Ảnh Hưởng Của Nhân Sinh Quan Lão Trang Trong Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm

You might also like

Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 120

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Thị Tuyết Đào

ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN


LÃO - TRANG TRONG THƠ
NGUYỄN BỈNH KHIÊM

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh – 2012


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Thị Tuyết Đào

ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN


LÃO - TRANG TRONG THƠ
NGUYỄN BỈNH KHIÊM

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam


Mã số: 60 22 34

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:


TS. NGUYỄN KIM CHÂU

Thành phố Hồ Chí Minh - 2012


LỜI CẢM ƠN


Sau một thời gian đầu tư thực hiện, luận văn “Ảnh hưởng nhân sinh quan
của Lão - Trang trong thơ Nguyễn Bỉnh khiêm” đã được hoàn thành đúng thời
hạn. Đó là kết quả của một quá trình làm việc nghiêm túc với sự hỗ trợ nhiều mặt từ
phía nhà trường, quý thầy cô cùng bạn bè, đồng nghiệp. Dù rất cố gắng nhưng luận
văn vẫn không tránh khỏi những thiếu sót nhất định, rất mong nhận được ý kiến
đóng góp, đề xuất để công trình nghiên cứu của chúng tôi hoàn thiện hơn.
Trước tiên, tôi xin được gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc đến Tiến sĩ
Nguyễn Kim Châu - người đã hướng dẫn tôi thực hiện đề tài luận văn nói trên. Sự
quan tâm, hướng dẫn, chỉ bảo tận tâm của Thầy đã giúp đỡ tôi rất nhiều trong suốt
thời gian thực hiện luận văn.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến phòng Sau đại học trường Đại học sư phạm
TP. HCM, các giảng viên cùng cán bộ thư viện trường Đại học Sư phạm TP. HCM
đã giúp đỡ, tạo điều kiện cho học viên cao học chuyên ngành Văn học Việt Nam
khóa 21 chúng tôi trong suốt quá trình học tập và thực hiện luận văn tại trường.
Sau cùng, tôi xin được cảm ơn những người thân trong gia đình, những
người bạn, những người đồng nghiệp đã luôn động viên, khích lệ và giúp đỡ tôi
trong cả quá trình học tập và nghiên cứu luận văn.
Nguyễn Thị Tuyết Đào
MỤC LỤC


A. DẪN NHẬP ........................................................................................................... 1


1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................1
2. Lịch sử vấn đề .....................................................................................................2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ......................................................................5
4. Phương pháp nghiên cứu ....................................................................................6
5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu......................................................................7
6. Kết cấu của luận văn ...........................................................................................7
B. NỘI DUNG ............................................................................................................ 9
Chương 1. Khái quát về tư tưởng Lão – Trang và tác giả, tác phẩm Nguyễn
Bỉnh Khiêm ................................................................................................................9
1.1. Tác giả, tác phẩm Nguyễn Bỉnh Khiêm...........................................................9
1.1.1. Tác giả ......................................................................................................9
1.1.2. Tác phẩm ................................................................................................12
1.2. Lão Tử và Đạo Đức Kinh, Trang Tử và Nam Hoa Kinh ...............................14
1.2.1. Lão Tử và Đạo Đức Kinh .......................................................................14
1.2.1.1. Lão Tử ...........................................................................................14
1.2.1.2. Đạo Đức Kinh ...............................................................................14
1.2.2. Trang Tử và Nam Hoa Kinh ...................................................................14
1.2.2.1. Trang Tử .......................................................................................14
1.2.2.2. Nam Hoa Kinh ..............................................................................15
1.3. Hành trình du nhập của tư tưởng Lão - Trang vào Việt Nam .......................15
1.4. Ảnh hưởng của tư tưởng Lão - Trang trong văn học Việt Nam trước thế kỷ XVI.17
1.4.1. Ảnh hưởng của tư tưởng Lão - Trang trong văn học thế kỷ X - XIV ....17
1.4.2. Ảnh hưởng của tư tưởng Lão - Trang trong văn học thế kỷ XV - XVI .23
Chương 2. Những biển hiện nhân sinh quan của Lão - Trang trong thơ Nguyễn
Bỉnh Khiêm ..............................................................................................................27
2.1. Biết dừng lại, quay về với cuộc sống ẩn dật, thanh cao - một biểu hiện của
tinh thần tri túc, cầu nhàn. .........................................................................................27
2.1.1. Tri túc, cầu nhàn - một vấn đề cơ bản trong tư tưởng Lão - Trang ........27
2.1.2. Nhàn - cách ứng xử thức thời và chủ động của Nguyễn Bỉnh Khiêm ...28
2.1.3. Nhàn - Sự tâm đắc của Nguyễn Bỉnh Khiêm khi chọn được lẽ sống theo
ý mình ....................................................................................................37
2.2. Hòa hợp, gắn bó với thiên nhiên và cuộc sống làng quê - một biểu hiện của
tinh thần vô vi, tiêu dao .............................................................................................44
2.2.1. Tinh thần vô vi, tiêu dao của Lão - Trang ..............................................44
2.2.2. Niềm hạnh phúc, gắn bó với thiên nhiên và cuộc sống làng quê trong
thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm........................................................................47
2.3. Xem công danh như áng phù vân - một biểu hiện của quan niệm “đời là
giấc mộng” ...................................................................................................64
2.3.1. Quan niệm đời là giấc mộng của Trang Tử ............................................64
2.3.2. Giấc mộng công danh trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm ...........................66
2.3.3. Sự biến đổi thăng trầm nhanh chóng của vinh và nhục - hệ quả của
được và mất trên đường công danh trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm .....71
Chương 3. Tương quan Nho – Phật – Đạo và những yếu tố nhân sinh quan tích
cực trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm ........................................................................79
3.1. Tương quan Nho học và Đạo học trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm ................79
3.1.1. Cách ứng xử vừa hợp với tư tưởng Nho gia vừa hợp với tư tưởng Đạo gia 79
3.1.2. Trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, phần Nho sĩ vẫn lấn át phần ẩn sĩ ......83
3.2. Tương quan Phật học và Đạo học trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm...............91
3.2.1. Cách ứng xử vừa hợp với tư tưởng Đạo vừa hợp với tư tưởng Thiền ..91
3.2.2. Trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, phần Nho sĩ, ẩn sĩ vẫn đậm nét hơn
phần cư sĩ ...............................................................................................96
C. KẾT LUẬN .......................................................................................................100
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................................102
1

A. DẪN NHẬP
1. Lý do chọn đề tài
Văn học trung đại Việt Nam gắn liền với những tên tuổi không bao giờ bị lãng
quên như: Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Hồ Xuân
Hương, Bà Huyện Thanh Quan… Và thật thiếu sót nếu không nhắc đến Nguyễn
Bỉnh Khiêm, nhà thơ tiêu biểu của văn học thế kỉ XVI - một nhà nho, một vị quan
trong sạch, ngay thẳng, một ẩn sĩ. Sáng tác của Nguyễn Bỉnh Khiêm được xem là
một trong những chiếc cầu nối giữa hai thời đại văn học - thời đại Nguyễn Trãi
trước đó và thời đại Nguyễn Du sau này.
Quá trình hành - tàng, xuất - xử của nhà thơ này rất phức tạp, liên quan đến
nhiều biến động lịch sử. Tài năng bản lĩnh nhưng ông giấu mình suốt khoảng thời
trai trẻ vì bất mãn trước thời cuộc, thực hiện lối sống ẩn nhẫn đợi thời của một
người ẩn sĩ với những thú vui tao nhã: uống rượu, ngâm thơ, ngao du ở bên sông.
Mãi đến năm 45 tuổi, xét thấy tình hình chính trị xã hội ổn định Nguyễn Bỉnh
Khiêm mới bắt đầu con đường hành đạo, quyết định ra làm quan cho nhà Mạc với
mong muốn thực hiện lí tưởng “kinh bang tế thế” của mình. Gần 8 năm tại vị, dốc
hết lòng vì chúa, chứng kiến nhiều cảnh trái tai, gai mắt nhưng không can gián
được. Bất mãn ông trí sĩ xin về quê ở ẩn, náu thú sơn lâm, sống nhàn hạ đến cuối
đời.
Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng theo dòng mà biến đổi như cuộc đời nhà thơ
vậy. Đó là tiếng nói của một con người tích cực nhập thế, hành đạo giúp đời, lắm
lúc là tiếng nói của một con người đã nắm vững mọi quy luật của cuộc sống, nhận
thấy đời người vô thường với kiếp sống ngắn ngủi, có đó rồi lại mất đó nên chọn
giải pháp lui về quê “lánh đục tìm trong”. Rõ ràng, thơ ông là một sự kết hợp tuyệt
vời của ba luồng tư tưởng Nho - Phật - Đạo. Sự chi phối các luồng tư tưởng này
trong thơ ông ở mức độ không đều nhau: lúc đậm, lúc nhạt. Tuy nhiên bước đầu
khảo sát thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, chúng tôi nhận thấy sự xuất hiện liên tục những
từ “nhàn, tiên, vô sự,” - biểu thị một lối sống phiêu diêu, tự tại đối lập hoàn toàn với
thực tế xã hội mục ruỗng, thối nát đương thời .
2

Từ bỏ chốn quan trường trở về với cuộc sống ẩn dật, ông đã xây dựng rất sớm
cho mình một quan niệm sống nhàn, lánh xa danh lợi, tìm niềm vui trong sự gắn bó
với thiên nhiên, và nhất là biết thuận theo quy luật của tạo hóa theo đúng tinh thần
Lão - Trang. Tuy nhiên, vẫn cần phải khẳng định rằng Nguyễn Bỉnh Khiêm thân
nhàn nhưng tâm không nhàn, lui về quê sống ẩn dật nhưng lòng lúc nào cũng lo
nước thương dân. Nói cách khác, trong thơ ông, lý tưởng Nho gia vẫn chiếm một
phần quan trọng. Vấn đề đặt ra là trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, phần ảnh hưởng
của nhân sinh quan Lão - Trang hay của Nho giáo quan trọng hơn, đậm đặc hơn và
sự lựa chọn, dung hòa giữa các hệ tư tưởng đó có ý nghĩa gì đối với quan niệm
sống, cách ứng xử của Nguyễn Bỉnh Khiêm? Đó là những vấn đề cần được khảo sát
cụ thể để tìm lời giải đáp thỏa đáng.
Mặt khác, hiện nay thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm được đưa vào giảng dạy trong
chương trình Trung Học Phổ Thông. Là một giáo viên, tôi nhận thấy những kiến
thức chuyên sâu liên quan đến tư tưởng, tình cảm của tác giả sẽ là nền tảng quan
trọng giúp tôi hiểu sâu hơn, giảng dạy tốt hơn tác phẩm văn học trung đại nói chung
và tác phẩm Nguyễn Bỉnh Khiêm nói riêng.
Với những lí do trên, tôi quyết định chọn đề tài “Ảnh hưởng nhân sinh quan
của Lão - Trang trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm” để thực hiện luận văn tốt nghiệp
của mình.
2. Lịch sử vấn đề
Từ trước đến nay, có khá nhiều công trình nghiên cứu, bài viết về cuộc đời và
tác phẩm Nguyễn Bỉnh Khiêm. Mỗi công trình có những góc nhìn riêng, những phát
hiện mới nhằm khẳng định giá trị và đóng góp của tác giả vào tiến trình phát triển
văn học. Trong quá trình nghiên cứu tìm hiểu về nhà thơ này, người viết đã thu thập
một số công trình, bài viết tiêu biểu sau:
Nguyễn Bỉnh Khiêm về tác gia và tác phẩm - Trần Thị Băng Thanh, Vũ
Thanh tuyển chọn và giới thiệu: Đây là công trình quy tụ 67 bài viết tập trung
nghiên cứu Nguyễn Bỉnh Khiêm ở nhiều phương diện. Trong đó phần thứ nhất tập
trung làm rõ thời đại ông sống, tư tưởng chính trị xã hội của Nguyễn Bỉnh Khiêm
3

qua thơ văn: “Nguyễn Bỉnh Khiêm giữa thế kỉ XVI đầy biến động”. Phần thứ hai
phác họa diện mạo tư tưởng nhà thơ với tư cách là ẩn sĩ, nho sĩ, cư sĩ: “Triết nhân
Nguyễn Bỉnh Khiêm - tư tưởng và nhân cách”. Phần thứ ba nêu những vấn đề chung
về sự nghiệp văn học, những thành tựu trong thơ văn chữ Hán và chữ Nôm của nhà
thơ: “Nguyễn Bỉnh Khiêm nhà thơ”. Phần thứ tư nhấn mạnh vị trí của nhà thơ trong
lòng dân tộc xưa và nay.
Nguyễn Bỉnh Khiêm trong lịch sử phát triển văn hóa dân tộc - Viện khoa
học và xã hội - Trung tâm nghiên cứu Hán Nôm: Công trình này tập hợp 28 bài
viết đi sâu khai thác hoàn cảnh lịch sử, thân thế, tư tưởng và thơ văn… của Nguyễn
Bỉnh Khiêm. Trong đó đáng chú ý là những bài viết ở phần thứ hai, các nhà nghiên
cứu đã đi sâu khai thác được vẻ đẹp tài hoa và nhân cách tuyệt vời của Bạch Vân cư
sĩ.
Thơ Văn Nguyễn Bỉnh Khiêm - Đinh Gia Khánh (chủ biên): Đây là bộ hợp
tuyển giới thiệu 161 bài thơ Nôm và gần 100 bài thơ chữ Hán của Nguyễn Bỉnh
Khiêm cùng với lời giới thiệu của tác giả Đinh Gia Khánh. Nội dung xoay quanh
vấn đề văn bản, giá trị tư tưởng và nghệ thuật của thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Nguyễn Bỉnh Khiêm qua Bạch Vân Am thi tập - Nguyễn Khuê: Đây là công
trình khá công phu gồm bốn phần, với các vấn đề lớn sau: hoàn cảnh lịch sử, cuộc
đời, tác phẩm Hán Nôm của nhà thơ; khai thác sâu thế giới tình cảm và tư tưởng của
Nguyễn Bỉnh Khiêm qua thơ; xác định giá trị nội dung và nghệ thuật của Bạch Vân
am thi tập và giới thiệu 102 bài thơ trong Bạch Vân am thi tập được dịch khá công
phu.
Tập kỉ yếu về trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm: Công trình được thực hiện
nhân kỉ niêm 500 năm ngày sinh của ông. Bao gồm 52 bài tham luận xoay quanh
những vấn đề về sự nghiệp sáng tác và cuộc đời của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh
Khiêm. Các bài viết được sắp xếp theo một chủ đề gồm bốn phần, trong đó phần
thứ nhất giới thiệu về quê hương Vĩnh Bảo và thời đại của ông; phần thứ hai, gồm
các bài viết trình bày cảm nhận sâu sắc của các nhà nghiên cứu về con người và tư
tưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm; phần ba đề cập đến sự nghiệp văn chương của Nguyễn
4

Bỉnh Khiêm với những lời bình sâu sắc; phần thứ tư là những ý kiến đáng trân trọng
về vị trí của Nguyễn Bỉnh Khiêm trong tâm thức con người hiện nay.
Ngoài ra còn có những công trình nghiên cứu khác có giá trị về Nguyễn Bỉnh
Khiêm của Bùi Duy Tân, Bùi Văn Nguyên, Mai Quốc Liên, Vũ Tiến Quỳnh, Vũ
Tiến Phúc, Trần Lê sáng… Điểm qua những công trình chủ yếu nêu trên để thấy
được mức độ quan tâm đặc biệt của các nhà nghiên cứu đối với Nguyễn Bỉnh
Khiêm, người được xem là cây đại thụ của văn chương thế kỷ XVI. Qua khảo sát
những công trình này, người viết nhận thấy có một số ý kiến quan trọng có liên
quan đến phạm vi khảo sát của đề tài, tiêu biểu như:
- Nguyễn Huệ Chi nhận định: “Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm là một hình thức
biểu hiện của ung dung tự tại, của một phong thái sống hồ hởi, cởi mở với tạo vật,
biết gắn mình với thiên nhiên, sống theo qui luật tự nhiên, hiểu được đến cội nguồn
cái đẹp chân chất của sự sống, cái đẹp hồn nhiên của sự chuyển dần, thay đổi luôn
diễn ra xung quanh mình…” [37, tr.391].
- Trần Thị Băng Băng và Vũ Thanh cho rằng: “Cái nhàn của Nguyễn Bỉnh
Khiêm là “cái nhàn triết học của một triết nhân” và cũng gợi ra Nguyễn Bỉnh
Khiêm là một nhà nho có bản lĩnh, một trí giả. Tìm đến với sự nhàn dật chính là
Nguyễn Bỉnh Khiêm đã tìm về với cái vụng, cái chuyết mà theo quan niệm của nho
gia, đã được điều chỉnh dưới cái nhìn của đạo Lão, mới là bản chất tự nhiên của sự
vật. Chính quan niệm nhàn dật đạt tới ý vị triết học đó đã tạo nên một Nguyễn Bỉnh
Khiêm - Bạch Vân cư sĩ tự do, tự tại, phản giác, hồn nhiên, lạc quan, khỏe khoắn,
rất hiếm thấy trong làng thơ nhàn thời trung đại” [37, tr.34].
- Trần Đình Hượu nhấn mạnh: “Nguyễn Bỉnh Khiêm coi mình là loại người
“chí để ở sự nhàn dật”, tự gọi mình là “ông nhàn”…Ông nhàn đặc biệt quan tâm
đến lạc thú nhưng thú vui của ông nhàn không phải là sự sung sướng theo lẽ thường
tình” [37, tr.130].
- Phạm Tú Châu lại đưa ra một nhận định khá sắc sảo về nhàn dật của Nguyễn
Bỉnh Khiêm: “Những bài thơ nói chí bằng chữ Hán cho người đọc thấy rõ Nguyễn
5

Bỉnh Khiêm tuy chí thích nhàn dật nhưng ông không để chí ở việc ẩn dật…” [37,
tr.355].
- Lê Trọng Khánh - Lê Anh Trà cho rằng: “Tính chất nhàn tản của Nguyễn
Bỉnh Khiêm thực chất không phải yếm thế, xu thời, ích kỷ và hoàn toàn hưởng lạc,
tư tưởng nhàn tản của Nguyễn Bỉnh Khiêm có những khía cạnh tích cực, phù hợp
với tư tưởng hành đạo của Nho giáo. Cái nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm là một lối
phản ứng của tầng lớp nho sĩ bất lực trước thời cuộc lúc bấy giờ, phản ứng bằng
hình thức tiêu cực nhưng vẫn bao hàm một nội dung đấu tranh bằng phương pháp
theo lẽ tự nhiên” [37, tr.247].
- Lê Trí Viễn nhìn nhận: “Xa lánh chốn phồn hoa, sống một cuộc đời giản dị,
thanh bạch, bạn bè với sách vở, với thơ rượu; đó là cảnh nhàn, cảnh “vô sự”, đó là
thái độ ẩn dật, phong thái phóng khoáng của tác giả” [37, tr.476].
- Trường Lưu, Phạm Vũ Dũng, Băng Thanh: “Một nét mới của ẩn sĩ Nguyễn
Bỉnh Khiêm là dù tàng, dù ẩn nhưng không ngoảnh đi, trái lại ông chăm chú nhìn
vào đời, sẵn sang làm những gì đời cần đến, chỉ miễn là không phải lao vào vòng
danh lợi, làm hoen ố tấm lòng trung trinh của một nhà nho chí sĩ” [37, tr.146].
- Các tác giả bộ Lịch sử Việt Nam: “Trong thơ văn ông có tố cáo cảnh thối
nát của xã hội, phê phán thói đời xấu xa, nhưng chủ đề nổi bật là ca ngợi chữ
“nhàn”…Tư tưởng của ông là sự kết hợp giữa hệ ý thức Nho giáo và tư tưởng Lão
Trang” [29, tr.306].
Nhìn chung, có khá nhiều bài viết đề cập đến những ảnh hưởng của nhân sinh
quan Lão - Trang trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, nhiều ý kiến đánh giá hết sức xác
đáng và thuyết phục mà người viết xem là cơ sở quan trọng để tiếp tục phát triển
trong quá trình nghiên cứu. Tuy nhiên, cần khẳng định rằng vẫn chưa có một công
trình chuyên sâu nghiên cứu một cách toàn diện về những ảnh hưởng của nhân sinh
quan Lão - Trang trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Tư liệu chúng tôi dùng để khảo sát thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm phục vụ cho luận
văn là Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm - Đinh Gia Khánh, Nxb Văn học, Hà Nội
6

(1983), Nguyễn Bỉnh Khiêm qua Bạch Vân am thi tập - Nguyễn Khuê, Nxb TP.
HCM, 1997 và các sách có liên quan đến thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng như
con người thời đại mà ông đang sống. Từ đó mà hiểu rõ hơn về tư tưởng nhân cách
của ông cũng như cảm thụ đúng hơn nội dung tác phẩm thơ văn của ông.
Tư tưởng Lão - Trang ảnh hưởng trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm ở cả hai
phương diện nội dung và hình thức nghệ thuật. Luận văn chủ yếu xem xét ảnh
hưởng trên phương diện nội dung, cụ thể là xem xét sự tác động của tư tưởng Lão -
Trang đến cảm hứng sáng tác để hình thành nội dung trong thơ Nguyễn Bỉnh
Khiêm. Trong quá trình phân tích những khía cạnh nội dung, chúng tôi cũng khảo
sát những yếu tố nghệ thuật có liên quan đến học thuyết Lão - Trang được dùng như
phương tiện thể hiện những nội dung đó.
Bên cạnh đó chúng tôi còn tìm hiểu thêm các tư liệu khác mà nội dung đề cập
đến Đạo giáo, Nho giáo, Phật giáo góp phần hỗ trợ đắc lực để làm sáng tỏ nội dung
đề tài.
Đề cập đến Lão - Trang còn có các khái niệm Đạo gia và Đạo giáo. Luận văn
chỉ xem xét ảnh hưởng tư tưởng Lão - Trang trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm mà
không xem xét tất cả những gì thuộc về Đạo gia hay Đạo giáo.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong bài viết này người viết sử dụng một số phương pháp nghiên cứu chính
sau:
Phương pháp phân tích - tổng hợp: Nhằm chỉ ra những biểu hiện cụ thể của
tinh thần Lão - Trang trong những câu thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Sau đó chúng
tôi khái quát lại vấn đề nhằm nhấn mạnh một lần sự ảnh hưởng của tư tưởng Lão -
Trang trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Phương pháp thống kê: Chúng tôi thu thập những câu chữ thể thể hiện tư
tưởng Lão - Trang nhằm giúp cho thao tác phân tích được rõ ràng và thuyết phục
hơn.
Phương pháp tiếp nhận: Góp phần lí giải sự tồn tại sự song song của ba
luồng tư tưởng trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, đặc biệt là luồng tư tưởng Đạo giáo.
7

Phương pháp thực chứng tiểu sử: Giúp người đọc có cơ sở hiểu thêm về con
người và cách hành xử của nhà thơ.
5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Dựa trên những thành tựu cũng như những vấn đề chưa được giải quyết một
cách triệt để trong thực tiễn nghiên cứu ảnh hưởng nhân sinh quan Lão - Trang
trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, luận văn này nhằm hướng đến giải quyết những vấn
đề sau:
- Khảo sát, phân tích những biểu hiện nhân sinh quan Lão - Trang trong thơ
Nguyễn Bỉnh Khiêm chủ yếu ở phương diện nội dung. Cụ thể là tìm những
khía cạnh của tư tưởng Lão - Trang đã tác động đến việc hình thành cảm
hứng sáng tác ở nhà thơ.
- Xác định mức độ ảnh hưởng nhân sinh quan Lão - Trang trong thơ Nguyễn
Bỉnh Khiêm từ đó thử đưa ra những lí giải về nguyên nhân của sự ảnh hưởng
này nhằm có cái nhìn tổng quan về tâm sự của Nguyễn Bỉnh Khiêm được gửi
gắm qua thơ.
- Không chỉ dừng lại tư tưởng của Nguyễn Bỉnh Khiêm dưới ảnh hưởng của
nhân sinh quan Lão - Trang, mà qua những tập thơ của ông chúng tôi còn
mong muốn phân tích sự dung hòa trong việc hội nhập cả hai luồng tư tưởng
khác là Nho học và Phật học trong thơ ông. Từ đó có cái nhìn, cách hiểu
đúng hơn về nhà thơ.
6. Kết cấu của luận văn
Sau khi xác định lý do chọn đề tài, lịch sử vấn đề, đối tượng và phạm vi
nghiên cứu, mục đích và phương pháp nghiên cứu, nhằm làm rõ những yêu cầu mà
đề tài đặt ra, chúng tôi trình bày hướng phát triển của đề tài như sau:
Chương 1: Khái quát về tác giả - tác phẩm Nguyễn Bỉnh Khiêm và tư
tưởng Lão - Trang
Ở phần này chúng tôi chỉ trình bày một cách khái quát về cuộc đời và thân thế,
sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm. Đồng thời cung cấp thêm vài
nét về cuộc đời Lão Tử, Trang Tử và hai sáng tác của hai vị Đạo gia này với những
8

nội dung cơ bản nhất. Qua đó cho thấy sự ảnh hưởng của tư tởng Lão - Trang vào
văn học trung đại Việt Nam, trong đó có nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Chương 2: Những biểu hiện của nhân sinh quan Lão - Trang trong thơ
Nguyễn Bỉnh Khiêm
Ở phần này chúng tôi không đi một cách chung chung, sơ lược ở dạng phác
thảo như chương 1, mà chúng tôi dừng lại đi sâu phân tích chỉ ra sự ảnh hưởng cụ
thể của tư tưởng Lão - Trang trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm ở những khía cạnh
riêng như: Biết dừng lại, quay về với cuộc sống ẩn dật, thanh cao - một biểu hiện
của tinh thần tri túc, cầu nhàn. Hoà hợp, gắn bó với thiên nhiên và cuộc sống làng
quê - một biểu hiện của tinh thần vô vi, tiêu dao. Xem công danh như áng phù vân -
một biểu hiện của quan niệm “Đời là giấc mộng”.
Chương 3: Tương quan Nho - Phật - Đạo và những yếu tố nhân sinh quan
tích cực trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Chương này người viết đi vào phân tích làm rõ sự đa nhân cách trong con
người Nguyễn Bỉnh Khiêm để thấy rằng nhà thơ rất linh hoạt trong phương cách
ứng xử của mình. Đồng thời qua đó thấy được nhà thơ không hẳn phụ đạo quên đời
khi chọn lựa lối sống theo Lão - Trang.
Phần kết luận: Kết luận ngắn gọn về những vấn đề đã trình bày ở phần nội
dung, khẳng định lại vị thế của Nguyễn Bỉnh Khiêm trong lòng người dân Việt.
9

B. NỘI DUNG
Chương 1. KHÁI QUÁT VỀ TƯ TƯỞNG LÃO – TRANG VÀ TÁC
GIẢ, TÁC PHẨM NGUYỄN BỈNH KHIÊM

1.1. Tác giả, tác phẩm Nguyễn Bỉnh Khiêm


1.1.1. Tác giả
Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh năm Tân Hợi (1491), còn có tên là Văn Đạt, tên chữ
là Hạnh Phủ, hiệu là Bạch Vân cư sĩ, người làng Trung Am, Xã Lý Học, huyện
Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Ông mất ngày 28 tháng 11 năm Ất Sửu (17/01/1585), sống
gần trọn thế kỉ XVI đầy biến động.
Ông xuất thân trong một gia đình Nho học. Tổ phụ là Văn Tĩnh được ấm
phong Thiếu bảo Tư quận công. Tổ mẫu là Phạm Thị Trinh Huệ được ấm phong
Chinh phu nhân. Ông ngoại là thượng thư bộ Hộ Nhữ Văn Lan. Cha là Nguyễn Văn
Định, hiệu Cù Xuyên tiên sinh, học rộng đức cao, được phong Thái bảo Nghiêm
quận công, được sung chức Thái học sinh. Ông là người thông minh, có tài văn thơ,
thông kinh kịch, giàu nghị lực, có chí khí khác thường, có công lớn trong việc dạy
dỗ Nguyễn Bỉnh Khiêm. Thân mẫu họ Nhữ được phong Từ Thục phu nhân. Bà
thông kinh sử, giỏi văn chương, tinh thông thuật số. Xét cho cùng thì Nguyễn Bỉnh
Khiêm thừa hưởng nhiều điều tốt đẹp từ gia đình, chính những phẩm chất nổi trội,
ưu tú từ cha và mẹ đã tôi luyện và cho ra đời một Nguyễn Bỉnh Khiêm lỗi lạc, được
mọi người tôn kính cho đến ngày nay.
Tương truyền Nguyễn Bỉnh Khiêm thông minh từ nhỏ, tư chất hơn hẳn người
thường, một tuổi đã nói sõi, năm tuổi đã thuộc nhiều thơ ca quốc âm do mẹ dạy
truyền khẩu. Lớn lên, ông được theo học Bảng nhãn Lương Đắc Bằng (người Lạch
Triệu, Hoằng Hóa, Thanh Hóa) - một vị quan thanh liêm, một người thầy xuất sắc
nên ông đã sớm hấp thu những phẩm chất tốt đẹp đó. Có thể nói thời thơ ấu của
Nguyễn Bỉnh Khiêm nằm trong giai đoạn được coi là thịnh trị nhất của nhà nước
phong kiến theo thể chế Nho giáo ở Việt Nam. Thế nhưng những ngày này đối với
Nguyễn Bỉnh Khiêm thật ngắn ngủi.
10

Dựa vào các cột mốc lịch sử và những hoạt động, chúng tôi chia cuộc đời của
nhà thơ làm ba chặng:
Chặng thứ nhất: tính từ thời niên thiếu đến năm 1534: Ngay từ thuở ấu thơ
Nguyễn Bỉnh Khiêm được mẹ nuôi dạy, chăm sóc cẩn thận cả về thể lực và trí lực.
Đến tuổi trưởng thành Nguyễn Bỉnh Khiêm được học với quan hưu trí Hộ bộ
Thượng thư Dương Đức Nhan và trở thành con rể của ông. Sau đó, Nguyễn Bỉnh
Khiêm nghe tiếng cụ Bảng nhãn Lương Đức Bằng là bậc văn chương cái thế, bèn
lặn lội tìm đến học. Đây là khoảng thời gian trong triều đình và ngoài xã hội có
nhiều biến động: nội chiến phi nghĩa, cướp bóc loạn lạc, sưu cao thuế nặng, nhân
dân đói khổ lầm than cơ cực…
Trong khoảng thời gian 1523 và 1526, triều Lê Tương Dực có mở khoa thi
nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn mai danh ẩn tích. Cho đến khi Mạc Dăng Dung
cướp ngôi nhà Lê, nhà Mạc đã có một số chính sách mới nhằm ổn định trật tự xã
hội, thúc đẩy sự phát triển của đất nước về mọi mặt. Vì thế, uy tín nhà Mạc được
củng cố, và được một số quan lại nhà Lê cũ phò trợ đắc lực. Thời điểm này nhà Mạc
cũng tổ chức một số khoa thi như thi Hương, thi Hội để kén chọn nhân tài, các sĩ tử
hưởng ứng rất đông nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn ẩn cư dạy học, lấy đạo làm vui,
chẳng cầu danh tiếng.
Cho đến năm 1530, khi Mạc Đăng Doanh lên ngôi, nhà thơ tự nhận mình chưa
bằng Khổng Tử, chưa thấu suốt được lẽ đương nhiên của tạo vật, còn băn khoăn
chưa xác định được hướng đi, còn trăn trở là có nên ứng thí để đem đạo học ra giúp
nước cứu đời được hay không, vì con đường trước mặt còn đen tối như mực.
Chặng thứ hai: tính từ lúc ra làm quan (1535 - 1542): Nguyễn Bỉnh Khiêm
quyết định nhập thế. Mặc dù đã 44 tuổi, ông vẫn đi thi Hương và đỗ giải Nguyên
khoa Giáp ngọ dưới triều Mạc Đăng Doanh (1534). Năm 1535 dự thi Hội bốn kì
đều đạt giải nhất, đỗ Hội nguyên; dự thi Đình, đỗ Trạng nguyên. Làm quan được 8
năm, ông dâng sớ xin chém đầu 18 tên nịnh thần nhưng không được vua Mạc chấp
thuận. Tiếp đó lấy cớ con rể Phạm Dao cậy quyền thế làm nhiều điều bất nghĩa, ông
thác bệnh xin về trí sĩ vào thời Mạc Phúc Hải (1543).
11

Chặng thứ ba: Tính từ năm 1543 đến 1585. Trong thời gian ở ẩn, Nguyễn Bỉnh
Khiêm dựng am Bạch Vân, bắc hai chiếc cầu Nghinh Phong và Tràng Xuân, tu bổ
chùa chiền, dựng một ngôi quán gọi là Trung Tân trên bến Tuyết Giang, được học
trò tôn xưng là Tuyết Giang Phu tử. Trong Công dư tiệp kí, Vũ Phương Đề cho
rằng tuy Nguyễn Bỉnh Khiêm ẩn cư dạy học nhưng với tài đức cao vời vợi của
Trạng Trình, vua Mạc vẫn lấy “sư lễ” đãi ông. Những khi nhà nước có việc gì quan
trọng, triều đình đều sai sứ đến hỏi, có khi triệu ông về kinh thung dung trù liệu kế
hoạch, rồi lại trở về am chứ không ở lại. Bên cạnh đó cả những người phù Lê cũng
luôn tôn trọng, vị nể Nguyễn Bỉnh Khiêm. Sau 2 năm Mạc Phúc Hải gia phong cho
ông chức Trình Tuyền hầu (Hầu Tước khơi nguồn dòng suối triết học của họ Trình).
Người đời thường gọi ông là Trạng Trình.
Với một tấm lòng nhân đạo, Nguyễn Bỉnh Khiêm luôn mong muốn cho đất
nước được thịnh vượng, thái bình. Với sự uyên thâm vốn có, ông nhận thấy vận
mệnh của đất nước trong hoàn cảnh bi đát này không thể trao vào tay bất cứ một lực
lượng chính trị nào. Bởi vì lúc này các tập đoàn phong kiến quyết chiến với nhau
chỉ vì muốn tranh giành quyền lực. Vì vậy tương truyền để tránh những cuộc binh
đao khói lửa lan tràn đến cuộc sống của nhân dân, ông đều bày cho các phe phái
những phương sách khác nhau để giữ thế “chân vạc”. Chẳng hạn năm 1568,
Nguyễn Hoàng thấy anh là Nguyễn Uông bị Trịnh Kiểm hãm hại, sợ mầm họa sẽ
xảy ra cho bản thân, đã ngầm cho thân cận đến hỏi Nguyễn Bỉnh Khiêm về kế an
thân. Được ông mách bảo: “Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân” (Dựa vào một
dải Hoành sơn có thể lập nghiệp được lâu dài), Nguyễn Hoàng liền xin anh rể là
Trịnh Kiểm cho vào trấn thủ đất Thuận Hóa (từ Đèo Ngang trở vào) và sống bình
yên trong nhiều năm. Thời ấy tại kinh thành Thăng Long, chúa Trịnh cũng ra sức ức
hiếp vua Lê, làm nhiều điều bạo ngược kể cả có ý định muốn phế bỏ vua Lê. Khi
chúa Trịnh cho người đến hỏi ý kiến của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông không trả lời
mà lẳng lặng dẫn sứ giả của triều đình ra thăm chùa và nói nói với nhà sư trong
chùa: “Giữ chùa thờ phật thì ăn oản” (Ngụ ý muốn khuyên chúa Trịnh cứ tôn thờ
nhà Lê thì quyền hành sẽ nắm trong tay, nếu tự ý phế lập sẽ dẫn đến chiến tranh).
12

Riêng đối với nhà Mạc, sau nhiều trận đánh diễn ra liên miên, nhà Mạc phải bỏ
chạy lên Cao Bằng. Vua Mạc có ý cho người về hỏi ý kiến Nguyễn Bỉnh Khiêm,
ông đã trả lời “Cao Bằng tuy tiểu, khả diên sổ thế” (Cao Bằng tuy đất hẹp nhưng có
thể giữ được vài đời). Quả nhiên mãi đến năm 1688, sau ba đời giữ đất Cao Bằng,
nhà Mạc mới bị diệt. Sở dĩ nhân dân đưa ra những truyền thuyết trên là vì muốn
chứng minh rằng Nguyễn Bỉnh Khiêm có tài tiên đoán, do nắm được bí truyền của
sách Thái ất thần kinh. Ngoài ra còn có rất nhiều truyền thuyết khác về Trạng Trình
trong tập Trình quốc công sấm kí. Thực hư, có hay không có, khẳng định hay phủ
định sự việc còn là vấn đề mà các học giả Việt Nam cần phải nghiên cứu kĩ để trả
lại vị trí xứng đáng cho Nguyễn Bỉnh Khiêm trong lòng dân tộc và cả trên lĩnh vực
văn học. Một điều chắc chắn là đối với nhân dân Việt Nam Nguyễn Bỉnh Khiêm
thật sự là nhà học giả “thượng thông thiên văn, hạ đạt địa lí, trung tri nhân sự”. Và
trong thời gian trí sĩ ở điền viên, ông chính là một người thầy mẫu mực, cao minh
đã đào tạo biết bao danh sĩ tài năng cho đất nước như Giáp Hải, Lương Hữu Khánh,
Phùng Khắc Khoan, Nguyễn Quyện…
Tuy nhiên, Nguyễn Khuê khi nghiên cứu Bạch Vân am thi tập cho rằng
Nguyễn Bỉnh Khiêm sau khi lui về ở ẩn vẫn mang trong mình tấm lòng nhiệt huyết
của kẻ mang “tấm lòng tiên ưu đến già chưa thôi” nên vẫn tiếp tục nhận lời mời
của vua Mạc mà ra làm quan, trực tiếp tham gia những cuộc chinh phạt của triều
Mạc ở phía Tây nữa rồi mới quy lão ở tuổi 73 (1563).
Đến ngày 28 tháng 11 năm Diên Thành thứ 8 (1585) Nguyễn Bỉnh Khiêm mất
hưởng thọ 95 tuổi. Mạc Hậu Hợp sai Mạc Kính Điển đến dự tế, truy phong Thượng
thư bộ Lại, Thái phó Trình quốc công và tặng mấy chữ trước cửa ở đền thờ: “Mạc
triều Trạng nguyên Tể tướng từ”.
1.1.2. Tác phẩm
Tuyết Giang Phu Tử có nói là rất vụng trong nghề thơ, tuy nhiên khi nghiên
cứu thơ văn của ông, người viết nhận thấy sự nghiệp văn chương của Trạng Trình là
tấm gương sáng về quá trình lao động sáng tạo không ngừng. Tác giả đã để lại cho
13

đời một di sản thơ đồ sộ chứa đựng nhiều tư tưởng thâm sâu, nhiều bài học giáo hóa
rất thiết thực cho đời.
Về chữ Hán có Bạch Vân am thi tập, Trung Tân quán bi kí, Thạch khánh kí
và một số bài văn tế. Theo Bạch Vân am thi tập tiền tự do chính tác giả viết thì thơ
chữ Hán có khoảng 1000 bài. Hiện nay số còn lại chỉ khoảng hai phần ba. Tập thơ
là tiếng nói của con người nhập thế hành đạo, vừa là tiếng nói của một cao sĩ ẩn dật,
vừa là tiếng nói của một con người ưu thời mẫn thế.
Về chữ Nôm có Bạch Vân quốc ngữ thi tập (còn gọi là Trình quốc công
Bạch Vân quốc ngữ thi tập) với khoảng 170 bài thơ. Thơ Nôm Nguyễn Bỉnh
Khiêm làm theo thể Đường luật và Đường luật xen lục ngôn. Thơ không có đề mục
cho từng bài và từng môn loại. Nội dung xoay quanh một số đề tài nhất định: sự suy
tàn của đạo đức phong kiến, cuộc đời nhàn dật, phong cảnh thiên nhiên, ý nghĩ về
bổn phận với vua, với nước.
Ở hai tập thơ chúng ta nhận thấy ở nhà thơ một tư tưởng thoát li mang đậm
dấu ấn tư tưởng Lão - Trang. Đó là tư tưởng tiêu dao, nhàn phóng coi nhẹ cuộc đời,
coi nhẹ công danh, thoát mình khỏi chốn cạnh tranh, vui chơi với thiên nhiên, với
thơ rượu.
Ngoài thơ Nôm, trong dân gian còn lưu hành nhiều câu sấm Trạng. Các tập
sấm kí Nôm thường mang tên Trạng Trình và phần lớn viết theo thể lục bát như
Trình quốc công sấm kí, Trình tiên sinh quốc ngữ. Sấm Trạng Trình là một hiện
tượng văn học cần phải được tìm hiểu và xác minh thêm. Theo Phả kí của Vũ
Khâm Lân, Nguyễn Bỉnh Khiêm còn có bài phú bằng quốc âm. Bài phú này hiện
nay vẫn chưa được tìm thấy.
Nguyễn Bỉnh Khiêm có phong cách thơ rất riêng không lẫn với các nhà thơ
cùng thời mặc dù vẫn tuân theo nguyên tắc sáng tác thơ văn trung đại. Thơ văn
Nguyễn Bỉnh Khiêm mang đậm chất triết học nhưng vẫn gần gũi và dễ tiếp nhận.
Đặc biệt là hai tập thơ chữ Hán và chữ Nôm, chất triết thể hiện rõ rệt và đậm nét
nhất - triết học đạo gia, mà đại diện tiêu biểu là Lão Tử và Trang Tử. Đọc thơ ông,
người đọc rất dễ dàng nhận ra sự ảnh hưởng ấy.
14

1.2. Lão Tử và Đạo Đức Kinh, Trang Tử và Nam Hoa Kinh


1.2.1. Lão Tử và Đạo Đức Kinh
1.2.1.1. Lão Tử
Lão Tử tức chưa rõ năm sinh, năm mất, nhưng theo ý kiến chung nhất là ông
sống vào khoảng thế kỉ thứ VI - V trước công nguyên, là một nhà tư tưởng vĩ đại
của Trung Hoa cổ đại, là người sáng lập trường phái Đạo gia (đạo Lão). Ông tên
thật là Lý Nhĩ, tên thường gọi là lão Đam, người làng Khúc Nhân, hương Lệ, nước
Sở. Ông làm chức quan giữ sách nhà Chu, học rộng biết nhiều, sau về quê ở ẩn. Về
giai thoại của Lão Tử: Tương truyền, trước khi về ở ẩn đến cửa quan, viên quan coi
cửa là Doãn Hỉ bảo: “Ông sắp đi ở ẩn, ráng vì tôi mà viết sách để lại”. Thế là Lão
Tử viết một cuốn sách chỉ gồm khoảng năm ngàn chữ bàn về “Đạo” và “Đức” (tức
Đạo Đức Kinh). Viết xong rồi bỏ đi, về sau không ai còn nghe đến, không biết sống
chết ra sao.
1.2.1.2. Đạo Đức Kinh
Cuốn Đạo Đức Kinh tổng cộng gồm có 81 chương, hơn 5000 chữ Hán gồm có
hai thiên, thiên trước bàn về Đạo (Thượng Kinh), thiên sau bàn về Đức (Hạ Kinh).
Thượng Kinh gồm 37 chương, bắt đầu bằng câu: “Đạo khả Đạo phi thường Đạo”.
Hạ Kinh gồm 44 chương, bắt đầu bằng câu: “Thượng Đức bất Đức thị dĩ hữu Đức”.
Tư tưởng của Lão Tử truyền lại trong tác phẩm Đạo Đức Kinh rất phong phú và
uyên thâm, dù trải qua mấy ngàn năm người đọc vẫn có thể tiếp thu được những
điều bổ ích.
1.2.2. Trang Tử và Nam Hoa Kinh
1.2.2.1. Trang Tử
Trang Tử (369 - 286 TCN) tên là Chu, người nước Tống, huyện Mông, Ở
khoảng giữa hai tỉnh Sơn Đông và Hồ Nam ngày nay. Ông là một nhà Lão học danh
tiếng nhất trong làng Lão học cổ điển. Theo Sử ký mục “Lão Trang Thân Hàn Liệt
truyện”, ông đồng thời với vua Huệ Vương nước Lương và Tuyên Vương nước Tề,
tức là đồng thời với Mạnh Tử. Là nhà tư tưởng lớn trong phái Đạo gia, là người kế
tục tư tưởng của Lão Tử. Cũng như Lão Tử, tư liệu sớm nhất chép về Trang Tử là ở
15

bộ Sử ký của Tư Mã Thiên. Sử gia Tư Mã Thiên viết về Trang Tử khá vắn tắt:


“Trang tử, người đất Mông, tên Chu, làm quan lại ở Vườn Sơn (Tất Viên)” sau đó
sống ẩn dật cho đến cuối đời. Nhưng điều chắc chắn là Trang Tử sống cùng thời với
Mạnh Tử và Huệ Thi thời Lương Huệ Vương và Tề Tuyên Vương. Đất Mông được
xác định nằm trong đất Tống, thuộc tỉnh Hà Nam (Trung Quốc) ngày nay. Trang Tử
là một trong những nhà tư tưởng đặc biệt vào loại hạng nhất thời ấy, rất giỏi kể
chuyện, có sức tưởng tượng vô cùng phong phú. Tác phẩm Nam Hoa Kinh của
Trang Tử viết theo thể văn xuôi, mang màu sắc ngụ ngôn. Ở cuốn sách này Trang
Tử có sự nhất trí về quan điểm, tư tưởng với Lão Tử. Ông và Lão Tử được xem là
hai tác giả nồng cốt của Đạo gia và làm nên học thuyết Lão - Trang, một trào lưu tư
tưởng ở Trung Quốc cổ đại có ảnh hưởng mạnh mẽ từ xưa tới nay, từ phương Đông
tới phương Tây.
1.2.2.2. Nam Hoa Kinh
Có người lý giải, sở dĩ bộ sách có tên Nam Hoa Kinh (hay còn gọi là Nam
Hoa Chân Kinh) bởi nó được viết khi Trang Tử ở ẩn tại núi Nam Hoa thuộc nước
Tống. Đây là bộ sách mà Kim Thánh Thán liệt vào hạng nhất trong lục tài tử thư
của Trung Quốc.
Bản lưu hành ngày nay gồm 33 chương, chia làm ba phần:
Nội thiên - gồm 7 thiên có tựa đề là: Tiêu dao du, Tề vật luận, Dưỡng sinh
chủ, Nhân gian thế, Đức sung phù, Đại tôn sư, Ứng đế vương.
Ngoại thiên - gồm 15 thiên có tựa đề là: Biền mẫu, Mã đề, Khư khiếp, Tại
hựu, Thiên địa, Thiên đạo, Thiên vận, Khắc ý, Thiện tính, Thu thủy, Chí lạc, Đạt
sinh, Sơn mộc, Điền tử phương, Tri bắc du.
Tạp thiên - gồm 11 thiên: Canh tang sở, Từ vô quỉ, Tắc dương, Ngoại vật,
Ngụ ngôn, Nhượng vương, Đạo chích, Thuyết kiếm, Ngư phủ, Liệt ngự khấu, Thiên
hạ.
1.3. Hành trình du nhập của tư tưởng Lão - Trang vào Việt Nam
Với cốt lõi là lối hành xử thuận theo tự nhiên, tinh thần phóng khoáng, chuộng
tự do, yêu thiên nhiên, theo đuổi lối sống tiêu dao, tự tại, tư tưởng Lão - Trang có
16

một sức hấp dẫn đặc biệt đối với nhiều nghệ sĩ từ cổ chí kim trên hầu khắp các quốc
gia nằm trong vùng ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa. Ở Việt Nam, trong suốt thời kỳ
trung đại, biểu hiện của sự ảnh hưởng này trong văn học tuy đậm nhạt khác nhau ở
từng giai đoạn cụ thể nhưng chúng ta đều có thể tìm thấy sự có mặt tư tưởng Lão -
Trang trong nhiều tác phẩm của các nhà thơ, nhà văn lớn. Khi nghiên cứu “Ảnh
hưởng nhân sinh quan Lão - Trang trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm”, chúng tôi cũng
muốn khảo sát sự ảnh hưởng của tư tưởng này trong cả tiến trình văn học trung đại
để có một cái nhìn bao quát và có hệ thống. Chúng tôi vẫn biết rằng để có được một
cái nhìn toàn diện và đưa ra những kết luận với những luận cứ xác đáng mang tính
khoa học cao cho cả một tiến trình văn học dài cả ngàn năm đòi hỏi mất nhiều thời
gian và công sức. Trong khuôn khổ của luận văn này, chúng tôi sẽ cố gắng đưa ra
những nét lớn về ảnh hưởng tư tưởng Lão - Trang trong tiến trình văn học trung đại
Việt Nam.
Các nhà nghiên cứu thường gọi sự ảnh hưởng “tư tưởng Lão - Trang” là sự ảnh
hưởng “Đạo gia - Đạo giáo”. Tuy nhiên cũng nên có sự phân biệt ở đây. Theo
chúng tôi, khi nói đến tư tưởng Lão - Trang là nói đến hệ thống triết thuyết mà Lão
- Trang đề xướng. Nói đến Đạo gia là nói đến những người có cùng tư tưởng hoặc
theo khuynh hướng tư tưởng Lão - Trang, lấy Đạo làm hạt nhân để xây dựng triết
thuyết của mình. Những người sống gần với Lão - Trang thuộc Đạo gia có thể kể
đến như Dương Tử, Liệt Tử … Còn Đạo giáo là tổ chức tôn giáo lấy triết thuyết của
Lão - Trang làm nền tảng thuyết lý và nâng lên thành những hoạt động mang tính
chất tín ngưỡng như học cách tu tiên, xây dựng những nhân vật thần tiên trong một
thế giới thần tiên để ngưỡng vọng, luyện phép thuật, luyện thuốc trường sinh bất
lão... và tất cả đã thông qua sự tiếp nhận của nhà thơ nhà văn mà đi vào thế giới thơ
văn. Suy cho cùng tất cả đều xuất phát từ lý thuyết về Đạo mà Lão - Trang xây
dựng. Những từ ngữ, hình ảnh từ Đạo gia - Đạo giáo đi vào thơ văn cũng chính là
sản phẩm nảy sinh từ tư tưởng Lão - Trang mà thôi. Cho nên khi xem xét ảnh
hưởng của tư tưởng Lão - Trang trong tiến trình văn học trung đại Việt Nam, chúng
tôi cũng xem xét cả những yếu tố ảnh hưởng thuộc về Đạo gia - Đạo giáo. Có xem
17

xét những yếu tố này chúng ta sẽ thấy được một quá trình vận động đi từ sự ảnh
hưởng ở phương diện tôn giáo đến phương diện triết học của học thuyết Lão -
Trang.
Văn học trung đại Việt Nam là cả một chặng đường dài có thể tính tròn mười
thế kỉ. Trong đó có nhiều biến cố lịch sử xảy ra làm thay đổi sâu sắc đời sống chính
trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và tất nhiên có cả văn học. Khi khảo sát ảnh hưởng của
tư tưởng Lão - Trang trong tiến trình văn học trung đại Việt Nam chúng tôi nhận
thấy cần xem xét sự thâm nhập, tồn tại và tác động của các khuynh hướng tư tưởng
trong mối tương quan với bối cảnh lịch sử xã hội, chính trị của thời kỳ đó. Mỗi một
thời kỳ, một giai đoạn với bối cảnh lịch sử xã hội, chính trị khác nhau sẽ quyết định
sự tồn tại hay mức độ ảnh hưởng của từng khuynh hướng tư tưởng đối với xã hội
nói chung và văn học nói riêng. Vì vậy, chúng tôi dựa vào quan điểm phân kỳ văn
học gần đây để vừa lý giải, vừa chỉ ra sự ảnh hưởng của tư tưởng Lão - Trang trong
tiến trình văn học trung đại Việt Nam. Theo đó văn học trung đại Việt Nam trải qua
bốn giai đọan:
- Từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIV
- Từ thế kỉ XV đến hết thế kỉ XVII
- Từ thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX
- Nửa cuối thế kỉ XIX
Nhưng do giới hạn đề tài nghiên cứu người viết chỉ tìm hiểu sự thâm nhập và
ảnh hưởng tư tưởng Lão - Trang ở hai giai đoạn: Từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIV và
thế kỷ XV đến thế kỷ XVI.
1.4. Ảnh hưởng của tư tưởng Lão - Trang trong văn học Việt Nam trước thế
kỷ XVI
1.4.1. Ảnh hưởng của tư tưởng Lão - Trang trong văn học thế kỷ X - XIV
Hơn một thế kỷ đất nước chúng ta chịu sự đô hộ và kiểm soát của đất nước
Trung Hoa nên việc chịu ảnh hưởng và tiếp biến văn hóa từ Trung Hoa là điều
không tránh khỏi. Và hệ tư tưởng đầu tiên ở Trung Quốc có ảnh hưởng đến Việt
Nam là Nho giáo với những nội dung chủ yếu như: mệnh trời, đức trị và chính
18

danh, đạo đức với những đại diện ưu tú bậc nhất thời bấy giờ Chu Công Đáng,
Khổng Tử, Mạnh Tử, Đổng Trọng Thư… Tuy nhiên tư tưởng Nho giáo không đáp
ứng được nhu cầu đời sống chính trị, xã hội bấy giờ. Bên cạnh Nho giáo thì Phật
giáo cũng đóng một vai trò rất lớn không thể thiếu trong ý thức xã hội phong kiến
Việt Nam, ý niệm phật giáo chủ yếu xoay quanh hai vấn đề cơ bản: Đạo phật quan
niệm vạn vật không do một thượng đế nào làm ra mà do vận động của bản thân nó,
đạo phật quan niệm cuộc đời là bể khổ, và muốn giải thoát khỏi bể khổ ấy thì phải
biết tu tâm. Phật giáo có nhiều tông phái mà nổi trội lên hết ở Việt Nam là phái
Thiền Tông. Tuy nhiên trong quá trình hội nhập hai học thuyết này ít nhiều đã bộc
lộ những hạn chế và thiếu sót của mình, không đủ khả năng dẫn dắt con người thoát
khỏi bể khổ nhân sinh, cho nên Đạo giáo xuất hiện. Đạo giáo chủ trương vô vi,
nghĩa là thuận theo tự nhiên mà sống, đơn giản hóa chính trị, nới lỏng pháp luật,
hình thành ở con người một lối sống tiêu dao, phóng nhiệm, không màng nhân thế,
ưa thích thiên nhiên và nhàn tản. Người sáng lập ra Đạo giáo đầu tiên phải kể đến là
Lão Tử, Trang Tử mới là người tiếp nối và phát triển tư tưởng của ông. Ở hai bậc
Đạo gia này về tư tưởng có rất nhiều điểm tương đồng và thống nhất, cho nên sau
này người ta thống nhất tên gọi Đạo gia và những tư tưởng của Đạo gia là tư tưởng
Lão - Trang hay học thuyết Lão - Trang. Ba hệ tư tưởng trên đây đều nhập vào nước
ta vào thời kì phong kiến phương Bắc thống trị nên có sự giao thoa với nhau. Đặc
biệt là ở buổi đầu từ thế kỷ X đến thế kỷ XIV, ba hệ tư tưởng này đều được coi
trọng theo chủ trương tam giáo đồng nguyên.
Văn học trung đại Việt Nam ra đời cùng với sự ra đời của quốc gia Đại Việt
sau chiến thắng của Ngô Quyền năm 938, chiến thắng đã mở ra một thời kỳ độc lập
tự chủ của dân tộc. Nhân dân ta giành được độc lập sau cả ngàn năm mất nước, chịu
cảnh bị đô hộ cho nên nhiệm vụ quan trọng nhất của giai đoạn lịch sử này là xây
dựng quốc gia thống nhất, độc lập, tự chủ và chống ngoại xâm. Chính vì thế, sự
kiện loạn 12 sứ quân sau khi Ngô Quyền mất đã không ngăn cản được đà phát triển
ý thức độc lập tự cường của dân tộc. Loạn 12 sứ quân bị dẹp tan, nhà Đinh và Tiền
Lê tiếp tục công cuộc của Ngô Quyền dang dở. Nhà Lý, nhà Trần tiếp nối bằng việc
19

phát triển đất nước về mọi mặt và nâng vị thế quốc gia lên một tầm cao mới. Để
khẳng định nền độc lập của mình, nhà nước phong kiến Đại Việt một mặt phải củng
cố kinh tế vững chắc, quân đội hùng mạnh, một mặt phải xây dựng nền văn hóa
riêng biệt. Bên cạnh đó, nhà nước phong kiến Đại Việt còn có ý thức sử dụng văn
hóa như một phương tiện thống trị. Do đó các vương triều Lý, Trần đã khéo kết hợp
những thành tựu văn hóa dân tộc dân gian với các hệ tư tưởng mà từ lâu giai cấp
thống trị Trung Quốc xem như nền tảng tinh thần của chế độ phong kiến như Nho,
Phật, Lão. Đầu thế kỉ thứ X khi nước nhà giành được độc lập thì Phật giáo và Đạo
giáo đang rất thịnh hành vì đã được các triều đại Trung Hoa, nhất là nhà Đường
khuyến khích, đề cao. Tuy nhiên, có đôi chỗ quan điểm của Phật giáo và Đạo giáo
tỏ ra không phù hợp với quyền lợi của nhà nước nhất là trong việc củng cố địa vị
thống trị và mở mang cơ đồ. Nho giáo đã trở thành công cụ đắc lực trong việc kiện
toàn bộ máy nhà nước và mở mang bở cõi. Ngoài việc đều đặn tổ chức các kỳ thi
Nho học, nhà nước phong kiến ở giai đoạn này còn mở trường Quốc tử giám, lập
Văn miếu để thờ các vị thánh hiền của Nho gia. Nhà nước phong kiến Đại Việt tuy
đề cao Nho giáo nhưng vẫn giữ sự dung hòa với Phật giáo và Đạo giáo. Việc tổ
chức kỳ thi Tam giáo vào thời vua Lý Cao Tông năm 1195 là một bằng chứng. Vì
thế giai đoạn này thịnh hành quan niệm “tam giáo đồng nguyên”. Có thể nói rằng,
chính bối cảnh lịch sử xã hội của thời kỳ đầu giành độc lập cùng với đường lối, sách
lược của nhà nước phong kiến Đại Việt đã tạo điều kiện cho các hệ tư tưởng khác
nhau thâm nhập vào nước ta, trong đó có tư tưởng Lão - Trang được cụ thể hóa
bằng hình thức Đạo giáo.
Dấu vết tư tưởng Lão - Trang ảnh hưởng đến văn học giai đoạn này thông qua
hình thức giáng bút, giáng thiên thư của Đạo giáo. Trong triết học Lão - Trang ta
gặp khái niệm “thiên cơ” nhằm để chỉ một guồng máy (cơ) vận hành mọi thứ trong
vũ trụ theo nguyên lý tự nhiên (thiên). Điều này được Đạo giáo xây dựng thành
đấng tạo hóa, là hóa công, là Ngọc Hoàng hay Thượng Đế, người có quyền quyết
định mọi thứ trên đời. Thiên cơ thường được tiết lộ hay báo trước một sự việc sắp
xảy ra bằng lời sấm truyền thường là một bài thơ gọi là sấm thi. Đại Việt sử ký toàn
20

thư và Đại Việt sử lược đều trích dẫn câu sấm báo trước như sau: “Đỗ Thích thí
Đinh Đinh/Lê gia xuất thánh minh/Cạnh đầu đa hoành tử/Đạo lộ tuyệt nhân
hành...”. Bài thơ được dịch là: Đỗ Thích giết hai Đinh (Đinh Tiên Hoàng và Đinh
Liễn)/Họ Lê xuất hiện bậc thánh minh (chỉ Lê Hoàn)/Tranh nhau nhiều kẻ chết oan
uổng/Đường sá vắng hẳn người qua lại. Cũng trong Đại Việt sử ký toàn thư và Đại
Việt sử lược có ghi một bài sấm thi ngầm dự báo một loạt sự kiện về sự thay đổi và
kế tiếp nhau ở các triều đại Đinh, tiền Lê, Lý, Trần. Các thiền sư như Định không,
Vạn Hạnh cũng có những bài sấm thi như thế.
Sự xuất hiện những bài sấm thi trong bối cảnh thay đổi triều đại, nhất là sự
“dọn đường” của các nhà sư có uy tín trong triều cho Lý Công Uẩn lên ngôi đã cho
ta thấy Đạo giáo được sử dụng với mục đích chính trị rõ rệt và sức ảnh hưởng lớn
của Đạo giáo đối với đời sống tinh thần của xã hội.
Đến đời nhà Trần có lẽ do hoàn cảnh xã hội đã thay đổi nên hầu như không
thấy sấm thi xuất hiện. Đến cuối đời Trần, khi Hồ Quý Ly thao túng quyền binh
trong triều và mọi người nhận thấy rằng sẽ có một cuộc soán ngôi, lúc này mới xuất
hiện bài Xích chủy hầu được cho là của Trần Duệ Tông. Theo Đại Việt Sử ký Toàn
thư, tháng 3 năm 1394, vua Trần Nghệ Tông chiêm bao thấy vua em Trần Duệ
Tông đem quân đến và đọc bài thơ báo vận mệnh của nhà Trần sẽ hết.
Các yếu tố liên quan đến Đạo giáo trong giai đoạn này còn xuất hiện ở loại thơ
hành chánh. Ở trong bài Thơ Thần (Nam quốc sơn hà), bản tuyên ngôn độc lập đầu
tiên của nước ta được cho là của Lý Thường Kiệt, ta thấy có từ “thiên thư” (“Tiệt
nhiên định phận tại thiên thư”) là một thuật ngữ của Đạo giáo nhằm để chỉ việc
“giáng bút” của đấng linh thiêng tối cao. Trước đó, một bài thơ được sáng tác với
mục đích ngoại giao của một nhà sư cũng đã xuất hiện các từ ngữ có nguồn gốc Đạo
gia. Đó là bài từ có tên là Vương lang quy, được Khuông Việt thiền sư làm theo
lệnh của vua Lê Đại Hành khi tiễn sứ thần Lý Giác. Trong bài thơ có từ “thần tiên”
và “đế hương”. Từ “đế hương” ngoài nghĩa là nơi vua ở còn có nghĩa là tiên cung,
nơi tiên ở. Những từ này được dùng nhiều trong các tác phẩm thơ văn của các tác
gia Trung Hoa thuộc Đạo gia như Trang Tử, Đào Tiềm, Bào Chiếu, Lưu Hương...
21

Có lẽ cảm quan Đạo giáo đã nâng cảm xúc của một vị thiền sư bay bổng nên những
từ trên vừa có sắc thái trang trọng phù hợp với tính chất ngoại giao vừa đậm đà thi
vị.
Trong bài thơ - kệ Quốc tộ, khi được hỏi về vận nước Pháp Thuận thiền sư đã
dùng chữ “vô vi” để trả lời vua Lê Đại Hành (Vô vi cư điện các). Thuật ngữ “vô vi”
được cả Phật giáo và Đạo giáo sử dụng, nhưng từ này có vai trò cốt lõi trong việc
phản ánh tư tưởng Lão - Trang. Pháp Thuận thiền sư đã mượn thuyết “vô vi nhi trị”
của Lão Tử để khuyên nhà vua lưu tâm đến đường lối trị nước.
Do chủ trương “tri giả bất ngôn, ngôn giả bất tri” (Lão Tử) nên những người
theo tư tưởng Lão - Trang thường ít để lại những trước tác trình bày về quan điểm,
tư tưởng của mình. Thơ văn trực tiếp nói đến tư tưởng, giáo lý của đạo gia lại càng
hiếm. Trong một cuộc thi thố phép thuật của một nhà sư và một đạo sĩ, vua Lý
Nhân Tông đã làm một bài tán sử dụng từ ngữ liên quan đến Đạo giáo: “Giác Hải
tâm như hải - Thông Huyền đạo diệc huyền - Thần thông kiêm biến hóa - Nhất phật
nhất thần tiên” (Giác Hải tâm như biển - Thông huyền đạo rất huyền - Thần thông
và biến hóa - Một người là Phật, một người là Thần tiên).
Vào thời Lý - Trần, các thiền sư còn mượn những thuật ngữ xuất phát từ triết
thuyết của Lão - Trang để chuyển tải tư tưởng, giáo lý Phật giáo. Có thể thấy điều
này trong các bài kệ của những thiền sư như Hiện Quang, Chân Không, Tuệ Trung
thượng sĩ, vua Trần Thánh Tông... các thuật ngữ thường được vay mượn đó là: vô
vi, tiêu dao, trùng huyền, thần tiên, hoàn đan, hoán cốt, hòa quang đồng trần... hay
các điển tích: Hứa chân quân, Từ Phúc, Quách Phác, Hoàng diện công (Lão Tử),
điệp mộng... ví dụ trong bài kệ Cảm hoài, Chân Không thiền sư viết: “Nhân nhân
tận thức vô vi lạc - Nhược đắc vô vi thủy thị gia” (Ai nấy đều thấu hiểu vô vi là vui
- Nếu được vô vi thì mới coi là nhà). Vô vi ở đây được hiểu là vô vi pháp, tức là
những cảnh giới bất biến, không sinh, không diệt. Sự vay mượn này cho thấy cách
tiếp nhận rất cởi mở của Phật giáo thông qua những thiền sư tinh thông tam giáo và
có tinh thần phóng khoáng, đồng thời cho thấy sức hấp dẫn của tư tưởng Lão -
Trang đối với các tôn giáo khác.
22

Từ những điều đã trình bày ở trên chúng ta có thể nhận định rằng: sự ảnh
hưởng của tư tưởng Lão - Trang đến văn học thời Lý trở về trước chủ yếu thể hiện
trên bề mặt câu chữ bằng những thuật ngữ, hình ảnh, điển tích... phản ánh những
hoạt động, phương thuật mang tính chất tôn giáo của Đạo giáo ở các loại thơ sấm
vĩ, hành chính, thuyết lý được gọi chung là thơ chức năng. Đến đời Trần, sự ảnh
hưởng của tư tưởng Lão - Trang đến văn học được mở rộng sang các loại hình thơ
nghệ thuật. Sự thâm nhập có biểu hiện tinh tế hơn, cách chuyển hóa vào trong thơ
đa dạng hơn, nhất là ở mảng thơ trữ tình.
Mang dấu ấn tư tưởng Lão - Trang rõ nét nhất là ở thơ vịnh cảnh. Những vị
vua đầu đời Trần có những bài thơ vịnh cảnh mà ở đó cảm quan thế giới Đạo gia đã
gợi thi hứng cho nhà thơ. Cách nhìn của những vị vua này về cảnh đẹp thiên nhiên
của quê hương đất nước là cảnh tiên, cảnh bồng lai, thượng giới, con người như
cũng thoát tục, hòa nhập, đắm mình với thiên nhiên. Ông vẽ nên cảnh hành cung
Thiên Trường với những vẻ đẹp lung linh, huyền ảo và thoát tục như thế:
…Thập nhị tiên châu thử nhất châu
…Nguyệt vô sự chiếu nhân vô sự
(Hạnh Thiên Trường hành cung - Trần Thánh Tông)
Trong bài Cư trần lạc đạo phú, vua Trần Nhân Tông có viết: “Núi hoang rừng
quạnh, ấy là nơi dật sĩ tiêu dao; Triền vắng am thanh, chỉn thực cảnh đạo nhân du
hí” thì đó chính là sự thừa nhận một cách thú vị của nhà vua đối với tư tưởng của
Đạo gia. Trong thơ của vị tổ Thiền Trúc Lâm này ta thấy tư tưởng triết học “tiêu
dao du” của Trang Tử đã thăng hoa thành tứ thơ đẹp lung linh, huyền ảo để nhà thơ
vẽ nên một cảnh tiên nơi hạ giới. Sự thăng hoa cảm hứng thơ từ những điểm nội
dung trong triết học Lão - Trang như thế ta còn thấy trong thơ của vua Trần Anh
Tông (Đông cảnh), Phạm Sư Mạnh (Đăng Dục Thuý sơn lưu đề), Trần Nguyên
Đán (Đề Huyền Thiên Tử Cực cung), Nguyễn Phi Khanh (Đề Tiên Du tự)…
Ở loại thơ cảm hoài - cảm khái, Lão - Trang để lại dấu ấn bằng tư tưởng cuồng
phóng tiêu dao, tự do tự tại trong thơ của nhiều thi sĩ đời Trần. Trước tiên phải kể
23

đến Tuệ Trung Thượng Sĩ, một quý tộc, một danh tướng, một nhà thiền học đầu đời
Trần. Ông nổi tiếng với bài Phóng cuồng ngâm, trong đó có những câu như:
“Đốt đốt phù vân hề phú quý,
Hu hu quá khích hề niên quang”
(Ối ối! Giàu sang chừ, lưng trời mây nổi
Chà chà! Năm tháng chừ, bóng ngựa lướt ngang!)
Cùng mang âm hưởng như bài thơ trên, Tuệ Trung Thượng Sĩ còn có những
bài khác như Giang hồ tự thích, Thế thái hư huyễn...
Đến cuối đời Trần, khi triều đại bắt đầu suy vong, tư tưởng thoát tục của Lão -
Trang có dịp thâm nhập vào những vần thơ cảm khái của những nhà thơ bắt đầu băn
khoăn trước thời cuộc. Ta bắt gặp điều này trong bài Đề Nguyệt Giản Đạo Lục thái
cực chi Quan Diệu đường của Trần Nguyên Đán (Doanh Châu, Bồng Đảo biết là ở
đâu, không ham muốn, không tham lam, ta là tiên…)
Cùng tồn tại với Nho giáo và Phật giáo nhưng rõ ràng tư tưởng Lão - Trang có
sức ảnh hưởng đến văn học giai đoạn thế kỉ X đến XV không bằng những triết
thuyết thuyết tôn giáo khác. Tuy nhiên sự thâm nhập của tư tưởng Lão - Trang vào
văn học cũng thể hiện ở nhiều cấp độ: từ mục đích, phương thức sáng tác, đề tài,
cảm hứng, đến ngữ liệu, điển cố… Mặc dù phải tồn tại bên cạnh Nho, Phật và đôi
khi với hình thức đạo thuật, nghi thức tôn giáo nhưng tư tưởng Lão - Trang vô hình
chung đã ngầm tác động đến tâm hồn, tâm lý sáng tạo của thi nhân, làm phong phú
thêm diện mạo văn học của giai đoạn này.
1.4.2. Ảnh hưởng của tư tưởng Lão - Trang trong văn học thế kỷ XV - XVI
Triều Trần suy vong, Hồ Quý Ly tiếm ngôi nhà Trần mở ra triều đại nhà Hồ
(1400-1407). Triều Minh lấy cớ phò Trần diệt Hồ sang xâm lược nước ta. Lê Lợi
sau đó dấy binh khởi nghĩa và khởi nghĩa Lam Sơn kéo dài suốt 10 năm (1418-
1427). Lê Lợi lên ngôi mở ra triều đại Hậu Lê (1428-1789). Nhà Lê đi vào xây
dựng đất nước và đạt tới cực thịnh vào thế kỉ XV. Nhà nước phong kiến Hậu Lê đã
biết tận dụng những điều kiện của một quốc gia vừa giành được độc lập, một dân
tộc vừa mới được giải phóng để phục hồi và phát triển kinh tế đất nước. Bộ máy nhà
24

nước phong kiến lúc này được xây dựng chặt chẽ hơn: Chính quyền đời Lê đã trở
thành một nhà nước quân chủ chuyên chế, đồng thời là một nhà nước phong kiến
quan liêu. Để đào tạo, tuyển chọn nhân sự cung cấp cho bộ máy chính quyền đó,
nhà Lê đã lập ra Quốc tử giám ở kinh đô, mở trường học ở các địa phương. Việc thi
cử được tổ chức thường xuyên, tổ chức có nề nếp và và qui mô ngày càng mở rộng.
Điều đó cho thấy Nho học đã phát triển đến độ cực thịnh vào thế kỉ XV. Phật giáo
và Đạo giáo không còn giữ vị trí là tôn giáo được coi trọng như thời Lý, Trần nữa.
Bên cạnh đó nhà nước phong kiến đời Lê đã ít nhiều hạn chế sự phát triển của Phật
giáo và Đạo giáo. Văn học nửa đầu thế kỉ XV với âm hưởng chủ đạo là anh hùng ca
nhưng đâu đó trong góc khuất tâm hồn của những anh hùng hậu chiến tranh vẫn trỗi
lên nỗi niềm riêng tư về thời cuộc. Họ tìm đến tư tưởng Lão - Trang. Nguyễn Trãi,
Lý Tử Tấn, Nguyễn Thiên Tích, Lê Thiếu Dĩnh, Nguyễn Phu Tiên... là những
trường hợp như thế. Trong thơ của Lý Tử Tấn nhiều bài Tạp hứng bộc lộ quan
điểm nhân sinh rất gần với nhân sinh quan Lão - Trang. Hay tâm sự của Lê Thiếu
Dĩnh trong bài Trạch thôn cố viên, cũng là tâm sự chung của nhiều kẻ sĩ đương
thời.
Nửa sau thế kỉ XV, văn học mang tính quan phương. Tuy nhiên Phật giáo và
Đạo giáo vẫn có những ảnh hưởng lớn trong xã hội. Ngay cả Lê Thánh Tông, một
ông vua chuộng Nho giáo cũng viết:
“Gió thông đưa kệ tan niềm tục,
Hồn bướm mơ tiên lẫn sự đời”
Trong Hồng Đức quốc âm thi tập có những bài thể hiện lối sống ẩn dật, ca
tụng lối sống nhàn tản như Lạc tửu IV, Đề Lục Vân Động của Thân Nhân Trung,
Đỗ Nhuận…
Chế độ phong kiến đã phát triển cực thịnh vào thời vua Lê Thánh Tông. Tuy
nhiên bên trong cung đình nhà Hậu Lê không tránh khỏi xung đột. Đặc biệt là sau
khi Lê Thánh Tông qua đời, quan lại nhiều lần chia bè phái đánh nhau. Mạc Đăng
Dung do có công dẹp loạn mà có nhiều quyền binh trong tay, thậm chí lấn át cả vua.
Đến năm 1527 thì Mạc Đăng Dung phế truất ngôi vua và lập ra nhà Mạc. Từ đây
25

lịch sử Việt Nam bước vào thời kì đen tối nhất: thời kì nội chiến. Cuộc chiến Lê -
Mạc, Trịnh - Nguyễn đã cản trở quá trình phát triển của đất nước. Nho giáo vẫn
được đề cao, vẫn được sử dụng để củng cố trật tự phong kiến. Tuy nhiên do sự suy
yếu của chế độ phong kiến, việc học hành, thi cử cũng như nho phong sĩ khí ngày
càng đồi bại, đạo Nho ngày càng suy vi. Mặt khác, do chiến tranh loạn lạc kéo dài,
cuộc sống đầy đau thương tang tóc đã nảy sinh nhu cầu muốn biết trước thời thế và
tìm một thế giới bình an đã làm cho Phật giáo và Đạo giáo có điều kiện chấn hưng.
Những kẻ sĩ có lương tâm thì tìm đến triết thuyết của Lão - Trang như một chỗ dựa
tinh thần. Nổi bật là các nhà nho ẩn dật như Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Dữ...
Ảnh hưởng Đạo học sâu sắc hơn cả là Nguyễn Bỉnh Khiêm. Quan niệm về vũ
trụ nhân sinh của Nguyễn Bỉnh Khiêm tuy có nguồn gốc từ Dịch lý nhưng ta vẫn
thấy ở đó có sự ảnh hưởng của tư tưởng Lão - Trang. Ông thường hay nhắc đến
trong thơ luận điểm triết học về lẽ tương sinh, tương khắc, họa phúc dựa vào nhau -
một lối xử thế của Lão - Trang:
“Hoa càng khoe nở hoa nên rữa,
Nước chứa cho đầy nước ắt vơi”
(Bạch Vân quốc ngữ thi, bài 52)
Nguyễn Bỉnh Khiêm chọn một lối sống “nhàn”. “Nhàn”, “tiên”, “vô sự” là
nội dung quan trọng trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông viết:
“Rồi nhàn thì nhàn tiên vô sự,
Ngâm ngợi cho nên cảnh hữu tình”
(Bạch Vân quốc ngữ thi, bài 15)
Một học trò nổi tiếng của Nguyễn Bỉnh Khiêm là Phùng Khắc Khoan. Ông là
nhà nho tích cực xuất thế, hết lòng theo giúp nhà Lê Trung Hưng. Khi về già ông
thường ngao du đây đó, thăm thú các danh lam thắng cảnh, cùng bạn bè vui với bầu
rượu túi thơ. Tuy nhiên phần thơ chịu ảnh hưởng tư tưởng Lão - Trang lại được làm
lúc ông bị đày ở thành Nam khi còn trẻ, gồm có Đào nguyên hành, Ngư phủ nhập
đào nguyên và Lâm tuyền vãn, hiện chỉ còn Lâm tuyền vãn mở đầu bằng những
câu:
26

“Vô sự là tiểu thần tiên,


Gẫm xem cảnh thú lâm tuyền chăng vui?”
Nguyễn Dữ, một người sống cùng thời với Nguyễn Bỉnh Khiêm, nổi tiếng với
tập truyện được xem là “thiên cổ kỳ bút”: Truyền kỳ mạn lục, tác phẩm có cả tư
tưởng của Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo và văn hóa dân gian. Riêng tư tưởng Lão -
Trang ảnh hưởng đến tác phẩm này ở việc tác giả xây dựng bối cảnh truyện, nhân
vật, hướng giải quyết mâu thuẫn... mà truyện Từ Thức lấy vợ tiên, Chuyện đối đáp
của người tiều phu ở núi Na (Na sơn tiều đối lục) là những ví dụ. Từ Thức treo ấn
từ quan, ngao du sơn thủy lạc vào động tiên mới được một năm mà khi quay về trần
thế mà đã gần cả trăm năm. Ông tiều trong Na sơn tiều đối lục vừa đi vừa ngâm:
Mặc ai xe ngựa/ Mặc ai phố phường/ Nước non riêng chiếm, bụi đời không vương
nhưng Hồ Hán Thương chỉ gặp được một lần như trong giấc chiêm bao.
Bối cảnh lịch sử xã hội giai đoạn thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XVI đã làm cho
văn học có diện mạo riêng. Nho giáo trên bước đường suy thoái đã không còn giữ
được vai trò là tư tưởng chủ đạo. Trong khi đó Phật giáo và Đạo giáo tiếp tục mở
rộng ảnh hưởng đến đời sống xã hội lúc bấy giờ. Tư tưởng Lão - Trang thâm nhập
vào các tác phẩm văn học thông qua các nhà văn nhà thơ bất mãn trước thời cuộc và
những người có tinh thần tự do phóng khoáng. Điều này cho thấy tư tưởng Lão -
Trang khơi gợi nơi người sáng tác không chỉ cảm hứng triết học mà còn cảm hứng
nghệ thuật nữa.
27

Chương 2. NHỮNG BIỂN HIỆN NHÂN SINH QUAN CỦA LÃO -


TRANG TRONG THƠ NGUYỄN BỈNH KHIÊM
2.1. Biết dừng lại, quay về với cuộc sống ẩn dật, thanh cao - một biểu hiện của
tinh thần tri túc, cầu nhàn.
2.1.1. Tri túc, cầu nhàn - một vấn đề cơ bản trong tư tưởng Lão - Trang
Quan niệm tri túc thường lạc là một triết lí truyền thống mang đậm dấu ấn
văn hóa của dân tộc Trung Hoa. Tri túc là hài lòng với những gì mình có, với cái mà
trời ban cho. Giống như chuyện con chim cưu, con ve thấy chim bằng bay được
mấy nghìn dặm, từ biển Bắc sang biển Nam với đôi cánh rộng lớn. Hai con thấy vậy
chỉ cười rồi nói: “Điêu dữ học cưu tiếu chi viết: Ngã quyết khởi nhi phi thương du
phương, thời tắc bất chí, nhi khống ư địa nhi dĩ hĩ. Hề dĩ chi cửu vạn lý nhi nam vi.
Thích mảng thương giả, tam xan nhi phản, phúc du quả nhiên. Thích bách lí giả, túc
thung lương. Thích thiên lí giả, tam nguyệt tựu lương” [1, tr.108] (Ta quyết bay vụt
lên cây du, cây phượng. Như bay không tới thì có rơi xuống đất thôi chứ không sao!
Bay cao chín muôn dặm sang qua Nam mà làm gì? Ta thích bay đến mấy cánh đồng
gần đây, ăn ba miếng no bụng rồi về. Nếu ta đến chỗ xa trăm dặm, thì ta có lương
thực mỗi ngày. Còn nếu ta đến chỗ xa ngàn dặm, thì ta có ba tháng lương thực).
Vậy, lớn thì thuận theo chỗ lớn, không tự lớn mà sinh kiêu nên không thấy mình
lớn; nhỏ thì thuận theo chỗ nhỏ, nên không thấy mình là nhỏ. Như con chim cưu
bay vụt lên cây du, cây phượng dù bay không tới thì rơi xuống đất đâu cần phải ham
muốn cái rộng lớn như chim bằng.
Con người cũng vậy. Trang Tử nói: “Cố phù trí hiệu nhất quan, hạnh tỉ nhất
hương, đức hợp nhất quân năng trưng, nhất quốc giả, kỳ tự thị dã, diệc nhược thử
hĩ” [1, tr.119] (Có người tài trí đủ để làm một chức quan, có người hạnh làm gương
được cho một làng, có người đức đáng làm vua mà được cả nước phục, nhưng dù
thuộc hạng nào thì cũng đều tự cảm thấy an vui như thế). Điều đó cũng có nghĩa là
sống với một thái độ bất đãi, nghĩa là không chờ đợi điều gì, không mong hơn cái
mà mình đáng được hưởng.
28

Mọi sự tranh chấp đều bắt nguồn từ lòng tham không biết thế nào là đủ của
con người. Lão Tử có nói: “Họa mạc đại vu bất tri túc, cữu mạc đại vu dục đắc. Cố
tri túc chi túc, thường túc hĩ” [30, tr.58] (Họa không gì lớn bằng là không biết thế
nào là đủ, hại không gì là ham muốn vượt bậc. Cho nên biết thế là đủ và thỏa mãn
về cái đủ đó thì luôn luôn thấy đủ). Sở dĩ cái sự biết đủ thì luôn luôn đủ như thế là
vì đấy là bí quyết của quân bình trong trường vận động lưu hành của các thế lực tự
nhiên trong trời đất. Đạo trời bớt cái thừa mà bù chỗ không đủ. “Thiên chi đạo tổn
hữu dư, nhi bổ bất túc”. Còn đạo của người thì trái lại, không như thế cho nên trong
nhân loại hay mất quân bình vậy.
Muốn tri túc và bất đãi con người phải biết quả dục (giảm thiểu dục vọng).
Lão Tử có chỉ ra rằng: “kiện tố, bão phác, thiểu tư, quả dục” [29, tr.31] (biểu hiện
sự mộc mạc, giữ sự chất phác, giảm tư tâm, bớt dục vọng). Quả dục để dần dẫn đến
vô dục. Ta phải hiểu chữ vô ở đây như trong chữ vô vi. Có nghĩa là không phải
không ham muốn bất cứ thứ gì mà chỉ là không ham muốn những gì vượt ra ngoài
những nhu cầu tối thiểu tự nhiên của con người.
Tư tưởng Lão - Trang đề cao thái độ dứt khoát, ứng xử hợp lý khi đã ở đỉnh
cao công danh, phải biết đủ để lui về, sống đời nhàn tản, ung dung. Đây là một
phương thức sống chủ động và sáng suốt, một biểu hiện của minh triết phương
Đông.
2.1.2. Nhàn - cách ứng xử thức thời và chủ động của Nguyễn Bỉnh Khiêm
Nguyễn Bỉnh Khiêm là tác giả tiêu biểu của một giai đoạn văn học. Các sáng
tác của ông là tiếng nói chung của cả một tầng lớp trí thức dân tộc phải sống trong
buổi suy vi của chế độ phong kiến. Nổi bật trong tiếng nói ấy là chữ “nhàn”. Về mặt
này xưa nay đã có những luồng ý kiến khác nhau. Phan Huy Chú thì cho rằng
Nguyễn Bỉnh Khiêm hành hay tàng đều có thể xem là được hướng dẫn bởi những
quy tắc tư tưởng nho gia “dụng chi tắc hành, xả chi tắc tàng”, “an bần lạc đạo”
mà các bậc á thánh trong làng nho Trung Quốc và Việt Nam đã nêu gương như
Nhan Hồi, Tăng Điểm, Chu An. Còn các nhà nghiên cứu ngày nay như Lê Trí Viễn
cũng nghĩ đến những nguyên nhân khiến Nguyễn Bỉnh Khiêm lui về ở ẩn là thời thế
29

loạn lạc, nhà Mạc suy thoái không xứng đáng là một mẫu hình triều đại lí tưởng,
không có khả năng sử dụng người tài… Song xuất phát từ truyền thống hội nhập
tam giáo Nho, Phật, Lão nhiều học giả lại lí giải rằng triết lí nhàn dật của Nguyễn
Bỉnh Khiêm có nội dung Lão - Trang và cả Phật giáo. Đó là sự lánh đời tìm đến
cách sống thanh cao, hòa đồng cùng tự nhiên.
Một con người suốt đời ôm niềm ưu dân, ái quốc tại sao có thể dễ dàng phủi áo
ra đi bỏ lại tâm huyết của cả đời mình như vậy. Phải chăng có một sự bức bách rất
dữ dội mà chỉ có những người trong cuộc mới có thể lí giải hết được.
Sống trong thời buổi nhiễu nhương, quyết định ra đi của nhà thơ là dễ dàng
thấu hiểu. Nhà Mạc đã không giống như kỳ vọng của Nguyễn Bỉnh Khiêm, là một
vương triều lí tưởng chúa thánh, tôi hiền, người dân được sống trong cản thái bình,
thịnh trị “Vua Nghiêu Thuấn, dân Nghiêu Thuấn”. Trái lại, triều đại này đã bộc lộ
quá nhiều hạn chế, càng ngày càng trở nên mục ruỗng và thối nát, không hồi cứu
vãn. Bằng những vần thơ của mình ông đã ghi lại chân thật thảm cảnh đất nước điên
đảo dưới triều Mạc lúc bấy giờ.
Trong bài Tăng thử, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã ví bọn thống trị tàn ác như loài
chuột tham lam, ăn bám chỉ “chui vào góc thành, ẩn trong hang hốc ở nền xá”, núp
vào đó để tính “mưu gian”, để “ngấm ngầm ăn trộm, ăn vụng”, “quét sạch tài sản
của nhân dân”, gây ra cảnh tượng thê lương khắp nơi. Bọn chúng chẳng khác gì
phường sâu dân mọt nước, làm cho dân cùng, nước kiệt. Một thực tế nữa cũng
khuấy động tâm hồn nhà thơ đó là sự đen bạc của cảnh đời: con người tham lam,
hám tiền, trọng lợi hơn nghĩa, coi rẻ tình nghĩa, kể cả tình cha con, anh em, vợ
chồng, bà con. Tiền của như mật, như mỡ, như nhị kết, hoa thơm mà con người thì
như ong, như kiến, như ruồi. Người đời không những tham lam mà hiểm giảo. Con
người ích kỷ, tự thiên, tham lam, gì cũng muốn vơ hết về mình “Lập danh, cỡi hạc
lại đeo tiền” (Bạch Vân quốc ngữ thi, bài 124). Tác giả than thở:
“Hiểm mạc hiểm thế đồ,
Bất tiễn tiện kinh cức.
Nguy mạc nguy nhân tâm,
30

Nhất phóng tiện qui quắc”


(Trung Tân ngụ hứng)
(Không gì hiểm bằng đường đời,
Không cắt đi thì toàn là gai góc.
Không gì nguy bằng lòng người,
Buông lỏng ra thì đều là quỷ quái)
(Thơ ngụ hứng ở quán Trung Tân)
Quan trường thì hiểm trở, đầy sóng gió, ở đó con người ta sống với nhau bằng
hận thù, ganh ghét, lừa lọc, thậm chí sẵn sàng chà đạp lên nhau miễn sao dành cái
lợi ích về phần mình. Cụ Trạng đã sớm nhận ra một thực tế đau lòng mà dường như
đã trở thành quy luật ở chốn “lao xao” ấy: nơi nào có công danh thì nơi đó tất có
hiểm họa. Danh và lụy đi đôi với nhau như một cặp phạm trù nhân quả không thể
tách rời, trong đó “danh” là nguyên nhân và “lụy” là kết quả:
“Mùi thế gian nhiều mặn lạt,
Đường danh lợi có chông gai”
(Bạch Vân quốc ngữ thi, bài 40)
“Vì danh cho phải danh làm lụy”
(Bạch Vân quốc ngữ thi, bài 18)
“Vì danh cho phải lụy đôi phen”
(Bạch Vân quốc ngữ thi, bài 22)
Ở mãi trên đống công danh, bao bọc bởi cuộc sống giàu sang, phú quý nếu
không bị hãm hại thì con người lúc nào cũng phải sống trong sự nom nớp, lo âu
không biết tai họa sẽ giáng xuống mình lúc nào:
“Mọi sự chăng còn mắc mớ,
Nỗi hay vụng liệu phải lo”
(Bạch Vân quốc ngữ thi, bài 27)
Thế nên Lão Tử khuyên người đời khi đã được mãn doanh, đã hội đủ công
danh, phú quý thì phải sớm liệu lui về ẩn dật, nếu không ắt bị kẻ khác hãm hại, khó
giữ được trọn vẹn thân thể và danh giá của mình: “Danh dữ thân thục thân? Thân
31

dữ hóa thục đa? Đắc giữ vong thục bệnh? Thị cố thâm ái tất đại phí, đa tàng tất
hậu vong” và chủ trương “khứ thậm, khứ xa, khứ thái” [29, tr.56] (bỏ những gì thái
quá). Nguyễn Bỉnh Khiêm ý thức được điều đó, nhà thơ không để công danh làm
mờ mắt mình mà luôn luôn chủ động trong vấn đề xuất xử. Ông đã có sự lựa chọn
đúng đắn: dứt khoát lìa bỏ công danh để bảo toàn thanh danh, tính mệnh của mình
mà không chút luyến tiếc:
“Nẻo có công danh thì có lụy,
Cho hay dù có chẳng bằng chăng”
(Bạch Vân quốc ngữ thi, bài 16)
“Bất ư phú quý, lý nguy ky (cơ),
Tố đắc nhàn trung dữ lão kỳ”
(Sang giàu chẳng ở, hiểm nguy thôi!
Tuổi cả quay về sống thảnh thơi)
(Ngụ Hứng, H.30)
Ở Việt Nam, Nguyễn Trãi đời Lê, Nguyễn Văn Thành đời Nguyễn cũng vì
thịnh danh mà phải chết một cách oan uổng. Ở địa vị cao sang rất nguy hiểm, vì dễ
bị nhà vua ngờ vực, các quan ganh ghét hãm hại. Lão Tử cho rằng để có được lối
sống “thảnh thơi” con người phải biết “tri túc”. “Tri túc” là hài lòng với những gì
mình có, với cái mà trời ban cho. “Tri túc thường lạc” là một đúc kết rất có ý nghĩa
đối với con người, nhất là khi mà con người cứ mãi lao vào cuộc đua tranh để đạt
đến đỉnh cao của tiền tài và danh vọng mà không biết rằng đôi khi tai họa đang chực
chờ ở phía trước. Cho nên muốn khỏi lụy thân thì phải sớm biết đủ (tri túc) và biết
dừng lại (tri chỉ) “Tri túc bất nhục, tri chỉ bất đãi, khả dĩ trường cửu” [29, tr.56].
Tinh thông Dịch lí, hơn ai hết Nguyễn Bỉnh Khiêm hiểu rằng “Vật cực tắc phản” và
thường đề cập đến lẽ doanh hư: đầy ắt phải đổ nên nhà thơ coi việc giới mãn doanh
là một cách giữ mình, và cho rằng người ta ở địa vị càng cao lại càng phải thận
trọng đừng để cho quá đầy, phải biết làm cho nó vơi đi:
“Cố ngã cư nguy cụ mãn doanh”
(Tạ Cao Xá hữu nhân tỉnh bệnh thuật hoài, H.55)
32

(Xét tôi ở nơi cao rất sợ sự quá đầy)


(Cảm tạ bạn Cao Xá thăm hỏi bệnh tình, tỏ bày hoài cảm, H.55)
“Tự cổ thành công giới mãn doanh”
(Lưu đề Đoan quốc công, H.64)
(Từ xưa muốn thành công phải giữ đừng để cho quá đầy)
(Đề thơ để lại Đoan quốc công, H.64)
“Hễ lộc triều quan đã có ngần,
Làm chi tham được, nhọc băn khoăn?”
(Bạch Vân quốc ngữ thi, bài 20)
“Hai chữ mãn doanh nay khá gẫm,
Mấy người trọn được chữ thân doanh”
(Bạch Vân quốc ngữ thi, bài 13)
“Thửa nơi doanh mãn là nơi tồn,
Hãy gẫm cho hay mới kẻo âu”
(Bạch Vân quốc ngữ thi, bài 9)
Cơ sở để hình thành quan điểm tri túc chính là luật phản phục mà Lão Tử đã
nêu: Vạn vật khi phát triển đến cùng cực thì quay trở lại. Am hiểu Chu Dịch, kết
hợp với hiện thực đời sống mà nhà thơ đã trải, Nguyễn Bỉnh Khiêm cho rằng mọi
vật, mọi việc trong trời đất đều tồn tại trong bản thân nó những mặt đối lập:
“Độc bất kiến:
Thiên hạ bản doanh hư,
Bội nhập diệc bội xuất.
Hựu bất kiến:
Quỷ thần bản ố doanh,
Bạo đắc tùy bạo thất.
Tòng đầu sắc thị không,
Bản lai vô nhất vật.
(Cảm thời cổ ý)
( Riêng chẳng thấy:
33

Trời đất vốn là đầy, lại là vơi,


Bỗng vào mà lại bỗng ra.
Lại chẳng thấy:
Quỷ thần vốn ghét sự thịnh mãn,
Được một cách phũ phàng thì cũng mất một cách phũ phàng.
Từ đầu, thì sắc đã là không,
Vốn là không có một vật gì cả)
(Ý xưa cảm khái về thời thế)
Đồng thời mọi sự vật luôn luôn biến đổi, chuyển hóa lẫn nhau, không khi nào
tĩnh tại, bất biến.
“Hoa càng khoe nở, hoa nên rữa,
Nước chứa cho đầy, nước ắt vơi”
(Bạch Vân quốc ngữ thi tập, bài 48)
Nhìn lại chặng đường làm quan tám năm của mình, nhà thơ không lấy gì làm
hổ thẹn mà trái lại rất lấy làm tự hào nữa là khác. Ông đã không vào luồn ra cúi,
dám phanh phui sự thật, tố cáo bọn gian thần trước mặt nhà vua. Cùng thời làm
quan ấy, mấy ai làm được như cụ Trạng. Chí đã phỉ nguyền, cho nên lúc treo ấn từ
quan về quê ở ẩn ta thấy Cụ thanh thản, an nhiên như một người đã thấu suốt mọi lẽ
biến dịch ở đời:
“Hễ làm quan đã có duyên,
Tới lui mặc phận tự nhiên.
Thân xưa hương lửa chăng còn ước,
Chí cũ công danh đã phỉ nguyền.
……………………………….
Cho về cho ở dầu ơn chúa
Ngại bước chân chen áng cửa quyền”
(Bạch Vân quốc ngữ thi, bài 51)
“Yến khan trọc thế đẩu phù vinh,
Tân quán thân nhàn ngã độc thanh”
34

(Chán nhìn trò đua chen vinh hoa hão ở cái đời vẩn đục này,
Thâu nhàn trong quán Trung Tân, riêng ta trong sạch)
(Ngụ hứng)
Rõ ràng cụ Trạng xem việc làm quan của mình là do duyên số, quan trường chỉ
là nơi cụ gửi gắm thân mình vào đấy để thỏa nguyện chí bình sinh. Một khi chí lớn
không thành, thì công danh với Cụ không còn mang ý nghĩa gì. Ảo tưởng về công
danh trong Nguyễn Bỉnh Khiêm hoàn toàn sụp đổ, khi nhắc về nó nhà thơ đầy ngán
ngẩm:
“Danh toại công thành, hưu hĩ hưu,
Đẳng nhàn thế cố nhất hư chu?”
(Công đã thành, danh đã toại, nên nghỉ đi thôi!
Việc đời phó mặc cho con thuyền không lênh đênh)
(Ngụ Ý, H.102)
Sao bằng gác bỏ việc đời, gửi thân trên chiếc thuyền không mà hưởng thú
thanh nhàn:
“Công danh bất hệ nhất hư chu,
Liêu hướng điền viên mịch thắng du”
(Công danh như một con thuyền rỗng, chẳng buộc vào đâu,
Hãy hướng về vườn ruộng mà tìm thú ngao du thắng cảnh)
(Ngụ hứng, bài 3)
“Thuyền không” (hư chu) ở đây không chỉ có nghĩa đơn thuần là nói đến cuộc
sống nhàn tản, phóng khoáng trên sông sau khi tác giả đã ra khỏi vòng cương tỏa
của danh lợi, mà còn hàm ý triết lí sâu xa. Trong Nam Hoa Kinh, Trang Tử đã
mượn việc một chiếc đò qua sông bị một chiếc thuyền không (hư thuyền) trôi đụng
để từ đó rút ra một thái độ xử thế: nếu biết đem cái lòng trống không mà xử sự với
đời thì không ai hại mình. “Phương châu nhi tế ư hà, hữu hư thuyền lai xúc chu, tuy
hữu biển tâm chi nhơn bất nộ. Hữu nhất nhơn tại kỳ thượng tắc hô trương hấp chi.
Nhất hô nhi bất văn, tái hô nhi bất văn, ư thị tam hô da, tắc tất dĩ ác thinh tùy chi.
Hướng dã bất nộ, nhi kim dã nộ. Hướng dã hư nhi kim dã thật. Nhơn năng hư kỷ dĩ
35

du thế, kỳ thục năng hại chi” [1, tr.642-643] (Chiếc đò qua sông, bị phải chiếc
thuyền không trôi đụng. Dù người có hẹp lòng đến đau cũng không giận. Nếu có
người trên thuyền, thì đã thấy chủ đò giận dữ, phùng trợn. La lối một lần mà bên
thuyền chẳng ai nghe, tất la lối đến hai lần. Hai lần mà cũng chẳng ai nghe, tất la lối
đến ba lần, rồi buông lời chửi mắng. Trước không giận mà nay lại giận là vì sao? Vì
trước thì không có người mà nay thì lại có người. Nếu biết đem cái lòng trống
không mà đối xử với đời, thì ai hại mình.). “Hư thuyền” của Trang Tử chính là “hư
chu” của Nguyễn Bỉnh Khiêm vậy.
Lão Tử đã từng khuyên con người nên biết dùng cái tâm trống không ấy để đối
đãi với đời. Bậc chân nhân ấy đã hơn một lần khuyên người đời về việc nên đi mà
không ở lại “Vì không ở lại, nên không bỏ đi”, hoặc “Hậu kỳ thân nhi tiên, ngoại kỳ
thân nhi tồn”. (Để thân ra ngoài mà thân được còn) và “Nên việc lui thân đấy là
đạo trời” [29, tr.19]. Nếu làm được điều ấy sẽ bảo toàn được thanh danh, tránh
được họa cho mình về sau: Tiêu Hà và Hàn Tín sau khi giúp nhà Hán thành công,
không biết toan tính đường về, vẫn cứ tham quyền cố vị, sau đó Tiêu Hà bị Hán Cao
tổ bắt giam, còn Hàn Tín thì bị Lã Hậu giết. Trương Lương thì ngược lại, sau khi
giúp nhà Hán thành công, ông thác là nhiều bệnh, rồi từ chối tước lộc, xin đi theo
Xích Tùng tử tu tiên, do đó tránh được tai vạ:
“Hán gia tam kiệt trong ba ấy,
Ai chẳng hay toan? Ai khéo toan?”
(Bạch Vân quốc ngữ thi, bài 62)
Thấy rõ điều tai hại ấy, đến lượt mình Nguyễn Bỉnh Khiêm không tham quyền
cố vị, trái lại ông luôn nghĩ đến cảnh điền viên và chỉ muốn xin về ẩn dật:
“Vật vờ thành thị làm chi nữa,
Ít tiếng khen thì vắng tiếng chê”
(Bạch Vân quốc ngữ thi, bài 61)
Cuộc sống thành thị chỉ tổn làm cho con người ta nhọc xác, được ít mà mất
nhiều. Chi bằng tìm về với chốn lâm tuyền mà tâm hồn được thư thái, nhàn hạ.
Trong cuộc hành trình quy ẩn ấy Nguyễn Bỉnh Khiêm đã ví mình như con cá côn,
36

con chim bằng nơi biển Bắc có sức bơi xa, bay cao nghìn dặm, nhưng vì cá không
gặp nước, chim không gặp gió, không có không gian cao rộng và như người không
gặp thời nên phải xếp đôi cánh lớn, quay về chốn non xanh:
“Vạn lí bằng minh tảo phấn thân,
Không thời liêu thả tập tu lân.
Tích liên Kim Mã Ngọc Đường khách,
Kim bạn thanh sơn bích thủy nhân”
(Sớm có chí bay nhảy như chim bằng ở biển Bắc,
Nhưng gặp lúc cùng hãy tạm thu lại cánh vay.
Xưa làm khách Kim Mã Ngọc Đường,
Nay là người bạn non xanh nước biếc)
(Tự Thuật, H.31)
Theo Nguyễn Bỉnh Khiêm, con người cũng giống tạo vật. Chim kia đang bay
trên bầu trời xanh, có lúc mỏi cánh cũng muốn tìm một nơi hạ cánh. Cây quạt nọ
tuy đem gió mát đến cho đời nhưng khi mùa thu đến thì phải xếp lại cất đi. Con
người cũng thế, khi có thời cơ thuận lợi để thi thố tài năng thì phải dốc sức, dốc
lòng; nhưng lúc nhận ra thời cơ đã trôi qua rồi thì phải biết lui về:
“Chim thấy non cao, chim đến đỗ,
Quạt hay thu đến, quạt càng thâu”
(Bạch vân quốc ngữ thi, bài 54)
Xuất hay xử là lý thuyết của Nho giáo, nhưng khi đã không thực hiện được chí
hướng của mình, các nhà Nho lui về ở ẩn đã không tìm thấy ở lý luận Nho giáo chỗ
dựa tinh thần cho họ. Nho giáo không cho họ triết lý để sống cô độc, không cho họ
nhìn ra cái đẹp của thiên nhiên mà vui thú, nhìn ra cái vô nghĩa của cuộc đời để xa
lánh, có thể yên tâm hưởng cảnh nhàn. Những người ẩn dật thường tìm những chỗ
thiếu thốn đó ở Lão - Trang. Thái độ sống nhàn tản của Nguyễn Bỉnh Khiêm là một
thái độ triết lí bắt nguồn từ sự hiểu biết qui luật thời thế ở ông. Dù ở trong hoàn
cảnh nào ông cũng có những ứng xử chủ động và đầy tự tin vào bản thân mình và
vào con đường mình lựa chọn. Lẽ sống nhàn tản của Nguyễn Bỉnh Khiêm có thể bị
37

người đời cho là dại nhưng với ông, lại chính là cách ứng xử thông thái nhất. Trong
thời đại mà người ta bị lôi cuốn theo nhiều phe phái, đổ xô theo danh lợi, mê muội
quay cuồng không biết đi tới đâu, thì Nguyễn Bỉnh Khiêm muốn chỉ ra một chỗ
dừng lại, tỉnh táo, bình tĩnh chiêm nghiệm về lẽ đời và cuối cùng chọn cho mình
một hướng đi đúng đắn nhất. Giữa thời buổi suy loạn, giũ áo từ quan là Nguyễn
Bỉnh Khiêm đã thực hành đúng câu: “Bang vô đạo, phú thả quý yên, sĩ dã” (Nước
loạn mà hưởng giàu sang là điều đáng hổ thẹn).
2.1.3. Nhàn - Sự tâm đắc của Nguyễn Bỉnh Khiêm khi chọn được lẽ sống theo
ý mình
Để có thể sống cuộc sống ung dung, tự tại ngoài vòng tỏa chiết của lễ giáo
phong kiến, Trang Tử nêu: “Tử sinh, tồn vong, cùng đạt, bần phú, hiền dữ bất tiếu,
hủy dự, cơ khát hàn thử; thị sự chi biến, mệnh chi hành dã. Nhật dạ tương đại hồ
tiền, nhi tri bất năng quy hồ kỳ thủy giả dã; cố bất tức dĩ hoạt hòa, bất khả nhập ư
linh phủ sử chi hòa dự, thông nhi bất thất ư duyệt; sử nhật dạ vô khước nhi dữ vật
giai xuân thị tiếp nhi sinh thời ư tâm giả dã, thị chi vị toàn” [1, tr.314-315] (Tử
sinh, đắc thất, cùng đạt, giàu nghèo, hiền ngu, chê khen, đói khát, nóng lạnh, đó là
những biến hoá của sự vật, sự chuyển vận của luật trời như ngày rồi đến đêm, mà
không ai biết gốc ở đâu. Ai đạt được lẽ ấy, thì tâm thần không bị hỗn loạn, ngày
đêm giữ được cái khí thuần hoà, ung dung, vui vẻ như khí xuân mà thích ứng với
mọi sự biến hoá. Như vậy có cái tài toàn vẹn). Nguyễn Bỉnh Khiêm đã lĩnh hội thấu
đáo lời dạy của cổ nhân mà thanh thản lui về sống cuộc đời nhàn dật trong một
niềm vui khó tả. Trong lời tựa Bạch Vân am thi tập, cụ Trạng viết: “Có kẻ chí để ở
đạo đức, có kẻ chí để ở công danh, có kẻ chí để ở sự nhàn dật. Tôi lúc nhỏ chịu sự
dạy dỗ của gia đình, lớn lên bước vào giới sĩ phu, lúc về già chí thích nhàn dật, lấy
cảnh núi non, sông nước làm vui…”. Cái bất lực của Nguyễn Bỉnh Khiêm trước
thời cuộc đã tìm được một lối thoát trong cái triết lý nhân sinh xuất xử và được thể
hiện qua chữ “nhàn”.
Sau khi rời bỏ triều chính nhà thơ xem như mình đã thoát li khỏi cuộc sống cũ
và ngay lập tức bắt tay vào xây dựng một cuộc sống mới. Trở về cố hương, cụ
38

Trạng dựng cho mình một am nhỏ và đặt tên là Bạch Vân am, lấy hiệu là Bạch Vân
cư sĩ. Cái tên Bạch Vân phần nào nói lên được lối sống vô vi, thanh thản, ung dung
tự tại của nhà thơ họ Nguyễn này. Tại quê nhà Nguyễn Bỉnh Khiêm sống trong một
thế giới hoàn toàn tách biệt, một thế giới mà tại đó nhà thơ làm chủ chính mình,
không phải ngẫm nghĩ về sự thể ở đời. Nhà thơ làm bạn cùng nước biếc - non xanh,
trăng thanh - gió mát, uống rượu - ngâm thơ, thưởng thức ba luống cúc thơm nở
muộn như Đào Tiềm; sống giản dị trong ngôi nhà tranh như Ngọc Xuyên Tử. Cuộc
sống quá đỗi vui thú đến nỗi nhà thơ phải thốt lên vì vui sướng và tự nhận mình là
“ông tiên giữa cõi đời”:
“Vân am am cận tiểu khê tuyền,
Mãi đoạn sơ vô phí nhất tiền.
Cao khiết thùy vi thiên hạ sĩ
An nhàn ngã thị địa trung tiên
Vãn hương tam kinh Đào Bành Trạch
Phá ốc sồ gian Lư Ngọc Xuyên
Biệt hữu giá ban chân lạc thú,
Thanh phong minh nguyệt túy ngâm biên”
(Gần cái am Bạch Vân bắt nguồn cái khe nhỏ,
Mua đứt được cảnh ấy mà không tốn kém đồng tiền nào.
Cao khiết ai là kẻ sĩ của thiên hạ,
An nhàn ta là bậc tiên trên đời.
Có ba luống cúc thơm muộn như Đào Bành Trạch,
Có vài gian nhà tranh nát như Lư Ngọc Xuyên.
Cũng riêng chiếm một cảnh thú vui chân thật này,
Bên cảnh trăng trong gió mát, say rượu và ngâm thơ)
(Ngụ hứng, bài 10)
Tìm cảnh nhàn, nhà thơ nói “Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ - Người khôn người đến
chốn lao xao” (Bạch Vân quốc ngữ thi tập, bài 73). “Tìm nơi vắng vẻ” là tránh nơi
chợ lợi, đường danh huyên náo, nơi con người chen chúc, xô đẩy, giành giật, hãm
39

hại nhau, nhưng “tìm nơi vắng vẻ” không chỉ là trốn tránh mà còn là tìm đến nơi
thích thú, cái thích thú hơi khác với những người khôn - người đời. “Ông nhàn”
thích trước hết là sự thoải mái “Nội đắc tâm thân lạc - Ngoại vô hình dịch lụy” (Bên
trong được cái vui của tâm, của thân. Bên ngoài khỏi có cái lụy hình dịch) (Cảm
hứng). Được cái đó họ sẵn sàng đổi cái sung sướng, vinh quang của cảnh phú quý,
cái vui cho tấm thân. Họ tìm ở cảnh trí thiên nhiên:
“Lẻ tẻ bên giang bảy tám nhà,
Thú nhàn mừng thấy bạn ngâm nga.
Thơ nên, ngồi đợi vừng đan quế,
Rượu chuốc ham thầm ngõ Hạnh Hoa.
Lục ỷ tiếng thanh, đêm tựa ngọc,
Loan châu chèo vỗ nước bằng là.
Ít nhiều ngày tháng qua thì chớ,
Tiêu sái ta thìn vẹn chí ta”
(Bạch Vân quốc ngữ thi tập, bài 120)
Lão - Trang còn cho thấy, để sống được tiêu dao con người phải biết tri túc.
Quan niệm tri túc thường lạc là một triết lí truyền thống mang đậm dấu ấn văn hóa
của dân tộc Trung Hoa. Tri túc là hài lòng với những gì mình có, với cái mà trời ban
cho. Quả thật Nguyễn Bỉnh Khiêm rất tâm đắc với cuộc sống mới gầy dựng của
mình, bằng lòng và vui thú với nó. Trước mắt chúng ta giờ chỉ còn hình ảnh của
một lão nông thực thụ với cuộc sống đồng ruộng: “Một mai, một cuốc, một cần câu.
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào” (Bạch Vân quốc ngữ thi, bài 73). Cái “thú” của Cụ
Trạng giờ đây là cái thú tiêu dao ngâm thơ, ngắm trăng, uống rượu, nghe đàn…
Tâm hồn thảnh thơi, tự tại, mặc đời “vui thú”. Nguyễn Bỉnh Khiêm dù lúc tại vị hay
lui về ở ẩn ta thấy cụ đều có những thú vui của riêng mình. Làm quan thì đem hết
sức mình phò tá vua, tố cáo gian thần, trả hết nợ nước non. Về đến quê nhà, được
nhìn thấy những cảnh vật vô cùng quen thuộc nhà thơ cảm thấy vô cùng vui sướng
và hân hoan tột độ giống như gặp lại cố nhân:
“Tuyết Giang tiếu chỉ thị ngô gia,
40

Lãn tản kim tương nại lão hà.


Tùng cúc nhất viên vi cố cựu,
Yên hà bán đảm thị sinh nha (nhai)”
(Đứng ở Tuyết Giang cười chỉ đó nhà ta.
Nay ta già rồi, chỉ biết nhàn tản chứ còn làm gì được nữa.
Một vườn tùng cúc là bạn cũ,
Nửa gánh khói rang đủ sinh nhai)
(Tân quán ngụ hứng, H.19)
Trong tư tưởng Lão - Trang có đề cập đến lối sống vô vi. Vô vi không có nghĩa
là không làm gì mà là thuận theo cái tánh tự nhiên mà làm. Học phái Lão - Trang
quan niệm cho rằng vạn vật đều xuất phát từ Đạo, mỗi vật đều có được cái Đức
riêng của mình. Mỗi vật đều có cái tính tự nhiên. Nếu vạn vật thuận theo tính tự
nhiên ấy thì chúng sẽ hạnh phúc, chứ không cần tìm cầu ở bên ngoài. Trang Tử kể:
Chim bằng bay lên ba ngàn dặm rồi nương gió lốc cuốn lên cao chín vạn dặm. Con
ve sầu và con chim cưu chỉ bay vù lên cây du, cây phương, có lúc bay không tới mà
rớt xuống đất. Ta thấy giữa chim bằng và chim cưu tuy lớn nhỏ khác nhau nhưng
niềm hạnh phúc thì như nhau. Lối sống vô vi ấy ở Lão - Trang đến lượt Nguyễn
Bỉnh Khiêm đã trở thành một cứu cánh giúp nhà thơ giải thích việc đời, cởi bỏ mọi
phiền muộn thái quá trong cuộc đời lắm đỗi ô trọc này. Cái an nhàn trong lối xuất -
xử, hành - tàng của Nguyễn Bỉnh Khiêm chính là một hình thức thái độ vô vi của tín
đồ Lão - Trang. Cụ Trạng an nhàn là để thuận theo cái đạo của tự nhiên và xã hội.
“Đoản địch thanh phong nhàn xứ lộng
Cô phàm minh nguyệt túy trung quy”
(Vấn ngư giả)
(Khi rỗi, thừa hứng có gió mát, lấy sáo ngắn thổi chơi
Khi say, nhân đêm có trăng sáng, giương cánh buồm về bến.)
(Hỏi ông lão đánh cá)
Một lão ngư phiêu bạt đó đây với chiếc thuyền bé nhỏ trong tay, lấy trăng
thanh, gió mát, hương rượu thơm nồng làm niềm cảm hứng nhạc họa cho mình.
41

Cuộc sống thật thiếu thốn về vật chất nhưng tinh thần thì no đủ. Nhà thơ rất lấy làm
tự hào về cuộc sống “giàu có” ấy.
“Thanh nhàn ấy ắt là tiên khách,
Được thú, ta đà có thú ta”
(Bạch Vân quốc ngữ thi tập, bài 31)
“Người tham phú quý người hằng trọng,
Ta được thân nhàn ta xá yêu”
(Bạch Vân quốc ngữ thi tập, bài 47)
“Ai xem, ai chẳng hay là chớ,
Lại một ta khen ta hữu tình”
(Bạch Vân quốc ngữ thi tập, bài 141)
“Giàu mặc phận, khó đâu bì,
Đọ thanh nhàn, khá nhất nhì”
(Bạch Vân quốc ngữ thi, bài 84)
Ai có thể sánh kịp với Trạng Trình về phương diện “nhàn”. Câu thơ đọc lên
nghe thật hào sảng, cuộc sống hàn vi ở chốn lều tranh vách nát không làm cho cụ
chán nản mà trái lại khiến cụ sảng khoái, tự hào. Chốn quê nhà cụ được đắm mình
với thiên nhiên, được thiên nhiên ban tặng những hằng sản tươi quý nhất:
“Bàn cờ, cuộc rượu, vườn hoa trúc,
Bó củi, cần câu, chốn nước non.
Nhàn được thú vui hay nấn ná,
Bữa nhiều muối bể chứa tươi ngon”
(Bạch Vân quốc ngữ thi, bài 29)
Cuộc sống thôn quê đã gột rửa tâm hồn cụ, biến cụ thành con người khác hẳn
làm cho cụ cảm thấy yêu đời hơn. Cụ thấy cuộc đời nên thơ vầ đầy ý vị chứ không
phải chỉ gói gọn trong những lo lắng tẹp nhẹp cơm áo gạo tiền ngày thường:
“Mịch đắc thôn khê địa nhất triền,
Nhàn lai ngô diệc lạc ngô thiên.
Hiểu lâm thái phố sương niêm lý,
42

Dạ phiếm ngư cơ nguyệt mãn thuyền”


(Tìm được một miếng đất ở cạnh con khe trong làng,
Khi thanh nhàn ta cũng vui với tính tự nhiên của ta.
Buổi sáng đến vườn rau, sương dính vào dép.
Ban đêm chơi ở ghềnh xóm chài, trăng dọi đầy thuyền)
(Ngụ Hứng, bài 4)
Đây đúng là cuộc sống nhàn dật của một bậc cao sĩ đã vượt ra khỏi vòng
cương tỏa của nho gia. Cụ tự do làm theo sở thích của mình, hoàn toàn thuận theo
tính tự nhiên mà không bị chi phối bởi một nhân tố khách quan nào. Cụ vẫn sinh
hoạt một cách bình thường như những người lao động ở thôn quê: sáng thì ra vườn
trồng rau tỉa tót, tối đến bơi thuyền dạo chơi hóng mát, ngắm trăng. Nhưng có điều
là cụ được thiên nhiên ưu ái chăm sóc đến mức tối đa:
“Bạch Vân am bang bạch vân hương,
Cận tiếp giang lâu đối tịch dương.
Tọa thượng tiếu đàm xuân cánh bảo,
Môn trung ngâm vịnh bút sinh hương.
Sổ bôi minh nguyệt lưu hoa ảnh,
Bán chầm thanh phong nhạ trúc lương”
(Am Bạch Vân bên cạnh làng mây trắng,
Tiếp cận với ngôi lầu trên sông, đối diện với bóng chiều.
Cười nói trên chỗ ngồi, xuân càng thêm đẹp,
Ngâm vịnh ở trong cửa, bút nảy sinh thơm.
Trăng sáng dọi bóng hoa vào vài chén rượu,
Gió trong đưa hơi tre mát tới nửa gối nằm)
(Tự thuật, bài 3)
Lo sợ người đời không nhận biết được huyền bí sướng vui trong cuộc sống ấy,
nhà thơ phải giãi bày:
“Sơn thủy diệc tòng nhân trí nhạo,
Giá ban ý vị thục năng tường”
43

(Cảnh sơn thủy cũng theo vào niềm vui nhân trí,
Ý vị đến mức ấy có ai hay rõ được?)
(Tự thuật, bài 3)
Khi đã đạt đến đỉnh cao của sự ung dung nhàn tản tâm hồn cụ lâng lâng sảng
khoái và muốn được đắm mình ngủ say mãi trong cuộc sống thần tiên ấy:
“Ký ngôn tửu các hồng lầu khách,
Mạc bả sinh ca quát túy miên”
(Gửi lời cho khách ở gác tía lầu hồng,
Chớ đem đàn hát khuấy động giấc ngủ say của ta.)
(Ngụ hứng, bài 4)
Nhà thơ đã lí tưởng hóa cuộc sống nhàn dật và khẳng khái đưa ra kết luận có
phần táo bạo của riêng mình như một kinh nghiệm sống của người đi trước cho
những bạn bè đang còn tại vị triều chính:
“Thanh vân tranh tự bạch vân cao”
(Lý cư giản chư đồng chí)
Thanh vân làm sao cao bằng bạch vân
(Ở làng, viết đưa các bạn cùng chí hướng)
Sở dĩ Nguyễn Bỉnh Khiêm một lòng hướng về cuộc sống ẩn dật là vì từ lâu
ông đã dứt khoát lìa bỏ công danh. Đó không phải là mục đích tối cao của đời, với
công danh nhà thơ đã cự tuyệt: “Hai chữ công danh người mặc người” (Bạch Vân
quốc ngữ thi, bài 144). Niềm mong ước của ông không phải là giàu sang phú quý
nên dù chỉ “một am phong nguyệt” ông vẫn cảm thấy đầy đủ và vui thích, vì ông đã
hiểu hết được ý nghĩa cuộc sống “nhàn”:
“Rồi nhàn thì ấy tiên vô sự”
(Bạch Vân quốc ngữ thi, bài 13)
“Ngày ngày tiêu sái thường vô sự”
(Bạch Vân quốc ngữ thi, bài 19)
“Chữ rằng: vô sự tiểu thần tiên”
(Bạch Vân quốc ngữ thi tập, bài 64)
44

Trở đi trở lại những vần thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm ta thấy sự xuất hiện với
tần số dày đặc những từ “nhàn”, “tiên”, “vô sự”, “tự tại”, “lâng lâng” (Xin xem
thống kê cụ thể ở phần phụ lục) nhằm nhấn mạnh sự tâm đắc và thích chí của
Nguyễn Bỉnh Khiêm khi lựa chọn được lối sống theo ý mình. Tuy nhiên chúng ta
cần phải hiểu rõ hơn về bản chất chữ “nhàn”. “Nhàn” ở Nguyễn Bỉnh Khiêm
không phải là thoát ly xã hội, là phương tiện cứu cánh, mà chỉ là một lối sống, một
cách ứng xử, một phương tiện thoát ly những ràng buộc danh lợi, để được sống lạc
thiên, tri mệnh, khoáng đạt, có lạc thú. “Nhàn” ở Nguyễn Bỉnh Khiêm không phải là
thái độ sống vô trách nhiệm, cuồng phóng. Nhàn - tiên - vô sự có nghĩa là an nhiên,
tự tại, không đua chen danh lợi, giữ trọn thanh giá “lạc đạo vong bần” giữa cảnh đời
lố nhố những đống lợi, gò danh. Nhàn là không để dục vọng làm mờ ám lương tâm,
làm vẩn đục tâm hồn, là không tham dự vào những hàng động tội lỗi, ô nhục của
người đời, là: Khép cửa ải danh lợi ồn ào phiền não lại không chịu dấn thân vào
nguy cơ của sự giàu sang vì từ xưa lợi danh rút cuộc là mang lụy vào thân. Nhàn
cũng là sống thỏa thích trong cảnh trí non xanh, nước biếc, bạn bầy với trăng trong,
gió mát, với ông già lão thực, trẻ thơ hồn toàn, ấm áp tình người trong hương đồng
gió nội, mây sớm trăng khuya…
2.2. Hòa hợp, gắn bó với thiên nhiên và cuộc sống làng quê - một biểu hiện của
tinh thần vô vi, tiêu dao
2.2.1. Tinh thần vô vi, tiêu dao của Lão - Trang
Mỗi triết gia đều mong muốn hướng con người đến một mục tiêu nào đó.
Thường là xây dựng quan niệm nhân sinh nhằm giải thoát con người khỏi đau khổ.
Trong bối cảnh các nước thời Chiến Quốc tranh giành xâu xé lẫn nhau, các triết gia
đều muốn dùng học thuyết của mình để an thiên hạ. Cả Lão và Trang cũng vậy, họ
muốn dùng học thuyết của mình để cứu vớt nhân loại. Lý tưởng sống mà Trang đề
ra gói gọn trong hai chữ “tiêu dao”: Sống ung dung vui vẻ, thỏa thuê, không để cho
xã hội bó buộc mình, theo bản tính của mình và thuận theo tính của vạn vật, cứ sống
hết tuổi trời, không quan tâm tới sinh tử.
45

Theo Lão - Trang, con người muốn được tiêu dao trước tiên phải bỏ thành
kiến từ trước đến giờ theo lối “nhị nguyên”. Quan điểm “nhị nguyên” nhìn sự vật
bằng cặp mắt phân tích đúng - sai, phải - trái, tốt - xấu… Trang Tử chủ trương quan
niệm “tề vật”, ông xem mọi thứ, mọi sự vật đều bình đẳng. Ông cho rằng mọi thứ
trong trời đất đều tốt như nhau và mọi ý kiến đều đúng như nhau, không có cái gọi
là chuẩn mực nhất định có thể đem áp dụng cho tất cả được. Quan niệm “tề vật” có
thể xem là tiền đề tư tưởng cho lý tưởng sống tiêu dao. Bởi vì nếu không có quan
niệm bình đẳng tuyệt đối thì sẽ có sự thừa nhận trên đời có phải - trái, tốt - xấu…
và cái tốt sẽ tìm cách cải tạo cái không tốt, như thế sẽ không còn tự do và tất nhiên
không thể tiêu dao. Giống như câu chuyện ngụ ngôn Trang Tử kể trong thiên Ứng
Đế Vương. Trang Tử nêu rõ chủ trương tiêu dao: Quên tuổi mình, quên thị phi đi,
ngao du ở chỗ vô cảnh giới (hư vô) và gởi mình trong cõi đó.
Trong tư tưởng Lão - Trang, người ta nhận thấy rằng muốn tiêu dao phải
sống thuận thiên, làm theo lối vô vi. Vô vi không có nghĩa là không làm gì mà là
thuận theo cái tánh tự nhiên mà làm. Trang Tử kể: Chim bằng bay lên ba ngàn dặm
rồi nương gió lốc cuốn lên cao chín vạn dặm. Con ve sầu và con chim cưu chỉ bay
vù lên cây du, cây phương, có lúc bay không tới mà rớt xuống đất. Ta thấy giữa
chim bằng và chim cưu tuy lớn nhỏ khác nhau nhưng niềm hạnh phúc thì như nhau.
Thuận thiên, vô vi còn có nghĩa là thuận theo bản tính của mọi vật mà hành
xử, không thể dùng ý chí chủ quan con người mà tác động. Ta nhận thấy rằng, con
người thường dùng ý chí chủ quan của mình mà cải tạo thiên nhiên, hậu quả là chỉ
đem lại sự thống khổ, khiến cho mọi thứ trở nên tệ hại hơn mà thôi. Trang Tử nói:
“Phù huýnh tuy đoản, tục chi tắc ưu. Hạc hính tuy trường, đoạn chi tắc bi. Cố tánh
trường phi sở đoạn, tánh đoản phi sở tục, vô sở khứ ưu giả” (chân vịt tuy ngắn, nếu
nối cho dài ra thì vịt sẽ đau; chân hạc tuy dài, nếu cắt ngắn đi thì hạc sẽ khổ. Vậy thì
cái gì trời sinh ra dài thì không nên làm cho ngắn lại; cái gì trời sinh ra ngắn thì
không nên nối cho dài ra thì không còn gì là đau khổ nữa cả) [1, tr.71]. Với con
người, Trang Tử cho rằng, nếu ta không thuận theo bản tính tự nhiên mà dùng các
chế độ chính trị để thống trị thì cũng giống như “lạc mã thủ, xuyên ngưu tỉ” [1,
46

tr.489] (cột đầu ngựa, xỏ mũi trâu), con người sẽ thấy mất đi niềm hạnh phúc được
sống tự nhiên và mất luôn lạc thú ở đời. Từ việc hiểu được Đạo, hiểu được qui luật
thiên nhiên mà thuận thiên, con người mới có thể “an thời xử thuận”. Đó là không
để buồn rầu, giận hờn, lo nghĩ chi phối được tâm hồn, lúc đó sẽ được thảnh thơi,
tiêu dao.
Thuận thiên còn có thể hiểu là sống hòa nhập với thiên nhiên, xem thiên
nhiên vừa là nguồn nuôi dưỡng, vừa là bạn của con người. Người thực sự hòa đồng
với vạn vật chính là bậc thần nhân. Trang Tử có đề cập: “Diễu Cô Xạ chi sơn, hữu
thần nhân cư yên, cơ phu nhược băng tuyết, náo nước nhược xử nữ, bất thực ngũ
cốc, hấp phong ẩm lộ, thừa vân khí, ngự phi long nhi du hồ, tứ hải chi ngoại, kỳ
thần ngưng, sử vật bất tì lệ, nhi niên cốc thục.”[1, tr.130-131] (Trên núi Cô Dạ xa
xôi, có thần nhân ở, da họ trong trắng như băng tuyết, họ đẹp đẽ, mềm mại như gái
trinh. Họ không ăn ngũ cốc, chỉ hít gió uống sương mà sống; họ cưỡi mây và rồng
bay mà đi chơi khắp ngoài cõi bốn bể. Ngưng thần lại thì có thể làm cho vạn vật
không đau ốm, hư - hoại, lúa thóc lại được mùa) và cho rằng những thần nhân đó có
đức cao nên hòa đồng được với vạn vật.
Có một điều quan trọng, muốn sống trọn tuổi trời, hưởng cái hạnh phúc tiêu
dao, ung dung, tự do tự tại là phải biết giữ mình. Lão và Trang đều chủ trương giấu
tài của mình đi, hòa quang đồng trần. Lão Tử viết: “Tri giả bất ngôn; ngôn giả bất
tri. Tắc kì đoài, bế kì môn, toả kì nhuệ, giải kì phân, hoà kì quang, đồng kì trần. Thị
vị huyền đồng. Cố bất khả đắc nhi thân; bất khả đắc nhi sơ; bất khả đắc nhi lợi; bất
khả đắc nhi hại; bất khả đắc nhi quý; bất khả đắc nhi tiện. Cố vi thiên hạ quý” [29,
tr.68] (Người biết (đạo) thì không nói (về đạo), người nói là người không biết. Ngăn
hết các lối, đóng hết các cửa, không để lộ sự tinh nhuệ ra, gỡ những rối loạn, che
bớt ánh sáng, hòa đồng với trần tục, như vậy gọi là “huyền đồng” (hòa đồng với vạn
vật một cách hoàn toàn). (Đạt tới cảnh giới đó thì) không ai thân, cũng không ai sơ
với mình được (vì mình đã ngăn hết các lối, đóng hết các cửa, bỏ dục vọng, giữ
lòng hư tĩnh); không ai làm cho mình được lợi hay bị hại (vì mình đã không để lộ sự
tinh nhuệ, đã gỡ những rối loạn, giữ sự giản phác); không ai làm cho mình cao quí
47

hay đê tiện được (vì mình đã che bớt ánh sáng, hòa đồng với trần tục). Vì vậy mà
tôn quí nhất trong thiên hạ). Trong Nam Hoa Kinh, Trang Tử đã dùng nhiều ngụ
ngôn để nói về chuyện giấu tài, giấu mình để giữ mình. Có bài ông nói chuyện cây
xư, cây lịch tàn lá rộng lớn nhưng thân thì xù xì, cành ngoằn ngèo, gỗ thì vô dụng
nhờ thế mà không bị đốn. Có bài ông kể một người nhờ có hình thù kỳ quái mà khỏi
bị đi lính. Còn hữu dụng như cây lê, cây tra, cây quất, cây bưởi thì khi trái chín là bị
tàn phá, cành lá bị vặt trụi, hay có tài rình mồi như con li tinh thì chết vì bẫy, vì
lưới. Tuy nhiên nếu hoàn toàn vô dụng thì cũng sẽ bị triệt hạ, phá bỏ. Trang Tử
nhận thấy để đạt được sự thư thái của tâm hồn, ngao du đến cõi không cùng, con
người phải biết vượt lên mọi khen chê, thị phi được mất.
Học thuyết của Lão - Trang có thể còn nhiều điều phải bàn nhưng quan điểm
sống “vô vi, thuận thiên” của Lão - Trang thì mang đầy tính nhân văn. Sống trong
môi trường văn hóa như thế nên nhiều trí thức, nhất là các triết gia ở ẩn có tư tưởng
chống lại những ràng buộc của nền chính trị đương thời. Lão, Trang là những nhân
vật tiêu biểu cho những tư tưởng đó.
2.2.2. Niềm hạnh phúc, gắn bó với thiên nhiên và cuộc sống làng quê trong
thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm
Với tư cách là một nhà Nho làm nhiệm vụ “trí quân trạch dân” Nguyễn Bỉnh
Khiêm rất hăm hở, ông cảm thấy rất tự hào về vai trò, về những điều mình đã làm.
Ông ví mình như cây đa già chịu đựng gió rét để “trợ dân”, như con ngao lớn có
thể đội đá vá trời, làm rường cột cho quốc gia. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh thoái
trào của chế độ phong kiến, vua không nghe lời can gián, bất mãn với triều đại.
Nguyễn Bỉnh Khiêm phải lui về sống một cuộc đời như ẩn sĩ. Trong hòan cảnh mà
ông nhận ra rằng xung quanh mình “Lưỡi thế gẫm xem mềm tựa lạt - Miệng người
toan lại sắc như chông” (Bạch Vân quốc ngữ thi, bài 127), ông đã phải vận dụng
phương châm sống biết lui, biết nhường của Lão Tử. Lão Tử khuyên: “Dụng kỳ
quang phục quy kỳ minh” (Dùng ánh sáng của Đạo để quay trở về ánh sáng của
mình thì không bị tai ương) [29, tr.35] bởi vì “Đạo xung nhi dụng chi hoặc bất
doanh. Uyên hề tự vạn vật chi tông. Tỏa kỳ nhuệ; giải kỳ phân; hòa kỳ quang; đồng
48

kỳ trần.” [29, tr.16] (Đạo tuy trống rỗng nhưng công dụng không bao giờ hết. Nó
làm cùn cái bén nhọn, tháo gỡ cái rối rắm, nó hòa cùng ánh sáng lẫn cái bụi bặm).
Con đường hoạn lộ đầy gập ghềnh, quanh co đã làm Nguyễn Bỉnh Khiêm không
còn ham muốn gì hơn ngoài việc về với núi rừng yên tĩnh đọc sách, ngắm trăng:
“Lánh trần đến náo thú sơn lâm,
Lá thông đàn; tiếng trúc cầm
Sách cũ ngày tìm người hữu đạo
Ao thanh đêm diễn nguyệt vô tâm”
(Bạch Vân quốc ngữ thi, bài 126)
Rõ ràng lúc này Nguyễn Bỉnh Khiêm muốn tìm một nơi quy ẩn. Ông muốn
tìm đến một nơi có thể di dưỡng tinh thần để khỏi “nhọc” tâm, khỏi phải lo toan
con đường tiến thủ, nơi mà ông có thể:
“Hứng ý miệng ngâm câu quốc ngữ,
Giải phiền, tay chuốc chén quỳnh xuân”
(Bạch Vân quốc ngữ thi, bài 86)
Nơi đó phải là một không gian gần gũi và thanh tịnh. Ông đã chọn làng Trung
Am dựng quán Trung Tân, xây am Bạch Vân. Đây là một sự lựa chọn thích hợp với
Nguyễn Bỉnh Khiêm vì nhiều lẽ. Trung Tân và am Bạch Vân ngoài nguyên nhân
cảnh trí tuyệt đẹp: có làng xóm bao bọc, có sông nước uống quanh, có vườn cây,
hoa, trúc, thì sự chọn lựa ấy còn mang một ý nghĩa triết học khác. Ý nghĩa đó thể
hiện trong tên gọi Trung Tân: “Trung nghĩa là chính giữa, giữ trọn được tính thiện
là trung, không giữ được tính thiện không phải là trung vậy; Tân có nghĩa là bến
biết chỗ đáng đậu là đúng bến, không biết chỗ đáng đậu là lầm bến vậy” (Trung
Tân bi quán kí). Trong bài bia này, vẻ đẹp phong cảnh quán Trung Tân được miêu
tả một cách tỉ mỉ hơn: “Ngắm ra phía Đông là biển (Đông), ngó về phía tây là kênh
(Thầy), phía nam xa nhìn ngòi Liêm Khê, thấy các làng Trung Am, Bích Động, phía
bắc cúi nhìn sông Tuyết, chợ Hàn, đò Nhật, phải trái bao bọc”.
Một không gian thơ mộng nhưng hoàn toàn bị khép kín, với sự xuất hiện của
am Bạch Vân đã gợi nên cảm giác về một thiên nhiên ẩn dật. Đó là một không gian
49

lý tưởng theo quan niệm của Trang Tử để con người trở về với Đạo, trở về với bản
chất thuần khiết của mình, hồn nhiên, chất phác. Trang Tử có phác họa không gian
lý tưởng mà con người hướng đến. Học thuyết Lão - Trang mang tinh thần sùng
thượng thiên nhiên, xem cảnh sống hoang dã là môi trường lý tưởng để con người
sống thanh nhàn, vượt lên trên thói tục, trở về với Đạo. Tinh thần đó đã ảnh hưởng
rất nhiều đến những nhà thơ có khuynh hướng ẩn dật. Các nhà thơ ở ẩn xây dựng
trong thơ mình một không gian thanh thoát mà ở đó con người mặc sức tiêu dao. Đó
chính là nơi chốn mà họ chọn để lui về ẩn thân, nó mang hình ảnh của một vùng đất
ngoài đời thực nhưng không hòan tòan trùng khớp với thực tại, nó được tái tạo
trong thơ qua lăng kính tình cảm chủ quan và trí tưởng tượng của nhà thơ :
“Nhân thôn quán tây nam,
Giang thủy vốn tây bắc.
Trung hữu bán mẫu viên,
Viên hữu vân am trắc.
Luân chuyển trần bắt đáo,
Hoa trúc thủ tự thực.
Trượng lí tập hoa hương,
Trản lạc xuâm hoa sắc”
(Hựu Thập nhị vận, H.22)
(Phía tây nam am quán có làng xóm,
Phía đông bắc am quán là dòng sông.
Ở giữa có nửa mẫu vườn,
Vườn ở bên am Bạch Vân.
Bụi ngựa xe không đến chỗ này,
Hoa và trúc tự tay ta trồng lấy.
Hương thơm của hoa bám vào gậy và dép,
Sắc hoa ánh vào chén rượu.)
(Lại làm thêm mười hai vần, H.22)
50

Niềm vui của người tự xưng là tiên trên đời (Địa trung tiên) bây giờ là được
làm một ông chủ giàu có của thiên nhiên, đêm đêm thức đợi trăng lên dát vàng trên
rừng trúc; ngày ngày chờ gió thổi, lắng nghe hương thơm để biết rằng hoa đã nở
ngoài vườn:
“Cày mây cuốc nguyệt gánh yên hà,
Nào phải nào chăng phải của ta.
Đêm đợi trăng cài bóng trúc,
Ngày chờ gió thổi tin hoa”
(Bạch Vân quốc ngữ thi tập, bài 17)
Lão Tử có chỉ ra quy luật: “Nhân pháp địa, địa pháp thiên, thiên pháp Đạo,
Đạo pháp tự nhiên” [29, tr.37] (Người theo khuôn phép của đất, đất theo khuôn
phép của trời, trời theo khôn phép của Đạo, Đạo theo khuôn phép của tự nhiên). Nói
rút gọn lại là nhân pháp tự nhiên. Trở về với Đạo là trở về với cái mộc mạc chất
phác, tức là đến với thiên nhiên, đất trời. Sống giữa thiên nhiên đất trời là cách sống
lý tưởng để con người tìm đến với Đạo. Chính vì thế, học phái Lão - Trang luôn đề
cao thiên nhiên, có thể xem tư tưởng Lão - Trang là tư tưởng sùng thượng thiên
nhiên. Tư tưởng ấy hòa nhịp với tâm hồn của người nghệ sĩ vốn dễ xúc cảm trước
cảnh đẹp thiên nhiên. Nguyễn Bỉnh Khiêm là một tâm hồn như thế. Ông tiếp nhận
thiên nhiên với một thái độ thích thú, yêu mến và trân trọng.
Nguyễn Bỉnh Khiêm là một nhà thơ nên tâm hồn đa cảm, luôn mở rộng lòng
mình trước những vang vọng cuộc đời, đặc biệt là trước cảnh sắc của thiên nhiên.
Hơn nữa đời mình, Nguyễn Bỉnh Khiêm sống ở thôn quê vì thế cảnh vật nơi đây rất
gần gũi và thân thuộc với nhà thơ, nhưng không phải vì thế mà nó trở nên nhạt nhẽo
và tầm thường trong mắt nhà thơ, mà trái lại nó rất đỗi tinh tế và có sức hấp dẫn đến
lạ thường. Phong cảnh quê hương thu vào tầm mắt nhà thơ như là một bức tranh
thủy mạc mềm mại với sự phối hợp hài hòa của đường nét, màu sắc. Choáng ngợp
trước vẻ đẹp mê hồn ấy nhà thơ say sưa ca ngợi:
“Quê hương tám bức là tranh vẽ,
Phong cảnh tứ mùa ấy gấm thêu”
(Bạch Vân quốc ngữ thi, bài 3)
51

“Am quán trường nhàn xuân bất lão,


Giang sơn nhập họa, bút sinh hương”
(Chốn am quán thư nhàn mãi xuân chẳng già,
Non song như tranh vẽ bút sinh thơm)
(Ngụ hứng)
Thiên nhiến vốn dĩ đã tuyệt đẹp nhưng qua ngòi bút tái tạo của thi nhân thì
thiên nhiên càng trở nên sống động và có hồn. Trên thuyền xuôi dòng Thao giang,
thi nhân không khỏi ngỡ ngàng trước một bức tranh tuyệt mỹ :
“Sơn quan đới bích thanh thê thụ,
Thủy sắc ngưng hoàng lục nhiễu hang”
(Ánh nắng mang màu biếc, sắc xanh ngưng đọng trong cây
Sắc nước đọng màu vàng, vẻ lục diễn quanh thuyền)
(Phụng căn tòng quá Thao giang)
Nắng chiếu lên cây, cây làm cho nắng chuyển sắc xanh; nước đón lấy nắng,
nắng làm cho nước nhuộm vàng; cây in bóng nước, nước xanh màu lá ôm lấy
thuyền khách. Thiên nhiên giao quyện trong một chỉnh thể hài hòa, đẹp như thơ,
như họa.
Tuy nhiên thiên nhiên đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm không chỉ là ngoại cảnh để
nhìn, để ngắm và thưởng thức như một người ngoại đạo: “Viễn san nhật khán cô
vân trụ, Xuân kính dạ hề minh nguyệt quy” (Ban ngày ngắm đám mây trơ vơ dừng
lại ở hòn núi xa. Ban đêm dìu mặt trăng sáng về luống hoa xuân) (Trung tân quán
ngụ hứng), mà nhà thơ còn tìm thấy ở thiên nhiên một niềm an ủi sâu xa và xem
thiên nhiên là bạn, là tri kỷ của mình:
“Non nước có mùi lòng khách chứa,
Trúc mai làm bạn hứng thơ nồng”
(Bạch Vân quốc ngữ thi tập, bài 30)
“Có ai biết được lòng tri kỷ,
Vời vợi non cao nguyệt một vừng”
(Bạch Vân quốc ngữ thi tập, bài 6)
52

“Nghìn hàng cam quýt, con đòi cũ,


Mấy đứa ngư tiều bầu bạn thân”
(Bạch Vân quốc ngữ thi, bài 50)
“Trăng trong gió mát là tương thức,
Nước biếc non xanh ấy cố tri”
(Bạch Vân quốc ngữ thi tập, bài 90)
“Vạn cổ đông phong tằng thức diện,
Nhất giang lưu thủy thị tri âm”
(Gió đông nghìn xưa từng quen mặt,
Dòng nước chảy dưới sông là tri âm.)
(Tự thuật, H 32)
Trở đi trở lại trong thơ ông, nhiều lần nhà thơ nhắc đến hình ảnh của cúc, mai,
thông, trúc. Về lại quê nhà, trồng những loại cây ấy nhà thơ như tự nhắc nhở mình
phải giữ vững khí tiết, không để cảnh sống thoát tục làm lung lay. Đây là những
hình ảnh mang tính chất ước lệ được các nhà thơ trung đại đề cập đến, bởi vì nó
tượng trưng cho nhân cách cao thượng của người quân tử Nguyễn Bỉnh Khiêm nhàn
ẩn để bảo toàn và nêu cao danh tiết, mà cúc vốn được mệnh danh là hoa ẩn dật, bạn
của ẩn giả:
“Hứng xứ dã tình thiên ái cúc,
Túy giai lão nhãn dị sinh hoa”
(Lúc hứng mối tình mộc mạc chỉ yêu hoa cúc,
Nơi bậc thềm khi say mắt nhòe dễ nổ đom đóm)
(Ngụ hứng, H.28)
Mai thì luôn giữ trong sạch, tượng trưng cho phẩm cách cao khiết:
“Hàn mai tự tự đa thanh thảo,
Kính thảo thùy ngôn yển tật phong”
(Tức cảnh, H.49)

(Cũng như ta cây mai lạnh nhiều khí tiết trong sạch,
53

Ai bảo rằng ngọn cỏ cứng phải cúi rạp trước cơn gió táp?)
(Cảm cảnh trước mắt, H.49)
Còn tùng và trúc lại có khí tiết vững chắc và ngay thẳng, là biểu tượng của
người quân tử:
“Nhân vinh trâm thụ đồng niên hữu,
Ngã ái tùng quân vãn tuế giao”
(Lý cư giãn đồng chí, H.35)
(Người đời ham bè bạn cùng những kẻ giàu sang đồng lứa tuổi,
Riêng ta tuổi già lại thích kết giao với tùng quân.)
(Ở làng viết gửi các bạn đồng chí, H.35)
Cụ Trạng chủ trương quay trở về với thiên nhiên để sống hàm dưỡng. Thiên
nhiên là nguồn suối tắm mát, gột rửa tâm hồn của nhà thơ. Một khi cái tiểu ngã của
nhà thơ hòa nhập vào cái đại ngã của trời đất, của thiên nhiên nhà thơ cảm thấy như
tìm lại được cái thiên tâm chân tính của chính mình đã vô tình bị đánh mất trong cái
nhộn nhịp xô bồ của đời sống.
Trong cuộc sống “hòa quang đồng trần” ấy ta thấy giữa cảnh và người có một
mối tương quan vô hình mật thiết. Thiên nhiên và con người như hòa nguyện với
nhau, lồng vào nhau không thể tách rời. Ông thường thể hiện tình cảm ấm áp, tâm
hồn trong trẻo trong sự gắn bó với thiên nhiên bằng thái độ cảm thông hòa điệu sâu
sắc. Một buổi sáng mùa thu, đứng trên lầu bên sông nhìn ra xa, tâm hồn giao hòa
trọn vẹn cùng cảnh vật bao la, nhà thơ cảm thấy ung dung, thích thảng lạ thường :
“Tương dung tâm giữ cảnh,
Tự thích lạc vong ky”
(Giang lâu thu nhật hiểu vọng, H.4)
(Tâm hồn, cảnh vật hòa vào nhau,
Tự mình thỏa thích, kể đâu nghèo nàn.)
(Trên lầu bên sông buổi sáng nhìn ra xa, H.4)
54

Vì ông đối với thiên nhiên với một tình cảm chân thành, đậm đà và tha thiết
như thế nên ngược lại ông cũng nhận ra tình cảm của thiên nhiên dành cho mình
bằng sự quyến luyến và thân tình:
“Hạc thổ phanh trà yên,
Ngư thôn tẩy nghiễn mặc.
Khiển hứng nhậm thi cuồng,
Phù suy đa tửu lực”
(Hựu thập nhị vận, H.22)
( Đun nước pha trà, khói bốc lên như chim hạc nhả hơi,
Nước rửa nghiên mực chảy xuống, cá nuốt lấy .
Lúc cao hứng ngâm thơ tràn để tiêu khiển,
Nhờ sức rượu giúp giúp đỡ sự suy yếu.)
(Lại làm thêm mười hai vần, H.22)
“Thanh lưu tá hưởng cầm thanh nhuận,
Cổ mộc lưu âm, khách mộng lương”
(Mượn tiếng vang của dòng nước trong mà tiếng đàn thêm nhuần,
Giữ lại bóng cổ thụ để làm cho giấc ngủ trưa được mát mẻ)
(Ngụ Hứng, bài 1)
Thế mới hay cảnh vật cũng biết chiều lòng khách. Thiên nhiên đã xem Nguyễn
Bỉnh Khiêm là thượng khách và không muốn làm phật lòng người nên đã đem hết
những gì mình có ra thết đãi với mong muốn khách vui lòng trong những tháng
ngày quy ẩn. Thật ý vị khi thiên nhiên không chỉ có tác dụng di dưỡng tinh thần mà
còn có tác dụng chữa bệnh thân thể cho nhà thơ:
“Khát uống chè mai hơi ngọt ngọt,
Sốt kề hiên nguyệt gió hiu hiu”
(Bạch Vân quốc ngữ thi, bài 3)
Không phải mất công đi tìm cảnh núi cao, sông rộng, những cảnh hùng vĩ, kỳ
ảo. Ông nhàn vui với cảnh thiên nhiên sẵn có, có khi là đơn sơ, tầm thường, nhưng
bao giờ cũng tìm thấy trong đó cái đẹp, cái hữu tình. Trong thế giới hưu nhàn, thiên
55

nhiên đem lại cho nhà thơ nhiều lạc thú thanh cao. Có lúc ta thấy cụ Trạng như thả
hồn mình theo cảnh vật :
“Cây tĩnh, chim về, xanh loáng khói,
Trì thanh, cá lội, nước tuôn là”
(Bạch Vân quốc ngữ thi, bài 126)
“Tùng hạ nguyệt lai, kim tỏa toái,
Trúc biên phong đáo, ngọc tung tranh”
(Trăng đến dưới bóng thông, như vàng nát vụn ra,
Gió đến bên khóm trúc, tiếng ngọc kêu soang soảng.)
(Trung tân quán ngụ hứng)
“Thanh phong minh nguyệt vi ngô hữu,
Bích thủy thanh sơn độc tự ngu”
(Của cải của ta là gió mát trăng thanh,
Riêng ta tự vui với non xanh, nước biếc)
(Tân quán ngụ hứng, H.15)
Nhưng không phải lúc nào thiên nhiên cũng mang đến niềm vui bất tận cho
nhà thơ. Đôi lúc đứng trước thiên nhiên rộng lớn nhà thơ như cảm thấy rợn ngợp và
dâng lên một nỗi buồn khôn tả làm nhà thơ phải lắng đọng lòng mình để suy tư
niềm thế sự:
“Vô đoan điểm trích giai tiền vũ,
Tự hữu u nhân ngữ dạ trì”
(Khuê tình, H.98)
(Mưa vô cớ rơi rả rích trước thềm,
Dường như có mối u tình thổ lộ lúc đêm chầy.)
(Tình nơi phòng khuê, H.98)
Thiên nhiên vốn trong sáng, lành hiền, nó như tấm gương trong mà chỉ những
ai có tâm hồn thanh cao soi vào mới thấy. Nguyễn Bỉnh Khiêm là người như thế,
ông đã nhấn được vào chỗ tinh vi nhất để gợi dậy sức sống tiềm tàng trong lòng
thiên nhiên, để rồi đến lượt mình thiên nhiên như bung tỏa hương sắc say nồng
56

khiến cho tâm hồn thi nhân cũng được nương theo chất ngất. Người và cảnh trong
thơ ông thường có những phút giây giao hòa tuyệt diệu như thế:
“Hương đầy tiệc khách hoa khi rụng,
Hứng đẫy vườn xuân chim thuở kêu”
(Bạch Vân quốc ngữ thi, bài 37)
Đúng là có đắm mình vào thiên nhiên mới biết được những gì mà thiên nhiên
mang lại cho con người thật là tuyệt diệu, thiên nhiên có thể kích hoạt tất cả những
cảm xúc tinh tế, sâu sắc nhất trong tâm hồn thi nhân:
“Phương thảo cung ngâm xuân ý túc,
Bán song hoán thụy điểu thanh trì”
(Hoa cỏ thơm tho giúp ngâm vịnh, ý xuân đầy đủ.
Bên cửa sổ đóng một nửa, tiếng chim thức muộn)
(Ngụ Hứng, H.30)
Thiên nhiên như bồi đắp, gột rửa tâm hồn nhà thơ, đưa nhà thơ quay về với
cuộc sống giản đơn thuần hậu, chất phác “đói ăn, khát uống, mệt ngủ” hoàn toàn
thuận theo tính tự nhiên. Đây chính là lối sống của một con người đạt đạo: sẵn sàng
đổi lấy công danh, phú quý để được sống nhàn. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã thực hiện
được lối sống ấy cho nên ông ngông nghênh tự đắc:
“Đèo núi vỗ tay cười khúc khích,
Rặng thông vắt cẳng hát nghêu ngao”
(Bạch Vân quốc ngữ thi tập, bài 143)
Lão - Trang đồng nhất thiên nhiên với Đạo, con người với thiên nhiên là đồng
nhất thể, từ một nguồn gốc và kêu gọi mọi trở về với cái mộc mạc chất phác, nghĩa
là trở về với thiên nhiên. Bởi thế, trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, ta thấy ông không
chỉ say đắm thiên nhiên yêu mến mà với thiên nhiên Nguyễn Bỉnh Khiêm còn cho
thấy thái độ trân trọng. Ông luôn lo sợ vẻ đẹp mong manh của một bóng hoa, làn
hương mà ông đã nương song chờ đợi dễ tan, dễ vỡ, luôn hồi hộp lo âu sợ trăng sẽ
biến vào bóng đêm:
“Nương song ngày tiếc mùi hương lọt,
57

Nối chén đêm âu bóng quế tan”


(Bạch Vân quốc ngữ thi tập, bài 23)
Trở về làng quê, sống hoà mình vào thiên nhiên, đó là một biểu hiện rõ nét
của tinh thần thuận theo tự nhiên, tiêu dao, phóng nhiệm. Có thể nói, thiên nhiên đã
giúp Nguyễn Bỉnh Khiêm khôi phục lại trạng thái nguyên sơ hồn hậu của cảm xúc
và cái thiên nhiên thứ hai do tác giả sáng tạo nên giúp người đọc cảm nhận được
không chỉ hương vị tinh khiết của hoa, của cỏ mà chủ yếu là của chính tâm hồn thi
nhân phả ra. Một thiên nhiên không làm cho người đọc lãng quên cuộc sống trước
mắt mà lại có tác dụng nâng tâm hồn người đọc lên, khiến người đọc trong phút
chốc như được thanh tao hơn, nhẹ nhành hơn. Đó chính là khả năng cảm hóa diệu kì
của thiên nhiên trong sáng.
Bên cạnh lý tưởng thanh nhàn, có thể coi chủ đề giàu sang - nghèo khó là một
chủ đề quan trọng trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm vì nó bao hàm những quan niệm
về đạo đức và quan niệm cuộc sống của nhà thơ.
Qua chuyện ngụ ngôn về cây xư to lớn nhưng vì cành lá cong queo, thân hình
xấu xí mà được hưởng trọn tuổi trời, Trang Tử muốn khuyên mọi người nên giấu
mình đi, không nên tranh giành hơn thua chỉ chuốc lấy phiền muộn về phía mình.
Thật ra đây không phải là cách né tránh hay trốn chạy cuộc đời mà là khi con người
rơi vào một cảnh ngộ không làm gì khác được thì phải đành lựa chọn một cách ứng
xử phù hợp. Đó là sự vận dụng triết lý “minh triết bảo thân” trong thời ly loạn.
Trở về với cuộc sống thanh nhàn, ông tiên không cầu sự giải thoát mà chỉ cầu
sự thích chí, mong cho “Nội đắc tâm thân lạc; Ngoại vô hình dịch lụy” (Bên trong
được cái vui của tâm, của thân; Bên ngoài khỏi có cái lụy hình dịch) (Cảm hứng).
Tránh cái lụy “hình dịch” tức là tránh khỏi sự chăm lo phục vụ cho hình xác, không
để cho sự ham muốn tầm thường làm cho vất vả quay cuồng, Nguyễn Bỉnh Khiêm
chọn cách sống vô cùng giản dị, nghĩa là chấp nhận một cuộc sống nghèo về vật
chất nhưng lại rất giàu có về tinh thần. Tuy trước đây nhà thơ từng là “khách nơi
ngựa vàng nhà ngọc”, từng có lúc hưởng vinh hoa phú quý nơi cửa quyền, nhưng
cuộc sống đó không theo nhà thơ về quán Trung Tân, ngược lại ông sống giản dị,
58

đạm bạc mà thanh cao, miễn là được vui với cái thú tâm đắc từ thuở nào. Cuộc sống
của Nguyễn Bỉnh Khiêm bây giờ chẳng khác gì cuộc sống của những người nông
dân trong thiên Đạo Chích mà Trang Tử xây dựng nên: “Cùng ở với hươu nai…
Cày mà ăn, dệt mà mặc”.
Với những dụng cụ lao động trong tay mình cụ Trạng bắt tay ngay vào công
việc đồng áng với phương châm: “Tạc tỉnh nhi ẩm, canh điền hi thực” (đào giếng
mà uống, cày ruộng mà ăn):
“Cày ăn, đào uống yên đòi phận”
(Bạch Vân quốc ngữ thi, bài 50)
“Ruộng thời hai khóm đất con ong,
Thầy tớ cùng cày kẻo muộn mòng”
(Bạch Vân quốc ngữ thi tập, bài 5)
“Ao cạn vớt bèo cấy muống,
Trì thanh phát cỏ ương sen”
(Bạch Vân quốc ngữ thi, bài 128)
“Tài cúc dinh tiền vô tục khách,
Cán y khê ngoại hữu thanh lưu”
(Trồng cúc ở trước sân, không có khách tục đến,
Giặt áo ở ngoài khe, sẵn có dòng nước trong)
(Ngụ hứng, bài 3)
Cụ không còn nề hà, câu chấp khi làm bất cứ công việc gì, kể cả chuyện giặt
giũ. Không ai có thể tin được vào mắt mình khi một vị quan đầu triều lại có thể làm
những công việc vặt vãnh ấy, nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêm đã làm được. Một khi đã
quyết định chấp nhận “để rẻ công danh đổi lấy nhàn” cụ đã hình dung được trước
cuộc sống nghèo khó này:
“Tính thơ dại cũ hãy còn đeo,
Nẻo được nhàn thì kẻo có nghèo”
(Bạch Vân quốc ngữ thi tập, bài 35)
59

Với những nhân cách lớn, những tài năng lớn khi không được trọng dụng thì
chọn con đường rút lui để sống cuộc đời bình thường cũng là cách giữ mình khi
không muốn theo cái ác, cái xấu. Ở họ sự lựa chọn đó cũng là một biểu hiện tầm
vóc của một vĩ nhân. Họ khác với thói thường người đời hễ “thùng rỗng thường kêu
to”. Những người cố chứng tỏ mình thì là những người kém cỏi. Những vĩ nhân lại
lại có dáng vẻ bề ngoài bình dị. Lão Tử khái quát: “Đại thành nhược khuyết; kỳ
dụng bất tệ. Đại doanh nhược xung, kỳ dụng bất cùng. Đại trực nhược khuất. Đại
xảo nhược chuyết; đại biện nhược nột” [29, tr.75] (Cái đầy đủ nhất có vẻ như thiếu
sót. Cái đầy ắp có vẻ như trống rỗng. Người cực thẳng có vẻ như cong. Người cực
khéo có vẻ như vụng. Người biện luận giỏi có vẻ như ấp úng).
Với trường hợp của Nguyễn Bỉnh Khiêm, ta nhận thấy rằng ông lấy cái bình
thường để che giấu cái phi thường, sống giữa đời bình dị, lấy cái dáng vẻ tầm
thường để che giấu cái hào quang phi thường, nhờ đó có thể sống và vui giữa đời
thường nhưng vẫn có cốt cách lão thực phi phàm. Đúng như Lão Tử có nêu: “thị dĩ
thánh nhân, phương chi bất cát; liêm nhi bất quệ; trực nhi bất tứ; quang nhi bất
diệu” [29, tr.70] (Thánh nhân để mình vuông vắn mà không cắt nó, mình liêm khiết
mà không làm tổn thương người khác, mình trực mà không ngang ngược, mình
sáng mà không chói lòa). Nguyễn Bỉnh Khiêm từng giữ những trọng trách trong
triều đình nhưng khi về ở ẩn ít ai ngờ cuộc sống của vị quan đầu triều này lại giản dị
như thế. Ông vui với bữa cơm dưa muối, áo tơi, chè mai, hiên nguyệt, cái lều, am
quán... Cuộc sống thật là giản dị. Đó chính là hình ảnh “Thị dĩ thánh nhận bị hạt,
hoài ngọc” [29, tr.82] (thánh nhân mặc vải thô mà lòng âu ngọc).
“Cơm ăn chẳng quản mùi dưa muối,
Áo mặc nài chi gấm thêu”
(Bạch Vân quốc ngữ thi, bài 67)
“Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao”
(Bạch Vân quốc ngữ thi, bài 73)
“Lạnh thưở đông hằng nhớ bếp,
60

Nồng mùa hạ, kẻo đắp chăn”


(Bạch Vân quốc ngữ thi, bài 56)
“Thèm, nở phụ canh cua rốc,
Lạnh đà quen đắp ổ rơm”
(Bạch Vân quốc ngữ thi, bài 33)
“Cơm ăn chẳng quản mùi xa bạc,
Áo mặc nề chi tấm rách lành”
(Bạch Vân quốc ngữ thi, bài 85)
“Nhá rau lại tiếc mùi canh ngọt,
Nếm ếch còn thèm có giống măng”
(Bạch Vân quốc ngữ thi, bài 89)
“Xôi măng trúc đắng thèm thay thịt,
Đắp áo sô to lạnh kẻo chiên”
(Bạch Vân quốc ngữ thi, bài 19)
Ông nhàn sống yên vui qua ngày với những thức ăn thanh đạm sẵn có trong tự
nhiên, măng trúc đắng thay cho cao lương mỹ vị, áo vải thô thay cho chăn ngự hàn,
tôm cá hươu nai làm bạn tiêu khiển, lao xao xe ngựa cửa quyền không với tới được.
Nguyễn Bỉnh Khiêm bằng lòng với cảnh nghèo, vì theo ông sự giàu sang trên đời
rồi cũng theo những lạc thú vật chất mà có giới hạn; vả chăng nghèo là số trời,
người quân tử phải biết lạc đạo vong bần, vui theo thiên mệnh, không việc gì phải
oán trách hay buồn phiền:
“Phú quý đô tùng lạc hữu nha (nhai),
Bần do thiên phú oán vu hà”
(Gia bần, H.99)
(Sự giàu sang đều theo lạc thú mà có giới hạn,
Nghèo là do trời phú, oán trách làm gì?)
(Nhà nghèo, H.99)
Các bậc hiền triết ngày xưa coi thường đời sống vật chất. Khổng Tử nói:
“Phạn sơ thực, ẩm thủy, khúc quăng nhi chẩm chi, lạc diệc tại kỳ trung hĩ” (Ăn
61

cơm hẩm, uống nước lã, co cánh tay gối đầu mà nằm, cũng lấy làm vui). Lão Tử
cho rằng: “Tri túc giả phú” (kẻ nào biết đủ là giàu). Nguyễn Bỉnh Khiêm an nhiên
tự tại, vui với cuộc sống đơn sơ đạm bạc của ẩn giả nên không cho là nghèo:
“Minh nguyệt thanh phong tùy xứ hữu,
Sinh nhai tiện túc bất vi bần”
(Tân quán ngụ hứng, H.66)
(Trăng trong gió mát nơi nào cũng có,
Cuộc sống biết đủ nên không cho là nghèo.)
(Ngụ hứng ở nhà bên sông, H.66)
Tâm hồn tiêu sái, thích thảng, nhẹ tênh khi con người đã diệt được vật dục và
cảm thấy mãn nguyện với cuộc sống bình dị của mình. Có được cảm giác đó là bởi
vì cái tâm của ông không hề bị vật chất làm cho xao động, ông đã gạt bỏ ngoài mình
mọi thói tục tầm thường để chọn cho mình cuộc sống: nghèo mà không hèn, đạm
bạc mà vẫn thấy tươi ngon:
“Cơm no tôm cá kẻo thèm thuồng”
(Bạch Vân quốc ngữ thi tập, bài 38)
“Bạn có cá tôm giàu được thú”
(Bạch Vân quốc ngữ thi tập, bài 27)
“Cá tôm bữa miếng mọi mùi tươi”
(Bạch Vân quốc ngữ thi tập, bài 144)
Trạng Trình còn thấy mình thật sự giàu có, sự giàu có đâu được đo đếm bằng
tiền của, vật chất tầm thường. Sách là của cải, thiên nhiên bát ngát là vàng bạc:
“Đồ thư một cuốn nhà làm của,
Phong nguyệt năm hồ, khách nỗi thuyền”
(Bạch Vân quốc ngữ thi, bài 45)
Trong thiên Đại Tông Sư, Trang Tử có nêu lên phẩm chất của bậc thánh nhân
là: “Lòng rộng rãi hư không, không thích phù hoa”. Ta thấy trong thơ Nguyễn Bỉnh
Khiêm, cuộc sống chất phác của ông thể hiện trên cả ba phương diện: công việc, nơi
ăn chốn ở và thú vui. Ta không còn thấy hình ảnh của vị đại quan với mũ cao áo dài
62

nữa mà thay vào đó là hình ảnh một ông ngư, một lão nông thuần phác. Nhưng áo
tơi mà Nguyễn Bỉnh Khiêm tự khoác lên người đó vẫn không làm khuất lấp được
cái phong thái “ung dung, tự tại” của người mặc nó. Cái phong thái đủng đỉnh,
xênh xang chính là cốt cách lão thực phi phàm tóat ra từ bên trong con người đã
vượt lên trên thói tục. Trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm người đọc đã đôi lần bắt gặp
hình ảnh của một ông lão thất thểu vì say rượu, một lão ngư với nón lá áo tơi, nhà
thơ đã cố tạo một vẻ ngoài xuề xòa nhưng ẩn chứa bên trong là cả một viên ngọc
quý:
“Hồ hải biên chu ngư giả thùy,
Sinh nhai nhất lạp, nhất thoa y”
(Vấn ngư giả, H.44)
(Một con thuyền nhỏ, nổi trên hồ và biển, không biết người đánh cá
là ai,
Sinh nhai chỉ một cái nón lá và một cái áo tơi.)
(Hỏi ông lão đánh cá, H.44)
“Kìa ai đủng đỉnh trong làng hạnh,
Cơm một nãi, nước một bầu”
(Bạch Vân quốc ngữ thi, bài 95)
“Cơm một lưng, rượu một bầu,
Vui thửa đạo ắt chẳng âu”
(Bạch Vân quốc ngữ thi, bài 122)
Nguyễn Bỉnh Khiêm thong dong giữa đất trời, thỏa chí với niềm ước mơ sống
nhàn của mình. Chúng ta vẫn không quên trước đây Khổng Tử đã từng nhắc đến
cuộc sống thanh bần “Nhất biều ẩm, nhất đan tự” (Cơm một giỏ, nước một bầu) của
Nhan Uyên - một người học trò ưu tú thời xuân thu của mình. Đến lượt Nguyễn
Bỉnh Khiêm, ông cũng nhắc đến hình tượng cuộc sống này, hình tượng mẫu người
này với một cảm hứng sâu sắc như tiên nho. Nguyễn Bỉnh Khiêm không dừng lại ở
một nhân vật lịch sử và những khái quát hàm súc “cơm bầu, nước giỏ”. Nguyễn
Bỉnh Khiêm đã vẽ ra cuộc sống sinh động của bản thân:
63

“Sách có ba pho, rồi lại đọc,


Cơm vàng hai bữa đói rồi lại ăn”
(Bạch Vân quốc ngữ thi tập, bài 20)
Với Nguyễn Bỉnh Khiêm, men rượu là nguồn trợ hứng đắc lực trong những
cuộc du nhàn. Dù ngồi bên bờ sông ngắm nhìn chim chao liệng, nghe tiếng hát dân
chày, hay thưởng trăng đọc sách, cũng cần phải có rượu mới thêm ý vị:
“Giang quán đăng lâm nhật hướng tà,
Thừa nhàn bả tửu thính ngư ca”
(Đến quán bên sông lúc mặt trời đã xế bóng,
Nhân nhàn hạ, tay nâng chén rượu, tai nghe tiếng hát dân chày)
(Ngụ hứng, H.28)
“Tân đình túy ỷ cao ngâm túc,
Thời khán giang cầm khê điểu phi”
(Tại nhà bên bến ngồi say sưa cũng đủ ngâm cao giọng,
Lại có lúc xem chim bay liệng bên sông và khe)
(Tân quán ngụ hứng, H.12)
Gắn bó với thiên nhiên và cuộc sống ở thôn dã, nhà thơ cảm thấy mình gửi
thân đúng chỗ, có thể thoát ra ngoài hiện thực đen tối trọc loạn, thanh thản “thâu
nhàn trong quán Trung Tân”, giữ vững lí tưởng và tiết tháo của mình:
“Tiếu tha danh lợi khổ tương tranh,
Trùng mịch u cư lão thử sinh”
(Cười họ tranh nhau một cách gay gắt,
Ta lại tìm một chỗ ở thanh vắng để trọn đời mình)
(Trung Tân quán ngụ hứng)
Càng chán ghét thói đời gian xảo, đường hoạn lộ đầy hệ lụy, ông càng thấy
nông thôn thuần phác, đáng mến và cuộc sống đạm bạc nơi thôn quê đầy lạc thú.
Bạch Vân cư sĩ đã đặt mình ra khỏi không gian của cõi tục, tự yên vui với điều kiện
vật chất vô cùng giản dị, đạm bạc, không đòi hỏi. Ta bắt gặp trong đó niềm vui của
nhà nho chấp nhận cuộc đời một giỏ cơm, một bầu nước, sống trong ngõ hẻm của
64

Nhan Uyên. Nho giáo ca ngợi cuộc sống bần hàn có mục đích là đề cao khía cạnh
đạo đức, giữ nếp sống giản dị đơn sơ cũng là giữ cho nhân cách thanh cao. Những
tư tưởng đó cũng gần với tư tưởng Lão - Trang: Sống kham khổ, thuận theo tự
nhiên, không lo lắng, không ưu hoạn vì thân, không bị ràng buộc bởi vật chất. Đó là
cách sống tu thân, tu luyện khắc khổ nhằm đạt tới tự do tuyệt đối cho tâm hồn. Đây
chính là cuộc sống của thần tiên trên núi Cô Dạ mà Trang Tử đề cập đến “bất thực
ngũ cốc, hấp phong ẩm lộ, thừa vân khí, ngự phi long nhi du hồ, tứ hải chi ngoại, kỳ
thần ngưng, sử vật bất tì lệ, nhi niên cốc thục” [1, tr.130] (không ăn ngũ cốc, chỉ hít
gió uống sương mà sống; họ cưỡi mây và rồng bay mà đi chơi khắp ngoài cõi bốn
bể). Một môi trường sống thanh nhàn gần như tuyệt đối “không có lấy nửa hạt bụi
vướng cảnh nhà tiên”. Sống trong môi trường đó con người thực sự “không cầu
công, không cần danh”, “được chẳng mừng, mất chẳng âu”. Hòa vào thiên nhiên
nên không màng đủ, không sợ thiếu.
2.3. Xem công danh như áng phù vân - một biểu hiện của quan niệm “đời là
giấc mộng”
2.3.1. Quan niệm đời là giấc mộng của Trang Tử
Trang Tử và Lão Tử chủ trương quay trở về với cái Đạo tự nhiên, nhằm đạt
đến sự nhất thể với vạn vật trời đất, thực hiện cái đẹp tự nhiên, cũng chính là muốn
đạt đến một sự tự do về tinh thần, thoát khỏi mọi vất vả vật chất, gánh nặng có tính
xã hội nhằm đạt được nhân cách tự do tuyệt đối trong “Thể đạo”. Điều này nói lên
rằng: đưa con người ngao du ở cõi vô thủy, vô chung, dung mạo và hình dáng hợp
với Đại đồng. Hợp với Đại đồng thì tự bản thân mình hợp với vạn vật nên quên thân
mình, đã quên chính mình thì làm sao có thể nắm giữ được hình tướng. Nắm giữ
được hình tướng là người quân tử trước đây, thể hội được cái “vô” mới là bạn của
trời đất. Cho nên có thể nói rằng Trang Tử đã xây dựng một nhân cách lý tưởng
theo kiểu Đạo gia là nhân cách tự do thần du trong tự nhiên.
Trang Tử không những đề xuất nhân cách lí tưởng của tự do tinh thần theo
kiểu tự nhiên mà còn có những giải đáp riêng về vấn đề sinh tồn không thể trốn
tránh mãi đối với cuộc sống cá thể. Đặc trưng tổng quát của triết học nhân sinh Đạo
65

gia là mưu cầu sự giải thoát và siêu thoát về mặt tinh thần khỏi cảnh ngộ khó khăn
của cuộc sống hiện thực, từ đó mà đạt được sự yên tĩnh và ổn định của tâm hồn.
Trang Tử cho rằng “tử sinh bất nhập vu tâm” (ở trong lòng không có sự sống và cái
chết). Cho nên “Sinh dã tử chi đồ, tử dã sinh chi thủy, thục tri kì kỳ kỹ! Nhơn chi
sinh, khí chi tụ giả, tụ tắc vi sinh, tán tắc vi tử. Nhược tử sinh vi đồ, ngộ hựu hà
hoạn! Cố vạn vật nhất dã” [1, tr.534]. (Sống là sự kế thừa của cái chết, chết là sự
bắt đầu của cuộc sống. Ai biết được quy luật của nó! Con người sinh ra là do sự
ngưng tụ của Khí, Khí tụ thì sống, khí tán thì chết. Nếu xem sống chết là bạn của ta,
thì sao lại có sự lo âu. Bởi vậy, vạn vật là một). Chính như vậy mới giải quyết được
triệt để sự lôi kéo của công danh, lợi lộc của thế tục, gạt bỏ những rắc rối của nhân
thế mà đạt đến sự yên tĩnh trong tinh thần.
Nam Hoa Kinh có nhiều thiên thể hiện sự chán chường, phủ định cuộc sống
của Trang Tử: “Tích giả Trang Châu mộng vi hồ điệp, hủ hủ nhiên hồ điệp dã, tự
dụ thích chí dữ bất tri Châu dã. Nga nhiên giác, tắc cừ cừ nhiên Châu dã. Bất tri
Châu chi mộng vi hồ điệp dư? Hồ điệp chi mộng vi Châu dư? Châu dữ hồ điệp, tắc
tất hữu phận hĩ. Thử chi vị Vật hóa” [1, tr.242] (Xưa Trang Châu chiêm bao thấy
mình là bướm; vui phận làm bướm, tự thấy thích chí, không còn biết có Châu nữa.
Chợt tỉnh giấc, thì lại thấy mình là Châu. Không biết Châu chiêm bao là bướm, hay
bướm chiêm bao là Châu? Châu và bướm ắt phải có tánh phận khác nhau. Đó gọi là
vật hóa). “Trang Chu mộng hồ điệp hay hồ điệp mộng Trang Chu”, câu chuyện
trong Nam Hoa Kinh cho biết rằng, đối với Trang Tử, cuộc đời này chỉ là một giấc
mộng, kiếp phù sinh, ngắn ngủi, hư ảo. Ông ghi lại giấc mơ thấy mình hóa bướm và
vì thế rất lấy làm thích chí. Tỉnh dậy ông không còn nhớ chắc mình hóa ra bướm
hay bướm hóa ra mình. Trang Tử còn ví cuộc sống buồn tẻ như một giấc ngủ thầm
lặng và khi ngủ dậy người ta thấy ngạc nhiên và sợ hãi. Tựu trung lại, theo Trang
Tử, cuộc đời này không có ý nghĩa gì tốt đẹp cả, đầy mộng ảo và sợ hãi. Nhận thức
như vậy tất yếu sẽ đi đến hệ quả không hề nuối tiếc, muốn chối từ cuộc sống. Dù có
cố gắng cách mấy cuối cùng con người vẫn chẳng có được gì: “Hiệu vật chi số vị
chi vạn nhơn xử nhất yên, nhơn tốt cửu châu cốc thực chi sở sinh châu xa chi sở
66

thông, nhơn xử nhất yên; thử kỳ tỉ vạn vật dã, bất tợ hầu mạc chi tại ư mã thể hồ?
Ngũ đế chi sở liên, tam vương chi sở tranh, nhân nhơn chi sở ưu, nhiệm sĩ chi sở
lao, tận thử hĩ !” [1, tr.457] (Vạn vật lấy số muôn mà nói thì con người chỉ được có
số một mà thôi... Chỗ liên tiếp của ngũ đế, chỗ tranh giành của tam hoàng, chỗ lo
lắng của người nhân, chỗ nhọc nhằn của kẻ sĩ, rốt lại có chi).
2.3.2. Giấc mộng công danh trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm
Học phái Lão - Trang quan niệm vạn vật khởi nguyên từ Đạo, “tự vi, tự hoá”
rồi theo luật phản phục mà “phục bản qui căn”, trở về với Đạo. Lão Tử còn quan
niệm Đạo là sự kết hợp giữa thường vô và thường hữu. Mọi thứ trong cuộc đời này
(hữu) là từ vô mà sinh ra rồi sẽ trở về vô. Sự tồn tại của con người và những thứ mà
con người tạo ra cũng thế, tất cả chỉ là huyễn ảo. Chỉ có trở về với Đạo mới là tồn
tại vĩnh cửu bất biến (thường). Hiểu được lẽ đó là sự sáng suốt (tri thường viết
minh). Người ngộ ra chân lý ấy là những bậc đạt Đạo.
Nguyễn Bỉnh Khiêm nhận ra bản chất huyễn ảo của cuộc đời từ những “sự
đời” mà ông đã từng chứng kiến, từng trải: cảnh “thương hải tang điền” trong
những cuộc chiến tranh và cảnh tranh giành quyền lợi chốn quan trường dẫn đến
việc từ “có” phút chốc biến thành “không” ở thời bình. Trải qua những cuộc bể
dâu, mất còn như thế nên việc Nguyễn Bỉnh Khiêm đến với Lão - Trang cũng là
điều dễ hiểu. Đạo gia quan niệm thời gian là trường cửu, cũng như không gian là vô
thủy vô chung: “Thiên trường địa cửu. Thiên địa sở dĩ năng trường thả cửu giả, dĩ
kỳ bất tự sinh cố năng trường sinh” [29, tr.19] (Trời dài đất lâu. Trời đất sở dĩ có
thể dài và lâu vì nó không sống cho mình. Cho nên nó mới có thể sống mãi). Đời
người nếu so sánh với thời gian miên miên bất tận cũng chỉ là một ánh chớp lóe.
Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm rất nhiều bài đề cập đến thời gian đời người dựa trên sự
đối lập giữa cái trường cửu và cái ngắn ngủi. So với thời gian trường cửu, vô thủy
vô chung của Đạo thì kiếp sống trăm năm của con người chỉ là một giấc chiêm bao.
Tư tưởng Lão - Trang đã cho Nguyễn Bỉnh Khiêm thấu rõ bản chất huyễn ảo của
cuộc đời và cuộc đời mà Nguyễn Bỉnh Khiêm chứng kiến lại giúp ông có dịp soi rọi
lại học thuyết Lão - Trang. Ông thường ví cuộc đời là giấc mộng, giấc chiêm bao:
67

giấc hòe, chiêm bao… Nguyễn Bỉnh Khiêm nhận thấy nhân sinh chỉ là giả huyễn,
tạm bợ:
“Cổ vãng kim lai, sinh nhược ký”
(Xưa qua nay lại, sống cũng như gửi)
(Mộ xuân cảm tác, H.63)
“Tự tín đắc giai chung hữu thất”
(Ta tin rằng sự đời việc gì được rồi cũng mất cả)
(Khiển hứng)
Sống giữa thiên nhiên, có nhiều dịp chứng kiến và suy nghiệm mọi sự biến
dịch của ngoại cảnh, dù biết đó là quy luật của tự nhiên nhưng nhà thơ cũng chạnh
lòng cảm khái. Khói tỏa trong thôn và nước chảy bên khe khi đậm khi nhạt, trăng
chiếu trên sông và mây phủ đầu núi lúc có lúc không chính là hình ảnh sát đúng của
tình người tráo trở và đường đời cùng thông:
“Thôn yên khê thủy nùng hoàn đạm,
Giang nguyệt sơn vân sắc thị không.
Thế sự nhân tình chi như thư,
Mệnh đồ hưu quái hữu cùng thông”
(Khói trong thôn và nước trong khe đậm rồi lại nhạt,
Trăng trên sông và mây đầu núi sắc mà là không.
Việc đời mà tình người cũng chỉ như thế,
Nên trên đường đời đừng lấy làm lạ có lúc cùng thông)
(Ngụ Hứng, H. 29)
Nguyễn Bỉnh Khiêm tinh thông Dịch lý nên nhìn nhận sự vật luôn theo chiều
hướng biến đổi không ngừng nhưng không phải là biến chuyển theo một đường
thẳng mà sinh hóa vận hành liên tục theo một vòng tròn với quy luật tuần hoàn phản
phục, như ngày đi đêm lại, hết lạnh đến nóng, xuân sinh hạ trưởng, thu liễm đông
tàn… Quan niệm vạn vật biến đổi được nhà thơ kiểm chứng thực tại bằng những
hiện tượng từ thế giới tự nhiên. Nhìn con tạo xoay vần khiến cho hoa bao phen tươi
68

rồi lại héo, nở rồi lại tàn, nước chứa cho khi đầy ắt có khi vơi, cũng như nơi phồn
hoa đô hội có lúc ồn ào náo nhiệt rồi đến lúc sẽ lạt phai:
“Vô cùng xuất một niên niên nguyệt,
Kỷ độ vinh khô thụ thụ hoa”
(Độc phật kinh hữu cảm, H.41)
(Từ năm này qua năm khác, trăng mọc rồi lại lặn không cùng tận;
Hết cây này đến cây kia, hoa tươi rồi khô biết bao lần.)
(Cảm tưởng khi đọc kinh phật, H.41)
“Thoi nhật nguyệt đưa thắm thoát,
Áng phồn hoa khá lạt phai.
Hoa càng khoe nở, hoa nên rửa,
Nước chứa cho đầy, nước ắt vơi”
(Bạch Vân quốc ngữ thi, bài 48)
Để rồi từ đó nhà thơ thảng thốt nhận ra đời người cũng ngắn như đời hoa, con
người sinh ra là đã gắn mình vào quy luật “ sinh, trụ, dị, diệt” không thể nào gỡ ra
được:
“Tuổi đà ngoại tám mươi già,
Thoắt thoắt xem bằng bóng ngựa qua”
(Bạch Vân quốc ngữ thi, bài 14)
Cứ quan sát vũ trụ thì biết, trời hết mưa rồi nắng, phong ba bão tố rồi cũng đến
lúc bình yên cũng như cuộc đời có thịnh tất có suy, đắc đi liền với thất. Con người
phải nắm vững quy luật đó để ứng xử sao cho phù hợp với trường hợp mà mình
đang trải qua để “được ắt chẳng mừng, mất chẳng âu”. Tất cả mọi sự việc, sự vật
trên đời đều là vô thường. Không có rồi lại có. Quan niệm “sắc không, không sắc”
của Phật giáo được đưa vào trong thơ của cụ Trạng một cách nhẹ nhàng mà thấu
đáo:
“Thiên địa bản doanh hư,
Bội nhập diệc bội xuất.
Hựu bất kiến:
69

Quỉ thần bản ố doanh,


Bạo đắt tùy bạo thất.
Tòng đầu sắc thị không,
Bản lai vô nhất vật”
(Cảm thời cổ ý)
(Trời đất vốn là đầy, lại là vơi,
Bỗng vào mà lại bỗng ra.
Lại chẳng thấy:
Quỷ thần vốn ghét sự thịnh mãn,
Được một cách phủ phàng thì cũng mất một cách phũ phàng.
Từ đầu thì sắc đã là không,
Vốn là không có một vật gì cả.)
(Ý xưa cảm khái thời thế)
Tác giả chẳng những tiếp thu tư tưởng phật giáo mà còn nhận thức tư tưởng đó
từ Lão - Trang. Trang Tử cho rằng người ta sống trong khoảng trời đất, như con
ngựa trắng chạy qua khe cửa sổ, vụt qua mà thôi “Nhân sinh thiên địa chi gian,
nhược bạc câu quá khích, hốt nhiên nhi dĩ”. Cuộc đời Nguyễn Bỉnh Khiêm quả là
một giấc mộng lớn, công danh đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ là quán trọ và thời
gian chỉ là khách qua đường. Từ một vị quan đầu triều áo mũ xênh xang, kẻ hầu
người hạ phút chốc nhà thơ đã hóa thành lão nông dân cày ruộng, đào ao với áo thô,
vải sờn:
“Tịch liêm Kim Mã Ngọc Đường khách,
Khim bạn thanh sơn bích thủy nhân”
(Tự thuật, H.1)
(Trước đây từng là khách nơi ngựa vàng, nhà ngọc,
Bây giờ là người bạn của non xanh nước biếc.)
(Thuật ý mình, H.1)
Nhận thức được sự biến đổi khôn lường của đời người, nhà thơ không thở
ngắn, than dài hoặc buông lung trong dục vọng mà bình thản chấp nhận sự chuyển
70

biến vô thường của tự nhiên, không tham luyến và bám víu vào những gì có tính
chất nhất thời và mộng huyễn, đồng thời biết tìm ra một thái độ sống thích hợp với
ý nghĩa đích thực của cuộc đời. Trong xã hội lắm kẻ “hôm nay quyền thế, ngày mai
bỗng sa cơ”, thì có gì là bền vững:
“Mây nổi chiêm bao có thấy đâu?
Lâng lâng từng trải sự sang giàu.
Sao dời vật đổi trong nền tướng,
Nước chảy hoa bay áng cửa hầu”
(Bạch Vân quốc ngữ thi, bài 99)
Cuộc sống giàu sang, phú quý không giữ nỗi chân người, lợi danh luôn tồn tại
những mặt trái của nó. Như trên chúng tôi đã phân tích Nguyễn Bỉnh Khiêm cho
rằng công danh thường đi kèm với lụy, công danh cho người ta tất cả nhưng cũng
dễ dàng lấy đi của người ta tất cả. Nguyễn Bỉnh Khiêm hay nói về sự mong manh,
hư ảo, phù phiếm của công danh:
“Phú quý công danh đô thị mộng,
Cổ kim lai vãng kỷ hi nga”
(Bạch Vân am ngụ hứng, H.27)
(Phú quý công danh đều là mộng cả,
Xưa nay qua đến được mấy buổi đẹp trời ?)
(Ngụ hứng ở am Bạch Vân, H.27)
Đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm thì công danh chẳng qua là giấc mộng, đây chính
là giấc mộng của Trang Chu. Nó chỉ tồn tại trong mộng tưởng, qua giấc hòe an thì
vụt tan mất, con người không thể kiểm soát và nắm bắt được. Thấy được sự vô
nghĩa và phù phiếm của nó nên từ lâu cụ Trạng đã xem “Công danh hai chữ đã
nhường người”. Trong khi bao nhiêu người say nó, đổ xô giành giật để có được nó
thì nhà thơ đã dửng dưng đứng ngoài cuộc để mà nhìn nó, chiêm nghiệm nó như
một người ngoại đạo:
“Rượu đến cội cây ta sẽ uống,
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao”
71

(Bạch Vân quốc ngữ thi tập, bài 73)


“Danh lợi lâng lâng gió thổi qua”
(Bạch Vân quốc ngữ thi tập, bài 1)
Nhìn chung triết lí về quy luật xoay vần của cuộc sống xuất hiện thường xuyên
trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm. Sống trong một thời đại mà mâu thuẫn xã hội diễn
ra gay gắt, quyết liệt thì việc người thầy Tuyết Giang đưa ra những triết lý về quy
luật biến hóa tự nhiên, xã hội là điều cần thiết để cảnh tỉnh người đời hãy quên đi
những giấc mộng bá quyền mà xây dựng cuộc sống xã hội tốt đẹp hơn.
2.3.3. Sự biến đổi thăng trầm nhanh chóng của vinh và nhục - hệ quả của
được và mất trên đường công danh trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm
Để đạt được cuộc sống nhàn nhã, thong dong không để ngoại vật cản trở mình
trong quá trình tu thân, đạt đạo. Bên cạnh việc gác bỏ công danh, Lão Tử còn chủ
trương khuyên con người hãy giữ tâm mình bình lắng, không nên đua tranh, bởi
người quân tử đặc biệt là những người theo nho gia vốn dĩ ôn hòa lễ nhượng, dưỡng
vụng (dưỡng chuyết), hay giữ vụng (thủ chuyết). Lão Tử cho rằng “thánh nhân chi
đạo, vi nhi bất tranh” [29, tr.93] (Đạo của thánh nhân làm mà không tranh). Trang
Tử cũng khuyên người ta trở về với thiên chân của mình “Cẩn thủ nhi vật thất, thị
vị phản kì chân” [1, tr.489] (Cẩn thận giữ gìn và đừng làm mất thiên tính, đó gọi là
trở về với cái chân của mình).
Sống trong thời kì đầy biến động, kết hợp với cuộc sống sóng gió ở chốn quan
trường nhà thơ đã chứng kiến nhiều cảnh trái tai gay mắt, thói đời ganh đua, lừa lọc.
Từ lâu Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn lo ngại về một nỗi:
“Hiểm mạc hiểm thế đồ,
Bất tiển tiện kinh cức.
Ngụy mạc quy nhân tâm,
Nhất phóng tiện quý quắc”
(Hiểm không gì hiểm bằng đường đời,
Nếu không biết cắt bỏ đi thì toàn là chông gai cả.
Nguy không gì nguy bằng lòng người,
Nếu buông lỏng thì đều hóa thành loài quỷ quắc cả)
(Trung Tân quán ngụ hứng)
72

Xã hội là tổng hòa của con người, xã hội hỗn loạn là do mâu thuẫn giữa con
người với con người và cũng chính là do con người. Do vậy muốn dẹp được mâu
thuẫn trước hết phải dẹp bỏ tranh giành giữa con người, dẹp bỏ tính tự tư tự lợi. Do
con người có tính tư lợi nên gần thì cố chấp, chỉ cho mình là phải, chỉ biết cái lợi
bản thân, tranh giành quyền lợi, của cải. Cho nên Đạo gia chủ trương nhu nhược bất
tranh. Tranh giành hơn thua, không ai chịu nhường ai sẽ dẫn đến rối ren mọi
chuyện, trong xã hội nếu ai cũng biết nhường nhịn thì sẽ tránh được mọi tai vạ.
Cuộc sống thư thái nhàn tản đòi hỏi con người ta phải vượt lên trên thói phàm tục,
bỏ hết ngoài tai mọi lời khen chê, thị phi, đàm tiếu. Thật ra thị và phi hay điều phải
và điều trái ở đời chỉ có tính cách tương đối và chủ quan. Điều mà ta cho là phải có
lẽ đến sau này sẽ không còn là phải với ta nữa, việc mà ta cho là phải, người khác
không chắc cũng cho là phải như ta. Phải biến thành trái, trái biến thành phải, phải
do trái mà sinh ra, trái do phải mà có, không biết đâu là khởi điểm và tiếp nối nhau
không cùng như trên một vòng tròn. Người đạt đạo theo Trang Tử, không phải là
không phân biệt thị phi, nhưng đã vượt lên trên thị phi, nên không thiên hẳn bên nào
“Thánh nhân hòa chi dĩ thị phi, nhi hưu hồ thiên quân” [1, tr.62] (Bậc thánh nhân
vì sự hòa mà phải nói đến thị phi, nhưng đứng yên ở cốt trục của bánh xe trời). Là
người tuổi tác và từng trải Nguyễn Bỉnh Khiêm nhận thấy việc đời và lòng người
đổi thay nhanh chóng, phải đấy rồi trái đấy:
“Thế cố nhân tình thị cánh phi”
(Thế cố nhân tình thị lại phi)
(Tân quán ngụ hứng, H.12)
Trang Tử cho rằng sở dĩ không phân biệt được phải quấy là vì còn thấy có
“Đó”, có “Đây” . Theo ông “Đó” do “Đây” mà ra, “Đây” nhân “Đó” mà có… Một
khi lòng người không còn phân chia Nhĩ Ngã, sống được trong cái sống một của
Đạo rồi thì “Đó” là “Đây”, “Đây” là “Đó”, vấn đề phải quấy thiện ác tự nhiên sẽ
tiêu tan như là cơn mộng mị: “Ký sử ngã dữ nhược biện hĩ nhược thắng ngã, ngã
bất nhược thắng. Nhược quả thị dã, ngã quả phi dã da? Ngã thắng nhược, nhược
bất ngô thắng, ngã quả thị dã, nhi quả phi dã da? , Kỳ hoặc phi dã da? Kỳ câu thị
73

dã, kỳ câu phi dã da? Ngã dữ nhược, bất năng tương tri dã, tắc nhơn cố thọ kỳ đảm
ám, ngô thùy sử chánh chi?... Vong niên vong nghĩa chấn ư vô cảnh, cố ngụ chư vô
cảnh” [1, tr.235] (Nếu ta và ngươi cùng tranh biện: ngươi thắng được ta, ta không
thắng được ngươi, vậy ngươi hẳn đã là phải, mà ta hẳn đã là quấy chưa? Nếu ta
thắng được ngươi, ngươi không thắng được ta, vậy ta hẳn đã là phải, mà ngươi hẳn
đã là quấy chưa? Hay là khi thì phải, khi thì quấy hay sao? Hay là cả hai chúng ta
đều phải cả, hoặc cùng quấy cả hay sao? Ta và ngươi không thể biết được nhau, thì
người người đành phải chịu tăm tối rồi!...Quên sống chết, quên phải quấy là suốt
thông lẽ hư vô (vô cảnh), nên gửi mình vào cảnh hư vô (vô cảnh)). Nguyễn Bỉnh
Khiêm khuyên người đời không nên đua tranh làm gì, đổ xô vào việc đua tranh vì
được, thua chưa biết cuối cùng sẽ về ai nhưng nó cứ bắt con người ta phải lận đận
theo hoài chẳng thôi. Vậy thì tuy rằng có tranh biện mà vẫn không sao định đặng
phải quấy. Việc phải trái tương đối như thế nên các bậc thức giả phải biết đứng ra
ngoài cái vòng lẩn quẩn ấy để khỏi bận tân nhọc xác:
“Chỉ yếu đắc lạc tản,
Hà lao thuyết thị phi”
(Giang lâu thu nhật hiểu vọng, H.4)
(Tự thỏa thích vui vẻ quên sự nghèo đói,
Làm và nghĩ quên sự bó buộc.)
(Trên lầu bên sông buổi sáng nhìn ra xa, H.4)
Trạng Trình nhìn nhận kiếp sống nhân gian chỉ là ảo mộng, vậy thì thân phận
con người dù nghèo hay sang, dù hơn hay thua thì còn có nghĩa gì? Chỉ những kẻ
ngây ngô mới cố chấp bàn chuyện thị phi:
“Thế gian vạn sự không nhi sắc,
Quát quát hề lao thuyết thị phi”
(Ở đời mọi việc không mà sắc,
Sao còn ngây ngô nói chuyện thị phi làm gì cho mệt)
(Tân quán ngụ hứng, H.18)
74

Nguyễn Bỉnh Khiêm quan sát và nhận thấy rằng những người khôn là những
người thích đua chen và họ luôn hướng tới đỉnh cao của danh vọng và ngược lại
người dại thì họ luôn thích kỷ tự an, ngại chen chân vào chốn cửa quyền. Trong sự
đối lập giữa hai hạng người ấy, lúc nào ta cũng thấy nhà thơ luôn tự nhận mình là
dại cả:
“Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ,
Người khôn người đến chốn lao xao”
(Bạch Vân quốc ngữ thi, bài 79)
“Ngu dại trần trần là tính cũ”
(Bạch Vân quốc ngữ thi, bài 25)
Đây là một cách nói ngược nghĩa, đầy trí tuệ của nhà thơ. Một cách để đánh
lừa thiên hạ như Trang Tử đã đề cập trong câu chuyện ngụ ngôn về cây xư đó sao?
Lấy cái bề ngoài tầm thường của mình để che giấu cái phi thường ở bên trong vì thế
mà được bình an, vô sự. Sống nhằm thời tao loạn, nhân tâm điên đảo, trong khi mọi
người đều dùng trí mưu, ngụy trá để giành giựt, khuynh loát nhau, đua nhau tranh
khôn cậy khéo, thì riêng Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn giữ cho mình cái vụng, vì ông
quan niệm rằng vụng là cái đức của bậc chân nhân. Đạo gia chủ trương “tam tuyệt”:
“tuyệt thánh khí trí” [29, tr.31] (dứt thánh bỏ khôn), “tuyệt nhân khí nghĩa” (dứt bỏ
nhân nghĩa), “tuyệt xảo khí lợi” (dứt khéo bỏ lợi) để quay về cái “tố phác” (trắng
nõn, mộc mạc). Cụ Trạng cho rằng chuộng mưu và trí chẳng ích lợi gì, chỉ tổ làm
cho con người thêm lao tâm, mòn xác:
“Trí mưu tương thượng khổ lao thần”
(Trí mưu đều được chuộng nên phải khổ nhọc tinh thần)
(Cảm Hứng, H.39)
Con người ta ngoài những thứ bị che lấp như của cải, danh vọng ra thì sự tham
lam của bản thân cũng khiến cho con người ta đi vào con đường sai trái, mà sự
thông minh của ý chí lại là biểu hiện sự trí xảo của con người. Nhìn chung con
người luôn thích tỏ ra mình thông minh, nếu không thì không thu được thành tích.
Nhưng họ lại không biết rằng kết quả sẽ ngược lại, xã hội sẽ hỗn loạn bất an, bản
75

thân suốt ngày cũng không yên ổn. Lão Tử nói “Trí tuệ xuất, hữu đại nguy” [29,
tr.30] (Khi sự khôn ngoan, tính toán sinh ra là có cái dối trá lớn). Vì thế Nguyễn
Bỉnh Khiêm khuyên mọi người nên đối xử khiêm nhường với nhau, không nên
tranh giành vì tranh giành chẳng những không được gì mà trái lại chỉ làm mất lòng
nhau. Cũng với mong muốn đó, nhà thơ đề xuất quan niệm sống “khôn” và “dại” và
khuyên con người đừng tranh khôn, hãy tự nhận cái dại dẫu có chấp nhận thiệt thòi
về mình, để cầu lấy sự yên ổn:
“Nhân xảo ngã độc chuyết,
Thùy tri chuyết giả đức?
Ngã chuyết nhân giai xảo,
Thùy tri giả xảo tặc?”
(Hựu thập nhị vận, H.22)
(Người xảo mà riêng ta thì vụng,
Ai biết vụng là đức?
Ta vụng mà người thì đều xảo,
Ai biết xảo là giặc?)
(Lại làm thêm mười hai vần, H.22)
“Người dữ thì ta miễn có lành,
Làm chi đo đắn nhọc đua tranh”
(Bạch Vân quốc ngữ thi, bài 29)
“Người hơn ta thiệt thì dầu vậy,
Đấy thẳng đây chùng chẳng đứt đâu”
(Bạch Vân quốc ngữ thi, bài 64)
Lão Tử phản đối trí xảo, nhưng cũng không muốn biến con người ta thành
thằng ngốc, chỉ muốn người ta không làm xằng bậy mà thuận theo tính tự nhiên
“Đại xảo nhược chuyết, đại biện nhược nột” [29, tr.57] (Người thẳng lớn có vẻ như
cong, người khéo lớn có vẻ như vụng; người biện luận lớn có vẻ như ấp úng). Mà
làm theo tính tự nhiên là phải giữ hư tĩnh cho tâm hồn “Trí hư cực, thủ tĩnh đốc.
Vạn vật tịnh tác, ngô dĩ quan phục” [29, tr.28] (Hãy đạt đến cái trống không cùng
76

cực; hãy giữ lấy cái hết sức yên tĩnh). Lão Tử đề cao “thượng nhu” (chuộng mềm).
Lão Tử nói: “Phản giả đạo chi động, nhược giả đạo chi dụng” [29, tr.52] (Trở lại là
cái động của đạo, yếu mềm là cái dụng của đạo). Vì sao? Lão Tử chỉ rõ: “Thiên hạ
nhu nhược mạc quá ư thủy. Nhi công kiên cường giả, mạc chi năng thắng, kỳ vô dĩ
dịch chi. Nhu thắng cương, nhược thắng cường, thiên hạ mạc năng tri, mạc năng
hành” [29, tr.90] (Trong thiên hạ không có cái gì là yếu mềm như nước. Nhưng
dùng để công phá cái rắn mạnh thì không có gì hơn nó, và không có gì thay được
nó. Yếu mà thắng mạnh, mềm mà thắng rắn, thiên hạ không ai không hiểu, nhưng
không ai làm được). Tâm linh của con người ta vốn là hư tĩnh, nhưng luôn che giấu
những dục vọng, tư lợi nên rối loạn do vậy phải “thủ tĩnh”, gạt bỏ tư dục, làm cho
lòng mình trở về với bản tính hư tĩnh vốn có của nó. Tĩnh không chỉ có thể nhìn
nhận, quan sát mà còn có thể thắng được nóng nảy, hiếu động “Tĩnh thắng táo; hàn
thắng nhiệt; thanh tĩnh dĩ vi thiên hạ chính” [29, tr.57] (Tĩnh thắng động; hàn thắng
nhiệt; lấy thanh tĩnh để làm cho thiên hạ thành ngay). Thấu triệt công dụng của “hư
tĩnh” Trạng Trình khuyên mọi người luôn luôn kìm chế cảm xúc nóng nảy nhất thời
của mình, vì một khi nóng giận con người không làm chủ được chính mình nên dễ
dàng buông ra những lời lẽ sai trái làm phật lòng người khác và nhận lấy phần thiệt
về cho bản thân mình. Vì thế ông luôn đề xuất chủ trương nhường nhịn, cư xử ôn
hòa:
“Chữ rằng nhân “dĩ hòa vi quý”
Vô sự thời hơn kẻo phải lo”
(Bạch Vân quốc ngữ thi, bài 72)
Lão Tử nêu: bậc thánh nhân phải biết vô vi bất tranh “Giang hải sở dĩ năng vi
bách cốc vương giả, dĩ kỳ thiên hạ chi, cố năng vi bách cốc vương” [29,tr.78] (Sở
dĩ sông và biển có thể làm vị vua của trăm hang là vì nó khéo ở dưới thấp (so với
hang) cho nên có thể làm vua của trăm hang). Bậc thánh nhân phải đặc biệt khéo léo
trong hành xử không nên chỉ biết cái lợi trước mắt mà phải nghĩ đến cái lợi lâu dài:
“Dĩ kỳ bất tranh cố thiên hạ mạc năng dữ chi tranh” (Vì thánh nhân không tranh
giành nên thiên hạ không ai tranh giành được với ông ta) [29, tr.78]. Nguyễn Bỉnh
77

Khiêm nhìn thấy hết được mọi biến động của thời cuộc và đời sống thường nhật ô
trọc này. Cụ Trạng không chua cay, nhức nhối mà dùng lời lẽ ôn hòa, giọng điệu ôn
tồn, trầm tĩnh để răn dạy, can ngăn con người phải hướng thiện, luôn luôn giữ được
phẩm chất thanh cao trong mọi tình huống, gặp điều rủi cũng như điều may, tiếng
khen cũng như tiếng chê bao giờ tâm hồn cũng phải thản nhiên như mặt hồ thu
không chút gợn sóng:
“Vinh nhục bao phen hẳn đã từng,
Lòng người sự thế dửng dừng dưng.
Khen thì nên tốt, chê nên dại,
Mất ắt chẳng âu, được chẳng mừng”
(Bạch Vân quốc ngữ thi tập, bài 6)
Trong một xã hội đầy biến động và phức tạp, người ta giành giật đấu đá với
nhau từng chút một thì những lời giáo huấn của Nguyễn Bỉnh Khiêm tưởng chừng
như ảo tưởng nhưng đó lại chính là những liều thuốc quý hóa làm dịu bớt những
dục vọng sôi nổi và lòng kiêu hãnh không bờ bến của mọi người. Nó làm cho tâm
hồn của con người nhẹ nhàng thanh thản, không bị lôi cuốn bởi cuộc đấu tranh cho
sự sống.
Cụ Trạng như khuyên chúng ta đứng ra ngoài lề cuộc đấu đá vô nghĩa lý, trốn
tránh được những phiền não ở đời nhiều chừng nào hay chừng ấy. Ông không thôi
nhắc nhở mọi người điều đó để không phải rơi vào hoàn cảnh bất hạnh. Sống trong
một đất nước mà “Cương thường ngày một sụp lõng lẽo” loạn lạc, chiến tranh xảy
ra liên miên thì làm sao Tuyết Giang Phu Tử không coi trọng “vô sự hơn ngọc
vàng”. Sống trong xã hội mà “Giàu: trọng, Sang: yêu, Khó: chẳng vì” (Bạch Vân
quốc ngữ thi, bài 82) thì làm sao nhà thơ không để mặc ngoài tai những tiếng thị
phi:
“Được thua sau mới ăn năn lại
Vô sự chăng hơn có sự ru?”
(Bạch Vân quốc ngữ thi, bài 75)
“Mặc ai chê để, mặc yêu thương,
78

Vô sự thì hơn nữa ngọc vàng”


(Bạch Vân quốc ngữ thi, bài 90)
“Ở thế có khôn thì có khó,
Chữ rằng vô sự tiểu thần tiên”
(Bạch Vân quốc ngữ thi, bài 64)
Chịu ảnh hưởng triết lí Tống nho và Lão - Trang một cách sâu đậm, Nguyễn
Bỉnh Khiêm đã áp dụng chữ “hư” vào thái độ xử thế. Ông luôn nhìn mọi sự, mọi
vật bằng “hư tâm”. Tâm trống không thì lâng lâng vô sự, không còn tham dục,
không chấp thị phi, không có định kiến; nhờ vậy bản tính sẽ tự nhiên thuần phác,
tâm linh mới dễ dàng cảm thông với cái lí tự nhiên của trời đất, và bao giờ cũng giữ
được thần thái điềm tĩnh, thản nhiên trước mọi việc. Ông là một chân nhân đứng ra
ngoài, vượt lên trên sự tranh chấp xấu xa của mọi phe phái.
79

Chương 3. TƯƠNG QUAN NHO – PHẬT – ĐẠO VÀ NHỮNG YẾU TỐ


NHÂN SINH QUAN TÍCH CỰC TRONG THƠ NGUYỄN BỈNH KHIÊM
Tam giáo đồng nguyên là tinh thần chung của thời kỳ trung đại với đặc điểm
dung hoà những yếu tố tích cực của các tư tưởng triết học để nhận thức, giải quyết
các vấn đề của đời sống và bản thân nhà văn. Vì vậy, rất khó “bóc tách”, “phân
chất”, xác định tuyệt đối phần ảnh hưởng của tư tưởng Lão - Trang trong thơ
Nguyễn Bỉnh Khiêm mà chỉ có thể tìm thấy tương quan, ảnh hưởng qua lại, những
biểu hiện đậm nhạt của tam giáo trong từng tác phẩm hoặc trong hệ thống tác phẩm.
Khảo sát biểu hiện đậm nhạt của tam giáo trong mối tương quan này nhằm để tìm
hiểu tư tưởng chủ đạo của nhà văn, một việc làm rất có ý nghĩa trong việc xác định
loại hình tác giả văn học.
3.1. Tương quan Nho học và Đạo học trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm
3.1.1. Cách ứng xử vừa hợp với tư tưởng Nho gia vừa hợp với tư tưởng Đạo
gia
Tinh thần tri túc, công thành thân thoái trong tư tưởng Lão - Trang cũng có
nhiều nét tương đồng với quan niệm xuất xử, hành tàng của Nho gia: “Đạt nhi kiêm
tế thiên hạ, cùng tắc độc thiện kỳ thân” - Mạnh tử (Lúc gặp thời thì đem tài năng
giúp đời, gặp lúc cùng thì một mình giữ thân theo điều thiện). Đây chính là phần
tương quan, ảnh hưởng của hai học thuyết. Ứng xử của Nguyễn Bỉnh Khiêm (lui về
ở ẩn) vừa hợp với tư tưởng Nho gia, vừa hợp với tư tưởng Đạo gia.
Như đã nói ở phần trên quá trình hành tàng hay xuất xử của Trạng Trình là
một vấn đề bí ẩn và lí thú. Xuất thân từ cửa Khổng sân Trình, lại là người có tài
năng nhiệt huyết, triều đình nhiều lần tổ chức các khoa thi nhằm tìm kiếm nhân tài,
phụng sự cho Tổ Quốc. Thế nhưng nhà thơ vẫn mai danh ẩn tích vì ngán ngẩm sự
đời. Xã hội, triều chính lúc ấy quá rối ren và phức tạp, trong vòng 24 năm nhà Lê
thay đổi đến 6 ông vua. Mãi đến khi nhà Mạc cướp ngôi, tình hình xã hội nói chung
tương đối đã ổn định thì Nguyễn Bỉnh Khiêm mới ra ứng thí và thi đỗ khoa thứ ba
nhà Mạc khi ông 45 tuổi, gần đến tuổi “tri thiên mệnh”, qua cả thời kỳ tráng niên
đầy nhiệt huyết “tam thập nhi lập”, và giai đoạn trưởng thành, chín chắn “tứ thập
80

nhi bất hoặc”! Có thể nói Nguyễn Bỉnh Khiêm bước vào con đường công danh, thực
hiện nghĩa vụ hành đạo của kẻ sĩ khá muộn. Nhiều người cho rằng quyết định đầu
quân cho nhà Mạc của ông là một sự chọn lựa vô cùng sáng suốt. Đất nước rối ren,
nhà Lê không còn đủ bản lĩnh nắm vững ngọn cờ trị nước, các phe phái trong triều
không phe phái nào hơn được họ Mạc. Nguyễn Bỉnh Khiêm hoàn toàn không có lỗi
gì đối với nhà Lê, ông là một trí thức tự do, một tài năng lớn tất nhiên phải lựa chọn
thời thế và phải lựa chọn minh chúa để tôn thờ để có cơ hội thể hiện hết tài năng và
hoài bão của mình. Trở đi trở lại những trang thơ của Tuyết Giang phu tử ta thấy rõ
hoài bão của ông trước sau như một:
“Hà thời tái đổ Đường Ngu trị,
Y cựu càn khôn nhất thái hòa”
(Bao giờ lại được trông thấy đời Đường Ngu thịnh trị,
Cho khắp nơi chung hưởng cảnh thái hòa như cũ.)
(Ngụ hứng, H.28)
“Đã ngoài mọi việc chăng còn ước,
Ước một tôi hiền chúa thánh minh”
(Bạch Vân quốc ngữ thi, bài 26)
“Mừng thấy thời vần đời mở trị,
Thái bình thiên tử thái bình dân”
(Bạch Vân quốc ngữ thi, bài 133)
Và ông đã coi đó là trách nhiệm lớn lao nhất đời mình, nên khi không thực
hiện được lí tưởng ấy nhà thơ thấy xấu hổ:
“Muốn cho nhà chúa bằng Nghiêu Thuấn,
Phải đạo làm tôi kẻo hổ ngươi”
(Bạch Vân quốc ngữ thi, bài 137)
Với những ý nghĩ tích cực ấy Nguyễn Bỉnh Khiêm đã lao vào cuộc đem hết tài
năng, tâm huyết và sức lực của mình ra phụng sự cho nhà Mạc. Tuy nhiên triều Mạc
đã bộc lộ khá nhiều hạn chế hoàn toàn không giống với sở nguyện của nhà thơ. Ông
luôn bất bình trước xã hội đương thời, một xã hội loạn lạc, đạo đức suy thoái, người
81

dân khổ cực, lưu linh do chiến tranh liên miên,thói đời đen bạc, quan hệ giữa người
với người bị cái lợi, đồng tiền chi phối, trở nên tráo trở đến mức “bất cố liêm sĩ”:
“Còn bạc, còn tiền, còn đệ tử,
Hết cơm, hết rượu, hết ông tôi”
(Bạch Vân quốc ngữ thi, bài 71)
Tình thế khó khăn họ Mạc bất lực, đất nước khó tránh khỏi sự phân tranh, loạn
lạc còn dài. Phải chăng ông nhận thấy mình chỉ còn con đường là “Minh triết bảo
thân”. Kể cũng không còn một con đường nào khác được. Dù biết mà nào có thể
làm gì. Muốn làm chăng nữa thì nào ai khiến. Đến nói cũng chẳng ai nghe. Chỗ
ngồi của ông ở triều đình vô ích, vô nghĩa. Đã nguy hiểm vì ngày mai bất trắc, lại
mang tiếng tham quyền cố vị. Cho nên Trạng trình muốn rút chân ra khỏi cái triều
đình đang hồi phân liệt:
“Bình cư hữu tương quy,
Nhập triều phản tương kỵ”
(Bình thường có lúc hợp nhau đấy,
Vào đến triều đình đố kị ngay)
(Cảm hứng thi tam bách cú)
Quá trình làm quan, phụng sự cho nhà Mạc của Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ vỏn
vẹn có 7 năm 3 tháng nhưng ông luôn được đề bạt và cất nhắc khá nhanh. Từ chức
Đông các hiệu thư thăng lên đến Lại bộ Tả thị lang, chứng tỏ là con đường hoạn lộ
của ông cũng khá thuận lợi và được nhiều ơn mưa móc. Quá trình tại chức của ông
tại nhà Mạc đã thể hiện hết sự tận tâm của một nhà nho chân chính, kể cả lúc bỏ
quan trường về quê ở ẩn cũng tỏ rõ một thái độ chống đối đến cùng bọn lộng thần
làm nguy hại cho cơ đồ nhà Mạc, đồng thời cũng để cảnh tỉnh nhà vua.
Sau nhiều năm rong ruổi gắng hết sức mình mà vẫn không thay đổi được tình
thế, đem lại cảnh thái bình thịnh trị cho đời, Nguyễn Bỉnh Khiêm đành phải ngậm
ngùi: “Giúp nước thương dân chưa thỏa lòng ta hồi trước - Băn khoăn rất thẹn già
không có tài”, cuối cùng đành trở về quê sống một đời sống thanh nhàn, đạm bạc
đến cuối đời để bảo toàn khí tiết của một kẻ sĩ.
82

Ẩn dật ở Nguyễn Bỉnh Khiêm có những nét riêng. Đó không chỉ là sự thoái
hưu khi thấy mình bất lực trước thời thế. Đó chủ yếu là một quan niệm nhân sinh
vừa có gốc gác là Nho - Phật - Lão, vừa nảy sinh từ sự chiêm nghiệm đời sống
chính trị xã hội đương thời. Ông đã tìm ra cho mình một đáp số: sống theo lẽ tự
nhiên, vui đạo trời, biết số mệnh, an nhiên, tự tại, lấy “nhàn” làm quan niệm nhân
sinh yên ổn, thanh thản, có lạc thú, không phụ đạo quên đời:
“Lý tòng phi ẩn sát hổ thiên,
Ngư dược diên phi khế tự nhiên”
(Xét theo lý ở trời, đời loạn thì ở ẩn,
Cá nhảy, diều bay là hợp lẽ tự nhiên)
(Trung Tân quán ngụ hứng)
Tóm lại trong đạo thống nho gia, cuộc đời Nguyễn Bỉnh Khiêm như vậy thật
minh bạch, sòng phẳng. Gặp thời gặp chúa thì ra trị nước, yên dân. Khi hoàn cảnh
không cho phép thì lui về ẩn thân hành thiện. Ngồi ở triều đường dám nói thẳng
không sợ lụy thân. Về hương đảng khuyến khích điều lành, nêu gương đạo đức.
Làm quan thì ngựa xe hầu đón, về làm dân thì áo vải cơm rau. Mà ra hay về, lên hay
xuống đều thích thảng vô tâm:
“Nước non nào phải của ai đâu,
Nhiều ít công hầu cũng mặc dầu.
Khó chẳng giở dang khôn chẳng lụy,
Được chăng hậm hực, mất chẳng âu.
Anh hùng người lấy tài làm trọng,
Ẩn dật ta hay thú có mầu.
Gẫm hay ai phù vạc Hán,
Đồng Giang rủ một cần câu”
(Bạch Vân quốc ngữ thi, bài 28)
Chúng ta thấy được ở Nguyễn Bỉnh Khiêm một tư tưởng lạc thiên an mệnh của
một bậc đại nho, đôi khi là lòng dửng dưng của một bậc đạo sĩ đã cắt đứt với thế
tục.
83

3.1.2. Trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, phần Nho sĩ vẫn lấn át phần ẩn sĩ
Nguyễn Bỉnh Khiêm xuất thân từ cửa Khổng sân Trình, từ nhỏ đã chịu sự giáo
huấn trong một môi trường nho học từ gia đình và người thầy đức cao vọng trọng
Lương Đức Bằng. Cho nên những luồng tư tưởng nho giáo đã ăn sâu vào trong tâm
thức của nhà thơ, định hướng phần lớn trong cách nhìn, cách nghĩ của cụ Trạng.
Nguyễn Bỉnh Khiêm là con người luôn băn khoăn trăn trở giữa xuất thế và
nhập thế, hai lối sống, hai con người dường như đối lập trong ông, nó cứ chuyển
hóa nhau liên tục. Xuất thế mà lại nhập thế, nhập thế nhưng trong chiều sâu tâm
tưởng vẫn có một khoảnh trời xuất thế.
Đôi lúc cụ Trạng hiện ra trong tư thế của một ông già nhàn hạ ngồi ngắm cảnh
chiều trước chén rượu chếnh choáng, và tưởng chừng ngoài trời chiều, dòng sông,
tiếng hát thuyền chài, gió, cây, hoa, cỏ ra thì không còn biết đến gì nữa:
“Giang quán đăng lâm nhật hướng tà,
Thừa nhàn bả tửu thính ngư ca.
Bán thiên lương đệ thanh phong hảo,
Lưỡng ngạn tình thiên lục thụ đa.
Hứng xứ dã tình thiên ái cúc,
Túy giai lão nhãn dị sinh hoa”
(Đến quán bên sông lúc mặt trời đã xế bóng,
Nhân nhàn hạ, tay nâng chén rượu, tai nghe tiếng hát dân chài.
Từ lưng chừng trời, làn gió trong đưa lại mát mẻ;
Hai bên bờ sông cây xanh gặp buổi tạnh ráo lại thêm rườm rà.
Lúc hứng mối tình mộc mạc chỉ yêu hoa cúc;
Nơi bậc thềm, khi say mắt già dễ đỗ đom đóm)
(Ngụ Hứng, H.28)
Nhưng mạch cảm xúc ấy lập tức bị phá vỡ khi ta bắt gặp hai câu thơ cuối,
Nguyễn Bỉnh Khiêm không còn đắm mình trong “bả tửu”, và cảnh trí nên thơ của
thiên nhiên, mà đã quay về đối diện với hiện thực. Cụ Trạng lúc bấy giờ hiện lên là
một nhà tiên ưu sốt đời thương nước lo dân - đau đáu một nỗi niềm trăn trở:
84

“Hà thời tái đỗ Đường Ngu trị,


Y cựu càn khôn nhất thái hòa”
(Bao giờ lại được trong thấy đời Đường Ngu thịnh trị,
Cho khắp nơi chung hưởng cảnh thái hòa như cũ)
(Ngụ Hứng, H.28)
Tuyết Giang Phu Tử say nhưng thật chất là tỉnh, đằng sau cái lạc quan, nhàn
rỗi ấy là một tinh thần ưu dân, ái quốc đến suốt đời chưa thôi. Chính vì thế, khi nhà
Mạc lâm nguy muốn mời ông tham gia cố vấn, thậm chí trực tiếp tham gia tòng
chinh giết giặc Nguyễn Bỉnh Khiêm đã không một chút ngần ngại, đắn đo trong
quyết định của mình:
“Lão lai tương dữ cưỡng tòng nhung,
Diệt tặc do hoài báo quốc trung.
Mạo tuyết na từ thiên lý viễn,
Ưu thời ưng ký nhất tâm đồng”
(Giản đồng sai Nghĩa Trai bá, Hoành Trung hầu)
(Tuổi già gắng gỏi việc binh nhung,
Giết giặc mong vì nước dốc trung.
Gội tuyết dám từ nghìn dặm thẳm,
Lo thời ghi tạc một lòng chung.)
(Thư gửi đòng sai là Nghĩa Trai Bá và Hoành Trung Hầu)
Nguyễn Bỉnh Khiêm luôn mang nặng trong lòng hai chữ “trung quân”, lúc nào
canh cánh một điều: “Lộc nặng ơn nhờ đức thánh minh” (Bạch Vân quốc ngữ thi,
bài 125), lúc nào cũng khăng khăng một niềm: “Lui tới thìn cho phải đạo trung”
(Bạch Vân quốc ngữ thi, bài 119), vì trung quân nên lúc nào cũng muốn thực hiện
lí tưởng “Trị quốc, bình thiên hạ”. Cho nên dù tuổi già sức yếu nhưng nhà thơ vẫn
quyết lòng: “…Thường gắng gỏi lòng trung thành, mưu toan trả ơn nước” (Đông
nhật nghệ doanh, tự nhất nhi tri kỉ). Có lúc nhà thơ nghĩ đến trách nhiệm lớn lao,
hồn nhiên cất lên tiếng hát để bày tỏ tráng chí:
“Chỉ kỳ thệ phục cựu sơn hà,
85

Khẳng khái đăng chu phát hạo ca”


(Thủy hành phó doanh cảm tác)
(Định kỳ hạn thể khôi phục giang san cũ,
Khẳng khái lên thuyền cất cao giọng hát.)
(Đi đường thủy đến doanh trại cảm hứng làm thơ)
Thời đại Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh sống là thời đại suy đồi về đạo đức. Ở đâu,
bất cứ lúc nào, con người cũng luôn ở thế tranh giành quyền lợi. Lòng người khó
đoán như sóng bể, lúc rút ra thì cạn nhưng lúc bất ngờ dâng lên thì đầy: “Lòng
người sóng bể cạn thì sâu”. Vì vậy tác giả mong muốn dùng thơ văn gióng lên hồi
chuông cảnh tỉnh người đời quay về với đạo.
Về phần này chúng ta thấy nhà thơ cũng ít nhiều chịu ảnh hưởng tư tưởng
thiên mệnh của Khổng Tử. Khổng tử cho rằng mọi việc trong vòm trời đất đều diễn
ra theo ý của trời. Họa hay phúc, may hay rủi, vui hay buồn, giàu hay nghèo… tất
cả đều do thiên mệnh vì “Tử sinh hữu mệnh, phú quý tại thiên”. Không ai có thể cãi
lại mệnh trời:
“Quần vật hữu hồng tiêm,
Mạc phi thiên sinh dục.
Thánh nhân suy sở ái,
Sử các mông sở phúc”
(Lãm quán quan ngư, kiến cự ngư thực tiểu ngư cảm tác, H.23)
(Mọi vật có lớn loài nhỏ,
Không loài nào là không do trời sinh ra và nuôi lớn.
Bậc thánh nhân suy từ đó mà thương hết mọi vật,
Khiến cho mỗi vật đều được sự tốt lành.)
(Đến quán Trung Tân xem cá, thấy cá lớn nuốt cá bé nên
cảm tác, H.23)
Tuy trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm ít nhắc đến từ “thiên mệnh”, nhưng do ảnh
hưởng thuyết thiên mệnh của Khổng Tử ông cũng cho rằng “ông trời” là chúa tể của
86

muôn loài. Muôn loài sinh sinh hóa hóa đều do trời. Trời điều hòa sự vận hành của
vũ trụ. Vũ trụ lạnh lẽo hay ấm áp đều do bàn tay của ông trời xếp đặt:
“Công nhờ trời đất ơn còn rộng,
Che chở điều hòa kẻ chiếu chăn”
(Bạch Vân quốc ngữ thi, bài 20)
Nguyễn Bỉnh Khiêm cho rằng trời chính là cán cân công lí cân bằng mọi việc
trong xã hội, không để thiên lệch cho bất kì một ai, không giống như mặt trời và
mặt trăng có lúc tròn, lúc khuyết:
“Phong vũ thời hối minh,
Nhật nguyệt thời bạc thực.
Duy thiên công vô tư,
Hữu dân quyến hữu đức”
(Thương loạn, H.25)
(Giữa lúc mưa gió tối tăm,
Mặt trời và mặt trăng bị che lấp.
Chỉ có trời là chí công vô tư,
Giúp dân và thương kẻ có đức.)
(Thương thời loạn, H.25)
Tuyết Giang phu tử đã lí tưởng hóa hình ảnh ông trời, cho rằng trời có cách
nhìn tinh thông, thấu suốt. Trời luôn luôn bênh vực, chở che những người tốt bụng,
có nhân đức. Luôn đứng về những ai hành động thuận theo ý trời, hợp với lòng dân,
đúng với đạo nghĩa:
“Ơn trời còn có bây nhiêu nữa,
Che chở chăng đành kẻ khó khăn”
(Bạch Vân quốc ngữ thi, bài 56)
Vì vậy, lúc gặp khó khăn con người luôn hướng về trời. Họ tin ở trời với một
niềm tin bất diệt không gì lay chuyển được. Trời đối với họ đã trở thành một vị bồ
tát sống cứu khốn, phò nguy mỗi lúc họ gặp khó khăn trong cuộc sống. Trời trở nên
một vị thần chứng giám tất cả mọi việc trên thế gian, chúng ta có thể dối người
87

nhưng không thể dối được trời, vì trời có con mắt tinh thông, nhìn thấy tất cả những
gì chúng sinh đang làm. Vì thế cho nên lúc nào họ cũng suy nghĩ và đắn đo, cân
nhắc lại hành vi của mình trước khi bắt tay vào một việc nào đó:
“Đế đức bổn hiếu sinh,
Thận vật manh sát lục”
(Lãm quán quan ngư, kiến cự ngư thực tiểu ngư cảm tác, H.23)
(Đức của trời vốn thương tiếc mạng sống của muôn loài,
Hãy thận trọng chớ gây mầm giết chóc.)
(Đến quán (Trung Tân) xem cá, thấy cá lớn nuốt cá bé nên cảm
tác, H.23)
Câu thơ vừa là sự khẳng định tư tưởng thiên mệnh vừa như là lời răn đe những
ai làm trái với ý trời. Con người chớ vì lòng tham không đáy mà tranh quyền đoạt
lợi, giết hại lẫn nhau. Vì một lẽ, Trời mà hậu đãi ai thì trao nước vào tay người đó:
“Niên niên quảng đắc xuân quang hảo,
Tri thị thiên tâm độc hậu dư”
(Trừ tịch tức sự)
(Năm năm được làm chủ ánh sáng đẹp mùa xuân,
Biết đó là lòng trời riêng hậu với ta.)
(Đêm cuối năm tức sự)
Riêng đối với những kẻ gây ra chiến tranh, ông thẳng thắn gọi chúng là bọn
bất nhân, chỉ có ông trời là người biết dùng đức nhân mà hóa giải chiến tranh, cứu
nhân dân thoát khỏi cảnh khốn cùng, đau đớn và trừng trị thẳng tay bọn gian ác. Vì
thế mà trời được ngợi ca.
Không chỉ chờ mong vào sức mạnh của trời để cải tạo xã hội, với mong muốn
xây dựng cuộc sống tốt đời đẹp đạo Nguyễn Bỉnh Khiêm đã ra sức sáng tác thơ văn
và lồng vào đó những bài học, triết lí sống tốt đẹp với mong muốn giáo dục người
đời. Bài Cương thường tổng quát là một bài thơ độc đáo và đầy ý nghĩa. Ông
không dừng lại một cách chung chung, mà cụ thể hóa về đạo cương thường bằng
cách triển khai rất cụ thể qua các bài thơ với các tiêu đề khác nhau để khuyên con
88

người hành xử phải đạo trong tất cả các mối quan hệ. Đó là tôi phải trung với vua,
con cái phải kính thờ cha mẹ, anh em phải hòa thuận không được tranh giành, bạn
bè phải đối xử với nhau bằng lòng trung thực, vợ chồng phải lấy nghĩa làm trọng,
họ hàng làng xóm phải đùm bọc lẫn nhau. Đó chính là giữ nết nhà phép nước:
“Trời phú tính, ở mình ta,
Đạo cả cương thường năm mấy ba.
Tôi hết ngay, chầu chực chúa,
Con hằng thảo, kính thờ cha.
Anh em mựa nở điều hơn thiệt,
Bầu bạn cho hay nết thực thà.
Nghĩa vợ chồng xem rất trọng,
Ở đâu phong hóa phép chung nhà”
Những gì nhà thơ đặt ra trong bài Cương thường tổng quát là một vấn đề
nhức nhối vì tất cả những mối quan hệ ấy đang trong thời kỳ suy sụp, lỏng lẻo cần
phải được chấn chỉnh để không phải xói mòn, mai một trong tâm thức và lối sống
của người Việt. Đề cập về chữ Hiếu, chữ Nhân ông nói rất nhẹ nhàng, giản dị,
không ẩn ý, không khách sáo cầu kỳ. Từ việc ông khuyên Con thờ cha mẹ, khuyên
nàng dâu thờ cha mẹ chồng:
“…Nết ở chiều người tính sở ưa,
Yêu nể càng gìn lễ phép.
Giận hờn cũng chớ thẩn thơ,
Mắng thương người phải dùng khoan nhặt,
Ta giữ cho hay thì mới vừa”
Khuyên anh em chớ giành lẫn nhau mà cần phải:
“Giúp nàn, chống rẻ cùng nương cậy,
Biết kính hay yêu miễn thuận hòa”
Khuyên chồng đối với vợ hãy:
“Xin xót cùng nhau hỡi thế thường,
Lỗi nhỏ thứ cho đừng sá giận”
89

Cho đến khuyên đối xử với họ hàng, khuyên đối xử với hàng xóm, khuyên đối
xử với bầu bạn… ông đều viết với một giọng điệu nhẹ nhàng như đang tâm sự với
mọi người, một cách nói giản dị, mang đậm phong vị dân gian:
“Cùng nhau bầu bí yêu thương lấy,
Chớ nỡ xem bằng khách tới qua”
Rồi ông làm thơ về giới tham để răn con người chớ tham lam vì nếu tham hơn
thì phải thiệt; làm thơ giới sắc để răn con người đừng ham mê sắc vì trong trăm điều
ác dâm là đầu; làm thơ giới dĩ phú lăng bần để khuyên người giàu đừng bắt ép kẻ
khó vì giàu mà nhân nghĩa, biết thương kẻ khó mới giàu được lâu; làm thơ giới sùng
Phật vô ích vì Phật ấy là ta, sống cho có tâm có đức để đạt đến tâm phật chứ không
nên điêu ngoa, dối trá. Nhà thơ khuyên con người phải biết sống thật thà, yêu
thương đùm bọc lẫn nhau, đối xử với nhau bằng tình người, không vì lợi ích của
bản thân mà bất chấp cả thủ đoạn hại người khác, ông viện đến cả thế giới tâm linh
để dạy bảo:
“Chớ có hại người mà ích kỉ,
Giấu người khôn giấu được linh thần”
(Bạch Vân quốc ngữ thi, bài 82)
Theo Trạng Trình đã là con người thì ai ai cũng có tính thiện, tính thiện nằm
sẵn trong con người. Lòng thương xót là tiền đề của tính thiện.
“Ở có đức lành hơn ở dữ,
Yêu nhau chăng đã một luân thường”
(Bạch Vân quốc ngữ thi, bài 77)
Như đã nói Nguyễn Bỉnh Khiêm cáo quan về hưu không phải là trốn đời và
lánh đời mà là để bắt tay vào một việc làm mới, hành thiện giúp đời. Trong một xã
hội đổi trắng thay đen như thế Nguyễn Bỉnh Khiêm tin rằng chỉ có đạo lý và nhân
tâm là hằng thường và ông khuyên mọi người hãy gắng làm điều thiện:
“Bất tử giả nhân tâm,
Bất dẫn giả thiên lý.
Nhân đoan thị sở suy,
90

Chi trị thị sở chi.


Thùy tri tối lạc xứ,
Vi thiện nhi di hỹ”
(Chẳng chết được ấy là lòng người,
Chẳng mất được ấy là lẽ trời.
Đầu mối của đạo nhân từ đó mà rút ra,
Tột độ của trị bình tới đó là đứng vững.
Ai là người biết rằng chỗ vui nhất,
Chỉ là làm điều thiện mà thôi)
(Cảm hứng thi tam bách cú)
Nguyễn Bỉnh Khiêm thấm nhuần tư tưởng Nho giáo. Do đó, dù sống trong bất
cứ hoàn cảnh nào, ông vẫn tin tưởng “Người ta tính vốn thiện”; dù chứng kiến bao
điều diễn ra trước mắt, người thầy đức cao vọng trọng vẫn khám phá ra một điều
“May là lòng người điều thiện chưa hề mất hết” (Bài bia kí quán Trung Tân). Chỉ
khi nào tính thiện bị vật dục che lấp thì tính thiện mới không giữ được toàn vẹn như
thuở ban đầu. Lúc đó, con người sẽ làm điều trái với đạo lý. Vì vậy, con người cần
tu dưỡng tâm tính, tránh “vô nhai”, cương quyết “diệt dục” và luôn “tri túc” để giữ
gìn đạo đức. Câu thơ Nôm bài số 76 là lời kêu gọi rất chân tình:
“Giữ mối giường, hay giữ mối giường,
Làm người hãy giữ đạo thường thường”
Dù sao vẫn phải khẳng định rằng trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, tư tưởng Nho
học được thể hiện rất đậm nét thông qua những vấn đề: mệnh trời, trung quân, tính
thiện, đạo tam cương, ngũ thường. Nguyễn Bỉnh Khiêm về ở ẩn nhưng lúc nào lòng
cũng canh cánh nỗi niềm ưu tư về vận nước, trách nhiệm của kẻ sĩ, khát vọng lo
đời, giúp nhân dân thoát khỏi cơn binh lửa, vãn hồi trật tự phong kiến. Trong đời
thực, dù về ở ẩn nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn theo giúp nhà Mạc tòng quân
“Niên du lục thập lưỡng tòng nhung” (Đã 60 tuổi mà hai lần theo giúp việc quân
cơ) khi nhà Mạc yêu cầu. Điều này cho thấy rõ trong thơ văn và cả trong đời thực,
91

Nguyễn Bỉnh Khiêm suốt đời ôm chí tiên ưu, lo nước, thương đời. Nói cách khác,
trong Nguyễn Bỉnh Khiêm, phần Nho sĩ vẫn lấn át phần Ẩn sĩ.
3.2. Tương quan Phật học và Đạo học trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm
3.2.1. Cách ứng xử vừa hợp với tư tưởng Đạo vừa hợp với tư tưởng Thiền
Tinh thần hoà quang đồng trần trong tư tưởng Lão Tử cũng có những nét
tương đồng với tinh thần hoà quang đồng trần của Thiền tông. Trong thiền tông, con
người sau khi “ngộ” vẫn là con người trần thế, hoà vào đời thường sống giản dị, an
nhiên “đói thì ăn, khát thì uống, mệt thì ngủ” rất tương đồng với tinh thần thuận
theo tự nhiên, tính phận, tìm thấy niềm hạnh phúc trong cuộc sống tiêu dao, phóng
nhiệm vốn là vấn đề cơ bản của nhân sinh quan Lão - Trang. Cách lựa chọn đời
sống an nhiên, tự tại, hoà vào đời thường của Nguyễn Bỉnh Khiêm vừa ứng hợp với
Đạo học vừa ứng hợp với Phật học.
Cuộc sống nhàn tản những ngày ở am Bạch Vân đã tạo một tiền đề rất lớn cho
tư tưởng Phật học nảy nở trong Nguyễn Bỉnh Khiêm.Tại đây nhà thơ đã có dịp quan
sát cảnh vật, chiêm nghiệm và rút ra được nhiều bài học triết lí sâu sắc. Để rồi từ đó
Cụ Trạng nhìn thấy tất cả mọi vật trong trời đất đều vận động theo một quy luật
tuần hoàn, biến thên chứ không cố định.
“Hoa càng khoe nở, hoa nên rữa,
Nước chứa cho đầy, nước ắt vơi”
(Bạch Vân quốc ngữ thi, bài 48)

“Đã khuất bao nhiêu rồi lại duỗi,


Đạo trời lồng lộng chẳng hề sai”
(Bạch Vân quốc ngữ thi, bài 2)
Xét về bản thể luận, Phật giáo đưa ra tư tưởng “nhất thiết duy tâm đạo”
(duyên), đưa ra quan niệm vô thường, tinh thần vô ý “ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ
tâm” (tùy duyên mà hành động, gặp việc phải làm, ở vị trí nào khu xử theo vị trí đó,
không rơi vào cái Có hay Không, không cần nhiếp niệm) với phương châm “dĩ tâm
truyền tâm” và luật nhân quả. Nói một cách cụ thể học thuyết phật giáo là chân lý
92

về nỗi đau khổ và sự giải thoát con người khỏi nỗi đau khổ. Nguyễn Bỉnh Khiêm
đã đốn ngộ, giác ngộ ra chân lý phật pháp. Ông cho rằng việc hành xử trong đời
người đều phải tùy duyên. Lợi lộc có hay không là do cái duyên đến hay không
đến : “Lợi lộc mặc duyên, chăng ý chớ. Đôi co dầu thế chớ cho hay”. Đó là đầu
mối là điều kiện cho nguyên nhân biến thành kết quả. “Thời” đến ông hăng hái
bước vào chốn quan trường, thăng tiến nhanh trên con đường lập sự nghiệp công
danh. “Thời” hết ông lui về ở ẩn chốn nước non bằng lòng với những gì mơ ước. Có
thể nói tinh thần vô ý đã len vào tư tưởng của Nguyễn Bỉnh Khiêm để tạo cho ông
có cái thế bình tĩnh mà khu xử theo từng vị trí trong cuộc đời:
“Hễ kẻ làm quan đã có duyên,
Tới lui mặc phận tự nhiên.
Thân xưa hương lửa chăng còn ước,
Chí cũ công danh đã phỉ nguyền”
(Bạch Vân quốc ngữ thi tập, bài 51)
“Công danh đã phỉ nguyền” bởi vì cư sĩ thấu hiểu qui luật vận hành của tự
nhiên. Ông nhận định tự nhiên bằng tinh thần phá chấp triệt để. Mọi vật do nhân
duyên tạo thành, sau đó tồn tại trong một khoảng thời gian vô cùng, rồi dần dần lụi
tàn và cuối cùng mất đi. Như vậy, nói theo ngôn ngữ nhà Phật thì mọi vật “có sinh
tất có diệt, hữu hình tất hữu hoại” (Nguyễn Khuê). Hoa xuân nở tất hoa xuân sẽ
tàn. Trăng thu tròn vằng vặc rồi trăng cũng lại khuyết. Tất cả vốn vô thường.
Thời Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh sống là thời kì đau thương loạn lạc. Cuộc chiến
đâm chém, đốt phá, tàn sát hủy diệt làng quê, thành thị, dinh thự triền miên. Nhìn
đâu cũng thấy chiến tranh hay tàn dư của cuộc chiến. Đến thăm chùa Phổ Minh sau
một phen binh hỏa, sau khi nhìn rõ quang cảnh điêu linh bị tàn phá, ngẫm nghĩ về
những điều huyền vi ẩn đằng sau “đôi mắt thê lương của tượng Phật”, nhà thơ đã
giác ngộ thuyết “sắc - không” của phật giáo :
“Liêu liêu cổ đỉnh kim hà tại ?
Thức đắc vô hình thắng hữu hình”
(Du Phổ Minh tự, H.40)
93

(Mênh mông nào biết cái vạc xưa nay ở đâu?


Thế mới hay vô hình thắng hữu hình.)
(Chơi chùa Phổ Minh, H.40)
Xét trong cuộc đời, tinh thần phật giáo thấm sâu vào trong tư tưởng Nguyễn
Bỉnh Khiêm nên nhà thơ mới tự xưng mình là Cư sĩ. Từ cư sĩ vốn là ngôn ngữ nhà
Phật, nó xuất hiện lần đầu tiên trong văn chương Phật giáo, trong Kinh Duy Ma Cật
để chỉ những người có trí tuệ lớn, tuy không xuất gia nhưng hành đạo Bồ Tát, để
cứu nhân độ thế.
Có thể dễ dàng nhận thấy yếu tố phật học qua những việc làm của nhà thơ
trong cuộc đời thường nhật và qua những vần thơ của ông. Lúc về quê nhà Nguyễn
Bỉnh Khiêm đã tự nhận mình là Cư sĩ. Ông cùng với các cụ già làng “làm chùa, làm
quán, chốn chốn đều được tu sửa” (Trung Tân bi quán ký). Khi vãn cảnh chùa,
Bạch Vân cư sĩ cảm nhận không gian cao rộng cô tịch của cảnh chùa tạo cảm giác
về sự hiện hữu vô thường của vạn vật, cảm nhận nơi đây có thể giúp ông thoát hẳn
bụi hồng trần. Nhà thơ đã đưa người đọc đến một không gian cô tịch, vắng lặng và
trang nghiêm. Ở đây con người ta sẽ đạt tới trạng thái của cái gọi là tâm không, hòa
mình vào tự nhiên để tâm hồn luôn có được sự an nhiên và tự tại :
“Trường tùng ống uất, trúc ân sâm,
Danh sát nguy nga ỷ mục sầm.
Địa khả tuyệt trần, lưu nguyệt tĩnh,
Môn thường lan tục, tỏa vân thâm.
Mộ lai sơn sắc thanh tăng nhãn,
Dạ hướng đăng hoa chiếu phật tâm.
Cảnh giới trang nghiêm đàm bất tận,
Du quan thùy bất tận đăng lâm?”
(Tự thi, H.77)
(Giữa những cây tùng trồng đã lâu năm cành lá rườm rà và bóng tre
um tùm,
Ngôi chùa xưa danh tiếng cao vòi vọi tựa vào ngọn núi lặng lẽ.
94

Chốn này có thể dứt hẳn bụi trần, chỉ giữ lại bóng trăng tịch mịch;
Cửa kia luôn ngăn cách thế tục, mây phủ sâu kín.
Chiều về, sắc núi làm trong mắt nhà sư,
Đêm đến hoa đèn chiếu lòng Phật.
Cảnh giới trang nghiêm không thể bàn hết được,
Khách dạo chơi ngắm cảnh ai chẳng muốn đến đây ?)
(Thơ vịnh chùa, H.77)
Khi chứng kiến nhiều cảnh tượng thê lương do chiến tranh gây ra: con xa cha,
vợ xa chồng, người người ăn xin khắp các nẻo đường xó chợ… nhà thơ không khỏi
động lòng xót xa thương cảm. Với tấm lòng thương dân rộng lớn, ông muốn hóa
lòng mình có sức từ bi hỉ xã của đức phật để cứu muôn người vô tội bị lầm than :
“Thiên địa na dung tội ác nhân,
Thị hà xá tội hữu hương thần.
Ngã kim dục trượng từ bi lực,
Cửu đắc vô cô đồ thán nhân”
(Ngộ trung nguyên xá tội)
(Trời đất nào có dung tha kẻ ác.
Thế thì tại sao lại có ngày lành để tha tội.
Ta nay muốn nhờ vào sức của lòng từ bi,
Cứu bằng được những người vô tội lầm than.)
(Gặp tiết trung nguyên xá tội)
Nguyễn Bỉnh Khiêm đêm đêm thường tĩnh tâm trước bàn thờ phật để mong
ánh sáng phật tổ soi sáng tấm lòng ái quốc ưu thời: “Đèn phật đêm soi rõ dạ rồi”
(Trung Tân quán ngụ hứng, Nguyễn Khuê dịch), bình lặng lắng nghe: “Tiếng
chuông chùa làng văng vẳng giữa canh khuya” (Trung Tân ngụ hứng, bài 12), và
giác ngộ được âm thanh kì diệu của tiếng chuông chùa. Tiếng chuông ngân vang
trầm bổng, hiền hòa có thể đánh tan giấc mộng phù danh của con người và kêu gọi
con người trở về với tịnh khổ không chút bụi trần:
“Ẩn yên tự quán nhiễu đông tê (tây),
95

Kình khởi âm âm hóng vạn khê.


Hưởng nhập u nhàn thôi mộng giác,
Hóa hồ tịnh thổ cảnh tâm mê”
(Chung Thi, H.85)
(Khói sương che mờ chùa chiền cảnh vật,
Tiếng kình kêu vang khắp các khe suối.
Âm hưởng đi vào chốn u nhàn, giục người tỉnh mộng;
Kêu gọi trở về nơi tịnh thổ, đánh thức những tâm hồn mê lầm.)
(Thơ vịnh cái chuông, H.85)
Theo cư sĩ, đời người chịu ảnh hưởng của luật nhân quả. Nhân ác thì quả khổ.
Nhân lành thì quả an. Ở hiền gặp lành. Vì vậy, con người hãy ăn ở cho hiền lành,
nhân đức. Nghèo hèn chớ than thân, trách phận vì đó là định mệnh. Giàu sang hãy
nên yêu thương và giúp đỡ mọi người vì điều đó sẽ giúp cho mọi người gần nhau
hơn. Nếu không bồi dưỡng đạo đức, chỉ chăm chăm làm điều ác thì sẽ bị công lý
trừng trị. Nếu chăm làm điều phước thì cuộc đời sẽ tươi tốt như hoa cỏ mùa xuân:
“Trời sinh, trời ắt đã dành phần,
Tu hãy cho hiền, dạ có nhân.
Khó chớ oán thân, thân mới nhẹ,
Giàu mà yêu chúng, chúng càng gần.
Bạo hung chỉn đã gươm mài đá,
Phúc đức đành hay cỏ đượm xuân.
Chớ có hại người mà ích kỷ,
Giấu người khôn giấu được linh thần”
(Bạch Vân quốc ngữ thi tập, bài 80)
Tư tưởng phật giáo là thuyết lý để nhà thơ nói về quy luật thay đổi tuần hoàn
của vũ trụ, thời thế. Là cứu cánh cho con người thoát khỏi mọi bể khổ trầm luân, là
phương tiện hỗ trợ giúp con người quay lại với con đường chánh đạo.
96

3.2.2. Trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, phần Nho sĩ, ẩn sĩ vẫn đậm nét hơn
phần cư sĩ
So với tư tưởng Nho học và Đạo học, tư tưởng Phật học không để lại nhiều
dấu ấn đậm nét trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm. Rất dễ lý giải thực tế này khi
Nguyễn Bỉnh Khiêm không sống như một thiền nhân lánh đời mà thiết tha với công
việc giúp đời. Ở triều thì Nguyễn Bỉnh Khiêm giúp vua, về làng thì giúp dân, mở
trường dạy học. Vì vậy, trong thơ và trong đời thực của, phần Nho sĩ, ẩn sĩ vẫn lấn
át phần cư sĩ.
Nguyễn Bỉnh Khiêm người nhàn nhưng tâm quả thật không nhàn chút nào.
Nguyễn Bỉnh Khiêm muốn “tiên ưu, hậu lạc” đến trọn đời, ngay cả những năm
tháng thoái hưu. Quan niệm “tiên ưu, hậu lạc”, và cả niềm “ái ưu vằng vặc”, lòng
“ưu thời mẫn thế” không mâu thuẩn với lối sống ẩn dật. Phan Huy Chú nhận định:
“Ông rong chơi nhàn nhã hơn 40 năm nay mà không ngày nào quên đời; lòng lo
thời, thương đời thể hiện ra ở văn thơ. Ông rất mừng khi được thoát chân khỏi vòng
danh lợi, được sống những ngày ẩn dật thư thái vui vẻ” [37, tr. 639]
“Đèo núi vỗ tay cười khúc khích,
Rặng thông vắt cẳng hát nghêu ngao.
Đòi nơi phong nguyệt vui thay đấy,
Dầu phận công hầu bận được nao”
(Bạch Vân quốc ngữ thi, bài 143)
Bên cạnh thái độ tự hào và ầm ĩ ấy là một tinh thần nhập thế tích cực. Điều đó
biểu lộ qua thơ ông. Nhiều lúc nhà thơ tự nói về mình: “Ái ưu vằng vặc trăng in
nước”, “Ưu ái chẳng quên niềm trước”... Tuy đã lựa chọn cảnh nhàn, quên mình
trong cuộc sống giản dị “bó củi, cần câu”, bạn bè với “bàn cờ cuộc rượu”, nhưng
cũng có lúc bỗng nhiên ông thấy băn khoăn “Mới hay nhàn, bỗng phải lo”.
Dù đã vui với ruộng vườn, trong lòng Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn canh cánh nỗi
lo dân, lo nước, nỗi lo ấy từng khiến ông bạc đầu:
“Bần tiện trùng phùng thử loạn ly,
Khu khu ưu quốc mấn thành ty”
97

(Nghèo hèn lại gặp thời loạn lạc này,


Khư khư một lòng lo nước, tóc bạc như tơ)
(Trung Tân quán ngụ hứng, bài 10)
Sự ẩn cư cầu nhàn của Trạng Trình chỉ là sự lánh đời trong bó củi cần câu, nhà
thông ngõ trúc, với cơm chiều, muối biển, với đồ thư một quyển, và ngư tiều mấy
gã, nhà thơ còn răn đời, khuyên đời, mong ước đời sẽ có những thánh quân, hiền
thần để kiến tạo cho đời một cảnh trí thịnh trị như thuở thiên hạ của thời Đường
Nghiêu.
“Hà nhật tái phùng Nghiêu Thuấn thế,
Thái bình thiên tử thái bình dân”
(Ất sửu tân xuân hý tác)
(Ngày nào lại được gặp đời Nghiêu Thuấn,
Vui đời thái bình, dân đời thái bình.)
(Xuân mới năm Ất Sửu vui đùa làm thơ)
Điều mong ước ấy bấy giờ không thể thực hiện được, nên rốt cục ông vẫn sống
đời sống của kẻ ẩn dật để mong lấy đạo đức của mình ảnh hưởng tốt đến người khác
như Nghiêm Tử Lăng đời xưa:
“Ngẫm lại ai phù vạc Hán,
Đồng Giang rủ một cần câu”
(Bạch Vân quốc ngữ thi, bài 28)
Đúng là Tuyết Giang Phu Tử có chủ trương vô sự, nghĩa là không để có sự gì
rắc rối, chứ không phải là chủ trương vô vi là không làm gì hết, cứ việc phó mặc
cho con tạo xoay vần như chúng ta vẫn nghĩ chỉ vì cứ tưởng “vô sự” với “vô vi” là
một. Khi cáo quan về nghĩ hưu, nhà thơ vẫn tích cực xây dựng cuộc đời, ra sức dạy
học, bồi dưỡng một thế hệ thanh niên có học thức cho nước nhà, tham gia vào việc
tu bổ chùa chiền và thường cùng các nhà sư đàm luận. Có thể nói cụ lánh đời nhưng
vẫn còn mong đời, lo đời và vẫn không quên ơn chúa, không phụ tình nước non.
Trong tấm lòng thanh thản của ông già “tóc đã thưa, răng đã mòn” ấy, tưởng chừng
như không bao giờ sôi nổi một điều gì. Nhưng không, việc nước không thể làm ông
98

dửng dưng được. Khi chứng kiến các tập đoàn phong kiến đánh nhau, gây ra cảnh
“núi xương, sông máu”, ông lấy làm buồn “Buồn về biếng thấy cái cảnh đao binh”.
Nhà thơ thấy mình càng già, sức càng kém trở nên vô dụng, không giúp ích gì được
cho nước nhà “Tuổi đã già thì mọi sự hèn”. Nhưng không thể ngó lơ trước tình
cảnh ấy, dù tuổi già sức yếu nhà thơ vẫn gắng sức ruổi rong:
“Lão lai tướng dữ cưỡng tòng nhung,
Diệt tặc cho hoài bảo quốc trung.
Mạo tuyết na từ thiên lý viễn,
Ưu thời ưng ký nhất tâm đồng”
(Giản đồng sai Nghĩa Trai Bá, Hoành Trung Hầu)
(Tuổi đã già cùng nhau cố gắng tòng quân,
Diệt giặc còn ôm lòng trung báo đền ơn nước.
Xông pha tuyết giá đâu nề hà nghìn dặm xa,
Lo lắng thời thế, nên ghi nhớ cùng một lòng.)
(Thư gửi đồng sai là Nghĩa Trai Bá và Hoành Trung
Hầu, Lô Công dịch)
“Lão bệnh trùng phùng thử loạn ly,
Dự tham nhung mạc cưỡng tri tùy”
(Tùng tây chinh, H.53)
(Ta tuổi già và tật bệnh mà gặp mãi cảnh loạn ly này,
Phải gắng đi theo để tham dự vào việc quân cơ.)
(Đi theo cuộc chinh phạt miền tây, H.53)
Tấm lòng ưu thời mẫn thế của cụ Trạng trước sau vẫn như một, không hề thay
đổi. Cụ luôn đặt quyền lợi của quốc gia, dân tộc lên trên hết mà không tư lợi cho
riêng mình. Dù tàng, dù ẩn nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêm không ngoảnh đi, trái lại
ông chăm chú nhìn vào đời, sẵn sàng làm những gì mà đời cần đến, chỉ miễn là
không phải lao vào vòng danh lợi, làm hoen ố tấm lòng trung trinh của một nhà nho
chí sĩ. Nguyễn Bỉnh Khiêm hành ít mà tàng nhiều, xuất ít mà xử nhiều chỉ bởi lẽ
99

ông không gặp thời, không thi thố được tài kinh bang tế thế. Phải lui về sống ẩn dật
một thời gian dài trong khi vẫn ước vọng đến một xã hội lý tưởng vua sáng tôi hiền:
“Đã ngoài mọi việc, chăng còn ước,
Ước một tôi hiền, chúa thánh minh”
(Bạch Vân Quốc ngữ thi, bài 26)
X
X X

Tóm lại, các yếu tố tương quan đã phân tích trên cho thấy rõ phần tích cực
trong nhân sinh quan của Nguyễn Bỉnh Khiêm được biểu hiện qua thơ ông:
Thân nhàn nhưng tâm không nhàn, suốt đời lo nước thương dân
Tiếng là ẩn dật, sống nhàn tản, vô vi nhưng thực ra, Nguyễn Bỉnh Khiêm suốt
đời canh cánh niềm tiên ưu, đau đời, thương loạn, mong muốn vãn hồi trật tự phong
kiến, khát vọng đem tài, bằng cách này hay cách khác để đóng góp cho cuộc sống.
Nguyễn Bỉnh Khiêm không phải là một ẩn sĩ, cương quyết gác bỏ ngoài tai
chuyện đời, cực đoan với tư tưởng thoát ly cuộc thế.
Minh triết bảo thân, giữ gìn phẩm tiết của kẻ sĩ trong thời loạn
Từ bỏ quan trường, về ở ẩn chính là hành động khẳng khái, cách ứng xử sáng
suốt để Nguyễn Bỉnh Khiêm bảo vệ phẩm tiết thanh cao trong giai đoạn suy thoái
của chế độ phong kiến.
Đặc biệt, ông rất bản lĩnh, mạnh mẽ, tự tin với lẽ sống đã chọn, không quan
tâm đến cái nhìn, cách đánh giá của người đời.
Chiết trung, dung hoà, mềm dẻo khi ứng xử với đời sống và bản thân.
Chọn cách sống ở ẩn nhưng biết chiết trung, không cực đoan, bi quan, bế tắc,
cũng không sa vào con đường hành lạc, phóng túng.
Biết dung hòa, chừng mực, mềm dẻo trong ứng xử: ở ẩn nhưng vẫn có thể theo
giúp việc quân cơ, ở ẩn nhưng vẫn ý thức trách nhiệm với cộng đồng làng xã…
Tìm hiểu những yếu tố tích cực của nhân sinh quan Nguyễn Bỉnh Khiêm để
khẳng định rằng, cuối cùng ông vẫn là con người của đất nước, của cuộc đời. Điều
đó cho thấy rõ nho sĩ - ẩn sĩ Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn là một công dân Đại Việt ưu
tú ở giai đoạn nhà nước phong kiến bắt đầu trượt dài trên cái dốc suy vong.
100

C. KẾT LUẬN
Mỗi nhà thơ sinh ra và lớn lên ở mỗi thời đại khác nhau, Nguyễn Bỉnh Khiêm
tài năng, chí cả nhưng lại không may mắn. Nhà thơ sinh ra trong thời buổi suy vong
của chế độ phong kiến. Sự vong rủi ấy đã trói buộc tài năng của ông, khiến cho ông
không thực hiện được chí nguyện “trí quân, trạch dân” của mình. Là một nhà nho
chí trung, luôn canh cánh bên mình nỗi lo nước thương đời nhưng bất mãn trước
thời cuộc Nguyễn Bỉnh Khiêm đành tìm cho mình một lối thoát cầu an. Vào lúc ấy
tư tưởng Lão - Trang là chỗ dựa duy nhất và vững chắc nhất cho nhà thơ bảo toàn
khí tiết cao cả của mình.
1. Tinh thần “tri túc, cầu nhàn” ở Lão - Trang đã trở thành ngọn lửa soi
đường dẫn lối cụ Trạng sớm đi đến quyết định đúng đắn và dứt khoát là từ bỏ chốn
quan trường đầy hiểm ác bảo toàn “danh, mệnh” của mình mà không chút tham
luyến.
2. Lão - Trang với chủ trương “ vô vi, tiêu dao” đưa con người tới cõi không
cùng ngao du khắp chốn mà không bị ràng buộc bởi tánh phận, đã giúp Nguyễn
Bỉnh Khiêm cởi bỏ mọi gông cùm của lễ giáo phong kiến. Về lại quê nhà cụ Trạng
sà mình vào thiên nhiên, được tắm mát mình dưới dòng sông Tuyết, được từng cơn
gió mơn man da thịt, được nuôi dưỡng bởi những thức ăn trời phú, nhà thơ như
sống lại với cái thiên tính của chính mình, cởi bỏ mọi phiền tục và vui thú với cuộc
sống ấy.
3. Lão - Trang với ý niệm đời người ngắn ngủi đã tác động không nhỏ đến
cách nhìn, cách nghĩ, cách ứng xử của Nguyễn Bỉnh Khiêm trong cuộc sống. Với cụ
Trạng, “sắc - không” là cách tư duy biện chứng để ông nhìn nhận về sự thay đổi
khôn lường của mọi vật, mọi việc. Từ đó mà nhà thơ có thái độ phủ nhận danh lợi,
không màn thị phi, hơn thua hay được mất.
Nhìn chung tư tưởng Lão - Trang góp phần rất lớn trong việc hình thành nên
triết lí sống ở nhà thơ họ Nguyễn này, góp phần bồi đắp tâm hồn và tứ thơ của ông,
biến ông thành một người đắc đạo với thú nhàn tản: “Rõ ràng, ông “đắc đạo” trong
cái “đạo nhàn”. Ông đã đạt đến cái vẻ tiêu dao, tiêu sái, đạt đến cái tinh tế, sâu
101

thẳm của thú nhàn tản. Như một người sành rượu, chỉ cần nhấm nháp chút đỉnh là
nhận ra ngay loại rượu, chất lượng rượu, ông nhấm nháp cái thú nhàn tản và sự
nhắm nháp ấy tinh tế đến mức người cùng thời không ai sánh nổi” [37, tr.268].
Đúng là Nguyễn Bỉnh Khiêm có chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng Lão - Trang.
Biểu hiện cụ thể là nhà thơ chủ trương sống thích chí với hoa cỏ, chim muông, có
lạc thú, nhưng do xuất thân từ cửa Khổng sân trình, chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của
nho gia, kết hợp với luồng tư tưởng phát triển mạnh mẽ ở Việt Nam thời bấy giờ,
cho nên tư tưởng Lão - Trang đến Nguyễn Bỉnh Khiêm đã được Lão - Trang hóa,
tức là cầu thích chí chứ không cầu giải thoát. Về lại làng Trung Am nhà thơ bắt tay
vào công việc hành đạo giúp đời khác, cảnh tỉnh, răn đe, giáo dục người đời, giúp
họ hướng thiện. Trở đi, trở lại những vần thơ của ông ta vẫn thấy một nỗi niềm đau
đáu, trăn trở của nhà thơ khi nghĩ về sự vong tồn của xã tắc: “Vui sau, lo trước, tâm
sự của Nguyễn Bỉnh Khiêm giống như tâm sự Nguyễn Trãi xưa kia. Nhưng ông
không làm nên sự nghiệp kinh bang tế thế như Nguyễn Trãi. Ông đành hy vọng rằng
qua sự nghiệp giáo dục và thơ văn của mình, khiến cho mọi người biết lấy “trung”
làm bến chính, giữ được đúng mức thì mọi công việc trong thiên hạ do đó mà có thể
tốt lên. Ông hi vọng rằng như thế thì có thể gián tiếp góp phần vào việc đem lại sự
ổn định cho xã hội, đem lại cảnh thái bình thịnh trị cho đất nước” [37, tr.278].
Có thể khẳng định rằng Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà văn hóa, nhà tư tưởng lớn
thế kỷ XVI, hơn 400 năm trôi qua tên tuổi của vị học giả chẳng những không lu mờ
mà càng ngày càng trở nên chói lòa hơn bao giờ hết. Khát vọng nhân văn sâu xa của
ông về một cuộc sống bình yên, ổn định trong một đất nước thống nhất, phồn vinh
với một triều đại thịnh trị khiến cho ông vẫn sống mãi đến hôm nay trong lòng
những người dân Việt. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã vượt qua khỏi thời đại mình. Ông là
người đầu tiên đã thể hiện một cách tài tình thông qua văn học cuộc đại loạn của
thời đại ông - cuộc khủng hoảng và tan rã của tầng lớp phong kiến ở Việt Nam. Với
học thuyết Lão - Trang, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã sớm xây dựng được cho mình một
nhân sinh quan lành mạnh, không chút yếm thế để có thể đứng ra ngoài cuộc khủng
hoảng, tranh chấp vô nghĩa ấy.
102

D. TÀI LIỆU THAM KHẢO



1. Nguyễn Duy Cần (1962), Trang Tử Nam Hoa Kinh (Nội thiên), Nhà sách Khai
trí, TP. HCM.
2. Nguyễn Duy Cần (Thu Giang) (1992), Đại cương triết học Trung Quốc:
Trang Tử tinh hoa, Nxb Tp. HCM.
3. Nguyễn Duy Cần (1993), Tinh hoa đạo học Đông phương, Nxb Tp. HCM.
4. Nguyễn Huệ Chi (1983), Mấy vẻ mặt thi ca Việt Nam (thời kỳ cổ cận đại),
Nxb tác phẩm mới - hội nhà văn Việt Nam, Hà Nội.
5. Nguyễn Huệ Chi (chủ biên) (1991), Nguyễn Bỉnh Khiêm danh nhân văn hóa,
Bộ văn hóa Thông tin và Truyền Thông - Viện khoa học xã hội Việt Nam, Hà
Nội.
6. Giản Chi, Nguyễn Hiến Lê (1992), Đại cương triết học Trung Quốc, Quyển 2,
Xuất bản lần 2, Nxb Tp. HCM.
7. Phan Huy Chú (1961), Lịch triều hiến chương loại chí, “Văn tịch chí”, tập IV,
Nxb Sử học, Hà Nội.
8. Phan Huy Chú (1992), Lịch triều hiến chương loại chí - Tập 1 - Dư địa chí -
Nhân vật chí - Quan chức chí, Nxb khoa học xã hội, Hà Nội.
9. Phan Đại Doãn (chủ biên) (1999), Một số vấn đề về Nho giáo Việt Nam, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
10. Đại học Sư phạm Hà Nội (2000), Đạo gia và văn hóa, Nxb Văn hóa Thông
tin, Hà Nội.
11. Vũ Phương Đề, Nguyễn Đình Diệm, Công dư tiệp ký, tr 397 - 415, Trung tâm
Học liệu, Sài Gòn.
12. Dương Quảng Hàm (1996), Việt Nam văn học sử yếu, Nxb Hội nhà văn, Hà
Nội.
13. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (1999), Từ điển thuật ngữ văn
học, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.
14. Nguyễn Phạm Hùng (2001), Văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XX, Nxb
103

Đại học Quốc gia, Hà Nội.


15. Trần Đình Hượu (1995), Triết lí và thơ ở Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nho giáo và
văn học Việt Nam trung cận đại, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
16. Đinh Gia Khánh, Bùi Duy Tân, Mai Cao Chương (2002), Văn học Việt Nam:
Thế kỷ X - nửa đầu thế kỷ XVIII, tái bản lần 6, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
17. Lê Trọng Khánh, Lê Anh Trà (1957), Nguyễn Bỉnh Khiêm nhà thơ triết lí,
Nxb văn hóa, Hà Nội.
18. Đinh Gia Khánh (1983), Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nxb Văn học, Hà Nội.
19. Nguyễn Khuê (1997), Nguyễn Bỉnh Khiêm qua Bạch Vân am thi tập, Nxb
TPHCM.
20. Trần Trọng Kim (1955), Nho giáo, 2 quyển, in lần thứ 3, Nxb Tân Việt, Sài
Gòn.
21. Trần Trọng Kim (2001), Đại cương triết học Trung Hoa Nho giáo, Nxb Văn
hóa Thông tin, Hà Nội.
22. Nguyễn Hiến Lê (1958), Nho giáo một triết lý chính trị, Nxb Sài Gòn.
23. Mai Quốc Liên (1998), Phê bình và Tranh luận văn học, Nxb Văn học, Hà
Nội.
24. Nguyễn Lang (1994) , Việt Nam phật giáo sử luận, Nxb Văn học, Hà Nội.
25. Nguyễn Đăng Long (Tuệ Quang) (1964), Phật giáo, Nxb Trường Sơn, sài
Gòn.
26. Lê Nguyễn Lưu (1999), Nguồn suối nho học và thơ ca Bạch vân cư sĩ, Nxb
Thuận Hóa, Huế.
27. Phương Lựu (1989), Tinh hoa lý luận văn học cổ điển Trung Quốc, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
28. Phan Ngọc (2001), Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Văn học, Ủy ban khoa
học xã hội Việt Nam, Hà Nội.
29. Phan Ngọc (dịch) (2001), Đạo đức kinh dễ hiểu, Nxb Văn học, Hà Nội.
30. Bùi Văn Nguyên (1988), Văn chương Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nxb Hải Phòng.
104

31. Nguyễn Quân (1974), Bạch Vân quốc ngữ thi tập, Trạng Trình Nguyễn Bỉnh
Khiêm, Nxb Sống Mới, Sài Gòn.
32. Nguyễn Hữu Sơn, Trần Đình Sử, Huyền Giang (1997), Về con người cá nhân
trong văn học cổ Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
33. Nguyễn Hữu Sơn (2003), Nguyễn Bỉnh Khiêm nhà thơ triết lý thế sự, Nxb trẻ
- Hội nghiên cứu và giảng dạy văn học TPHCM.
34. Nguyễn Hữu Sơn (2005), Văn học trung đại Việt Nam Quan niệm về con
người và tiến trình phát triển, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
35. Trần Đình Sử (1999), Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam, Nxb
Giáo dục, TP. HCM.
36. Bùi Duy Tân (2001), Khảo và luận một số thể loại - tác gia - tác phẩm văn
học trung đại Việt Nam tập II, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.
37. Trần Thị Băng Thanh, Vũ Thanh (2001), Nguyễn Bỉnh Khiêm về tác gia và
tác phẩm , Nxb Giáo dục, Hà Nội.
38. Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb giáo dục, Hà Nội.
39. Trần Nho Thìn (2008), Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
40. Nguyễn Tài Thư (1986), “Nguyễn Bỉnh Khiêm, nhà tư tưởng tiêu biểu của thế
kỷ XVI”, Tạp chí triết học, (Số 1), trang 50.
41. Nguyễn Tài Thư (1991), Lịch sử phật giáo Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội,
Hà Nội.
42. Trung tâm nghiên cứu Hán Nôm (1991), Nguyễn Bỉnh Khiêm trong lịch sử
phát triển văn hóa dân tộc (Kỷ yếu hội thảo khoa học), Nxb TPHCM.
43. Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam (1986), Mấy vấn đề về Phật Giáo và lịch
sử tư tưởng Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
44. Viện văn học và Hội đồng lịch sử Hải Phòng (1991), Kỷ yếu Trạng Trình
Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nxb Hải Phòng.
45. Đoàn Thị Thu Vân (1996), Khảo sát đặc trưng nghệ thuật Thơ Thiền Việt
Nam thế kỷ X - XIV, Trung tâm nghiên cứu quốc học, Hà Nội.
105

46. Đoàn Thị Thu Vân (2007), Con người nhân văn trong thơ ca Việt Nam sơ kỳ
trung đại, Nxb giáo dục, Hà Nội.
47. Lê Trí Viễn (1996), Đặc trưng văn học trung đại Việt Nam, Nxb khoa học và
xã hội, Hà Nội.
48. Nguyễn Khắc Viện (2000), Bàn về Đạo nho, Nxb Thế giới, Hà Nội.
49. Thái Quang Việt (2001), Nguyễn Bỉnh Khiêm Thái ất thần kinh, Nxb Văn hóa
dân tộc, Hà Nội.
50. Trần Ngọc Vương (1990), Văn hóa Việt Nam dòng riêng giữa nguồn chung,
Đại học quốc gia, Hà Nội.
51. Trần Ngọc Vương (1995), Loại hình học tác giả văn học. Nhà nho tài tử và
văn học Việt , Nxb giáo dục, Hà Nội.
52. Lê Thu Yến - Đoàn Thị Thu Vân - Lê Văn Lực - Phạm Văn Nhu (2000), Văn
Học Việt Nam - Văn học trung đại - Những công trình nghiên cứu, Nxb
TPHCM.
E. PHỤ LỤC
BẢNG THỐNG KÊ NỘI DUNG PHẦN 2.1, 2.2

STT Nội Bạch Vân quốc ngữ thi Bạch Vân Am thi tập (91 bài)
dung (161 bài)
Vị trí Tổng Tỉ lệ Vị trí (tên bài) Tổng Tỉ lệ
(stt bài) số (%) số (%)
1 Nhàn - Bài 10 24 14, 9 - Ngụ hứng (nhất) 24 26,3
- Bài 11 - Ngụ hứng (nhị)
- Bài 13 - Ngụ hứng (tứ)
- Bài 14 - Ngụ hứng (ngũ)
- Bài 15 - Ngụ hứng (lục)
- Bài 19 - Ngụ hứng (thập)
- Bài 22 - Tự thuật (nhất)
- Bài 23 - Tự thuật (ngũ)
- Bài 24 - Ngẫu thành thi
- Bài 29 - Trung Tân quán ngụ hứng
- Bài 31 (nhất)
- Bài32 - Trung Tân quán ngụ hứng
- Bài 35 (thập ngũ)
- Bài41 - Tức sự
- Bài 47 - Nguyên đán thuật hoài
- Bài 49 - Vấn ngư giả
- Bài 87 - Quá hữu giang
- Bài 90 - Xuân đáng cảm tác
- Bài 92 - Trí sĩ tác
- Bài 98 - Quy lão ký lại bộ thượng
- Bài 128 thư Kế Khê Bá
- Bài 133 - Ất Sửu tân xuân hý tác
- Bài 135 - Tự thuật
- Bài 139 - Dự thi
- Trung tân ngụ hứng
- Ngụ hứng
2 Vô sự - Bài 13 9 5,6 - Ngụ hứng (bát) 3 3,3
- Bài 19 - Tự thuật (nhất)
- Bài 31 - Tức sự
- Bài 42
- Bài 45
- Bài 64

Bạch Vân quốc ngữ thi Bạch Vân Am thi tập


Nội
STT (161 bài) (91 bài)
dung
Vị trí Tổng Tỉ lệ Vị trí (tên bài) Tổng Tỉ lệ
(bài) số (%) số (%)

Vô sự - Bài 75
2 - Bài 90

Yên - Bài 3 11 6,83 - Ngụ hứng lục 2 2,2


phận - Bài 4 - Trung Tân quán
- Bài 12 ngụ hứng
- Bài 13
- Bài 39
- Bài 40
3
- Bài 45
- Bài 52
- Bài 97
- Bài 137
- Bài 144

Tiên - Bài 4 5 3,1 - Ngụ hứng (thập) 3 3,3


- Bài 13 - Tự thuật (tam)
4 - Bài 19 - Thiền
- Bài 45
- Bài 51
Lâng - Bài 1 2 1,24 - Trung Tân quán 3 3,3
lâng - Bài 99 ngụ hứng (bát)
5
- Xuân hán
- Thiền
Tự tại - Bài 14 3 1,86 - Trung Tân quán 3 3,3
- Bài 15 ngụ hứng (bát)
- Bài 23 - Cảm hứng thi
6
(tam)
- Ngụ Hứng

BẢNG THỐNG KÊ NỘI DUNG MỤC 2.3

Bạch Vân quốc ngữ thi Bạch Vân Am thi tập


STT Nội dung (161 bài) (91 bài)
Vị trí Tổng Tỉ lệ Vị trí (tên bài) Tổng Tỉ lệ
(stt bài) số (%) số (%)
1 Giấc mộng - Bài 1 14 8,7 - Thuật ý mình 9 9,9
công danh - Bài 3 (bài 1)
- Bài 14 - Ngẫu thành thi
- Bài 25 (nhị)
- Bài 31 - Trung Tân ngụ
- Bài 39 hứng thập
- Bài 41 - Cảm hứng thi (bài
- Bài 48 4)
- Bài 48 - Du phổ Minh tự
- Bài 57 - Qua sông Hữu
- Bài 71 (bài 6)
- Bài 73 - Thương loạn
- Bài 98 - Cảm thời cổ ý
- Bài 99 - Ngụ hứng 15 vần
2 Thị phi, - Bài 6 37 23 - Ngụ hứng (bát) 6 6,6
vinh nhục - Bài 8 - Xuân đán cảm tác
- Bài 11 - Vũ
- Bài 12 - Lý cư giãn đồng
- Bài 16 chí
- Bài 22 - Thơ ngụ hứng ở
- Bài 36 quán Trung Tân
- Bài 39 - Cảm hứng 300
- Bài 40 câu.
- Bài 41
- Bài 45
- Bài 46
- Bài 59

Bạch Vân quốc ngữ thi Bạch Vân Am thi tập


(161 bài) (91 bài)
STT Nội dung Vị trí Tổng Tỉ lệ Vị trí Tổng Tỉ lệ
(stt bài) số (%) (tên bài) số (%)
2 Thị phi, vinh - Bài 60
nhục - Bài 61
- Bài 64
- Bài 66
- Bài 70
- Bài 72
- Bài 75
- Bài 76
- Bài 77
- Bài 82
- Bài 83
- Bài 87
- Bài 89
- Bài 90
- Bài 91
- Bài 92
- Bài 112
- Bài 122
- Bài 123
- Bài 124
- Bài 130
- Bài 131
- Bài 132
- Bài 134

Vốn dĩ số lượng bài thơ trong hai tập thơ của tác giả khá nhiều (đã giới thiệu trong
phần tác giả và tác phẩm), nhưng người viết không tìm được tư liệu đầy đủ, nên chỉ
xin giới hạn phạm vi thống kê trong sách “Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm”, Đinh
Gia Khánh, Nxb Văn học. Hà Nội (1983).
CHÂN DUNG NGUYỄN BỈNH KHIÊM
DOÃN HỈ - LÃO TỬ
GIẤC MỘNG TRANG CHU
HƯ CHU – TRANG TỬ
LÃO TỬ CƯỠI TRÂU QUY ẨN

You might also like