Professional Documents
Culture Documents
TÓM TẮT TRUYỆN KIỀU ND VÀ HỒ XUÂN HƯƠNG
TÓM TẮT TRUYỆN KIỀU ND VÀ HỒ XUÂN HƯƠNG
1. Lực lượng sáng tác, bạn đọc và những biến chuyển trong quan niệm sáng tác:
- Họ hết sức đông đảo và là lực lượng tinh hoa nhất tạo nên thành tựu chủ yếu của văn học
giai đoạn này, là tác giả của truyện Nôm bác học, ngâm khúc và hát nói.
- Các nhà nho tài tử là những người thị tài (đề cao tài năng của mình, đây là điều cấm kỵ đối
với các kẻ sĩ theo học ở “cửa Khổng, sân Trình”) và là những người liên tài tức là biết đến và
cảm thông với tài năng của người khác. Nguyễn Du chính là tiêu biểu cho người liên tài.
- Lực lượng sáng tác giai đoạn này còn được bổ sung một số lực lượng đông đảo các nhà nho
bình dân, bao gồm những người cũng theo đòi nghiên bút nhưng đổ đạt thấp (những thầy đồ
làng quê, tác giả truyện Nôm bình dân, tầng lớp độc giả mới, là người đọc thân thiện và
người truyền bá các truyện Nôm, khúc ngâm..). Thuộc đủ mọi tầng lớp khác nhau.
*Những biến chuyển trong quan điểm sáng tác:
- Các nhà văn tập trung viết về những điều trông thấy, nghe thấy, cảm nhận thấy.
- Tính hiện thực và tính thực tiễn của văn chương trở thành tiêu chí quan trọng của tác phẩm
VH.
- Chức năng nhận thức và thẩm mỹ trở nên quan trọng bên cạnh chức năng giáo huấn.
- Bên cạnh thứ văn chương nghiêm túc để dạy đời là thứ văn chương để chơi, để tặng, hưởng
thủ, đả kích, tráo phúng…
- Quan niệm về cái đẹp, đạo đức cũng khác trước rất nhiều, thể hiện qua Đoạn trường tân
thanh của Nguyễn Du khi ông ngợi ca vẻ đẹp và đạo đức nhân cách người kỹ nữ như Kiều.
- Sự xuất hiện của hàng loạt tác phẩm thuộc thể loại có tính chất mô tả hiện thực 1 cách trực
diện như ký, tuỳ bút, chí, lục…
2. Chủ nghĩa nhân đạo trở thành trong văn học, biểu hiện rất phong phú và đa dạng
trong nội dung phản ánh.
- Ở giai đoạn này, nổi bật nhất là khuynh hướng nhân đạo chủ nghĩa.
- Nội dung của trào lưu nhân đạo chủ nghĩa trong giai đoạn này được thể hiện trên 2 phương
diện sau: Lên án, tố cáo chế độ phong kiến, giai cấp thống trị và chiến tranh phong kiến trên
lập trường nhân bản vì quyền sống con người. Thể hiện tình thương yêu đối với số phận khổ
đau và bất hạnh.
*Văn học khẳng định và đề cao tài năng, nhân phẩm và những khát vọng chân chính của con
người, đề cao cuộc sống trần tục (thơ HXH – TKiều)
- Cuộc đấu tranh cho những khát vọng chân chính của con người. Trước hết đó là khát vọng
giải phóng tình cảm, là lĩnh vực mà nho giáo kiềm toả.
- Khác với quan niệm gò bó của Nho giáo, các nhà văn nhà thơ ở giai đoạn này qua tác phẩm
của mình đều cho thấy rằng tình yêu đã cảm hoá con người, làm cho con người nhân đạo
hơn, người hơn.
- Bên cạnh đó cũng có khát vọng hạnh phúc lứa đôi, hạnh phúc gia đình, khát vọng ái ân qua
những khúc ngâm. Tính nhân văn biểu hiện ở chỗ nhà thơ ý thức được tuổi thanh xuân, hạnh
phúc của con người là hữu hạn. Nhận thức này chống lại quan niệm về bổn phận, về sự tu
dưỡng mang tính tôn giáo kìm hãm hạnh phúc con người của Nho giáo và Phật giáo. Chủ
nghĩa nhân văn tạo nên sắc diện độc đáo, mới mẻ cho văn học giai đoạn này. Nổi bật tinh
thần dân chủ, cởi mở, tạo động lực phát triển mới cho VH dân tộc, làm thay đổi quan niệm
sáng tác, quan niệm thể loại, thúc đẩy cá tính sáng tạo. Đưa văn chương tiến gần hơn với
cuộc đời.
3. Sự phát triển của một số khuynh hướng, cảm hứng nghệ thuật khác
- Cảm hứng yêu nước tiếp tục được thể hiện qua đề tài viết về lịch sử, thơ đi sứ và đặc biệt
qua sáng tác thơ văn của khởi nghĩa Tây Sơn
- Cảm hứng hiện thực với những thành tựu lớn là một trong những cảm hứng chủ đạo của
văn học giai đoạn này, gắn bó mật thiết với cảm hứng yêu nước và cảm hứng nhân đạo chủ
nghĩa
4. Một số thành tựu nổi bật về nghệ thuật
* Thành tựu về mặt thể loại là một trong những thành tựu nghệ thuật lớn nhất của văn học
thế kỷ 18 – nửa đầu thế kỷ 19
- Ở giai đoạn này phải nói đến sự phát triển của các thể loại ngâm khúc, truyện thơ, hát nói…
đạt tới đỉnh cao nghệ thuật. Thơ chữ Hán lại phát triển rực rỡ với đội ngũ nhà thơ hết sức
đông đảo.
- Văn xuôi chữ Hán cũng đạt đến đỉnh cao với tiểu thuyết chương hồi, truyện ký, truyện
truyền kỳ…Văn tế cũng rất phát triển ở giai đoạn này.
- Thời kỳ huy hoàng của chữ Nôm.
- Thể loại tuồng thuộc nghệ thuật biểu diễn cũng rất phát triển.
- Văn khảo cứu cũng phát triển với các nhà bác học lớn: Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú…
- Đây là thế kỷ vàng của các thể loại thuần tuý dân tộc như hát nói, ngâm khúc, truyện thơ
đều được viết bằng chữ Nôm, và sử dụng thể thơ có nguồn gốc dân gian như lục bát, song
thất lục bát. Phú chữ Nôm xuất hiện nhiều bài xuất sắc, tiêu biểu.
- Ngoài ra, còn một thể loại khác là diễn ca lịch sử thuộc loại hình văn học chức năng với tác
phẩm Đại Nam quốc sử diễn cả của Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái.
*Nghệ thuật xây dựng nhân vật
- Thế giới nhân vật ở giai đoạn này rất phong phú và sinh động, mỗi nhân vật một tích cách,
đại diện cho những loại người khác nhau trong xã hội.
- Những hình tượng nghệ thuật trong tác phẩm được sáng tạo dựa trên sự kết hợp giữa con
người lịch sử và con người xã hội gắn với cuộc sống đời thường.
- Xây dựng ngôn ngữ nhân vật là một đặc điểm nghệ thuật nổi bật của nhiều tác phẩm văn
học giai đoạn này. (Hoàng Lê nhất thống chí)
- Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong văn học giai đoạn này nổi bật với tài năng khắc hoạ
tâm trạng, miêu tả nội tâm nhân vật (Chinh phụ ngâm khúc)
- Sự kết hợp giữa các màu sắc nghệ thuật khác nhau, nhiều khi là đối lập nhau trong một tác
phẩm.
- Chất tự sự và trữ tình, tự sự và sử thi, lãng mạn và hiện thực, bi kịch và hài kịch, cái cao
cả và cái thấp hèn…. hoà quyện vào nhau tạo nên các kiệt tác như Đoạn trường tân thanh,
Hoàng Lê nhất thống chí…
- Văn học giai đoạn này là giai đoạn đầu tiên trong lịch sử văn học dân tộc xât dựng được
nhân vật trung gian, thoát ly ra khỏi sự sáo mòn của hệ thống các nhân vật đối lập thiện ác
theo tư duy truyền thống (Hoạn Thư vừa có mặt xấu, mặt tốt).
*Vài nét về ngôn ngữ văn học:
- Chữ Nôm và chữ Hán đều đạt được những thành tựu to lớn về mặt ngôn ngữ.
- Ảnh hưởng của ngôn ngữ dân tộc, đời sống, đặc biệt là ngôn ngữ dân gian như ca dao, tục
ngữ, thành ngữ, dân ca đến sự phát triển của văn học.
- Điển cố, điển tích được tác giả sử dụng và Việt hoá để trở nên gần gũi.
- Bên cạnh ngôn ngữ điệu ngâm đã xuất hiện ngôn ngữ điệu nói, đặc biệt trong thể loại thơ
Nôm đường luật của HXH, hay trong hát nói của Cao Bá Quát.
- Sự tác động trở lại của văn học viết với văn học dân gian. Cần phải nói tới thời mới của
VHDG với ca dao, dân ca, thành ngữ, tục ngữ, “hậu truyện Kiều”, “hậu Chinh phụ ngâm
khúc”… Truyện Kiều được dân gian hoá cao độ với hình thức bói Kiều, chèo Kiều, đố
Kiều…
Xây dựng tình - Tình huống xung đột mang tính hài: - Tạo tình huống trái ngược:
huống trào phúng + Sự đối lập giữa cái giả và cái thật + Dùng những yếu tố bất ngờ để
+ Tạo tình huống có vấn đề gây cười: tâng lên hạ xuống, kết
vừa có màu sắc kịch tính, vừa kết thúc bất ngờ
hợp cái ngẫu nhiên và tất yếu giữa thật
với giả cùng lối lết thúc bất ngờ gây
cười, bỡn chuyện thật như đùa, đùa nhu
thật,…
Miêu tả và xây - Hình tượng trào phúng trong thơ văn - Hình tượng trào phúng trong thơ
dựng hình tượng trào phúng Nguyễn Khuyến được miêu văn trào phúng Tú Xương được
trào phúng tả gián tiếp, chủ yếu ở nông thôn miêu tả trực tiếp, chủ yếu ở
- Tạo bất ngờ trong việc xây dựng chân thành thị
dung biếm họa: - Sáng tạo ra những chân dung
+ Sự không tương xứng giữa biểu hiện trào phúng mà còn đưa cái tôi của
bên ngoài với bản chất bên trong mình với dạng thức vừa phóng đại
+ Khuếch đại đối nghịch ngoại hình để vừa hạ thấp
tạo chân dung hài hước + Sử dụng yếu tố phóng đại
+ Dùng biểu tượng để nhấn mạnh nét cá
tính kì quái + Xuất hiện dưới dạng biểu tượng
vật hóa
Ngôn ngữ và giọng - Sự khúc xạ và bác học hóa cái cười - Sự hòa tan ngôn ngữ dân gian
điệu trào phúng dân gian, đưa tiếng Việt văn học phát và ngôn ngữ bác học vào một
triển đến mức tinh tế, điêu luyện, ngôn phong cách riêng: ngôn ngữ hiện
ngữ vẫn mực thước đại in đậm dấu ấn đời thường
- Chơi chữ tài hoa - Tạo ra những phá cách, lệch
Lối trào phúng thâm trầm, sâu cay, ý chuẩn và sáng tạo cái mới
tại ngôn ngoại, lối trào của người có - Gắn văn học DG với văn chương
học bác học
- Lối nói bóng gió, xa xôi, kín đáo, lối -Phá vỡ rào cản của tính quy
nói lấp lửng, lấy ý từ ca dao phạm, không e dè
- Giọng điệu chung là mỉa mai, mát - Giọng điệu: lúc hằn gắt, đốp
mẻ, tiếng cười của ông có trường độ, chát, ; lúc gia ngạnh, riết róng,
âm vang lâu - Tiếng cười phê phán kiểu hiện
- Tiếng cười luôn nhắm trúng đối tượng thực, vừa có sức tiêu diệt vừa có
gắn với một lý tưởng thẩm mĩ hướng về sức hồi sinh
cái đẹo, cái cao cả để tiêu diệt, loại trừ
cái xấu, cái ác