Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 51

ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP KNGT & LVN – Tháng 5/2022

Câu 1: Các quá trình giao tiếp: trao đổi thông tin, nhận thức đánh giá về nhau, gây
ảnh hưởng lẫn nhau
* Quá trình trao đổi thông tin
Quá trình trao đổi thông tin có thể được mô tả một cách đơn giản nhất theo mô hình
sau đây:

Mô hình trên cho thấy quá trình trao đổi thông tin chỉ diễn ra khi có các chủ thể giao
tiếp – người gửi và người nhận. Quá trình này luôn là quá trình hai chiều, trong đó có một
người gửi thông tin, còn người kia nhận, sau khi nhận được thông tin người nhận sẽ phản
hồi. Lúc này, người nhận đóng vai trò người gửi và ngược lại. Trong phần lớn các tình
huống giao tiếp, con người thường đồng thời cùng một lúc vừa là “người gửi” vừa là
“người nhận” thông tin.
Quá trình trao đổi thông tin nêu trên tưởng chừng rất đơn giản nhưng trong thực tế
lại diễn ra rất đa dạng, phong phú, đôi khi rất phức tạp vì phụ thuộc vào nhiều yếu tố,
- Tính cách của người giao tiếp
- Cảm xúc của người giao tiếp vào thời điểm thực hiện quá trình trao đổi thông tin
- Thái độ của người giao tiếp với đối tác của mình
- Kiến thức của người giao tiếp
- Kinh nghiệm của người giao tiếp
Trong điều kiện hội nhập việc giao tiếp còn chịu ảnh hưởng rất lớn bởi sự khác biệt
giữa các nền văn hoá khác nhau – văn hoá dân tộc.
Bên cạnh những tác động theo chiều hướng thuận lợi, sẽ có những tác động theo
chiều hướng gây bất lợi đó là những rào cản (nhiễu) cho quá trình giao tiếp. Những rào
cản (nhiễu) trong giao tiếp là các yếu tố cản trở việc trao đổi thông tin, làm hiểu không
đúng về ý nghĩa của bản thông điệp truyền đi. Có rất nhiều loại rào cản,
- Tiếng ồn
- OMôi trường
- Ngôn ngữ, đặc biệt là khi sử dụng ngoại ngữ,
- Tình cảm/ cảm xúc
- Các mối quan hệ quyền lực quy định kênh truyền thông
- Văn hoá tổ chức
Muốn trao đổi thông tin một cách hiệu quả thì người gửi thông tin phải trả lời thấu
đáo 6 câu hỏi sau đây:
What? Truyền thông tin gì?
Why? Tại sao lại phải truyền thông tin đó?
Who? Đối tượng truyền thông tin là ai? Người đó có trình độ học vấn, văn hoá, tuổi
tác, địa vị, mong muốn,… như thế nào?
When? Việc truyền tin được thực hiện bào khi nào là thích hợp nhất?
Where? Cần truyền tin đến những nơi nào? Ở đâu?
How? Chọn cách truyền tin nào để mang lại hiệu quả mong muốn?
Để nhận tin hiệu quả người nhận thông tin cũng cần trả lời chính xác 6 câu hỏi
sau:
What? Thông tin đối tác truyền đi là gì?
Why? Tại sao họ lại truyền thông tin đó đi?
Who? Ai là người gửi thông tin, những đặc điểm về tính cách, trình độ, sở thích,
mong muốn của người gửi thông tin?
When? Thông tin được gửi khi nào?
Where? Thông tin được chuyển từ đâu?
How? Thông tin được chuyển đi bằng cách nào?
Trong quá trình nhận tin cũng cần tìm hiểu kỹ thái độ, tình cảm của đối tác. Phải
biết đặt mình vào vị trí của họ, phải biết gạt bỏ những mặc cảm, thành kiến, cố gắng tìm
ra những ý đúng, lẽ phải của đối tác. Muốn thế khi nhận tin cần phải biết tự chủ và kiềm
chế cảm xúc của chính mình vì cảm xúc không kiềm chế được thường làm cho người ta
tiếp nhận thông tin sai lệch.
* Quá trình nhận thức
Nhận thức là cơ sở làm nảy sinh tình cảm, sự hiểu biết, gắn bó và phụ thuộc lẫn
nhau giữa các chủ thể giao tiếp.
- Nhận thức người khác
nhận thức người khác là quá trình tri giác những đặc điểm bên ngoài và sự phán
quyết về bản chất bên trong của đối tượng cần nhận thức. Quá trình nhận thức cũng chịu
ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố, như: các yếu tố liên quan đến chủ thể nhận thức (đặc
biệt là các yếu tố của đời sống tâm lý ảnh hưởng rất mạnh đến nhận thức là nhu cầu – tính
lựa chọn, ấn tượng, tâm trạng, tình cảm, trạng thái hưng phấn, hứng thú, những định kiến,
khuôn thước,…); Các yếu tố liên quan đối tượng nhận thức và bối cảnh giao tiếp.
- Nhận thức về bản thân
Tự nhận thức là quá trình trong đó mỗi người xây dựng cho mình một khái niệm/
hình ảnh về bản thân mình. Việc tạo ra hình ảnh bản thân có vai trò rất quan trọng và có
ảnh hưởng quyết định đến hành vi của mỗi người trong quá trình giao tiếp. Cách xử sự
của mỗi người phụ thuộc rất nhiều vào việc họ tự đánh giá bản thân mình như thế nào.
Tóm lại, chỉ khi giao tiếp với người khác, con người mới có thể khám phá đầy
đủ, chính xác về bản thân mình.
Khả năng nhận thức người khác và tự nhận thức về bản thân có mối quan hệ mật
thiết với nhau. Tự nhận thức bản thân càng chính xác phong phú bao nhiêu thì việc nhận
thức người khác càng phong phú, chính xác bấy nhiêu và ngược lại.
* Quá trình tác động qua lại lẫn nhau trong giao tiếp
Trong quá trình này con người tác động gây ảnh hưởng đến đối tác giao tiếp, đồng
thời cũng chịu sự tác động, ảnh hưởng của đối tác. Quá trình tác động, ảnh hưởng lẫn
nhau trong giao tiếp được diễn ra dưới nhiều hình thức, như: lây lan, ám thị, bắt chước,
thuyết phục, áp lực nhóm…
- Sự lây lan tâm lý: Lây lan tâm lý là sự lan truyền từ người này sang người khác về
thái độ, hành vi. Đôi khi cả quan niệm và cách đánh giá… Lây lan tâm lý là hiện tượng
tâm lý xã hội phổ biến diễn ra với tính chất, mức độ, phạm vi khác nhau, phụ thuộc vào
những tình huống xã hội và tình huống tâm lý cụ thể.
- Ám thị: Ám thị là tác động tâm lý tới cá nhân hoặc một nhóm người nhằm làm
cho họ tiếp thu thông tin mà không có sự phê phán. Đó là sự chi phối, làm biến đổi cách
suy nghĩ, thái độ, hành vi của các cá nhân, các nhóm người một cách vô thức bởi sức ép
của một sức mạnh tinh thần vô hình nhưng có thật.
- Thuyết phục: Thuyết phục là sự thông báo, giải thích nhằm mục đích hình thành
hay làm thay đổi các quan điểm, thái độ nào đó. Đây là cách thức quan trọng để hình
thành các quan điểm và thế giới quan của cá nhân. Khác với ám thị, người được thuyết
phục ở trạng thái có ý thức, có sự trao đổi, phê phán.
- Bắt chước: Bắt chước là sự mô phỏng, tái tạo, lặp lại các cử chỉ, hành động, tâm
trạng, cách suy nghĩ, ứng xử của một người hoặc một nhóm người khác.
- Áp lực nhóm: Trong giao tiếp tập thể, phản ứng của một thành viên thường bị chi
phối bởi phản ứng của số đông. Khi đại đa số thành viên trong nhóm đã thống nhất với
nhau về một phản ứng tâm lý nào đó thì những thành viên còn lại cũng có xu hướng chấp
nhận theo phản ứng đó. Có nghĩa là, phản ứng của đa số đã tạo nên áp lực đối với phản
ứng của thiểu số. Biểu hiện đặc biệt của áp lực nhóm tới cá nhân là tính a dua.

Câu 2: Mô hình cửa sổ Johari


Cửa sổ Johary là một khái niệm do hai tác giả Joseph Luft và Harry Ingham
(Johary là ghép những từ đầu tên hai tác giả) xây dựng để mô tả mối quan hệ giữa nhận
thức, tự nhận thức và tính cởi mở, sự phản hồi trong giao tiếp. Cửa sổ này có 4 ô phụ
thuộc vào mức độ những gì mà mình tự biết về mình và những gì mà người khác biết về
ta

+ Khu vực I – Khu vực CHUNG hay còn gọi là khu vực mở tương ứng với những
gì mà chúng ta biết về mình và người khác cũng biết về chúng ta.
+ Khu vực II - khu vực MÙ tương ứng với những gì mà chúng ta không biết được
về mình, nhưng người khác lại biết về chúng ta. Có những cái mà chúng ta không biết về
mình vì người khác không tự nguyện chia sẻ thông tin phản hồi hoặc không giao tiếp với
ta, hoặc có thể là ở đó có những thông tin về hành vi thành lời hoặc không thành lời
nhưng chúng ta không thể hoặc không thèm đếm xỉa đến chúng.
+ Khu vực III - Khu vực RIÊNG tương ứng với những gì mà chỉ chúng ta biết về
mình còn người khác không biết. Nó có thể được coi là riêng vì trong giao tiếp chúng ta
không cởi mở để bộc lộ với người khác.
+ Khu vực IV - Khu vực KHÔNG NHẬN BIẾT tương ứng với những gì mà cả
chúng ta lẫn người khác không biết, thông thường bao gồm lĩnh vực vô thức và tiềm
thức.
Mỗi một khu vực có thể được mở rộng hay bị thu hẹp phụ thuộc chủ yếu vào hai
yếu tố trong giao tiếp, đó là sự phản hồi và tính cởi mở của chúng ta.
Sự phản hồi. Là xu hướng mà người khác sẵn sàng chia sẻ những suy nghĩ, những
đánh giá của họ về chúng ta. Đó là thiện ý cởi mở và nỗ lực của người khác trong việc
phản hồi thích đáng cho chúng ta. Tuy nhiên, đây cũng là xu hướng mà chúng ta cố gắng
lắng nghe người khác nhận xét, đánh giá về mình thông qua những thông tin bằng lời và
những thông tin không bằng lời. Sự phản hồi làm cho khu vực “chung” được mở rộng và
làm cho khu vực “mù” thu hẹp đi.
Sự cởi mở. Là xu hướng mà trong đó chúng ta sẵn sàng chia sẻ những suy nghĩ,
những tình cảm, ước muốn, niềm tin và những phẩm chất tâm lý khác của mình với người
khác. Cởi mở là tự vén bức màn bí ẩn của thế giới tâm hồn mình làm cho người khác có
thể hiểu được mình. Nếu trong giao tiếp mọi người đều cởi mở với nhau thì khu vực
“chung” của mỗi người sẽ được mở rộng, lấn át khu vực “riêng”, làm cho họ hiểu biết
nhau nhiều hơn và xích lại gần nhau hơn.

Câu 3: Phân loại giao tiếp


Người ta phân loại giao tiếp theo nhiều tiêu chí khác nhau, có thể kể ra đây một
sô cách phân loại cơ bản:
a) Phân loại theo cách tiếp xúc trong giao tiếp
Theo cách phân loại này có: giao tiếp trực tiếp và giao tiếp gián tiếp
+/Giao tiếp trực tiếp:
Là hình thức giao tiếp, trong đó các đối tượng giao tiếp trực tiếp gặp gỡ nhau, sử
dụng ngôn ngữ và các phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ để truyền cho nhau
những ý nghĩ và tình cảm của mình.
+/Giao tiếp gián tiếp:
Là hình thức giao tiếp thông qua các phương tiện trung gian như: thư từ, điện
thoại, fax, telex (hệ thống thông tin liên lạc bằng máy điện báo/máy đánh điện ghi
chữ), vô tuyến truyền hình, internet,...
b) Phân loại theo hình thức tổ chức giao tiếp
Trong mỗi tổ chức dù lớn hay nhỏ đều có mạng lưới truyền tin của riêng mình.
Trong mạng lưới này luôn tồn tại hai kiểu giao tiếp: giao tiếp chính thức và giao
tiếp không chính thức.
+/Giao tiếp chính thức:
Đây là hình thức giao tiếp được thực hiện theo quy định của tổ chức dưới các
hình thức, như: phân công công tác, phổ biến công việc, đàm phán,... Trong mạng
lưới này, thông tin được truyền theo ba hướng:
● Thông tin đi xuống (từ cấp trên xuống cấp dưới).
● Thông tin đi lên (từ cấp dưới lên cấp trên).
● Thông tin ngang cấp (được truyền giữa các bộ phận chức năng, giữa các
đồng nghiệp với nhau).
Trong các tổ chức giao tiếp chính thức chiếm một tỷ lệ khá cao và có ảnh hưởng
rất lớn đến hiệu quả hoạt động của tập thể.
+/Giao tiếp không chính thức:
Là hình thức giao tiếp được thực hiện không theo quy định của tổ chức, mà dựa
trên cơ sở quan hệ cá nhân, ví dụ: giao tiếp giữa bạn bè với nhau, lãnh đạo trò
chuyện riêng tư với nhân viên,...
c) Phân loại dựa vào thế tâm lý giữa hai bên trong giao tiếp
★ Giao tiếp ở thế mạnh.
★ Giao tiếp ở thế yếu.
★ Giao tiếp ở thế cân bằng.
Thế tâm lý tức là vị thế tâm lý giữa hai người trong quan hệ giao tiếp, nó nói lên
ai mạnh hơn ai về mặt tâm lý (ví dụ: ai cần ai, ai không cần ai; ai sợ ai, ai không
sợ ai...).
d) Phân loại theo thái độ và chiến lược giao tiếp
Theo cách phân loại này có 5 kiểu giao tiếp cơ bản:
❖ Cộng tác (Collaboration)
❖ Thỏa hiệp (Compromise)
❖ Cạnh tranh (Competition)
❖ Nhượng bộ (Accomodation)
❖ Tránh né (Avoidance)
+/Giao tiếp kiểu cộng tác còn có tên gọi là giao tiếp kiểu Thắng – Thắng (win –
win). Trong kiểu giao tiếp này các bên luôn mong muốn tìm kiếm lợi ích chung,
để thỏa mãn nhu cầu của mình.
+/Giao tiếp kiểu thoả hiệp còn có tên gọi là kiểu giao tiếp chấp nhận “Một phần
thắng, một phần thua” (win some – lose some) .Kiểu giao tiếp này thường được sử
dụng làm giải pháp tình thế, khi một bên rất quan tâm đến mối quan hệ cùng lợi
ích từ mối quan hệ đó còn bên kia chỉ quan tâm ở mức trung bình.
+/Giao tiếp theo kiểu cạnh tranh còn gọi là giao tiếp theo kiểu Thắng – Thua
(win –lose).Mục đích của kiểu giao tiếp này là nhằm đè bẹp đối phương bằng mọi
cách.
+/Giao tiếp theo kiểu nhượng bộ còn gọi là giao tiếp theo kiểu Thua – Thắng
(lose– win).Người chọn kiểu giao tiếp này thường không có tiêu chuẩn, không có
yêu cầu, không có chính kiến, dự định, họ dễ dàng lùi bước, chấp nhận mọi thua
thiệt, miễn sao đối tác hài lòng, để giữ gìn mối quan hệ.
+/Giao tiếp theo kiểu né tránh còn gọi là giao tiếp theo kiểu Thua – Thua (lose –
lose).Giao tiếp theo kiểu né tránh xảy ra khi các bên đều không quan tâm thích
đáng đến vấn đề giao tiếp và lợi ích của nó.
Các cách phân loại khác
Dựa vào mục đích, nội dung giao tiếp sẽ có các loại giao tiếp sau:
❖ Giao tiếp nhằm thông báo cho đối tác những thông tin mới.
❖ Giao tiếp để tác động đến đối tác nhằm làm thay đổi hệ thống động cơ và giá trị
của họ.
❖ Giao tiếp nhằm khuyến khích, động viên đối tác giao tiếp thực hiện công việc
nào đó.
Dựa vào đối tượng hoạt động giao tiếp sẽ có các loại giao tiếp sau:
★ Giao tiếp giữa các cá nhân – giao tiếp giữa hai hoặc ba người với nhau.
★ Giao tiếp xã hội là giao tiếp giữa một người với một nhóm người (như lớp
học,hội nghị...).
★ Giao tiếp nhóm là loại hình giao tiếp đặc trưng trong tập thể nhỏ (các
nhóm) liên kết với nhau bởi hoạt động chung và phục vụ cho hoạt động

Câu 4: Các chức năng giao tiếp


Giao tiếp có hai nhóm chức năng chính: Chức năng xã hội và chức
năng tâm lý.
a) Nhóm chức năng xã hội
+/Chức năng thông tin, tổ chức
Khi tiến hành hoạt động chung (từ 2 người trở lên) giữa các thành viên của
nhóm/tổ chức cần trao đổi thông tin với nhau, giúp hoạt động của tổ chức được thực
hiện một cách có hiệu quả .
+/Chức năng điều khiển/ ảnh hưởng đến nhau
Chức năng điều khiển được thể hiện trong khía cạnh tác động qua lại lẫn nhau của
giao tiếp. Trong quá trình giao tiếp, người ta thường sử dụng những phương pháp: ám thị,
thuyết phục, áp lực nhóm,... để tác động đến người khác, nhằm điều khiển đối tác làm
theo ý muốn của mình. Chức năng này có vai trò đặc biệt quan trọng cả trong cuộc sống
lẫn trong kinh doanh.
+/Chức năng phối hợp hành động
Trong một tổ chức thường có nhiều bộ phận với những chức năng, nhiệm vụ cụ
thể khác nhau. Tổ chức chỉ có thể hoạt động hiệu quả một khi các bộ phận chức năng
này phối hợp hoạt động với nhau một cách nhịp nhàng, điều đó có thể thực hiện được
nhờ con đường giao tiếp.
+/Chức năng động viên, kích thích
Trong quá trình giao tiếp con người không chỉ trao đổi thông tin với nhau, nhận
thức, đánh giá về nhau, mà còn tạo ra những cảm xúc, khuyến khích hành động của
đối tác giao tiếp.
b) Nhóm chức năng tâm lý
+/Chức năng tạo lập mối quan hệ
Giao tiếp làm cho con người chấp nhận chia sẻ thông tin với mọi người xung
quanh, xích lại gần nhau hơn, tạo lập ra các mối quan hệ để cùng phối hợp hành động,
làm cho cuộc sống tốt đẹp, hiệu quả hơn.

+/Chức năng cân bằng cảm xúc


Trong giao tiếp người ta không chỉ chia sẻ thông tin, chia sẻ công việc mà còn sẻ
chia cả cảm xúc, tình cảm.Trong cuộc sống:“ Niềm vui được sẻ chia sẻ nhân đôi.Nỗi
buồn được sẻ chia sẽ vơi đi một nửa”.Chỉ có trong giao tiếp con người mới tìm được sự
đồng cảm, đồng điệu, cảm thông và giải tỏa được cảm xúc của mình.
+/Chức năng phát triển nhân cách
Trong quá trình giao tiếp con người tiếp thu được các kinh nghiệm xã hội, nhờ đó
tâm hồn trở nên phong phú hơn, tri thức sâu sắc hơn, tình cảm và thế giới quan dần được
hình thành, củng cố và phát triển.

Câu 5: Các phương tiện giao tiếp: ngôn ngữ và phi ngôn ngữ
Phương tiện giao tiếp là tất cả những yếu tố mà chúng ta dùng để thể hiện thái độ, tình
cảm, mối quan hệ và những tâm lý khác của mình trong một cuộc giao tiếp. Có hai nhóm
chính: ngôn ngữ và phi ngôn ngữ. Giao tiếp ngôn ngữ và giao tiếp phi ngôn ngữ ít khi
tách rời nhau, mà thường bổ sung cho nhau. Trong các mối quan hệ tương đối gần gũi,
thân thiết, giao tiếp phi ngôn ngữ chiếm ưu thế hơn, còn trong các mối quan hệ ít nhiều
có tích chất xã giao thì nó làm nền cho giao tiếp ngôn ngữ.
● Ngôn ngữ
Ngôn là nói. Ngôn ngữ là hệ thống những từ dùng để làm phương tiện giao tiếp. Ngôn
ngữ là phương tiện giao tiếp chủ yếu của con người. Nhờ ngôn ngữ người ta có thể trao
đổi với nhau mọi loại thông tin, như: diễn tả hành động, sự vật, sự việc, trạng thái, tình
cảm, những mong muốn, những suy nghĩ,... Hiệu quả giao tiếp bằng ngôn ngữ phụ thuộc
vào các yếu tố sau:
+ Nội dung của ngôn ngữ:
Tức là ý nghĩa của lời nói, của từ. Khi giao tiếp bằng ngôn ngữ cần tuân thủ các nguyên
tắc: chính xác, rõ ràng, ngắn gọn. Cần cẩn trọng trong việc chọn từ ngữ, cách diễn đạt,
sao cho thể hiện được ý muốn của mình, đồng thời làm cho đối tác giao tiếp không mất
lòng. Người xưa đã có câu: “Uốn lưỡi bảy lần trước khi nói” hay: “Lời nói không mất
tiền mua / Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”
+ Tính chất của ngôn ngữ:
Trong giao tiếp những tính chất của ngôn ngữ như nhịp điệu, âm điệu, ngữ điệu,... cũng
đóng vai trò rất quan trọng. Trong khi nói, chúng ta cần chú ý tới giọng điệu, ngữ điệu.
Lời nói có được rõ ràng, khúc chiết hay không, phụ thuộc nhiều vào cách nhấn giọng.
Nhờ cách nhấn giọng người nói có thể làm cho người nghe chú ý đến những lời nói của
mình. Muốn nhấn giọng cho đúng phải hiểu rõ mình nói những gì và suy nghĩ, đắn đo
từng lời một. Biết nhấn mạnh những lời quan trọng và để những lời nói phụ lướt nhẹ đi.
Hai yếu tố khác có thể thay đổi ý nghĩa của lời nói là cách uốn giọng và ngữ điệu. Trong
lúc nói phải có lúc lên giọng, xuống giọng, lúc nhặt, lúc khoan, lúc nói nhẹ, lúc gằn từng
tiếng thì lời nói mới nổi bật lên. Trước và sau khi nói ra những lời quan trọng phải ngừng
một lúc, để cho người nghe chú ý.
+ Điệu bộ khi nói
Điệu bộ là những cử chỉ của tay chân và vẻ mặt. Có khi vừa nói vừa chỉ, vừa nói vừa nhìn
chằm chằm, vừa nói vừa liếc, vừa vuốt ve, âu yếm... Thường điệu bộ phụ họa theo lời nói
để giúp thêm ý nghĩa cho nó. Tuy nhiên việc sử dụng điệu bộ khi nói cũng phải phù hợp
với phong tục, tập quán, nền văn hóa. Những cử chỉ, điệu bộ tự nhiên là đáng yêu nhất,
đừng gò ép mình bằng cách bắt chước điệu bộ của người này hay người khác.
Cùng với sự phát triển của nhân loại, chữ viết ra đời. Và từ đó, giao tiếp bằng ngôn ngữ
không chỉ giới hạn ở giao tiếp bằng lời nói, mà còn có giao tiếp thông qua chữ viết. Giao
tiếp bằng hình thức lời nói, hay viết đều có những ưu, nhược điểm riêng và sẽ phát huy
tác dụng tốt nếu được sử dụng trong những hoàn cảnh phù hợp.
Giao tiếp bằng hình thức nói sẽ đem lại hiệu quả cao trong các trường hợp sau:
- Cần truyền tin nhanh, gấp.
- Muốn có sự phản hồi ngay lập tức.
- Muốn trực tiếp trao đổi thêm thông tin và ý tưởng với đối tác giao tiếp.
- Khi sử dụng ngữ điệu hay cách diễn đạt bằng điệu bộ có vai trò quan trọng giúp
việc giao tiếp thành công mỹ mãn hơn.
- Khi không cần phải ghi chép văn bản để lại làm bằng chứng.
Còn giao tiếp bằng hình thức viết lại phát huy tác dụng rất tốt trong các trường hợp:
- Thông tin cần được lưu giữ để tham khảo, sử dụng trong tương lai;
- Thông tin (các hợp đồng, thỏa thuận) cần được lưu giữ để làm căn cứ tổ chức thực
hiện, giám sát công việc và giải quyết tranh chấp (nếu có) sau này;
- Thông tin cần được kiểm soát chính xác ngày giờ, địa điểm nhận được thông tin;
- Thông tin phải được giữ bí mật
Khoa học kỹ thuật phát triển, đặc biệt là trong lĩnh vực công nghệ thông tin và viễn
thông, làm xuất hiện thêm nhiều phương tiện giao tiếp mới. Giờ đây, khi tiến hành giao
tiếp người ta có nhiều khả năng lựa chọn hơn. Có thể sử dụng các cách sau đây:
- Mặt đối mặt, thông qua hình thức nói.
- Sử dụng văn bản, thông qua việc viết hoặc in ra giấy.
- Điện thoại
- Fax
- Hộp thư thoại hoặc trung tâm nhắn tin
- Điện thoại truyền hình (dùng phương tiện hiện đại kết nối giọng nói và hình ảnh
để vượt qua khoảng cách không gian).
- Trao đổi thông qua hệ thống máy tính và Internet (mail, chat, đôi khi có cả hình
ảnh)
- Phòng nói chuyện gẫu (giúp duy trì việc thay đổi liên tục đối tác giao tiếp)...
- Kết hợp các hình thức trên.
● Giao tiếp phi ngôn ngữ
Trong giao tiếp chỉ một tỷ lệ những điều hiểu nhau mà chúng ta có được là nhờ nghe qua
lời nói. Các nhà nghiên cứu chỉ ra rằng, trong giao tiếp tác động của từ ngữ chỉ chiếm từ
30 – 40%, phần còn lại là do cách diễn đạt bằng cơ thể, hoặc là giao tiếp không lời qua vẻ
mặt, động tác, dáng điệu và các tín hiệu khác. Việc nghiên cứu phương tiện phi ngôn ngữ
là hết sức quan trọng, giúp chúng ta trở nên nhạy cảm hơn trong giao tiếp.
1) Nét mặt
Trong giao tiếp nét mặt biểu lộ thái độ, cảm xúc của con người. Các công trình nghiên
cứu thống nhất rằng nét mặt của con người biểu lộ sáu cảm xúc: vui mừng, buồn, ngạc
nhiên, sợ hãi, tức giận và ghê tởm. Nét mặt chính là “tấm gương phản chiếu tâm hồn” của
mỗi người. Ngoài tính biểu cảm, nét mặt còn cho ta biết ít nhiều về cá tính con người.
Người có nét mặt căng thẳng thường là người dứt khoát, trực tính; người có nét mặt mềm
mại ở vùng miệng, thì hòa nhã, thân mật, biết vui đùa và dễ thích nghi trong giao tiếp.
2) Nụ cười
Trong giao tiếp người ta có thể dùng nụ cười để biểu lộ tình cảm, thái độ của mình. Con
người có bao nhiêu kiểu cười thì có bấy nhiêu cá tính. Có cái cười tươi tắn, hồn nhiên,
đôn hậu; có cái cười chua chát, miễn cưỡng, đanh ác; có cái cười đồng tình, thông cảm;
nhưng cũng có cái cười chế giễu, khinh bỉ... Mỗi điệu cười đều biểu hiện một thái độ nào
đó, cho nên trong giao tiếp, chúng ta phải tinh nhạy quan sát nụ cười của đối tượng giao
tiếp để biết được lòng dạ của họ, đồng thời phải biết sử dụng nụ cười đúng chỗ, đúng lúc
để gây thiện cảm với đối tác, tạo bầu không khí giao tiếp thoải mái, thân thiện, đem lại
hiệu quả cao.
3) Ánh mắt
Dân gian có câu “đôi mắt là cửa sổ tâm hồn”, bởi lẽ cặp mắt là điểm khởi đầu cho tất cả
mọi nghiên cứu, quan sát, tìm hiểu, qua ánh mắt con người có thể nói lên rất nhiều thứ.
Ánh mắt phản ánh trạng thái cảm xúc, bộc lộ tình cảm, tâm trạng và ước nguyện của con
người ra bên ngoài.
Trong giao tiếp ánh mắt còn đóng vai trò “đồng bộ hóa” câu chuyện, biểu hiện sự chú ý,
tôn trọng, sự đồng tình hay phản đối. Ánh mắt trong giao tiếp cũng phụ thuộc vào vị trí
xã hội của mỗi bên. Người có địa vị xã hội cao hơn (hay tự cho mình là có vai trò cao
hơn) thường nhìn vào mắt của người kia nhiều hơn, kể cả khi nói lẫn khi nghe.
Ánh mắt của một người còn phản ánh cá tính của người đó: Người có óc thực tế thường
có cái nhìn lạnh lùng, người ngay thẳng nhân hậu có cái nhìn thẳng và trực diện, người
nham hiểm đa nghi có cái nhìn soi mói, lục lọi...
4) Các cử chỉ
Các cử chỉ gồm các chuyển động của đầu (gật đầu, lắc đầu,...), của bàn tay (vẫy, chào,
khua tay), của cánh tay... Vận động của chúng có ý nghĩa nhất định trong giao tiếp. Thật
vậy, chuyển động của đầu có thể là “đồng ý” hay “không đồng ý”, của bàn tay là lời mời,
sự từ chối, chống đối hay van xin,...
5) Dáng vẻ
Trong giao tiếp, nhiều khi không phải nhìn kỹ nét mặt mà chỉ cần quan sát dáng vẻ của
đối tác, ta cũng có thể hiểu được trạng thái tâm lý của họ. Ví dụ như: Khi vui vẻ, họ sẽ đi
lại nhanh nhẹn, tung tăng; Khi buồn rầu, đầu cúi thấp, lặng im không nói; Khi hối hận,
chân tay bứt rứt; Khi hạ quyết tâm, miệng mím, tay nắm chặt; Khi hoan nghênh, mở rộng
hai vai, hai tay; Khi không vừa ý, lắc mạnh đầu; Khi trầm tư, chắp tay sau lưng hoặc xoa
cằm, bóp trán...
6) Tư thế
Tư thế cũng là một trong các phương tiện giao tiếp. Nó có liên quan mật thiết với vai trò,
vị trí xã hội của cá nhân. Thường thường, một cách vô thức nó bộc lộ cương vị xã hội mà
cá nhân đang đảm nhận. Ví dụ, tư thế ngồi thoải mái, đầu hơi ngả ra phía sau là tư thế của
bề trên, của lãnh đạo. Tư thế ngồi hơi cúi đầu về phía trước tựa hồ lắng nghe là tư thế của
cấp dưới. Tư thế có vai trò biểu cảm, có thể nhìn thấy qua tư thế trạng thái tinh thần thoải
mái hay căng thẳng. Những tư thế để “mở” tay và chân tựa như tạo điều kiện để tiếp cận,
gần gũi cho người đối thoại, phản ánh một thái độ cởi mở, hòa hợp.
7) Vẻ bề ngoài:
Vẻ bề ngoài bao gồm: y phục, giày dép, trang điểm, trang sức cá nhân, kiểu tóc và mùi…
Ngạn ngữ có câu: “Người đẹp vì lụa”. Nếu trong giao tiếp bạn biết cách ăn mặc đẹp, phù
hợp (chỉn chu về đầu tóc, nét mặt tươi tắn, trang điểm vừa phải, quần áo lịch sự, gọn
gàng, sạch sẽ, phù hợp với bối cảnh giao tiếp), thì sẽ đạt được hiệu quả cao.
Cần lưu ý: vẻ đẹp bề ngoài đã quan trọng, nhưng vẻ đẹp bên trong (tâm hồn, kiến thức,
tình cảm, đạo đức,...) còn quan trọng hơn nhiều. Do đó, cần có sự thống nhất hài hòa giữa
trang phục bên ngoài với vẻ đẹp bên trong. Làm được như vậy, bạn mới có thể thu phục
được lòng ngưỡng mộ thực sự, bền lâu của mọi người và trang phục đẹp mới phát huy
hiệu quả.
8) Khoảng cách
Khoảng cách trong giao tiếp thể hiện mối quan hệ thân sơ, giới tính, vị trí, vai trò và văn
hóa giữa những người tiến hành giao tiếp. Thông thường, người ta xích lại gần các đối tác
mà người ta cảm thấy yêu thích, gần gũi và tránh xa những đối tác gây ra cảm giác xa lạ,
sợ hãi.
Thông thường người ta chia ra thành 4 vùng xung quanh mỗi cá nhân:
Vùng mật thiết (0 – 0,5 mét): vùng này chỉ tồn tại khi có mối quan hệ thân tình với người
khác (cha mẹ, vợ chồng, con cái, người yêu, bạn thân, bà con gần) hoặc khi hai người
đang đánh nhau. Lúc này xúc giác và khứu giác là phương tiện truyền thông quan trọng.
Lời nói có thể chỉ thì thầm.
Vùng riêng tư (0,5 – 1,5 mét): hai người phải rất quen nhau đến mức thấy thoải mái, mặc
dù họ chưa đến mức mật thiết (khoảng cách giữa hai người khi tham dự các buổi tiệc, lúc
làm việc tại các văn phòng, trong các buổi họp mặt bạn bè).
Vùng xã giao (1,5 – 3,5 mét): đây là vùng tiến hành phần lớn các hoạt động kinh doanh,
vì nó hợp với mối quan hệ phi riêng tư, ví dụ giao tiếp giữa người bán hàng với khách
hàng, giữa người chủ nhà với người thợ sửa chữa... Thông thường các sếp cũng giữa
khoảng cách này khi nói chuyện với nhân viên.
Vùng công cộng (> 3,5 mét): là phạm vi tiếp xúc thích hợp với những người xa lạ, ở chốn
đông người vì mục đích công việc, phạm vi mà các chính khách thường dùng trong quan
hệ với công chúng, ví dụ: trong các buổi nói chuyện, thuyết trình, mít tinh...
Những khoảng cách trên có thể xê dịch tùy thuộc vào từng nền văn hóa và đặc biệt,
những người có khả năng giao tiếp giỏi, bằng tình cảm cá nhân sẽ biết cách điều chỉnh
khoảng cách với đối tượng giao tiếp một cách phù hợp với từng hoàn cảnh cụ thể.
9) Những hành vi giao tiếp đặc biệt
Đó là động tác ôm hôn, vỗ vai, xoa đầu, khoác tay, bắt tay... Những phương tiện này gọi
là đặc biệt vì trong những mối quan hệ đặc biệt ta mới sử dụng chúng. Chẳng hạn, không
phải gặp ai ta cũng có thể ôm hôn được; hoặc ở ta, người lớn xoa đầu trẻ con chứ không
được phép ngược lại.
Những cái bắt tay cũng nói lên cá tính và thái độ của hai người đối với nhau: cái bắt tay
mạnh mẽ, khô ráo chứng tỏ con người có cá tính mạnh và nhân cách đáng tin; còn cái bắt
tay ẻo lả, ướt át thuộc về con người yếu đuối và đáng ngờ.
10) Đồ vật
Khi giao tiếp, người ta cũng hay dùng những đồ vật nhất định như: bưu ảnh, bưu thiếp,
hình, tặng hoa, tặng quà, đồ lưu niệm... Tất cả những cái đó cũng đều có ý nghĩa trong
việc thiết lập mối quan hệ, biểu hiện tình cảm, thái độ giữa những người giao tiếp với
nhau.
Để gây tình cảm và những ấn tượng tốt đẹp ở nhân viên, công ty cũng cần tặng quà cho
nhân viên và gia đình họ vào những dịp lễ, tết. Cũng cần phải tặng quà, gửi bưu thiếp
chúc mừng những đối tác làm ăn với mình, những nơi mà mình có các quan hệ khác, vào
những dịp cần thiết, và thường là tặng những sản phẩm của công ty mình để kết hợp mục
đích quảng cáo, giới thiệu sản phẩm.
● Chú ý: phần lớn việc sử dụng các phương tiện phi ngôn ngữ chịu ảnh hưởng rất
lớn của các yếu tố văn hóa, đặc điểm dân tộc, phong tục, tập quán. Chẳng hạn, đối
với người Bungary và Thổ Nhĩ Kỳ lắc đầu là tỏ vẻ đồng ý, còn ở Việt Nam thì
ngược lại. Những người Arập, Mỹ la tinh, Nam Âu thường đứng gần nhau và dùng
ánh mắt nhiều hơn khi nói chuyện. Nhưng ngược lại, những người Ấn Độ,
Pakistan, Nhật Bản, Bắc Âu, thường đứng cách nhau xa hơn và ít đụng chạm, ít
nhìn thẳng vào mắt nhau hơn khi nói chuyện.

Câu 6: Các nguyên tắc giao tiếp


6.1) Những nguyên tắc cơ bản trong truyền đạt thông tin giữa các cá nhân
Quá trình giao tiếp gồm 3 quá trình diễn ra đồng thời và có quan hệ mật thiết với nhau,
đó là:
- Quá trình trao đổi thông tin hai chiều.
- Quá trình nhận thức.
- Quá trình tác động qua lại lẫn nhau.
Muốn giao tiếp thành công thì trước hết cần nắm vững những nguyên tắc cơ bản trong
truyền đạt thông tin giữa các chủ thể giao tiếp.
● Nguyên tắc ABC
- Accuracy (chính xác): Thông tin truyền đạt phải chính xác là nguyên tắc tối quan
trọng để đảm bảo cho giao tiếp thành công.
- Brevity (ngắn gọn): Thông tin được truyền đạt phải ngắn gọn, có giá trị. Tránh
truyền những thông điệp dài dòng, rườm rà, vòng vo, với nhiều thông tin thừa
không cần thiết.
- Clarity (rõ ràng): Thông tin cần truyền đạt một cách rõ ràng, chuẩn xác. Thông tin
truyền đạt càng rõ ràng, dễ hiểu thì càng giảm thiểu được những rủi ro giao tiếp,
hiệu quả giao tiếp càng cao.
Bên cạnh nguyên tắc ABC, trong giao tiếp còn có các nguyên tắc 5C, 7C.
● Nguyên tắc 5C
- Clear (rõ ràng): Thông điệp phải rõ ràng để người nhận chỉ có thể hiểu theo một
nghĩa duy nhất.
- Complete (hoàn chỉnh): Thông điệp phải chứa đựng đầy đủ những thông tin cần
thiết.
- Concise (ngắn gọn, xúc tích): Thông điệp đầy đủ những nội dung cần thiết, nhưng
phải ngắn gọn, xúc tích, tránh dài dòng, rườm rà, chứa đựng những nội dung thừa,
không cần thiết.
- Correct (chính xác): Điều quan trọng nhất là thông tin đưa ra phải chính xác, có
căn cứ.
- Courteous (lịch sự): Để giao tiếp thành công thì bên cạnh việc chuẩn bị thông tin
rõ ràng, chính xác, đầy đủ và ngắn gọn, còn phải chọn cách truyền đạt lịch sự, nhã
nhặn, thể hiện sự tôn trọng đối tác.
● Nguyên tắc 7C
Muốn giao tiếp thông qua hình thức viết đạt hiệu quả cao bạn hãy luôn nhớ: những gì bạn
viết ra là hình ảnh của chính bạn và cần thực hiện tốt nguyên tắc 7C.
- Clear (rõ ràng): Lời văn, ý tứ phải rõ ràng, giúp người nhận hiểu được đúng thông
tin muốn truyền đạt và có thể thực hiện công việc với những thông tin ấy.
- Concise (Ngắn gọn): Ngắn gọn, cô đọng, nên đi thẳng vào vấn đề, nêu bật các nét
chính của các vấn đề cần thông báo, báo cáo và trao đổi, thảo luận.
- Correct (chính xác): Các văn bản cần được viết đúng, chính xác, không được viết
sai lỗi chính tả, không viết sai các con số, giá cả, ngày tháng,... Các văn bản phải
được kiểm tra kỹ trước khi phát hành.
- Complete (Hoàn chỉnh): Các văn bản phải hoàn chỉnh, phải có đầy đủ những nội
dung, những phần, những điều kiện, điều khoản cần thiết.
- Consistency (Nhất quán): Giữa các ý, các phần trong văn bản phải nhất quán với
nhau.
- Courteous (Lịch sự): Lời văn phải lịch sự, nhã nhặn. Hình thức trình bày cẩn thận,
đẹp, sáng sủa.
- Cautious (Cẩn trọng): Khi viết văn bản phải cẩn trọng, không được viết những
điều mình không nắm chắc.
6.2) Các nguyên tắc giao tiếp trong cuộc sống
● Mười quy tắc giao tiếp xã hội
1) Luôn quan tâm đến con người.
Quan tâm đến người khác là một điều không thể thiếu trong bất cứ mối quan hệ
nào. Càng quan tâm tới nhau, người ta càng tránh được cảm giác bị bỏ rơi giữa cuộc đời.
Có quan tâm đến nhau mới sẵn sàng cùng nhau chia ngọt sẻ bùi, vượt qua bao khó khăn
của cuộc sống thường nhật. Chúng ta có thể minh họa bằng câu nói:
“Niềm vui được chia sẻ sẽ tăng gấp đôi
Nỗi buồn được chia sẻ sẽ vơi đi một nửa”
2) Trong giao tiếp phải biết tôn trọng người khác.
“Việc chuyển hóa từ chủ nghĩa vị kỷ sang tôn trọng người khác là nguồn gốc của
mọi cách cư xử tốt”. “Chỉ có tôn trọng mình là sa vào chủ nghĩa vị kỷ và không thể có
những quan hệ đẹp với những người xung quanh. Địa vị, quyền thế, chức tước, sắc đẹp,
sức mạnh, tài năng... cũng không cho phép ai đặt mình lên trên những người khác”.
Trong kinh doanh, quan hệ xã hội... chẳng ai muốn mình bị hạ thấp. Một sự phê phán
không khéo léo, thiếu tế nhị sẽ làm người khác cảm thấy bị xúc phạm.
Trong bất cứ vấn đề quan trọng nào, nếu cả hai cùng tham gia quyết định thì chắc
chắn sẽ sáng suốt hơn. Mối quan hệ có tốt đẹp hay không, là do sự tôn trọng quyết định
một phần không nhỏ.
Ví dụ: Chồng bảo vợ: “Em lo chuyện bếp núc, đại sự có đàn ông tụi anh”, là tỏ ra coi
thường, thiếu tôn trọng vợ.
3) Luôn biết cách tìm ưu điểm của người khác để động viên, khuyến khích
người ta vươn lên, tạo mọi điều kiện để đối tác giao tiếp khẳng định mình.
Một chuyên gia tâm lý nói: “Cái vốn quý nhất của chúng ta là năng lực kêu gọi
được lòng hăng hái của mọi người. Chỉ có khuyến khích và khen ngợi mới làm phát sinh
và gia tăng những tài năng quý nhất của mình mà thôi”. Lời khen phải xuất phát từ tận
đáy lòng, từ thâm tâm mà ra, hoàn toàn không vụ lợi. Nhà tâm lý học Emerson nói:
“Đừng tiếc những lời cảm ơn và khuyến khích! Những lời nói đó, ít lâu sau ta có thể quên
đi, nhưng những người được ta khen tặng sẽ hoan hỉ và luôn nhớ tới”.
4) Hãy đặt mình vào vị trí của đối tác giao tiếp để cư xử cho đúng mực. Hãy luôn
nhớ: điều gì mình không muốn hoặc không làm được thì cũng đừng bắt người
khác phải làm.
Người Việt Nam ta có câu: “Trách người phải nghĩ đến ta”. Nếu ta khiêm tốn nhận
trước rằng ta cũng chẳng hoàn hảo gì rồi mới trách người khác, thì người bị trách sẽ
không thấy khó chịu.
5) Nên dùng cách nói tế nhị, có lý, có tình, tránh dùng cách nói vỗ mặt, sỗ sàng.
- Nói cơ giới: là nói thẳng, nói vỗ mặt.
Ví dụ: Tôi không có, tôi không cho, tôi bỏ, anh sai rồi...
- Nói tình thái: hay còn gọi là nói tế nhị, nói có tình cảm, làm cho người nghe có thể tiếp
thu thoải mái nội dung của bản thông điệp.
Ví dụ:
- Nói phản bác: ví dụ: Tôi e rằng đánh giá như thế là chưa thỏa đáng; Hai vấn đề đó
tưởng không nên nhập làm một.
6) Không nên chạm vào lòng tự ái của người khác, khiến họ phải buồn lòng, đau khổ.
Con người ta ai cũng có lòng tự ái. Trong giao tiếp, không ai muốn mình bị chạm
tự ái hay cảm thấy ngượng ngùng. Ví dụ: Một nhóm bạn đang ngồi nói chuyện phiếm với
nhau, một anh bạn nói: “Tôi rất ghét những bà đánh móng tay đỏ như máu”. Tội nghiệp,
có những bàn tay búp măng đang cố giấu những móng tay sơn đỏ nhưng không kịp. Anh
bạn thốt ra câu nói trên đã nhìn thấy, nên vội chữa: “Tôi đâu cố ý nói đến mấy bà!”.
Nhưng đã muộn! “Nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy – một lời nói ra, bốn con ngựa đuổi
theo cũng không kịp”.
7) Tránh dùng cách nói mỉa mai, cay độc.
Trong giao tiếp, tuyệt đối không nên nói mỉa mai hay châm chọc người khác, làm
chạm lòng tự ái và tổn thương đến họ. Trong mỗi người tự ái rất nên giữ vì đó là tình cảm
của con người có phẩm cách. Đừng nên nói đùa châm chọc, nhất là đối với những người
quá nhạy cảm.
Người Pháp nói: Mỉa mai hay tát vào mặt ông A, bà B, có gì khác nhau không?
Điểm đặc biệt chung nhất là: Tát thì kêu nhưng lại thường không đau bằng. Hãy chôn vùi
thói mỉa mai trong mộ. Chế giễu một người mù hay kẻ câm thì đáng bị mù hoặc câm.
8) Đôi khi nên dùng cách nói triết lý để giảm nỗi bất hạnh của người khác.
Người Việt Nam vẫn thường nói: “Một mặt người hơn mười mặt của” ; “Của đi
thay người”. Trong giao tiếp hàng ngày, kiểu nói triết lý cũng thường xuyên xảy ra. Đơn
giản nhưng có tác dụng tích cực, làm giảm sự khó chịu cho người đối diện.
9) Xử lý công việc phải thấu tình, đạt lý.
Lý và tình là hai mặt cần được quan tâm trong giao tiếp, ứng xử. Chúng ta đừng
bao giờ quên một điều là: người thua ít ai chấp nhận họ thua và họ có lỗi cả. Trái lại họ
thường đâm ra oán hờn người thắng, và có khi họ để tâm trả thù.
Người quân tử xem sự thắng bại là lẽ thường tình. Kẻ tiểu nhân thường xem thắng
là vinh, bại là nhục. Thông thường người thắng thì hân hoan vui thích, còn người bại thì
buồn bực, khổ sở.
Chính vì vậy mà khi tranh chấp bất cứ việc gì, chúng ta ngoài việc kể về lý còn
phải nghĩ đến tình nữa. Đừng bao giờ chúng ta đối xử cạn tàu ráo máng với ai, ngay cả
khi đó là kẻ thù.
Đối với kẻ thù, chúng ta thắng cũng nên chừa cho họ một lối thoát danh dự, đừng
làm nhục họ. Không được tiểu nhân, vô nhân đạo đối với người sống cũng như người
chết.
Ông cha ta đã dạy: “Oán thù nên mở chứ không nên kết”. Đối xử quân tử với kẻ
địch, mở lối thoát cho kẻ thù, có thể cảm hóa nó để chấm dứt hận thù. Ông bà, cha mẹ
thường răn dạy con cháu: “Nếu sau này con có tha thứ được ai thì cứ tha, để tích đức cho
con cháu sau này”.
10)Luôn giữ chữ tín trong kinh doanh cũng như trong cuộc sống.
“Nên từ chối hứa, nhưng đừng từ chối lời hứa. Nhất là với trẻ em, chúng nhớ rất
kỹ”. Nếu bạn hứa trong điện thoại “Tôi sẽ gọi bạn vào lúc 10 giờ sáng”, thì hãy gọi vào
đúng 10 giờ, đừng để đến 11 giờ. Tính chính xác là một đức tính cần phải có.
Tóm lại:
Trong xã hội hiện đại, sự giao tiếp, tiếp xúc, trao đổi bằng lời nói, cử chỉ, hành
động, thái độ... là vô cùng quan trọng. Giao tiếp góp phần tạo những mối quan hệ tốt đẹp
trong kinh doanh, trong đời sống xã hội hằng ngày. Một lời nói hay, một cử chỉ đẹp có
thể tạo ra những ấn tượng tốt, tạo sự tin cậy, hợp tác... Nhưng cũng chỉ với một lời nói có
thể làm tan vỡ những mối quan hệ, làm mất lòng người khác, làm tổn hại đến sự bền
vững của một tổ chức. Có thể nói giao tiếp là một công cụ sắc bén để quan hệ, để làm
kinh tế, để tạo ra và giữ gìn hạnh phúc gia đình…

● Các chuẩn mực giao tiếp xã hội


1) Tự trọng nhưng phải tôn trọng người khác
Tự trọng là điều đáng quý, nhưng trong giao tiếp xã hội không nên chỉ biết trọng mình
mà còn phải biết tôn trọng người khác. Do đó, chúng ta phải biết kết hợp cả hai điều kiện
trên, phải luôn biết mình, biết người, trọng mình, trọng người.
2) Tin tưởng nhưng không cả tin
Tin tưởng người khác là điều kiện đầu tiên để người khác tin tưởng mình, nhưng lòng tin
cũng cần có giới hạn, tuyệt nhiên không được cả tin một cách mù quáng, vô căn cứ, nếu
không bạn sẽ bị mắc lừa.
3) Biết cách thể hiện mình, nhưng không nên hạ thấp người khác để tự đề cao mình
Trong giao tiếp bạn cần biết cách thể hiện mình một cách hợp lý, nhưng không được tự
cao tự đại. Đặc biệt, không được nói xấu người khác, hạ thấp người khác, để tự đề cao
mình, nếu không những cố gắng trong giao tiếp của bạn trở nên vô nghĩa. Hãy luôn nhớ
rằng, những hành động giả tạo, vờ vĩnh, phô trương mình, chỉ càng làm cho người khác
thêm ác cảm với bạn.
4) Bộc trực, thẳng thắn, nhưng không được cẩu thả, bừa bãi
Trong cuộc sống cần phải bộc trực, thẳng thắn. Nhưng cần luôn nhớ rằng: thẳng thắn, bộc
trực không đồng nghĩa với việc nói năng, hành động thiếu suy nghĩ. Hãy cẩn trọng khi
làm bất cứ điều gì, đừng để phải ân hận bởi đã thiếu thận trọng, nên đã xúc phạm đến
người khác, làm người khác phải phiền lòng.
5) Khiêm tốn, nhưng không giả dối
Khiêm tốn là một đức tính tốt, một vẻ đẹp cần được duy trì và phát triển trong giao tiếp
xã hội. Nhưng khiêm tốn chỉ có ý nghĩa khi thực sự khiêm tốn, tức đức khiêm tốn được
xây dựng trên cơ sở đức tính thật thà, thẳng thắn, chứ không nên khiêm tốn giả tạo để lừa
dối, lấy lòng mọi người.
6) Cẩn thận nhưng không quá cầu kỳ hoặc rập khuôn máy móc
Cẩn thận là một đức tính quan trọng, giúp bạn giành được thành công trong giao tiếp,
cũng như trong cuộc sống, nhưng cẩn thận không đồng nghĩa với việc quá cầu kỳ, cầu
toàn, hoặc rập khuôn cứng nhắc. Cẩn thận đồng thời phải nhanh nhạy, tháo vát, linh hoạt,
uyển chuyển trong từng trường hợp cụ thể. Cũng cần lưu ý: bẽn lẽn, nhút nhát, không biết
cách thể hiện mình sẽ gây cho bạn nhiều điều bất lợi trong giao tiếp.
7) Nhanh nhảu, hoạt bát, nhưng không phải gặp đâu nói đấy, nói năng thiếu suy nghĩ
làm người khác phải đau lòng
Có tài ăn nói, cộng với nét mặt khả ái, cử chỉ lịch thiệp, là những lợi thế đặc biệt giúp
người ta giao tiếp thành công. Nhưng tuyệt đối không được viện cớ tính tình thẳng thắn,
nói năng láu táu, “ruột để ngoài da”, nghĩ sao nói vậy, để nói năng bừa bãi, thiếu căn cứ,
khiến người nghe đau lòng.
8) Nghiêm khắc với mình, nhưng phải độ lượng với người khác
Đối với bản thân phải nghiêm khắc, luôn tự đặt ra nhưng tiêu chuẩn cao cho riêng mình,
nhưng đối với người khác cần khoan dung độ lượng.

Câu 7: Cần chuẩn bị những gì trước khi thuyết trình, giải thích
Chuẩn bị thuyết trình
Không chuẩn bị tức là đã chuẩn bị để đón nhận sự thất bại. Để thuyết trình
thành công, chúng ta luôn phải giải quyết rất nhiều tình huống phát sinh một cách linh
hoạt. Do đó, công tác chuẩn bị càng trở nên quan trọng.
a)Lựa chọn chủ đề và giới hạn các vấn đề thuyết trình:
ta nên chọn chủ đề thính giả muốn nghe; chủ đề mới mang tính thời sự; hoặc chủ
đề ta biết sâu; hoặc thậm chí chủ đề được đối tác đặt hàng với mình. phân tích đối tượng
thuyết trình để lựa chọn chủ đề cho phù hợp với đối tượng nghe cũng như phù hợp với
khả năng của người thuyết trình.
Tránh lan man và không trọng tâm. phân tích xem: Đâu là ý chính, đâu là ý phụ, ý
nào “bắt buộc” phải nói, ý nào “cần nói”, ý nào nên nói.
b) Phân tích thính giả và diễn giả
Phân tích diễn giả và thính giả giúp chúng ta có những giải pháp hữu hiệu cho bài
thuyết trình của mình.“Biết mình, biết người, trăm trận, trăm thắng”.
* Phân tích thính giả (Người nghe)
Càng hiểu về thính giả thì chúng ta càng tự tin thuyết trình, đáp ứng nhu cầu thính
giả. Những thông tin cần thu thập để phân tích thính giả: Tuổi tác, nghề nghiệp, trình độ
học vấn và chuyên môn, vị trí công việc.
Ngoài ra, quy mô người nghe cũng ảnh hưởng đến kết cấu bài thuyết trình. Nếu
chỉ có ít người nghe, bạn có thể trả lời một cách cụ thể, .Nếu có đông người nghe, buổi
thuyết trình phần lớn mang tính một chiều,cần sự rõ ràng, chính xác và dễ hiểu
*Phân tích diễn giả (Người nói):
Hãy đặt những câu hỏi Ta muốn gì? Mong đạt được gì? Quan hệ với thính giả ra
sao? Có thể ảnh hưởng tới thính giả như thế nào? Ta đã am hiểu về vấn đề trình bày
chưa?...Từ đó, ta có thể xác định phương pháp tiếp cận hiệu quả nhất cho bài thuyết trình.
c) Xây dựng nội dung bài thuyết trình

+ Bắt tay vào soạn thảo:


Dành thời gian tĩnh lặng để suy ngẫm về những
điều sẽ viết và sau đó bắt đầu soạn bản thảo, trước tiên bằng cách viết lại tất cả những
gì bạn muốn đưa vào.
+ Xây dựng bản tóm tắt cho bài thuyết trình:
Có 2 cách tóm tắt bài thuyết trình:
- Dùng thẻ ghi ý (Chuẩn bị các mẩu giấy ghi chú):
+ Sử dụng các từ khoá
+ Đánh số thứ tự
+ Sử dụng các hình ảnh
+ Ghi chép để dễ nhớ nhất
+ Có sự kết nối, hướng dẫn đến các phần chi tiết hơn
+ Trình bày theo bố cục (đặc biệt là trong luận văn)
+ Thẻ nhớ sử dụng nhiều trong trình bày báo cáo, luận văn, luận án.
Điều này sẽ giúp bạn tránh hiện tượng “đọc”
bài và có dụng ý “nhắc nhở” khi bạn quên mất các vấn đề cần trình bày. Khi nhìn
những mẩu giấy ghi chú này, bạn dễ dàng có xu hướng “đối thoại” với các cử tọa hơn
thay vì “đọc thuộc lòng” bài viết.
Ví dụ, viết những ý quan
trọng bằng mực đỏ và những đoạn có thể bỏ đi bằng mực xanh.
- Dùng bản đồ tư duy:
+ Chủ đề viết ở chính giữa tờ giấy
+ Sắp xếp thông tin, nội dung: các ý lớn liên kết với chủ đề, ý nhỏ hơn liên kết
với ý lớn
+ Sử dụng từ khóa
+ Sử dụng nhiều màu sắc, hình ảnh, biểu tượng
Để có một bài thuyết trình hiệu quả, bạn có thể chọn một trong các cách hoặc kết
hợp một số cách trình bày dưới đây:
Chữ cái ưu tiên (Acrostic)
Theo thứ tự tăng hay giảm dần (Ascending/Descending)
So sánh và đối chiếu (Comparison and Contrast)
Theo trình tự thời gian (Chronological)
Nguyên nhân và kết quả (Cause and Effect)
Chung đến riêng/ từ tổng quát đến cụ thể/ từ rộng đến hẹp (General to Specific)
POP (Problem, Options, Proposal)
Vấn đề và giải pháp (Problem and Solution)
Sắp xếp theo không gian (Spatial)

d)Chuẩn bị các thông tin và các tài liệu liên quan:


Người thuyết trình phải có đủ thông tin về chủ đề, nắm vững và hiểu chính xác các
thông tin sẽ trình bày. Cần nghiên cứu kỹ các văn bản, tài liệu, số liệu có liên quan để
nắm chắc nội dung thuyết trình.
Để có bài thuyết trình hay, thông tin phong phú, người thuyết trình phải thường
xuyên cập nhật thông tin liên quan đến chủ đề sẽ thuyết trình. Điều này sẽ giúp ta tự tin
hơn và trả lời linh hoạt các câu hỏi của thính giả khi thuyết trình.
đ) Chuẩn bị các phương tiện hỗ trợ
Các thiết bị và công cụ hỗ trợ chủ yếu được sử dụng khi thuyết trình hiện nay là
máy chiếu Projector dùng để chiếu các slide đã chuẩn bị bằng phần mềm Power Point,
Video hoặc các file sử dụng phần mềm khác;
e) Chuẩn bị trước những tình huống phản hồi.
Để chủ động, người thuyết trình nên suy nghĩ trước những tình huống có thể sẽ bị
hỏi hoặc đề nghị làm rõ sau khi thuyết trình. Nếu không chuẩn bị trước, khi bị hỏi, có thể
sẽ không trả lời được và rơi vào tình trạng lúng túng,
g) Luyện tập trước bài thuyết trình và chỉnh sửa
Bước cuối cùng quan trọng nhất và thường hay bị bỏ qua nhất, đó là tập luyện
trước khi thuyết trình. Sau khi đã chuẩn bị được nội dung ở dàn ý có bản, cũng nên tập
trước bài thuyết trình.
* Mục đích luyện tập
Để tập luyện các động tác cơ bản tự tin đứng trước đám đông. Quá trình tập luyện
để biết được những điểm mạnh để tiếp tục phát huy và làm tốt hơn, những điểm hạn chế
để chỉnh sửa, khắc phục kể cả nội dung và phương pháp. Thao trường có đổ mồ hôi thì
chiến trường mới bớt đổ máu.
* Phương pháp luyện tập
- Đứng tập trước gương:
- Tập trước một vài người, một nhóm nhỏ:
- Tập và đặt Camera ghi hình:
Câu 8: Các phương pháp mở đầu bài thuyết trình thu hút (học hết nha, ngắn
lắm rồi)

a) Thuyết trình phần mở bài


Thuyết trình phần mở bài là rất quan trọng, người nghe sẽ tập trung vào người nói
ngay từ ban đầu, nếu chúng ta mở đầu không tốt, khó gây ấn tượng tốt cho người nghe,
ảnh hưởng ngay đến tâm lý và mong đợi của họ. Vì vậy, thuyết trình phần mở đầu phải
thật sự ngắn gọn, sắc nét, tạo sự chú ý cho người nghe là rất quan trọng.
Đây là phần khó khăn nhất trong thuyết trình vì: “Không có cơ hội thứ hai để
gây ấn tượng ban đầu”; “Vạn sự khởi đầu nan”, “Đầu xuôi đuôi lọt”.Để thu hút sự
chú ý của người nghe ngay từ ban đầu, người thuyết trình có thể sử dụng nhiều cách
khác nhau. Một số cách phổ biến là:
- Lấy một ví dụ, minh họa: Chẳng hạn, sử dụng chiếc đinh để minh hoạ cho tầm
quan trọng của việc thiết kế “Cấu trúc bài thuyết trình”.
- Kể một mẩu chuyện có liên quan đến chủ đề: Có thể kể một câu chuyện về tiết
kiệm của người nghèo để bắt đầu một bài thuyết trình về Huy động tiền gửi tiết kiệm.
-Dẫn nhập tương phản: Bài diễn thuyết bắt đầu bằng việc nhấn mạnh sự mâu thuẫn
để gây chú ý.
Ví dụ: Khi thuyết trình về vấn đề giáo dục trong gia đình bạn có thể bắt đầu “Giáo
dục là vô nghĩa…” sau đó dừng lại một chút rồi mới nói tiếp “nếu thiếu sự kết hợp giữa
giáo dục nhà trường với giáo dục trong gia đình”.
Lối dẫn nhập này thường được sử dụng trong những tình huống có nhiều thử thách và
người nói chuyện muốn kêu gọi người nghe huy động sức mạnh của mình, đoàn kết, nhất
trí để vượt qua thử thách.

- Số liệu thống kê, hoặc dẫn chứng: Có thể nêu một vài con số về dư nợ và nguồn
vốn để minh họa cho sự lớn mạnh của NHCSXH; hoặc có thể nêu ra một vài nhân chứng
về việc không làm đúng quy trình hướng dẫn gây hậu quả nghiêm trọng.
- Mở đầu bằng cách đặt câu hỏi: Có thể đặt câu hỏi về tỷ lệ nợ xấu của NHCSXH
để mở đầu cho bài giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng
- Mở đầu bằng một câu châm ngôn: Chẳng hạn “ Hãy tiết kiệm từng xu để trở
thành tỷ phú” để mở đầu cho bài tiết kiệm; hoặc “Buôn tàu bán bè không bằng ăn dè tiết
kiệm”; …
- Mở đầu bằng một trò chơi: Trò chơi “Tam sao thất bản” để mở đầu cho bài
thuyết trình.
-Dẫn nhập gây chấn động: Đưa ra một thông báo hoặc thống kê theo cách làm
người khác phải giật mình. Ví dụ: “Các viên chức của chính phủ Mỹ đã giết chết 23 công
dân của mình” có thể được sử dụng để mở đầu một bài diễn văn chống hình phạt xử tử tội
phạm. Kiểu mở đầu này có thể tạo ra một không khí nôn nao, chờ đợi háo hức của những
người tham dự đối với những lý lẽ bạn sắp đưa ra nhằm làm rõ hơn nhận định của mình.
Chú ý: Mỗi cách đều có đặc thù riêng, phù hợp với những nội dung cụ thể khi
thuyết trình. Vì vậy, chúng ta nên vận dụng một cách sáng tạo các cách khác nhau chứ
không có cách nào là tốt nhất và tối ưu cho tất cả các bài cũng như tất cả mọi người. Và
cần lưu ý:
Mở đầu quá dài dễ làm giảm hứng thú của người nghe;
Tránh mở đầu không ăn nhập với chủ đề của bài nói chuyện;
Tránh cách mở đầu thiếu tự tin, bằng những lời biện hộ hoặc bằng lời xin lỗi.

* Nêu sự cần thiết của buổi thuyết trình:


* Giới thiệu tiêu đề của bài thuyết trình:
* Giới thiệu những nội dung chính của bài thuyết trình
* Đặt ra mục tiêu sau thuyết trình:

Câu 9: Cần chú ý điều gì để có một phần thân bài hiệu quả?
(1) Lựa chọn nội dung quan trọng để triển khai
- Phần thân của bài thuyết trình cần được thiết kế phù hợp với trình độ
và kinh nghiệm của người nghe, thời gian và bối cảnh của hội
trường.
- Một bài thuyết trình quá ngắn với một khoảng thời gian quá dài là
không phù hợp (giống như lấy đinh đóng guốc để đóng thuyền).
Ngược lại một bài thuyết trình quá dài, nội dung phức tạp trong một
khoảng thời gian quá ngắn cũng không phù hợp (giống như lấy đinh
đóng thuyền để đóng guốc). Vì vậy, muốn có bài thuyết trình hay,
cần có một độ dài và nội dung phù hợp với người nghe.
(2) Có mục tiêu rõ ràng
- Mục tiêu rõ ràng để khán giả nắm được nội dung chính
- Mục tiêu là điểm kết của buổi thuyết trình mà người làm thuyết trình
muốn truyền tải tới khán giả và khi kết thúc thuyết trình đạt được
các mục tiêu đó
(3) Sắp xếp nội dung theo thứ tự logic và nhất quán
- Một bài thuyết trình phải có 3 phần: Phần mở đầu, phần thực hiện,
phần kết thúc.
- Thứ tự nội dung phải đi theo thứ tự nội dung định sẵn
- Nhất quán: Nhất quán về quan điểm, nhất quán về nội dung trình
bày, nhất quán về phương pháp hình thành mục tiêu,...
(4) Chia thành các ý nhỏ để dễ tiếp thu
(5) Phân bổ thời gian hợp lý
(6) Ngoài ra, để có một thân bài hay thì không nên chỉ nói không mà cần kết
hợp chơi trò chơi, tương tác với khán giả.

Câu 10: Tại sao phải kết luận khi Thuyết trình, giải thích?

- Thuyết trình phần kết luận


- Chúng ta đều biết “Lời nói gió bay”, đây chính là sự khác biệt giữa văn nói
và văn viết. Vì vậy, trong thuyết trình để người nghe còn lưu lại những
thông tin quan trọng, thì phải có kết luận. Trong khoảng thời gian thuyết
trình phần thân bài, người nghe có thể mất tập trung, có thể không tiếp thu
được toàn bộ thông tin mà ta thuyết trình. Vì vậy, kết luận sẽ giúp người
nghe tóm tắt lại những ý chính đã trình bày. Hơn nữa, kết luận chính là
thông điệp cuối cùng ta gửi đến người nghe. Với thông điệp cốt lõi này,
người nghe có thể liên tưởng đến toàn bộ phần nội dung của bài thuyết
trình.
- Khi chúng ta tham dự một buổi thuyết trình của người nào đó, chúng ta vẫn
mong đợi sẽ đạt được điều gì, nhận được những kiến thức, kinh nghiệm nào
cho cuộc sống. Với vai trò là người thuyết trình, với mục tiêu ban đầu đặt
ra, đây là lúc phải trả lời. Đây chính là giai đoạn mà bạn phải thể hiện chính
kiến của mình một cách rõ ràng, nhưng quan trọng hơn là bạn mang lại
thông điệp gì và thông điệp đó có phù hợp với nhu cầu của khán giả không.
Kỳ vọng của một phần kết thúc đạt được đó là sự xúc động của người nghe,
để từ đó họ có những suy nghĩ, hành động tương ứng
- Tóm tắt, tổng kết lại những luận điểm chính yếu để cho khán giả có thể
hình dung lại dễ dàng.
- Tóm tắt lại những nội dung chính của bài, giúp cho thính giả lưu lại những
điểm quan trọng và có ấn tượng về diễn giả và bài thuyết trình. Phần kết
luận nhất thiết phải tóm tắt cho được những nội dung quan trọng đã trình
bày.
-

Câu 11: Cách khắc phục lỗi kỹ thuật khi thuyết trình?
- Những lỗi thông thường khi sử dụng Power Point , LCD Projector và cách
khắc phục:

Những lỗi thông Cách khắc phục


thường khi sử dụng
Projector
Máy khởi động Hãy làm quen với thiết bị trước buổi thuyết trình. Luyện tập vài
chậm hoặc không lần với những máy móc thiết bị sẽ sử dụng. Nắm vững các thao
hoạt động. tác cơ bản, đừng lệ thuộc hoàn toàn kỹ thuật viên.
Nhưng cần lưu ý: Giữ mối liên hệ chặt chẽ với kỹ thuật viên, để
đề phòng trường hợp có sự cố bất thường, có thể thay đổi máy
khác.
Chuẩn bị sẵn sàng phương án dự phòng, và thực hiện khi cần
thiết.
Màn hình trắng (chỉ Máy tính và Projector chưa kết nối được, xem lại các đầu cáp
có một màu xanh nối. Thử lại một lần nữa. Chú ý thao tác khởi động Projector
biếc, không nhận theo hướng dẫn.
được tín hiệu từ máy Máy tính và Projector không tương thích, thì đổi máy khác, nếu
tính). có thể được.
Vấn đề liên quan Thử âm thanh trước khi TT,chỉ nên sử dụng âm thanh và hình
đến âm thanh và ảnh một khi thực sự cần thiết, nếu không bạn hãy mạnh dạn loại
hình ảnh động. bỏ chúng, lạm dụng thái quá những phương tiện kỹ thuật hiện
đại, nhiều khi chỉ gây thêm phiền phức cho bạn.
Khán giả không xem Khi chọn màu nền và màu chữ cho slide, nên chọn những màu
được slide, do gam tương phản mạnh.
màu sắc của slide Ví dụ: chữ đen trên nền trắng, chữ trắng/vàng trên nền xanh
không phù hợp. hoặc nền đen.
Cần lưu ý: khi sử dụng chữ trắng trên nền vàng nhìn trên màn
hình máy tính trông khá đẹp nhưng khi chiếu lên sẽ không thấy
gì. Tương tự chữ hồng trên nền đỏ trên máy tính nhìn rõ nhưng
khi chiếu lên màn hình lớn thì không thể đọc được.
Tốt hơn hết, nên chiếu thử slide trước ngày thuyết trình bằng
chính những thiết bị bạn sẽ sử dụng, nếu thấy màu không đẹp,
không phù hợp thì cần điều chỉnh lại.
Một buổi thuyết Hãy dùng chung một laptop và mang theo đĩa mềm hoặc USB
trình có nhiều người có ghi phần slide phục vụ cho thuyết trình của tất cả mọi người
tham gia, nếu sử để dự phòng. Lý tưởng là kết nối các bài thuyết trình vào chung
dụng nhiều laptop sẽ một file. Điều này rất có ích không chỉ đối với các sinh viên mà
tốn thời gian để thay còn cho cả các buổi thuyết trình chuyên nghiệp bơi bởi nhờ nó
thế và kết nối lại, sẽ mà giảm được thời gian chết, đảm bảo tính liên tục giữa các
gặp rủi ro. thuyết trình viên.
Quay lưng lại khán Hãy luôn nhớ: nếu bạn chỉ chăm chú nhìn slide không quan sát
giả, chăm chú đọc khán giả, bạn sẽ không biết họ làm gì? Phản ứng ra sao? Vì vậy
slide, không tiếp xúc hãy đừng ham sử dụng quá nhiều slide và đặc biệt đừng dùng
bằng mắt với khán những slide chi chít chữ.
giả.
“Con chuột” gặp Nếu bạn gặp vấn đề với con chuột hãy chuyển sang dùng bàn
vấn đề. phím. Space bar để tiến lên còn back space để lùi lại. Cẩn thận
là tốt hơn cả, trước buổi thuyết trình cần kiểm tra kỹ thiết bị, đặc
biệt là bàn phím và “chuột”.
Thiết bị trục trặc, Đôi lúc bạn gặp tình huống khó xử: bỗng nhiên biến mất hoặc
slide biến mất. quay trở lại slide đầu tiên. Hãy bình tĩnh khắc phục, nếu không
được hãy mời một kỹ thuật viên. Nếu xảy ra lần thứ hai thì cần
đổi thiết bị khác hoặc sử dụng phương án dự phòng.
Một lần nữa xin nhấn mạnh: trước buổi thuyết trình nên kiểm tra
thiết bị cẩn thận.
- Những lỗi thường mắc khi sử dụng Overhead và cách khắc khắc phục:
Những lỗi thông Cách khắc phục.
thường khi sử dụng
Overhead.
Những slide không Bạn hãy thiết kế các slide dùng cho Overhead trên nền Power
chuyên nghiệp. Point, nên chọn nền đơn giản, nền trắng chữ đen. Hãy in slide,
đừng sử dụng slide viết tay, trừ phi đó là bức tranh có giá trị
nghệ thuật lớn. Dùng slide viết tay bạn sẽ gây ấn tượng xấu cho
người nghe. Khán giả sẽ cho rằng hoặc là bạn chuẩn bị không
tốt, hoặc bạn là người cẩu thả, thiếu tôn trọng người nghe.
Những slide dày đặc Hãy đừng hà tiện. Trên mỗi slide chỉ nên trình bày một bảng
biểu đồ, bảng xe lẫn biểu hoặc một hình vẽ, đừng chèn những dòng nhận xét với cỡ
những hàng chữ. chữ nhỏ li ti bên dưới các bảng biểu, hình vẽ trông rất không
chuyên nghiệp. Cần lưu ý thêm: không cần dùng quá nhiều
slide, chỉ cần 4-5 slide cho 10 phút trình bày là đủ.
Slide bị cong. Cần chuẩn bị khung hoặc vật chặn slide, nhờ đó slide sẽ thẳng
và không bị bay ra khỏi Overhead khi có gió thông qua.
Slide bị đặt ngược. Bình tĩnh đặt lại cho đúng. Tiếp xúc bằng mắt với khán giả sẽ
giúp bạn nhanh chóng phát hiện ra slide có vấn đề.
Slide bị xáo trộn lộn Cần đánh số slide
xộn. Xếp slide theo đúng thứ tự
Mỗi slide cần được lót một tờ giấy trắng, để dễ dàng nhận biết
đó là slide gì
Những slide đã chiếu cũng cần sắp xếp theo một trình tự nhất
định cho dễ nhìn.
Slide chứa quá nhiều Cách dùng slide kiểu này không gây được ấn tượng tốt cho
nội dung, nên khi sử khán giả, đặc biệt là khán giả có trình độ cao. Tốt nhất là thiết
dụng phải che bớt kế slide đúng chuẩn, để không phải che bớt một phần trong quá
một phần. trình trình bày.
Sử dụng qua chỉ Nếu phòng thuyết trình nhỏ thì không dùng que chỉ. Trong
không đúng cách. trường hợp này, nếu bạn dùng que chỉ, khán giả sẽ nghĩ bạn là
kẻ thích phô trương, kệch cỡm. Tuy nhiên, nếu văn phòng lớn
và khoảng cách giữa người nói và người nghe đủ lớn, thì nên
dùng que chỉ, nó sẽ giúp bạn tăng tính chuyên nghiệp. Hãy nhớ
luôn tắt que chỉ laser sau khi sử dụng. Đừng bao giờ hướng que
chỉ về phía khán giả.
Câu 12: Các phi ngôn từ trong thuyết trình
- Giọng nói:
Phát âm tròn vành rõ chữ, tránh nói liến thoắng hoặc rề rà. Đừng nói bằng một giọng đều
đều. Hãy cao giọng hoặc hạ giọng để nhấn mạnh khi cần. Tùy thuộc vào việc bạn có
giọng cao hay thấp, mà còn có những nghệ thuật khác nhau để thu hút người nghe. Nói
chung, các nhà diễn thuyết dù là nam hay nữ, nếu có được làn hơi đầy đặn, giọng vang
ấm, thấp sẽ có lợi thế hơn rất nhiều so với những người có làn hơi mảnh, giọng cao.
Người nói giọng cao, mảnh dễ bị rơi vào các tình trạng: nói bị hụt hơi, âm phát ra không
rõ, nói nhanh chíu chíu như đạn bắn, hoặc nói xin xít qua kẽ răng,... Các cách nói đó đều
không thu hút người nghe nên phải chú ý rèn luyện nhiều hơn.
Trong quá trình rèn luyện hãy luôn nhớ: nói lí nhí là điều cấm kỵ,
phải nói to, rõ ràng, lưu loát – đó là điều tối thiểu cần có đối với một người thuyết trình.
Chất lượng giọng nói cũng tác động rất lớn đến thành công của buổi thuyết trình. Chính
vì vậy, cũng giống như ca sĩ, các diễn thuyết gia phải thường xuyên luyện giọng.
Chất lượng giọng nói phụ thuộc vào nhiều yếu tố, như: tốc độ, nức độ sôi nổi và chất
giọng.
+ Âm lượng: vừa phải, đủ nghe, tùy thuộc vào hoàn cảnh cụ thể. Âm lượng làm sao cho
người ngồi xa bạn nhất cũng có thể nghe thấy.
+ Nhịp độ: Hãy luôn nhớ rằng: nói quá chậm hoặc quá nhanh đều làm cho bài nói không
thành công. Nói quá chậm làm cho bài diễn thuyết buồn tẻ, không thu hút được người
nghe. Ngược lại, khi nói quá nhanh, bạn dễ mắc phải nhiều lỗi phát âm, nhiều âm bị nuốt
trong cổ họng, không phát âm ra được, đặc biệt là những người thường hạ giọng ở cuối
câu. Nói quá nhanh sẽ làm cho người nghe mệt óc, căng thẳng và không muốn nghe nữa.
Nói vừa phải, rõ ràng, lưu loát, truyền cảm sẽ tạo thành sức hút mạnh mẽ đối với người
nghe. Đặc biệt, những người được trợ phú cho hoặc nhờ khổ luyện mà có được giọng nói
âm vang, truyền cảm hay thánh thót, trầm bổng sẽ có được lợi thế hết sức to lớn khi diễn
thuyết. Vậy nói với tốc độ thế nào là vừa phải?
Theo các nhà nghiên cứu, nếu bạn vốn là người có khả năng nói lưu loát, thì khi nói tiếng
mẹ đẻ, bạn nên nói khoảng 120 – 150 từ/ phút. Nếu nói bằng ngôn ngữ thứ hai thì chỉ nên
nói tối đa 100 từ/ phút. Tốc độ nói như vậy đủ giúp bạn có thể phát âm rõ ràng, truyền
cảm, có thể dùng những từ hoa mỹ, có thể nhấn giọng, hạ giọng làm cho
bài nói sinh động, thu hút được người nghe.
Trình bày nhanh hoặc chậm sẽ thu hút sự chú ý của cử toạ, nhưng đừng nên tăng hay
giảm tốc độ trình bày mà không có chủ ý. Ngoài ra, bạn nên dùng một vài giây trước khi
chuyển sang ý khác và tận dụng những dịp để giao tiếp bằng mắt với cử tọa. Điều này sẽ
giúp bạn có cơ hội nắm bắt các phản ứng của họ đối với bài thuyết trình.
Trong quá trình phát biểu, bạn hãy nói với tốc độ ổn định, chỉ nhấn giọng khi bạn muốn
nêu bật những ý quan trọng.
+ Ngữ điệu: thay đổi ngữ điệu khi trầm khi bổng tùy thuộc nội dung bài thuyết trình để
tránh nhàm chán.
+ Mức độ sôi nổi: Hãy luôn nhớ rằng: nếu bạn nói sôi nổi, truyền cảm và luôn quan tâm
đến những gì mình nói, thì người nghe sẽ chú ý lắng nghe và hưởng ứng. Ngược lại, nếu
bạn nói với giọng đều đều, vô hồn, vô cảm thì người nghe sẽ nghĩ sang vấn đề khác, luôn
cầu mong cho bạn sớm chấm dứt bài diễn thuyết buồn tẻ, để họ được ra về hoặc chìm dần
vào giấc ngủ, chẳng ai quan tâm đến bạn nữa, thậm chí có người còn huýt sáo, vỗ tay để
mời bạn xuống, và tất nhiên buổi thuyết trình thất bại.
Muốn cho bài nói sôi nổi bạn phải biết sử dụng giọng nói một cách linh hoạt, trong suốt
bài nói có lúc cao, lúc trầm, phải có trọng tâm, có điểm nhấn, phải có lúc nhanh, lúc
chậm, lúc sôi nổi, lúc thúc giục, lúc mượt mà du dương. Người ta thường nói ‘hát hay
không bằng hay hát'. Giọng hát hay giọng nói đều có thể luyện tập! Bạn nên chú ý đến
âm điệu (tone), âm độ (volume), lưu độ (rate) và cường độ (pitch) của giọng nói. Nếu bạn
chú ý sửa đổi khuyết điểm về giọng nói và cử chỉ thì bài nói chuyện của bạn sẽ lôi cuốn
người nghe gấp bội phần.
- Trang phục: gọn gàng, lịch sự, phù hợp với chủ đề thuyết trình và đối tượng khán giả.
Trang phục chỉnh tề lịch sự, được ủi (là) phẳng phiu, cẩn thận, phù hợp với lứa tuổi của
người thuyết trình.
Lưu ý: Thuyết trình viên nên ăn mặc chỉnh tề hơn khán giả. Đầu tóc gọn gàng, phụ nữ
nên trang điểm nhẹ. Trang phục luôn là công cụ quan trọng giúp bạn thu hút được khán
thính giả, giúp bạn thành công trong các buổi thuyết trình.
Ngay từ thế kỷ thứ 16, Nữ hoàng Elizabeth đệ nhất đã từng nói: Chín người thợ may có
thể tạo nên một người nổi tiếng, với ngụ ý rằng: nếu biết ăn mặc đẹp, lịch lãm, hợp thời
trang, phù hợp với lứa tuổi, địa vị, bạn sẽ trở thành người nổi tiếng, thu hút được mọi
người xung quanh. Nhiều thế kỷ đã trôi qua, biết bao quan niệm sống đã thay đổi, nhưng
câu nói của nữ hoàng Elizabeth vẫn còn có giá trị cho đến ngày hôm nay. Để giúp buổi
thuyết trình thành công bạn hãy luôn nhớ chuẩn bị trang phục chỉnh tề, lịch sự, được là ủi
cẩn thận, phù hợp với lứa tuổi, địa vị của người thuyết trình, phù hợp với mức độ trang
trọng, quy mô, tính chất của buổi thuyết trình. Và hãy đừng quên, trang phục phải phù
hợp với nhiệt độ của khán phòng. Vào mùa nóng/ nhiệt độ trong phòng cao, thì ở Việt
Nam, nam giới chỉ cần mặc sơ mi dài tay, đeo cà vạt, nữ giới mặc áo dài dân tộc là đủ,
nhưng nếu ở trong phòng lạnh, nhiệt độ thấp thì nên mặc bộ vest, nữ giới nếu mặc áo dài
thì cần có thêm áo khoác hoặc khăn choàng.
- Mặt: Thể hiện sự thân thiện, gần gũi với khán giả.
“Hãy mỉm cười và cả thế giới sẽ cùng cười với bạn”. Lời khuyên của Charlie
Chaplin vô cùng hữu ích cho mọi diễn thuyết viên. Hãy mỉm cười, ít nhất bạn sẽ đạt được
3 lợi ích. Thứ nhất, khi bạn cười thì dù tim bạn đang đập thình thịch, chân bạn đang rung,
người ta vẫn tưởng là bạn rất tự tin. Thứ hai, bạn cười làm cho khán giả nghĩ rằng bạn là
một người thân thiện, dễ mến, họ sẽ cảm thấy đầu óc thư thái hơn, cởi mở và gần gũi với
bạn hơn. Thứ ba, khi bạn cười bạn sẽ thấy một số khán giả mỉm cười lại với bạn, điều đó
sẽ làm cho bạn vững tin hơn, bớt hồi hộp và trình bày hay hơn.
- Ánh mắt:
Tiếp xúc bằng mắt: Trong cuộc đời này có bao nhiêu bản tình ca được viết nên nhờ đôi
mắt? Vô số kể! Bởi đôi mắt là cửa sổ tâm hồn, là bộ phận quan trọng nhất cơ thể để thu
hút người khác. Vì vậy, khi thuyết trình bạn phải luôn chú ý tiếp xúc bằng mắt với khán
thính giả. Khi bạn nhìn khán giả có nghĩa là bạn đang nói rằng: họ quan trọng và bạn rất
quan tâm tới họ. Khi bạn nhìn họ cùng có nghĩa là bạn đang hứa với họ, sẽ mang lại cho
họ những điều bổ ích. Do đó, họ sẽ cảm thấy gần gũi hơn với bạn và chú ý lắng nghe bạn.
+ Nhìn = nhìn thấy?
Khi bạn nhìn thính giả, bạn còn có thể kiểm tra được thái độ của họ và điều chỉnh lại bài
nói của mình cho phù hợp. Khi nhìn xuống khán giả nếu bắt gặp những ánh mắt ấm áp,
chăm chú, những cái gật đầu tán thưởng, bạn sẽ thấy được khích lệ rất nhiều và sẽ nói
hay hơn, truyền cảm hơn. Ngược lại, nếu nhìn thấy những ánh mắt lo âu, cố giương mắt
để hiểu mà vẫn chưa hiểu, những cái nhăn trán, cắn bút khổ sở,.. thì bạn hãy nói chậm lại,
to và rõ hơn, tốt hơn cả hãy dừng lại hỏi khán giả có điều gì thắc mắc và ân cần giải đáp.
Hoặc nếu bắt gặp những cái ngáp rõ to không cần che đậy, những kiểu ngồi ngả ngốn, ..
thì hãy lên cao giọng, nói sôi nổi hơn, nhanh hơn, to hơn, hãy di chuyển, đừng đứng
nguyên một chỗ, hoặc hỏi một câu hỏi,... để thay đổi không khí. Trong suốt quá trình diễn
thuyết, nếu có thể được bạn hãy nhìn tất cả mọi khán giả trong khán phòng, ít nhất mỗi
người một lần.
Giao tiếp bằng ánh mắt có hiệu quả rất tốt trong việc xây dựng mối quan hệ thân mật giữa
mọi việc xây dựng mối quan hệ thân mật giữa mọi người với nhau. Việc tạo bầu không
khí thân thiện trong buổi thuyết trình là rất quan trọng. Bạn hãy nhìn bao quát toàn bộ cử
tọa, cố gắng thu hút sự chú ý của những người ngồi xa bục phát biểu.
Thông thường nhiều diễn giả có xu hướng nhìn vào mắt của các cử tọa tỏ ra quan tâm và
hứng thú đến bài thuyết trình, và bỏ qua các cử tọa có thái độ tập trung hay chống đối.
Bạn nên nhớ, những người cảm thấy mình không được diễn giả quan tâm đến thường có
xu hướng phản ứng hơn nhiều so với những người được diễn giả chú tâm thu hút.
+ Nhìn theo hình chữ W hoặc M: Bạn nên nhìn khắp khán phòng theo kiểu chữ “w”, “M“
hoặc “z” nhìn như vậy sẽ tự nhiên hơn nhìn theo kiểu chữ “c”. Trong quá trình tiếp xúc
bằng mắt với khán giả, bạn nên dừng lại ở mỗi người khoảng 3 giây là vừa.
+ Dừng cuối mỗi ý
+ Nhìn vào trán
- Tay:
+ Trong khoảng từ cằm đến thắt lưng
+ Dùng tay để minh họa cho lời nói
+ Không: khoanh tay, cho tay vào túi quần, trỏ tay
/- Tư thế: nghiêm túc, tạo sự thoải mái.
Khi đi lên bục để nói chuyện, dáng đi của bạn phải thể hiện được bạn là người đường
hoàng, tự tin; bạn không cần phải vội vàng nhưng cũng đừng chậm chạp, ung dung, thong
thả quá. Nếu bạn từ ngoài bước vào thì bạn cần tiếp xúc bằng mắt với với nghe, mỉm cười
với họ. Nếu người nghe nhiệt liệt vỗ tay chào đón bạn thì bạn nên dừng lại trong giây lát,
mỉm cười chào họ rồi sau đó mới bước lên bục;Muốn thu hút được người nghe thì khi
thuyết trình bạn hãy đừng đứng nghiêm như một pho tượng. Nghiêm quá trông bạn sẽ rất
gò bó, căng thẳng, không sinh động,
thiếu hấp dẫn. Ngược lại, bạn cũng đừng đứng theo kiểu con cò ngủ gật, chân duỗi,chân
co, hoặc bò ườn, tì cả người lên bục giảng, đứng như vậy trông thật cẩu thả, tùy tiện,
chẳng chuyên nghiệp chút nào. Bạn hãy đứng thẳng, hơi ngả về phía khán giả một chút,
hai tay xuôi, hoặc một tay cầm micro, và phải biết cử động hai tay một cách thích hợp,
hai bàn chân cách nhau khoảng 30 c. Đừng khép chặt hai bàn chân vì nếu đứng
quá lâu bạn sẽ phạm phải điều cấm kỵ - đung đưa thân mình, thậm chí những người quá
mập (béo) có thể bị ngã. Tuyệt đối không vừa nói vừa quay lưng về phía khán giả.Trong
khi thuyết trình, bạn không nên đứng chôn chân một chỗ, hãy di chuyển để có thể quan
sát hết mọi người trong khán phòng. Nhưng hãy nhớ, di động hoặc cử động quá nhiều
cũng sẽ gây phản tác dụng. Chỉ di động, cử động khi cần thiết mà thôi!

Câu 13: So sánh mô hình làm việc nhóm và làm việc tổ truyền thống

● · Giống nhau:

+Là tập hợp một nhóm người làm việc chung với nhau, phối hợp giữa các cá thể
nhằm đạt được mục đích đề ra

+Làm việc dưới sự chỉ dẫn, phân công của người đứng đầu (nhóm trưởng)

● · Khác nhau:

Nhóm làm việc Tổ làm việc truyền thống

+Dưới sự phân công của trưởng +Một nhà quản lý hay giám sát chung sẽ
nhóm, các thành viên cùng nhau hợp chỉ đạo các thành viên, các thành viên
tác để giải quyết công việc. không nhất thiết phải hợp tác với nhau
mới có thể hoàn thành nhiệm vụ của họ.
+
+

+ Tập hợp những cá nhân có thực


hiện một mục tiêu chung.Mọi người
phụ thuộc thông tin của nhau. Các
+ Chỉ có sự hợp tác giữa nhà quản lý với
thành viên trong nhóm tương tác với
từng nhân viên riêng lẻ chứ không có sự
nhau và với trưởng nhóm để đạt
hợp tác giữa các nhân viên với nhau.
được mục tiêu chung

->>không có mối quan hệ báo cáo


với nhóm trưởng->>Mối quan hệ ->>>quan hệ báo cáo
trao đổi

—----------------------------------------
- —-----------------------------------------------
+có sự liên kết giữa các phòng ban +Không có sự liên kết với các phòng ban
khác
—---------------------------------------
—----------------------------------------------
+có sự giao tiếp với nhau tốt hơn
+ít có sự giao tiếp
—-----------------------------------------
—---------------------------------------------
+ chức năng đưa ra quyết định do
chính các thành viên thực hiện. +Cấp trên chịu trách nhiệm đưa ra mọi
quyết định quan trọng và hợp nhất nhiều
phần việc khác nhau của các thành viên.
—------------------------------------- —---------------------------------------------
+ cá nhân có các kỹ năng bổ sung + nhu cầu phối hợp trong tổ là rất nhỏ nên
cho nhau tổ có tất cả các kỹ năng cần thiết để đạt
được mục tiêu chung
—----------------------------------------
—-------------------------------------------
+ quyết định của nhóm phản ánh bí
quyết và kinh nghiệm của nhiều
người + nhà quản lý có toàn quyền ra quyết định

—----------------------------------------- —-----------------------------------------------

+những quyết định phù hợp, chính + việc tập trung quyền quyết định vào
xác và khách quan hơn. một người duy nhất có thể là điều mạo
hiểm.
—---------------------------------------
—------------------------------------------
+ Quyết định được đưa ra lập tức
thông qua trao đổi giữa các thành + nhà quản lý phải mất thời gian tập hợp
viên mọi thông tin, hoạt động từ các thành
viên để ra quyết định.
—-----------------------------------------
—----------------------------------------------
+Học hỏi được nhiều kinh nghiệm
+ ít có cơ hội học hỏi

Câu 14: Phân tích Vai trò và kỹ năng cần thiết của người trưởng nhóm

Vai trò
Trưởng nhóm tuy không phải là cấp trên, nhưng lại giữ bốn vai trò quan trọng quyết định
sự thành công của nhóm, đó là: người khởi xướng, người làm gương, người thương thảo
và người huấn luyện. Sau đây chúng ta sẽ cùng tìm hiểu từng vai trò một.

1. Người khởi xướng

Trưởng nhóm khởi xướng mọi hành động của nhóm. Trưởng nhóm phải thu hút và
định hướng những hành động cần thực hiện để hoàn thành các mục tiêu của nhóm. Một
trưởng nhóm cần tìm thấy vị trí thuận lợi để khởi xướng hành động - một vị trí có phần
hơi tách biệt với công việc bình thường của nhóm nhằm quan sát những mối quan hệ giữa
công việc và các mục tiêu cao hơn. Trong khi các thành viên thường chỉ quan tâm đến
việc thực thi nhiệm vụ và giải quyết vấn đề thì trưởng nhóm là người hiểu được những kỳ
vọng của nhà tài trợ, của cấp quản lý cao hơn và các thành phần liên quan đến bên ngoài.
Bằng cách sử dụng bằng chứng và lập luận hợp lý, trưởng nhóm khuyến khích các thành
viên tiến hành những bước đi cần thiết để đáp ứng kỳ vọng đó. Đây là một chức năng
quan trọng, đặc biệt là khi những yêu cầu này lại mâu thuẫn với nguyện vọng cá nhân của
các thành viên trong

2. Người làm gương

Cả nhà quản lý theo phong cách truyền thống lẫn trưởng nhóm đều có thể lấy phong cách
ứng xử của mình để định hình hành vi và hiệu suất hoạt động của người khác. Hành vi
nêu gương của trưởng nhóm là một công cụ quản lý đầy sức thuyết phục. Hành vi đó thiết
lập tiêu chuẩn để những người khác phấn đấu, dù đôi khi chỉ là để tránh cảm giác thiếu
hiệu quả hay thấp kém, tự ti.

3. Người thương thảo

Nhóm có mục tiêu của nhóm, nhưng như vậy thì những nhà quản lý được yêu cầu đóng
góp các nhân viên lành nghề và các nguồn lực khác theo đề nghị của trưởng nhóm lại gặp
khó khăn trong công việc của bộ phận mình. Người trưởng nhóm hiệu quả phải nhận biết
điều này và vận dụng các kỹ năng thương thảo với Nhà điều hành, cũng là nhà tài trợ của
nhóm nhằm đạt được những gì họ cần. Nhà điều hành, cũng là nhà tài trợ của nhóm, có
thể thực hiện việc này dễ dàng hơn bằng cách nói rõ mục tiêu, tầm quan trọng đối với
công ty, các nhà quản lý nên hợp tác vì lợi ích chung. Cách tốt nhất để thương lượng với
người cung cấp nguồn lực là xây dựng tình huống theo cách tích cực. Các nhà quản lý
được yêu cầu giúp đỡ có thể sẽ nhìn nhận tình huống này là một đề xuất với khả năng
“được - mất” ngang nhau. Vì thế, trưởng nhóm, bằng kỹ năng thương lượng của mình, sẽ
đề nghị theo hướng có lợi cho cả đôi bên. Sau đây là sự khác biệt: cuộc thương lượng
được - mất ngang nhau xảy ra khi hai bên cạnh tranh để phân chia một giá trị đã định và
bất cứ điều gì một bên giành được cũng sẽ là tổn thất của bên kia. Trong khi đó, một
cuộc thương lượng đôi bên cùng có lợi có thể xảy ra, khi cả hai bên nhận thấy cơ hội để
cùng nhau đạt được lợi ích. Muốn là một người thương thảo thành công, trưởng nhóm
phải tỏ ra là người đáng tin cậy và lợi ích mà đôi bên sẽ nhận được phải thiết thực.

4. Người huấn luyện

Một trưởng nhóm giỏi sẽ tìm cách giúp đỡ để các thành viên trong nhóm cùng trở nên
xuất sắc. Trong hầu hết các trường hợp, điều này được thực hiện thông qua việc huấn
luyện. Trong một cuốn sách về đề tại làm việc theo nhóm, Richard Hackman đã viết rằng,
việc huấn luyện được xem là đạt kết quả tốt sẽ tác động đến hoạt động của nhóm theo ba
cách: (1) tăng mức độ nỗ lực mà mỗi thành viên đem đến cho công việc của họ; (2) đảm
bảo rằng công việc đã thực hiện là phù hợp; và (3) giúp các thành viên phát huy hết mọi
năng lực của họ.

Huấn luyện là một hoạt động có tính hai chiều, qua đó các bên chia sẻ kiến thức và kinh
nghiệm để tối đa hóa tiềm năng của mỗi thành viên trong nhóm và giúp thành viên đó đạt
được mục tiêu mà nhóm đã thông qua. Đây là nỗ lực chung mà người huấn luyện rất đa
dạng vì nhiều kỹ năng mà các thành viên cần lại là những kỹ năng họ phải học khi bắt
đầu dự án.

Ví dụ, một kỹ sư có chuyên môn kỹ thuật giỏi khi mới được tuyển vào nhóm đã được
giao nhiệm vụ phải chuẩn bị và trình bày một báo cáo về tiến độ công việc cho nhà tài trợ
và ban lãnh đạo. Điều đó nằm ngoài các kỹ năng và kinh nghiệm của anh. Anh phải
nhanh chóng phát triển các kỹ năng thuyết trình để đáp ứng yêu cầu công việc. Lúc này,
sự giúp đỡ của trưởng nhóm với vai trò là người huấn luyện sẽ là giải pháp tốt nhất.

Nếu là trưởng nhóm, bạn và một thành viên nào đó có thể nhất trí tạo lập mối quan hệ
huấn luyện, nếu cả hai tin rằng làm việc với nhau sẽ có thể cải thiện hiệu suất lao động.
Thông qua huấn luyện, bạn có thể giúp những người khác một số việc như:

+Tạo thêm động lực thúc đẩy tinh thần làm việc của các thành viên trong dự án

+Trở lại đúng hướng, nếu các thành viên đang có vấn đề về năng lực thực hiện

+Tối đa hoá các điểm mạnh của cá nhân, chẳng hạn như phát triển các kỹ năng phân tích

+Vượt qua những trở ngại tâm lý của bản thân, chẳng hạn như giảm nỗi sợ hãi phải trực
tiếp làm việc với một thành viên khó tính trong nhóm

+Đạt được các khả năng và kỹ năng mới, chẳng hạn như phụ trách một nhóm đặc biệt

+Khả năng quản lý bản thân hiệu quả hơn, chẳng hạn như cải thiện việc quản lý thời gian

Việc huấn luyện hiệu quả sẽ đem đến cho bạn sự thoả mãn về công việc và tạo động lực
thúc đẩy cao hơn, đồng thời cải thiện mối quan hệ làm việc của bạn với các thành viên
khác trong nhóm, khiến cho công việc của bạn với tư cách trưởng nhóm sẽ dễ dàng và
thành công hơn. Chỉ cần nhớ rằng việc huấn luyện cũng phải mong muốn cải thiện bản
thân, làm việc tốt hơn và phải đón nhận nhiệt tình sự giúp đỡ của bạn.

- Chiêu mộ người tài


- phát huy sức mạnh tập thể, tiềm lực cá nhân
- Trợ giúp cho các thành viên trong nhóm
- Dẫn dắt nhóm tiến bộ

Kỹ năng cần thiết


Tầm nhìn

Kỹ năng đầu tiên chính là biết nhìn xa trông rộng. Không thể mong đợi đội ngũ nhân viên
lớn mạnh mà vắng bóng người lãnh có đạo tầm nhìn mạnh mẽ cho tương lai. Họ sẽ biết
làm thế nào để truyền đạt tầm nhìn của mình cho các thành viên khác và dẫn dắt mọi
người đạt mục tiêu chung.
Kỹ năng quản lý nhân sự trong nhóm

Kỹ năng này có nghĩa là một nhà lãnh đạo nhóm sẽ biết cách làm việc với mọi thành
viên. Họ cần phải động viên mọi người để có thể hoàn thành công việc theo cách tốt nhất.
Nhưng điều quan trọng hơn là người lãnh đạo cần phải có sự hiểu biết về phong cách làm
việc của các thành viên để có cách quản lý phù hợp. Phong cách hành vi khác nhau sẽ
yêu cầu các hành động và phản ứng của các nhà lãnh đạo khác nhau.
Kỹ năng lắng nghe

Tiếp theo là kỹ năng nghe. Bạn không thể mong đợi ở một người lãnh đạo mà không có
kiến thức và thói quen lắng nghe ý kiến của người khác. Lắng nghe trở thành một trong
những chức năng quan trọng nhất của tổ chức hiện đại ngày nay. Lãnh đạo nhóm tốt là
người biết lắng nghe các thành viên trong nhóm để có thể phân tích và đưa ra quyết định.
Kỹ năng tổ chức

Lãnh đạo nhóm cũng cần có kỹ năng tổ chức, bởi vì mỗi thành viên trong nhóm sẽ phải
có trách nhiệm và đóng góp riêng cho công việc chung. Để công việc được phân chia
đồng đều, điều này sẽ phụ thuộc vào kỹ năng tổ chức của nhà lãnh đạo nhóm. Họ sẽ phải
lập kế hoạch nhiệm vụ, phân công, kiểm soát tiến độ công việc …
Kỹ năng quản lý thời gian

Kỹ năng quản lý thời gian cũng là một phần quan trọng trong kỹ năng lãnh đạo nhóm
tổng thể. Bởi vì người quản lý chắc chắn sẽ phải quản lý thời gian của các thành viên
trong nhóm sao cho phù hợp với tiến độ công việc. Kỹ năng quản lý thời gian tốt sẽ làm
tăng năng suất làm việc của nhóm.
-Khả năng định hình hành động cho người khác
-Khả năng giao tiếp tốt
-Khả năng đưa ra và tiếp nhận thông tin phản hồi
-Khả năng làm việc với hiệu suất cao
-Có kinh nghiệm, thái độ tích cực

Câu 15: Trình bày kỹ thuật công não


Công não là một nhóm ý tưởng không hạn chế do một nhóm đưa ra, không có ý kiến phê
bình chỉ trích hay đánh giá để tìm ra những ý tưởng mới. Đối với các công ty hay tổ chức
lớn, quá trình giải quyết vấn đề được tiến hành theo hai nhóm riêng rẽ: phát triển ý tưởng
và đánh giá ý tưởng. Phát triển ý tưởng do những người có trí tưởng tượng phong phú, có
khả năng tư duy trừu tượng, có khả năng khái quát hóa cao đảm nhận. Đánh giá ý tưởng
do những người có óc phân tích, đánh giá sâu sắc và có khả năng phê bình sắc sảo đảm
nhận.
Khi tiến hành cần tuân theo các nguyên tắc cơ bản sau:
+ Loại trừ sự chỉ trích, phê bình: Những người tham gia phải từ bỏ các ý kiến phê bình
trong suốt quá trình tìm và phát triển ý tưởng của nhóm.
+ Duy trì bầu không khí hoàn toàn tự do: Các ý tưởng được đưa ra trong bầu không khí
càng thoải mái tự do, cởi mở càng tốt.
+ Số lượng ý tưởng càng nhiều càng tốt: khi càng có nhiều ý tưởng thì càng có
nhiều khả năng tìm được những giải pháp hữu ích.
+ Kết hợp và phát huy ý tưởng của người khác: Trong quá trình phát triển ý tưởng, thành
viên có thể đưa ra các ý tưởng riêng dựa trên sự phát triển ý tưởng của người khác.
Có một số trạng thái tâm lí thường xuất hiện trong các hoạt động, cần tránh phạm phải
những trạng thái này để không cản trở sự sáng tạo của cá nhân và của toàn nhóm, dưới
đây là một số lời khuyên cần ghi nhớ và thực hiện:
+ Đừng cố tìm một câu trả lời đúng:
+ Đừng luôn cố gắng tuân theo logic:
+ Đừng tuân theo các nguyên tắc một cách cứng nhắc:
+ Đừng quá lệ thuộc vào hiện thực:
+ Đừng cố tránh sự không rõ ràng:
+ Đừng quá lo sợ và cố tránh thất bại:
+ Thêm một chút hồi tưởng:
+ Tránh tình trạng quá biệt lập:
+ Đừn g quá quan trọng hóa vấn đề:
+ Luôn luôn sáng tạo bắt đầu bằng ý tưởng mới:

Câu 16: Cơ sở để Tony Buzan sáng lập ra bản đồ tư duy Mindmap? Trình bày cách
tạo bản đồ tư duy Mindmap bằng chính bản đồ đó?
a) Cơ sở để Tony Buzan sáng lập ra bản đồ tư duy Mindmap?
Ở vị trí trung tâm bản đồ là một hình ảnh hay một từ khóa thể hiện một ý tưởng hay khái
niệm chủ đạo. Ý trung tâm sẽ được nối với các hình ảnh hay từ khóa cấp 1 bằng các
nhánh chính, từ các nhánh chính lại có sự phân nhánh đến các từ khóa cấp 2 để nghiên
cứu sâu hơn. Cứ thế, sự phân nhánh cứ tiếp tục và các khái niệm hay hình ảnh luôn được
nối kết với nhau. Chính sự liên kết này sẽ tạo ra một “bức tranh tổng thể” mô tả về ý
trung tâm một cách đầy đủ và rõ ràng.

b) Trình bày cách tạo bản đồ tư duy Mindmap bằng chính bản đồ đó?
Hướng dẫn làm bản đồ tư duy
Đây là những thành phần cấu tạo nên một bản đồ tư duy, mặc dù chúng có thể
được chỉnh sửa tự do theo ý muốn cá nhân.
Bắt đầu ở trung tâm với một bức ảnh của chủ đề, sử dụng ít nhất 3 màu.
Sử dụng hình ảnh, ký hiệu, mật mã, mũi tên trong bản đồ tư duy của bạn.
Chọn những từ khoá và viết chúng ra bằng chữ viết hoa.
Mỗi từ/hình ảnh phải đứng một mình và trên một dòng riêng.
Những đường thẳng cần phải được kết nối, bắt đầu từ bức ảnh trung tâm. Những
đường nối từ trung tâm dày hơn, có hệ thống và bắt đầu bé dần khi toả ra xa.
Những đường thẳng dài bằng từ/hình ảnh.
Sử dụng màu sắc - mật mã riêng của bạn - trong khắp bản đồ.
Phát huy phong cách cá nhân riêng của bạn.
Sử dụng những điểm nhấn và chỉ ra những mối liên kết trong bản đồ của bạn.
Làm cho bản đồ rõ ràng bằng cách phân cấp các nhánh, sử dụng số thứ tự hoặc
dàn ý để bao quát các nhánh của bản đồ.

Câu 17: Kỹ thuật phân tích SWOT


Mô hình phân tích SWOT là một công cụ hữu dụng được sử dụng nhằm hiểu rõ Điểm
mạnh ( Strengths), Điểm yếu ( Weaknesses), Cơ hội ( Opportunities) và Nguy cơ
( Threats) trong một dự án hoặc tổ chức kinh doanh. Thông qua phân tích SWOT, doanh
nghiệp sẽ nhìn rõ mục tiêu của mình cũng như các yếu tố trong và ngoài tổ chức có thể
ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực tới mục tiêu mà doanh nghiệp đề ra. Trong quá trình
xây dựng kế hoạch chiến lược, phân tích SWOT đóng vai trò là một công cụ căn bản
nhất, hiệu quả cao giúp bạn có cái nhìn tổng thể không chỉ về chính doanh nghiệp mà còn
những yếu tố luôn ảnh hưởng và quyết định tới sự thành công của doanh nghiệp bạn.

SỬ DỤNG SWOT
Phân tích SWOT giúp mang lại cái nhìn sâu sắc về một tổ chức, dự án, hay một hoàn
cảnh do đó phương pháp này đặc biệt hữu ích trong việc ra quyết định, hoạch định chiến
lược và thiết lập kế hoạch. Sau đây hãy cùng xem phân tích SWOT thường được sử dụng
trong những trường hợp cụ thể nào:

● Các buổi họp brainstorming ý tưởng


● Giải quyết vấn đề ( cơ cấu tổ chức, nguồn lực, năng suất lao động, văn hóa doanh
nghiệp v..v)
● Phát triển chiến lược ( cạnh tranh; sản phẩm, công nghệ, thị trường mới v..v)
● Lập kế hoạch
● Ra quyết định
● Đánh giá chất lượng sản phẩm
● Đánh giá đối thủ
● Kế hoạch phát triển bản thân
● …
Khi sử dụng kỹ thuật SWOT này, chúng ta sẽ vẽ ra trên một tờ giấy hoặc trên một
chiếc bảng 4 khu vực được phân chia thành các mục S, W, O, T. Sau đó dùng kỹ thuật
động não (brainstorming) để ghi các ý kiến hoặc nhận xét chủ quan của cá nhân hay
nhóm vào các khu vực tương ứng.
SWOT được trình bày dưới dạng một ma trận gồm 2 hàng 2 cột và chia làm 4 phần.
Mỗi phần tương ứng với những Điểm mạnh (Strengths), Điểm yếu (Weaknesses), Cơ hội
(Opportunities), và Nguy cơ (Threats). Từ hình mô hình trên ta có:

● Điểm mạnh là những tác nhân bên trong doanh nghiệp mang tính tích cực hoặc có
lợi giúp bạn đạt được mục tiêu.
● Điểm yếu là những tác nhân bên trong doanh nghiệp mang tính tiêu cực hoặc gây
khó khăn trong việc đạt được mục tiêu của bạn.
● Cơ hội là những tác nhân bên ngoài doanh nghiệp ( thị trường kinh doanh, xã hội,
chính phủ…) mang tính tích cực hoặc có lợi giúp lợi đạt được mục tiêu.
● Nguy cơ là những tác nhân bên ngoài doanh nghiệp ( thị trường kinh doanh, xã
hội, chính phủ…) mang tính tiêu cực hoặc gây khó khăn trong việc đạt được mục
tiêu của bạn.

Câu 18: Trong mỗi câu nói có thể hàm chứa bao nhiêu tầng lớp nghĩa? Chúng ta
cần chú ý điều gì khi nói?
● Nghĩa của câu bao gồm hai tầng lớp nghĩa: nghĩa sự việc và nghĩa tình thái.
1. Nghĩa sự việc
Nghĩa sự việc còn được gọi là nghĩa miêu tả (hay nghĩa biểu hiện, nghĩa mệnh đề)là
thành phần nghĩa tương ứng với sự việc được đề cập đến ở trong câu. Tức là trong câu đề
cập đến sự việc gì thì nghĩa của câu sẽ tương ứng với sự việc đó.Nó thường được biểu
hiện nhờ các từ ngữ đóng vai trò, chủ ngữ, vị ngữ, trạng ngữ, khởi ngữ và một số thành
phần phụ khác.
a. Câu biểu hiện hành động
Sử dụng các động từ diễn tả hành động (chạy, nhảy, thả, buộc…) kết hợp với thành phần
câu.
Ví dụ: Xuân Tóc Đỏ cắt đặt đâu vào đấy rồi mới xuống chờ những người đi đưa.(Vũ
Trọng Phụng, Số Đỏ)
b. Câu biểu hiện trạng thái, tính chất, đặc điểm
Sử dụng các tính từ, từ ngữ miêu tả ( vui, buồn, giận, hờn, lớn – nhỏ, cao – thấp) kết hợp
với thành phần câu.
Ví dụ: Trời thu xanh ngắt mấy từng cao.
(Nguyễn Khuyến, Vịnh mùa thu)
c. Câu biểu hiện quá trình
Sử dụng từ ngữ biểu hiện quá trình ( đưa, tiễn…) với thành phần câu.
Ví dụ: Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.
(Nguyễn Khuyến, Câu cá mùa thu)
d. Câu biểu hiện tư thế
Sử dụng các từ biểu hiện tư thế (ngồi, đứng, quỳ, chênh vênh…) với thành phần câu.
Ví dụ: Lom khom dưới núi tiều vài chú.
(Bà Huyện Thanh Quan, Qua đèo Ngang)
e. Câu biểu hiện sự tồn tại
Sử dụng các động từ tồn tại ( còn, mất, hết…) kết hợp với thành phần câu.
Ví dụ: Còn tiền, còn bạc, còn đệ tử
Hết cơm, hết rượu, hết ông tôi.
(Nguyễn Bỉnh Khiêm, Thói đời)
Động từ tồn tại: (Còn, hết)
Sự vật tồn tại: (Bạc, tiền, đệ tử, cơm, rượu, ông tôi)
g. Câu biểu hiện quan hệ
Sử dụng từ biểu hiện quan hệ ( là, của, như, để, do…) kết hợp với thành phần câu.
Ví dụ: Đội Tảo là một tay vai vế trong làng.
(Nam Cao, Chí Phèo)
Quan hệ đồng nhất: (là)
2. Nghĩa tình thái
Nghĩa tình thái là Sự nhìn nhận, đánh giá và thái độ của người nói đối với sự việc được
đề cập đến trong câu (phỏng đoán, khẳng định, đánh giá…)hoặc thể hiện tình cảm, thái
độ của người nói với người nghe (kính cẩn, thân mật, hách dịch…).
Nghĩa tình thái có thể biểu hiện một cách rõ ràng bằng các từ ngữ tình thái (thành phần
tình thái). Có trường hợp có thể tách riêng từ ngữ tình thái thành một câu độc lập. Lúc đó
câu chỉ có nghĩa tình thái mà không có nghĩa sự việc.
Ngay cả khi câu không có từ ngữ riêng thể hiện tình thái thì nghĩa tình thái vẫn tồn tại
trong câu. Đó là trường hợp câu có nghĩa tình thái khách quan trung hoà.
a. Sự nhìn nhận, đánh giá và thái độ của người nói đối với sự việc được đề cập đến trong
câu
+ Khẳng định tính chân thực của sự việc
Các từ ngữ biểu hiện gồm: sự thật là, quả là, đúng là, chắc chắn…
Ví dụ: Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ không
phải thuộc địa của Pháp nữa.
+ Phỏng đoán sự việc với độ tin cậy cao hoặc thấp
Gồm các từ như chắc chắn là, hình như, có lẻ, có thể, hình như…
Ví dụ: Mặt trời chắc đã lên cao và nắng bên ngoài chắc là rực rỡ.(Chí Phèo – Nam Cao)
+ Đánh giá về mức độ hay số lượng đối với một phiên diện nào đó của sự việc.
Có các từ như đến, có đến, hơn, chỉ là, cũng là…
Ví dụ: Với lại đêm họ chỉ mua bao diêm hay gói thuốc là cùng.(Hai đứa trẻ – Thạch Lam)
+ Đánh giá về sự việc có thực hay không có thực, đã xảy ra hay chưa xảy ra.
Gồm các từ như giá mà, có lẽ, giá như…
Ví dụ: giá mà hôm nay trời đừng mưa thì tốt.
+ Khẳng định tính tất yếu, sự cần thiết hay khả năng của sự việc.
Các từ ngữ biểu hiện: không thể, phải, cần, nhất định…
Ví dụ: Tao không thể là người lương thiện nữa ( Chí Phèo – Nam Cao)
b. Tình cảm, thái độ của người nói đối với người nghe
+ Tình cảm thân mật, gần gũi
Các từ biểu hiện: mà, nhỉ, nhé, à, ơi…
Ví dụ: Em thắp đèn lên chị Liên nhé ( Hai đứa trẻ – Thạch Lam)
+ Thái độ bực tức, hách dịch
Các từ biểu hiện: kệ mày, mặc xác mày…
Ví dụ: Kệ mày, mày muốn đi đâu thì đi.
+ Thái độ kính cẩn
Gồm các từ như à, bẩm, dạ, thưa…
Ví dụ: Bẩm cụ, có ông Lý đợi ngoài cửa ạ

● những điều cần chú ý khi nói:


1. Nghệ thuật chào hỏi – yếu tố ban đầu ghi điểm trong kỹ năng giao tiếp
Hãy đứng thật thẳng lưng, và gật đầu chào, lưu ý không được cúi quá. Hãy luôn giữ cho
mình nụ cười khi chào hỏi. Tuyệt đối, bạn không cười to quá nhất là lần gặp đầu tiên.
Bạn không phải là người quá thân thiết với đối phương nên đừng quá phô trương sẽ gây
ra sự vô duyên. Sau khi cúi đầu, bạn hãy nhẹ nhàng đưa ra cái bắt tay của mình. Đây là cả
một nghệ thuật. Hãy đưa ra dứt khoát và giữ ở độ cao vừa phải, không thấp quá khiến đối
phương phải cúi cũng không cao quá ngực sẽ gây mất lịch sự. Khi tiếp xúc không giữ tay
đối phương quá chặt và quá lâu.
Bạn có biết, với những người tinh ý, họ có thể đoán biết được tính cách, tác phong của
bạn chỉ với màn chào hỏi này. Kỹ năng giao tiếp lúc này rất cần thiết, các bạn hãy cố
gắng để gây ấn tượng với họ ngay từ lần gặp đầu tiên nhé!
2. Hãy chú ý đến tác phong giao tiếp của chính mình
Nếu bạn và đối tác trao đổi trên bàn làm việc, bạn hãy ngồi thẳng lưng và hướng mặt vào
họ. Khi bắt đầu ngồi xuống, bạn hãy ngồi thật nhẹ nhàng, bình tĩnh, hạn chế đừng gây ra
tiếng động. Khi ngồi, hai chân hãy khép lại, nhất là với phụ nữ, bạn có thể gác chéo chân
lên nhau nhưng tuyệt đối không được để chân mình chạm phải chân đối phương. Đừng
thắc mắc vì điều này đã trở thành quy tắc ngầm. Tư thế ngồi này sẽ tạo cho bạn vẻ lịch
lãm, cứng cáp trong phong cách.
Nếu các bạn đang đứng, hãy đứng thẳng, không cong lưng, ngực căng ra và hóp bụng.
Hai chân phải thẳng, không dạng quá, không khép quá, với nữ giới có thể đứng tư thế
nghỉ một chân. Tuy nhiên, bạn không nên quá gò ép tránh tạo áp lực, cơ thể sẽ không
được thoải mái. Như vậy, sẽ không đạt được hiệu quả cao trong giao tiếp.
3. Luôn luôn chú ý và điều chỉnh giọng nói của mình
Trong kỹ năng giao tiếp hiệu quả, cách ăn nói của bạn luôn là điều mà đối phương dễ
đánh giá nhất. Bạn nói nhanh, nói nhanh bạn sẽ là người vội vàng, hấp tấp. Bạn nói quá
chậm, gây ngắt quãng, nói ậm ừ thì bạn là người thiếu tự tin, thiếu quyết đoán trong công
việc. Vậy nên hãy nói với tốc độ vừa phải, rõ ràng từng câu chữ, nhấn mạnh vào những ý
chính cần truyền đạt tới đối phương.
4. Lưu ý đến cách đưa ra vấn đề của mình
Khi muốn đề cập đến công việc bạn không nên đưa ra vấn đề quá nhanh ngay từ khi vừa
ngồi xuống hay vừa mới bắt tay xong. Tuy nhiên, bạn cũng không nên đề cập đến những
vấn đề ngoài lề gây mất thời gian, gây xao lãng thậm chí là gây khó chịu cho đối tác. Vậy
nên, hãy lựa chọn cách trình bày vấn đề hợp lý nhất có thể. Trong khi trình bày, hãy luôn
giữ thái độ bình tĩnh, không đưa vung tay mạnh gây cho người nghe cảm giác bị ép nghe
chứ không phải đang nói chuyện, giao tiếp.
5. Ngôn ngữ cơ thể là điều luôn cần phải cẩn trọng trong kỹ năng giao tiếp
Bạn sẽ có cảm giác thế nào nếu người đối diện nói chuyện với mình mà người cứ đong
đưa, quay ngược quay ngang, giống như họ không quan tâm đến những gì bạn nói và
cuộc nói chuyện này không quan trọng với họ vậy. Bạn đừng có đưa tay ra mà “chặt”
“chém” vấn đề khi đang nói. Dù bạn có muốn phân tích làm cho người ta hiểu thì cũng
không nên có hành động như vậy.
Có thể họ sẽ lặng yên nghe bạn nói nhưng hiệu quả công việc sẽ không cao. Rất có thể
mục đích của bạn sẽ không đạt được, nhất là khi rơi vào trường hợp bạn cần người ta hơn
là người ta cần bạn thì nên bỏ ngay thói quen này nhé!
6. Cố gắng điều chỉnh ánh mắt khi nói chuyện
Bạn đừng mở to mắt và nhìn thẳng vào đối phương quá lâu. Cũng không nên lảng tránh
ánh mắt của họ bằng cách lơ đãng nhìn đi chỗ khác. Hành động này sẽ tố cáo bạn là
người không tự tin, dễ khiến đối phương khinh thường, đánh giá thấp khả năng của bạn.
Vậy nên hãy cố giữ ánh mắt ở mức bình thường, không mở to quá, không nhìn lên trên
hay nhìn xuống dưới. Hãy thi thoảng nhìn đối phương khi họ trình bày vấn đề. Hãy luôn
giữ ánh mắt thân thiện. Trong kỹ năng giao tiếp, sẽ thật lợi thế khi bạn có đôi mắt biết
cười đó!
7. Đừng giễu cợt khi đối phương nêu ra điểm yếu của họ
Có rất nhiều trường hợp đối phương nói ra những khuyết điểm của mình. Bạn hãy động
viên họ và tuyệt nhiên không được nói đi nói lại điểm yếu đó. Khi họ chịu nói ra điểm
yếu của mình tức là họ đã tin tưởng bạn rất nhiều.Kỹ năng giao tiếp do siêng năng rèn
luyện, học hỏi mà thành. Những bài học đó đến từ cuộc sống xung quanh chúng ta.

Câu 19: Theo em, làm thế nào để lắng nghe đạt hiệu quả?
a. Sử dụng phi ngôn từ trong lắng nghe có hiệu quả
Các yếu tố phi ngôn từ cơ bản sử dụng trong lắng nghe: mắt, nét mặt, cử chỉ, điệu bộ,
dáng...
- Mắt: Tập trung vào người nói một cách nhẹ nhàng, thỉnh thoảng chuyển cái nhìn từ mặt
người nói sang bộ phận khác của cơ thể, ví dụ nhìn vào tay, quần áo...
- Nét mặt: Biểu hiện theo chủ đề câu chuyện, theo tâm trạng người nói...
- Nụ cười: Tự nhiên, chân thành, cởi mở và phải tùy thuộc vào hoàn cảnh.
- Cử chỉ, điệu bộ: Tay không nên khoanh tay trước ngực khi nói chuyện, không nên làm
việc riêng. Nếu vấn đề quan trọng, bạn nên có một cái bút và quyển sổ để ghi lại những gì
người nói. Những cái lắc đầu, gật đầu đúng chỗ sẽ làm người nói nhận thấy bạn tập trung
vào câu chuyện của họ.
- Tư thế: Có vai trò quan trọng trong giao tiếp. Có 3 tư thế chủ yếu: đi, đứng, ngồi. Hạn
chế vừa đi vừa nghe. Trong trường hợp vừa đi vừa nghe thì phải có biểu hiện là bạn vẫn
nghe họ nói. Nên hơi nghiêng người về phía người nói để thể hiện sự quan tâm.
b. Các kỹ năng lắng nghe hiệu quả
● Nghe tích cực, chủ động, tạo ra hứng thú để nghe
Bạn chỉ có thể giao tiếp tốt khi hiểu rõ đối tác cần gì, muốn gì ở bạn, đối tác có nghe thấy
và hiểu được những điều bạn nói hay không. Đặc biệt trong giai đoạn bùng nổ thông tin,
ai có nhiều thông tin hơn người đó sẽ chiến thắng, nên lắng nghe hiệu quả có vai trò vô
cùng quan trọng. Hiểu rõ được điều đó, bạn sẽ hào hứng lắng nghe, đừng chán chường
hay khó chịu, cho dù có gặp phải đối tác trình bày kém cỏi hay rối rắm, dài dòng.
● Những kỹ năng tạo cho đối tác hào hứng nói, để ta hứng thú nghe
- Kỹ năng biểu lộ sự quan tâm
Biểu lộ sự quan tâm của mình đến câu chuyện của đối tác, bạn phải chú ý đến tư thế,
dáng điệu, cách dùng ánh mắt... Sau đây là một số kỹ năng cơ bản:
+ Tạo bầu không khí bình đẳng bằng một tư thế đứng không xa cách, ngang tầm và
đối diện...
+ Sự quan tâm cũng được thể hiện qua những cử chỉ đáp ứng của cơ thể.
- Kỹ năng gợi mở
Nếu bạn muốn thành công, bạn nên gác sang một bên những quan điểm riêng tư và
những cảm nghĩ của bạn bằng cách lắng nghe một cách khách quan. Thỉnh thoảng đặt câu
hỏi để chứng tỏ bạn đang lắng nghe và hiểu rõ vấn đề.
Duy trì một khoảng im lặng đầy quan tâm cũng là cách làm cho đối tác giao tiếp phải lấp
đầy khoảng trống bằng những lời bổ sung, giải thích.
- Kỹ năng phản ánh
Phản ánh là việc người nghe sắp xếp và nêu tóm tắt lại nội dung đối tác vừa trình bày
nhằm làm cho đối tác biết được là mình hiểu họ như thế nào? Có đúng ý họ hay không?
Phương pháp phản ánh chủ yếu nhất là diễn đạt lại, tức nêu lại một cách ngắn gọn những
nội dung đối tác vừa trình bày theo cách hiểu của mình, để đối tác có cơ hội kiểm tra lại
xem bạn có hiểu đúng ý họ không, trên cơ sở đó bổ sung, sửa đổi lại hoặc giải thích cho
rõ nghĩa và chính xác hơn.
● Biết đồng cảm với người nói
Để có thể hiểu rõ vấn đề, người nghe cần phải đồng cảm với những cảm xúc của người
nói. Để tạo ra kết quả tốt trong giao tiếp, mọi người trong cuộc phải đồng cảm với nhau.
● Phải cố gắng ghi chép tóm tắt những gì nghe được, chớ ỷ lại vào trí nhớ của mình
Đây là việc làm có ý nghĩa giúp bạn lắng nghe có hiệu quả, nhất là khi nghe những thông
điệp dài, có nhiều số liệu hoặc có nhiều ý chính.
● Hãy nhớ không thể vừa nghe vừa nói tốt được
Vừa nghe, vừa nói làm người ta bị phân tán tư tưởng, không thể chú tâm vào cả việc nói
lẫn việc nghe. Vì vậy, khi đang cần chăm chú lắng nghe thì không nên nói và ngược lại.
● Cố gắng xác định rõ các mục đích để nghe
Khi có mục đích để nghe, bạn sẽ chú ý tới từng từ, thậm chí cả những cử chỉ không lời,
tăng thêm thông tin mà bạn đang cần. Khi nghe được một câu nào đó hé mở ra điều mình
cần thì bạn có thể xoay quanh điều đó, tập trung nghe, suy nghĩ, phân tích, đưa ra những
câu hỏi phù hợp,... nhờ đó nghe rất hiệu quả.
● Đừng ngắt lời đối tác khi họ đang nói
Bạn hãy bình tĩnh lắng nghe, chờ cho đối tác nói hết, kể cả trường hợp họ thiếu chính
xác, thậm chí nói năng thô lỗ hay xúc phạm đến bạn hoặc công ty bạn. Càng chú ý lắng
nghe, bạn càng có nhiều dữ kiện làm cơ sở cho những câu hỏi hoặc lập luận thuyết phục
của mình về sau.
Đặc biệt trong đàm phán, khi đối tác nóng giận, bực tức, nếu biết lắng nghe, không ngắt
lời đối tác bạn có nhiều cơ hội để đưa cuộc đàm phán đến thành công.
● Cần tránh để không bị xao lãng, phân tán tư tưởng
Trong quá trình lắng nghe, thì cảnh người đi lại nhộn nhịp, tiếng cãi cọ ầm ĩ, cười nói
oang oang, tiếng chuông điện thoại reo,... là những nguyên nhân chủ yếu làm cho người
ta bị xao lãng, phân tán tư tưởng, không thể lắng nghe hiệu quả. Do đó, cần tạo ra môi
trường tập trung cao độ (phòng cách âm, tắt điện thoại di động khi vào phòng họp, khi
đang trong giờ học,...) để có thể nghe tốt.
● Phải biết kiềm chế, đừng tỏ ra nóng giận khi giao tiếp
Hãy luôn nhớ rằng: Khi giận dữ, không những bạn không còn minh mẫn để lắng nghe và
giải quyết vấn đề một cách sáng tạo, mà còn có thể đẩy tình hình đến chỗ tồi tệ hơn. Vì
vậy, mỗi nhà quản trị đều phải rèn luyện bản tính bình tĩnh, điềm đạm. Đây là việc làm
không dễ, đòi hỏi chúng ta phải cố gắng rèn luyện rất nhiều. Nếu rèn luyện thành công
bạn sẽ có thể làm được những việc lớn, giúp ích cho bản thân và xã hội.
● Đừng phản ứng trước những lời tức giận
Sẽ rất nguy hiểm nếu bạn cũng trút trả sự bực tức khi đối phương đang trút nó vào bạn.
Nếu không kiềm chế kết quả sẽ chỉ là cuộc cãi cọ ầm ĩ.
● Đừng bao giờ xúc phạm đối tác giao tiếp
Trong giao tiếp sẽ có những lúc bạn không hài lòng. Trong trường hợp đó, bạn cố gắng
bình tĩnh để tìm ra cách giải quyết phù hợp. Bạn cũng có thể phản ứng lại, hãy luôn nhớ:
chỉ phản ứng lại những câu nói, những vấn đề làm cho bạn không hài lòng, chứ không
được xúc phạm đối tác. Đừng làm cho đối tác mất thể diện.
● Lắng nghe để đánh giá
Cần lắng nghe và hỏi lại cho rõ những thông tin có liên quan đến sự việc hoặc đối tượng
cần đánh giá.
Cần quan tâm đến động cơ của người trình bày.
Đặc biệt chú ý đến phẩm chất của người trình bày.
Kiểm tra chéo để thẩm định lại những thông tin thu thập được.
Cần khách quan trong việc đánh giá, tránh những cảm xúc cảm tính cá nhân.
● Nghe những lời phàn nàn
Chủ động, tích cực lắng nghe những lời phàn nàn. Bằng mọi cách khuyến khích người
trình bày nói ra toàn bộ vụ việc, để có thể hiểu vấn đề một cách toàn diện, cặn kẽ và có
biện pháp khắc phục phù hợp.
Chú ý đến nhân thân, tính cách, động cơ của người đưa ra lời phàn nàn.
Ghi chép lại vắn tắt những lời phàn nàn bằng miệng để có thể hiểu vấn đề một cách chính
xác, có hệ thống, làm cơ sở cho việc đưa ra các giải pháp khắc phục.
Nếu những lời phàn nàn đối tác đưa ra là chính xác, có căn cứ, và bạn cũng đồng ý như
vậy, thì cần thừa nhận.
Những điều bạn không tán đồng thì chớ vội phủ nhận, phản đối. Hãy cho đối tác biết
những việc bạn sẽ làm để khắc phục những tồn tại có liên quan đến lời phàn nàn.
Câu 20: "Nói là bạc, im lặng là vàng, lắng nghe là kim cương. Nêu quan điểm bản
thân em về ý kiến này
Trong cuộc sống hàng ngày, giao tiếp chính là một trong những phương tiện không thể
thiếu giúp con người hiểu nhau và cùng xây dựng xã hội. Thế nhưng cuộc sống không
phải lúc nào cũng hoàn hảo thế nên sẽ không tránh khỏi những lúc chúng ta bất đồng
quan điểm với nhau và xảy ra cãi vã, tệ hơn nữa sau khi xảy ra những cuộc cãi vã thì tình
cảm của cả hai bên đi xuống. Thế nên “im lặng là vàng, nói là bạc, lắng nghe là kim
cương”, thực tế ta có thể nhận thấy giá trị của kim cương lớn hơn nhiều so với vàng và
bạc, kim cương là vật thể vô giá mà thiên nhiên tạo ra, nó mang lại trong mình vẻ đẹp, sự
trong sáng và giá trị vĩ đại. Trong câu nói trên người ta so sánh nói với bạc, im lặng với
vàng và lắng nghe với kim cương, điều này khẳng định giá trị của việc lắng nghe đối với
giao tiếp là vô cùng to lớn. Lắng nghe là một kỹ năng quan trọng và cần thiết trong giao
tiếp. Lắng nghe là một nghệ thuật và cũng là một tặng vật. Epictetus từng nói với người
Hy Lạp rằng “tạo hóa cho chúng ta một cái lưỡi, nhưng đến hai cái tai, vì thế chúng ta
phải lắng nghe gấp hai lần nói”. Những người nghe thật sự là những người đã áp dụng lời
khuyên khôn ngoan này. Lắng nghe một cách hiệu quả chẳng những tiết kiệm thời gian,
hạn chế rắc rối mà còn thắt chặt hơn các mối quan hệ. Trong học tập, kỹ năng nghe tốt rất
cần thiết vì lắng nghe là phương pháp cơ bản để tập hợp thông tin. Khi ta nghe có thể
hiểu và phân tích thông tin điều đó sẽ đem lại những kiến thức, thông tin, nâng cao kỹ
năng giao tiếp cho bản thân. Thực tế cho thấy, bạn chỉ có thể nắm bắt được khoảng 25-
50% những gì mình đã nghe. Khi kỹ năng lắng nghe chưa tốt, việc tiếp nhận và xử lý
thông tin không hiệu quả sẽ có thể đánh mất những cơ hội, những thông tin quan trọng,
những kiến thức không thể tiếp thu….Vì vậy ta có thể thấy những giá trị, hiệu quả của kỹ
năng lắng nghe đem lại là vô cùng to lớn như câu nói “im lặng và vàng, nói là bạc, lắng
nghe là kim cương” đã khẳng định giá trị đó.

Câu 23: Nghiên cứu giáo trình chương kỹ năng lắng nghe và nói, sau đó viết bài thu
hoạch về những điều em thu nhận được. Vận dụng thực tiễn của bản thân em!
● Những điều đã đạt được:
Rèn luyện được kỹ năng lắng nghe sẽ giúp cho con người chủ động hơn trong giao
tiếp, tạo được ấn tượng tốt với người đối diện. Với mục đích mai sau ra trường trở thành
một chuyên gia trong lĩnh vực logistics và quản lý chuỗi cung ứng, bản thân em nhận
thấy cần phải có được các kỹ năng mềm trong đó có kỹ năng lắng nghe và nói. Từ nhận
thức ấy, em cũng đã tìm hiểu và rèn luyện thực hành trong các tình huống giao tiếp hàng
ngày và đã đạt được một số tiến bộ nhất định. Sau đây em sẽ chia sẻ về những điều đã tập
luyện được và hiệu quả của kỹ năng nghe trong giao tiếp:
Thứ nhất, em chú ý nghe toàn bộ nội dung của đối tượng giao tiếp rồi sau đó lọc ra những
ý chính để tiếp cận vấn đề. Nhiều người có thói quen vừa nghe vừa chọn lọc những ý
chính luôn. Thói quen ấy rất tốt, giúp cho người nghe nhanh chóng nắm bắt được vấn đề.
Thế nhưng nếu không quen, nhiều chi tiết sẽ bị lướt qua, khiến cho người nghe khi nghe
xong câu chuyện không thể nắm bắt được hết vấn đề hay bị bỏ sót chi tiết. Hơn nữa, nghe
chọn lọc dễ bị ảnh hưởng bởi ý chí chủ quan của con người, chỉ nghe những điều muốn
nghe, không để ý tới những thông tin khác, đôi khi những thông tin cần thiết lại không
nghe được.
Thứ hai, trong quá trình nghe, em có sử dụng những cử chỉ, hành động để đối tượng giao
tiếp cảm nhận được mình đang rất quan tâm họ nói như gật đầu, giao lưu ánh mắt hay có
những phản hồi bằng cách hỏi lại. Điều này rất có hiệu quả khi nghe đối tượng trình bày.
Khi cảm nhận được mình đang rất chú ý lắng nghe, đối tượng cảm thấy thích nói và chia
sẻ hơn. Nhiều lúc, thấy mình được tôn trọng, người nói sẽ chia sẻ những điều mà họ còn
ngại ngùng khi mới gặp mặt, bổ sung những chi tiết giúp ích cho việc khai thác thông tin.
Thứ ba, sự kiên nhẫn khi lắng nghe có ích rất nhiều trong cuộc hội thoại. Lợi ích dễ nhận
ra nhất chính là người nghe được tôn trọng. Chỉ khi được tôn trọng thì mình mới được tôn
trọng lại, mình tôn trọng họ cũng chính là tôn trọng chính mình. Không ngắt ngang lời
khi đối phương đang nói, không quay đầu sang phía khác hay nhìn đồng hồ… em đã tự
tạo cho mình kỹ năng ấy để tạo được lòng tin của mọi người.
● Những điểm chưa đạt được
Dù đã tìm hiểu, tập luyện nhưng em nhận thấy mình vẫn còn nhiều hạn chế cần
khắc phục. Những hạn chế này khiến em chưa thể hoàn thiện được kỹ năng này.
Thứ nhất, em hay bị ảnh hưởng bởi cảm xúc cá nhân trong quá trình giao tiếp. Khi có
nhiều vấn đề cần giải quyết hay có cảm xúc không tốt, khả năng tập trung lắng nghe của
em bị kém đi rõ rệt. Có thể bên ngoài em vẫn có thái độ tập trung lắng nghe nhưng trong
đầu vẫn nghĩ đến những vấn đề khác nên không thể tiếp thu được vấn đề mà đối phương
đang truyền tải. Điều này em nhận thấy không chỉ riêng bản thân mình mà hầu hết các
bạn sinh viên đang ngồi trên ghế nhà trường như em đều mắc phải. Mất tập trung khi
nghe đã dẫn đến những hệ quả không hay khi giao tiếp, khiến đối phương không có hứng
thú chia sẻ suy nghĩ của họ nữa.
Thứ hai, em thường hay áp đặt ý kiến chủ quan của mình vào đề tài mà cuộc hội thoại
đang hướng tới. Ý kiến chủ quan này nhiều lúc tiêu cực khiến thái độ, phong thái hay
cách nói chuyện trao đổi ngược lại bị ảnh hưởng khá nhiều. Nhiều khi có quá nhiều định
kiến về một vấn đề nên không chịu nghe hết, nghe nhưng với thái độ không hợp tác đã
khiến cho cuộc hội thoại bị gián đoạn hay thông tin chia sẻ không đạt đến được hiệu quả
mong muốn.
● Phương hướng rèn luyện kỹ năng lắng nghe trong quá trình giao tiếp
Nhận ra được những hạn chế của bản thân, em cũng đã đề ra các giải pháp để cải
thiện những hạn chế đó. Hi vọng là một thời gian nữa, sau một quá trình tập luyện, bản
thân sẽ tiến bộ để kỹ năng lắng nghe được cải thiện:
- Gạt bỏ những cảm xúc cá nhân riêng tư trong quá trình giao tiếp, tập trung nghe đối
phương chia sẻ, đặt mình vào vị trí của đối phương để đồng cảm, tam thời quên đi cảm
xúc cá nhân để giao tiếp được tốt hơn .
- Không để những thành kiến tiêu cực, định kiến cá nhân ảnh hưởng đến cuộc hội thoại.
Phải nhận thức rằng một vấn đề cần được tìm hiểu từ nhiều hướng khác nhau, có như
vậy, thông tin minh thu nhận được sẽ khách quan hơn rất nhiều .
- Tạo không khí bình đẳng, cởi mở - cần chú ý đến khoảng cách với đối tượng giao tiếp
tùy theo mối quan hệ. Chú ý không khoanh tay hoặc đút tay túi quần vì những điệu bộ, cử
chỉ nảy biểu hiện sự khép kín, không muốn tham gia giao tiếp.
- Tránh phán xét: hãy lắng nghe chứ đừng can thiệp.
- Lắng nghe một cách thông cảm: Dù người mà mình đang nói chuyện cùng có thể xúc
phạm, thiếu thận trọng, dối trá, tự cho mình là trung tâm hay khoa trương cũng nên nhớ
rằng họ cũng chỉ đơn giản đang cố gắng để tồn tại giống như mình vậy. Tất cả chúng ta
đều có những vấn đề tương tự nhau liên đến cả vật chất và tinh thần nhưng chẳng qua là
một số người có những chiến lược tồn tại tốt hơn những người khác mà thôi. Vì thế, hãy
cứ lắng nghe và cố gắng hiểu cho thái độ của họ khi đó.
- Chú ý lắng nghe và phản hồi một cách thích hợp bằng lời nói , điệu bộ , cử chỉ ...
- Thỉnh thoảng đặt câu hỏi để giúp bạn hiểu thêm vấn đề và chứng tỏ bạn rất quan tâm
đến người đối thoại.
- Kỹ năng phản ảnh lại: Sau khi người đối thoại trình bày một vấn đề nào đó, bạn có thể
diễn đạt lại nội dung đó theo cách hiểu của bạn. Việc phản ánh lại của bạn vừa cho người
đối thoại biết bạn đã hiểu họ như thế nào, có cần giải thích, bổ sung, đính chính gì không,
vừa cho họ thấy là họ được chú ý lắng nghe.
- Đừng chú trọng phong cách của người nói bằng cách hãy tự hỏi bản thân rằng người nói
biết được điều gì mà bạn không biết
- Khách quan lắng nghe để giảm được ảnh hưởng của cảm xúc khi nghe và kiên nhẫn cho
đến khi bạn nghe được toàn bộ thông tin.
- Cuối cùng, hãy lắng nghe bằng cả con tim và khối óc để đạt được những điều mình
muốn.
Kết luận: Giao tiếp không chỉ đơn giản là biết cách nói. Giao tiếp đòi hỏi cả hai kỹ năng
nói và nghe. Lắng nghe và biết cách lắng nghe sẽ giúp con người có thêm lợi thế và gây
thiện cảm với đồng nghiệp, cấp trên, khách hàng... Biết lắng nghe - điều có vẻ đơn giản
nhưng thực ra không phải ai cũng làm được. Vì vậy, mỗi người chúng ta phải rèn luyện
cho mình cách lắng nghe người khác để nâng cao giá trị của mình.
Câu 21. Các cấp độ nghe
Trong giao tiếp, tùy vào hoàn cảnh cụ thể, người gửi và người nhận thông tin cụ thể, sẽ có
các cấp độ nghe khác nhau, bao gồm:
Không nghe: Là sự phớt lờ người đối thoại với mình, không thèm nghe, bỏ ngoài tai tất
cả những gì họ nói.
Ví dụ: Trong quá trình thuyết trình tại trong môn kỹ năng làm việc nhóm trong khi các
nhóm đang thuyết trình một cách rất hay thì các bạn trong lớp lại nói chuyện có những
hành động làm việc riêng không nghe nhóm thuyết trình
ü Nghe giả vờ: trong trường hợp này người đối thoại thật sự không muốn nghe, nhưng vì
sợ hoặc vì phép lịch sự người ta phải giả vờ nghe, nhưng thực sự là không nghe gì cả.
Trường hợp này thường xảy ra khi lời nói của đối tượng thuyết trình không đem lại lợi
ích gì cho người nghe, hoặc trái với mong muốn của người nghe,

Ví dụ: Trong các giờ giảng dạy trên giảng đường nhiều bạn sinh viên vì một số lý do
cảm thấy chán các giảng viên dạy quá nhiều lý thuyết tại lớp và không muốn nghe.
Nhưng vì sợ giảng viên cũng như sợ ảnh hưởng đến việc điểm danh nên các bạn vẫn giả
vờ gật gù như nghe rất hay. Thậm chí là vỗ tay nhưng các bạn lại không quan tâm đến
vấn đề được người đối thoại nói
ü Nghe có chọn lọc: Lúc này người đối thoại chỉ nghe một phần thông tin đối thoại,
những lúc thấy thích, thấy cần thiết thì nghe, những lúc không thích thì bỏ không nghe,
mà tập trung suy nghĩ về việc khác.

Ví dụ: Phần đông các nhà quản trị khi nghe nhân viên cấp dưới báo cáo chọn cách nghe
này, dẫn đến việc nghe không hiệu quả. Các sinh viên có học lực trung bình cũng thường
nghe theo cách này, dẫn đến chỉ nghe được lõm bõm, mang máng, không hệ thống,
không hiểu thấu đáo được bài giảng, vì vậy không thể đạt được kết quả cao.

Cách nghe không tích cực này gây tác hại không nhỏ cho tổ chức. Bởi những bộ phận
tiếp xúc nhiều với công chúng chính là “tai, mắt” của tổ chức, là đầu mối thu thập thông
tin. Nghe không tích cực đồng nghĩa với việc là cho tổ chức bị “điếc” bị “mù”, không
nhận biết được nhu cầu của đối tác, khách hàng, xã hội,... nên không có được những biện
pháp đáp ứng thích hợp, kịp thời, dẫn đến khả năng cạnh tranh của tổ chức sẽ ngày càng
suy giảm.
ü Nghe chăm chú: Là người đối thoại chỉ tập trung sự chú ý và sức lực vào việc nghe,
nhưng vì nghe thụ động nên vẫn chưa đạt được hiệu quả cao.
Ví dụ: Phần lớn sinh viên Việt Nam khi gặp được người thầy giỏi, có khả năng sư phạm,
giảng dạy, sẽ nghe theo cách này. Vì không đọc trước tài liệu, không có kiến thức
chuyên môn, nên sinh viên chỉ thụ động chờ nghe thầy giảng để lĩnh hội ý thầy. Sinh viên
không chịu động não suy nghĩ, không có chính kiến của riêng mình, không trao đổi ý
kiến với thầy
ü Nghe có hiệu quả/nghe thấu cảm: Trong giao tiếp đây là hình thức nghe được đánh
giá cao nhất. Trên cả cấp độ nghe chăm chú, người nghe thấu cảm không chỉ chú ý nghe
mà còn tự đặt mình vào vị trí, tình cảm của người khác để hiểu được họ có cảm nghĩ như
thế nào. Khi nghe thấu cảm bạn sẽ đi sâu vào ý kiến của người khác, qua đó bạn phát
hiện, bạn nhìn cuộc đời theo cách nhìn của người khác, bạn hiểu được tâm tư, tình cảm
của họ. Vì vậy, nghe thấu cảm không đơn thuần chỉ là hiểu từng lời nói của người khác.

EM HIỂU NTN VỀ: “CHÚNG TA KHÔNG CHỈ NGHE BẰNG TAI MÀ CÒN
NGHE BẰNG CẢ CƠ THỂ”

Người ta thường có câu: “Chúng ta không chỉ nghe bằng tai mà còn nghe bằng cả cơ
thể”. Theo em ý kiến này quả thật rất đúng. Thật vậy, cũng giống như trong giao tiếp nếu
như trong giao tiếp chúng ta không chỉ giao tiếp qua ngôn ngữ mà còn giao tiếp quá hành
động, cử chỉ, nét mặt,… thì khi lắng nghe chúng ta cũng sẽ như vậy. Có rất nhiều bạn lầm
tưởng rằng để lắng nghe thật hiệu quả là chúng ta cần phải chăm chú lắng nghe, lắng
nghe một cách thụ động. Tuy nhiên, không phải như vậy lắng nghe là một quá trình vì
vậy trong khi lắng nghe chúng ta cần phải kết hợp nhiều giác quan lại với nhau. Chúng ta
có thể nghe bằng mắt, nghe bằng tai, bằng những hành động cử chỉ: gật gù, …. Điều này
sẽ giúp cho người đối thoại cảm thấy được tôn trọng và hơn hết họ sẽ có thêm năng lượng
để truyền đến nhiều thông tin hơn cho chúng ta
Câu 22. Vai trò của lắng nghe

Trong cuộc sống hàng ngày, biết lắng nghe và hiểu được những điều đối tác nói sẽ giúp
bạn có được những lợi ích sau:
- Thỏa mãn nhu cầu của đối tác. Không có gì chán bằng khi “người nói mà không
có người nghe. Vì vậy, khi bạn lắng nghe người ta nói, chứng tỏ bạn biết tôn trọng người
khác và có thể thỏa mãn nhu cầu tự trọng của anh ta. Chẳng hạn như, trong những buổi
thuyết trình của các nhóm tại lớp. trong lúc các nhóm đang thuyết trình có rất nhiều bạn
không chú ý và không lắng nghe điều này làm các bạn thuyết trình e ngại, mất tự tin và
cảm thấy không được tôn trọng
- Lắng nghe giúp thu thập được nhiều thông tin hơn. Bằng lắng nghe người ta nói,
bạn sẽ có thêm được các thông tin, từ đó có cơ sở mà quyết định. Bạn càng có được nhiều
thông tin thì quyết định của bạn càng chính xác. Trong kinh doanh, khi chúng ta tiếp cận
được nhiều nguồn thông tin về vấn đề chúng ta sẽ có được nhiều góc nhìn, góc độ phân
tích để có thể đưa ra hướng giải quyết cho vấn đề.
- Tạo ra mối quan hệ tốt đẹp với người khác. Khi một người có cảm tình lắng nghe
thì nảy sinh mối quan hệ tốt đẹp. Lắng nghe giúp tình bằng hữu nảy sinh, phát triển và
kết quả là sự hợp tác trong hoạt động.
- Tìm hiểu được người khác một cách tốt hơn. Lắng nghe giúp bạn nắm được tính
cách, tính nết và quan điểm của họ, vì họ sẽ bộc lộ con người trong khi nói.
- Giúp cho người khác có được sự lắng nghe có hiệu quả. Bằng cách tạo dựng một
không khí lắng nghe tốt, bạn sẽ thấy rằng những người đang nói chuyện với bạn trở thành
những người lắng nghe có hiệu quả. Cũng giống như hiệu ứng domino trong 1 buổi
thuyết trình nếu bạn chịu khó lắng nghe người kế bên sẽ cảm giác tò mò từ đó họ sẽ tìm
hiểu và chủ động lắng nghe hơn
- Lắng nghe giúp cho chúng ta giải quyết được nhiều vấn đề. Trong không ít trường
hợp, mâu thuẫn không giải quyết được chỉ vì hai bên không chịu lắng nghe để hiểu nhau.
Bằng sự cởi mở của mình và bằng cách khuyến khích người khác nói, hai bên sẽ phát
hiện ra những nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn và cùng nhau đưa ra những giải pháp để
giải quyết những mâu thuẫn đó.

You might also like