Professional Documents
Culture Documents
Chức Năng Văn Học
Chức Năng Văn Học
1. Dẫn chứng 1
“Mục đích chính của nghệ thuật là nói lên sự thật về tâm hồn con người.
Nghệ thuật là chiếc kính hiển vi mà người nghệ sĩ dùng để soi vào những
điều bí ẩn của tâm hồn mình và trình bày những điều bí ẩn chung cho con
người ”(Lev Tolstoy).Văn học cho ta thấy những điều nên được thấy ở trong
xã hội, những điều ẩn sâu mà mắt thường chưa tỏ rõ, từ đó người đọc có thể
nhận thức được về thế giới xung quanh, về vũ trụ bao la, rộng lớn quanh
mình. Nhưng không chỉ dừng ở đó, văn chương còn mổ xẻ cho ta từng tầng
bậc bên trong con người, những bản chất ở bề sâu, những khoảng lặng nơi
tâm tưởng con người. Đến với truyện ngắn “Phiên chợ Giát” của Nguyễn
Minh Châu ta thấy sự biến dạng từ sâu trong tâm hồn của Lão Khúng, lão
mơ thấy chính lão bị đánh bằng búa tạ, chính lão là một con bò! Lão tự nhìn
thấy mình trong cái thân hình nửa bò nửa người, máu me đầm đìa, mà lão
vẫn bình thản y như thân thủ một cái điều đương nhiên mà trong những khi
thức lão không hề được biết. Hình ảnh lão Khúng biến dạng trong giấc mơ
chính là hình ảnh thật của lão - một kiếp trâu bò nửa người nửa vật của
người nông dân, chẳng thể phân định. Lão nhận ra, cuộc đời mình không
khác gì một con bò hoang, thật đắng cay làm sao! Thật đắng cay sao cho một
kiếp người khi gần đất xa trời mới nhận ra mình đã sống không khác là bao
kiếp trâu bò không biết sự vất vả có được đền đáp hay không. Sau giấc mơ
ấy, lão tỉnh dậy và quyết định thả con bò khoang về rừng, về chốn tự do
nguyên thuỷ, giải thoát cho bò khoang một kiếp đẽo cày, cũng là giải thoát
chính mình khỏi mảnh ruộng, khỏi nghề nông, khỏi những ngày quá vãng.
Nhưng rồi con bò khoang vẫn trở về, như một thất bại của sự ảo tưởng tự do
hoang dã của lão Khúng, tựa chàng Don Quixote và chiếc cối xay gió của
những năm thế kỉ XV. Qua tác phẩm “Phiên chợ Giát” Nguyễn Minh Châu
đã thể hiện bi kịch của người nông dân – Lão Khúng muốn vượt thoát số
phận của mình nhưng bi kịch này lại nối tiếp bi kịch khác và chẳng có gì có
thể thay đổi được số phận của lão. Người nông dân cụ thể ở đây là lão
Khúng phải đối mặt với những nỗi đau đớn của số phận của mình. Sự đau
đớn ấy như những nhát dao “phạt ngang cuộc đời của lão”. Bi kịch của lão
cũng là bi kịch tiểu biểu cho người nông dân lúc bấy giờ. Cho dù là chiến
tranh hay là kiếp mưu sinh thì người nông dân luôn chịu đau khổ và những
2. Dẫn chứng 2
“Tôi muốn tác phẩm của tôi giúp mọi người trở nên tốt hơn , có tâm hồn thuần
khiết, tôi muốn chúng góp phần khơi dậy tình yêu con người, đồng loại và ý muốn
đấu tranh mãnh liệt cho những lí tưởng của chủ nghĩa nhân đạo và sự tiến bộ của
loài người.” đó là lời của văn nhân nổi tiếng người Nga - Sholokhov khi ông nói
về mong muốn tối cao nhất của một nhà văn khi sáng tạo nên một tác phẩm văn
học. Và hẳn vậy, khi ta đọc văn, cái ta cần là những tư tưởng được rung lên ở các
cung bậc tình cảm trong trái tim ướt át chứ chẳng cần những tư tưởng nằm thẳng
đơ trên trang giấy. Ta cần sự rung cảm ở bề sâu tâm hồn, những bài học về lẽ sống
ở đời như làn nước ngọt ấm rót tưới vào người ta, để từ đó nảy lên hạt mầm của
những thiện lương tốt đẹp. Đọc truyện ngắn “Cái Mũi” của nhà văn Ryunosuke
Akutagawa, ta cảm thấy xót thương cho nhà sư Zenchi, bởi ông thật khổ, ông khổ
khi phải giả vờ “chẳng hề bận tâm đến cái mũi” vì lòng tự trọng, vì “không muốn
mọi người nghĩ rằng ông phải sầu muộn vì cái mũi của mình”. Ta cũng thấy giận
dữ vì sự dè bỉu của những người xung quanh ông từ khi mũi ông còn dài “lủng
lẳng” cho đến lúc nó đã ngắn lại. Từ điều đó, ta biết được rằng lời nói có thể ảnh
hưởng đến một người sâu sắc như thế nào và ẩn sâu trong chúng ta luôn có những
phần tính nết rắn rết thóa mạ người khác. Nhưng đứng ở góc độ khác từ nhà sư
Zenchi ta cũng nhận ra được nỗi sợ hãi, tự ti ẩn sâu trong mỗi con người, nhà sư
Zenchi vờ như “chẳng hề bận tâm” đến cái mũi bởi vì một lí do duy nhất là ông
quá bận tâm đến cái mũi của mình. Ông cố tìm sự an ủi trong những pho Kinh
Phật dày cộp, mong tìm được một sự dẫn dụ về một cái mũi dài, một người như
ông, khát khao rằng giá như tìm được một “Mục Liên hay Sa Liên cũng có một cái
mũi dài”. Đó là sĩ diện, sự tự ti, mặc cảm chôn chặt trong lòng mỗi con người ta,
để người khác dẫn dắt và rồi không vững được tâm thức của mình, cũng giống như
nhà sư Zenchi ông vẫn không thoát được hố sâu mà mình tự tạo ra, ông vẫn mắc
kẹt tại đó cùng với cái mũi dài và bản tính quá để ý để sự đánh giá của người khác.
Từ truyện ngắn “Cái Mũi” của R.Akutagawa ta nhận ra được sự châm biếm nhẹ
nhàng nhưng mang tính phù phiếm, vị kỉ của loài người. Ta nhận thức được bản
chất bề sâu trong mỗi con người và từ đó ta tự nhận thức về chính mình và tự giáo
huấn bản thân để ngày càng hoàn thiện và tỏa sáng. Và đây chẳng phải là sứ mệnh
cao đẹp của văn chương hay sao? Hướng con người đến cái cao thượng, cái đẹp,
cái nhân đạo của lòng người, đưa ra những niềm đau nhân loại nhưng để lại những
dấu ấn của tình yêu thương, tình người thật sự để ta trân trọng và sống tốt hơn.
3. Dẫn chứng 3
Thời gian vô hình trôi đi, vạn vật trên đời tất cả cũng đã đổi thay. Duy nhất chỉ có
mục đích và giá trị của văn chương là vẫn còn vẹn nguyên – hướng tới con người
và cuộc đời. “ Văn học vị nhân sinh”. Hiện thực xô bồ, tàn khốc đã làm cho lòng
người ngày càng lạnh lẽo, vô cảm. Và lúc này, văn học xuất hiện như “một thứ khí
giới thanh cao và tự đắc lực mà chúng ta có để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế
giới giả dối và làm cho lòng người đọc thêm trong sạch và phong phú hơn!”
(Thạch Lam). Đến với tác phẩm “Giết con chim nhại” của nhà văn Harper Lee
người đọc lại càng hiểu biết sâu sắc hơn về điều này. “Giết con chim nhại” là câu
chuyện xoay quanh 2 đứa trẻ là Jean Louise “Scout” Finch và Jeremy Atticus
“Jem” Finch. Chúng lớn lên cùng nhau và có người cha làm luật sư. Diễn biến câu
chuyện trở nên hấp dẫn hơn khi người cha tiến hành bào chữa cho một người da
đen tên là Tom. Người này bị buộc tội cưỡng hiếp một cô gái người da trắng là
Mayella Ewell.Chính vì điều này đã làm cho hai người con của ông bị tẩy chay bởi
những đứa trẻ và người da trắng. Họ nói gia đình ông là mọi đen và không đáng
tồn tại trên đất nước của họ. Điều này khiến ông rất buồn vì đơn giản ông cho rằng
ai trên cuộc đời này cũng có quyền được tôn trọng. Phiên tòa xảy ra sau đó và
Tom đã bị buộc tội cưỡng hiếp. Nhưng sự thật rằng tất cả chỉ là lời nói dối của
Mayella Ewell. Cô và người bố của mình đã đỗ tội danh lên đầu Tom mà chút ăn
năn nào. Tom vì quá bất công trước kết quả của toà án mà bỏ trốn. Nhưng có lẽ ở
xã hội bấy giờ, người da màu rất khó tồn tại và sinh sống như người da trắng. Tom
bị bắn và chết ngay sau đó, để lại cho Aticus một nút thắt trong lòng. Xuyên suốt
câu chuyện chính là sự phân biệt chủng tộc vô cùng rõ ràng. Người da màu sống
tại Mỹ luôn đối mặt với những bất công và khinh thường từ người da trắng. Thậm
chí họ còn không có những quyền cơ bản của một con người. Nhưng qua đó chúng
ta cũng phần nào thấy được tấm lòng cao cả của ông Aticus. Ông không chỉ đứng
về lẽ phải mà còn có một tâm hồn hết sức lương thiện và cao cả. Tác phẩm đã
mang đến một thông điệp vô cùng ý nghĩa: Mỗi cá thể sống được tượng trưng như
những cánh chim nhại tự do. Không có ai hay bất kỳ một thế lực nào có quyền
xâm hại, làm tổn thương chúng ta. Sự công bằng và văn minh sẽ giúp ta có cách
cư xử đúng mực hơn. Đồng thời, tác phẩm “Giết con chim nhại” chính là nhân
chứng sống để tố cáo tội ác phân biệt chủng tộc. Cuộc sống dù có thay đổi đến đâu
thì cũng không thể tách rời khỏi văn chương, và cũng chỉ có văn chương mới có
thể làm cho cuộc sống vốn tăm tối này trở nên rực rỡ sắc màu, ngập tràn trong ánh
sáng của hi vọng. Thế nên, văn chương không cần phải là sự chắt chiu trong ngôn
từ hay sự bay bổng trong từng câu thơ. Văn chương chỉ có thể là một tiếng thét
khổ đau, tuyệt vọng được cất lên từ bể sâu của cuộc đời để từ đó giúp con người
cất lên tiếng nói của riêng mình. Đem ánh sáng vào bóng tối trái tim con người đó
4. Dẫn chứng 4
Văn chương chân chính không phải là kiếp ve sầu ngắn ngủi sau một mùa hạ cũng
chẳng giống như đó hoa chóng tàn mỗi độ thu sang mà đó là những nấc thang
nâng tầm giá trị nhân sinh, nghệ thuật trong tâm hồn con người qua dòng chảy lịch
sử. Đắm chìm vào từng câu chữ trong “Nỗi buồn chiến tranh”, ta bắt gặp nhân vật
Kiên trên hành trình chắp vá từng mảng kí ức vỡ vụn, sụp đổ. Chiến tranh không
như chúng ta hoài tưởng, nó hào hùng nhưng cũng rất đỗi đớn đau. Tưởng chừng
bước ra từ chiến địa, Kiên sẽ được thưởng thức bản hùng ca độc lập của dân tộc,
nhưng anh luôn mang cảm giác dằn vặt, giằng xé trong tâm hồn về một thời quá
vãng. Hòa nhịp vào cuộc sống mới, Kiên dường như bị “khớp”, bị bỏ rơi, bị lạc
loài ngay chính độc lập mà anh góp sức kiến tạo. Anh triền miên lún sâu trong hồi
ức chiến tranh và quay cuồng giữa bộn bề thực tại. Bỗng một ngày, anh “tỉnh
thức” khỏi cơn mộng mị tinh sương; bản năng của nghệ sĩ được khơi dậy, anh ngộ
ra phải có trách nhiệm với lịch sử, với dân tộc bằng nghề cầm bút. Kiên cho đó là
“thiên mệnh” của người nghệ sĩ để “làm sống dậy những linh hồn đã mai một,
những tình yêu đã tàn phai, làm bừng sáng lại những giấc mộng xưa”. Bởi thế, văn
học có khả năng lần tìm bản ngã của con người, thỏa mãn những ẩn ức trào dâng
và hơn hết là “phục dựng” nhân cách. Văn chương không chỉ “cứu cánh” mà còn
“cứu rỗi” nhân tâm cho chính người nghệ sĩ, bởi khi đó anh được nhìn ngắm, thấu
suốt chặng đường dài đã lướt qua. Và mỗi lần viết là mỗi lần anh lấy dĩ vãng làm
“dưỡng khí” cho hiện tại tốt đẹp hơn; anh như kẻ hành khất “bòn rút” quá khứ một
cách đáng thương, bởi tương lai không rủ lòng “bố thí” cho một chút hi vọng và
niềm tin. Càng lặn sâu trong nỗi buồn chiến tranh, anh càng trở nên xa lạ, lạc lõng
với hiện tại như kẻ đi bên lề cuộc sống. Kiên chẳng què quặt, tổn thương về thể
xác nhưng người lính ấy lại là “thương binh” của tinh thần, và văn chương chính
là chiếc nạng giúp anh bớt “tàn” hơn. Thế nhưng, anh đã làm được gì cho lịch sử
khi số mệnh của đống bản thảo ẫy vẫn lộn xộn, vẫn tơi tả, vẫn âm thầm nằm trong
góc tối? Nhà văn ôm một thiên chức thật cao cả lớn lao, nhưng lại tỏ ra bất lực
ngay cả với bản thân mình, nên trọn đời anh phải sống một kiếp sống lầm lũi cô
đơn đầy tội nghiệp giữa dòng đời hối hả. Văn học nhận thức rằng số phận con
người gắn liền với hạnh phúc và đau khổ, dường như đó là tất cả những gì thật sự
ý nghĩa trong cuộc đời con người. Vì thế, văn học luôn quan tâm đến hạnh phúc
cũng như nỗi buồn của cá nhân con người, góp phần nâng cao giá trị con người,
bồi dưỡng nhân cách và hoàn thiện con người hơn. Tác phẩm “Nỗi buồn chiến
tranh” đã làm cho bức chân dung về con người văn học những năm gần đây đầy đủ
hơn bằng sự diễn tả quá trình tự ý thức của con người về lịch sử, về số phận bằng
việc them vào đó nỗi đau tinh thần, khao khát đến vô vọng về hạnh phúc và sự day
dứt, trăn trở không nguôi về quá khứ. Tác phẩm cũng là một minh chứng cho bản
chất của văn chương: là nỗi đau đời, là sự tiếc nuối không nguôi về thời gian, về
5. Dẫn chứng 5
‘Chúa Ruồi’ của William Golding- nhà văn đạt giải Nobel 1980 , viết về những
đứa trẻ con, nhưng hoàn toàn không phải là một cuốn truyện thiếu nhi thuần tuý.
Nó đáng được đọc bởi bất kỳ ai ở độ tuổi nào, vì nó phơi bày bản chất của toàn thể
loài người chúng ta. Những chương sách chậm rãi từ hồn nhiên, trong sáng đến
ngột ngạt, u tối hẳn sẽ khiến vài độc giả giật mình tự vấn lại chính bản thân mình.
Vì xã hội trật tự văn minh hiếm khi cho ta cái cơ hội được khám phá những mảng
tăm tối nhất trong bản chất con người, Golding đã, thông qua một ‘Chúa Ruồi’ đầy
những phép ẩn dụ hãi hùng và ám ảnh, cho ta thấy tương lai khả dĩ của loài người
khi mọi chuẩn mực đạo đức và luật lệ đều biến mất. Tác giả đã rất tài tình và sâu
sắc tạo dựng nên hình ảnh con người trong bối cảnh hoang đảo: mạnh mẽ, quả
cảm trước những con ‘quái vật’ của thiên nhiên nhưng trần trụi, yếu đuối và bất
lực khi đối diện với chính con quỷ dữ của mình. Bằng những chi tiết về cuộc đi
săn của đám trẻ, nhà văn khắc hoạ vô cùng sống động vòng xoáy chết chóc của sự
buông thả: một chút vượt quá giới hạn ban đầu tích luỹ dần thành sự tha hoá
không lối thoát. Nhưng trên hết, hoang đảo chỉ là một bối cảnh đặc biệt để người
đọc hình dung một cách rõ ràng thông điệp của tác giả. Câu chuyện như trong
‘Chúa Ruồi’, không phải sống trên hoang đảo thì mới có thể xảy ra, mà phản ánh
thực tại ngay cả trong xã hội văn minh mà chúng ta đang sống. Mỗi mầm mống
thói quen xấu của con người, dù nhỏ nhặt và không đáng kể đến đâu, cũng sẽ có
ngày bùng lên thành một tội ác, và kết cục của loài người rồi cũng sẽ giống như
những đứa trẻ kia. Có những người nhằm vào lỗ hổng của luật pháp mà gian lận
một chút, ích kỷ một chút, tham lam một chút. Dù mỗi ngày không xấu xa hơn bao
nhiêu, nhưng rồi một ngày nhìn lại, họ giật mình thấy mình đã là một con người
nào đó khác, một người mà trước đây, trong những giấc mơ điên rồ nhất, họ chưa
bao giờ nghĩ mình có thể trở thành. Đến với tác phẩm “ Chúa Ruồi” người đọc đã
cảm nhận được nhiều bài học sâu sắc. Hình ảnh Jack và lũ trẻ tách đoàn lập nên
tòa thành mới là biểu hiện của sự tha hóa trong tâm hồn. Sự tha hóa ấy chính là
bản ngã của con người và ai trong chúng ta hầu như cũng đã từng làm điều đó.
Một lần nữa, tác phẩm đánh thẳng vào mặt tối bên trong, vào bản chất độc ác và
ích kỷ của loài người. Một người nếu chỉ biết nghĩ cho bản thân thì sự sống đó gần
như vô nghĩa. “ Nhân chi sơ tính bản thiện”. Con người sinh ra vốn lương thiện,
tốt đẹp, thế nhưng sau này lại bị xã hội đầy những mưu mô, hiểm nguy làm cho
thay đổi, tha hoá. Và văn học như một tia sáng rọi vào những tâm hồn đang tan vỡ
hay chuẩn bị tan vỡ đó, giúp con người tìm lại được lương tri đã biến mất, giữ lại
phần “người” của mình. Nhà văn Nguyên Ngọc cũng đã từng nói rằng: “Nghệ
thuật là phương thức tồn tại của con người, giữ cho con người mãi mãi là con
người, không sa xuống thành con vật.” Con người cần nghệ thuật như con chim
cần bầu trời tự do, như con cá khát vẫy vùng bể lớn. Con người sẽ không thể sống
6. Dẫn chứng 6
Thiên thần và ác quỷ, thật không khó để nhận diện. Nhưng con người, lại thật khó
để cảm thấu các tranh tối, sáng, những mảng màu đan xen, khó để nhận chân được
cái đẹp và cái xấu. Và văn chương là ngôn ngữ của tâm hồn, là hàm dưỡng được
sống dậy từ những giấc mơ đào sâu sự đa đoan, thiện ác trong hồn người. Dẫu vậy,
liệu nhà văn có quyền năng vô biên khi tạo dựng nghệ thuật không chỉ để miêu tả
cái đẹp và cái xấu mà còn là cái đẹp siêu vượt thiện ác như trong “Bức bình phong
địa ngục” của Akutagawa Ryunosuke? Cốt truyện xoay quanh nhân vật Yoshihide,
hắn ta có tài năng, nhưng là cái tài bị cho là “tà phái”, bị đồn thổi như là “đã thề
ước điều gì với hồ ly tiên để đánh đổi lấy phúc lộc”. Bởi, Yoshihide không phải là
kẻ sĩ, y không hề đắn đo trong việc hành hạ người khác để đạt được mục đích của
mình, không hề e dè những điều mà thiên hạ kiêng kị, chỉ một lòng cố công tìm tòi
“nhìn thấy nét đẹp nằm bên trong cái xấu”, mặc cho người đời coi y là điên rồ, ghê
tởm và khinh ghét y. Tham vọng mù quáng đã theo y vào cả trong giấc mơ, ám
ảnh y cả ngày lẫn đêm, hóa thành địa ngục thật sự trong giấc ngủ. Nhà văn đã để
cho nhân vật của mình say sưa sáng tạo nghệ thuật trong nền đam mê vô bờ bến
của mình, hắn ta tôn thờ nghệ thuật đến mức sẵn sàng hy sinh tất cả dẫu cho đó có
là tình thân. Yoshihide có một đứa con gái vàng ngọc, một đứa con gái mà y bảo
vệ bằng mọi cách cực đoan nhất và cũng ngu dại nhất. Bức tranh cuối cùng của
người họa sĩ được vẽ bằng viễn cảnh đứa con gái của ông ta đang ngồi trong xe
ngựa đang rực cháy và lao xuống dốc. Khuôn mặt đứa con gái đầy hoảng sợ, đau
khổ lại là chất liệu để Yoshihide kiến tạo nên một kiệt tác và những giá trị nghệ
thuật? Giây phút đứng trước chiếc xe bốc cháy, y không còn là một người cha mà
chỉ là một người đã bán linh hồn cho quỷ dữ, một nghệ sĩ đã bán linh hồn cho quỷ
dữ. Thế nhưng, khi thoả mãn về mặt nghệ thuật ông lại bị ám ảnh, dằn vặt khôn
nguôi. Sau khi hoàn thành bức tranh, y đã tự vẫn. Và rồi, khi y chết đi tên của y đã
chìm vào quên lãng, dẫu là khi còn sống, Yoshihide khiến tất cả phải nhớ lấy tên
mình, kể cả trong giới hội hoạ đến những người bình thường. Đó là cái chết thật
sự, không chỉ của Yoshihide mà là của thứ nghệ thuật Yoshihide. Ngàn vạn câu
hỏi, những công trình nghệ thuật đẹp đẽ được tạo nên từ máu, nước mắt và đau
khổ của con người thì liệu có còn là nghệ thuật không? Văn chương phải “ác” như
“Bức bình phong địa ngục” kia ư? Kiến tạo nên những điều kinh khủng của tâm
hồn con người, phản ánh cái ác, cái tồi tệ mới là giá trị văn chương ư?
7. Dẫn chứng 7
Tác phẩm “ Khu vưòn bí mật” của Frances H hấp dẫn người đọc khi gợi ra chủ đề
về thiên nhiên và con người, mối liên hệ của sự sống, thiên nhiên phản ánh nội của
con người. Đằng sau những con chữ là hình ảnh của một liên kết bền chặt, sâu sắc
và quan trọng giữa thiên nhiên và con người. Lần đầu tiên đến trang viên của
Graven, khi băng qua vùng đất hoang, Marry không thể yêu cái nơi với những
cánh đồng hoang, trống trãi, mênh mông, một đại dương đen ngòm, trải rộng. Dần
dần, trái tim nhỏ bé bắt đầu biết yêu thương ai đó thì cánh đồng cũng dần thay đổi
theo và khi tình yêu thương lơn dần thì khu vườn bí mật lại tái sinh them một lần
nữa. Dưới sự chăm sóc của Marry và Dickon, họ đã gieo hi vọng, tình yêu vào
những hạt mầm, họ đã hăng say chăm sóc để hồi sinh khu vườn mà còn là hồi sinh
cho cậu chủ Colin ốm yếu, bác Archibald u sầu và cả trang viên hoang vu. Nhà
văn đã đưa thiên nhiên trở thành một người bạn của con người. Thiên nhiên đâu
chỉ là những cảnh vật, sinh vật chỉ tồn tại mà thực ra thiên nhiên luôn sống, luôn
biết cách yêu thương con người, những ai yêu chúng , mà khi nhìn lại bản thân
chúng ta của hiện tại, chúng ta có thực sự coi tự nhiên là bạn, liệu chúng ta có thực
sự yêu quý và bảo vệ thiên nhiên? Xã hội ngày càng phát triển với nhịp sống hối
hả, bận rộn, thiên nhiên dần rơi vào lãng quên, Con người chưa kịp nhận ra thì đã
phải gánh chịu những trừng phạt của thiên nhiên như: Thiên tai, dịch bệnh,.. Đọc
tác phẩm “Khu vườn bí mật”, người đọc rung động bởi phép màu đến từ tình yêu
thương, những màu sắc trong trẻo, đẹp đẽ, dịu dàng của thế giới tự nhiên, dần dần
hàn gắn vết thương, thổi một luồng sinh khí tươi mát làm dịu tâm hồn, tái sinh
cuộc sống. Cuộc sống được hoà mình vào thiên nhiên, muông thú, cây cỏ, ta sẽ
nhận ra là người bạn tối để chia sẻ, để hấp dẫn, để chữa lành, thiên nhiên luôn ban
tặng phép màu cho mọi người. Nhà văn đã cho độc giả nhận thấy hạnh phúc chẳng
nằm ở đâu xa, nó nằm ở quanh ta, trong từng hơi thở, từng ngọn cỏ, từng hạt mầm,
từng chiếc lá. “ Hạnh phúc ở ngay trong bản thân mình, nơi mình, xung quanh
Tác phẩm “ Xa ngoài kia nơi loài tôm hát” của Delia Owens là câu chuyện về cô
bé tên Kya, cô bé lớn lên giữa cỏ vươn lên trong nước và nước trôi vào trong bầu
trời. Đầm lầy trở thành mẹ của cô thay cho người mẹ ruột , bên cạnh đó là một
cộng đồng người văn minh với đầy đủ tiện nghi , máy móc hiện đại nhưng lại vô
cùng hung hãn, ích kỉ và vô tâm khi kì thị một cá thể nhỏ bé dám sống khác biệt
với mình. Còn Kya nâng niu, yêu thương thế giới mình đang sống, nơi thiên nhiên
sẵn sàng ôm cô vào lòng, nuôi dưỡng cô cả về thể chất và tinh thần. Cô gái yêu
thiên nhiên, sống hoà hợp với thiên nhiên, dành cả một đời để quan sát, ghi chép
về các loài sinh vật, đấu tranh hết mình để bảo tồn thiên nhiên, đầm lầy. Khi thế
giới đang dần được bê tông hoá cùng với tiến trình hiện đại hoá, những không gian
dành cho thiên nhiên dần bị thu hẹp, các loài chim và hoang thú cũng không còn
đất để phát triển tự nhiên, dần dần vắng bóng. Nhân loại đang đứng trước nhiều
mối đe doạ từ biến đổi khí hậu, nguồn thực phẩm, thiên tai,… Vấn đề môi sinh trở
thành sống còn và là mối quan tâm hàng đầu của các nhà khoa học. Văn chương
cũng cùng chung sứ mệnh. Văn học sinh thái ra đời. Tác phẩm văn học sinh thái
lấy tự nhiên làm trung tâm, quan tâm đến số phận của nó làm ảnh hưởng đến con
người và con người ảnh hưởng đến tự nhiên.Tư tưởng ấy là trách nhiệm sinh thái.
Phân tích căn nguyên đạo đức phản ánh sinh thái là một giá trị ngang hàng với giả
Thế giới đang ngày mất cân bằng, biến đổi liên tục và con người ngày càng trở nên
mong manh, dễ vỡ. Tác phẩm đã gợi lên khoảng cách địa lý, tình cảm do lối tư
duy, văn hoá, suy nghĩ, tư tưởng ở hai không gian sống: Mỹ và Việt Nam. Cô gái
không tự nói Tiếng Việt vì đã có điện thoại dịch hộ. Hai mẹ con ruột thịt nhưng
rào cản về ngôn ngữ khiến sự an ủi về tình thân nhiều lúc trở nên xa cách, bà mẹ
học cách thích nghi nhưng bà chua xót nhận ra rằng , con gái “ Không thể đừng là
một sản phẩm của xã hội.” Hai con người trong một gia đình thụ hưởng hai nền
giáo dục khác nhau đã có những ứng xử khác nhau. Một bên lựa chọn cách sống
truyền thống, lựa chọn tư tưởng và hành động vì gia phong, không thể sống cho
mình. Một bên là sống cho mình: muốn được làm tự mình, khẳng định căn cước và
ý thức về giới nhưng là cho người khác. Phương thức sinh tồn của con người sẽ
quyết định cách người ta sống, tồn tại. Lý Lan đã có những băn khoăn, suy nghĩ,
suy nghiệm: “ Tạo hoá sinh ra con người, muốn loài là tốt đẹp, hoàn hảo, chỉ vì
con người với lí trí, dục vọng, ích kỉ: đã làm khuất lấp đi vẻ đẹp tự nhiên ấy”. Nhà
văn đã thể hiện lối viết của mình và hướng về phương thức sống giản đơn, thuận
tự nhiên, thể hiện lối sống chậm. Sự phản tĩnh về dục vọng, ích kỉ ở con người là
cách con người trở về với bản tính tự nhiên, với : “nhân tri sơ”.
10. Dẫn chứng 10
“ Đất rừng phương Nam” (Đoàn Giỏi) là hình ảnh một cậu bé thành phố lưu lạc về
miền sông nước, lấy con mắt chiêm ngưỡng, lạ lung, tò mò của ngườ thành phố để
nhìn vẻ đẹp sông nước mênh mông, giàu có. Sáng tác của Đoàn Giỏi đem lại sự
hấp dẫn bởi một không gian hoang sơ với bầu sấu, lưng sấu, bởi miệt vườn sông
nước nhưng miệt vườn Nam Bộ trong sáng tác Nguyễn Ngọc Tư được cảm nhận
qua hầu hết các nhân vật sống, lớn lên và vật lộn trên mảnh đất của mình. Đó là
cái nhìn của người trong cuộc, đứng trước sự đổi thay phai nhạt của quê hương.
Những người dân hằng ngày đối diện với bờ kênh, con rạch, mảnh ruộng nên cảm
nhận về những tai hoạ của tự nhiên: đất lở, núi lở, hạn hán, xâm nhập mặn, mùa
nước nổi kéo dài. Nguyễn Ngọc Tư là nhà văn của miệt vườn Nam Bộ nhưng thi
thoảng lắm mới thấy được hình ảnh cây trái xum xuê còn hầu như là sự phai màu
của đất, sự biến mất của tự nhiên tươi đẹp như trong “ Cánh đồng bất tận” mở ra
một bức tranh khô hạn “ mùa hạ hung hãn dường như đã gom hết nắng đổ xuống
nơi này”, “một mùa hạ nóng bỏng bất thường”, nắng vàng trên những cánh đồng
hoang lạc, nắng giữa trưa nóng rát, “nắng như tát lửa”, mười ba tháng nắng hạ liên
tiếp, “nắng quay quắt như vắt, như vo con người thành những hòn đá khô khốc có
thể lăn cộc cạch, thậm chí làm cho nước mắt cũng ráo hoảnh, dường như nước mắt
cũng bị cái nắng dai dẳng rút cạn, bay hơi đi. Là nhà văn của miền sông nước,
Nguyễn Ngọc Tư phát hiện ra rằng, nước là yếu tố quan trọng nhất cấu thành nên
hệ sinh thái tự nhiên. Nhà văn phát hiện ra nghịch cảnh, dừng chân bên bờ sông
lớn mênh mông, mỉa mai thay, người ở đây không có nước để dùng. Tính cảnh
thiếu nước sạch trong “ Cánh đồng bất tận” : “ Họ đi mua nước ngọt bằng xuồng,
chèo, nín thở để nước khỏi sánh ra ngoài… tụt xuống ao tắm táp thứ nước chua lét
vì phèn rồi xối lại đúng hai gào. Nước vo gạo dùng để rửa rau, nước rửa rau xong
dành rửa cá”. Phát hiện của Nguyễn Ngọc Tư đã chạm vào những vấn đề thiết cốt
của môi trường: Nước ở đây như nước mắt, đời sống nhọc nhằn bởi hạn hán kéo
dài khiến cho con người cũng khô cằn, cũng ráo hoảnh. Con người như những hòn
đá cộc cạch, trơ trọi, khô khốc. Nguyễn Ngọc Tư viết về tình cảnh sống “ cứ mỗi
năm nước đuổi lại sớm hơn, mùa mỗi năm lại dài hơn, nước theo sông ngày càng
vào sâu hơn, trên bờ bãi ngấm vào chân ruộng… Đất tới đâu, nước theo tới đó, cơi
nhà tới đâu, nước ngập tới đó”. Hay có những trang viết khắc khoải, đầy nỗi đau.
“Đêm nằm nghe tiếng đất lở. Con người, sinh vật, dường như bị bứng lìa ra khỏi
mặt đất, vì nước đuổi đã hai tháng rồi, đến con người cũng phờ phạc đi: chỉ được
tắm khô, giữa bữa cảm bất chợt thèm ớt, không có bóng cây để mắc võng nằm,
chết cũng chờ nước rút mới đem âm thổ và nhiều khi vô lí đến mức chết vì them
rau, chết vì khát, vì them tắm, vì thèm vị của trái ổi chát, vì giành nhau cành củi
trên sông. Và ông bán xôi cũng phải thốt lên lên “ thời thế loạn rồi, đất không còn
thì thứ gì còn.” Nỗi khắc khoải, những tâm sự chua chát này ta gặp trong: “ Sầu
trên đỉnh Duvien”, “Khói trời lộng lẫy”. Con người là một phần của hệ sinh thái,
cuộc sống của con người tuỳ thuộc vào thế giới tự nhiên. Khi chỉnh thể sinh thái
của tạo hoá bị huỷ hoại thì sự sống của bản thân sẽ bị đe doạ, cả thể chất lẫn tinh
thần. Thế giới sinh vật là một dây chuyền sống cực kì tế nhị và con người không
thể phá huỷ một mắt xích trong dây chuyền này mà không bị trừng phạt trong tập
truyện Nguyễn Ngọc Tư bao giờ cũng xuất hiện hình ảnh thiên nhiên. Trong
“Cánh đồng bất tận”, thiên nhiên bao la, trải dài, vĩnh cửu; “Gió lẽ” – lấy cái đơn
độc của tự nhiên để biểu hiện sự cô đơn của con người, trong “ Khói trời lộng lẫy”
– những gì thuộc về tự nhiên đều thoáng đãng, đẹp đẽ, lộng lẫy, những gì cảm
nhận của Hương trong “ Cánh đồng bất tận” là những vấn đề thuộc về thế giới
hôm nay, về thời đại mình: “ Những cánh đồng trở thành đô thị, những cánh đồng
hao hắt thay đổi vị của nước, từ ngọt sang mặn chát, đã hắt hủi cây lúa, và gián
tiếp từ chối đàn vịt. Đất dưới chân chúng tôi thu hẹp dần.” Trong “Khói trời lộng
lẫy” người đọc cảm nhận được tiếng nói khẩn thiết, mãnh liệt về một tấm lòng tha
thiết với thiên nhiên, mê đắm trước vẻ đẹp của cành hoa, ngọn cỏ, đau đớn, chua
chát trước sự tàn hại của con người, lắng nghe tiếng kêu cứu từ tự nhiên , cảm giác
mất mát thật rõ rang, hơn bao giờ hết, con người cũng bất lực trước những mất
mát, sự run rẫy của nỗi buồn, có quá nhiều thứ không bao giờ thấy lại ngoài đời.
Loài người đang nếu kéo trong vô vọng, trước sự biến mất dần của tự nhiên. Môi
trường sống bị huỷ hoại nên con người cũng bị tách rời, mất tích, cắt khúc vào
khoảng không mênh mông. Trang viết của Nguyễn Ngọc Tư là nỗi ai hoài trước vẻ
đẹp tự nhiên ngày một nhạt phai, phập phồng nỗi lo âu vì hiểm hoạ tự nhiên đang
một bến đò nổi gió, một khao khát sang sông, một thúc đẩy phát triển đời.” Thật
vậy, thơ ca đâu phải là quả bóng bay cao vời vợi nằm ngoài tầm với. Thơ ca luôn
nồng nàn và ấm áp hơi thở cuộc đời, len vào tâm hồn người đọc những cảm xúc
“ Đất nước
Đất nước
Đât nước
Đất nước
Đất nước
Đọc những câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm, ta cảm nhận văn chương đã tự bao
giờ bầu bạn cùng con người, đồng hành với con người trong suốt đời, trong suốt
hành trình của lịch sử dân tộc. Tác phẩm văn học cho ta nhìn về cội nguồn của
mình. Đọc thơ Nguyễn Khoa Điềm, nó cổ vũ, thúc giục, thắp lửa trong lòng người
một niềm “khao khát sang sông” bởi đất nước được hình thành từ xương máu, từ
công sức của bao con người bình dị, thầm lặng , vô danh. Để làm nên dáng hình
xứ sở là máu , là nước mắt, là mồ hôi: “ Ôi đất nước 4000 năm đi đâu tôi cũng
thấy / Những cuộc đời đã hoá núi sông ta” . Cảm xúc thơ của Nguyễn Khoa Điềm
đã chạm đến trái tim của người đọc, đánh thức tình cảm dân tộc để chúng ta thêm
trân quý mảnh đất này, biết vun đắp và giữ gìn nó. Như nhà thơ Nguyễn Đình Thi
đã từng phát biểu: “ Nghệ thuật không đứng bên ngoài trỏ vẽ cho chúng ta con
đường đi, nghệ thuật phải vào đốt lửa bên trong lòng chúng ta, khiến chúng ta
12.Dẫn chứng 12
Văn chương có sức mạnh kết nối rất lớn. Ta ngồi một chỗ vẫn có thể giao lưu
được với con người mọi thời đại, mọi dân tộc, trong quá khứ, ở hiện tại hay tận
tương lai. Đọc “Bài học đầu cho con” của nhà thơ Đỗ Trung Quân, ta như được
tặng một tấm vé ngược về quá khứ, chạy nhảy giữa tuổi thơ trong không gian làng
quê yên bình với cầu tre, con đò, dòng sông êm đềm sóng vỗ. Để từ đó ta nhận ra
rằng: mỗi người đều có một miền ký ức xinh đẹp lung linh. Cuộc sống hối hả, tấp
nập, đôi chân tay có lúc chạy theo danh vọng và đồng tiền mà đánh rơi ký ức. Ký
ức chỉ nằm đâu đó chứ không bỏ ta mà đi, một khi ta tìm về thì ký ức vẫn sẵn sàng
ánh lên những giọt sáng và hơi ấm yêu thương ru ta vào những bình yên, tiếp sức
Cuộc sống thị thành, những sản phẩm của khoa học, kỹ thuật hiện đại đã làm mình
quên đi “nón lá nghiêng che” của mẹ, “vàng hoa bí”, “hồng tím giậu mồng tơi”
của bà, “màu hoa sen trắng tinh khôi” mọc lên giữa lòng đất bùn màu mỡ:
“Nếu ai không nhớ” cội nguồn thì sẽ chẳng bao giờ nên người, mọi sự thành công
đều chẳng còn ý nghĩa nữa đối với mỗi chúng ta. Lời thơ nhẹ nhàng nhưng sâu sắc
như một lời cảnh tỉnh những người sống giữa những xa hoa, phát triển mà quên
Rõ ràng, văn chương tiếp thêm cho chúng ta những tình cảm mới. Mạch nguồn
cảm xúc của con người như một dòng nước, đôi khi bị nghẽn lại bởi những hòn đá
to, đôi khi chảy xuôi, êm ả giữa muôn nghìn hoa cỏ. Văn chương đã khơi thông
nguồn cảm xúc của con người. Trong xã hội ngày nay, những áp lực đã khiến con
người trở nên vô cảm hơn. Căn bệnh vô cảm đã dần đánh mất phần “Người”, để
chúng ta sống như một “cỗ máy”, theo kiểu “đèn nhà ai nấy sáng”. Chúng ta thờ ơ
với những hoàn cảnh khốn khổ, chịu nhiều bất công trong cuộc sống. Văn chương
là một trong những phương thuốc chữa trị căn bệnh đó của con người. Bởi lẽ văn
học mang giá trị cứu rỗi, cảm hóa lòng người, khiến con người dạt dào tình cảm
hơn. Văn học đã nhân đạo hóa con người, khiến con người tốt hơn mỗi ngày, nó
“làm cho con người thêm phong phú, tạo khả năng cho con người lớn lên, hiểu
Nhà thơ Mai Văn Phấn quan niệm: “ Thơ ca nhằm khai mở tiếng nói mới, hoặc
tìm lại thuở hoàn nguyên đã mất.” Tiếng nói mới ấy là một xu hướng sinh thái,
phản ánh quy luật vận động phát triển của văn chương. Từ đề tài cho thấy chủ đề
sinh thái là thái độ quan tâm, tôn trọng môi trường- trái đất, là ý thức bảo vệ môi
sinh và phải nhận thức con người và trái đất song hành quyền lợi tồn tại:
Còn theo Laurence Buell (Anh) : “ Văn học sinh thái là văn học viết vì một thế
giới lâm nguy” nên cảm hứng cơ bản của thơ sinh thái là cảm hứng phê phán. Phê
phán thói cẩu thả, vô ơn, vô đạo của con người gây nên thảm hoạ sinh thái. Bao
nhiêu cảm xúc giận dữ, ai oán, đau đớn, dằn vặt, buồn thương xót xa..
“Người rùng mình hỏi vì sao động đất sóng thần cứ triền mien hết ngày này sang
ngày khác
Vì sao trẻ con người già bị cuốn trôi bị thiêu đốt thành phố tan hoang cửa nhà đổ
nát như món đồ chơi của một đứa đang giận dữ?
Vì sao và vì sao?
( Đỗ Hồng Ngọc)
Từ cảm hứng và chủ đề , thơ sinh thái nói riêng và văn chương nói chung góp
tiếng nói phản biện để lay gọi, thức tỉnh thái độ, thay đổi tư duy của con người về
môi trường. Có thể nói cảm hứng là điểm gặp gỡ của văn học sinh thái với văn học
Hoài Thanh đã từng phát biểu: “ Văn chương gây cho ta những tình cảm ta chưa
có, luyện cho ta những tình cảm ta sẵn có.” Đến với thơ, người đọc được sống
trong muôn vàn khung bậc cảm xúc: yêu thương, căm giận, xót xa, nghẹn ngào,
xao xuyến, bâng khuâng bởi thơ là đời, thơ là hoa nảy nở từ mảnh đất cuộc đời dạt
dào nhựa sống. Thơ chẳng còn là thơ nữa nếu nó không phải là một lời thức tỉnh
về cuộc đời, nếu nó không làm cho người đọc mở ra một vùng trời mới tốt đẹp
( Đi – Tố Hữu)
Tố Hữu là nhà thơ trữ tình chính trị. Thơ Tố Hữu bao giờ cũng khơi dậy tình cảm
dân tộc với khát vọng lớn và lẽ sống lớn. Những vần thơ của Tố Hữu như một lời
thúc giục con người ta thoát khỏi cuộc sống bế tắc, để hướng đến cuộc sống tươi
đẹp hơn
a. Mở bài
“Thất đại tội” ở con người và sự tạp nham của cuộc đời đã tạo nên bức
màu tối ám khiến thế gian bị bủa vây. Trầm mình trong sự rệu rã, quay
cuồng trong những vòng tuần hoàn không có điểm dừng, con người giờ
chẳng thể phân biệt được cái đúng sai, cái thực ảo. Và nghệ thuật xuất
hiện, soi rọi tâm hồn ta, khiến ta phải thành thật với chính mình, với bản
ngã đang được giấu kín kia, bởi lẽ “Nghệ thuật không phải là ánh trăng
lừa dối, nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối. Nghệ thuật có thể chỉ
là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp người lầm than.” (Nam Cao)
Nghệ thuật không phải là một tôn giáo, nhưng con người vẫn thường
chọn nghệ thuật là nơi tự thú của mình. Không khô khan giáo điều, nghệ
thuật chính là điểm tựa để con người nhận thức thế giới, hoàn thiện
nhân cách, và cảm nhận cái đẹp của sự sống. (Dẫn đề bài)
b. Kết bài
Ai rồi cũng có cho mình một cơ hội để niềm tin cất cánh, và để đôi cánh
ấy thỏa sức vẫy vùng giữa nền trời cao rộng, chúng ta cần sự gợi mở từ
những trang văn. Văn học đã đi vào cuộc sống với sứ mệnh chữa lành
và cảm hoá nhân loại. Nó đưa rước những linh hồn lạc lõng tìm được
nơi an trú, nó phả vào thời đại những hơi thở ấm nồng, và đôi khi,
những trái tim ngoài kia vẫn còn nguyên nhịp đập, là bởi vì họ còn văn
Văn chương là thứ bùa màu nhiệm và bí ẩn, có sức cuốn hút và mê đắm lòng
người bởi nó là kết tinh của triệu vì tinh tú , của vạn giọt nước trong, của nghìn
viên ngọc quý giữa lòng cuộc sống. Nhà văn chính là người chắt chiu những vẻ
đẹp tiềm ẩn, gạn đục khơi trong, đãi cát tìm vàng để sáng tạo ra tác phẩm của
mình. Thế nhưng, để tác phẩm của anh có thể vượt qua sự sàng lọc khắc nghiệt
của không gian và thời gian, có thể “vẹn nguyên qua trăm lần thử lửa” thì chỉ
mang trong mình dấu ấn của thời đại thôi là chưa đủ, mà tác phẩm ấy cốt yếu
cần khả năng “vượt lên trên tất cả bờ cõi và giới hạn”, “phải là tác phẩm chung
cho cả loài người” (Nam Cao). Nói thế có nghĩa là, ước mong nhức nhối của
người nghệ sĩ không đâu khác chính là có thể thai nghén nên một tác phẩm ẩn
chứa những giá trị lớn lao, muôn thuở của nhân sinh. Bởi mối hận tâm nghìn
đời mà văn chương hướng đến chính là con người, văn chương phải bám sâu
vào mảnh đất nhân tâm mà lấy làm tiến. Đóng vai là người thư kí trung thành
của thời đại, nhà văn đã quan sát tỉ mỉ, thấu hiểu lòng người và cả tri thức của
nhân loại, cứ như “trong bụng có ba vạn cuốn sách”. Nhờ vậy người đọc mới
có thể ngắm nhìn cuộc sống 300 năm trước, ngồi ở Maxcova để được sờ tay
vào những cột đá hoa ở Akaropon thông qua những thiên truyện; ngược dòng
lịch sử để hiểu về thời bao cấp Tây Ta lẫn lộn, con người bị tha hóa đến cùng
cực dưới ngòi bút của Vũ Trọng Phụng. Văn chương giúp ta nhận ra , hiểu
thêm về tri thức của nền văn minh nhân loại, đáp ứng nhu cầu hiểu biết của con
người về thế giới trong dòng chảy lịch sử, nhìn thấu bờ vực thiện ác, cho con
người hiểu rằng không có ranh giới đúng sai mà bên trong mỗi chúng ta đều có
“rồng phượng lẫn rắn rết”. Do đó, nhà văn phải như những người chiến sĩ trinh
sát với chiếc cần ăng - ten nắm bắt nhanh nhạy trăm nghìn tín hiệu, làn sóng
biến động của xã hội đồng thời hiểu thật sâu để "thả vào trang hoa" những tư
tưởng đúng đắn và sâu sắc đến người đọc, giúp người đọc không chỉ hiểu
người mà còn hiểu mình. Bên cạnh đó nhà văn Nguyễn Khãi đã từng viết: “
Thanh nam châm thu hút mọi thế hệ vẫn là cái cao thượng, cái tốt đẹp, cái thuỷ
chung.” Nếu chỉ dừng lại ở việc phản ánh cái nhất thời , những giá trị thuộc về
một trường văn hoá nhất định chắc chắn sẽ chẳng thể mang sức mạnh cảm hoá
con người ở mọi thời. Văn chương khi tồn tại phải thực thi sứ mệnh giúp nhân
loại nhìn thấy được những rạng đông sáng ngời ẩn giấu nơi ngõ ngách nào đó
của cõi trần gian. Âm điệu của văn chương chính là hợp xướng của dàn đồng
ca nhiệm màu về tình yêu thương chạm khẽ đến ngưỡng rung động vĩnh hằng.
Văn chương sống để làm chi nếu nó không có ích cho đời sống, sống để làm
chi nếu nó không thể nâng vui những kiếp người lầm than bị nhấn chìm trong
bể khổ? Tựa như cơn gió mát lành xua đi cái nóng ran của ngày hè oi ả, tựa
như chiếc áo ấm bao bọc lấy những mảnh đời bất hạnh giữa đêm đông, văn học
làm công việc nâng đỡ và vỗ về vạn kiếp nhân sinh của bể dâu cuộc đời. Văn
học lên tiếng , văn học cất lời, văn học “bênh vực cho những con người không
có ai bênh vực” như một sứ mệnh cao cả mà mỗi nhà văn, mỗi nhà thơ dù ở
thời đại nào cũng gắng sức mang nặng trên vai.
Hòa với dòng chảy văn chương nhân loại, Việt Nam cũng xuất hiện văn chương
sinh thái và phê bình sinh thái. Tác phẩm văn học sinh thái lấy tự nhiên làm đối
tượng trung tâm, quan tâm đến số phận của nó ảnh hưởng đến con người và con
người ảnh hưởng đến tự nhiên, phơi bày thực trạng để lên tiếng cảnh báo và đánh
động ý thức bảo vệ tự nhiên. Một tác phẩm có thể không có hình tượng tự nhiên
nhưng có góc nhìn sinh thái, tư tưởng sinh thái thì vẫn xem là văn học sinh thái.
Tư tưởng ấy là trách nhiệm sinh thái, phân tích căn nguyên đạo đức phản sinh thái;
nhìn nhận sinh thái là một giá trị ngang hàng với các giá trị con người… nói chung
là “lý tưởng sinh thái”. Giáo sư Đại học Havard- Buyiell cho rằng: “ Văn học sinh
thái là văn học được viết vì thế giới đang trong nguy cơ. Văn học sinh thái ở một
nghĩa nào đó là bật đèn đỏ phòng ngừa tai nạn sinh thái của nhân loại, là sự thể
hiện những vấn đề mà các nhà văn thời đại toàn cầu hoá quan tâm đến sự nghiêm
trọng của vận mệnh toàn cầu và sự lo lắng vô hạn trong sáng tác, cũng là sự phản
tĩnh giá trị sinh thái nhân loại trước những nguy cơ mà thế giới đang đối mặt.”
Trong một xã hội hiện đại cùng với tốc độ đô thị hoá và sự phát triển nhanh chóng
của khoa học kĩ thuật, con người đang ngày càng khai thác tự nhiên quá mức,
khiến cho tự nhiên ngày càng cạn kiệt. Thiên nhiên trả thù con người không chỉ
bằng các thảm hoạ thiên tai, dịch bệnh, các bệnh hiểm nghèo..mà đáng sợ hơn trả
thù bằng sự biến mất của chính nó. “ Cái dây chuyền sống huyền diệu của tạo hoá
đang ngày bị phá huỷ.” Văn học phê bình sinh thái không còn là vấn đề của mỗi
quốc gia, dân tộc mà nó còn là vấn đề mang tính nhân loại bởi sinh thái đã ảnh
hưởng đến toàn bộ sự sống trên Trái Đất. Văn học quan tâm đến sự sống cho nên
xét cho cùng, phê bình sinh thái lại liên quan đến bản thể của văn học.
“Tác phẩm nghệ thuật sẽ chết nếu nó miêu tả cuộc sống chỉ để miêu tả, nếu nó
không phải là tiếng thét khổ đau hay lời ca tụng hân hoan, nếu nó không đặt ra
những câu hỏi hoặc trả lời những câu hỏi đó” (Bêlinxki). Tìm đến những tác phẩm
văn học người đọc đâu chỉ mong chờ vài phút giây giải trí bông quơ. Trang sách
đóng lại tác phẩm nghệ thuật mới mở ra “cuộc đời là điểm khởi đầu và là điểm đi
tới của văn chương”. Mỗi tác phẩm như một nấc thang nâng đỡ bước chân người
đọc sách phần con để đi đến phần người càng đọc nhiều chúng ta càng thấy bản
thân mình hơn một trang sách cuộc đời lại được mở ra lại một ước mơ một khát
vọng một niềm tin mới bắt đầu. Mỗi tác phẩm để đạt được giá trị đích thực của nó
thì người nghệ sĩ ấy phải vừa có tâm vừa có tài họ là “người cho máu”. Một nghệ
sĩ chân chính phải là một nhà nhân đạo từ trong cốt tủy (Sê-Khốp). Họ mở rộng
tâm hồn ra đón nhận những vang vọng của cuộc đời những cung bậc tình cảm đa
dạng sâu kín của con người họ giúp bạn đọc nhận ra những buồn vui yêu ghét, lời
ca tụng hân hoan hay tiếng thét khổ đau mỗi tác phẩm được viết ra giống như phát
minh ra một liều thuốc mới khiến con người trở nên tốt đẹp hơn toàn diện hơn.