Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 17

Chương 2

2.1. Tổng quan quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam
Công nghiệp hóa được coi là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của quá trình
phát triển vì nó đưa cả nền sản xuất vật chất và đời sống văn hóa – xã hội của một quốc
gia lên một tầm cao mới. Vì sự nghiệp xây sựng chủ nghĩa xã hội, công nghiệp hóa có vai
trò tạo điều kiện, cơ sở vật chất kỹ thuật cho chế độ xã hội chủ nghĩa. Ở mỗi giai đoạn
lịch sử, căn cứ vào tình hình kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa có những nội dung bước đi
cụ thể, phù hợp.
Trong bối cảnh chuyển đổi chủ nghĩa xã hội, Việt Nam đã đặc mục tiêu thực hiện công
nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, và từ cuối thế kỷ XX đến nay, quá trình này được xác định
rõ là công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đây là quá trình kinh tế, kỹ thuật – công nghệ và
kinh tế – xã hội sâu rộng, toàn diện nhằm để chuyển đôit lại nền sản xuất – xã hội Việt
Nam đi từ trình độ nông nghiệp lạc hậu kém phát triển lên tới trình độ công nghiệp với
các ngành công nghệ càng ngày tiên tiến, văn minh và hiện đại.
Các chuyên gia trên thế giới đã khái quát 4 trình độ công nghiệp hóa từ thấp đến cao để
mô tả sự phát triển trong lĩnh vực này. Thấp nhất là trình độ lắp ráp (Assemblement); tiếp
theo là trình độ sản xuất với kỹ thuật riêng (Own Engineering Manufacturing-OEM); cao
hơn là trình độ sản xuất với thiết kế riêng (Own Design Manufacturing-ODM) và cao
nhất là trình độ sản xuất với thương hiệu riêng (Own Brand Manufacturing-OBM).(1)
Để đi đến trình độ công nghiệp hóa cao hơn, mỗi quốc gia cần thiết phải có một số ngành
sản xuất công nghiệp nền tảng, làm tiền đề cho sự triển khai các ngành công nghiệp khác.
Những ngành như luyện kim, cơ khí, chế tạo, hóa chất, năng lượng,…là những nền tảng
tạo điều kiện và cơ sở xây dựng, phát triển cho các ngành công nghiệp khác.
Trong khung cảnh toàn cầu hóa ngày nay, quá trình công nghiệp hóa của mỗi quốc gia
không thể diễn ra biệt lập, khép kín mà phải tích hợp trong chuỗi sản xuất – kinh doanh
toàn cầu. Đối với Việt Nam, yêu cầu này trở nên cấp thiết gấp bội vì nền kinh tế nước ta
đã chặt chẽ kết nối và hội nhập rất sâu với nền kinh tế thế giới: điển hình là giá trị tổng
kim ngạch xuất nhập khẩu bằng 160-200% GDP trong những năm vừa qua. Trên tất cả ý
nghĩa, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta cũng là quá trình tái cơ cấu nền
kinh tế theo hướng tận dụng lợi thế cạnh tranh; đảm bảo sự tự chủ kinh tế quốc gia thông
qua việc đổi mới công nghệ, tăng nâng cao năng suất lao động và hiệu quả sản xuất –
kinh doanh.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam mang tính tất yếu khách quan, đóng vai trò
quan trọng trong việc xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật cho CNXH. Đạt được thành
công thắng lợi trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa sẽ mang lại những ảnh
hưởng to lớn về nhiều mặt trong sự phát triển kinh tế – xã hội của quốc gia:
 Tạo điều kiện thuận lợi để nâng cao trình độ kỹ thuật cho nền kinh tế, tăng cường
năng suất lao động, đồng thời cung cấp cơ sở cải thiện đời sống nhân dân và góp
phần tích lũy vốn cho nền kinh tế.(2)
 Tạo điều kiện để củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, thực
hiện thúc đẩy triển khai hiệu quả tốt cuộc cách mạng tư tưởng và văn hóa.(3)
 Tạo điều kiện kinh tế cho việc thúc đẩy, tăng cường và nâng cao vai trò quản lý vĩ
mô của nhà nước đối với nền kinh tế.
 Tạo điều kiện để mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại.
 Tạo điều kiện để nâng cao tiềm lực quốc phòng bảo vệ Tổ quốc.

2.1.1. Đánh giá tiêu chí kinh tế


Cơ cấu kinh tế được hiểu là sự kết hợp tổng thể của các bộ phận hợp thành, có cùng với
vị trí, quan hệ và tỷ trọng tương tác phù hợp giữa các bộ phận trong nền kinh tế quốc dân.
Việc đánh giá cơ cấu kinh tế được xem xét thông qua dưới các góc độ như: cơ cấu ngành,
cơ cấu thành phần kinh tế, cơ cấu vùng. Trong đó cơ cấu ngành là quan trọng nhất.

Trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì việc xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý là
một yêu cầu không thể phủ nhận. Cơ cấu kinh tế hợp lý cần phải đáp ứng được các yêu
cầu sau:

 Phản ánh đầy đủ và chính xác các quy luật kinh tế và xu hướng vận động phát
triển kinh tế – xã hội của đất nước.
 Nắm bắt phù hợp với xu hướng tiến bộ của khoa học và công nghệ đã và đang diễn
ra như vũ bảo trên toàn cầu.
 Cho phép tận dụng, khai thác tối đa mọi tiềm năng của đất nước, của các ngành,
các thành phần, các đơn vị kinh tế cả về chiều rộng lẫn chiều sâu.
 Thực hiện hiệu quả sự phân công và hợp tác quốc tế theo xu ngày càng quốc tế
hóa trong sản xuất cũng như trong cuộc sống, điều này đòi hỏi cơ cấu kinh tế phải
linh hoạt, vì vậy, cơ cấu kinh tế phải là “cơ cấu mở”.
Quá trình xây dựng cơ cấu kinh tế có thể nói là một hành trình khó khăn, phải trải qua
nhiều chặng đường nhất định. Chính vì lẽ đó, việc xây dựng cơ cấu kinh tế ở giai đoạn
trước đó phải tạo được “đà” cho chặng đường sau và phải tiếp tục được bổ sung hoàn
thiện dần trong quá trình phát triển.

Tại Việt Nam, Phí Thị Hồng Linh và các tác giả (2020) đã tiến hành phân tích, đánh giá
thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế tại Việt Nam giai đoạn 2011-2020, dựa theo
các tiêu chí: Chuyển dịch tỷ trọng GDP; chuyển dịch cơ cấu lao động theo 3 nhóm ngành
nông nghiệp, thực trạng xuất nhập khẩu, công nghiệp và dịch vụ.(4)
Phân tích thực trạng chuyển đổi này đã chỉ ra rằng, mặc dù sự chuyển dịch tỷ trọng GDP
theo hướng giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp, tăng tỷ trọng ngành công nghiệp, dịch vụ
đảm bảo đạt các chỉ tiêu kế hoạch đề ra trong kế hoạch. Tuy nhiên sự chuyển đổi này vẫn
chưa đạt đượt mức độ hiệu quả như mong muốn, vẫn chưa theo hướng mô hình hiện đại,
sản xuất vẫn còn mang tính gia công và phụ thuộc vào nguồn hàng nhập khẩu và phụ
thuộc vào khu vực nước ngoài. Việc chuyển dịch cơ cấu lao động diễn ra nhanh hơn so
với sự thay đổi của GDP, điều này cho thấy rằng cần cải thiện năng suất hiệu quả cơ cấu
ngành kinh tế và định hướng sản xuất theo hướng hiện đại hơn.
Nhìn chung, các nghiên cứu trong và ngoài nước đều cho thấy rằng sự thay đổi hay sự
chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là một thước đo đánh giá trình độ phát triển kinh tế:
Trình độ phát triển càng thấp, nền kinh tế đó càng phụ thuộc nhiều vào nông nghiệp;
ngược lại, nền kinh tế phát triển cao sẽ tập trung phát triển công nghiệp, đặc biệt là lĩnh
vực dịch vụ, nghĩa là ngành dịch vụ chiếm tỷ trọng cao trong tổng thể cơ cấu của nền
kinh tế.

Thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Việt Nam giai đoạn 2015-2020

Trong khoảng thời gian 35 năm từ khi tiến hành đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã đạt
được những thành tựu tăng trưởng ấn tượng và từng bước hội nhập sâu rộng vào kinh tế
khu vực và toàn cầu. Đặc biệt, trong giai đoạn 2015-2020, nền kinh tế Việt Nam có sự
thay đổi lớn đó là chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế rõ rệt theo hướng hiện đại, giảm dần
nguồn lực khu vực nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản (gọi là khu vực 1, KV1), nguồn
lực phân bổ cho khu vực công nghiệp, xây dựng, khai khoáng (khu vực 2, KV2) và khu
vực dịch vụ (khu vực 3, KV3) tăng dần.(5) Nhờ đó, nền kinh tế thu hút ngày càng nhiều
các nguồn lực quan trọng.

Về cơ cấu lao động

Giai đoạn 2015-2020, theo sự phát triển của nền kinh tế, lực lượng lao động Việt Nam có
việc làm gia tăng đều qua các năm (ngoại trừ năm 2020, do ảnh hưởng của đại dịch
COVID-19, tình trạng người lao động bị mất việc làm tăng cao).

Theo số liệu của Tổng cục Thống kê (2021), số lượng người lao động từ 15 tuổi trở lên
có “công ăn, việc làm” đã tăng đều qua từng năm, với tốc độ tăng trung bình khoảng
0,48% trong giai đoạn 2015-2019. Riêng đối với năm 2020, cả nước đã có 32,1 triệu
người từ 15 tuổi trở lên bị ảnh hưởng tiêu cực bởi dịch COVID-19 bao gồm người bị mất
việc, nghỉ luân phiên, giảm giờ làm hoặc phải nghỉ giãn việc.
Giai đoạn 2015-2020 có sự chênh lệch đáng kể trong cơ cấu lao động giữa các khu vực
kinh tế. Cụ thể, nếu như năm 2015 cơ cấu lao động KV1 chiếm tới 44%; KV2 chiếm
22,3%; KV3 chiếm 33,7%, thì đến năm 2020 tỷ trọng lao động trong các KV1, 2, 3 lần
lượt là: 34,78%; 32,65%; 32,57%. Điều này cho thấy rằng trong giai đoạn này đã có sự
chuyển dịch rõ rệt về cơ cấu lao động giữa các khu vực.

Từ đầu năm 2021 đến thời điểm hiện tại, dù dịch bệnh COVID-19 diễn biến phức tạp và
để lại những hậu quả nặng nề, nhưng các địa phương kiên định thực hiện “mục tiêu kép”
nhằm phòng, chống dịch bệnh, bảo vệ sức khỏe người dân, cũng như khôi phục và phát
triển kinh tế - xã hội. Nhờ thực hiện chủ trương đúng đắn này, tỷ lệ lao động làm việc tại
các khu vực doanh nghiệp trong 6 tháng đầu năm 2021 chỉ giảm 0,7% so với cùng kỳ
năm 2020.

Về cơ cấu vốn

Cùng với việc chuyển dịch về cơ cấu lao động giữa các khu vực, tổng vốn đầu tư phát
triển của toàn xã hội trong giai đoạn 2015-2019 cũng ghi nhận được sự tăng trưởng rõ rệt
qua các năm (Bảng 1).(6) Tốc độ tăng trưởng trung bình khoảng 9,23%/năm. Tức là, tốc
độ tăng trưởng trung bình của tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội tăng lên gấp 19,23
lần so với lao động.

Theo Tổng cục Thống kê (2021), vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện theo giá hiện hành
năm 2020 đạt 2.164,5 nghìn tỷ đồng, tăng 5,7% so với năm 2019 và chiếm khoảng 34,4%
GDP. Trong 6 tháng đầu năm 2021, vốn đầu tư toàn xã hội theo giá hiện hành đạt 1.169,7
nghìn tỷ đồng, tăng 7,2% so với cùng kỳ năm 2020.
Mặc dù bị ảnh hưởng nặng nề bởi dịch bệnh COVID- 19 và thiên tai (lũ lụt, hạn hán,
ngập mặn…) từ năm 2019 đến nay, nhưng trong 6 tháng đầu năm 2021, tỷ lệ về vốn đầu
tư toàn xã hội đã tăng mạnh. Điều này là minh chứng cho hiệu quả của những nỗ lực
chung của toàn xã hội trong việc thực hiện “mục tiêu kép” do Chính phủ đề ra có tác
dụng tích cực và nhanh chóng lan tỏa trong toàn nền kinh tế.

Sự đóng góp của các khu vực kinh tế vào GDP

Giai đoạn 2015-2020, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Việt Nam (theo giá so sánh với
năm 2010) đã liên tục tăng trưởng qua các năm. Sự tăng trưởng của GDP nhờ đóng góp
trong cả 3 khu vực kinh tế (Bảng 2). (7)
Trong khoảng thời gian này, KV1 có tỷ trọng đóng góp vào GDP có xu hướng giảm dần
qua các năm: Nếu như năm 2015, khu vực này đóng góp khoảng 18,17% GDP thì đến
năm 2020 con số này giảm xuống còn 15,34% (tỷ trọng trung bình đạt 16,51%/năm).

Hai khu vực kinh tế còn lại đóng góp khá lớn vào cơ cấu tỷ trọng GDP, theo đó KV2 có
tỷ trọng tăng đều với biên độ dao động khá lớn (từ 38,58% GDP năm 2015 đến 41,15%
GDP vào năm 2020), trung bình 39,87%/năm.

Đặc biệt, KV3 chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu GDP, trung bình 43,24%/năm, biên
độ dao động của khu vực này tương đối nhỏ (thấp nhất là 43,25% vào năm 2015, cao nhất
là 43,81% vào năm 2017) và không bền vững (trong 3 năm đầu tỷ trọng khu vực này có
xu hướng tăng, nhưng 3 năm cuối lại không ổn định).

Tóm lại, cơ cấu GDP của Việt Nam trong giai đoạn 2015-2020 thay đổi theo sự chuyển
dịch cơ cấu lao động và cơ cấu phân bổ vốn đầu tư phát triển toàn xã hội theo hướng hiện
đại hóa, nghĩa là nền kinh tế có sự chuyển dịch cơ cấu từ KV1 sang KV2 và KV3.

Kết quả phát triển kinh tế Việt Nam giai đoạn 2015-2020

Cũng trong giai đoạn 2015-2020, kinh tế Việt Nam đạt kết quả tăng trưởng ấn tượng,
những bước phát triển lớn đã đưa Việt Nam trở thành nước có thu nhập bình quân đầu
người ở mức trung bình. Những thành tựu đó được cụ thể hóa thông qua những dữ liệu
kinh tế vĩ mô như: Tốc độ tăng trưởng kinh tế khả quan; tỷ lệ lạm phát duy trì trong phạm
vi cho phép; tỷ lệ thất nghiệp ở mức thấp; cán cân thương mại dần được cải thiện theo
hướng thuận lợi.

Tốc độ tăng trưởng GDP

Một trong những thành tựu kinh tế đáng chú ý thể hiện rõ nhất của Việt Nam trong giai
đoạn 2015- 2020 là tốc độ tăng trưởng kinh tế. Vào năm 2020, do ảnh hưởng của đại dịch
COVID-19, sự suy thoái kinh tế diễn ra trên toàn cầu, trong bối cảnh đó nền kinh tế Việt
Nam cũng vượt qua không ít khó khăn, để đạt tốc độ tăng trưởng dương (2,91%), tuy
không đạt được mục tiêu đề ra nhưng Việt Nam vẫn thuộc nhóm các nước có mức tăng
trưởng cao nhất thế giới. Kinh tế vĩ mô duy trì ổn định và lạm phát được kiểm soát ở mức
thấp.

Tổng thể lại, trong giai đoạn 2015-2020, kinh tế Việt Nam có tốc độ tăng trưởng trung
bình là 6,76%/ năm, đạt mục tiêu “tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm đạt từ 6,5% -
7%/năm” mà Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã đề ra.(8)
Đây là một thành tựu quan trọng so với cả khu vực và quốc tế.

Đặc biệt, 6 tháng đầu năm 2021, tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam đã tăng 5,64%,
cao hơn 1,82% so với cùng kỳ năm 2020. Điều này cho thấy, kinh tế Việt Nam có tín
hiệu tích cực trong việc tăng trưởng bất chấp tình hình dịch bệnh COVID- 19 vẫn còn
diễn biến phức tạp.

Tỷ lệ thất nghiệp

Nhờ có sự chuyển dịch cơ cấu lao động một cách đúng đắn, hợp lý và hiệu quả, tỷ lệ thất
nghiệp tại Việt Nam trong thời gian 2015-2020 chưa vượt quá 2,31% và có xu hướng
giảm dần. Tỷ lệ thất nghiệp trung bình đạt ở mức 2,18% (thấp hơn so với mục tiêu 4%
mà Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII năm 2016 đã đề ra).

Riêng với năm 2020, tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động là 2,48%, cao hơn 0,31 điểm
phần trăm so với năm 2019, trong đó khu vực thành thị ghi nhận tỷ lệ là 3,88%, tăng 0,77
điểm phần trăm. (9)Mặc dù tăng cao hơn năm trước nhưng tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi
khu vực thành thị năm 2020 đã không vượt quá 4,0%, đạt mục tiêu như Quốc hội đề ra tại
Nghị quyết số 85/2019/QH-14 về Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội năm 2020.

Tỷ lệ lạm phát

Dưới sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ, việc cân đối kinh tế vĩ
mô trong giai đoạn 2015-2020 được duy trì ổn định, nhờ đó mà giúp tỷ lệ lạm phát ở mức
thấp, đảm bảo trong mục tiêu đề ra. (Bảng 3)
Tỷ lệ lạm phát trung bình ở Việt Nam trong thời điểm này ở mức 2,76%/năm. Những số
liệu lạm phát trên cho thấy, tính đúng đắn trong chỉ đạo, điều hành khôi phục kinh tế,
phòng chống dịch bệnh và sự quyết tâm, đồng lòng của toàn bộ hệ thống chính trị, Chính
phủ, Thủ tướng Chính phủ, cũng như sự nỗ lực, cố gắng của người dân và cộng đồng
doanh nghiệp đã khiến thực hiện có hiệu quả mục tiêu “vừa phòng chống dịch bệnh, vừa
phát triển kinh tế-xã hội”.

Cán cân thương mại

Việt Nam đã và đang hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới để tìm kiếm
thị trường, mở rộng hoạt động thương mại toàn cầu. Phát huy những thành tựu thương
mại của những năm trước đã đạt được 5 năm qua. Ngoài ra, Việt Nam còn mở rộng, giao
thương hàng hóa với các nước trong khu vực châu Á, cũng như các khu vực khác trên thế
giới. Nhờ đó, hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam đã đạt mức tăng trưởng
tích cực, năm sau cao hơn năm trước.

Trong giai đoạn nói trên, nền kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam ta đã có
những chuyển biến hay tăng trưởng theo chiều tích cực. Cụ thể như, về xuất khẩu, năm
2015 kim ngạch xuất khẩu của nước ta đã đạt 162,4 tỷ USD và cho đến năm 2020, con số
này đã vượt lên cán mốc 281,5 tỷ USD.

Tuy trong bối cảnh dịch bệnh diễn biến phức tạp trên toàn cầu, gây ra nhiều khó khăn
cũng như ảnh hưởng đến thương mại quốc tế, nhưng hoạt động xuất, nhập khẩu của Việt
Nam vẫn đạt được những thành tựu đáng kể trong vòng 6 tháng đầu năm 2021 khi tổng
kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đạt 157,63 tỷ USD, tăng 28,4%; tổng kim ngạch nhập
khẩu hàng hóa đạt 159,1 tỷ USD, tăng 36,1% so với cùng kỳ năm 2020.

Sau khi trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại Thế giới, Việt Nam đã
đạt được những bước tiến quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước. Từ nền
kinh tế chủ yếu là nông nghiệp, Việt Nam đã xây dựng được cơ sở vật chất - kỹ thuật, hạ
tầng kinh tế - xã hội từng bước đáp ứng yêu cầu cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, tạo ra một môi trường thu hút nguồn lực xã hội cho phát triển.

Khó khăn, thách thức đối với chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế tại Việt Nam

Mặc dù, giai đoạn 2015- 2020 Việt Nam đã đạt được những chuyển biến cơ cấu ngành
kinh tế khá tích cực nhưng xu hướng tăng trưởng của các chỉ tiêu vĩ mô chưa thật sự ổn
định, bền vững. Nguyên nhân từ những hạn chế và tồn tại nhất định trong sự chuyển dịch
cơ cấu ngành kinh tế trong giai đoạn 2015- 2020. Cụ thể như sau:

Một là, tuy lực lượng lao động tập trung chủ yếu ở KV1, nhưng nguồn vốn phân bổ cho
khu vực này lại rất thấp, phản ánh phương thức sản xuất lạc hậu nên đóng góp vào GDP
với tỷ trọng thấp.

Hai là, dù nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội tập trung chủ yếu vào KV2 và KV3,
nhưng đóng góp vào GDP của các khu vực với tỷ trọng chưa thật sự đảm bảo mục tiêu so
với KV1, chính vì vậy mà hiệu quả sử dụng vốn trong các khu vực chưa đạt kỳ vọng đề
ra.

Ba là, sự dịch chuyển của lao động và nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội giữa các
khu vực, đặc biệt là KV2 và KV3 chưa được ổn định và thiếu tính đồng bộ. Nguyên do
này dẫn tới sự phát triển không đồng đều giữa các ngành kinh tế Việt Nam trong bối cảnh
hội nhập quốc tế như hiện nay.

Bốn là, mặc dù KV3 có sự tăng trưởng đều đặn của lao động và vốn đầu tư phát triển
toàn xã hội, nhưng tỷ trọng đóng góp vào GDP của khu vực này vẫn chưa có sự chuyển
dịch rõ ràng.

2.1.1. Đánh giá tiêu chí xã hội


Để có cái nhìn khách quan nhất về sự phát triển bền vững về xã hội thì nhân tố này được
đánh giá thông qua các tiêu chí, như chỉ số phát triển con người (HDI – Human
Development Index), hệ số bình đẳng thu nhập, GDP xanh, các chỉ tiêu về giáo dục, y tế,
phúc lợi xã hội, hưởng thụ văn hóa. Song đó, bền vững về xã hội còn bao gồm cả sự bảo
đảm về đời sống xã hội hài hòa; giảm thiểu mức độ chênh lệch giàu nghèo và có tạo xu
hướng gần gũi hơn, có sự bình đẳng giữa các tầng lớp trong xã hội, bình đẳng giới nam
và nữ, cũng như giữa các vùng miền với nhau; đồng thời làm giảm sự chênh lệch đời
sống giữa các khu vực khác nhau.
Chỉ số phát triển con người
Chỉ số phát triển con người (HDI) là một trong những tiêu chuẩn tổng hợp, là
thước đo cho sự phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia, vùng lãnh thổ hay một địa
phương do Chương trình phát triển của Liên hợp quốc (UNDP) khởi xướng từ những
năm 1990 và đang được nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ và các tổ chức quốc tế tính toán,
cập nhật thường xuyên.
UNDP cho biết phát triển con người là một quá trình làm tăng khả năng lựa chọn
của mỗi người cũng như mức độ đạt được phúc lợi của mỗi cá nhân. Trong đó, sự lựa
chọn cốt yếu là tuổi thọ, sức khỏe, được học tập, được tận hưởng mức sống tử tế và được
hưởng thụ về văn hóa, văn minh; đồng thời, được bảo đảm về nhân quyền và bình đẳng
về chính trị.
Trong các Báo cáo phát triển con người mỗi năm, UNDP khái quát lại nội dung
của HDI như sau: Chỉ tiêu kinh tế - xã hội tổng hợp đo lường sự phát triển của con người
trên 3 phương diện: Sức khỏe, giáo dục và thu nhập của quốc gia, vùng lãnh thổ hoặc
địa bàn địa phương của quốc gia, vùng lãnh thổ trong kỳ quan sát. Khái niệm này cho
thấy, HDI cần phải được tính toán ở những thời gian và không gian khác nhau. UNDP
khuyến cáo các quốc gia, vùng lãnh thổ và các tổ chức quốc tế tính toán và công bố
thường xuyên chỉ số này.
Ý nghĩa của chỉ số phát triển con người (HDI):
 HDI là chỉ tiêu kinh tế - xã hội tổng hợp khá toàn diện, không thuần túy dựa
vào khía cạnh kinh tế như chỉ tiêu tổng sản phẩm trong nước (GDP) do đó
nó có khả năng phản ánh đầy đủ hơn tình hình và thực trạng kinh tế - xã hội
theo không gian và thời gian quan sát.
 Mặc dù có nhiều ưu điểm nhưng HDI vẫn chưa thực sự phản ánh lên được
mọi khía cạnh kinh tế - xã hội, đặc biệt là về mặt chất của sự phát triển.
Chính lẽ đó, sử dụng chỉ tiêu HDI thường đi cùng các chỉ tiêu kinh tế - xã
hội khác.
 HDI không chỉ được tính theo phạm vi quốc gia, vùng lãnh thổ, mà còn tính
cho các địa phương hoặc nhóm dân cư, nhằm mục đích phản ánh trình độ
phát triển con người của từng khu vực cư dân trên địa bàn của một đất
nước.
Tóm lại, phát triển bền vững về xã hội chú trọng vào sự công bằng và xã hội luôn
cần tạo điều kiện thuận lợi cho lĩnh vực phát triển con người và cố gắng để tất cả mọi
người đều có cơ hội phát triển tiềm năng của bản thân và có điều kiện sống chấp nhận
được. Phát triển bền vững về xã hội gồm một số nội dung chính:
Một là, ổn định dân số, phát triển nông thôn để giảm thiểu sức ép di dân vào đô
thị.
Hai là, hạn chế các tác động xấu của môi trường đến đô thị hóa.
Ba là, nâng cao học thức, xóa nạn mù chữ.
Bốn là, bảo vệ đa dạng văn hóa.
Năm là, bình đẳng giới, quan tâm tới nhu cầu và lợi ích giới.
Sáu là, tăng cường sự tham gia của công chúng vào các quá trình đưa ra quyết
định.
Hệ số bình đẳng thu nhập
Hệ số bình đẳng thu nhập thường đề cập đến mối quan hệ giữa bất bình đẳng thu nhập và
sự phát triển kinh tế, xã hội của một quốc gia. Bất bình đẳng thu nhập là chênh lệch thu
nhập và tài sản giữa các cá nhân, các nhóm trong xã hội hay giữa các quốc gia với nhau.
Trong một số trường hợp, bất bình đẳng thu nhập có thể được coi là một vấn đề, đặc biệt
khi nó gây ra các vấn đề liên quan đến công bằng xã hội, tiêu chuẩn sống và ổn định xã
hội. Do đó, lý thuyết về hệ số bình đẳng thu nhập thường đi kèm với nghiên cứu về chính
sách kinh tế và xã hội nhằm giảm thiểu bất bình đẳng và tạo ra một xã hội công bằng hơn.
Để rõ hơn về khái niệm này, sau đây là bảng chênh lệch giữa nhóm có thu nhập thấp nhất
và nhóm thu nhập cao nhất ở giai đoạn 2016-2020:

Dựa vào bảng trên ta thấy tại các khu vực thành thị, sự phân hóa giàu nghèo giữa những
nhóm có thu nhập thấp nhất so với nhóm có thu nhập cao nhất có xu hướng giảm từ 7,6
lần năm 2016 xuống còn 7,2 lần ở năm 2019. Và thấp nhất rơi vào con số 5,3 lần năm
2020, nguyên nhân là do bởi tác động của đại dịch Covid-19 để lại, làm cho nhóm thu
nhập cao giảm xuống; trong khi đó nhóm thu nhập thấp lại có xu hướng tăng lên. Tại khu
vực nông thôn đi theo xu hướng ngược lại với khu vực thành thị, minh chứng là sự chênh
lệch giữa hai nhóm thấp nhất và cao nhất tăng từ 8,4 lần năm 2016 lên 9,6 lần năm 2019.
Tuy nhiên ở năm 2020 suy giảm chì còn 8 lần do chịu sự tác động của đại dịch lên toàn
bộ nền kinh tế nước nhà.
Chỉ số bền vững môi trường
Chỉ số hiệu quả môi trường (Environmental Perdormance Index – EPI) là một loại chỉ số
tổng hợp được Trung tâm Chính sách và Luật Môi trường Yale (YCELP) thuộc Đại học
Comlumbia xây dựng với mục đích đánh giá xem xét tính hiệu quả/bền vững về môi
trường tại các quốc gia trên toàn thế giới.(11)
Đây được xem là một trong những mục tiêu quan trọng nhất trong các chính sách phát
triển kinh tế - xã hội và môi trường của mỗi quốc gia nói chung và Việt Nam nói riêng.
Việc đánh giá quá trình thực hiện mục tiêu phát triển bền vững từ những nội dung của các
chính sách phát triển sẽ là nền tảng thúc đẩy cho quá trình hoạch định, điều chỉnh và theo
sát sự tiến bộ trong việc thực thi đảm bảo chính sách của các cơ quan có thẩm quyền.
So sánh chỉ số EPI tại Việt Nam và các quốc gia khu vực Đông Nam Á:

Tại thời điểm năm 2020, chỉ số năng lực quản lý môi trường của Việt Nam ta là 33.4/100,
xếp hạng thứ 141/180 nước trên thế giới, dù đã có nhiều sự chuyển biến tích cực trong
công tác quản lý và phát triển kinh tế theo hướng bên vững.
Trong số 11 quốc gia ở khu vực Đông Nam Á, chỉ số EPI của nước ta chỉ xếp trên duy
nhất Myanmar và dưới mức trung bình của khu vực (40.4). Trong khi, Thái Lan, Brunei
Darussalam, Malaysia, Singapore là những nước luôn được đánh giá cao về mặt quản lý
môi trường, được thể hiện qua chỉ số EPI với con số cao hơn mức trung bình của khu
vực.
GDP Xanh
GDP xanh là phần còn lại của GDP sau khi đã trừ đi các chi phí do khử chất thải từ quá
trình sản xuất, tiêu dùng hay chi phí tiêu dùng tài nguyên và mất mát về môi trường do
các hoạt động kinh tế.
GDP xanh được coi là bước hoàn thiện tài khoản quốc gia của Liên hợp quốc vì đây là
việc tính toán chỉ tiêu GDP xanh này hay nói xa hơn là hạch toán môi trường trong tài
khoản quốc gia (SEEA).
GDP xanh được tính theo công thức: (12)
GDP Xanh = GDP + Ω
Trong đó:
Ω : chi phí khử chất thải, tiêu dùng tài nguyên của các hoạt động kinh tế bao gồm:
+ Chi phí khử đất từ hoạt động sản xuất và tiêu dùng
+ Giá trị sản xuất của các ngành khai thác
Nhiều năm qua, Việt Nam là nước chủ yếu một phần dựa vào khai thác tài nguyên thiên
nhiên để tăng trưởng kinh tế và phát triển liên quan đến các ngành công nghiệp gây ô
nhiễm môi trường. Chính vì vậy mà chỉ số GDP xanh đóng vai trò quan trọng cho phép
nước ta có được những chính sách tăng trưởng bền vững hơn, tránh tình trạng tăng trưởng
bất chấp mọi giá.
Hiện nay, GDP xanh được xem như là một chỉ tiêu kinh tế vĩ mô; bên cạnh đó xây dựng
và có chính sách ưu đãi phù hợp nhằm khích lệ các doanh nghiệp phát triển những sản
phẩm xanh, được cấp phép nhãn sinh thái…
Chỉ tiêu về giáo dục, y tế, phúc lợi xã hội, hưởng thụ văn hóa
 Giáo dục
Sự nghiệp giáo dục có bước tiến phát triển mới, mức chi ngân sách nhà nước cho giáo
dục, đào tạo đạt tới 20% tổng chi ngân sách. Giải quyết việc làm đạt kết quả tích cực:
trong 6 năm (2006 - 2011), đã giải quyết được việc làm cho hơn 9 triệu lao động. Năm
2013 đã phấn đấu tạo việc làm mới cho hơn 1,6 triệu người; thực hiện chiến lược dạy
nghề gắn với tạo việc làm.
Với mục tiêu phát triển bền vững : “Đảm bảo nền giáo dục có chất lượng, công bằng,
toàn diện và thúc đẩy các cơ hội học tập suốt đời cho tất cả mọi người”. Việt Nam cơ bản
đã gần như hoàn thành mục tiêu “về giáo dục có chất lượng và công bằng”. Nhiều chỉ số
về giáo dục phổ thông của nước ta được đánh giá cao trong khu vực, ví dụ như:
Tỷ lệ huy động trẻ 6 tuổi vào lớp 1 đạt 99% (đứng thứ 2 khu vực ASEAN, chỉ sau
Singapore). Mặt khác, thành tích của các đội tuyển học sinh tham dự các kì thi quốc tế
như Olympia cũng đưa giáo dục Việt Nam lên trên các bảng xếp hạng uy tín thế giới; số
lượng công trình nghiên cứu khoa học được công bố cũng tăng mạnh trong những năm
qua. Đây được coi là một trong những điểm sáng của nền giáo dục nước nhà.
 Phúc lợi xã hội
Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm đến sự phát triển về hệ thống phúc lợi xã hội,
đặc biệt là phúc lợi về y tế. Phúc lợi y tế được thực hiện ở tất cả các nội dung như;
Phúc lợi y tế dành cho nhóm người có hoàn cảnh đặc biệt (người có công, người
mắc bệnh hiểm nghèo, nan y, người khuyết tật, người già neo đơn, người nghèo,
dân tộc thiểu số, vùng sâu vùng xa,…) và phúc lơi y tế toàn dân (dịch vụ y tế dự
phòng, y tế công cộng,…).
Những người thuộc nhóm có hoàn cảnh đặc biệt khi đi khám chữa bệnh tại các
trạm y tế xã sẽ được hỗ trợ thanh toán 100%, khi khám ở các bệnh viện công lập
thì sẽ được thanh toán 95%; trường hợp chữa bệnh từ tuyến huyện trở lên sẽ được
hỗ trợ tiền đi lại, ăn uống khi nằm điều trị, đồng thời được hỗ trợ chi trả 5% bảo
hiểm y tế và hỗ trợ khi mắc các bệnh nặng có chi phí phẫu thuật điều trị cao như
ung thư, mổ tim, chạy thận,… Đối với trẻ em dưới 6 tuổi được nhà nước cấp cho
thẻ bảo hiểm y tế và được thanh toán 100%.
Mạng lưới y tế nước ta hiện nay đã bao phủ cả nước. Nhờ có nguồn ngân sách đầu
tư lớn cho phúc lợi y tế, thế nên Việt Nam có nền y tế rộng rãi cùng với chất lượng
khám chữa bệnh tương đối tối. Đội ngũ bác sĩ có học thức cao với kinh nghiệm
dày dặn.
 Phúc lợi văn hóa
“Phúc lợi văn hóa” là một nguyên tắc vận hành có sẵn trong nền tảng văn hóa dân
tộc Việt Nam, là một luận điểm lý luận quan trọng trong đường lối văn hóa của
Đảng ta và trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Nội dung chính là yêu cầu chung xây
dựng môi trường văn hóa lành mạnh, phát huy và bảo tồn các giá trị văn hóa, di
sản dân tộc, văn hóa của các đồng bào dân tộc thiểu số. Từng bước rút ngắn
khoảng cách về hưởng thụ văn hóa giữa các vùng, miền, các tầng lớp xã hội, đặc
biệt là nông thôn, vùng sâu vùng xa, nơi tập trung nhiều người lao động.
Định hướng mục tiêu Tiến bộ và Bền vững: Hướng tới xã hội công bằng và phát triển
ổn định ở Việt Nam
Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt khoảng 65 - 70% (2021), trong đó có bằng cấp,
chứng chỉ đạt 25,5%. Chỉ số giá tiêu dùng tăng bình quân khoảng 4%. Tỷ lệ tham gia bảo
hiểm y tế đạt trên 90% dân số. Tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân khoảng 1 - 1,5%/năm.
Phấn đấu đến năm 2020 sẽ không còn hộ gia đình nghèo với mức thu nhập dưới 2
USD/ngày. GDP bình quân đầu người khoảng 3,700 USD. Tỷ lệ dân cư khu vực thành thị
được cung cấp nước sạch qua hệ thống cấp nước tập trung trên 90%. Tỷ lệ thu gom và xử
lý chất thải rắn sinh hoạt đô thị trên 87%.
Về mặt xã hội, tập trung đẩy mạnh công tác giảm nghèo theo hướng bền vững và
thúc đẩy tạo việc làm ổn định. Tiến hành thực hiện các biện pháp nhằm đảm bảo sự tiến
bộ và công bằng xã hội, đồng thời áp dụng tốt các chính sách an sinh xã hội. Đồng thời,
tập trung vào việc ổn định quy mô, cải thiện và nâng cao chất lượng dân số; phát triển
văn hóa hài hòa với phát triển kinh tế, xây dựng và phát triển gia đình Việt Nam. Cùng
với đó phát triển bền vững các đô thị và xây dựng nông thôn mới, phân bố hợp lý dân cư
và lao động theo vùng, địa phương; nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo để nâng cao
dân trí nước nhà và trình độ nghề nghiệp phù hợp với yêu cầu mục tiêu của phát triển đất
nước.

You might also like