giá sau 20 năm đổi mới, đất nước ta đạt những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch
sử; đồng thời nêu bật năm bài học lớn.
Đại hội quyết định mục tiêu tổng quát 5 năm tới là nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, huy động và
sử dụng tốt mọi nguồn lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; phát triển văn hóa; thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội; tăng cường quốc phòng và an ninh, mở rộng quan hệ đối ngoại;
chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế; giữ vững ổn định chính trị-xã hội; sớm đưa đất
nước ra khỏi tình trạng kém phát triển; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành
một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

Đại hội XI: Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, đẩy mạnh toàn
diện công cuộc đổi mới đất nước

Thời gian: Từ 12 đến 19/1/2011

Địa điểm: Thủ đô Hà Nội

Số lượng đảng viên trong cả nước: 3,6 triệu

Số lượng đại biểu tham dự Đại hội: 1.377

Tổng Bí thư được bầu tại Đại hội: Đồng chí Nguyễn Phú Trọng

Ban Chấp hành Trung ương Đảng được bầu tại Đại hội: 175 uỷ viên chính thức, 25 ủy viên dự
khuyết.

Bộ Chính trị được bầu tại Đại hội: 14 uỷ viên.

Nhiệm vụ chính: Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh
toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 cơ bản trở
thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

Đại hội có nhiệm vụ nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật, đề cao tinh thần tự phê bình
nghiêm túc, để kiểm điểm, đánh giá khách quan, toàn diện những thành tựu và yếu kém, khuyết
điểm, đồng thời rút ra những bài học kinh nghiệm qua việc thực hiện Nghị quyết Đại hội X.

Đại hội đã thảo luận sôi nổi, dân chủ và nhất trí thông qua các văn kiện rất quan trọng, có ý nghĩa
chiến lược, lâu dài đối với sự phát triển của đất nước ta: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Chiến lược phát triển kinh tế
- xã hội 2011 - 2020, phương hướng, nhiệm vụ năm 2011 - 2015 và Điều lệ Đảng (bổ sung, sửa
đổi).

Đại hội XII: Đẩy mạnh công cuộc đổi mới, sớm đưa đất nước cơ bản trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại

Thời gian: Từ 20 đến 28/1/2016

Địa điểm: Thủ đô Hà Nội


Số lượng đảng viên trong cả nước: 4,5 triệu

Số lượng đại biểu tham dự Đại hội: 1.510

Tổng Bí thư được bầu tại Đại hội: Đồng chí Nguyễn Phú Trọng

Ban Chấp hành Trung ương Đảng được bầu tại Đại hội: 180 uỷ viên chính thức, 20 ủy viên dự
khuyết.

Bộ Chính trị được bầu tại Đại hội: 18 uỷ viên.

Nhiệm vụ chính: Đẩy mạnh công cuộc đổi mới; phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước
công nghiệp theo hướng hiện đại. Đại hội đánh giá thành tựu và hạn chế sau 30 năm thực hiện
công cuộc đổi mới đất nước.

Đại hội đã đề ra các nhiệm vụ trọng tâm trong 5 năm tiếp theo, chủ yếu tập trung vào kinh tế, xây
dựng Đảng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động, kiên quyết bảo vệ vững chắc
độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.

Đại hội này cũng là lần đầu tiên Đảng thực hiện Đề án Quy hoạch Ban Chấp hành Trung ương,
Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các chức danh lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước nhiệm kỳ 2016-
2021 và các nhiệm kỳ tiếp theo. Theo đó công tác chuẩn bị nhân sự Ban Chấp hành Trung ương,
Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các chức danh lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước nhiệm kỳ
2016-2021 được tiến hành theo một quy trình chặt chẽ, bài bản, khoa học, thận trọng và thực sự
phát huy dân chủ, giữ vững kỷ cương, tạo được sự thống nhất cao của các đại biểu dự Đại hội.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam chính thức khai mạc sáng
ngày 26/01/2021, tại Trung tâm Hội nghị quốc gia, Thủ đô Hà Nội.

Dự Đại hội có 1.587 đại biểu thay mặt cho hơn 5 triệu đảng viên toàn Đảng. Trong đó có 191
đồng chí đại biểu là Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII, 1.381 đại biểu được
bầu từ đại hội đảng bộ các tỉnh, thành phố và đảng bộ trực thuộc Trung ương, 15 đại biểu thuộc
các Đảng bộ ngoài nước do Bộ Chính trị chỉ định. Đại biểu nam có 1.365 đồng chí, chiếm
86,01%, đại biểu nữ có 222 đồng chí, chiếm tỷ lệ 13,99%. Đại biểu là người dân tộc thiểu số có
175 đồng chí, chiếm tỷ lệ 11,03%. Có 3 đại biểu là Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân,
chiếm 0,19%; 13 đại biểu là Nhà giáo ưu tú, chiếm 0,82%; 15 đại biểu là Thầy thuốc nhân dân,
Thầy thuốc ưu tú, chiếm 0,95%.

Chủ đề của Đại hội là “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch,
vững mạnh; khơi dậy ý chí và quyết tâm phát triển đất nước, phát huy sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi
mới; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hoà bình, ổn định; phấn đấu
để đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành một nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ
nghĩa”
Dự Đại hội XIII có 1.587 đại biểu (tăng 77 đại biểu so với Đại hội XII) đại diện cho gần 5,2 triệu
đảng viên trong cả nước; trong đó đại biểu đương nhiên có 191 đồng chí là Ủy viên chính thức
và Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, 1.381 đại biểu chính thức được bầu
tại các đại hội Đảng bộ trực thuộc Trung ương, 15 đại biểu ngoài nước được Bộ Chính trị chỉ
định.
Tới dự Đại hội có các đại biểu khách mời: Đồng chí Nông Đức Mạnh, nguyên Tổng Bí thư Ban
Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Các đồng chí nguyên Uỷ viên Bộ Chính trị,
nguyên Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam: đồng chí Trần Đức Lương, đồng
chí Nguyễn Minh Triết, đồng chí Trương Tấn Sang. Đồng chí nguyên Uỷ viên Bộ Chính trị,
nguyên Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng.
Các đồng chí nguyên Uỷ viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ tịch Quốc hội nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam: đồng chí Nguyễn Văn An, đồng chí Nguyễn Sinh Hùng. Các đồng chí
nguyên Uỷ viên Bộ Chính trị, nguyên Bí thư Trung ương Đảng; các đồng chí nguyên Chủ tịch
Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; các đồng chí nguyên Phó Chủ tịch nước,
nguyên Phó Chủ tịch Quốc hội, nguyên Phó Thủ tướng Chính phủ; các đồng chí nguyên Uỷ viên
Trung ương Đảng từ khoá III đến khoá VII; các đồng chí Uỷ viên Uỷ ban Kiểm tra Trung ương
khoá XII. Đại diện các Mẹ Việt Nam Anh hùng, nhân sĩ, trí thức, văn nghệ sĩ, chức sắc tôn giáo
tiêu biểu; đại diện thanh niên tiêu biểu cho thế hệ trẻ Việt Nam.

Đại hội XIII đã nhận được 298 thư, điện mừng của 149 đảng, 06 tổ chức khu vực và quốc tế, 93
tổ chức hữu nghị, nhân dân, 25 Đoàn ngoại giao, 16 cá nhân từ 92 quốc gia. Đây là Đại hội đại
biểu toàn quốc của Đảng nhận được điện, thư chúc mừng nhiều nhất so với các kỳ Đại hội trước,
cho thấy tình cảm sâu sắc của bạn bè quốc tế đối với Đảng, Nhà nước và nhân dân ta; đồng thời,
khẳng định vai trò, vị thế, uy tín của Đảng, Nhà nước và dân tộc Việt Nam trên trường quốc tế.

Đồng chí Nguyễn Xuân Phúc, Uỷ viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, thay mặt Đoàn Chủ tịch đọc Diễn văn khai mạc Đại hội. Đồng chí nhấn
mạnh: “Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng có trách nhiệm lịch sử to lớn đối với
Tổ quốc, đồng bào và dân tộc ta, không chỉ trong giai đoạn 5 năm 2021 - 2025 mà cho cả những
thập niên tới, cho những thế hệ tương lai của đất nước. Với quan điểm nhìn thẳng vào sự thật,
nói đúng sự thật, đổi mới, hội nhập và phát triển, phát huy truyền thống đoàn kết, chung sức,
đồng lòng, kiên định niềm tin vào chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường
mà Đảng và Bác Hồ kính yêu đã lựa chọn, Đại hội có nhiệm vụ kiểm điểm việc thực hiện Nghị
quyết Đại hội XII của Đảng gắn với việc đánh giá 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới; 30 năm
thực hiện Cương lĩnh năm 1991; 10 năm thực hiện Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 và
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011 - 2020; đề ra phương hướng, nhiệm vụ phát
triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025, xác định mục tiêu, phương hướng đến năm 2030 và tầm
nhìn phát triển đất nước đến năm 2045.
Đồng thời, Đại hội kiểm điểm sâu sắc, toàn diện công tác xây dựng Đảng và sự lãnh đạo, chỉ
đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII; xác định phương hướng, nhiệm vụ xây
dựng Đảng trong nhiệm kỳ mới; đánh giá việc thi hành Điều lệ Đảng; đặc biệt là bầu Ban Chấp
hành Trung ương khóa XIII gồm những đồng chí thực sự tiêu biểu về phẩm chất chính trị, đạo
đức cách mạng, năng lực lãnh đạo, bản lĩnh và trí tuệ đủ sức đáp ứng yêu cầu ngày càng cao
của sự nghiệp đổi mới, lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện những nhiệm vụ to lớn, nặng nề nhưng cũng
rất vẻ vang được Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó trong những năm tới”.
Đồng chí Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Chủ tịch nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trình bày Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khoá XII về các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng. Báo cáo nêu rõ:

“Năm năm qua, nắm bắt thuận lợi, thời cơ, vượt qua khó khăn, thách thức, nhất là tác động của
dịch bệnh và thiên tai liên tiếp xẩy ra, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã phát huy tinh thần
yêu nước, đoàn kết, ý chí quyết tâm, bản lĩnh, sáng tạo, nỗ lực phấn đấu đạt được nhiều thành
tựu rất quan trọng, khá toàn diện, tạo nhiều dấu ấn nổi bật; đất nước phát triển nhanh và bền
vững; củng cố, nâng cao niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ
nghĩa.
Kinh tế nước ta duy trì được tốc độ tăng trưởng bình quân khá cao (khoảng 5,9%). Nhiều khó
khăn, vướng mắc, hạn chế, yếu kém từ các năm trước đã được tập trung giải quyết và đạt những
kết quả bước đầu. Chất lượng tăng trưởng được cải thiện; kinh tế vĩ mô ổn định khá vững chắc;
lạm phát được kiểm soát và duy trì ở mức thấp; các cân đối lớn của nền kinh tế tiếp tục được
bảo đảm và có bước được cải thiện; kỷ luật, kỷ cương tài chính - ngân sách nhà nước được tăng
cường.
Huy động vốn đầu tư toàn xã hội tăng mạnh, hiệu quả sử dụng được nâng lên. Cán cân thương
mại được cải thiện; xuất khẩu tăng nhanh. Cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng
trưởng, thực hiện ba đột phá chiến lược đạt được những kết quả quan trọng. Môi trường đầu tư,
kinh doanh, tiềm lực, quy mô và sức cạnh tranh của nền kinh tế tiếp tục được nâng lên. Chính
trị, xã hội ổn định, đời sống của nhân dân được cải thiện rõ rệt.
Các lĩnh vực an sinh xã hội, y tế, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, bảo vệ môi trường,
phát triển văn hoá, xây dựng con người Việt Nam... có nhiều chuyển biến tích cực, có mặt khá
nổi bật.
Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị được đặc biệt chú trọng, được tiến
hành toàn diện, đồng bộ, có hiệu quả trên tất cả các mặt chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và
cán bộ. Nhiều vấn đề phức tạp được đặt ra và thực hiện từ những năm trước nhưng hiệu quả còn
thấp, trong nhiệm kỳ này đã có chuyển biến tích cực.
Công tác kiểm tra, giám sát và đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực được triển
khai quyết liệt, bài bản, đi vào chiều sâu, có bước đột phá và đạt những kết quả cụ thể, rõ rệt.
Nhiều vụ án kinh tế, tham nhũng được phát hiện, điều tra, khởi tố, xét xử nghiêm minh, tạo sức
răn đe, cảnh tỉnh, được cán bộ, đảng viên và nhân dân hoan nghênh, đánh giá cao và đồng tình
ủng hộ. Tình trạng tham nhũng, tiêu cực, suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong Đảng
và hệ thống chính trị từng bước được kiềm chế, ngăn chặn.
Trước tình hình thế giới và khu vực có những diễn biến nhanh chóng, phức tạp, chúng ta đã coi
trọng củng cố, tăng cường sức mạnh quốc phòng và an ninh, chủ động xử lý thành công các tình
huống, không để bị động, bất ngờ. An ninh chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và trật tự, an toàn
xã hội được giữ vững.
Hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế được đẩy mạnh, không ngừng mở rộng và đi vào chiều
sâu; kiên quyết, kiên trì bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích quốc
gia - dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước, đồng thời đóng góp
tích cực, có trách nhiệm cho hòa bình, hợp tác, phát triển của thế giới và khu vực, được cộng
đồng quốc tế đồng tình ủng hộ, đánh giá cao; uy tín, vị thế của Đảng, Nhà nước, thế và lực của
đất nước không ngừng được nâng cao trên trường quốc tế.
Năm 2020, trong bối cảnh đại dịch COVID-19 tác động mạnh đến nước ta, gây nhiều thiệt hại
về kinh tế - xã hội, nhưng với sự nỗ lực cố gắng vượt bậc, đất nước đã đạt được những kết quả,
thành tích đặc biệt hơn so với các năm trước. Trong khi kinh tế thế giới suy thoái, tăng trưởng
âm gần 4%, kinh tế nước ta vẫn đạt mức tăng trưởng 2,91%, là một trong những nền kinh tế có
tốc độ tăng trưởng cao nhất thế giới. …
Có thể khẳng định những kết quả đạt được trong nhiệm kỳ Đại hội XII có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng, không chỉ tạo được dấu ấn nổi bật, mà còn góp phần củng cố niềm tin, tạo ra động lực
mới, khí thế mới để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta vững vàng vượt qua khó khăn, thách thức,
tận dụng thời cơ, thuận lợi, đưa đất nước bước vào một thời kỳ phát triển mới.
Qua 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được hoàn thiện và từng bước được hiện
thực hóa. Chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ,
toàn diện hơn so với những năm trước đổi mới. Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói
rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã thảo luận, tán thành những nội dung cơ bản
về đánh giá tình hình thực hiện 5 năm Nghị quyết Đại hội XII (2016 – 2021) và phương hướng,
nhiệm vụ 5 năm 2021 – 2026 nêu trong Báo cáo chính trị, Báo cáo kinh tế - xã hội của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa XII trình Đại hội.
Với tinh thần “Đoàn kết - dân chủ - Kỷ cương - Sáng tạo - Phát triển”, ý thức trách nhiệm cao
trước Đảng, Nhân dân và đất nước, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã đề ra
những mục tiêu, nhiệm vụ chủ yếu cho nhiệm kỳ 2021 – 2026 như sau:
Mục tiêu tổng quát:
Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và
hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân
đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn
vinh, hạnh phúc, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời
đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hóa; xây dựng
và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ
XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Mục tiêu cụ thể:
- Đến năm 2025, kỷ niệm 50 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước: Là nước
đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp.

- Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: Là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện
đại, thu nhập trung bình cao.

- Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao.

Định hướng các chỉ tiêu chủ yếu về phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025:
Về kinh tế: Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) bình quân 5 năm đạt khoảng 6,5 - 7%/năm. Đến
năm 2025, GDP bình quân đầu người khoảng 4.700 - 5.000 USD; đóng góp của năng suất các
nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng đạt khoảng 45%; tốc độ tăng năng suất lao động xã hội
bình quân trên 6,5%/năm; tỉ lệ đô thị hóa khoảng 45%; tỉ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo
trong GDP đạt trên 25%; kinh tế số đạt khoảng 20% GDP.
Về xã hội: Đến năm 2025, tỉ trọng lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội khoảng 25%;
tỉ lệ lao động qua đào tạo là 70%; tỉ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị năm 2025 dưới 4%; tỉ lệ
nghèo đa chiều duy trì mức giảm 1 - 1,5% hằng năm; có 10 bác sĩ và 30 giường bệnh/1 vạn dân;
tỉ lệ tham gia bảo hiểm y tế đạt 95% dân số; tuổi thọ trung bình đạt khoảng 74,5 tuổi; tỉ lệ xã đạt
tiêu chuẩn nông thôn mới tối thiểu 80%, trong đó ít nhất 10% đạt chuẩn nông thôn mới kiểu
mẫu.
Về môi trường: Đến năm 2025, tỉ lệ sử dụng nước sạch, nước hợp vệ sinh của dân cư thành thị
là 95 - 100%, nông thôn là 93 - 95%; tỉ lệ thu gom và xử lý chất thải rắn sinh hoạt đô thị bảo đảm
tiêu chuẩn, quy chuẩn đạt 90%; tỉ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động có hệ thống
xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường là 92%; tỉ lệ cơ sở gây ô nhiễm môi trường
nghiêm trọng được xử lý đạt 100%; giữ tỉ lệ che phủ rừng ổn định 42%.
Nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ Đại hội XIII:
(1) Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa và hệ thống chính trị toàn diện, trong sạch, vững mạnh. Đổi mới phương thức lãnh đạo,
cầm quyền của Đảng. Xây dựng tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu
lực, hiệu quả. Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phòng chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu
cực, "lợi ích nhóm", những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ. Xây dựng đội
ngũ đảng viên và cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, người đứng đầu đủ phẩm chất, năng lực,
uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Củng cố lòng tin, sự gắn bó của nhân dân với Đảng, Nhà nước, chế
độ xã hội chủ nghĩa.
(2) Tập trung kiểm soát đại dịch Covid-19, tiêm chủng đại trà vắc-xin Covid-19 cho cộng đồng;
phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội, đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh
tế, xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển phù hợp với nền kinh tế thị trường đầy đủ,
hiện đại, hội nhập; phát triển đồng bộ và tạo ra sự liên kết giữa các khu vực, các vùng, các thành
phần kinh tế, các loại hình sản xuất kinh doanh; có chính sách hỗ trợ hiệu quả doanh nghiệp
trong nông nghiệp; đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ,
đổi mới sáng tạo, nhất là những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, thực hiện
chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh
tranh của nền kinh tế; huy động, phân bổ, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, tạo động lực để
phát triển kinh tế nhanh và bền vững; hoàn thiện hệ thống pháp luật, nhất là pháp luật về bảo hộ
sở hữu trí tuệ và giải quyết các tranh chấp dân sự, khắc phục những điểm nghẽn cản trở sự phát
triển của đất nước.

(3) Giữ vững độc lập, tự chủ, tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động đối ngoại, hội
nhập quốc tế; tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, xây dựng Quân đội nhân dân, Công an
nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số lực lượng tiến thẳng lên
hiện đại, tạo tiền đề vững chắc phấn đấu năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân
dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biển, đảo, vùng trời; giữ vững môi trường hoà bình, ổn
định để phát triển đất nước.

(4) Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy giá trị văn hoá, sức
mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế; có
chính sách cụ thể phát triển văn hoá đồng bào dân tộc thiểu số; thực hiện tốt chính sách xã hội,
bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong quản lý phát triển xã
hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống và chỉ số hạnh phúc của
con người Việt Nam.

(5) Hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách nhằm phát huy mạnh mẽ dân chủ
xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân; đồng thời xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh; cải cách tư pháp, tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ
cương xã hội, trước hết là sự gương mẫu tuân theo pháp luật, thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa
của cấp uỷ, tổ chức đảng, chính quyền, MTTQ Việt Nam và tổ chức chính trị - xã hội các cấp,
của cán bộ, đảng viên; tăng cường đại đoàn kết toàn dân tộc.

(6) Quản lý chặt chẽ, sử dụng hợp lý, hiệu quả đất đai, tài nguyên; bảo vệ, cải thiện môi trường;
chủ động, tích cực triển khai các giải pháp thích ứng với biến đổi khí hậu, thiên tai khắc nghiệt.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng cũng đã thảo luận và thông qua:

- Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII tại Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XIII.
- Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030, phương hướng, nhiệm vụ phát triển
kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025.
- Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng và thi hành Điều lệ Đảng của Ban Chấp Trung ương
khóa XII;
- Báo cáo kiểm điểm sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII trình
Đại hội XIII.
Với tinh thần trách nhiệm cao, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã bầu ra Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khoá mới gồm 200 đồng chí, trong đó 180 đồng chí Uỷ viên chính
thức, 20 đồng chí Uỷ viên dự khuyết.
Tại Hội nghị lần thứ nhất, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII đã họp để bầu Bộ Chính
trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng, Ủy ban Kiểm tra Trung ương. Đồng chí Nguyễn Phú Trọng
được tín nhiệm bầu tiếp tục giữ chức vụ Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
XIII. Đồng chí Trần Cẩm Tú được tín nhiệm bầu giữ chức vụ Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung
ương.

Sau 7 ngày làm việc, ngày 01/02/2021, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã bế
mạc. Trong Diễn văn bế mạc, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trình bày đã nhấn mạnh: “Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã thành công tốt đẹp, hoàn thành toàn bộ nội dung,
chương trình đề ra, kết thúc sớm hơn gần 2 ngày so với kế hoạch đề ra.

Thành công rất tốt đẹp của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng sẽ cổ vũ mạnh mẽ
toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta tiếp tục vượt qua mọi khó khăn, thách thức, tranh thủ thời cơ,
thuận lợi, phấn đấu sớm đưa nước ta trở thành một nước phát triển, có thu nhập cao, theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Tôi đề nghị: Ngay sau Đại hội, tất cả các cấp uỷ, tổ chức đảng cần tập
trung làm tốt việc phổ biến, tuyên truyền sâu rộng trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân về kết
quả Đại hội; nghiên cứu, quán triệt sâu sắc Nghị quyết và các văn kiện Đại hội; khẩn trương xây
dựng, triển khai chương trình, kế hoạch hành động, phát động phong trào thi đua yêu nước sâu
rộng, tinh thần đổi mới sáng tạo, vượt qua mọi khó khăn, thách thức để sớm đưa Nghị quyết Đại
hội vào cuộc sống, biến những quyết định của Đại hội thành hiện thực sinh động trong thực tế.

Đại hội kêu gọi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, đồng bào ta ở trong nước cũng như ở nước ngoài
hãy phát huy cao độ tinh thần yêu nước, ý chí tự lực tự cường, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân
tộc, ra sức thi đua thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội với tinh thần năm sau phải tốt hơn năm
trước; nhiệm kỳ khoá XIII phải tốt hơn nhiệm kỳ khoá XII".

You might also like