Professional Documents
Culture Documents
Nhap mon nghanh logistics
Nhap mon nghanh logistics
Câu 1: Các quá trình giao tiếp: trao đổi thông tin, nhận thức đánh giá về nhau, gây
ảnh hưởng lẫn nhau
* Quá trình trao đổi thông tin
Quá trình trao đổi thông tin có thể được mô tả một cách đơn giản nhất theo mô hình
sau đây:
Mô hình trên cho thấy quá trình trao đổi thông tin chỉ diễn ra khi có các chủ thể giao
tiếp – người gửi và người nhận. Quá trình này luôn là quá trình hai chiều, trong đó có một
người gửi thông tin, còn người kia nhận, sau khi nhận được thông tin người nhận sẽ phản
hồi. Lúc này, người nhận đóng vai trò người gửi và ngược lại. Trong phần lớn các tình
huống giao tiếp, con người thường đồng thời cùng một lúc vừa là “người gửi” vừa là
“người nhận” thông tin.
Quá trình trao đổi thông tin nêu trên tưởng chừng rất đơn giản nhưng trong thực tế
lại diễn ra rất đa dạng, phong phú, đôi khi rất phức tạp vì phụ thuộc vào nhiều yếu tố,
- Tính cách của người giao tiếp
- Cảm xúc của người giao tiếp vào thời điểm thực hiện quá trình trao đổi thông tin
- Thái độ của người giao tiếp với đối tác của mình
- Kiến thức của người giao tiếp
- Kinh nghiệm của người giao tiếp
Trong điều kiện hội nhập việc giao tiếp còn chịu ảnh hưởng rất lớn bởi sự khác biệt
giữa các nền văn hoá khác nhau – văn hoá dân tộc.
Bên cạnh những tác động theo chiều hướng thuận lợi, sẽ có những tác động theo
chiều hướng gây bất lợi đó là những rào cản (nhiễu) cho quá trình giao tiếp. Những rào
cản (nhiễu) trong giao tiếp là các yếu tố cản trở việc trao đổi thông tin, làm hiểu không
đúng về ý nghĩa của bản thông điệp truyền đi. Có rất nhiều loại rào cản,
- Tiếng ồn
- OMôi trường
- Ngôn ngữ, đặc biệt là khi sử dụng ngoại ngữ,
- Tình cảm/ cảm xúc
- Các mối quan hệ quyền lực quy định kênh truyền thông
- Văn hoá tổ chức
Muốn trao đổi thông tin một cách hiệu quả thì người gửi thông tin phải trả lời thấu
đáo 6 câu hỏi sau đây:
What? Truyền thông tin gì?
Why? Tại sao lại phải truyền thông tin đó?
Who? Đối tượng truyền thông tin là ai? Người đó có trình độ học vấn, văn hoá, tuổi
tác, địa vị, mong muốn,… như thế nào?
When? Việc truyền tin được thực hiện bào khi nào là thích hợp nhất?
Where? Cần truyền tin đến những nơi nào? Ở đâu?
How? Chọn cách truyền tin nào để mang lại hiệu quả mong muốn?
Để nhận tin hiệu quả người nhận thông tin cũng cần trả lời chính xác 6 câu hỏi
sau:
What? Thông tin đối tác truyền đi là gì?
Why? Tại sao họ lại truyền thông tin đó đi?
Who? Ai là người gửi thông tin, những đặc điểm về tính cách, trình độ, sở thích,
mong muốn của người gửi thông tin?
When? Thông tin được gửi khi nào?
Where? Thông tin được chuyển từ đâu?
How? Thông tin được chuyển đi bằng cách nào?
Trong quá trình nhận tin cũng cần tìm hiểu kỹ thái độ, tình cảm của đối tác. Phải
biết đặt mình vào vị trí của họ, phải biết gạt bỏ những mặc cảm, thành kiến, cố gắng tìm
ra những ý đúng, lẽ phải của đối tác. Muốn thế khi nhận tin cần phải biết tự chủ và kiềm
chế cảm xúc của chính mình vì cảm xúc không kiềm chế được thường làm cho người ta
tiếp nhận thông tin sai lệch.
* Quá trình nhận thức
Nhận thức là cơ sở làm nảy sinh tình cảm, sự hiểu biết, gắn bó và phụ thuộc lẫn
nhau giữa các chủ thể giao tiếp.
- Nhận thức người khác
nhận thức người khác là quá trình tri giác những đặc điểm bên ngoài và sự phán
quyết về bản chất bên trong của đối tượng cần nhận thức. Quá trình nhận thức cũng chịu
ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố, như: các yếu tố liên quan đến chủ thể nhận thức (đặc
biệt là các yếu tố của đời sống tâm lý ảnh hưởng rất mạnh đến nhận thức là nhu cầu – tính
lựa chọn, ấn tượng, tâm trạng, tình cảm, trạng thái hưng phấn, hứng thú, những định kiến,
khuôn thước,…); Các yếu tố liên quan đối tượng nhận thức và bối cảnh giao tiếp.
- Nhận thức về bản thân
Tự nhận thức là quá trình trong đó mỗi người xây dựng cho mình một khái niệm/
hình ảnh về bản thân mình. Việc tạo ra hình ảnh bản thân có vai trò rất quan trọng và có
ảnh hưởng quyết định đến hành vi của mỗi người trong quá trình giao tiếp. Cách xử sự
của mỗi người phụ thuộc rất nhiều vào việc họ tự đánh giá bản thân mình như thế nào.
Tóm lại, chỉ khi giao tiếp với người khác, con người mới có thể khám phá đầy
đủ, chính xác về bản thân mình.
Khả năng nhận thức người khác và tự nhận thức về bản thân có mối quan hệ mật
thiết với nhau. Tự nhận thức bản thân càng chính xác phong phú bao nhiêu thì việc nhận
thức người khác càng phong phú, chính xác bấy nhiêu và ngược lại.
* Quá trình tác động qua lại lẫn nhau trong giao tiếp
Trong quá trình này con người tác động gây ảnh hưởng đến đối tác giao tiếp, đồng
thời cũng chịu sự tác động, ảnh hưởng của đối tác. Quá trình tác động, ảnh hưởng lẫn
nhau trong giao tiếp được diễn ra dưới nhiều hình thức, như: lây lan, ám thị, bắt chước,
thuyết phục, áp lực nhóm…
- Sự lây lan tâm lý: Lây lan tâm lý là sự lan truyền từ người này sang người khác về
thái độ, hành vi. Đôi khi cả quan niệm và cách đánh giá… Lây lan tâm lý là hiện tượng
tâm lý xã hội phổ biến diễn ra với tính chất, mức độ, phạm vi khác nhau, phụ thuộc vào
những tình huống xã hội và tình huống tâm lý cụ thể.
- Ám thị: Ám thị là tác động tâm lý tới cá nhân hoặc một nhóm người nhằm làm
cho họ tiếp thu thông tin mà không có sự phê phán. Đó là sự chi phối, làm biến đổi cách
suy nghĩ, thái độ, hành vi của các cá nhân, các nhóm người một cách vô thức bởi sức ép
của một sức mạnh tinh thần vô hình nhưng có thật.
- Thuyết phục: Thuyết phục là sự thông báo, giải thích nhằm mục đích hình thành
hay làm thay đổi các quan điểm, thái độ nào đó. Đây là cách thức quan trọng để hình
thành các quan điểm và thế giới quan của cá nhân. Khác với ám thị, người được thuyết
phục ở trạng thái có ý thức, có sự trao đổi, phê phán.
- Bắt chước: Bắt chước là sự mô phỏng, tái tạo, lặp lại các cử chỉ, hành động, tâm
trạng, cách suy nghĩ, ứng xử của một người hoặc một nhóm người khác.
- Áp lực nhóm: Trong giao tiếp tập thể, phản ứng của một thành viên thường bị chi
phối bởi phản ứng của số đông. Khi đại đa số thành viên trong nhóm đã thống nhất với
nhau về một phản ứng tâm lý nào đó thì những thành viên còn lại cũng có xu hướng chấp
nhận theo phản ứng đó. Có nghĩa là, phản ứng của đa số đã tạo nên áp lực đối với phản
ứng của thiểu số. Biểu hiện đặc biệt của áp lực nhóm tới cá nhân là tính a dua.
+ Khu vực I – Khu vực CHUNG hay còn gọi là khu vực mở tương ứng với những
gì mà chúng ta biết về mình và người khác cũng biết về chúng ta.
+ Khu vực II - khu vực MÙ tương ứng với những gì mà chúng ta không biết được
về mình, nhưng người khác lại biết về chúng ta. Có những cái mà chúng ta không biết về
mình vì người khác không tự nguyện chia sẻ thông tin phản hồi hoặc không giao tiếp với
ta, hoặc có thể là ở đó có những thông tin về hành vi thành lời hoặc không thành lời
nhưng chúng ta không thể hoặc không thèm đếm xỉa đến chúng.
+ Khu vực III - Khu vực RIÊNG tương ứng với những gì mà chỉ chúng ta biết về
mình còn người khác không biết. Nó có thể được coi là riêng vì trong giao tiếp chúng ta
không cởi mở để bộc lộ với người khác.
+ Khu vực IV - Khu vực KHÔNG NHẬN BIẾT tương ứng với những gì mà cả
chúng ta lẫn người khác không biết, thông thường bao gồm lĩnh vực vô thức và tiềm
thức.
Mỗi một khu vực có thể được mở rộng hay bị thu hẹp phụ thuộc chủ yếu vào hai
yếu tố trong giao tiếp, đó là sự phản hồi và tính cởi mở của chúng ta.
Sự phản hồi. Là xu hướng mà người khác sẵn sàng chia sẻ những suy nghĩ, những
đánh giá của họ về chúng ta. Đó là thiện ý cởi mở và nỗ lực của người khác trong việc
phản hồi thích đáng cho chúng ta. Tuy nhiên, đây cũng là xu hướng mà chúng ta cố gắng
lắng nghe người khác nhận xét, đánh giá về mình thông qua những thông tin bằng lời và
những thông tin không bằng lời. Sự phản hồi làm cho khu vực “chung” được mở rộng và
làm cho khu vực “mù” thu hẹp đi.
Sự cởi mở. Là xu hướng mà trong đó chúng ta sẵn sàng chia sẻ những suy nghĩ,
những tình cảm, ước muốn, niềm tin và những phẩm chất tâm lý khác của mình với người
khác. Cởi mở là tự vén bức màn bí ẩn của thế giới tâm hồn mình làm cho người khác có
thể hiểu được mình. Nếu trong giao tiếp mọi người đều cởi mở với nhau thì khu vực
“chung” của mỗi người sẽ được mở rộng, lấn át khu vực “riêng”, làm cho họ hiểu biết
nhau nhiều hơn và xích lại gần nhau hơn.
Câu 5: Các phương tiện giao tiếp: ngôn ngữ và phi ngôn ngữ
Phương tiện giao tiếp là tất cả những yếu tố mà chúng ta dùng để thể hiện thái độ, tình
cảm, mối quan hệ và những tâm lý khác của mình trong một cuộc giao tiếp. Có hai nhóm
chính: ngôn ngữ và phi ngôn ngữ. Giao tiếp ngôn ngữ và giao tiếp phi ngôn ngữ ít khi
tách rời nhau, mà thường bổ sung cho nhau. Trong các mối quan hệ tương đối gần gũi,
thân thiết, giao tiếp phi ngôn ngữ chiếm ưu thế hơn, còn trong các mối quan hệ ít nhiều
có tích chất xã giao thì nó làm nền cho giao tiếp ngôn ngữ.
● Ngôn ngữ
Ngôn là nói. Ngôn ngữ là hệ thống những từ dùng để làm phương tiện giao tiếp. Ngôn
ngữ là phương tiện giao tiếp chủ yếu của con người. Nhờ ngôn ngữ người ta có thể trao
đổi với nhau mọi loại thông tin, như: diễn tả hành động, sự vật, sự việc, trạng thái, tình
cảm, những mong muốn, những suy nghĩ,... Hiệu quả giao tiếp bằng ngôn ngữ phụ thuộc
vào các yếu tố sau:
+ Nội dung của ngôn ngữ:
Tức là ý nghĩa của lời nói, của từ. Khi giao tiếp bằng ngôn ngữ cần tuân thủ các nguyên
tắc: chính xác, rõ ràng, ngắn gọn. Cần cẩn trọng trong việc chọn từ ngữ, cách diễn đạt,
sao cho thể hiện được ý muốn của mình, đồng thời làm cho đối tác giao tiếp không mất
lòng. Người xưa đã có câu: “Uốn lưỡi bảy lần trước khi nói” hay: “Lời nói không mất
tiền mua / Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”
+ Tính chất của ngôn ngữ:
Trong giao tiếp những tính chất của ngôn ngữ như nhịp điệu, âm điệu, ngữ điệu,... cũng
đóng vai trò rất quan trọng. Trong khi nói, chúng ta cần chú ý tới giọng điệu, ngữ điệu.
Lời nói có được rõ ràng, khúc chiết hay không, phụ thuộc nhiều vào cách nhấn giọng.
Nhờ cách nhấn giọng người nói có thể làm cho người nghe chú ý đến những lời nói của
mình. Muốn nhấn giọng cho đúng phải hiểu rõ mình nói những gì và suy nghĩ, đắn đo
từng lời một. Biết nhấn mạnh những lời quan trọng và để những lời nói phụ lướt nhẹ đi.
Hai yếu tố khác có thể thay đổi ý nghĩa của lời nói là cách uốn giọng và ngữ điệu. Trong
lúc nói phải có lúc lên giọng, xuống giọng, lúc nhặt, lúc khoan, lúc nói nhẹ, lúc gằn từng
tiếng thì lời nói mới nổi bật lên. Trước và sau khi nói ra những lời quan trọng phải ngừng
một lúc, để cho người nghe chú ý.
+ Điệu bộ khi nói
Điệu bộ là những cử chỉ của tay chân và vẻ mặt. Có khi vừa nói vừa chỉ, vừa nói vừa nhìn
chằm chằm, vừa nói vừa liếc, vừa vuốt ve, âu yếm... Thường điệu bộ phụ họa theo lời nói
để giúp thêm ý nghĩa cho nó. Tuy nhiên việc sử dụng điệu bộ khi nói cũng phải phù hợp
với phong tục, tập quán, nền văn hóa. Những cử chỉ, điệu bộ tự nhiên là đáng yêu nhất,
đừng gò ép mình bằng cách bắt chước điệu bộ của người này hay người khác.
Cùng với sự phát triển của nhân loại, chữ viết ra đời. Và từ đó, giao tiếp bằng ngôn ngữ
không chỉ giới hạn ở giao tiếp bằng lời nói, mà còn có giao tiếp thông qua chữ viết. Giao
tiếp bằng hình thức lời nói, hay viết đều có những ưu, nhược điểm riêng và sẽ phát huy
tác dụng tốt nếu được sử dụng trong những hoàn cảnh phù hợp.
Giao tiếp bằng hình thức nói sẽ đem lại hiệu quả cao trong các trường hợp sau:
- Cần truyền tin nhanh, gấp.
- Muốn có sự phản hồi ngay lập tức.
- Muốn trực tiếp trao đổi thêm thông tin và ý tưởng với đối tác giao tiếp.
- Khi sử dụng ngữ điệu hay cách diễn đạt bằng điệu bộ có vai trò quan trọng giúp
việc giao tiếp thành công mỹ mãn hơn.
- Khi không cần phải ghi chép văn bản để lại làm bằng chứng.
Còn giao tiếp bằng hình thức viết lại phát huy tác dụng rất tốt trong các trường hợp:
- Thông tin cần được lưu giữ để tham khảo, sử dụng trong tương lai;
- Thông tin (các hợp đồng, thỏa thuận) cần được lưu giữ để làm căn cứ tổ chức thực
hiện, giám sát công việc và giải quyết tranh chấp (nếu có) sau này;
- Thông tin cần được kiểm soát chính xác ngày giờ, địa điểm nhận được thông tin;
- Thông tin phải được giữ bí mật
Khoa học kỹ thuật phát triển, đặc biệt là trong lĩnh vực công nghệ thông tin và viễn
thông, làm xuất hiện thêm nhiều phương tiện giao tiếp mới. Giờ đây, khi tiến hành giao
tiếp người ta có nhiều khả năng lựa chọn hơn. Có thể sử dụng các cách sau đây:
- Mặt đối mặt, thông qua hình thức nói.
- Sử dụng văn bản, thông qua việc viết hoặc in ra giấy.
- Điện thoại
- Fax
- Hộp thư thoại hoặc trung tâm nhắn tin
- Điện thoại truyền hình (dùng phương tiện hiện đại kết nối giọng nói và hình ảnh
để vượt qua khoảng cách không gian).
- Trao đổi thông qua hệ thống máy tính và Internet (mail, chat, đôi khi có cả hình
ảnh)
- Phòng nói chuyện gẫu (giúp duy trì việc thay đổi liên tục đối tác giao tiếp)...
- Kết hợp các hình thức trên.
● Giao tiếp phi ngôn ngữ
Trong giao tiếp chỉ một tỷ lệ những điều hiểu nhau mà chúng ta có được là nhờ nghe qua
lời nói. Các nhà nghiên cứu chỉ ra rằng, trong giao tiếp tác động của từ ngữ chỉ chiếm từ
30 – 40%, phần còn lại là do cách diễn đạt bằng cơ thể, hoặc là giao tiếp không lời qua vẻ
mặt, động tác, dáng điệu và các tín hiệu khác. Việc nghiên cứu phương tiện phi ngôn ngữ
là hết sức quan trọng, giúp chúng ta trở nên nhạy cảm hơn trong giao tiếp.
1) Nét mặt
Trong giao tiếp nét mặt biểu lộ thái độ, cảm xúc của con người. Các công trình nghiên
cứu thống nhất rằng nét mặt của con người biểu lộ sáu cảm xúc: vui mừng, buồn, ngạc
nhiên, sợ hãi, tức giận và ghê tởm. Nét mặt chính là “tấm gương phản chiếu tâm hồn” của
mỗi người. Ngoài tính biểu cảm, nét mặt còn cho ta biết ít nhiều về cá tính con người.
Người có nét mặt căng thẳng thường là người dứt khoát, trực tính; người có nét mặt mềm
mại ở vùng miệng, thì hòa nhã, thân mật, biết vui đùa và dễ thích nghi trong giao tiếp.
2) Nụ cười
Trong giao tiếp người ta có thể dùng nụ cười để biểu lộ tình cảm, thái độ của mình. Con
người có bao nhiêu kiểu cười thì có bấy nhiêu cá tính. Có cái cười tươi tắn, hồn nhiên,
đôn hậu; có cái cười chua chát, miễn cưỡng, đanh ác; có cái cười đồng tình, thông cảm;
nhưng cũng có cái cười chế giễu, khinh bỉ... Mỗi điệu cười đều biểu hiện một thái độ nào
đó, cho nên trong giao tiếp, chúng ta phải tinh nhạy quan sát nụ cười của đối tượng giao
tiếp để biết được lòng dạ của họ, đồng thời phải biết sử dụng nụ cười đúng chỗ, đúng lúc
để gây thiện cảm với đối tác, tạo bầu không khí giao tiếp thoải mái, thân thiện, đem lại
hiệu quả cao.
3) Ánh mắt
Dân gian có câu “đôi mắt là cửa sổ tâm hồn”, bởi lẽ cặp mắt là điểm khởi đầu cho tất cả
mọi nghiên cứu, quan sát, tìm hiểu, qua ánh mắt con người có thể nói lên rất nhiều thứ.
Ánh mắt phản ánh trạng thái cảm xúc, bộc lộ tình cảm, tâm trạng và ước nguyện của con
người ra bên ngoài.
Trong giao tiếp ánh mắt còn đóng vai trò “đồng bộ hóa” câu chuyện, biểu hiện sự chú ý,
tôn trọng, sự đồng tình hay phản đối. Ánh mắt trong giao tiếp cũng phụ thuộc vào vị trí
xã hội của mỗi bên. Người có địa vị xã hội cao hơn (hay tự cho mình là có vai trò cao
hơn) thường nhìn vào mắt của người kia nhiều hơn, kể cả khi nói lẫn khi nghe.
Ánh mắt của một người còn phản ánh cá tính của người đó: Người có óc thực tế thường
có cái nhìn lạnh lùng, người ngay thẳng nhân hậu có cái nhìn thẳng và trực diện, người
nham hiểm đa nghi có cái nhìn soi mói, lục lọi...
4) Các cử chỉ
Các cử chỉ gồm các chuyển động của đầu (gật đầu, lắc đầu,...), của bàn tay (vẫy, chào,
khua tay), của cánh tay... Vận động của chúng có ý nghĩa nhất định trong giao tiếp. Thật
vậy, chuyển động của đầu có thể là “đồng ý” hay “không đồng ý”, của bàn tay là lời mời,
sự từ chối, chống đối hay van xin,...
5) Dáng vẻ
Trong giao tiếp, nhiều khi không phải nhìn kỹ nét mặt mà chỉ cần quan sát dáng vẻ của
đối tác, ta cũng có thể hiểu được trạng thái tâm lý của họ. Ví dụ như: Khi vui vẻ, họ sẽ đi
lại nhanh nhẹn, tung tăng; Khi buồn rầu, đầu cúi thấp, lặng im không nói; Khi hối hận,
chân tay bứt rứt; Khi hạ quyết tâm, miệng mím, tay nắm chặt; Khi hoan nghênh, mở rộng
hai vai, hai tay; Khi không vừa ý, lắc mạnh đầu; Khi trầm tư, chắp tay sau lưng hoặc xoa
cằm, bóp trán...
6) Tư thế
Tư thế cũng là một trong các phương tiện giao tiếp. Nó có liên quan mật thiết với vai trò,
vị trí xã hội của cá nhân. Thường thường, một cách vô thức nó bộc lộ cương vị xã hội mà
cá nhân đang đảm nhận. Ví dụ, tư thế ngồi thoải mái, đầu hơi ngả ra phía sau là tư thế của
bề trên, của lãnh đạo. Tư thế ngồi hơi cúi đầu về phía trước tựa hồ lắng nghe là tư thế của
cấp dưới. Tư thế có vai trò biểu cảm, có thể nhìn thấy qua tư thế trạng thái tinh thần thoải
mái hay căng thẳng. Những tư thế để “mở” tay và chân tựa như tạo điều kiện để tiếp cận,
gần gũi cho người đối thoại, phản ánh một thái độ cởi mở, hòa hợp.
7) Vẻ bề ngoài:
Vẻ bề ngoài bao gồm: y phục, giày dép, trang điểm, trang sức cá nhân, kiểu tóc và mùi…
Ngạn ngữ có câu: “Người đẹp vì lụa”. Nếu trong giao tiếp bạn biết cách ăn mặc đẹp, phù
hợp (chỉn chu về đầu tóc, nét mặt tươi tắn, trang điểm vừa phải, quần áo lịch sự, gọn
gàng, sạch sẽ, phù hợp với bối cảnh giao tiếp), thì sẽ đạt được hiệu quả cao.
Cần lưu ý: vẻ đẹp bề ngoài đã quan trọng, nhưng vẻ đẹp bên trong (tâm hồn, kiến thức,
tình cảm, đạo đức,...) còn quan trọng hơn nhiều. Do đó, cần có sự thống nhất hài hòa giữa
trang phục bên ngoài với vẻ đẹp bên trong. Làm được như vậy, bạn mới có thể thu phục
được lòng ngưỡng mộ thực sự, bền lâu của mọi người và trang phục đẹp mới phát huy
hiệu quả.
8) Khoảng cách
Khoảng cách trong giao tiếp thể hiện mối quan hệ thân sơ, giới tính, vị trí, vai trò và văn
hóa giữa những người tiến hành giao tiếp. Thông thường, người ta xích lại gần các đối tác
mà người ta cảm thấy yêu thích, gần gũi và tránh xa những đối tác gây ra cảm giác xa lạ,
sợ hãi.
Thông thường người ta chia ra thành 4 vùng xung quanh mỗi cá nhân:
Vùng mật thiết (0 – 0,5 mét): vùng này chỉ tồn tại khi có mối quan hệ thân tình với người
khác (cha mẹ, vợ chồng, con cái, người yêu, bạn thân, bà con gần) hoặc khi hai người
đang đánh nhau. Lúc này xúc giác và khứu giác là phương tiện truyền thông quan trọng.
Lời nói có thể chỉ thì thầm.
Vùng riêng tư (0,5 – 1,5 mét): hai người phải rất quen nhau đến mức thấy thoải mái, mặc
dù họ chưa đến mức mật thiết (khoảng cách giữa hai người khi tham dự các buổi tiệc, lúc
làm việc tại các văn phòng, trong các buổi họp mặt bạn bè).
Vùng xã giao (1,5 – 3,5 mét): đây là vùng tiến hành phần lớn các hoạt động kinh doanh,
vì nó hợp với mối quan hệ phi riêng tư, ví dụ giao tiếp giữa người bán hàng với khách
hàng, giữa người chủ nhà với người thợ sửa chữa... Thông thường các sếp cũng giữa
khoảng cách này khi nói chuyện với nhân viên.
Vùng công cộng (> 3,5 mét): là phạm vi tiếp xúc thích hợp với những người xa lạ, ở chốn
đông người vì mục đích công việc, phạm vi mà các chính khách thường dùng trong quan
hệ với công chúng, ví dụ: trong các buổi nói chuyện, thuyết trình, mít tinh...
Những khoảng cách trên có thể xê dịch tùy thuộc vào từng nền văn hóa và đặc biệt,
những người có khả năng giao tiếp giỏi, bằng tình cảm cá nhân sẽ biết cách điều chỉnh
khoảng cách với đối tượng giao tiếp một cách phù hợp với từng hoàn cảnh cụ thể.
9) Những hành vi giao tiếp đặc biệt
Đó là động tác ôm hôn, vỗ vai, xoa đầu, khoác tay, bắt tay... Những phương tiện này gọi
là đặc biệt vì trong những mối quan hệ đặc biệt ta mới sử dụng chúng. Chẳng hạn, không
phải gặp ai ta cũng có thể ôm hôn được; hoặc ở ta, người lớn xoa đầu trẻ con chứ không
được phép ngược lại.
Những cái bắt tay cũng nói lên cá tính và thái độ của hai người đối với nhau: cái bắt tay
mạnh mẽ, khô ráo chứng tỏ con người có cá tính mạnh và nhân cách đáng tin; còn cái bắt
tay ẻo lả, ướt át thuộc về con người yếu đuối và đáng ngờ.
10) Đồ vật
Khi giao tiếp, người ta cũng hay dùng những đồ vật nhất định như: bưu ảnh, bưu thiếp,
hình, tặng hoa, tặng quà, đồ lưu niệm... Tất cả những cái đó cũng đều có ý nghĩa trong
việc thiết lập mối quan hệ, biểu hiện tình cảm, thái độ giữa những người giao tiếp với
nhau.
Để gây tình cảm và những ấn tượng tốt đẹp ở nhân viên, công ty cũng cần tặng quà cho
nhân viên và gia đình họ vào những dịp lễ, tết. Cũng cần phải tặng quà, gửi bưu thiếp
chúc mừng những đối tác làm ăn với mình, những nơi mà mình có các quan hệ khác, vào
những dịp cần thiết, và thường là tặng những sản phẩm của công ty mình để kết hợp mục
đích quảng cáo, giới thiệu sản phẩm.
● Chú ý: phần lớn việc sử dụng các phương tiện phi ngôn ngữ chịu ảnh hưởng rất
lớn của các yếu tố văn hóa, đặc điểm dân tộc, phong tục, tập quán. Chẳng hạn, đối
với người Bungary và Thổ Nhĩ Kỳ lắc đầu là tỏ vẻ đồng ý, còn ở Việt Nam thì
ngược lại. Những người Arập, Mỹ la tinh, Nam Âu thường đứng gần nhau và dùng
ánh mắt nhiều hơn khi nói chuyện. Nhưng ngược lại, những người Ấn Độ,
Pakistan, Nhật Bản, Bắc Âu, thường đứng cách nhau xa hơn và ít đụng chạm, ít
nhìn thẳng vào mắt nhau hơn khi nói chuyện.
Câu 7: Cần chuẩn bị những gì trước khi thuyết trình, giải thích
Chuẩn bị thuyết trình
Không chuẩn bị tức là đã chuẩn bị để đón nhận sự thất bại. Để thuyết trình
thành công, chúng ta luôn phải giải quyết rất nhiều tình huống phát sinh một cách linh
hoạt. Do đó, công tác chuẩn bị càng trở nên quan trọng.
a)Lựa chọn chủ đề và giới hạn các vấn đề thuyết trình:
ta nên chọn chủ đề thính giả muốn nghe; chủ đề mới mang tính thời sự; hoặc chủ
đề ta biết sâu; hoặc thậm chí chủ đề được đối tác đặt hàng với mình. phân tích đối tượng
thuyết trình để lựa chọn chủ đề cho phù hợp với đối tượng nghe cũng như phù hợp với
khả năng của người thuyết trình.
Tránh lan man và không trọng tâm. phân tích xem: Đâu là ý chính, đâu là ý phụ, ý
nào “bắt buộc” phải nói, ý nào “cần nói”, ý nào nên nói.
b) Phân tích thính giả và diễn giả
Phân tích diễn giả và thính giả giúp chúng ta có những giải pháp hữu hiệu cho bài
thuyết trình của mình.“Biết mình, biết người, trăm trận, trăm thắng”.
* Phân tích thính giả (Người nghe)
Càng hiểu về thính giả thì chúng ta càng tự tin thuyết trình, đáp ứng nhu cầu thính
giả. Những thông tin cần thu thập để phân tích thính giả: Tuổi tác, nghề nghiệp, trình độ
học vấn và chuyên môn, vị trí công việc.
Ngoài ra, quy mô người nghe cũng ảnh hưởng đến kết cấu bài thuyết trình. Nếu
chỉ có ít người nghe, bạn có thể trả lời một cách cụ thể, .Nếu có đông người nghe, buổi
thuyết trình phần lớn mang tính một chiều,cần sự rõ ràng, chính xác và dễ hiểu
*Phân tích diễn giả (Người nói):
Hãy đặt những câu hỏi Ta muốn gì? Mong đạt được gì? Quan hệ với thính giả ra
sao? Có thể ảnh hưởng tới thính giả như thế nào? Ta đã am hiểu về vấn đề trình bày
chưa?...Từ đó, ta có thể xác định phương pháp tiếp cận hiệu quả nhất cho bài thuyết trình.
c) Xây dựng nội dung bài thuyết trình
- Số liệu thống kê, hoặc dẫn chứng: Có thể nêu một vài con số về dư nợ và nguồn
vốn để minh họa cho sự lớn mạnh của NHCSXH; hoặc có thể nêu ra một vài nhân chứng
về việc không làm đúng quy trình hướng dẫn gây hậu quả nghiêm trọng.
- Mở đầu bằng cách đặt câu hỏi: Có thể đặt câu hỏi về tỷ lệ nợ xấu của NHCSXH
để mở đầu cho bài giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng
- Mở đầu bằng một câu châm ngôn: Chẳng hạn “ Hãy tiết kiệm từng xu để trở
thành tỷ phú” để mở đầu cho bài tiết kiệm; hoặc “Buôn tàu bán bè không bằng ăn dè tiết
kiệm”; …
- Mở đầu bằng một trò chơi: Trò chơi “Tam sao thất bản” để mở đầu cho bài
thuyết trình.
-Dẫn nhập gây chấn động: Đưa ra một thông báo hoặc thống kê theo cách làm
người khác phải giật mình. Ví dụ: “Các viên chức của chính phủ Mỹ đã giết chết 23 công
dân của mình” có thể được sử dụng để mở đầu một bài diễn văn chống hình phạt xử tử tội
phạm. Kiểu mở đầu này có thể tạo ra một không khí nôn nao, chờ đợi háo hức của những
người tham dự đối với những lý lẽ bạn sắp đưa ra nhằm làm rõ hơn nhận định của mình.
Chú ý: Mỗi cách đều có đặc thù riêng, phù hợp với những nội dung cụ thể khi
thuyết trình. Vì vậy, chúng ta nên vận dụng một cách sáng tạo các cách khác nhau chứ
không có cách nào là tốt nhất và tối ưu cho tất cả các bài cũng như tất cả mọi người. Và
cần lưu ý:
Mở đầu quá dài dễ làm giảm hứng thú của người nghe;
Tránh mở đầu không ăn nhập với chủ đề của bài nói chuyện;
Tránh cách mở đầu thiếu tự tin, bằng những lời biện hộ hoặc bằng lời xin lỗi.
Câu 9: Cần chú ý điều gì để có một phần thân bài hiệu quả?
(1) Lựa chọn nội dung quan trọng để triển khai
- Phần thân của bài thuyết trình cần được thiết kế phù hợp với trình độ
và kinh nghiệm của người nghe, thời gian và bối cảnh của hội
trường.
- Một bài thuyết trình quá ngắn với một khoảng thời gian quá dài là
không phù hợp (giống như lấy đinh đóng guốc để đóng thuyền).
Ngược lại một bài thuyết trình quá dài, nội dung phức tạp trong một
khoảng thời gian quá ngắn cũng không phù hợp (giống như lấy đinh
đóng thuyền để đóng guốc). Vì vậy, muốn có bài thuyết trình hay,
cần có một độ dài và nội dung phù hợp với người nghe.
(2) Có mục tiêu rõ ràng
- Mục tiêu rõ ràng để khán giả nắm được nội dung chính
- Mục tiêu là điểm kết của buổi thuyết trình mà người làm thuyết trình
muốn truyền tải tới khán giả và khi kết thúc thuyết trình đạt được
các mục tiêu đó
(3) Sắp xếp nội dung theo thứ tự logic và nhất quán
- Một bài thuyết trình phải có 3 phần: Phần mở đầu, phần thực hiện,
phần kết thúc.
- Thứ tự nội dung phải đi theo thứ tự nội dung định sẵn
- Nhất quán: Nhất quán về quan điểm, nhất quán về nội dung trình
bày, nhất quán về phương pháp hình thành mục tiêu,...
(4) Chia thành các ý nhỏ để dễ tiếp thu
(5) Phân bổ thời gian hợp lý
(6) Ngoài ra, để có một thân bài hay thì không nên chỉ nói không mà cần kết
hợp chơi trò chơi, tương tác với khán giả.
Câu 10: Tại sao phải kết luận khi Thuyết trình, giải thích?
Câu 11: Cách khắc phục lỗi kỹ thuật khi thuyết trình?
- Những lỗi thông thường khi sử dụng Power Point , LCD Projector và cách
khắc phục:
Câu 13: So sánh mô hình làm việc nhóm và làm việc tổ truyền thống
● · Giống nhau:
+Là tập hợp một nhóm người làm việc chung với nhau, phối hợp giữa các cá thể
nhằm đạt được mục đích đề ra
+Làm việc dưới sự chỉ dẫn, phân công của người đứng đầu (nhóm trưởng)
● · Khác nhau:
+Dưới sự phân công của trưởng +Một nhà quản lý hay giám sát chung sẽ
nhóm, các thành viên cùng nhau hợp chỉ đạo các thành viên, các thành viên
tác để giải quyết công việc. không nhất thiết phải hợp tác với nhau
mới có thể hoàn thành nhiệm vụ của họ.
+
+
—----------------------------------------
- —-----------------------------------------------
+có sự liên kết giữa các phòng ban +Không có sự liên kết với các phòng ban
khác
—---------------------------------------
—----------------------------------------------
+có sự giao tiếp với nhau tốt hơn
+ít có sự giao tiếp
—-----------------------------------------
—---------------------------------------------
+ chức năng đưa ra quyết định do
chính các thành viên thực hiện. +Cấp trên chịu trách nhiệm đưa ra mọi
quyết định quan trọng và hợp nhất nhiều
phần việc khác nhau của các thành viên.
—------------------------------------- —---------------------------------------------
+ cá nhân có các kỹ năng bổ sung + nhu cầu phối hợp trong tổ là rất nhỏ nên
cho nhau tổ có tất cả các kỹ năng cần thiết để đạt
được mục tiêu chung
—----------------------------------------
—-------------------------------------------
+ quyết định của nhóm phản ánh bí
quyết và kinh nghiệm của nhiều
người + nhà quản lý có toàn quyền ra quyết định
—----------------------------------------- —-----------------------------------------------
+những quyết định phù hợp, chính + việc tập trung quyền quyết định vào
xác và khách quan hơn. một người duy nhất có thể là điều mạo
hiểm.
—---------------------------------------
—------------------------------------------
+ Quyết định được đưa ra lập tức
thông qua trao đổi giữa các thành + nhà quản lý phải mất thời gian tập hợp
viên mọi thông tin, hoạt động từ các thành
viên để ra quyết định.
—-----------------------------------------
—----------------------------------------------
+Học hỏi được nhiều kinh nghiệm
+ ít có cơ hội học hỏi
Câu 14: Phân tích Vai trò và kỹ năng cần thiết của người trưởng nhóm
Vai trò
Trưởng nhóm tuy không phải là cấp trên, nhưng lại giữ bốn vai trò quan trọng quyết định
sự thành công của nhóm, đó là: người khởi xướng, người làm gương, người thương thảo
và người huấn luyện. Sau đây chúng ta sẽ cùng tìm hiểu từng vai trò một.
Trưởng nhóm khởi xướng mọi hành động của nhóm. Trưởng nhóm phải thu hút và
định hướng những hành động cần thực hiện để hoàn thành các mục tiêu của nhóm. Một
trưởng nhóm cần tìm thấy vị trí thuận lợi để khởi xướng hành động - một vị trí có phần
hơi tách biệt với công việc bình thường của nhóm nhằm quan sát những mối quan hệ giữa
công việc và các mục tiêu cao hơn. Trong khi các thành viên thường chỉ quan tâm đến
việc thực thi nhiệm vụ và giải quyết vấn đề thì trưởng nhóm là người hiểu được những kỳ
vọng của nhà tài trợ, của cấp quản lý cao hơn và các thành phần liên quan đến bên ngoài.
Bằng cách sử dụng bằng chứng và lập luận hợp lý, trưởng nhóm khuyến khích các thành
viên tiến hành những bước đi cần thiết để đáp ứng kỳ vọng đó. Đây là một chức năng
quan trọng, đặc biệt là khi những yêu cầu này lại mâu thuẫn với nguyện vọng cá nhân của
các thành viên trong
Cả nhà quản lý theo phong cách truyền thống lẫn trưởng nhóm đều có thể lấy phong cách
ứng xử của mình để định hình hành vi và hiệu suất hoạt động của người khác. Hành vi
nêu gương của trưởng nhóm là một công cụ quản lý đầy sức thuyết phục. Hành vi đó thiết
lập tiêu chuẩn để những người khác phấn đấu, dù đôi khi chỉ là để tránh cảm giác thiếu
hiệu quả hay thấp kém, tự ti.
Nhóm có mục tiêu của nhóm, nhưng như vậy thì những nhà quản lý được yêu cầu đóng
góp các nhân viên lành nghề và các nguồn lực khác theo đề nghị của trưởng nhóm lại gặp
khó khăn trong công việc của bộ phận mình. Người trưởng nhóm hiệu quả phải nhận biết
điều này và vận dụng các kỹ năng thương thảo với Nhà điều hành, cũng là nhà tài trợ của
nhóm nhằm đạt được những gì họ cần. Nhà điều hành, cũng là nhà tài trợ của nhóm, có
thể thực hiện việc này dễ dàng hơn bằng cách nói rõ mục tiêu, tầm quan trọng đối với
công ty, các nhà quản lý nên hợp tác vì lợi ích chung. Cách tốt nhất để thương lượng với
người cung cấp nguồn lực là xây dựng tình huống theo cách tích cực. Các nhà quản lý
được yêu cầu giúp đỡ có thể sẽ nhìn nhận tình huống này là một đề xuất với khả năng
“được - mất” ngang nhau. Vì thế, trưởng nhóm, bằng kỹ năng thương lượng của mình, sẽ
đề nghị theo hướng có lợi cho cả đôi bên. Sau đây là sự khác biệt: cuộc thương lượng
được - mất ngang nhau xảy ra khi hai bên cạnh tranh để phân chia một giá trị đã định và
bất cứ điều gì một bên giành được cũng sẽ là tổn thất của bên kia. Trong khi đó, một
cuộc thương lượng đôi bên cùng có lợi có thể xảy ra, khi cả hai bên nhận thấy cơ hội để
cùng nhau đạt được lợi ích. Muốn là một người thương thảo thành công, trưởng nhóm
phải tỏ ra là người đáng tin cậy và lợi ích mà đôi bên sẽ nhận được phải thiết thực.
Một trưởng nhóm giỏi sẽ tìm cách giúp đỡ để các thành viên trong nhóm cùng trở nên
xuất sắc. Trong hầu hết các trường hợp, điều này được thực hiện thông qua việc huấn
luyện. Trong một cuốn sách về đề tại làm việc theo nhóm, Richard Hackman đã viết rằng,
việc huấn luyện được xem là đạt kết quả tốt sẽ tác động đến hoạt động của nhóm theo ba
cách: (1) tăng mức độ nỗ lực mà mỗi thành viên đem đến cho công việc của họ; (2) đảm
bảo rằng công việc đã thực hiện là phù hợp; và (3) giúp các thành viên phát huy hết mọi
năng lực của họ.
Huấn luyện là một hoạt động có tính hai chiều, qua đó các bên chia sẻ kiến thức và kinh
nghiệm để tối đa hóa tiềm năng của mỗi thành viên trong nhóm và giúp thành viên đó đạt
được mục tiêu mà nhóm đã thông qua. Đây là nỗ lực chung mà người huấn luyện rất đa
dạng vì nhiều kỹ năng mà các thành viên cần lại là những kỹ năng họ phải học khi bắt
đầu dự án.
Ví dụ, một kỹ sư có chuyên môn kỹ thuật giỏi khi mới được tuyển vào nhóm đã được
giao nhiệm vụ phải chuẩn bị và trình bày một báo cáo về tiến độ công việc cho nhà tài trợ
và ban lãnh đạo. Điều đó nằm ngoài các kỹ năng và kinh nghiệm của anh. Anh phải
nhanh chóng phát triển các kỹ năng thuyết trình để đáp ứng yêu cầu công việc. Lúc này,
sự giúp đỡ của trưởng nhóm với vai trò là người huấn luyện sẽ là giải pháp tốt nhất.
Nếu là trưởng nhóm, bạn và một thành viên nào đó có thể nhất trí tạo lập mối quan hệ
huấn luyện, nếu cả hai tin rằng làm việc với nhau sẽ có thể cải thiện hiệu suất lao động.
Thông qua huấn luyện, bạn có thể giúp những người khác một số việc như:
+Tạo thêm động lực thúc đẩy tinh thần làm việc của các thành viên trong dự án
+Trở lại đúng hướng, nếu các thành viên đang có vấn đề về năng lực thực hiện
+Tối đa hoá các điểm mạnh của cá nhân, chẳng hạn như phát triển các kỹ năng phân tích
+Vượt qua những trở ngại tâm lý của bản thân, chẳng hạn như giảm nỗi sợ hãi phải trực
tiếp làm việc với một thành viên khó tính trong nhóm
+Đạt được các khả năng và kỹ năng mới, chẳng hạn như phụ trách một nhóm đặc biệt
+Khả năng quản lý bản thân hiệu quả hơn, chẳng hạn như cải thiện việc quản lý thời gian
Việc huấn luyện hiệu quả sẽ đem đến cho bạn sự thoả mãn về công việc và tạo động lực
thúc đẩy cao hơn, đồng thời cải thiện mối quan hệ làm việc của bạn với các thành viên
khác trong nhóm, khiến cho công việc của bạn với tư cách trưởng nhóm sẽ dễ dàng và
thành công hơn. Chỉ cần nhớ rằng việc huấn luyện cũng phải mong muốn cải thiện bản
thân, làm việc tốt hơn và phải đón nhận nhiệt tình sự giúp đỡ của bạn.
Kỹ năng đầu tiên chính là biết nhìn xa trông rộng. Không thể mong đợi đội ngũ nhân viên
lớn mạnh mà vắng bóng người lãnh có đạo tầm nhìn mạnh mẽ cho tương lai. Họ sẽ biết
làm thế nào để truyền đạt tầm nhìn của mình cho các thành viên khác và dẫn dắt mọi
người đạt mục tiêu chung.
Kỹ năng quản lý nhân sự trong nhóm
Kỹ năng này có nghĩa là một nhà lãnh đạo nhóm sẽ biết cách làm việc với mọi thành
viên. Họ cần phải động viên mọi người để có thể hoàn thành công việc theo cách tốt nhất.
Nhưng điều quan trọng hơn là người lãnh đạo cần phải có sự hiểu biết về phong cách làm
việc của các thành viên để có cách quản lý phù hợp. Phong cách hành vi khác nhau sẽ
yêu cầu các hành động và phản ứng của các nhà lãnh đạo khác nhau.
Kỹ năng lắng nghe
Tiếp theo là kỹ năng nghe. Bạn không thể mong đợi ở một người lãnh đạo mà không có
kiến thức và thói quen lắng nghe ý kiến của người khác. Lắng nghe trở thành một trong
những chức năng quan trọng nhất của tổ chức hiện đại ngày nay. Lãnh đạo nhóm tốt là
người biết lắng nghe các thành viên trong nhóm để có thể phân tích và đưa ra quyết định.
Kỹ năng tổ chức
Lãnh đạo nhóm cũng cần có kỹ năng tổ chức, bởi vì mỗi thành viên trong nhóm sẽ phải
có trách nhiệm và đóng góp riêng cho công việc chung. Để công việc được phân chia
đồng đều, điều này sẽ phụ thuộc vào kỹ năng tổ chức của nhà lãnh đạo nhóm. Họ sẽ phải
lập kế hoạch nhiệm vụ, phân công, kiểm soát tiến độ công việc …
Kỹ năng quản lý thời gian
Kỹ năng quản lý thời gian cũng là một phần quan trọng trong kỹ năng lãnh đạo nhóm
tổng thể. Bởi vì người quản lý chắc chắn sẽ phải quản lý thời gian của các thành viên
trong nhóm sao cho phù hợp với tiến độ công việc. Kỹ năng quản lý thời gian tốt sẽ làm
tăng năng suất làm việc của nhóm.
-Khả năng định hình hành động cho người khác
-Khả năng giao tiếp tốt
-Khả năng đưa ra và tiếp nhận thông tin phản hồi
-Khả năng làm việc với hiệu suất cao
-Có kinh nghiệm, thái độ tích cực
Câu 16: Cơ sở để Tony Buzan sáng lập ra bản đồ tư duy Mindmap? Trình bày cách
tạo bản đồ tư duy Mindmap bằng chính bản đồ đó?
a) Cơ sở để Tony Buzan sáng lập ra bản đồ tư duy Mindmap?
Ở vị trí trung tâm bản đồ là một hình ảnh hay một từ khóa thể hiện một ý tưởng hay khái
niệm chủ đạo. Ý trung tâm sẽ được nối với các hình ảnh hay từ khóa cấp 1 bằng các
nhánh chính, từ các nhánh chính lại có sự phân nhánh đến các từ khóa cấp 2 để nghiên
cứu sâu hơn. Cứ thế, sự phân nhánh cứ tiếp tục và các khái niệm hay hình ảnh luôn được
nối kết với nhau. Chính sự liên kết này sẽ tạo ra một “bức tranh tổng thể” mô tả về ý
trung tâm một cách đầy đủ và rõ ràng.
b) Trình bày cách tạo bản đồ tư duy Mindmap bằng chính bản đồ đó?
Hướng dẫn làm bản đồ tư duy
Đây là những thành phần cấu tạo nên một bản đồ tư duy, mặc dù chúng có thể
được chỉnh sửa tự do theo ý muốn cá nhân.
Bắt đầu ở trung tâm với một bức ảnh của chủ đề, sử dụng ít nhất 3 màu.
Sử dụng hình ảnh, ký hiệu, mật mã, mũi tên trong bản đồ tư duy của bạn.
Chọn những từ khoá và viết chúng ra bằng chữ viết hoa.
Mỗi từ/hình ảnh phải đứng một mình và trên một dòng riêng.
Những đường thẳng cần phải được kết nối, bắt đầu từ bức ảnh trung tâm. Những
đường nối từ trung tâm dày hơn, có hệ thống và bắt đầu bé dần khi toả ra xa.
Những đường thẳng dài bằng từ/hình ảnh.
Sử dụng màu sắc - mật mã riêng của bạn - trong khắp bản đồ.
Phát huy phong cách cá nhân riêng của bạn.
Sử dụng những điểm nhấn và chỉ ra những mối liên kết trong bản đồ của bạn.
Làm cho bản đồ rõ ràng bằng cách phân cấp các nhánh, sử dụng số thứ tự hoặc
dàn ý để bao quát các nhánh của bản đồ.
SỬ DỤNG SWOT
Phân tích SWOT giúp mang lại cái nhìn sâu sắc về một tổ chức, dự án, hay một hoàn
cảnh do đó phương pháp này đặc biệt hữu ích trong việc ra quyết định, hoạch định chiến
lược và thiết lập kế hoạch. Sau đây hãy cùng xem phân tích SWOT thường được sử dụng
trong những trường hợp cụ thể nào:
● Điểm mạnh là những tác nhân bên trong doanh nghiệp mang tính tích cực hoặc có
lợi giúp bạn đạt được mục tiêu.
● Điểm yếu là những tác nhân bên trong doanh nghiệp mang tính tiêu cực hoặc gây
khó khăn trong việc đạt được mục tiêu của bạn.
● Cơ hội là những tác nhân bên ngoài doanh nghiệp ( thị trường kinh doanh, xã hội,
chính phủ…) mang tính tích cực hoặc có lợi giúp lợi đạt được mục tiêu.
● Nguy cơ là những tác nhân bên ngoài doanh nghiệp ( thị trường kinh doanh, xã
hội, chính phủ…) mang tính tiêu cực hoặc gây khó khăn trong việc đạt được mục
tiêu của bạn.
Câu 18: Trong mỗi câu nói có thể hàm chứa bao nhiêu tầng lớp nghĩa? Chúng ta
cần chú ý điều gì khi nói?
● Nghĩa của câu bao gồm hai tầng lớp nghĩa: nghĩa sự việc và nghĩa tình thái.
1. Nghĩa sự việc
Nghĩa sự việc còn được gọi là nghĩa miêu tả (hay nghĩa biểu hiện, nghĩa mệnh đề)là
thành phần nghĩa tương ứng với sự việc được đề cập đến ở trong câu. Tức là trong câu đề
cập đến sự việc gì thì nghĩa của câu sẽ tương ứng với sự việc đó.Nó thường được biểu
hiện nhờ các từ ngữ đóng vai trò, chủ ngữ, vị ngữ, trạng ngữ, khởi ngữ và một số thành
phần phụ khác.
a. Câu biểu hiện hành động
Sử dụng các động từ diễn tả hành động (chạy, nhảy, thả, buộc…) kết hợp với thành phần
câu.
Ví dụ: Xuân Tóc Đỏ cắt đặt đâu vào đấy rồi mới xuống chờ những người đi đưa.(Vũ
Trọng Phụng, Số Đỏ)
b. Câu biểu hiện trạng thái, tính chất, đặc điểm
Sử dụng các tính từ, từ ngữ miêu tả ( vui, buồn, giận, hờn, lớn – nhỏ, cao – thấp) kết hợp
với thành phần câu.
Ví dụ: Trời thu xanh ngắt mấy từng cao.
(Nguyễn Khuyến, Vịnh mùa thu)
c. Câu biểu hiện quá trình
Sử dụng từ ngữ biểu hiện quá trình ( đưa, tiễn…) với thành phần câu.
Ví dụ: Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.
(Nguyễn Khuyến, Câu cá mùa thu)
d. Câu biểu hiện tư thế
Sử dụng các từ biểu hiện tư thế (ngồi, đứng, quỳ, chênh vênh…) với thành phần câu.
Ví dụ: Lom khom dưới núi tiều vài chú.
(Bà Huyện Thanh Quan, Qua đèo Ngang)
e. Câu biểu hiện sự tồn tại
Sử dụng các động từ tồn tại ( còn, mất, hết…) kết hợp với thành phần câu.
Ví dụ: Còn tiền, còn bạc, còn đệ tử
Hết cơm, hết rượu, hết ông tôi.
(Nguyễn Bỉnh Khiêm, Thói đời)
Động từ tồn tại: (Còn, hết)
Sự vật tồn tại: (Bạc, tiền, đệ tử, cơm, rượu, ông tôi)
g. Câu biểu hiện quan hệ
Sử dụng từ biểu hiện quan hệ ( là, của, như, để, do…) kết hợp với thành phần câu.
Ví dụ: Đội Tảo là một tay vai vế trong làng.
(Nam Cao, Chí Phèo)
Quan hệ đồng nhất: (là)
2. Nghĩa tình thái
Nghĩa tình thái là Sự nhìn nhận, đánh giá và thái độ của người nói đối với sự việc được
đề cập đến trong câu (phỏng đoán, khẳng định, đánh giá…)hoặc thể hiện tình cảm, thái
độ của người nói với người nghe (kính cẩn, thân mật, hách dịch…).
Nghĩa tình thái có thể biểu hiện một cách rõ ràng bằng các từ ngữ tình thái (thành phần
tình thái). Có trường hợp có thể tách riêng từ ngữ tình thái thành một câu độc lập. Lúc đó
câu chỉ có nghĩa tình thái mà không có nghĩa sự việc.
Ngay cả khi câu không có từ ngữ riêng thể hiện tình thái thì nghĩa tình thái vẫn tồn tại
trong câu. Đó là trường hợp câu có nghĩa tình thái khách quan trung hoà.
a. Sự nhìn nhận, đánh giá và thái độ của người nói đối với sự việc được đề cập đến trong
câu
+ Khẳng định tính chân thực của sự việc
Các từ ngữ biểu hiện gồm: sự thật là, quả là, đúng là, chắc chắn…
Ví dụ: Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ không
phải thuộc địa của Pháp nữa.
+ Phỏng đoán sự việc với độ tin cậy cao hoặc thấp
Gồm các từ như chắc chắn là, hình như, có lẻ, có thể, hình như…
Ví dụ: Mặt trời chắc đã lên cao và nắng bên ngoài chắc là rực rỡ.(Chí Phèo – Nam Cao)
+ Đánh giá về mức độ hay số lượng đối với một phiên diện nào đó của sự việc.
Có các từ như đến, có đến, hơn, chỉ là, cũng là…
Ví dụ: Với lại đêm họ chỉ mua bao diêm hay gói thuốc là cùng.(Hai đứa trẻ – Thạch Lam)
+ Đánh giá về sự việc có thực hay không có thực, đã xảy ra hay chưa xảy ra.
Gồm các từ như giá mà, có lẽ, giá như…
Ví dụ: giá mà hôm nay trời đừng mưa thì tốt.
+ Khẳng định tính tất yếu, sự cần thiết hay khả năng của sự việc.
Các từ ngữ biểu hiện: không thể, phải, cần, nhất định…
Ví dụ: Tao không thể là người lương thiện nữa ( Chí Phèo – Nam Cao)
b. Tình cảm, thái độ của người nói đối với người nghe
+ Tình cảm thân mật, gần gũi
Các từ biểu hiện: mà, nhỉ, nhé, à, ơi…
Ví dụ: Em thắp đèn lên chị Liên nhé ( Hai đứa trẻ – Thạch Lam)
+ Thái độ bực tức, hách dịch
Các từ biểu hiện: kệ mày, mặc xác mày…
Ví dụ: Kệ mày, mày muốn đi đâu thì đi.
+ Thái độ kính cẩn
Gồm các từ như à, bẩm, dạ, thưa…
Ví dụ: Bẩm cụ, có ông Lý đợi ngoài cửa ạ
Câu 19: Theo em, làm thế nào để lắng nghe đạt hiệu quả?
a. Sử dụng phi ngôn từ trong lắng nghe có hiệu quả
Các yếu tố phi ngôn từ cơ bản sử dụng trong lắng nghe: mắt, nét mặt, cử chỉ, điệu bộ,
dáng...
- Mắt: Tập trung vào người nói một cách nhẹ nhàng, thỉnh thoảng chuyển cái nhìn từ mặt
người nói sang bộ phận khác của cơ thể, ví dụ nhìn vào tay, quần áo...
- Nét mặt: Biểu hiện theo chủ đề câu chuyện, theo tâm trạng người nói...
- Nụ cười: Tự nhiên, chân thành, cởi mở và phải tùy thuộc vào hoàn cảnh.
- Cử chỉ, điệu bộ: Tay không nên khoanh tay trước ngực khi nói chuyện, không nên làm
việc riêng. Nếu vấn đề quan trọng, bạn nên có một cái bút và quyển sổ để ghi lại những gì
người nói. Những cái lắc đầu, gật đầu đúng chỗ sẽ làm người nói nhận thấy bạn tập trung
vào câu chuyện của họ.
- Tư thế: Có vai trò quan trọng trong giao tiếp. Có 3 tư thế chủ yếu: đi, đứng, ngồi. Hạn
chế vừa đi vừa nghe. Trong trường hợp vừa đi vừa nghe thì phải có biểu hiện là bạn vẫn
nghe họ nói. Nên hơi nghiêng người về phía người nói để thể hiện sự quan tâm.
b. Các kỹ năng lắng nghe hiệu quả
● Nghe tích cực, chủ động, tạo ra hứng thú để nghe
Bạn chỉ có thể giao tiếp tốt khi hiểu rõ đối tác cần gì, muốn gì ở bạn, đối tác có nghe thấy
và hiểu được những điều bạn nói hay không. Đặc biệt trong giai đoạn bùng nổ thông tin,
ai có nhiều thông tin hơn người đó sẽ chiến thắng, nên lắng nghe hiệu quả có vai trò vô
cùng quan trọng. Hiểu rõ được điều đó, bạn sẽ hào hứng lắng nghe, đừng chán chường
hay khó chịu, cho dù có gặp phải đối tác trình bày kém cỏi hay rối rắm, dài dòng.
● Những kỹ năng tạo cho đối tác hào hứng nói, để ta hứng thú nghe
- Kỹ năng biểu lộ sự quan tâm
Biểu lộ sự quan tâm của mình đến câu chuyện của đối tác, bạn phải chú ý đến tư thế,
dáng điệu, cách dùng ánh mắt... Sau đây là một số kỹ năng cơ bản:
+ Tạo bầu không khí bình đẳng bằng một tư thế đứng không xa cách, ngang tầm và
đối diện...
+ Sự quan tâm cũng được thể hiện qua những cử chỉ đáp ứng của cơ thể.
- Kỹ năng gợi mở
Nếu bạn muốn thành công, bạn nên gác sang một bên những quan điểm riêng tư và
những cảm nghĩ của bạn bằng cách lắng nghe một cách khách quan. Thỉnh thoảng đặt câu
hỏi để chứng tỏ bạn đang lắng nghe và hiểu rõ vấn đề.
Duy trì một khoảng im lặng đầy quan tâm cũng là cách làm cho đối tác giao tiếp phải lấp
đầy khoảng trống bằng những lời bổ sung, giải thích.
- Kỹ năng phản ánh
Phản ánh là việc người nghe sắp xếp và nêu tóm tắt lại nội dung đối tác vừa trình bày
nhằm làm cho đối tác biết được là mình hiểu họ như thế nào? Có đúng ý họ hay không?
Phương pháp phản ánh chủ yếu nhất là diễn đạt lại, tức nêu lại một cách ngắn gọn những
nội dung đối tác vừa trình bày theo cách hiểu của mình, để đối tác có cơ hội kiểm tra lại
xem bạn có hiểu đúng ý họ không, trên cơ sở đó bổ sung, sửa đổi lại hoặc giải thích cho
rõ nghĩa và chính xác hơn.
● Biết đồng cảm với người nói
Để có thể hiểu rõ vấn đề, người nghe cần phải đồng cảm với những cảm xúc của người
nói. Để tạo ra kết quả tốt trong giao tiếp, mọi người trong cuộc phải đồng cảm với nhau.
● Phải cố gắng ghi chép tóm tắt những gì nghe được, chớ ỷ lại vào trí nhớ của mình
Đây là việc làm có ý nghĩa giúp bạn lắng nghe có hiệu quả, nhất là khi nghe những thông
điệp dài, có nhiều số liệu hoặc có nhiều ý chính.
● Hãy nhớ không thể vừa nghe vừa nói tốt được
Vừa nghe, vừa nói làm người ta bị phân tán tư tưởng, không thể chú tâm vào cả việc nói
lẫn việc nghe. Vì vậy, khi đang cần chăm chú lắng nghe thì không nên nói và ngược lại.
● Cố gắng xác định rõ các mục đích để nghe
Khi có mục đích để nghe, bạn sẽ chú ý tới từng từ, thậm chí cả những cử chỉ không lời,
tăng thêm thông tin mà bạn đang cần. Khi nghe được một câu nào đó hé mở ra điều mình
cần thì bạn có thể xoay quanh điều đó, tập trung nghe, suy nghĩ, phân tích, đưa ra những
câu hỏi phù hợp,... nhờ đó nghe rất hiệu quả.
● Đừng ngắt lời đối tác khi họ đang nói
Bạn hãy bình tĩnh lắng nghe, chờ cho đối tác nói hết, kể cả trường hợp họ thiếu chính
xác, thậm chí nói năng thô lỗ hay xúc phạm đến bạn hoặc công ty bạn. Càng chú ý lắng
nghe, bạn càng có nhiều dữ kiện làm cơ sở cho những câu hỏi hoặc lập luận thuyết phục
của mình về sau.
Đặc biệt trong đàm phán, khi đối tác nóng giận, bực tức, nếu biết lắng nghe, không ngắt
lời đối tác bạn có nhiều cơ hội để đưa cuộc đàm phán đến thành công.
● Cần tránh để không bị xao lãng, phân tán tư tưởng
Trong quá trình lắng nghe, thì cảnh người đi lại nhộn nhịp, tiếng cãi cọ ầm ĩ, cười nói
oang oang, tiếng chuông điện thoại reo,... là những nguyên nhân chủ yếu làm cho người
ta bị xao lãng, phân tán tư tưởng, không thể lắng nghe hiệu quả. Do đó, cần tạo ra môi
trường tập trung cao độ (phòng cách âm, tắt điện thoại di động khi vào phòng họp, khi
đang trong giờ học,...) để có thể nghe tốt.
● Phải biết kiềm chế, đừng tỏ ra nóng giận khi giao tiếp
Hãy luôn nhớ rằng: Khi giận dữ, không những bạn không còn minh mẫn để lắng nghe và
giải quyết vấn đề một cách sáng tạo, mà còn có thể đẩy tình hình đến chỗ tồi tệ hơn. Vì
vậy, mỗi nhà quản trị đều phải rèn luyện bản tính bình tĩnh, điềm đạm. Đây là việc làm
không dễ, đòi hỏi chúng ta phải cố gắng rèn luyện rất nhiều. Nếu rèn luyện thành công
bạn sẽ có thể làm được những việc lớn, giúp ích cho bản thân và xã hội.
● Đừng phản ứng trước những lời tức giận
Sẽ rất nguy hiểm nếu bạn cũng trút trả sự bực tức khi đối phương đang trút nó vào bạn.
Nếu không kiềm chế kết quả sẽ chỉ là cuộc cãi cọ ầm ĩ.
● Đừng bao giờ xúc phạm đối tác giao tiếp
Trong giao tiếp sẽ có những lúc bạn không hài lòng. Trong trường hợp đó, bạn cố gắng
bình tĩnh để tìm ra cách giải quyết phù hợp. Bạn cũng có thể phản ứng lại, hãy luôn nhớ:
chỉ phản ứng lại những câu nói, những vấn đề làm cho bạn không hài lòng, chứ không
được xúc phạm đối tác. Đừng làm cho đối tác mất thể diện.
● Lắng nghe để đánh giá
Cần lắng nghe và hỏi lại cho rõ những thông tin có liên quan đến sự việc hoặc đối tượng
cần đánh giá.
Cần quan tâm đến động cơ của người trình bày.
Đặc biệt chú ý đến phẩm chất của người trình bày.
Kiểm tra chéo để thẩm định lại những thông tin thu thập được.
Cần khách quan trong việc đánh giá, tránh những cảm xúc cảm tính cá nhân.
● Nghe những lời phàn nàn
Chủ động, tích cực lắng nghe những lời phàn nàn. Bằng mọi cách khuyến khích người
trình bày nói ra toàn bộ vụ việc, để có thể hiểu vấn đề một cách toàn diện, cặn kẽ và có
biện pháp khắc phục phù hợp.
Chú ý đến nhân thân, tính cách, động cơ của người đưa ra lời phàn nàn.
Ghi chép lại vắn tắt những lời phàn nàn bằng miệng để có thể hiểu vấn đề một cách chính
xác, có hệ thống, làm cơ sở cho việc đưa ra các giải pháp khắc phục.
Nếu những lời phàn nàn đối tác đưa ra là chính xác, có căn cứ, và bạn cũng đồng ý như
vậy, thì cần thừa nhận.
Những điều bạn không tán đồng thì chớ vội phủ nhận, phản đối. Hãy cho đối tác biết
những việc bạn sẽ làm để khắc phục những tồn tại có liên quan đến lời phàn nàn.
Câu 20: "Nói là bạc, im lặng là vàng, lắng nghe là kim cương. Nêu quan điểm bản
thân em về ý kiến này
Trong cuộc sống hàng ngày, giao tiếp chính là một trong những phương tiện không thể
thiếu giúp con người hiểu nhau và cùng xây dựng xã hội. Thế nhưng cuộc sống không
phải lúc nào cũng hoàn hảo thế nên sẽ không tránh khỏi những lúc chúng ta bất đồng
quan điểm với nhau và xảy ra cãi vã, tệ hơn nữa sau khi xảy ra những cuộc cãi vã thì tình
cảm của cả hai bên đi xuống. Thế nên “im lặng là vàng, nói là bạc, lắng nghe là kim
cương”, thực tế ta có thể nhận thấy giá trị của kim cương lớn hơn nhiều so với vàng và
bạc, kim cương là vật thể vô giá mà thiên nhiên tạo ra, nó mang lại trong mình vẻ đẹp, sự
trong sáng và giá trị vĩ đại. Trong câu nói trên người ta so sánh nói với bạc, im lặng với
vàng và lắng nghe với kim cương, điều này khẳng định giá trị của việc lắng nghe đối với
giao tiếp là vô cùng to lớn. Lắng nghe là một kỹ năng quan trọng và cần thiết trong giao
tiếp. Lắng nghe là một nghệ thuật và cũng là một tặng vật. Epictetus từng nói với người
Hy Lạp rằng “tạo hóa cho chúng ta một cái lưỡi, nhưng đến hai cái tai, vì thế chúng ta
phải lắng nghe gấp hai lần nói”. Những người nghe thật sự là những người đã áp dụng lời
khuyên khôn ngoan này. Lắng nghe một cách hiệu quả chẳng những tiết kiệm thời gian,
hạn chế rắc rối mà còn thắt chặt hơn các mối quan hệ. Trong học tập, kỹ năng nghe tốt rất
cần thiết vì lắng nghe là phương pháp cơ bản để tập hợp thông tin. Khi ta nghe có thể
hiểu và phân tích thông tin điều đó sẽ đem lại những kiến thức, thông tin, nâng cao kỹ
năng giao tiếp cho bản thân. Thực tế cho thấy, bạn chỉ có thể nắm bắt được khoảng 25-
50% những gì mình đã nghe. Khi kỹ năng lắng nghe chưa tốt, việc tiếp nhận và xử lý
thông tin không hiệu quả sẽ có thể đánh mất những cơ hội, những thông tin quan trọng,
những kiến thức không thể tiếp thu….Vì vậy ta có thể thấy những giá trị, hiệu quả của kỹ
năng lắng nghe đem lại là vô cùng to lớn như câu nói “im lặng và vàng, nói là bạc, lắng
nghe là kim cương” đã khẳng định giá trị đó.
Câu 23: Nghiên cứu giáo trình chương kỹ năng lắng nghe và nói, sau đó viết bài thu
hoạch về những điều em thu nhận được. Vận dụng thực tiễn của bản thân em!
● Những điều đã đạt được:
Rèn luyện được kỹ năng lắng nghe sẽ giúp cho con người chủ động hơn trong giao
tiếp, tạo được ấn tượng tốt với người đối diện. Với mục đích mai sau ra trường trở thành
một chuyên gia trong lĩnh vực logistics và quản lý chuỗi cung ứng, bản thân em nhận
thấy cần phải có được các kỹ năng mềm trong đó có kỹ năng lắng nghe và nói. Từ nhận
thức ấy, em cũng đã tìm hiểu và rèn luyện thực hành trong các tình huống giao tiếp hàng
ngày và đã đạt được một số tiến bộ nhất định. Sau đây em sẽ chia sẻ về những điều đã tập
luyện được và hiệu quả của kỹ năng nghe trong giao tiếp:
Thứ nhất, em chú ý nghe toàn bộ nội dung của đối tượng giao tiếp rồi sau đó lọc ra những
ý chính để tiếp cận vấn đề. Nhiều người có thói quen vừa nghe vừa chọn lọc những ý
chính luôn. Thói quen ấy rất tốt, giúp cho người nghe nhanh chóng nắm bắt được vấn đề.
Thế nhưng nếu không quen, nhiều chi tiết sẽ bị lướt qua, khiến cho người nghe khi nghe
xong câu chuyện không thể nắm bắt được hết vấn đề hay bị bỏ sót chi tiết. Hơn nữa, nghe
chọn lọc dễ bị ảnh hưởng bởi ý chí chủ quan của con người, chỉ nghe những điều muốn
nghe, không để ý tới những thông tin khác, đôi khi những thông tin cần thiết lại không
nghe được.
Thứ hai, trong quá trình nghe, em có sử dụng những cử chỉ, hành động để đối tượng giao
tiếp cảm nhận được mình đang rất quan tâm họ nói như gật đầu, giao lưu ánh mắt hay có
những phản hồi bằng cách hỏi lại. Điều này rất có hiệu quả khi nghe đối tượng trình bày.
Khi cảm nhận được mình đang rất chú ý lắng nghe, đối tượng cảm thấy thích nói và chia
sẻ hơn. Nhiều lúc, thấy mình được tôn trọng, người nói sẽ chia sẻ những điều mà họ còn
ngại ngùng khi mới gặp mặt, bổ sung những chi tiết giúp ích cho việc khai thác thông tin.
Thứ ba, sự kiên nhẫn khi lắng nghe có ích rất nhiều trong cuộc hội thoại. Lợi ích dễ nhận
ra nhất chính là người nghe được tôn trọng. Chỉ khi được tôn trọng thì mình mới được tôn
trọng lại, mình tôn trọng họ cũng chính là tôn trọng chính mình. Không ngắt ngang lời
khi đối phương đang nói, không quay đầu sang phía khác hay nhìn đồng hồ… em đã tự
tạo cho mình kỹ năng ấy để tạo được lòng tin của mọi người.
● Những điểm chưa đạt được
Dù đã tìm hiểu, tập luyện nhưng em nhận thấy mình vẫn còn nhiều hạn chế cần
khắc phục. Những hạn chế này khiến em chưa thể hoàn thiện được kỹ năng này.
Thứ nhất, em hay bị ảnh hưởng bởi cảm xúc cá nhân trong quá trình giao tiếp. Khi có
nhiều vấn đề cần giải quyết hay có cảm xúc không tốt, khả năng tập trung lắng nghe của
em bị kém đi rõ rệt. Có thể bên ngoài em vẫn có thái độ tập trung lắng nghe nhưng trong
đầu vẫn nghĩ đến những vấn đề khác nên không thể tiếp thu được vấn đề mà đối phương
đang truyền tải. Điều này em nhận thấy không chỉ riêng bản thân mình mà hầu hết các
bạn sinh viên đang ngồi trên ghế nhà trường như em đều mắc phải. Mất tập trung khi
nghe đã dẫn đến những hệ quả không hay khi giao tiếp, khiến đối phương không có hứng
thú chia sẻ suy nghĩ của họ nữa.
Thứ hai, em thường hay áp đặt ý kiến chủ quan của mình vào đề tài mà cuộc hội thoại
đang hướng tới. Ý kiến chủ quan này nhiều lúc tiêu cực khiến thái độ, phong thái hay
cách nói chuyện trao đổi ngược lại bị ảnh hưởng khá nhiều. Nhiều khi có quá nhiều định
kiến về một vấn đề nên không chịu nghe hết, nghe nhưng với thái độ không hợp tác đã
khiến cho cuộc hội thoại bị gián đoạn hay thông tin chia sẻ không đạt đến được hiệu quả
mong muốn.
● Phương hướng rèn luyện kỹ năng lắng nghe trong quá trình giao tiếp
Nhận ra được những hạn chế của bản thân, em cũng đã đề ra các giải pháp để cải
thiện những hạn chế đó. Hi vọng là một thời gian nữa, sau một quá trình tập luyện, bản
thân sẽ tiến bộ để kỹ năng lắng nghe được cải thiện:
- Gạt bỏ những cảm xúc cá nhân riêng tư trong quá trình giao tiếp, tập trung nghe đối
phương chia sẻ, đặt mình vào vị trí của đối phương để đồng cảm, tam thời quên đi cảm
xúc cá nhân để giao tiếp được tốt hơn .
- Không để những thành kiến tiêu cực, định kiến cá nhân ảnh hưởng đến cuộc hội thoại.
Phải nhận thức rằng một vấn đề cần được tìm hiểu từ nhiều hướng khác nhau, có như
vậy, thông tin minh thu nhận được sẽ khách quan hơn rất nhiều .
- Tạo không khí bình đẳng, cởi mở - cần chú ý đến khoảng cách với đối tượng giao tiếp
tùy theo mối quan hệ. Chú ý không khoanh tay hoặc đút tay túi quần vì những điệu bộ, cử
chỉ nảy biểu hiện sự khép kín, không muốn tham gia giao tiếp.
- Tránh phán xét: hãy lắng nghe chứ đừng can thiệp.
- Lắng nghe một cách thông cảm: Dù người mà mình đang nói chuyện cùng có thể xúc
phạm, thiếu thận trọng, dối trá, tự cho mình là trung tâm hay khoa trương cũng nên nhớ
rằng họ cũng chỉ đơn giản đang cố gắng để tồn tại giống như mình vậy. Tất cả chúng ta
đều có những vấn đề tương tự nhau liên đến cả vật chất và tinh thần nhưng chẳng qua là
một số người có những chiến lược tồn tại tốt hơn những người khác mà thôi. Vì thế, hãy
cứ lắng nghe và cố gắng hiểu cho thái độ của họ khi đó.
- Chú ý lắng nghe và phản hồi một cách thích hợp bằng lời nói , điệu bộ , cử chỉ ...
- Thỉnh thoảng đặt câu hỏi để giúp bạn hiểu thêm vấn đề và chứng tỏ bạn rất quan tâm
đến người đối thoại.
- Kỹ năng phản ảnh lại: Sau khi người đối thoại trình bày một vấn đề nào đó, bạn có thể
diễn đạt lại nội dung đó theo cách hiểu của bạn. Việc phản ánh lại của bạn vừa cho người
đối thoại biết bạn đã hiểu họ như thế nào, có cần giải thích, bổ sung, đính chính gì không,
vừa cho họ thấy là họ được chú ý lắng nghe.
- Đừng chú trọng phong cách của người nói bằng cách hãy tự hỏi bản thân rằng người nói
biết được điều gì mà bạn không biết
- Khách quan lắng nghe để giảm được ảnh hưởng của cảm xúc khi nghe và kiên nhẫn cho
đến khi bạn nghe được toàn bộ thông tin.
- Cuối cùng, hãy lắng nghe bằng cả con tim và khối óc để đạt được những điều mình
muốn.
Kết luận: Giao tiếp không chỉ đơn giản là biết cách nói. Giao tiếp đòi hỏi cả hai kỹ năng
nói và nghe. Lắng nghe và biết cách lắng nghe sẽ giúp con người có thêm lợi thế và gây
thiện cảm với đồng nghiệp, cấp trên, khách hàng... Biết lắng nghe - điều có vẻ đơn giản
nhưng thực ra không phải ai cũng làm được. Vì vậy, mỗi người chúng ta phải rèn luyện
cho mình cách lắng nghe người khác để nâng cao giá trị của mình.
Câu 21. Các cấp độ nghe
Trong giao tiếp, tùy vào hoàn cảnh cụ thể, người gửi và người nhận thông tin cụ thể, sẽ có
các cấp độ nghe khác nhau, bao gồm:
Không nghe: Là sự phớt lờ người đối thoại với mình, không thèm nghe, bỏ ngoài tai tất
cả những gì họ nói.
Ví dụ: Trong quá trình thuyết trình tại trong môn kỹ năng làm việc nhóm trong khi các
nhóm đang thuyết trình một cách rất hay thì các bạn trong lớp lại nói chuyện có những
hành động làm việc riêng không nghe nhóm thuyết trình
ü Nghe giả vờ: trong trường hợp này người đối thoại thật sự không muốn nghe, nhưng vì
sợ hoặc vì phép lịch sự người ta phải giả vờ nghe, nhưng thực sự là không nghe gì cả.
Trường hợp này thường xảy ra khi lời nói của đối tượng thuyết trình không đem lại lợi
ích gì cho người nghe, hoặc trái với mong muốn của người nghe,
Ví dụ: Trong các giờ giảng dạy trên giảng đường nhiều bạn sinh viên vì một số lý do
cảm thấy chán các giảng viên dạy quá nhiều lý thuyết tại lớp và không muốn nghe.
Nhưng vì sợ giảng viên cũng như sợ ảnh hưởng đến việc điểm danh nên các bạn vẫn giả
vờ gật gù như nghe rất hay. Thậm chí là vỗ tay nhưng các bạn lại không quan tâm đến
vấn đề được người đối thoại nói
ü Nghe có chọn lọc: Lúc này người đối thoại chỉ nghe một phần thông tin đối thoại,
những lúc thấy thích, thấy cần thiết thì nghe, những lúc không thích thì bỏ không nghe,
mà tập trung suy nghĩ về việc khác.
Ví dụ: Phần đông các nhà quản trị khi nghe nhân viên cấp dưới báo cáo chọn cách nghe
này, dẫn đến việc nghe không hiệu quả. Các sinh viên có học lực trung bình cũng thường
nghe theo cách này, dẫn đến chỉ nghe được lõm bõm, mang máng, không hệ thống,
không hiểu thấu đáo được bài giảng, vì vậy không thể đạt được kết quả cao.
Cách nghe không tích cực này gây tác hại không nhỏ cho tổ chức. Bởi những bộ phận
tiếp xúc nhiều với công chúng chính là “tai, mắt” của tổ chức, là đầu mối thu thập thông
tin. Nghe không tích cực đồng nghĩa với việc là cho tổ chức bị “điếc” bị “mù”, không
nhận biết được nhu cầu của đối tác, khách hàng, xã hội,... nên không có được những biện
pháp đáp ứng thích hợp, kịp thời, dẫn đến khả năng cạnh tranh của tổ chức sẽ ngày càng
suy giảm.
ü Nghe chăm chú: Là người đối thoại chỉ tập trung sự chú ý và sức lực vào việc nghe,
nhưng vì nghe thụ động nên vẫn chưa đạt được hiệu quả cao.
Ví dụ: Phần lớn sinh viên Việt Nam khi gặp được người thầy giỏi, có khả năng sư phạm,
giảng dạy, sẽ nghe theo cách này. Vì không đọc trước tài liệu, không có kiến thức
chuyên môn, nên sinh viên chỉ thụ động chờ nghe thầy giảng để lĩnh hội ý thầy. Sinh viên
không chịu động não suy nghĩ, không có chính kiến của riêng mình, không trao đổi ý
kiến với thầy
ü Nghe có hiệu quả/nghe thấu cảm: Trong giao tiếp đây là hình thức nghe được đánh
giá cao nhất. Trên cả cấp độ nghe chăm chú, người nghe thấu cảm không chỉ chú ý nghe
mà còn tự đặt mình vào vị trí, tình cảm của người khác để hiểu được họ có cảm nghĩ như
thế nào. Khi nghe thấu cảm bạn sẽ đi sâu vào ý kiến của người khác, qua đó bạn phát
hiện, bạn nhìn cuộc đời theo cách nhìn của người khác, bạn hiểu được tâm tư, tình cảm
của họ. Vì vậy, nghe thấu cảm không đơn thuần chỉ là hiểu từng lời nói của người khác.
EM HIỂU NTN VỀ: “CHÚNG TA KHÔNG CHỈ NGHE BẰNG TAI MÀ CÒN
NGHE BẰNG CẢ CƠ THỂ”
Người ta thường có câu: “Chúng ta không chỉ nghe bằng tai mà còn nghe bằng cả cơ
thể”. Theo em ý kiến này quả thật rất đúng. Thật vậy, cũng giống như trong giao tiếp nếu
như trong giao tiếp chúng ta không chỉ giao tiếp qua ngôn ngữ mà còn giao tiếp quá hành
động, cử chỉ, nét mặt,… thì khi lắng nghe chúng ta cũng sẽ như vậy. Có rất nhiều bạn lầm
tưởng rằng để lắng nghe thật hiệu quả là chúng ta cần phải chăm chú lắng nghe, lắng
nghe một cách thụ động. Tuy nhiên, không phải như vậy lắng nghe là một quá trình vì
vậy trong khi lắng nghe chúng ta cần phải kết hợp nhiều giác quan lại với nhau. Chúng ta
có thể nghe bằng mắt, nghe bằng tai, bằng những hành động cử chỉ: gật gù, …. Điều này
sẽ giúp cho người đối thoại cảm thấy được tôn trọng và hơn hết họ sẽ có thêm năng lượng
để truyền đến nhiều thông tin hơn cho chúng ta
Câu 22. Vai trò của lắng nghe
Trong cuộc sống hàng ngày, biết lắng nghe và hiểu được những điều đối tác nói sẽ giúp
bạn có được những lợi ích sau:
- Thỏa mãn nhu cầu của đối tác. Không có gì chán bằng khi “người nói mà không
có người nghe. Vì vậy, khi bạn lắng nghe người ta nói, chứng tỏ bạn biết tôn trọng người
khác và có thể thỏa mãn nhu cầu tự trọng của anh ta. Chẳng hạn như, trong những buổi
thuyết trình của các nhóm tại lớp. trong lúc các nhóm đang thuyết trình có rất nhiều bạn
không chú ý và không lắng nghe điều này làm các bạn thuyết trình e ngại, mất tự tin và
cảm thấy không được tôn trọng
- Lắng nghe giúp thu thập được nhiều thông tin hơn. Bằng lắng nghe người ta nói,
bạn sẽ có thêm được các thông tin, từ đó có cơ sở mà quyết định. Bạn càng có được nhiều
thông tin thì quyết định của bạn càng chính xác. Trong kinh doanh, khi chúng ta tiếp cận
được nhiều nguồn thông tin về vấn đề chúng ta sẽ có được nhiều góc nhìn, góc độ phân
tích để có thể đưa ra hướng giải quyết cho vấn đề.
- Tạo ra mối quan hệ tốt đẹp với người khác. Khi một người có cảm tình lắng nghe
thì nảy sinh mối quan hệ tốt đẹp. Lắng nghe giúp tình bằng hữu nảy sinh, phát triển và
kết quả là sự hợp tác trong hoạt động.
- Tìm hiểu được người khác một cách tốt hơn. Lắng nghe giúp bạn nắm được tính
cách, tính nết và quan điểm của họ, vì họ sẽ bộc lộ con người trong khi nói.
- Giúp cho người khác có được sự lắng nghe có hiệu quả. Bằng cách tạo dựng một
không khí lắng nghe tốt, bạn sẽ thấy rằng những người đang nói chuyện với bạn trở thành
những người lắng nghe có hiệu quả. Cũng giống như hiệu ứng domino trong 1 buổi
thuyết trình nếu bạn chịu khó lắng nghe người kế bên sẽ cảm giác tò mò từ đó họ sẽ tìm
hiểu và chủ động lắng nghe hơn
- Lắng nghe giúp cho chúng ta giải quyết được nhiều vấn đề. Trong không ít trường
hợp, mâu thuẫn không giải quyết được chỉ vì hai bên không chịu lắng nghe để hiểu nhau.
Bằng sự cởi mở của mình và bằng cách khuyến khích người khác nói, hai bên sẽ phát
hiện ra những nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn và cùng nhau đưa ra những giải pháp để
giải quyết những mâu thuẫn đó.