Văn CK1 - hoàn chỉnh

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 46

Đất nước

Mở bài

Lúc sinh thời, nhà thơ Lưu Quang Vũ đã từng viết ra những dòng thơ đầy thổn thức

“Mỗi bài thơ của chúng ta

Phải như một ô cửa

Mở tới tình yêu."

Có lẽ, thơ ca chính là địa hạt của tình yêu, của tình thương, của những rung động chạm khẽ và khắc
sâu vào trái tim, tâm hồn những người đang sống. Viết về tình yêu quê hương, đất nước, đã có biết
bao nhà thơ tắm mình trên dòng chảy bao là vô tận ấy. Nhưng có lẽ, phải đến "Đất Nước" của Nguyễn
Khoa Điềm người ta mới được bắt gặp một “đôi mắt mới" trên nền của một “vùng đất cũ" đã nhiều
người vun đắp và cày xới. Ở đây ta bắt gặp một quan niệm khác hẳn về Đất Nước, một cái nhìn phá
vỡ những tư duy truyền thống, một cái nhìn đầy trân trọng những con người vô danh trên hành trình
dựng xây kiến tạo đất nước mình. Đặc biệt,…

Đoạn trích Đất Nước thuộc trường ca “Mặt đường khát vọng” là lời thức tỉnh đối với thế hệ trẻ miền
Nam về ý thức và lòng tự hào dân tộc, từ đó thể hiện tình yêu quê hương đất nước sâu sắc và khát
vọng chiến đấu của một thế hệ người vì lý tưởng cộng sản, vì hòa bình của dân tộc hôm mai.

● 9 câu đầu:

Đoạn thơ mở đầu bằng những cảm nhận sâu sắc về Đất nước trong mối quan hệ gắn bó với cuộc sống
Nhân Dân

Nguyễn Khoa Điềm là nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mỹ và là cây bút tiêu
biểu với phong cách “trữ tình triết luận”. Một trong những kiệt tác của Nguyễn Khoa Điềm phải kể
đến “Trường ca mặt đường khát vọng” được tác giả hoàn thành ở chiến khu Trị - Thiên năm 1971, in
lần đầu năm 1974. Đặc biệt, với đoạn trích Đất nước thuộc phần đầu chương V của “Trường ca” là
một trong các đoạn trích nổi bật với hệ tư tưởng “Đất nước của nhân dân”, do nhân dân bảo vệ và gìn
giữ muôn đời trên cả 3 bình diện: chiều rộng của không gian địa lý chiều dài của lịch sử và chiều sâu
văn hóa. Qua 9 câu thơ đầu, Nguyễn Khoa Điềm đã đưa đến một cách cảm nhận vô cùng mới mẻ, vừa
thấm thía, vừa xúc động về Đất nước trong mối quan hệ với cuộc sống Nhân Dân. Điều đặc biệt ở đây
là, những khái niệm trừu tượng, những tiêu chí thiêng liêng định hình nên Đất nước đã được nhà thơ
biểu hiện qua những hình ảnh cụ thể và bình dị quen thuộc và gợi cảm, những hình ảnh luôn thường
xuất hiện trong cuộc sống thường ngày của Nhân Dân.

Khi nói đến vẻ đẹp của đất nước trên bình diện của chiều sâu văn hóa, ta phải hiểu văn hóa là những
giá trị mà con người ở 1 vùng đất tạo ra. Có thể đó là giá trị tinh thần cũng có thể là giá trị phi vật thể.
Nguyễn Khoa Điềm nhìn nhận người Việt Nam không chỉ ra đi để bảo vệ đất đai xứ sở mà còn truyền
và bảo vệ cho nhau những hạt giống dân ta, những vẻ đẹp mang đậm cốt cách của con người Việt
Nam được truyền từ đời này sang đời khác, từ trái tim của người già sang lồng ngực của người trẻ, đó
là vẻ đẹp mang đậm bản sắc dân tộc Việt Nam ta.

Có ai tự hỏi chính mình, một câu hỏi lớn đầy băn khoăn rằng Đất nước ta đang sống có từ bao giờ?
Có lẽ để trả lời được câu hỏi ấy không hề dễ dàng, vậy mà NKĐ đã thỏa mãn niềm băn khoăn của
chúng ta một cách thật đơn giản. Đất nước đã tồn tại từ rất xa xưa, rất lâu, cũng đã có trong mỗi chúng
ta. Nói về sự ra đời của đất nước, nhà thơ không điểm lại các vương triều lừng lẫy trong lịch sử,
không kể về những người anh hùng với chiến công chói lọi được ghi trong sử sách, cũng không sử
dụng những hình ảnh mang tính trang trọng, thiêng liêng như "thiên thư" hoặc "một mối xa thư đồ sộ ,
hai vầng nhật nguyệt chói lòa", ... Nguyễn Khoa Điềm nói về sự ra đời của đất nước một cách thật
giản dị:

“Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi”

Câu thơ là lời tâm sự, bày tỏ tình cảm. “Ta” là một khái niệm mơ hồ, không xác định, vừa có thể là
tác giả, vừa có thể hiểu là thế hệ. Đó có thể là bất cứ người Việt Nam nào, trong bất cứ thời kì nào, là
ông cha hàng ngàn năm trước, là chúng ta hôm nay, là con cháu chúng ta sau này. Mỗi con người
chúng ta, có người may mắn sinh ra có một gia đình trọn vẹn, có mẹ có cha, nhưng cũng có không ít
mảnh đời bất hạnh, không cha không mẹ, không rõ nguồn gốc gia đình của mình, nhưng chắc chắn
không ai sinh ra lại không biết mình là công dân của Đất nước nào. Chính vì thế, ngay khi cất tiếng
khóc chào đời ta đã biết rằng đã có một Đất nước hiện hữu cùng hình hài của mình. Chẳng biết đn ấy
có từ bao giờ nhưng khi chúng ta lớn lên thì đn đã có. Đất nước đã có trong chiều dài lịch sử của đất
nước. Đất Nước có từ ngàn xưa, từ thời khai thiên lập địa, từ thời huyền thoại cổ tích, khi Lạc Long
Quân và Âu cơ, đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng, các vua Hùng góp phần dựng nên đất tổ Hùng
Vương... Và chúng ta, là những người kế bước. Đn như chiếc nôi đã dọn sẵn đợi chúng ta chào đời.
Một thực tế hiển nhiên, giản dị đến vô cùng nhưng cũng không kém phần sâu sắc.

Cấu trúc câu “Đất nước có – bắt đầu – lớn lên” đã hữu hình hóa quá trình phát triển của đất nước
trong trường kì lịch sử, đất nước tựa như một sinh mệnh sống với nội lực mãnh liệt. Nghệ thuật liệt kê
là biện pháp chủ đạo quán xuyến toàn bộ bài thơ, góp phần khắc họa đất nước bình dị, gần gũi. Đất
nước gắn liền với bà, với mẹ, với cha, đất nước hài hòa trong mối quan hệ gia đình, làng xóm. Đất
nước là một phần máu thịt trong kí ức của mỗi con người.

Hành trình trả lời cho câu hỏi về nguồn gốc của Đất Nước còn được khắc họa rõ ràng ở những câu thơ
sau, khi Nguyễn Khoa Điềm nói về quá trình sinh thành của Đất Nước với biết bao sự kiện đáng nhớ:

“Đất Nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa…mẹ thường hay kể

Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần sàng”

Câu thơ “ “Đất Nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa…mẹ thường hay kể” như một lời khẳng
định ngắn gọn, giản dị mà gợi lên biết bao xúc động thiêng liêng. Văn học dân gian, ngọt ngào, tha
thiết và là giai đoạn văn học ấu thơ đẹp nhất của nhân loại. Và có lẽ một trong những thể loại lấy được
nhiều cảm tình nhất của bạn đọc chính là những câu chuyện cổ tích. Tuổi thơ của ai chắc hẳn cũng
được nghe bà, nghe mẹ kể cho những câu chuyện cổ tích thần tiên mà như nhà thơ Vũ Quần Phương
đã viết trong bài thơ Nói với em:

Nếu nhắm mắt nghe bà kể chuyện,

Sẽ được nhìn thấy các bà tiên,

Thấy chú bé đi hài bảy dặm,

Quả thị thơm, cô Tấm rất hiền.


Dù chưa hiểu Đất Nước với khái niệm trừu tượng như cương vực lãnh thổ, chủ quyền, nhưng mỗi
chúng ta cũng đã cảm nhận được Đất Nước rất gần gũi qua những câu chuyện truyền thuyết, cổ tích
mẹ thường kể từ thuở nằm nôi. Cụm từ “ngày xửa ngày xưa” đưa người đọc trở về với thế giới huyền
bí của những câu chuyện cổ tích, với những ông bụt, bà tiên tốt bụng mang những phép màu. Với chú
bé đi hài bảy dặm, với quả thị thơm mang trong mình cô Tấm dịu hiền... Bằng giọng tâm tình, dịu
ngọt như lời kể truyện cổ tích của mẹ hôm nào, Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện những cảm nhận, suy
tưởng của mình về cội nguồn đất nước. Vậy là đn đâu có ở đâu xa, ngay các trong câu chuyện cổ tích
dân gian, có trong tuổi thơ dịu ngọt của mỗi con người, cứ đằm thắm, thấm sâu mà da diết như chính
những câu chuyện ấy đã vô tình qua tháng năm in đậm trong tâm hồn chúng ta. Đn thân thương, gần
gũi là thế.

Đất nước tươi đẹp, thanh bình như huyền thoại của chúng ta đã có từ lâu đời. Vậy, đất nước được hình
thành từ đâu? Đất nước được hình thành từ phong tục, tập quán, văn hóa, truyền thống, lối sống cao
đẹp của dân tộc. Trước hết, sự hình thành Đất Nước gắn liền với thuần phong mỹ tục:

“Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”

Nguyễn Trãi nhìn nhận lịch sử Việt Nam là sự tiếp nối của các triều đại, của các đời vua:

“Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời xây nền độc lập

cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương”

Nhưng ngược lại, Nguyễn Khoa Điềm không nhìn nhận lịch sử theo lối của một nhà sử gia chính
thống. Lịch sử sâu thẳm của đất nước ta được tác giả cắt nghĩa bằng hình ảnh “miếng trầu”. Hình ảnh
thơ phải chăng đã gợi cho ta về sự tích “Trầu cau” từ đời vua Hùng dựng nước xa xưa, ngợi ca tình
nghĩa vợ chồng, anh em đằm thắm, sắt son. Về câu chuyện Tấm Cám với miếng trầu têm cánh
phượng để rồi vua nhận ra đón Tấm về cung trong niềm vui hạnh phúc sum vầy. Câu thơ còn đưa
người đọc trở về với một nét đẹp của văn hóa dân tộc ta một thời: phong tục ăn trầu nhuộm răng của
dân tộc ta. Mà như nhà thơ Hoàng Cầm có viết:

“Những cô hàng xén răng đen

Cười như mùa thu tỏa nắng”

Truyền thống của người VN là hiếu khách, mến khách, mỗi khi khách đến chơi nhà là pha trà, mời
trầu, bởi nhân dân ta quan niệm: “Miếng trầu là đầu câu chuyện”, đây là nét đẹp văn hóa không thể
thiếu của người dân VN. Trong phong tục cưới hỏi của người VN, không bao giờ vắng mặt hai lễ vật
trầu cau. Nó thể hiện cho sự gắn kết, thắm thiết giữa tình yêu đôi lứa và hôn nhân. Thế nên ca dao
mới có những hình ảnh về trầu cau đẹp đến nao lòng:

“Anh về cuốc đất trồng cau

Cho em trồng ké dây trầu một bên

Khi nào cao nọ lớn lên

Trầu kia ra lá thì nên vợ chồng”


Vậy “miếng trầu bây giờ bà ăn” là sự hóa thân của tình nghĩa anh em yêu thương gắn bó, tình cảm vợ
chồng son sắt chung thủy. Không có sự hóa thân kì diệu của tình nghĩa sẽ không có sắc thắm của
miếng trầu, không có vẻ đẹp thuần phong mỹ tục ngàn đời của đất nước.

Sự hình thành Đất Nước gắn liền với truyền thống lao động vất vả, cần cù và truyền thống yêu nước
chống giặc ngoại xâm:

“Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”

Lời thơ gợi nhớ truyền thuyết Thánh Gióng nhổ tre làng đánh giặc Ân thuở xa xưa và hình ảnh cây tre
Việt Nam trong các cuộc chiến tranh vệ quốc. Cây tre đã trở thành biểu tượng cho sức sống mãnh liệt
của dân tộc Việt Nam, một dân tộc trải qua nhiều đau thương, máu lửa, luôn phải đương đầu với kẻ
thù tàn bạo nhất, nhưng luôn kiên cường, bất khuất, anh dũng bảo vệ quê hương, xứ sở. Có thể nói,
trong lịch sử dựng nước, giữ nước của dân tộc, cây tre đã góp phần làm nên chiến thắng: "Tre giữ
làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín. Tre! Anh hùng lao động. Tre! Anh hùng chiến
đấu" (Thép Mới). Với truyền thống quý báu đó, Đất Nước ngày càng lớn lên, trưởng thành vững
mạnh. Hai từ "lớn lên" được dùng thật đơn sơ, giản dị nhưng đã thổi vào đất nước của chúng ta một
linh hồn, một trái tim, một hơi ấm nồng nàn, chứa chan sự sống. Có thể nói, truyền thống yêu nước
bền bỉ, kiên cường giữ nước luôn được khơi dậy qua những lời kể êm ấm, huyền diệu của mẹ trở
thành hồn thiêng dân tộc.

Để rồi sau đó, lời thơ quay trở về với những điều giản dị trong cuộc sống thường nhật:

Tóc mẹ thì bới sau đâu

Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn

Cái kèo cái cột thành tên

Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng

Đất Nước có từ ngày đó...

Hình ảnh “tóc mẹ thì bới sau đầu” đơn sơ, bình dị, đã khắc họa phong tục lâu đời của người Việt,
người phụ nữ để tóc dài và bới lên để thuận tiện trong sinh hoạt hàng ngày. Một hình ảnh thật gần gũi,
thân quen in sâu trong nếp nghĩ, gọi suy ngẫm về con người trong cuộc sống lam lũ nhưng vẫn duyên
dáng, tần tảo, đảm đang. Hình ảnh ấy qua bao năm tháng vẫn không thay đổi, vẫn gọi suy ngẫm về cái
đẹp giản dị mà thiêng liêng. Ca dao xưa đã từng ngợi ca vẻ đẹp nên thơ của người phụ nữ Việt qua
hình ảnh "bới tóc" thân thương:

"Tóc ngang lưng vừa chừng em bới

Để chi dài bối rối dạ anh"

Những thứ nhỏ bé thân thương ấy đã làm nên phong tục, làm nên Đất Nước của mỗi chúng ta. Sự hình
thành Đất Nước còn gắn với truyền thống nghĩa tình chung thủy: “Cha mẹ thương nhau bằng gừng
cay muối mặn”. Câu thơ được nhào nặn bởi chất liệu văn hóa dân gian. Từ thành ngữ quen thuộc
"muối mặn gừng cay” đến ca dao “Tay nâng đĩa muối chén gừng / gừng cay muối mặn xin đừng quên
nhau” đã có sự hòa trộn kì diệu để làm nên ý thơ giản dị mà sâu xa. Hình ảnh “muối mặn, gừng cay"
gợi nhắc tới nghĩa tình vợ chồng chung thủy, đồng cam cộng khổ. Dẫu cuộc đời trăm đắng ngàn cay,
nhưng nghĩa tình chồng vợ vẫn vẹn nguyên mặc cho vật đổi, sao dời:

“Muối đã mặn ngàn năm vẫn mặn

Gừng đã cay muôn thuở vẫn còn cay

Đôi ta nghĩa nặng tình dày

Dẫu xa nhau cũng ba vạn sáu ngàn ngày mới xa".

Có một quy luật tự nhiên mà ta không thể chối cãi được, đó chính là rừng càng già càng cay, muối
càng lâu năm muối càng mặn. Và quy luật ấy cũng thể hiện ở trong tình cảm cuộc sống của con
người, con người càng sống lâu với nhau hơn thì tình nghĩa với nhau hơn, càng đong đầy hơn. Có lẽ
chính vì vậy mà ĐN còn ghi dấu ấn của cha của mẹ bằng hòn Trống Mái, núi Vọng Phu… đi vào năm
tháng. Đất nước còn hiện lên thật bình dị, thân thương qua những cái thuần Việt: “Cái kèo cái cột
thành tên”. Câu thơ gợi tả một nét đẹp trong đời sống văn hóa dân tộc. Người Việt Nam đặt tên con
không cầu kì, xa lạ, kiểu cách. Họ lấy ngay những bộ phận của ngôi nhà đặt tên cho con cái. Những
cái kèo, cái cột vô tri, bỗng trở thành tên gọi của những đứa con. Những cái tên nôm na, dân dã (kèo,
cột) gợi nhắc một yếu tố văn hóa của người Việt (người Việt có truyền thống dựng tre làm nhà để ở)
đồng thời cho thấy sự gắn bó tha thiết của họ với ngôi nhà thân thuộc cũng như cũng như cuộc sống
nghèo khó, sự mộc mạc, chân chất của người dân Việt Nam. Như vậy, truyền thống văn hóa lâu đời
của nhân dân: miếng trầu dung dị của bà, mái tóc bới hiền hòa của mẹ, cách gọi tên cái kèo, cái cột
dân dã, đến tình yêu thủy chung qua gừng cay muối mặn của cha mẹ. Tất cả những điều tưởng bình dị
ấy đã trở thành nếp sống, phẩm chất tốt đẹp, thuần phong mỹ tục đậm đà bản sắc Việt Nam. Ngoài
truyền thống yêu nước, truyền thống văn hoá, truyền thống lao động cũng tạo nên sự hình thành đất
nước.

"Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã, giần, sàng"

Với người Việt Nam vốn gắn bó lâu đời với nền văn minh lúa nước, hạt gạo trở thành gia bảo vô cùng
cần thiết cho cuộc sống. Cho nên ngay khi còn là đứa trẻ mới lớn, cảm nhận về vật chất đầu tiên phải
là hạt gạo trải qua một quá trình lam lũ, vất vả kết tinh mồ hôi, nước mắt của người lao động với “Một
nắng hai sương” là thành ngữ chỉ sự gian nan, vất vả cực khổ, nhọc nhằn lam lũ. Xay, giã, giần,
sàng, ... diễn tả những công việc nhọc nhằn mà người nông dân đã trải qua để làm ra hạt gạo dẻo
thơm. Như vậy, ông bà, cha mẹ chúng ta đã phải trải qua bao gian nan "bán mặt cho đất bán lưng cho
trời", "dầm mưa dãi nắng” mới làm ra được hạt ngọc quý giá ấy. Hạt gạo là vật chất cũng là sự sống,
là cội nguồn văn hóa dân tộc. Thủ pháp nghệ thuật liệt kê kết hợp việc sử dụng thành ngữ dân gian
"một nắng hai sương" gợi ra cuộc sống vất vả, nhọc nhằn và phẩm chất cần cù, chịu thương chịu khó
của người Việt. Truyền thống lao động tốt đẹp của nhân dân cũng là một phần của hồn nước. Hình
ảnh thơ của Nguyễn Khoa điểm làm ta gợi nhớ tới câu ca dao mẹ ru thuở nào:

“Cày đồng đang buổi ban trưa

Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày

Ai ơi bưng bát cơm đầy

Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần”


Đn hóa thân vào hạt gạo với mồ hôi nước mắt của con người, với muối mặn phù sa của đất mẹ, của
nắng sương trong vũ trụ, đất trời để rồi mất bao công xay, giã, giần, sàng nữa mới trở thành hạt gạo
dẻo thơm trong bát cơm ta ăn nuôi ta lớn hàng ngày. Cách cảm nhận cội nguồn đất nước của Nguyễn
Khoa Điềm thật gần gũi, thân quen mà cũng không kém phần thi vị, độc đáo, làm lay động trái tim
ngay cả những độc giả khó tính. Cuối đoạn thơ là một lời đúc kết giản dị nhưng chắc chắn “Đất nước
có từ ngày đó…”. Với những câu thơ trên, trong suốt không gian, thời gian, văn hóa, phong tục của
dân tộc, nhân dân đn đã hình thành, hiện hữu để từ đó ta có dải đất thân yêu hình chữ S mang tên VN.
“Ngày đó” vừa là trạng từ chỉ thời gian trong quá khứ vừa là một phép thế đại từ. Vậy “Ngày đó” là
ngày nào, ta không thể khẳng định chính xác chỉ biết rằng đn gắn bó trong cuộc đời của mỗi con
người, gần gũi trong sinh hoạt của cuộc sống hàng ngày, giản dị nhưng thân thương.

Trong đoạn thơ trên, tác giả sử dụng khéo léo các kiểu cấu trúc thơ “Đất nước đã có ” , “Đất nước bắt
đầu", “Đất nước lớn lên”, “Đất nước có từ" đã giúp cho ta hình dung được cả quá trình hình thành và
phát triển của đất nước trong trường kì lịch sử nằm sâu trong tâm thức của con người Việt Nam qua
bao thế hệ. Đn không đứng yên mà luôn vận động, phát triển, trường tồn qua các thời kì lịch sử của
dân tộc. Không chỉ thể, tác giả còn sử dụng trường từ vựng: “ông, bà, cha, mẹ” gợi về tình cảm gia
đình ruột thịt thân thương. Đó cũng là khởi nguồn cho đất nước, là cội nguồn của mọi tình cảm. Bởi
nói như chú Năm “con sông gia đình cũng chảy về biển, mà biển thì rộng lắm, rộng bằng nước ta”
(Những đứa con trong gia đình).

Khám phá Đất Nước ở phương diện văn hóa sinh hoạt, Nguyễn Khoa Điềm đã phát biểu nhận thức
của mình như lối định nghĩa độc đáo, một cách lí giải không hề mang tính áp đặt mà đầy sức gợi, sức
thuyết phục bằng những câu chuyện, chọn lọc chi tiết giàu ý nghĩa - từ đó giúp ta nhận ra Đất Nước
bắt nguồn từ những điều giản dị nhất, gần gũi nhất, nhưng bền vững đến muôn đời. Tác giả cảm nhận
về chiều sâu của lịch sử của Đất Nước một cách thật gần gũi mà thân thương. Đất Nước được hình
thành từ những gì nhỏ bé, gần gũi trong cuộc sống của mỗi con người, từ bề dày của truyền thống văn
hóa của dân tộc Việt Nam. Đó là một đóng góp quan trọng của Nguyễn Khoa Điềm làm sâu thêm ý
niệm về đất nước của nhân dân cho thơ ca hiện đại đến nền văn minh lúa nước sông Hồng, cùng
những phong tục tập quán độc đáo có từ lâu đời. Đó cũng chính là đất nước được cảm nhận trong
chiều sâu tâm hồn nhân dân, văn hoá và lịch sử; Với cái nhìn độc đáo của Nguyễn Khoa Điềm, đất
nước đã nằm sâu trong tiềm thức mỗi chúng ta, mỗi người dân; trong đời sống tâm hồn của nhân dân
từ thế hệ này qua thế hệ khác.

Hình ảnh thơ hàm súc, giàu chất liệu văn hóa, văn học dân gian nên có sức lắng đọng sâu sắc. Những
chất liệu văn hóa dân gian ấy đã tạo nên một thế giới nghệ thuật vừa gần gũi, quen thuộc, vừa sâu xa
kì diệu, đủ sức gợi lên được hồn thiêng sông núi. Điều đó, không chỉ đơn thuần là thủ pháp nghệ
thuật, cũng không phải chỉ là tiếp thu có sáng tạo văn học dân gian. Có thể nói, tư tưởng Đất Nước
của Nhân Dân, tư tưởng chủ đạo của chương thơ đã thấm nhuần từ quan niệm đến cảm xúc, từ hình
tượng đến chi tiết nghệ thuật của tác phẩm.

● 13 câu tiếp:

Sau lời khẳng định tự hào và đầy ấm áp Khi ta lớn lên Đất nước đã có rồi, cảm quan về lịch sử lâu đời
của Đất nước được tô đậm hơn trong sự khám phá. Từ đó, ta có thể hiểu được những định nghĩa của
tác giả để trả lời cho câu hỏi Đất Nước là gì? Mượn hình thức trò chuyện, tâm tình với một người con
gái yêu thương, nhà thơ định nghĩa Đất Nước theo cách riêng của mình. Vận dụng tính đơn lập của
âm tiết tiếng Việt, Nguyễn Khoa Điềm đã tách Đất Nước thành hai thành tổ Đất và Nước để có thể đi
sâu vào khái niệm, biến khái niệm Đất Nước trừu tượng thành cụ thể, sinh động, gợi cảm.
“Đất là nơi anh đến trường

Nước là nơi em tăm

Đất Nước là nơi ta hò hẹn

Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”

Nếu ở 9 câu thơ mở đầu chương Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm có công đưa đất nước từ trời cao
thượng đế, từ ngai vàng vua chúa xuống miếng trầu của bà, búi tóc của mẹ, xuống hạt gạo một nắng
hai sương, xuống cái cột, cái kèo trong nhà ta ở... thì trong những câu thơ trên, Nguyễn Khoa Điềm đã
cụ thể hóa Đất Nước để thấy nó rất gần gũi, thân quen, gắn bó với mỗi con người. Tác giả tách riêng
hai thành tố “đất” và “nước” để có cách giải thích rất đỗi chân thực và gần gũi; sử dụng lối tư duy
chiết tự vừa triết lý lại vô cùng giàu xúc cảm. Đất Nước không trừu tượng, xa xôi, Đất Nước là không
gian bình dị, thân thuộc, gắn bó với cuộc sống hàng ngày của mỗi chúng ta:

“Đất là nơi anh đến trường

Nước là nơi em tăm”

"Đất”là thứ gắn liền với những kỉ niệm thời thơ ấu của anh, gắn liền với con đường hàng ngày đến
trường với bao trò chơi, bao lần đùa nghịch cùng bạn bè. Đấy cũng là nơi trau dồi thêm tri thức, chuẩn
bị thêm hành trang quan trọng cho anh vào đời để thực hiện những ước mơ hoài bão của chính mình.
Đó hẳn là những năm tháng thời học sinh đầy đáng quý, đáng nhớ của bao thế hệ trẻ em Việt Nam.
“Nước là nơi em tắm" - nước là một thứ thiết yếu không thể thiếu trong cuộc sống mỗi ngày - nó cũng
gắn với kỉ niệm tuổi thơ em, một kỉ niệm êm dịu và nhẹ nhàng như những dòng sông em thường tắm
mát mỗi trưa hè lộng gió, là dòng sông đỏ nặng phù sa nuôi lớn những mầm non, cây lúa cho bác
nông dân. Không những thế, nước còn như một thứ nước thánh gột rửa tâm hồn em thủy chung, son
sắc. Nhìn dưới nước, trong tim em hiện lên chỉ mỗi mình anh. Lòng em cũng như nước, trong sáng và
một lòng một dạ, mãi chẳng thay đổi.

Từ 2 ý thơ riêng biệt 2 cá thể, đến câu thơ sau, nhà thơ đã “tác hợp" anh và em một cách thật tự nhiên
mà rất đỗi ngọt ngào:

Đất Nước là nơi ta hò hẹn

Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm.

Ở hai câu thơ này “đất” và "nước" đã hòa nhập vào một, trở thành không gian hẹn hò, nâng bước và
minh chứng cho tình yêu của em và anh, tình yêu lứa đôi lắm đỗi ngọt ngào, say đắm. Nơi chốn anh
và em, nơi chúng mình hẹn hò hiện lên với không gian làng quê thanh bình yên ả: những lũy tre rì rào
gió thổi, những rặng râm bụt trước ngõ nở rộ làm lòng người xuyến xao, hay đơn giản là những ánh
trăng thanh đêm khuya thanh mát – nơi anh và em đã trao nhau chữ thẹn, chữ yêu lắm đỗi ngọt ngào...
tất cả đều đẹp đều hài hòa và nồng đượm làm say đắm lòng người! đất nước không chỉ là nơi để đôi
mình hò hẹn mà còn là chốn để em trao anh chữ nhớ, chữ thương tha thiết. Đất nước như một chứng
nhân cho tình yêu của đôi mình, mỗi một mảnh đất, nơi chốn trên dải đất hình chữ S hay nơi mà anh
và em từng đi qua đều chất chứa tình yêu của đôi ta. Nếu không có đất nước thì liệu rằng đôi mình có
gặp gỡ mà yêu nhau hay nên duyên vợ chồng? Bên cạnh ấy, câu thơ “Đất Nước là nơi em đánh rơi
chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm” được Nguyễn Khoa Điềm sáng tạo từ bài ca dao ngọt ngào, đằm
thắm:
"Khăn thương nhớ ai

Khăn rơi xuống đất

Khăn thương nhớ ai

Khăn vắt lên vai

Khăn thương nhớ ai

Khăn chùi nước mắt".

Cách vận dụng sáng tạo chất liệu dân ca làm cho ý thơ đạt đến độ liên tưởng lắng đọng bất ngờ, hàm
súc, sâu xa. Từ thuở xa xưa nào, những cô gái Việt dịu dàng, kín đáo, sâu sắc đã gửi trọn niềm
thương, nỗi nhớ người yêu vào chiếc khăn tay. Nỗi nhớ tha thiết, bâng khuâng ấy làm nên một phần
diện mạo tinh thần đất nước. Ngày nay, chiếc khăn tay vẫn là nơi em gửi trọn nỗi nhớ anh. Và thật kì
diệu, không gian em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm đã trở thành Đất Nước Đất Nước tình
yêu. Một không gian rất thầm kín, rất riêng tư, chỉ hai người biết, chỉ hai người hay, thật thiêng liêng,
xúc động. Như vậy, Đất Nước là một phần tinh thần không thể thiếu, không thể tách rời với mỗi con
người. Nó không chỉ là mảnh đất sinh ra ta, nuôi ta khôn lớn hàng ngày mà còn là quê hương của tinh
thần, của tình yêu. Không gian ấy trở nên thật thiêng liêng, kì diệu, chỉ hai người biết, chỉ hai người
hay, chỉ thuộc về trái tim của hai con người đã từng yêu và nhớ. Ý thơ của Nguyễn Khoa Điềm có sự
gặp gỡ với những cảm nhận đầy sâu sắc của nhà thơ Phan Thị Thanh Nhàn:

"Nếu anh đi với người yêu

Chỉ xin anh nhớ một điều nhỏ thôi

Con đường ta đã dạo chơi

Xin đừng đi với một người khác em

Hàng cây nay đã lớn lên

Vươn cành để lá êm đềm chạm nhau

Hai ta ai biết vì đâu

Hai con đường sẽ xa nhau xa hoài

Nếu cùng người khác dạo chơi

Xin anh hãy tránh nẻo vui ban đầu".

(Con đường)

Có thể nói, trong phần sâu thẳm trái tim mỗi con người, Đất Nước đã trở thành kỷ niệm, là kho báu
đầy ắp kí ức thân thương.

Trong đoạn thơ đã thể hiện sự sáng tạo độc đáo của NKĐ. Nhưng có lẽ một sáng tạo độc đáo nhất là
tác giả tách cụm từ “ đất nước” ra thành hai yếu tố nhỏ là “đất” và “nước”. Xây dựng và hình thành
từng khái niệm rồi sau đó tổng hợp và đúc kết thành khái niệm đn theo kiểu quy nạp. Nên kiểu câu tác
sử dụng là điệp cấu trúc: đất là, nước là và đất nước là. Các câu định nghĩa vắt dòng như tràn ra trên
những trang thơ, và người đọc thì ngỡ ngàng, thú vị khi được tác giả đưa đi hết bất ngờ này đến bất
ngờ khác, mỗi dòng thơ là một định nghĩa mới mẻ trong cảm nhận của nhà thơ. Đất nước không chỉ
được cảm nhận bởi không gian địa lí mênh mông từ rừng đến bể mà còn được cảm nhận bởi không
gian sinh hoạt bình thường của mỗi người, không gian của tình yêu đôi lứa, không gian của nỗi nhớ
thương. Ý niệm về đất nước được gợi ra từ việc chia tách hai yếu tố hợp thành là đất và nước với
những liên tưởng gợi ra từ đó. Sử dụng lỗi chiết tự mà vẫn không ngô nghê,mà vẫn thật duyên dáng
và ý nhị, có thể gợi ra cho thấy một quan niệm mang những đặc điểm riêng của dân tộc ta về khái
niệm đất nước, mà tư duy thơ có thể tách ra, nhấn mạnh. Khám phá đn trên nhiều bình diện để từ đó
người đọc có cái nhìn đa chiều, đa diện về đn.

Tác giả không chỉ làm mới vấn đề đã tưởng như đã cũ chủ đề đn, bằng cách tách hai khái niệm đn.
Bài thơ được viết với mong mỏi thức tỉnh thế hệ thanh niên ở đô thị miền Nam để họ nhận thấy vai trò
của mình trong cuộc kháng chiến bảo vệ tổ quốc. Hiểu rõ đối tượng mà tác phẩm hướng đến, NKĐ đã
chọn một lối viết độc đáo cho tác phẩm của mình. Đó là mượn lời thủ thỉ tâm tình của một đôi trai gái
yêu nhau để nói về vấn đề này. Còn sự lay động nào hơn đến với tuổi trẻ bằng tình yêu lứa đôi, có lẽ
chính điều này đã tạo nên hiệu quả bất ngờ cho bản trường ca.

Trên hành trình tìm lời định nghĩa về Đất Nước, tác giả đã mượn phép biến ảo của thơ ca để chơi trò
tách chữ Đất là... Nước là.., rồi ghép nhập Đất Nước là... Trò chơi ngôn từ thông minh ấy đã tạo ra
những kiểu câu định nghĩa bất ngờ: Đất là nơi anh đến trường| Nước là nơi em tắm. Những câu thơ
định nghĩa về Đất Nước mà cứ rưng rưng những kỉ niệm, hồi hộp những tâm tình. Sự vỡ tách và ghép
nhập 2 âm tiết Đất và Nước gợi lên một chiều sâu suy tưởng : Đất Nước là sự thống nhất giữa cái
chung và cái riêng, cộng đồng và cá nhân, to lớn và nhỏ bé, hiện thực và huyền thoại trong sự sống,
tình yêu, trái tim mỗi con người. Đất Nước nằm trong sự sống, tình yêu, trái tim của mỗi con người

Vẫn mạch cảm xúc thiết tha, nhà thơ say sưa lý giải:

"Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc"

Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi"

Lấy ý từ câu hát dân gian Bình Trị Thiên ngọt ngào sâu lắng: "Con chim phượng hoàng bay ngang
hòn núi bạc - Con cá ngư ông móng nước ngoài khơi - Gặp nhau đây xin phân tỏ đôi lời - Kẻo mai kia
con cá về sông vịnh, con chim nọ đổi dời về non xanh", câu thơ đưa người đọc về với những không
gian đất nước thân thương. Những từ "núi bạc", "biển khơi"....mang âm hưởng dân gian gợi ra một đất
nước mênh mông, giàu đẹp. Đất nước không chỉ được đo bằng chiều dài cương vực lãnh thổ mà được
đo bằng cả khúc ca ngọt ngào, bằng sự ngân vang của câu hát. Đất nước ta là đất của rừng vàng, là
nước của biển bạc. Thật trù phú, tươi đẹp, yên ả, thanh bình.

Chỉ với ba câu thơ nhưng NKĐ đã đưa người đọc đi suốt chiều dài lịch sử 4000 năm của dân tộc, và
đi dọc dải đất cong cong hình chữ S thân thương:

“Thời gian đằng đẵng

Đất nước là nơi dân mình đoàn tụ”


Với hai từ láy “đằng đẵng”, “mênh mông” cho thấy cái miên man của thời gian, vô tận của không
gian. Trong không gian và thời gian ấy nhân dân ta cùng hội tụ, chung sống. “Dân mình” hai tiếng
thân thương, gần gũi ấy đã cho thấy tình cảm đồng bào gắn kết, son sắt. Thật đơn giản nhưng nếu đặt
câu thơ trong hoàn cảnh bom đạn chiến tranh lúc bấy giờ thì lại có ý nghĩa lớn lao vô cùng để cổ vũ
tinh thần đoàn kết của nhân dân. Cụm từ “đoàn tụ” đã bật tả khối đại đoàn kết của nhân dân ta. Đó
cũng là cội nguồn sức mạnh của dân tộc ta. Khối đại đoàn kết ấy không chỉ là giữa những con người
cùng thời đại mà còn là sự kết nối giữa các thế hệ, là truyền thống cao đẹp của nhân dân ta từ nghìn
đời. Như vậy thời gian đằng đẵng, không gian mênh mông để mãi mãi là nơi dân mình đoàn tụ, là
không gian sinh tồn của cộng đồng Việt Nam qua bao thế hệ.

3 câu thơ tiếp, nhà thơ cắt nghĩa khái niệm “Đất Nước” gắn liền với không gian cội nguồn dân tộc
Việt:

"Đất là nơi Chim về

Nước là nơi Rồng ở Lạc Long Quân và Âu Cơ

Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng".

Hai câu thơ đầu gợi nhắc lại hai câu thành ngữ “Đất lành chim đậu, nước thiêng rồng ở”. Nếu hiểu
như vậy thì một chân lí giản đơn là niềm tự hào về tổ quốc thân yêu: ĐN ta là nơi đất lành và nước
thiêng liêng. Đồng thời, hai câu thơ sau đã nhắc lại cội nguồn của nhân dân với truyền thuyết Lạc
Long Quân và Âu Cơ. Với tích bọc trăm trứng và rồi để chia ra 50 con theo cha xuống biển, 50 theo
mẹ lên non. Qua đó như một lời giải thích vì sao nhân dân mình sinh sống trên tất cả các miền địa
hình và một điều quan trọng hơn cả là tác giả muốn nhắc nhở cho dân ta biết rằng, chúng ta dù là 54
dân tộc, 54 bản sắc, mỗi dân tộc một chữ viết, tiếng nói và phong tục tập quán nhưng chúng ta đều từ
một cha một mẹ sinh ra. Mà cùng cha mẹ thì là anh em, nên hãy đối xử với nhau như “thủ túc”, và
nhớ lấy câu ca “gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau". Những câu thơ như thôi thúc lòng đoàn kết
thương yêu, đùm bọc của nhân dân ta. Đó là bức thông điệp xanh nhà thơ muốn gửi đến bạn đọc.

Đất nước qua cách cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm không khô khan mà tươi rói cảm xúc. Bởi đất
nước không chỉ là sự thống nhất của các yếu tố lịch sử, địa lí, văn hóa, phong tục,...mà đất nước gắn
liền với đời sống, số phận của từng cá nhân ở mọi phương diện, là sự tiếp nối của các thế hệ từ quá
khứ "những ai đã khuất" đến hiện tại "những ai bây giờ" và tương lai "yêu nhau và sinh con đẻ cái":

“Những ai đã khuất

Những ai bây giờ

Yêu nhau và sinh con đẻ cái

Gánh vác phần người đi trước để lại

Dặn dò con cháu chuyện mai sau

Hàng năm ăn đâu làm đâu

Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”


Thế hệ này nối tiếp thế hệ sau, những người đi trước đã khuất và những người mai sau - hai thế hệ quá
khứ và hiện tại. Vậy người đọc tự hỏi nhịp cầu nào nối hai thế hệ trên? Phải chăng đó chính là những
người đang sống hiện tại. Họ phải làm gì để nối tiếp và phát huy truyền thống đó? Từ niềm băn khoăn
đấy tác giả đã cho thế hệ trẻ hiện tại thấy rõ những nghĩa vụ thiêng liêng họ phải làm được. Người đọc
ngỡ ngàng với điều tưởng chừng như giản đơn ấy mà NKĐ lại cho rằng đó là nghĩa vụ của nhân dân.
Nếu như chúng ta nhìn nhận vấn đề mang tính thời sự thì thấy nhà thơ đã sâu sắc vô cùng khi đã đi
trước thời đại, cho đến tận hôm nay vấn đề này vẫn còn mang tính chất nóng hổi. “Yêu nhau và sinh
con đẻ cái” vốn như một quyền lợi thiêng liêng của mỗi con người lại là nghĩa vụ của công dân đối
với đất nước. Nếu không có tình yêu lứa đôi, kết hoa thành tình cảm gia đình và cho trái quả ngọt là
những đứa con thân yêu thì một dân tộc liệu có thể trường tồn hay không, hay nó sẽ đứng trên bờ vực
của sự lụi tàn. Một chân lí quá đỗi giản đơn nhưng mấy ai hiểu thấu, NKĐ đã đánh thức trách nhiệm,
nghĩa vụ và quyền lợi thiêng liêng này của nhân dân để tạo nên sức mạnh của dân tộc.

“Gánh vác phần người đi trước để lại

Dặn dò con cháu chuyện mai sau”

Đây là trách nhiệm cầu nối, là sự gắn kết quá khứ và tương lai của những người đang sống trong hiện
tại. Họ sẽ là những người làm nốt những công việc còn dang dở của thế hệ đi trước. Và phải dặn dò,
khuyên bảo con cháu, những thế hệ mai sau hãy tiếp tục phát huy truyền thống tốt đẹp của các thế hệ
cha anh, làm cho những truyền thống ấy ngày càng trường tồn, phát triển. Gắn kết vào thời điểm hiện
tại thì dân tộc ta đang trong cuộc chiến chống Mĩ, những thế hệ cha ông đã bao người đổ máu, đã ngã
xuống cho độc lập tự do của tổ quốc, nhưng cho đến thời điểm đó công cuộc này còn đang dang dở,
thậm chí tình hình cuộc chiến đang trong thế nước sôi, lửa bỏng. Vậy nên điều NKĐ muốn nói với thế
hệ trẻ thanh niên của miền Nam hãy đứng lên, tiếp bước cha anh, đứng lên đánh đuổi quân thù để
không phải hổ thẹn với cha anh. Đồng thời nếu họ ngã xuống khi tuổi đời còn xanh, khi nhiệm vụ
chưa hoàn thành thì họ hãy yên tâm, bởi hậu thế mai sau sẽ tiếp bước làm nốt những việc còn dang
dở.

Một dòng chảy lịch sử của dân tộc đang tuôn chảy trong từng câu từ, đang thấm dần vào tâm hồn thế
hệ trẻ, và chúng ta tin rằng họ đã được đánh thức, vì kết quả cuộc kháng chiến đã là minh chứng hùng
hồn cho điều đó, bởi không có minh chứng nào hùng hồn hơn thực tế lịch sử. Vì thế, mỗi thế hệ, mỗi
cá nhân đều phải gắn bó với đất nước. Đặc biệt, trách nhiệm của thế hệ hôm nay vô cùng nặng nề
nhưng vinh quang. Chúng ta vừa phải gánh vác những công việc nhọc nhằn, nặng nề mà cha ông giao
lại, vừa phải dặn dò con cháu chuyện mai sau một cách ân cần, chu đáo để các thế hệ sau sẽ tiếp tục
đưa đất nước đi xa đến một chân trời hòa bình, hạnh phúc, ấm no, giàu mạnh.

Hai câu thơ cuối gợi nhắc ta về truyền thống đạo lý “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, “Uống nước nhớ
nguồn”, nhà thơ khéo léo dặn dò thế hệ sau phải ý thức về tổ tiên và cội nguồn dân tộc với ngày lễ
Quốc giỗ của Việt Nam được tổ chức nàng năm vàongày mồng 10 tháng 3 (âm lịch) tại Đền Hùng,
thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Bởi như Bác Hồ đã từng nói: “Các vua Hùng đã có công dựng
nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Vậy nên:

Hằng năm ăn đâu làm đâu

Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ

Câu thơ vận dụng sáng tạo câu ca dao:


Dù ai đi ngược về xuôi

Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng Ba

Hai chữ “cúi đầu” thể hiện sự thành kính thiêng liêng mà rất đỗi tự hào về nguồn gốc cha ông. “Cúi
đầu” để hướng về lịch sử, hướng về bao thế hệ cha ông đã góp công dựng nên nhà nước Âu Lạc mà
nay là nước Việt Nam hùng cường, tự tin sánh vai với các cường quốc năm châu. Người Việt mình dù
đi khắp thế giới nhưng trong tâm linh của họ luôn có một ngôi nhà chung để quay về. Đó chính là quê
cha đất Tổ - vua Hùng.

Xuất phát từ trái tim chân thành và tình yêu quê hương đất nước sâu nặng, nhà thơ Nguyễn Khoa
Điềm đã mang đến những khái niệm rất mới mẻ, rất cụ thể nhưng cũng rất gần gũi, thân thuộc với mỗi
con người Việt Nam. Thành công của đoạn thơ là sự vận dụng khéo léo chất liệu văn hóa, văn học dân
gian khiến cho hình tượng Đất Nước trở nên gần gũi, giàu sức gợi cảm. Điểm nổi bật nhất về nghệ
thuật trong đoạn thơ là lối giải thích: khi thì tách danh từ Đất Nước thành hai thành tố riêng rẽ, khi lại
kết hợp lại để giải thích, khiến cho việc lí giải về Đất Nước càng trở nên sâu sắc, vừa cụ thể vừa khái
quát.

Đọc đoạn thơ, ta như được trở lại với từng không gian gần gũi của miền quê thanh bình, cùng hòa
mình, thả hồn vào những câu ca dao dân ca ngọt ngào sâu lắng, được đắm mình trong lời ru của mẹ,
của bà và từ đó thêm tự hào về quê hương Việt Nam. Phải chăng điều nhà thơ muốn nhắc nhở mọi
người là nhớ về Nhớ về nguồn cội quê hương, dân tộc cũng chính là cốt lõi sức mạnh trong tâm khảm
mỗi con người. Đó là tình cảm thiêng liêng làm cho chúng ta trưởng thành.

“Quê hương mỗi người chỉ một

Như là chỉ một mẹ thôi

Quê hương nếu ai không nhớ

Sẽ không lớn nổi thành người”

Vậy là những người đọc hôm nay đã hiểu phải làm gì, làm như thế nào và làm như vậy sẽ được kết
quả gì. Những điều tưởng như quá khô khan, lớn lao và cứng nhắc của vấn đề chính trị nhưng đã được
NKĐ mềm hóa qua những vần thơ giản dị, dễ hiểu và dễ đi vào lòng người. Chất trữ tình chính trị cứ
ngọt ngào và lắng sâu tạo nên sức truyền cảm cho bản trường ca về ĐN.

Đoạn trích thể hiện suy nghĩ của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm về trách nhiệm của chúng ta ngày nay
đối với Đất Nước,về mối quan hệ riêng - chung, quan hệ cá nhân – cộng đồng, sự tiếp nối của các thế
hệ trong một đất nước, một dân tộc. Nhà thơ Sóng Hồng đã từng viết: “Thơ là tình cảm, lí trí kết hợp
một cách nhuần nhuyễn và có nghệ thuật. Tình cảm và lí trí ấy được diễn đạt bằng những hình tượng
đẹp đẽ qua những lời thơ trong sáng vang lên nhạc điệu khác thường". Và qua những dòng thơ đầy
trăn trở của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, ta thấy ở đó là những vần thơ không đơn thuần chỉ là câu
chữ mà là tư tưởng, cảm xúc, tình cảm của tác giả. Do đó có sức lay động tâm tư người đọc.

Nếu như ở đoạn thơ trước đó, tác giả nhìn nhận Đất Nước từ bề dày văn hóa dân tộc hàng nghìn năm,
thì ở đây lại là những suy nghĩ về Đất Nước từ cuộc sống hiện tại trong các mối quan hệ riêng -
chung, cá nhân - cộng đồng, sự tiếp nối giữa các thế hệ. Trước hết, Đất Nước gắn liền với tình yêu đôi
lứa, với mỗi cá nhân:
"Trong anh và em hôm nay

Đều có một phần Đất Nước"

Lâu nay, trong suy nghĩ của nhiều người, đất nước, quê hương, tổ quốc, dân tộc... luôn là những khái
niệm trừu tượng. Với nhà thơ trẻ đang đối mặt với cuộc chiến tranh khốc liệt một mất một còn, đất
nước gần gũi, thân thiết. Điều này chưa hẳn đã mới, trong ca dao, dân ca có không ít những câu hát
như thế:

“Anh đi anh nhớ quê nhà

Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương

Nhớ ai dãi nắng dầm sương

Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao.”

Quê hương là tất cả những gì gắn bó ruột rà với con người. Đó là nơi ta yêu tha thiết. Song, cái mới ở
khổ thơ của Nguyễn Khoa Điềm là Đất Nước ở trong mỗi một con người. Nhưng điều tinh tế mà tác
giả diễn đạt trong ý thơ đầy sâu sắc. Trong anh và em chỉ có một phần của đn, và ở mỗi người cũng
chỉ có một phần nào trong đó thôi. Anh và em là những cá nhân trong cộng đồng, quốc gia, dân tộc.
Đời sống tâm hồn, tình cảm, nhân cách, trí tuệ của mỗi cá nhân đều có một phần đất nước ở trong
mình. Điều đó có nghĩa, đất nước không xa lạ, trừu tượng mà kết tinh, hóa thân trong cuộc sống của
mỗi người. Bởi mỗi người đều mang trong mình dòng máu Lạc Hồng, được sinh ra và lớn lên trên
mảnh đất quê hương, được thừa hưởng di sản văn hóa vật chất, tinh thần của nhân dân; từ phong tục,
tập quán, truyền thống, lối sống đến ngọn lửa, hạt gạo, ngôn ngữ, tiếng nói thân thương và mang trong
mình tính cách, phẩm chất tiêu biểu của dân tộc: Cần cù, chăm chỉ, chịu thương chịu khó, giàu lòng
yêu nước, sống ân nghĩa, thủy chung.

Với giọng thơ tâm tình, lối xưng hô anh em tha thiết, nhà thơ như nhắn nhủ: Đất Nước không chỉ tồn
tại khách thể mà đã hóa thân trong mỗi người, trở thành một phần tâm hồn, trí tuệ mỗi người, của anh
và em. Sự gắn bó máu thịt giữa số phận cá nhân với vận mệnh cộng đồng là tư tưởng chung của thời
đại:

"Khi hai đứa cầm tay

Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm

Khi chúng ta cầm tay mọi người

Đất Nước vẹn tròn to lớn".

Hai câu thơ được cấu trúc giống nhau theo kiểu cấu trúc của câu có điều kiện trong văn xuôi hay lời
nói thông thường: Khi... Đất Nước. Hai câu thơ cũng là những lời khẳng định (kết quả của sự nhận
thức) về một chân lý. Cả bốn dòng chỉ có một hình ảnh, lại là hình ảnh mang tính tượng trưng: cầm
tay diễn tả sự thân thiết, tin cậy, yêu thương lẫn nhau. Hình ảnh ấy đi liền với những tính từ chỉ mức
độ (hài hòa, nồng thắm, vẹn tròn, to lớn). Bởi vậy, dù ý thơ tuy không phải là quá mới mẻ, song,
những câu thơ ấy lại có sức nặng của tình cảm chân thành. Những câu thơ này còn có một tầng nghĩa
thứ hai, tác giả không trực tiếp nói ra. Đó là đất nước không phải là một khái niệm trừu tượng, càng
không phải một giá trị bất biến, có sẵn. Đất nước là một thực thể sống và sự sống ấy ra sao ở về phía
tất cả những con người trong đất nước đó. Nói rõ ràng, đó là mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng,
giữa mỗi một con người với đất nước. Để hiểu hết ý nghĩa của cụm từ: “vẹn tròn”, “to lớn” có lẽ ta sẽ
thấy vai trò không hề nhỏ của mỗi cá nhân với đn mình. Đn có hùng cường, mạnh mẽ,phát triển được
hay không phụ thuộc rất nhiều vào sự nỗ lực của cá nhân mỗi người. Từ đó mỗi người hiểu được trách
nhiệm của mình. Nói như Paul Eluard, một nhà thơ Pháp là: "Từ chân trời một người đến với chân
trời của nhiều người"

Từ hiện tại, nhà thơ tiếp tục mạch cảm xúc và suy nghĩ về Đất Nước ở tương lai. Nhà thơ hướng về
thế hệ tương lai - thê hệ mầm măng sẽ mang Đất Nước sánh vai với các cường quốc năm châu:

“Mai này con ta lớn lên

Con sẽ mang đất nước đi xa

Đến những tháng ngày mơ mộng”

Đến những tháng ngày mơ mộng Đất Nước không chỉ có ngày hôm qua và hôm nay, trong quá khứ
hay ở hiện tại, mà Đất nước phải hướng tới ngày mai, hướng tới tương lai tươi sáng. Hai từ “lớn lên”
thể hiện ước nguyện của tuổi trẻ hôm nay và mai sau sẽ trưởng thành toàn vẹn cả về ngoại hình và trí
tuệ, có kiến thức, trí tuệ, đủ sức, đủ tài để tiếp cận những KHKT tiên tiến của nhân loại, góp công sức
mình cho sự phát triển của dân tộc. Để cho đn tiến xa hơn nữa trên xa lộ phát triển của thế giới. Thực
hiện ước mong của vị lãnh tụ vĩ đại kính yêu của dân tộc, đưa đn « bước lên đài vinh quang, sánh vai
với các cường quốc, năm châu ». Cụm từ “đi xa, những tháng ngày mơ mộng” như một ẩn dụ nói lên
khát vọng chính đáng về sự lớn mạnh, trường tồn, phát triển của đn trong tương lai. Từng thế hệ kế
tiếp sẽ làm cho Đất Nước trường tồn mãi mãi. Khi đặt những câu thơ đầy khắc khoải này của nhà thơ
Nguyễn Khoa Điềm vào bối cảnh lịch sử, những năm 1971 khi cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ
đang bước vào giai đoạn ác liệt ta mới thấy: Ước mơ về thế hệ sau, thế hệ tương lai sẽ “mang Đất
Nước đi xa”, kế tục truyền thống, làm rạng danh quê hương đất nước là điều mà bất cứ ai yêu dân tộc
này đều mong muốn. Lời nhắn nhủ tha thiết như một khát vọng cháy bỏng: Hãy đưa đất nước tiến về
phía trước, đến với “những tháng ngày mơ mộng”, những tháng ngày hòa bình, tự do và hạnh phúc.
Đó không chỉ là niềm mong mỏi của riêng nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, mà còn là ước mong của hàng
chục triệu trái tim người dân Việt Nam.

Từ sự cảm nhận sâu sắc, mới mẻ về đất nước, kết thúc phần một, tác giả bày tỏ thái độ đầy trách
nhiệm của mỗi cá nhân, cộng đồng trong việc giữ gìn, bồi đắp cho đất nước bền vững muôn đời:

"Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình

Phải biết gắn bó và san sẻ

Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở

Làm nên Đất Nước muôn đời"...

Người đọc như còn thấy được tài năng của NKĐ qua cấu trúc câu thơ theo kiểu suy luận: “Đất Nước
là...” nêu lên một tiền đề. Từ tiền đề ấy, “phải biết... / phải biết... để làm nên...”. Câu thơ giàu chất suy
luận nhưng không lên gân mà trở thành lời nhắn nhủ tha thiết qua 3 tiếng "Em ơi em" - lời nhắn nhủ
tâm tình ngọt ngào như được cất lên từ trái tim. Tình yêu đôi lứa đã hòa quyện với tình yêu đất nước
đầy nhiệt tình, cháy bỏng. Ở đây, ta còn thấy có những từ tượng trưng rất đáng chú ý: “máu xương,
gắn bó, san sẻ, hoá thân, dáng hình, muôn đời”. Sau rất nhiều suy nghĩ cụ thể về đất nước, đến đây
nhà thơ khẳng định “Đất nước là máu xương của mình” Ta biết “Máu xương” là sự sống nhưng rất ít
trường hợp người ta ví một điều gì đó với máu xương, bởi nó có ý nghĩa biểu trưng cho sự thiêng
liêng. Đất nước là máu xương có nghĩa là đất nước tồn tại như một sự sống và để có sự sống ấy hẳn
phải có rất nhiều hi sinh. Quả đúng như vậy, biết bao con người, bao thế hệ đã ngã xuống cho sự sống
còn của đất nước. Tác giả nâng giá trị Đất Nước bằng một so sánh: “Đất Nước là máu xương của
mình". Không phải "như", mà là “là”. Từ “là” ấy bình thản mà mạnh mẽ quá, nó như khẳng định chắc
nịch về giá trị của Tổ quốc trong mỗi con người. Đất Nước không phải những gì kì vĩ đến xa vời...
Đất Nước là những gì bình dị nhất, bé nhỏ nhất. Đất Nước là một phần của cơ thể, của cuộc sống
chúng ta ngày hôm nay. Ta quý trọng cơ thể bao nhiêu, ta cũng cần đấu tranh để bảo vệ, giữ gìn cho
Đất Nước như thế. Không có xương có máu, ta sẽ trở về với cát bụi. Không có Đất Nước, cuộc đời ta
cũng sẽ hóa vô nghĩa mà thôi. Như Ilia Erenbua đã từng thốt lên: “Mất nước Nga thì ta còn sống làm
gì nữa?” Đối với những người con hướng về đất nước, đất nước chính là nguồn sống, chính là cuộc
đời. Câu thơ như một định nghĩa ngắn gọn, được chia thành hai vế song đọc lên ta thấy rưng rưng một
niềm xúc động tưởng như trong con tim, khối óc, trong từng tế bào cơ thể của sự sống chúng ta đang
có dòng máu nóng của trái tim đất nước đầy nhiệt huyết, sôi trào.

Vì thế, trách nhiệm với đất nước cũng là trách nhiệm với chính bản thân mình. Mỗi chúng ta phải tự
nhiên gắn bó với đất nước bằng tình cảm thiết tha, dù đi đâu, làm gì, "ăn đâu làm đâu cũng phải
hướng về đất nước. Không những thế, mỗi chúng ta phải san sẻ với cộng đồng bằng ý thức trách
nhiệm, gánh vác một phần trách nhiệm với đất nước "khi Tổ quốc cần", đồng thời, còn phải biết hóa
thân bằng hành động hi sinh cho đất nước. Chữ "hóa thân" được nhà thơ dùng không chỉ phù hợp với
màu sắc dân gian lấp lánh sắc màu huyền thoại của chương thơ mà còn diễn tả sâu sắc sự tự nguyện
dâng hiến trọn vẹn, sẵn sàng chiến đấu, hi sinh để bất tử hóa cùng non sông đất nước của mỗi người
dân. Điệp ngữ "phải biết" vừa như một mệnh lệnh, lại vừa như tiếng nói thúc giục của con tim tạo
thành chất chính luận trữ tình sâu lắng của lời thơ. Những câu thơ in đậm chất duy lý (khá chặt chẽ,
logic) cất lên như tiếng gọi của trái tim, vì thế nó thiết tha, thúc giục lòng người. Nhà thơ đã thể hiện
những suy nghĩ mới mẻ của mình về đất nước bằng một giọng trữ tình, ngọt ngào. Câu chuyện về đất
nước đối với mỗi người luôn là câu chuyện của trái tim, vừa thiêng liêng, cao cả, cũng vừa gắn bó,
thân thiết. Từ suy nghĩ và tình cảm ấy, khi đối diện với kẻ thù của dân tộc, hẳn người ta phải biết làm
gì cho Tổ quốc, giang sơn.

Bằng giọng thơ trữ tình kết hợp với chính luận kết hợp với câu cầu khiến và điệp ngữ "phải biết được
nhắc đi nhắc lại hai lần; Nguyễn Khoa Điềm như dệt nên một khúc nhạc vừa hùng tráng mà cũng thật
da diết biết bao. Tác giả sử dụng những động từ mang tính kết nối như gắn bó” – chỉ sự gần gũi, thân
thiết; "san sẻ” – chỉ sự chia sẻ đồng lòng; và cuối cùng là từ "hóa thân" – nhấn mạnh khát vọng dâng
hiến. Nguyễn Khoa Điềm đã nhắn nhủ với chính mình, nhắn nhủ với mọi người dân nước Việt - đặc
biệt là thế hệ trẻ về sứ mệnh, nghĩa vụ thiêng liêng của mình. Tác giả viết nên những vần thơ ấy bằng
tất cả sự trải nghiệm, thấu hiểu của một người con đã từng trải qua và chiến đấu bảo vệ khi tổ quốc
lâm nguy; đã từng lăn lộn trong chiến trường và thấu hiểu giá trị của hai chữ "Đất Nước" trên đôi vai
mình

Điểm đặc biệt và cái hay trong những câu thơ trên là mặc dù mang tính chính luận nhưng không toát
lên sự khô khan, cứng nhắc như những lời giáo huấn mà những câu thơ ấy vẫn vô cùng trữ tình, thiết
tha. Nó như một lời thủ thỉ nhẹ nhàng, ngọt ngào của tác giả đến bạn đọc. Đoạn thơ với cấu trúc ngôn
ngữ độc đáo: “Đất là...", "Nước là...", "Đất Nước là...", nhà thơ đã định nghĩa bằng cách tư duy chiết
tự, cắt nghĩa hai từ đất nước thiêng liêng bằng tinh thần luận lí. Nếu tách ra làm những thành tố ngôn
ngữ độc lập thì Đất nước chỉ là một sinh thể vật chất, là một không gian sinh tồn của con người và cá
thể. Tuy nhiên nếu hợp thành một danh từ đất nước thì lại có nghĩa như một mái nhà chở che, nuôi
nấng và bảo vệ những con người cùng chung dòng máu Lạc Hồng, cùng chung nguồn cội, cùng chung
quá khứ hào hùng. Tóm lại, được bao bọc trong không khí của văn học dân gian, hình tượng Đất
Nước trong thơ Nguyễn Khoa Điềm hiện lên thật thơ mộng, trữ tình như từ xa xưa vọng về, bình dị
mà thân thương, gắn bó tha thiết với mỗi con người . Nhà thơ định nghĩa về Đất Nước bằng thơ- Lời
thơ vừa lấp lánh sắc màu huyền thoại dân gian, vừa lung linh vẻ đẹp của trí tuệ, vừa thiết tha cảm xúc,
tạo nhiều âm vang trong lòng người đọc.

Nếu Đất nước - Nguyễn Đình Thi mang đậm sắc thái hiện đại, gắn liền với chiều dài của cuộc kháng
chiến chống Pháp đau thương, anh dũng và chiến thắng, thì Đất Nước Nguyễn Khoa Điềm đậm đà
phong vị dân gian, gắn với cội nguồn văn hóa dân tộc. Cùng tỏa sáng tình yêu và niềm tự hào với đất
nước, nhưng mỗi bài thơ có vẻ đẹp riêng khiến cho cảm hứng về quê hương, đất nước trở nên đa
dạng, hấp dẫn.

● 13 câu tiếp:

Như đã nói ở trên, Nguyễn Khoa Điềm là một nhà thơ trưởng thành từ quân đội, là một trong những
nhà thơ đã xẻ dọc chiều dài của mảnh đất hình tia chớp. Trước hết, khi nói về chiều rộng của không
gian địa lý ta phải hiểu địa lý là tất cả những yếu tố về mặt tự nhiên trên một đơn vị diện tích lãnh thổ
đất nước. Là một nhà thơ đã đi hết chiều dài của mảnh đất hình chữ S, ông hiểu từng đại danh và vùng
đất trên lãnh thổ Việt Nam.

“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho

Đất Nước những núi Vọng Phu

Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái

Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại

Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương

Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm

Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên

Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh

Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”

Ấn tượng ban đầu của chúng ta khi đọc 8 câu thơ là ta như bị chìm ngập trong không gian cổ tích diệu
kỳ thần thoại. Cả đoạn thơ là kho truyện cổ, các sự tích như “núi vọng phu”, hay “hòn Trống Mái”.
Một lần nữa tác giả như một người hướng dẫn viên du lịch đưa ta trở về làng Phù Đổng nghe sự tích
thánh Gióng nhổ bụi tre ngà đánh tan giặc Ân. Đó là truyền thống yêu nước của nhân dân ta. Mỗi một
dòng thơ tuy độ dài ngắn khác nhau nhưng đều có chung một kết cấu. Mỗi dòng thơ đều chia ra hai
phần và liên kết với nhau bằng điệp từ “góp”. Ta có thể chia đoạn thơ dọc theo từ “góp” sẽ được hai
nửa diễn tả theo tương quan đối lập. Nửa trước nói về nhân dân, lời thơ mộc mạc, bình dị, cảm xúc, có
pha chút ngại ngùng, xót thương. Trái lại, nửa sau từ “góp” lại nói về đất nước, lời thơ lộng lẫy những
sắc màu muôn hình vạn trạng. Nghệ thuật tương phản này chính là bài ca ca ngợi sự hi sinh của nhân
dân để tạo nên đất nước huy hoàng. Đằng sau mỗi địa danh là một tên gọi, đằng sau mỗi tên gọi là
một huyền thoại và sau những huyền thoại là cuộc đời của những con người. Nhân dân làm nên đất
nước, đó là những cặp vợ chồng thủy chung, là những anh hùng, những người lính quyết tử cho tổ
quốc quyết sinh, là những người học trò nghèo nghiền bút, là ông Đốc, ông Trang, bà Đen, bà Điểm...
Hơn thế nữa, nhân dân còn là những cái tên bé nhỏ vô danh được ẩn dụ bằng những hình ảnh con cóc,
con gà.. Trong nhân dân còn có những nhân vật mà chỉ nhắc đến ta đã thấy hùng vĩ thiêng liêng,
ngưỡng mộ, tôn thờ, được ẩn dụ bằng hình ảnh “Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất tổ Hùng
Vương” phục quanh núi Hi Cương hay “Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm”. Nhân
dân ta đa dạng là thế, đông đảo là vậy mà chỉ làm một việc chung và thống nhất: góp sức chung lòng
để xây dựng nên đất nước Việt Nam ta. Nhà thơ sử dụng điệp từ “góp” thật ấn tượng, gợi sự kiên trì,
bền bỉ, ý chí thống nhất, tình đoàn kết trăm người chung một việc: góp phần kiến tạo nên không gian
huy hoàng cho nhân dân. Nhân dân đã góp sức, góp sự đoàn kết và góp cả máu xương, cả tính mạng,
góp tên tuổi, góp tài hoa. Nhờ đó mà thế hệ chúng ta mới có được một đất nước hữu hình – đất nước
của những anh hùng.

Nguyễn Khoa Điềm có nhắc đến những địa danh không tên. Có người đã từng nói “đất hoang là đất
không tên”. Việc đặt tên cho một địa danh là vô cùng quan trọng, không thể làm tùy tiện. Có không ít
những địa danh đã soi bóng trong thơ ca dân tộc nhằm ca ngợi núi sông hùng vĩ, địa linh nhân kiệt.
Nhưng Nguyễn Khoa Điềm không đi theo hướng đó, ông lại diễn tả sự sinh sôi của các địa danh đó vì
ở đó có lòng chung thủy, sự gắn bó, có máu xương, có tài hoa, có tên tuổi, có linh hồn của nhân dân.
Đây là kết quả của sự hi sinh bền bỉ to lớn của nhân dân. Có thể nói, tám câu thơ đều đã giúp người
đọc thấy được sự kỳ diệu của thế hệ trước. Nó giống như một bông vàng chói lọi mà tổ quốc gọi công
cho nhân dân – người đã hi sinh để làm nên tác phẩm kỳ diệu là nhân dân ta.

Nếu như tám dòng thơ trước tưng bừng những màu sắc lấp lánh, hình tượng đầy chất thơ thì bốn câu
thơ sau lại là những cảm xúc chứa đựng đầy suy ngẫm của lối nói chính luận xen lẫn sự trầm ngâm
của một trí thức. Trước hết ta đến với hai câu thơ:

“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi

Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha”

Được viết liền mạch theo lối vắt dòng và diễn tả bằng lối phủ định để khẳng định. Nó giống như một
tuyên ngôn sôi nổi mang hình thức tranh luận để khẳng định mạnh mẽ những hi sinh to lớn của nhân
dân. Tiếp đến, câu thơ thứ ba: “Ôi đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy” sử dụng thán từ
“Ôi” – một câu cảm thán. Nhà thơ như không giấu nối lòng mình, bộc lộ cảm xúc nghẹn ngào trước
những hi sinh vĩ đại của nhân dân. Tác giả nhấn mạnh ở cụm từ “bốn nghìn năm” – đó là chiều dài
lịch sử dân tộc, bốn nghìn lớp cha ông đều chiến đấu, đời cha đi trước, đời con đi sau, cha con đều là
những đồng chí đồng đội chiến đấu vì độc lập dân tộc. Kết thúc đọan thơ là một câu thơ vô cùng ấn
tượng: “Những cuộc đời đã hóa núi sống ta...” bởi có sự chuyển đổi. Những câu thơ trước đó mỗi
dòng đều có từ mười ba đến mười lăm âm tiết nhưng ở câu thơ cuối lại chỉ vỏn vẹn trong tám âm tiết.
Đó như một sự trầm ngâm, một sự đúc kết để rút ra chân lý cô đọng. Bên cạnh đó, nó còn được kết
thúc bởi hai thanh bằng như một lời hạ giọng để suy tư in dấu vào âm hưởng. Dấu ba chấm kết thúc
đoạn thơ như một phút lặng của long người trước những xáo trộn của tâm hồn. Nhưng ấn tượng nhất
là câu thơ thật hàm súc. Cuộc đời của những con người tuy ngắn ngủi hữu hạn là thế nhưng lại hóa
thành núi sông ta, gởi những cái hùng vĩ vô hạn, vĩnh hằng bất biến. Đây chính là sự biến đổi phi
thường khẳng định nhân ta thật kỳ diệu! Họ chẳng những hóa thân để làm nên hình hài đất nước mà
còn làm nên linh hồn đất nước.

Từ những cuộc đời, những hóa thân cụ thể, tác giả Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện những nhận thức
sâu sắc hơn về mối quan hệ gắn bó giữa thiên nhiên và con người, giữa đất nước với nhân dân. Cũng
qua khổ thơ, tác giả đã bộc lộ được niềm tự hào khôn xiết trước vẻ đẹp của thiên nhiên, vóc dáng,
dáng hình của quê hương và những giá trị truyền thống quý báu của dân tộc. Đó còn là thái độ yêu
thương, trân trọng, tự hào trước những đóng góp lớn lao của thế hệ cha ông đi trước. Cũng từ ấy, tác
giả thiết tha khẳng định và khơi dậy tình yêu đất nước trong trái tim mỗi người đọc. Một lần nữa, lời
gọi dịu dàng mà da diết lại vang lên

Bên cạnh vẻ đẹp chiều rộng không gian địa lý đất nước còn hiện lên với chiều dài của lịch sử. Như
chúng ta đã biết, Nguyễn Trãi là một nhà sử gia chính thống, là một quan đại thần dưới triều Lê, ông
là một nhà chép sử, nghiên cứu về lịch sử. Nguyễn Trãi nhìn nhận lịch sử Việt Nam là sự tiếp nối của
các triều đại, của các đời vua:

“Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời xây nền độc lập

cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương”.

Thì Nguyễn Khoa lại nhìn nhận lịch sử theo lối gợi mở lịch:

“Em ơi em

Hãy nhìn rất xa

Vào bốn ngàn năm Đất Nước

Năm tháng nào cũng người người lớp lớp

Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta

Cần cù làm lụng

Khi có giặc người con trai ra trận

Người con gái trở về nuôi cái cùng con”

Ông xoáy sâu và nhấn mạnh vào con số “bốn ngàn năm”. Bốn ngàn năm ấy là bốn ngàn lớp người
Việt Nam ra trận, là bốn ngàn thế hệ người Việt Nam ra trận, lớp cha trước lớp con sau cũng thành
đồng chí chung câu quân hành. Đó là một cuộc chạy đua tiếp sức của người dân Việt Nam. Với giọng
điệu tha thiết, ngọt ngào Nguyễn Khoa Điềm hướng người đọc nhìn về chiều sâu quá khứ bốn ngàn
năm lịch sử đấu tranh dựng nước của nhân dân. Năm tháng nào cũng người người, lớp lớp đang ở lứa
tuổi thanh xuân rực rỡ nhất, sẵn lòng ra đi để cống hiến cho một khoảnh khắc rực rỡ của non sông.
Khi đất nước hòa bình, họ cần cù lao động để làm giàu nước, phát triển non sông phồn hoa. Khi đất
nước có chiến tranh, họ sẵn sàng xả thân, bất luận con trai hay con gái, già hay trẻ, mạnh hay yếu,
không kể tôn giáo hay dân tộc nào, “giặc đến nhà đàn bà cũng đánh." Là con dân nước Việt họ lên
đường chiến đấu với tâm thế: “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh".

Nói về lịch sử bốn nghìn năm của đất nước, nhà thơ không nhắc lại các triều đại, các anh hùng nổi
tiếng mà tập trung nhấn mạnh vai trò của những con người vô danh:

“Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi

Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm

Không ai nhớ mặt đặt tên

Nhưng họ đã làm ra Đất Nước.”

Lời thơ như thủ thỉ tâm tình, như kể lại một câu chuyện cổ tích về bốn ngàn lớp người đã sống và chết
một cách bình thản, đã hy sinh cho đất nước như thể họ được sinh ra để làm điều đó, đã cống hiến
cuộc đời của mình mà không cần một sự công nhận... Cuộc đời họ đâu ồn ào hào nhoáng, chỉ “sống
và chết - giản dị và bình tâm", thế nhưng đó lại là những sự hy sinh kiệt xuất nhất... Họ “làm ra Đất
Nước" bởi đó là điều trái tim mách bảo, là lý tưởng họ đã lựa chọn, là niềm tin họ luôn hướng về. Họ
đâu cần ai “nhớ mặt đặt tên", vì niềm hạnh phúc khi được ngã xuống vì Tổ quốc đã là một món quà
vô giá... Như nhà thơ Thanh Thảo cũng từng có những vần thơ đầy cảm động:

"Chúng con đi từng trận gió rừng

Cả thế hệ xoay trần đánh giặc".

Hay nhà thơ Lê Anh Xuân cùng từng viết:

"Và Anh chết trong khi đang đứng bắn

Máu Anh phun theo lửa đạn cầu vồng.

Chợt thấy anh, giặc hốt hoảng xin hàng

Có thằng sụp xuống chân Anh tránh đạn

Bởi Anh chết rồi nhưng lòng dũng cảm

Vẫn đứng đàng hoàng nổ súng tiến công"

Những con người thầm lặng ấy họ đã sống và chết, giản dị và bình tâm, họ đã trở thành anh hùng,
không ai nhớ mặt đặt tên chỉ giản đơn như người ta thường gọi: chiến sĩ vô danh nhưng họ là những
người bất tử, hoá thân cho dáng hình xứ sở trường tồn. Tác giả thể hiện lòng biết ơn, ngợi ca những
con người hy sinh thầm lặng vì tổ quốc. Khi viết về những con người bình dị ấy, dường như cảm xúc
của tác giả thể hiện niềm tự hào ngưỡng mộ về trách nhiệm của họ với núi sông đồng thời cũng đặt ra
một vấn đề cho thế hệ trẻ lúc ấy (thời kỳ chống Mỹ) là đã có bốn nghìn thế hệ truyền tay nhau giữ
nước và giờ đây đến thế hệ chúng ta khi Tổ quốc lâm nguy, liệu chúng ta có ngoảnh mặt làm ngơ
được không.

Theo dòng chảy của ngôn từ, tác giả còn khẳng định nhân dân làm văn hoá:

“Nhưng họ đã làm ra Đất Nước

Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng

Họ chuyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi

Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói


Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân

Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái

Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm

Có nội thù thì vùng lên đánh bại”

Những động từ “giữ”, “chuyền" và " truyền" cho thấy nhân lưu giữ và lan tỏa những giá trị văn hóa,
tinh thần tốt đẹp của dân tộc Việt từ đời này sang đời khác, từ thế hệ trước sang thế hệ sau. Không
những lao động, bảo vệ và xây dựng đất nước, nhân dân còn có trách nhiệm truyền lại cho con cháu
mai sau những giá trị văn hoá, tinh thần, vật chất của đất nước: từ hạt lúa, ngọn lửa, tiếng nói, tên
làng, tên đất; từ việc phải biết cấy trồng, đắp đập be bờ. Họ xây dựng và chuẩn bị kĩ càng cho thế hệ
mai sau. Họ giữ gìn cuộc sống đến việc chống thù trong, giặc ngoài. với các động từ "chống", "vùng
lên đánh" tác giả đã nhấn mạnh và khẳng định tinh thần kiên cường, bất khuất, sẵn sàng dẹp giặc để
giữ yên non sông, gấm vóc. Họ truyền cho nhau ngọn lửa mang tên sức sống của dân tộc Việt Nam.
Họ bảo vệ đất đai xứ sở từ thời vua Hùng cầm gươm đi mở cõi. Họ đã gìn giữ và truyền lại cho các
thế hệ sau mọi giá trị văn hóa, văn minh tinh thần và vật chất của đất nước, của dân tộc: hạt lúa, ngọn
lửa, tiếng nói, ngôn ngữ dân tộc, cả tên xã, tên làng và truyền thống chống thù trong giặc ngoài. Để rồi
khi đọc đến đây, từ trong trái tim của mỗi người yêu văn chương vọng lại những vần thơ của Hoàng
Trung Thông trong bài thơ “Báng súng”:

“Ta lại viết bài thơ trên báng súng

Con lớn lên đang viết tiếp thay cha

Người đứng dậy viết tiếp người ngã xuống

Ngày hôm nay viết tiếp ngày hôm qua”.

Chính nhân dân đã viết lên những trang sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam. Bởi vậy, để viết lên trang
sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam thì đó là máu, là mồ hôi, là nước mắt của nhân dân. Không một
dòng địa chỉ, cũng chẳng có một tấm hình trước lúc lên đường nhưng những con người ấy vẫn nguyện
ra đi để bảo vệ đất đai xứ sở nguyện ngã xuống để “Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân”. Hay như
triết gia người Đức – Engels đã từng nói: “Nếu như không có máu, mồ hôi và nước mắt thì không có
lịch sử dân tộc”. Mạch suy nghĩ sâu lắng dẫn đến tư tưởng cốt lõi, điểm hội tụ và cũng là điểm đỉnh
của cảm xúc trữ tình ở cuối đoạn - tư tưởng ngọn nguồn của vẻ đẹp văn hóa dân gian:

“Để đất Nước này là Đất Nước của Nhân dân.

Đất Nước của Nhân dân ,Đất Nước của ca dao, thần thoại"

Với ý thơ trên tác giả đã khẳng định và nhấn mạnh tư tưởng đất nước của nhân dân. Đất nước do nhân
dân khai hoang, phát triển để phồn hoa và nhân dân cũng là người đứng lên cầm vũ khí để bảo vệ từng
tấc đất, con sông. Thế nên d hat a hat t nước này là của nhân dân chứ không phải của riêng bất kì một
ai, một người có quyền lực hay triều đại nào như nhiều người thời trước vẫn quan niệm. - Ở câu thơ
thứ hai, nhà thơ lại một lần nữa khẳng định “Đất nước của nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại".
Điệp ngữ chuyển tiếp “Đất nước của nhân dân" được lặp lại như thêm một lần nữa nhấn mạnh về sứ
mệnh thiêng liêng của nhân dân đối với Đất Nước. Vế thứ hai, nhà thơ nhấn mạnh "Đất Nước của ca
dao thần thoại". Nhắc đến ca dao thần thoại ta lại càng nhớ đến nhân dân, vì hơn ai hết, Nhân dân lại
là người tạo ra văn hóa, tạo ra ca dao thần thoại. Mà đất nước của “ca dao thần thoại" nghĩa là Đất
Nước tươi đẹp vô ngần như vầng trăng cổ tích, ngọt ngào như ca dao, như nguồn sữa mẹ nuôi ta lớn
nên người. Và không phải ngẫu nhiên tác giả nhắc tới hai thể loại tiêu biểu nhất của văn học dân gian.
"Thần thoại" thể hiện cuộc sống qua trí tưởng tượng bay bổng của nhân dân. Còn “ca dao" bộc lộ thế
giới tâm hồn của nhân dân với tình yêu thương, với sự lãng mạn cùng với tinh thần lạc quan. Đó là
những tác phẩm do nhân dân sáng tạo, lưu truyền và có khả năng phản chiếu tâm hồn, bản sắc dân tộc
một cách đậm nét nhất.

“Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi

Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội

Biết trồng tre đợi ngày thành gậy

Đi trả thù mà không sợ dài lâu”

Nguyễn Khoa Điềm nhấn mạnh về tình cảm thủy chung trong tình yêu của con người Việt Nam. Từ ý
thơ trong ca dao:

“Yêu em từ thuở trong nôi

Em nằm em khóc, anh ngồi anh ru"

Thi nhân đã viết nên lời chân tình của chàng trai đang yêu “Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi".
Tình yêu của chàng trai ấy không phải là ngọn gió thoáng qua, không phải là lời của bướm ong mà là
lời nói là nghĩ suy chân thật. Ý thơ đã khẳng định được một tình yêu thủy chung bền vững không gì
có thể đếm đong được. Nhân dân dạy ta biết yêu thương lãng mạn, đắm say thủy chung với những câu
ca dao ấy. Đây là phát hiện mới của Nguyễn Khoa Điềm. Bởi lẽ, từ xưa đến nay, nói đến nhân dân,
người ta thường nghĩ đến những phẩm chất cần cù chịu khó, bất khuất kiên cường. Còn ở đây tác giả
lại ngợi ca vẻ đẹp trẻ trung lãng mạn trong tình yêu, những mối tình từ thưở ấu thơ cho đến lúc trưởng
thành. Nhân dân gìn giữ và truyền lại cho ta quan niệm sống đẹp đẽ, sâu sắc, ca dao đã “dạy anh biết”
– Sống trên đời cần quý trọng tình nghĩa, phải “Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội”. Câu thơ
ấy lấy ý từ ca dao:

“Cầm vàng mà lội qua sông

Vàng rơi không tiếc tiếc công cầm vàng".

Nhân dân đã dạy ta rằng: ở đời này còn có thứ quý hơn vàng bạc, châu báu ngọc ngà... Đó là tình
nghĩa giữa con người với con người; là công sức và tâm huyết ta dành khi làm một việc gì đó không
cầu dành lợi. Bởi vậy, nghĩa với tình còn nặng hơn nhiều lần giá trị vật chất. Không những thế nhân
dân còn đã dạy ta phải biết quyết liệt trong căm thù và chiến đấu “Biết trồng tre đợi ngày thành gậy/
Đi trả thù mà không sợ dài lâu". Hai câu thơ đã gợi lại biết bao cuộc kháng chiến oanh liệt, trường kì
của nhân dân trong biết bao cuộc chiến vệquốc vĩ đại. Từ thuở lập nước, ông cha ta đã luôn phải
đương đầu với nạn ngoại xâm. Cuộc chiến đấu giành độc lập tự do nào cũng kéo dài hàng chục năm,
thậm chí hàng trăm năm. Sau cả nghìn năm Bắc thuộc nhân dân vẫn đứng lên giành chủ quyền, rồi
đến 100 năm đô hộ giặc Tây... thử hỏi nếu không có sự kiên trì bền bỉ và khát vọng tự do mãnh liệt,
dân tộc bé nhỏ này làm sao có thể vượt qua bao nhiêu khó khăn gian khổ, mất mát hi sinh để đến ngày
toàn thắng.
Để rồi, tình cảm thiết tha trìu mến dành cho nhân dân, cho đất nước lại càng trào dâng nơi đầu ngọn
bút:

“Ôi những dòng sông bắt nước từ lâu

Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát

Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác

Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”

Bốn câu thơ gợi cho ta hình ảnh của những dòng sông, những dòng sông không biết đến từ bến bờ nào
nhưng khi hòa vào đất Việt lại vang lên biết bao câu hát điệu hò. Câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm làm
ta nhớ đến những điệu hò hùng tráng trên sông Mã, điệu ca Huế ngọt ngào trên sông Hương và điệu
hò kéo lưới mạnh mẽ ở miền Trung, hay đờn ca tài tử tha thiết trên sông Tiền, sông Hậu ở miền Nam.
Và “dòng sông” ấy vừa có ý nghĩa là dòng sông của quê hương đất nước nhưng vừa có ý nghĩa là
dòng sông Văn Hóa, dòng sông Lịch sử. Dân tộc ta có 54 dân tộc anh em, là 54 dòng chảy văn hóa đa
dạng "trăm màu, trăm dáng". Và đó chính là sự đa dạng và phong phú của văn hóa Việt Nam đã vun
đắp phù sa qua bao năm tháng thăng trầm để làm nên một đất nước đậm đà bản sắc dân tộc.

Qua đoạn thơ trên, tác giả Nguyễn Khoa Điềm đã để lại âm hưởng ca dao, dân ca đặc sắc nhưng
không lấy lại nguyên văn mà sáng tạo làm nên một ý thơ riêng mềm mại, tài hoa và giàu tính triết lý.
Điệp ngữ “Đất Nước" được nhắc lại nhiều lần cùng với việc nhà thơ luôn viết hoa hai từ “Đất Nước”
tạo nên một tình cảm thiêng liêng xiết bao tự hào về non sông gấm vóc Việt. Dù chỉ một đoạn thơ
ngắn nhưng Nguyễn Khoa Điềm đã kết hợp các đặc sắc nghệ thuật như kho tàng tri thức, sáng tạo
chất liệu văn hóa dân gian, tư duy nghệ thuật đậm chất chính luận, giọng thơ trữ tình đằm thắm... để
tạo nên những lời ca in sâu trong trái tim mỗi bạn đọc. Khổ thơ cuối cũng như toàn bộ bài thơ “Đất
Nước” đã mang đến những cảm nhận riêng biệt, độc đáo và mãnh liệt về đất nước cùng tư tưởng tiến
bộ trong góc nhìn của người cầm bút. Bài thơ không chỉ có giá trị thức tỉnh thời bấy giờ mà còn là lời
nhắc cho hàng triệu lớp con cháu hôm nay và mai sau. Thành công nghệ thuật của đoạn thơ này chính
là là sự vận dụng những yếu tố dân gian kết hợp với cách diễn đạt và tư duy hiện đại, tạo ra màu sắc
thẩm mỹ vừa quen thuộc lại vừa mới mẻ. Chất liệu văn hóa, văn học dân gian được sử dụng tối đa đã
tạo nên không khí, giọng điệu, không gian nghệ thuật riêng: vừa có sự bình dị, gần gũi, hiện thực, lại
vừa bay bổng, mơ mộng của ca dao, truyền thuyết nhưng lại mới mẻ qua cách cảm nhận và cách diễn
đạt bằng hình thức thơ tự do. Có thể nói chất dân gian đã thấm sâu vào tư tưởng và cảm xúc của tác
giả, tạo nên đặc điểm nghệ thuật độc đáo của đoạn thơ này.

Qua đoạn trích Đất Nước, chúng ta phần nào nhận thấy đặc điểm của phong cách thơ Nguyễn Khoa
Điềm là sự kết hợp giữa chính luận với trữ tình, giữa suy tưởng với cảm xúc cùng ngôn ngữ thơ bình
dị, gần gũi, nồng hơi thở cuộc sống. Tính chính luận đã làm sáng đẹp chất trí tuệ hài hòa với chất trữ
tình đậm đà. Đoạn thơ đã “nhịp mãi một tấm lòng sứ điệp” để ta thêm yêu và tự hào về Đất Nước Việt
Nam 4000 năm lịch sử. Qua đó ta có thể thấy, dù ở lĩnh vực địa lý, lịch sử hay văn hoá, “Đất nước
này là của nhân dân”, sẽ do nhân dân bảo vệ và gìn giữ muôn đời. Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã
chưng cất, lắng ủ và lên men trong tiếng thơ của mình, vẻ đẹp duyên dáng nhuần nhị của những thi
liệu văn hóa văn học dân gian. Sự nhất quán trong toàn bộ đoạn thơ với những câu thơ dài ngắn đan
xen nhau như sự tan chảy của dòng cảm xúc, sự miên man của dòng suy tưởng. Xuyên suốt toàn bộ
bài thơ 2 chữ “Đất nước” luôn được viết hoa 1 cách trang trọng, lặp đi lặp lại tựa như 1 nốt chủ âm
trong bản trường ca về non sông gấm vóc. Nhờ đó, tác phẩm đã khơi dậy lòng yêu nước và tinh thần
tự hào dân tộc, cùng trách nhiệm công dân trong mỗi chúng ta. Mặc dù bài thơ được viết theo lối
trường ca, kể lể, liệt kê, khó đọc khó nhớ nhưng với những gì Nguyễn Khoa Điềm thể hiện trong tác
phẩm này ông xứng đáng là một trong số những nhà thơ tiêu biểu của văn chương Việt Nam ngày ấy.
Đồng thời, “Đất nước” cũng xứng đáng trở thành hành trang tinh thần của người yêu văn chương suốt
bấy nhiêu lâu nay về đề tài tình yêu quê hương, tình yêu đất nước và có giá trị cho đến ngày hôm nay.

1. Nhận xét chất liệu dân gian mà nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm sử dụng
Không chỉ đặc sắc ở tư tưởng đất nước của nhân dân mới mẻ, bạn đọc còn say mê, chìm đắm trong
chất liệu văn hóa dân gian nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm điểm tô trong tác phẩm. Trước hết, ông đưa ra
những chất liệu gần gũi và quen thuộc nhất với cuộc sống chúng ta, đó chính là những câu chuyện cổ
tích ngày xửa ngày xưa bà thường hay kể, là phong tục tập quán, lối sống sinh hoạt như miếng trầu,
hạt gạo xay, giã, dần, sàng,... Các chất liệu này không chỉ được phô diễn một cách bình thường mà
người nghệ sĩ ấy còn tập trung kết hợp với các giá trị văn hóa truyền thống để làm tôn lên cái hồn của
dân tộc. Bên cạnh đó, ta còn thấy chất liệu văn hóa dân gian được vận dụng một cách rất khéo léo khi
ông không lấy toàn bài mà chỉ mượn ý nhằm tôn vinh nét đẹp của con người Việt Nam với tấm lòng
thủy chung son sắt, là sự chịu thương chịu khó như “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”
lấy ngụ ý từ câu “Tay bưng chén muối đĩa gừng”/ “Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”. Chất
liệu ấy được sử dụng dạy đặc tạo nên một không gian nghệ thuật đặc trưng của đoạn trích. Hơn nữa,
có thể nói nó đã thấm sâu vào tư tưởng và cảm xúc của tác giả, tạo nên một đặc điểm trong tư duy
nghệ thuật ở đoạn trích này và đặc biệt hơn nó đã góp phần tạo nên “vân chữ” cho sự nghiệp của nhà
thơ Nguyễn Khoa Điềm..

2. Nhận xét tư tưởng đất nước của nhân dân của Nguyễn Khoa Điềm
Đất nước - mảnh đất thấm nhuần bản sắc văn hóa của dân tộc ấy đã được gây dựng và hình thành
bởi xương và máu của thế hệ ông cha ta. Họ là những người anh hùng vô danh, tuy “không ai nhớ mặt
đặt tên” nhưng “họ làm ra Đất Nước”. Thấu hiểu được điều đó, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã thể
hiện rất rõ tư tưởng đất nước là của nhân dân, đó là một tư tưởng mới mẻ và mang đặc trưng của
Nguyễn Khoa Điềm. Từ không gian địa lí với chiều rộng lãnh thổ hay không gian gắn với tình yêu đôi
lứa, không gian sinh tồn, chiều dài lịch sử hay chiều sâu văn hóa tất cả đều thấm nhuần tư tưởng đất
nước là của nhân dân, do nhân dân tạo thành. Họ là “những người nông dân áo vải đứng lên thành anh
hùng”, họ là những người trẻ tạm gác bút nghiên, ba lô để giành lại non sông gấm vóc. Mảnh đất này
chính là mảnh đất được gây dựng xương máu của cha anh. Chính bởi vậy, Nguyễn Khoa Điềm nhấn
mạnh tư tưởng đất nước của nhân dân để nhắn nhủ tới thế hệ mai sau phải biết trân trọng và giữ gìn
mảnh đất thiêng liêng này. Tôi chợt nhớ tới “Bức thư gửi người đang sống” của những chiến sĩ Tiểu
đội 1, Trung đội Ký Con, Trung đoàn Bình Giã, Quân giải phóng miền Nam có viết thể này: “Chúng
tôi mong được ghi nhận rằng, chúng tôi đã từng sống, chiến đấu và đã chết trong một mùa Xuân giữa
đất trời như trăm ngàn cái chết của người Việt Nam chân chính cho Tổ quốc và dân tộc sống còn…
Không còn gì để bàn cãi, tư tưởng đất nước của nhân dân này xứng đáng được ghi danh muôn đời.

3. Nhận xét chất triết luận - trữ tình trong thơ Nguyễn Khoa Điềm
Như chúng ta đã biết, Nguyễn Khoa Điềm có phong cách viết thơ trữ tình - triết luận đậm đà, ông
luôn có một mối liên hệ chặt chẽ giữa tư tưởng triết lí sắc sảo cùng với những giá trị truyền thống văn
hóa cổ xưa của dân tộc Việt Nam ta. Bên cạnh đó, chất trữ tình của ông được thể hiện ở việc dùng sức
liên tưởng để thể hiện tính triết luận sâu sắc với chất liệu văn hóa dân gian. Ta có thể thấy rằng, chất
triết luận trong thơ ông được thể hiện ở phạm trù văn hóa dân tộc, Đất Nước của một dân tộc có
truyền thống đánh giặc giữ nước, truyền thống nổi bật và kiêu hùng làm nên phẩm giá quý báu của cả
một dân tộc "Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre và đánh giặc". Đất Nước của những con
người với phẩm chất kiên cường, mạnh mẽ, chiến đấu không ngừng nghỉ, căm ghét giặc cỏ, thói mọi
vô cùng, quyết tâm đánh đuổi đến cùng: “Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”. Không những vậy, chất
triết luận ấy còn được phô diễn ngay trong tư tưởng đất nước của nhân dân của người nghệ sĩ này,
chính nhân dân làm ra đất nước, chính nhân dân gây dựng đất nước. Không chỉ gây ấn tượng ở triết
luận sắc sảo mà chất trữ tình trong thơ ông cũng thật nổi bật, nó thể hiện trong giọng điệu thơ tha
thiết, thấm đẫm phong vị của nền văn hóa truyền thống dân tộc như “Trong anh và em hôm nay” /
“Đều có một phần Đất Nước”; “Đất là nơi anh đến trường” / “Nước là nơi em tắm”, Nguyễn Khoa
Điềm đã chuyển hoá ý thức công dân thành tình cảm cá nhân, và từ đó, ông đã đưa ra những khía
cạnh mới, sâu sắc và trang trọng về đất nước. Bằng cách này, ông không chỉ tạo nên một cuộc tâm
tình đẹp, mà còn tạo ra một không khí trữ tình kèm theo đó là lòng yêu nước sâu sắc, nồng nàn đã trở
thành cảm hứng chính chi phối toàn bộ nhịp thơ và qua đó chúng ta thấy được tình yêu quê hương đất
nước đang cháy rực trong tim của Nguyễn Khoa Điềm.

4. Nhận xét tình yêu quê hương đất nước của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm
Lòng yêu nước luôn là nguồn cảm hứng chưa bao giờ vơi cạn trong lịch sử văn học dân tộc ta. Nối
tiếp cảm hứng này, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm cũng đã bày tỏ tình yêu quê hương đất nước của mình
thông qua đoạn trích. Trước hết ta thấy tình yêu này là một tình yêu giản dị, mộc mạc nhưng cũng rất
đỗi chân thành. Bằng cách hóa thân vào nhân vật “anh” tâm tình với nhân vật “em”, Nguyễn Khoa
Điềm cảm nhận đất nước đã có tự ngàn xưa. Khi ta được sinh ra đất nước đã bao bọc, đã nuôi dưỡng
đời sống, tâm hồn nhưng đất nước được Nguyễn Khoa Điềm gợi lên từ những sự vật, hình ảnh gần
gũi, từ những sinh hoạt thường ngày, ông yêu những câu chuyện cổ tích, yêu những cái kèo cái cột và
tất cả những điều đó chính là nguồn gốc để tình yêu ấy lớn dần và trở thành tình yêu Tổ quốc. Bên
cạnh đó, tình yêu quê hương đất nước còn thể hiện ở việc nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm trân trọng, biết
ơn những giá trị lịch sử, những công lao của ông cha ta trong việc gây dựng và bảo vệ đất nước, họ
chỉ là những con người vô danh bình dị tuy “không ai nhớ mặt đặt tên” nhưng “họ làm ra Đất Nước”,
để có một đất nước yên bình như ngày hôm nay các thế hệ cha anh đã phải đánh đổi và có người đã
gục xuống mảnh đất ấy không thể trở về. Đất nước chính là mảnh hồn của dân tộc, từ đó nhà thơ
muốn nhắc nhở chúng ta - những người con sinh ra trong thời bình phải luôn ghi lòng tạc dạ công lao
của thế hệ đi trước, phải cố gắng để giữ gìn và bảo vệ đất nước của chúng ta để một ngày đất nước
được sánh vai với các cường quốc năm châu, giàu mạnh hơn và vững chắc hơn.

Kết bài

Qua những dòng thơ trên, NKD đã nhẹ nhàng chạm vào trái tim người đọc mộtbởi... Như Leptonxtoi
từng khẳng định: “Một tác phẩm nghệ thuật là sự kết tinh của tình yêu”. Lẽ nào trái tim của thi nhân
vẫn luôn nồng nàn xúc cảm, chứa chan một tình yêu với tên gọi “Tổ quốc”, để rồi cứ thế tuôn thành
những dòng thơ với nỗi xúc động nghẹn trào như vậy.Để Rồi“Đất nước” của tác giả Nguyễn Khoa
Điềm đã làm sáng tỏ sự trường tồn của một tư tưởng sâu sắc, độc đáo mặc cho dòng chảy thời gian có
cuốn trôi đi tất cả. Đồng thời, đoạn trích như thay lời mà nhà thơ muốn nhắn gửi đến thế hệ trẻ Việt
Nam hôm nay và mai sau, đó là một tình yêu nước luôn cháy bỏng, nồng nàn. Và ta cũng bắt gặp sự
tương đồng trong ý thơ với tác phẩm Chào xuân 67 của Tố Hữu:

“Nếu được làm hạt giống mùa sau

Nếu lịch sử chọn ta làm điểm tựa

Vui gì hơn làm người lính đi đầu

Trong đêm tối, tim ta là ngọn lửa”

Sóng
Mở bài:

Nguyễn Ngọc Tư trong "Khói trời lộng lẫy" có viết rằng: "Khoảnh khắc đó tôi đã biết âm thanh đẹp
nhất của cuộc sống là tiếng của một người nói yêu một người". Viết về tình yêu, đã có biết bao nhà
thơ dồn cả vào đó những cảm xúc tài năng và bút lực của mình. Không phải là người đặt chân đến
trước tiên, và có lẽ cũng chẳng thể là người ở lại sau cùng với mảng thơ tình, nhưng những dòng thơ
viết về tình yêu, viết về người yêu, viết về những xao động tế vì trong tâm hồn những kẻ say sưa đi
tìm lý tưởng để yêu và để sống, ngày hôm nay, người ta vẫn gọi đến một cái tên rất đỗi quen thân- nữ
sĩ Xuân Quỳnh. Tiêu biểu cho phong cách thơ và tấm lòng thơ của người nữ sĩ tài hoa ấy có lẽ không
thể không nhắc đến thi phẩm "Sóng”- sóng của biển khơi, sóng của lòng em, và sóng của tình em.

Xuân Quỳnh là một trong những nhà thơ nữ xuất sắc trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ
cứu nước. Thơ Xuân Quỳnh là tiếng nói của người phụ nữ giàu yêu thương, luôn khao khát hạnh phúc
bình dị đời thường; đồng thời cũng là tiếng lòng của một người nhiều âu lo, luôn day dứt, trăn trở
trong tình yêu. Chị viết nhiều và viết rất hay về tình yêu, trong đó “Sóng” là một bài thơ tiêu biểu,
được Xuân Quỳnh sáng tác ở bãi biển Diêm Điền vào năm 1967, in trong tập “Hoa dọc chiến hào”.
Đến với Xuân Quỳnh và “Sóng”, thơ ca Việt Nam hiện đại mới có được một tiếng nói bày tỏ trực tiếp
những khao khát tình yêu vừa hồn nhiên tươi tắn, vừa chân thành đằm thắm của một trái tim phụ nữ
đang yêu. Bài thơ mang âm hưởng của những con sóng biển, ẩn vào đó là những con sóng lòng đang
khao khát tình yêu mãnh liệt. Bài thơ có hai hình tượng song song và tương trợ lẫn nhau, đó là “Sóng”
và “Em”, cả hai đã cùng nhau tạo nên nét riêng biệt cho bài thơ.

Ngoại cảnh không biến mất hoàn toàn khỏi những đường nét tô tạo bởi tác giả trong các tác phẩm văn
học nói chung, thơ ca nói riêng. Ngoại cảnh, ngược lại, bấu rễ vào bề mặt thi từ, nảy nở những diện
mạo phát sinh vượt xa ra khỏi quy luật vật lý của thực tiễn để trở thành một sứ giả phát vọng tiếng tù
và vang lên từ tầng vỉa sâu thẳm nơi tâm thức nhà thơ. Lắm khi, nó chỉ là một thoáng hiện vô tư từ
dòng chảy tự nhiên của xúc cảm thi nhân, nhưng hẳn nó không hư biến, hư mờ mà được dự phần vào
quá trình phát ngôn của cảm xúc:

Trước muôn trùng sóng biển

Em nghĩ về anh, em

Em nghĩ về biển lớn

Từ nơi nào sóng lên?

Không gian ngoại tại đã được chuyển dịch từ ký ức thực tế sang thành nhãn quan thi vị. Cửa biển
Diêm Điền đã gieo cấy sẵn một hạt mầm tương quan giữa cái bao la, bất tận nơi chân trời với niềm
nghĩ suy mênh mang, khắc khoải nơi tâm hồn của "Em". Bằng cách đó, “sóng biển" như nghe theo
tiếng vẫy gọi của con người và lảo đảo thoát lìa khỏi đường chân trời cố định để vỗ đập ngân nga theo
sự vận động của nỗi niềm nội sinh trong tâm khảm "em". Ở đây, bản thể của "em" và "sóng" được
chiết tách ra, không đồng nhất, không giao nhau triệt để. Bởi lẽ, trong âm hưởng thơ và bối cảnh
không gian thi ngữ tạo lập nên, cần thiết phải có một khoảng cách giữa hai đối tượng trữ tình này
nhằm để "em" có thể định hình rõ ràng sự chuyển động của ý thức bên trong trái tim của mình. Nhưng
khoảng cách ấy không khiến "em" và "sóng" trở nên rời rạc, lung lay mà mối quan hệ ấy được giữ
vững theo tiến trình đồng nhịp của cách “sóng” vỗ bờ và cách “em” không dừng “nghĩ suy. Cụm từ
"muôn trùng” đã khai mở rộng lớn không gian của biển cả, tấp nập lũ lượt từng cơn “sóng biển”; để
rồi, cũng chính nghĩa ý từ cái "muôn trùng” ấy, độc giả cảm được cả cái bất tận trong không gian cảm
xúc của chủ thể “em”. Và như thế, dòng tâm tư của “em” được biểu lộ trong sự cân đối hài hòa của
phép điệp cấu trúc ngay sau đó:

"Em nghĩ về anh, em

Em nghĩ về biển lớn"

Động từ “nghĩ” như vẫy gọi mọi cung cách của sự yêu. “nghĩ” là phần trí năng cơ bản của con người,
thuộc về cấp độ nhận thức lý tính. Nhưng âm hưởng của "nghĩ” trong sự yêu Xuân Quỳnh toát ra từ
hai dòng thơ trên lại phần nhiều cho ta thấu đạt nó ở vai trò cảm xúc hơn là lý tính. Cảm xúc của "em"
đối với "anh", của "em" đối với chính mình, của "em" đối với trăn trở, của "em" đối với âu lo. Trong
động từ “nghĩ” được điệp lại hai lần đó, độc giả chu du tại một vùng sinh địa của nỗi niềm, dao động
biến chuyển khôn nguôi của nỗi nhớ. À ra là thế, “nghĩ ở đây là một dạng thức biểu hiện của nỗi nhớ,
là trạng thái ấy luôn thường trực, luôn ám gợi, luôn ứ đọng tồn tại ở mọi thời khắc trong "em" nên bao
giờ "em" cũng phải “nghĩ”. Dù là thiên hướng của “nghĩ” thuộc về phạm trù của trái tim nhưng nó
không ly khai toàn bộ khỏi sự tỉnh táo nơi cửa ngỏ lý tính. Bởi lẽ rằng trong dòng chảy “nghĩ suy đó,
"em" không chỉ dành nó cho riêng ai, hoặc anh, hoặc em và em dành nó cho cả đôi ta. Đối tượng mà
suy "nghĩ" của "em" hướng đến là "anh, em". Việc bố trí dấu phẩy ở giữa "anh" và "em" đã khiến cho
cấu trúc dòng thơ bị gãy, nhịp thơ bị tách biệt giữa chừng. Nhưng bởi chủ ý của cách bố trí như thế
mà việc “nghĩ ngợi, suy tư có sự can dự tỉnh táo của lý tính. Ở chỗ, “em” đã dành thì giờ để hồi tưởng
mọi thứ về “anh", ấy có thể là dáng hình "anh", điều "anh" thích, thứ "anh" yêu, xúc cảm “anh” đang
có, nét mặt “anh” buồn, nụ cười "anh" vui, v.v - mọi thứ thuộc về "anh". Và rồi, “em” còn “nghĩ” đến
bản thân "em", ấy có thể là niềm hạnh phúc ấp ủ ở thì giờ "em" được bên "anh", khi "em" nấu bữa
ngon chờ “anh” về, sự hờn dỗi đầy thương mến của "em" đối với "anh", v.v. Dấu phẩy đã phân chia
sự gắn kết trong cụm từ "anh" - "em", để thực hiện một chức năng độc đáo mà có lẽ thể hiện rõ ràng
sự chín nở của một tình yêu trưởng thành: Chức năng tự đánh giá, tự nhìn nhận, phân tích và suy
ngẫm những giá trị riêng biệt của mỗi người trong tình yêu. Bởi lẽ, tình yêu mang đặc thù kết nối,
nhưng sự kết nối ấy chỉ được thiết lập bền vững khi mỗi người có những cảm nhận riêng, nghĩ suy
riêng và định hướng riêng. Cần thiết phải hiểu rõ mình trước khi chủ động kết nối, nhất quán tâm tư
và tấm lòng với người mình yêu. Trong một cuộc yêu lâu bền, nếu chỉ giữ một khát vọng đồng nhất,
hòa lẫn vào nhau thì sự yêu ấy đã trở thành bản sắc của thôn tính và lấn lướt chứ không còn là hành
trình kết nối nhằm gầy dựng cho tương lai chung nữa rồi. Hiểu sâu và thấu đạt tường tận điều đó,
Xuân Quỳnh đã xây dựng động từ “nghĩ" với đồng thời hai chức năng cảm xúc và lý tính để soi xét và
cảm nhận về chính bản thân mình và cả người mình yêu. Dấu phẩy đã phân chia cụm từ "anh em" ly
của tình cảm mà chủ yếu thuộc về việc định hướng cho “nghĩ suy được rõ ràng hơn, chân xác hơn,
tiến sâu hơn vào địa hạt tâm thức của cả "anh" và chiết tự: từ "anh", "em" đến "biển lớn" - sự cộng
hưởng thi ngữ như thế khiến thành "anh, em" nhưng sự chia tách ấy không phải là là chủ ý biểu đạt sự
chia "em". Ngay dòng thơ sau đó, sự phân tích ấy đã được kết nhập lại thành "biển lớn”. Vậy là, khi
những “nghĩ suy khởi phát theo nhịp điệu của “muôn trùng sóng biển”, từng dòng suy ngẫm hòa lẫn
với tiếng thở của hải phận khơi xa. Quá trình gắn kết ấy đồng thời đã để đôi ta quyện hòa vào nhau,
không còn là những chủ thể riêng biệt như “anh, em" nữa mà giờ đây, đôi ta là "biển lớn", chúng mình
cùng nhau mê say gắn kết, tay nắm, môi kề, vai cận và hướng đến một điều chung nhất là cuộc đời
chung của chúng mình. Hai dòng thơ hài hòa được xây dựng bằng phép điệp cấu trúc, lại còn mang
ứng dụng của phép điệu hồn thơ vừa có chiều sâu trong nội dung lại vừa bền chặt, logic trong hình
thức cấu tạo. Khi đã gắn kết quyện hòa, giờ đây, “biển lớn” là cuộc đời chung của lứa đôi, là không
gian tình yêu, vùng sinh địa tuyệt hảo của xúc cảm, miền hồn của ưu tư. Và rồi, tiếp tục cho sự ngẫm
“nghĩ” ở hai dòng thơ trước, dòng thơ cuối của khổ vang ra tiết tấu nghi vấn:

“Từ nơi nào sóng lên?"

một sự hiện hữu mờ nhạt nào đó, một cái gợi nhớ nào đó, một cái đắm say thoáng chợt nào đó - nó là
một phức hợp tổng hòa những cái không chắc chắn gây ra trong tâm thức của con người và làm sao
người ta có thể tìm tòi ra được nguồn cội rõ ràng của tình yêu nếu mỗi thời khắc trôi qua, người ta
luôn cảm nhận được vô vàn những biến động chập chờn trong suy nghĩ nội tại và ngoại cảnh bên
ngoài. Tình yêu không được hiện hữu để người ta truy nguyên, bởi vì nó không có một ý nghĩa nhất
định tại điểm xuất phát của nó, dẫu là “một buổi chiều", dưới "nắng nhặt" hay trong gợn “gió hiu hiu:"

"Làm sao cắt nghĩa được tình yêu

Có nghĩa gì đâu một buổi chiều

Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt

Bằng mây nhè nhẹ gió hiu hiu"


Xuân Diệu đã từng ý thức rõ ràng điều đó và đã tuyên ngôn nên một lời khẳng định cho sự bất khả
diện kiến nguồn cội của tình yêu. Và rồi Xuân Quỳnh cũng đã tìm đến, giữa nơi giao thoa miền trời,
miền biển, miền hồn để thốt nên một lời thừa nhận giàu mỹ cảm và nữ tính: "Em cũng không biết
nữa", tiếp nối đó là một câu hỏi đính kết tại cuối dòng thơ khép lại dòng chảy thi vị của tổng thể toàn
khổ:

"Khi nào ta yêu nhau"

Lạ lùng thay, khi trong thơ ca, sự tồn tại của trật tự ngôn ngữ cũng như cấu trúc ngữ pháp được quy
định sẵn đều trở nên bị hạn định, cô nén lại thành những hạt cát phân tán giữa không gian mênh
mông. Quy luật của ngôn ngữ chỉ là một biểu hiện mờ nhạt trong thi ca khi nó đóng góp vai trò định
hướng khả năng hiểu biết chứ không trực tiếp dự phần vào cách thức thấu cảm những ý nghĩa do nhà
thơ biểu đạt. Trong dòng thơ này, Xuân Quỳnh sử dụng từ để hỏi rất rõ ràng ("Khi nào") nhưng lại
không lắp đặt dấu chấm hỏi ("?") - vốn dĩ là một bộ phận quan trọng trong câu nghi vấn - ở cuối dòng
thơ. Phải hay chăng, lời nghi vấn này không phải được dùng để hỏi, để truy vấn hay để kiếm tìm hồi
đáp rõ ràng. Mà hơn hết, dòng thơ này được thiết tạo với giá trị quan trọng hơn cả là để tái khẳng định
sự bất lực của mình đối với nguồn cội nguồn của dòng chảy tình yêu. Nó không có dấu chấm hỏi cuối
dòng là để thổ lộ cho cảm niệm mà nhà thơ tự đút kết sau những nghĩ suy, dao động tự bên trong.
Cảm niệm ấy là thứ cảm niệm sâu sắc, rằng đừng gắng cố đến độ hư mòn để tìm kiếm nơi tình yêu bắt
đầu. Tình yêu có thể không có điểm bắt đầu nhưng nó rõ ràng có được điểm kết thúc (hoặc chia ly
hoặc chung thủy mặn nồng), và trong tâm thế của những con người dành niềm tin bất tuyệt cho tình
yêu và phụng thờ vị thần tình ái, có lẽ sẽ ý nghĩa hơn nhiều, giá trị hơn nhiều khi người ta dành thì giờ
và xúc cảm để đầu tư cho chặng đường mình đương đi qua, để kiến lập nên đích đến chắc chắn hơn
của tình yêu mà ở đó, ta có quyền hy vọng một hạnh phúc, một toại nguyện, một lòng tin, một khoan
thai.

Những nỗ lực kiếm tìm nguồn cội tình yêu đã tiếp nối dài hơn quãng ngân của niềm nhung nhớ và rồi
nỗi nhớ ấy dâng tràn ra khỏi vòng cương tỏa của hạn định về thời không và tác động lên cả cấu trúc
của tứ thơ:

"Con sóng dưới lòng sâu

Con sóng trên mặt nước

Ôi con sóng nhớ bờ

Ngày đêm không ngủ được

Lòng em nhớ đến anh

Cả trong mơ còn thức"

Tổng thể mạch thi hứng của cả bài thơ “Sóng” là thế vận động tương phùng của hai chủ thể "sóng" và
"em". Lắm khi, chúng biệt tách nhau ra để soi rọi và thấu cảm lẫn nhau, lần tìm những sự chung nhất
trong cách “sóng” vỗ bờ và cách “em” nhớ "anh". Đôi khi, hai chủ thể ấy là thực hiện thứ cơ chế bổ
trợ nhau, rồi đến xích lại gần nhau và rồi nhất quán lẫn nhau tạo dựng thành giác độ đồng quy trong tư
cách, từ biệt lập đến độ hòa quyện vào nhau. Hai dòng thơ đầu tiên của khổ thơ trên đã thể hiện rõ
ràng thứ cơ chế đó, ở chỗ, nó vừa tái hiện sự chuyển lưu của "Con sóng" ở hai vị trí cơ bản là “lòng
sâu" và "mặt nước". Cách diễn tả này nằm ở bề mặt của tứ thơ, là phần diễn tả những chuyển động và
hải phận của “sóng” giữa điệp trùng biển khơi. Và rồi từ chính những thi ngữ sẵn có đó, hiệu năng
ngôn ngữ đã kiến tạo nên một chiều kích nữa của phương hướng thấu đạt nội hàm ý thơ. Hiển nhiên ta
thấy rõ và ta biết chắc rằng trạng thái thường trực của “sóng” là sự chuyển động không dừng, liên hồi,
không đứt quãng, không ngơi nghỉ ở cả trên bề mặt" hay ở độ “sâu” bên dưới. Chính cách thức
chuyển động liên tục, vận hành hay di dịch đổi thay đó kết hợp cùng với những danh từ đa nghĩa như
“mặt" và "lòng" đã làm xuất hiện nên một chủ thể nữa nằm ở bề sâu, bề sau, bề xa của ngữ từ mà đòi
buộc phải lắng đọng, soi nhìn và mở toang ra những ý hướng khả dĩ để đón nhận lấy. Phải hay chăng,
chính những "Con sóng" liên hồi lăn tăn trên “mặt" biển cũng giống như những đổi thay buồn, vui,
giận, yêu, ghen, nhớ, v.v của chính gương “mặt" nơi "em" khi đem lòng yêu "anh"? Và phải hay
chăng những "Con sóng" chuyển lưu ào ạt bên dưới "lòng” biển khơi cũng tự nó kết nối với những
biển thiên trong tấm "lòng” của em: hôm nay thương nhớ, một mai dỗi hờn, đôi ngày ghen ghét, rồi
lại thuần túy về lại với niềm thương “anh”, yêu "anh". Cách "Con sóng" tấp nập vỗ bờ, ào ạt xô vào
miền cát trắng đã khiến sinh tạo nên những sợi chỉ vô hình, bện thắt những quan sát của thi nhân tạo
nên mối quan hệ tương hỗ của "sóng" và "em". Để rồi chính "mặt nước" đầy biển động đó trở thành
khuôn “mặt" với những biểu cảm nơi "em", và "lòng sâu" của biển cả cũng ngập tràn những biến
chuyển không ngơi nghỉ tựa hồ như những khắc khoải ẩn tàng bên trong tấm "lòng" và trái tim em.
Chính cách thức vận động theo quy luật bất tận ấy của "con sóng" mà bản thân nó trở thành chính nó.
Ấy là cung cách của “sóng” và là một hệ thức quy chiếu đến trạng thái tồn tại của nó không trộn lẫn
với những gì khác được:

“Ôi con sóng nhớ bờ

Ngày đêm không ngủ được"

Nhưng ngay cả chính quy luật vốn thuộc về tạo hóa của nó mà "con sóng" dưới nhãn quan thi ca của
Xuân Quỳnh cũng mang âm hưởng của nhân tính (nhờ phép nhân hóa thông qua hai động từ "nhớ" và
"ngủ"), dẫu chỉ là vụt hiện ngang qua, nhưng vẫn còn lưu giữ lại như thể để cầm cố một tư thế chân
thực và giàu sức gợi. Để rồi tiếp nhịp "con sóng", sự rạo rực không dừng ấy và cung bậc ẩm giữ
không buông những thế sầu ngao ngán, những nhớ mong bồn chồn đã khiến "em" đi đến với lời thú
nhận giản đơn mà đầy ưu tư:

“Lòng em nhớ đến anh

Cả trong mơ còn thức"

Bố cục tổng quát của toàn thi phẩm hài hòa cân đối trong thể thơ 5 chữ, xếp gọn trong những khổ 4
dòng, Nhưng đến đoạn thơ này, dường như thể thức ngữ pháp đã trào dâng cấp tiến theo tỉ lệ của nội
lực tâm hồn, nỗi “nhớ” đã lấn lướt và bao trùm tứ thơ, nó khiến cho nhịp thơ được giãn nới hơn và
làm dôi ra hai dòng thơ chỉ để biểu đạt trực tiếp nỗi lòng của "em". Vậy là không còn tựa vào quy luật
hay hình hài khách quan nào nữa, cơn nhớ nhung đã liên tục vận động để bật ra, thổ lộ một cách trực
tiếp. Lắm khi đọc thơ Xuân Quỳnh, người ta miên man đi dọc theo những hẻm nhỏ xuyên ngang,
hướng dọc để lần mò đi tìm nguồn cội của cách trái tim sẻ chia nhịp đập của nó cho sự yêu, sự nhớ, sự
thương; nhưng người ta chợt không nghĩ đến hơi hướng nữ quyền bản lĩnh hàm chứa ở trong những
thi ngữ được biểu đạt ra từng dòng thơ. Tình yêu, với người phụ nữ đã được gắn ghép với họ bằng
thiết chế phong kiến một thời nên việc một người phụ nữ trực tiếp tỏ bày rành mạch, tường tận nỗi
nhớ đến thể dường như sẽ đặt để họ vào những phán xét về đức hạnh, về sự tao nhã, sự lịch thiệp.
Cảm cho cùng, điệu ngân trong đôi dòng thơ trên kết nối tự nhiên với mỗi con người, nó trực tiếp đi
vào và tâm hồn ta đón chào nó bởi mọi nồng nhiệt, mến thương nhiệt thành chứ không dùng lăng kính
của thiết chế để soi rọi, phán xét nó. Ấy là bởi, gam màu nữ quyền được chị biểu đạt một cách phù
hợp với nghĩ suy và cảm xúc thực tế trong phương diện tình yêu. Ở địa hạt tình yêu, dưới cảm niệm
của Xuân Quỳnh, sự kết nối diễn ra giữa hai đối tượng là bình đẳng, vì yêu là đặc tính của con người,
là quyền hạn bất khả phân ly của nhân quyền, thuộc về sự biểu hiện cơ bản của nhân tính nên chị đã
đặt bước chân của mình trên đại lộ thế kỷ mới để khẳng định về cách thức tồn tại của tình yêu nơi
người con gái cũng có đủ đầy quyền hạn để tuyên ngôn một chân lý tâm hồn: "Lòng em nhớ đến anh".
Nỗi nhớ ấy không những tác động đến bố cục ngữ pháp tổng quan của toàn khổ thơ, mà nó còn làm
đảo lộn cả chiều kích diễn biến của quy luật thời không, nó chuyển dịch nỗi niềm và sự khát vọng đến
mức độ xâm nhập cả vào tiềm thức:

"Cả trong mơ còn thức"

Văn chương không tuân theo lề luật cục bộ như những hình thái ý thức khác. Sự tồn tại của văn
chương là tập hợp tự do của những biến tố cảm xúc nội sinh trong cảm tưởng và suy nghiệm đặc thù
của tác giả. Vì lẽ đó, Xuân Quỳnh đã không dùng đến hệ thống các tính từ đặc tả cường độ của động
từ “nhớ. Thay vào ấy, chị sử dụng dòng thơ trên để gợi tả nỗi “nhớ" tiềm tàng nhưng đầy ám gợi. Sự
ám gợi lấn lướt diễn biến của thực tế và rồi đeo bám vào trong cả cõi giới của giấc “mơ" - biên thùy
cùng cực nơi tiềm thức vẫy gọi và khơi mở những tri năng đặc biệt mà người ta chưa bao giờ hình
dung đến. Nơi đó, nó không tồn tại những sinh thể hữu cơ để ta chạm, ghì, siết. Nơi đó, nó không kết
nối với ta bằng phương diện vật chất thuần túy như lệ thường đời sống, nó thừa nhận những cái phi lý
nhưng lại là chân lý ("mơ còn thức"). Mà ở đó, nó là nơi dung chứa những ý niệm về xúc cảm, vùng
đất tập hợp các biến thể thuộc về nghĩ suy và trăn trở mà chỉ khi nào nồng độ và cường độ cảm xúc
phát triển đến độ mãnh liệt thì cánh cổng xâm nhập vào cõi giới này mới mở bật ra. Trong tiềm thức
Xuân Quỳnh, trạng thái thao thức thường trực cứ thầm thì theo đó ám gợi và khơi vẫy chính là trạng
thái của nỗi “nhớ”. Nỗi “nhớ” đã kết nhập hai tọa độ độc lập của thực tại và tiềm thức lại, nó khiến
cho trái tim và lý trí của Xuân Quỳnh được phủ trùm lớp vải Acacia đan dệt từ những rung động chân
thực hơn bao giờ hết. Yêu là vậy, lời nói có thể khiến tình yêu trở nên hoa mỹ bằng những ý vị thanh
nhã mỹ miều, hành động có thể đốc thúc tình trường trở nên nồng hậu và phấn khởi nhưng có lẽ, chỉ
bằng những thổ bày bộc bạch tâm tư, thốt nên từ miền hồn của tâm thức với những thảng thốt, ân cần,
xao nhãng và hoài cảm, phi lý và nhiệt thành, chân ái và đầy xót xa thì câu chuyện tình yêu mới được
lắp kín bởi sự thủy chung, mới đủ sức minh chứng cho lòng chân thành. Đặt trạng thái cảm xúc đó
của Xuân Quỳnh dưới góc độ phân tâm học phát triển bởi nhà tâm lý học Sigmund Freud thì có lẽ, thứ
trạng thái "nhớ nhung ấy là minh chứng giàu sức thuyết phục cho quan điểm "Chỉ trong giấc mơ,
người ta mới diện kiến được những gì chân thực nhất”. Và bằng cách đó, Xuân Quỳnh cứ giăng mành
ý niệm về tình cuộc của mình bằng tất thảy những gì biến động và đảo chao, dường như chị đã vẽ tình
yêu bằng bóng đêm, họa tâm tình bằng nỗi nhớ, khắc suy tư bằng nỗi niềm nên mỗi tiếng yêu là một
lời thổn thức, phản hồi chân thật bằng những tỏ bày ý vị, xuyến xao, ...

Nếu ví cấu trúc nghệ thuật của tổng thể các khổ thơ trên là một vùng biển khơi mênh mông thì thể thơ
năm chữ với tiết điệu đặc thù vang vọng ra từ đó đóng vai trò như tạo lập nên âm điệu của những con
sóng vỗ xô liên tục không dứt vào bờ bãi. Trên khơi trường nghệ thuật ấy, những ngôn từ giản dị
nhưng giàu sức khơi vẫy và đan gài hệ thống hình ảnh ẩn dụ ở nhiều tầng vỉa đã khiến cho chủ lưu
tình cảm xuyên suốt thi phẩm trôi chảy dào dạt không đứt quãng. Giữa vùng biển mênh mang đến thế,
độc giả đã không bị cuốn lạc vào vùng tịch địa âm u của những ám ảnh, ảo mộng hư vô, mà thay vào
đó, sự vận động luân lưu từ tách rời đến bấu quyện vào nhau giữa hai chủ thể "sóng" và “em” đã đóng
vai trò như ngọn hải đăng rọi soi hướng phát triển nghệ thuật trở nên logic, hài hòa với ý hướng diễn
đạt về tư tưởng chủ đạo của tác giả cầm trịch nhất quán từ đầu đến khi khép lại. "Sóng" là thi phẩm
tiêu biểu nhất của đời thơ Xuân Quỳnh, vì vậy, không phải vô căn cứ khi xác định rằng "vẻ đẹp nữ
tính" trong "Sóng” đã dự phần đáng kể vào quá trình thiết tạo nên nét đẹp ấy trong toàn thể không
gian thơ do Xuân Quỳnh sáng tác. Vẻ đẹp nữ tính ấy vừa mang tính truyền thống, vừa mang nét hiện
đại. Truyền thống ở chỗ, vẻ đẹp ấy luôn toát ra từ chính nhân phẩm cao đẹp, bằng sự nhẹ nhàng, thanh
nhã, thiết tha chứ không cuồng nhiệt táo bạo; vẻ đẹp ấy được tô vẽ bởi sự son sắt thủy chung, niềm tin
và khát vọng đến những điều tốt đẹp cho người thương, mái ấm và những phận kiếp cô liêu, nó được
đắp xây bởi ý nguyện tích cực lẫn trạng thái âu lo thường trực cho những biến cố mảy may xảy đến
bao giờ chẳng hay. Mặt khác, vẻ đẹp nữ tính trong đời thơ Xuân Quỳnh cũng thể hiện một ý niệm
hiện đại về vai trò chủ động của phụ nữ đối với tình yêu, rằng chị bày tỏ sự rung cảm của trái tim, nỗi
nhớ và lời yêu đối với người mình yêu bằng tất thảy những lời lẽ chân thành, thẳng thắn nhưng vẫn
tinh tế, đằm thắm trong nét đẹp dịu dàng nồng hậu của người phụ nữ Việt Nam.

Những đoạn thơ trên và vẻ đẹp nữ tính trong thơ Xuân Quỳnh đã đem lại cho bối cảnh thời đại hiện
nay chiều sâu tâm lý và khơi vẫy mỗi cá nhân hướng về trái tim của mình - nơi phát sinh, cội nguồn,
căn rễ của những điều chân thật và mới mẻ luôn đợi chờ ta khám phá. Lắm người bảo rằng, sự thai
nghén và ra đời của “Sóng” dường như đã đi ngược lại với chủ lưu văn học lúc bấy giờ, khi cả nước
tiếp nhịp vào trong bản hùng ca dân tộc kháng chiến cứu quốc. Nhưng nào có đâu, nào phải đâu, nào
thật đâu..., bởi lẽ giữa những hồi bom đạn thả dài trên những miền đất rạng ngời của non sông, giữa
dòng chảy ào ạt dồn dập của văn chương cách mạng, giản đơn rằng, "Sóng" cùng vẻ đẹp nữ tính mà
Xuân Quỳnh trao gởi chỉ thuần túy như một đóa "Hoa dọc chiến hào" để mỗi cá nhân có cơ hội bày tỏ
dòng tâm sự và cảm nhận lặng lẽ những điều tâm hồn bên trong đang thổn thức. Chính cách mà
"Sóng” nở rộ mang theo mùi hương tao nhã, êm đềm của nó đã khiến cho mỗi người được sống dậy
những gì chân thật nhất và giữ niềm tin mãnh liệt hơn về một đời sống đáng mơ ước. Bối cảnh khi
dịch Covid đã lấn lướt xóm cửa, làng mạc, khi bè lũ "quân thù” kinh hãi ấy đang đe dọa xã hội ta
bằng cơn ác mộng về cái chết và sự chia lìa, đọc "Sóng" và thấu cảm đủ đầy nét đẹp nữ tính cùng
những giá trị thuần hậu mà bài thơ đem lại, mỗi cá nhân chúng ta lại có cơ hội ấp ủ những ý niệm cao
đẹp, khơi sâu tầng vỉa nghĩ suy nội tại để kiếm tìm động lực cho trái tim, cho lý trí và cho cả sự gắn
kết giữa người với người cùng nỗ lực vì một xã hội ngày một cường thịnh.

***

Khổ 1: Những cung bậc trạng thái của sóng và cũng là những cung bậc cảm xúc của người phụ
nữ khi yêu.
Mở đầu bài thơ là những cung bậc trạng thái khác nhau của sóng, đồng thời đó cũng là những trạng
thái tâm lý đặc biệt của người phụ nữ khi yêu: “Dữ dội và dịu êm - Ồn ào và lặng lẽ”. Bằng nghệ
thuật đối lập, nhà thơ đã gợi lên vẻ đẹp của những con sóng biển với những trạng thái khác nhau: “dữ
dội -“dịu êm”, “ồn ào” - “lặng lẽ”. Những lúc bão tố phong ba thì biển “dữ dội”, “ồn ào” còn khi sóng
gió qua đi, biển lại quay trở về với vẻ hiền hòa vốn có của mình “dịu êm” -“lặng lẽ”. Ẩn đằng sau
những cung bậc trạng thái đối lập nhau của sóng là cái tôi trữ tình của nhà thơ, đó là những cung bậc
cảm xúc của em. Tính khí của người con gái khi yêu cũng như sóng vậy: lúc “dữ dội, ồn ào”, với
những ghen tuông hờn dỗi khi lại thu mình trở về với vẻ nữ tính, duyên dáng “dịu êm, lặng lẽ” vốn có
của mình. Để kết nối giữa những trạng thái đối lập của sóng cũng như của em nhà thơ đã sử dụng liên
từ kết nối “và” làm cho những cung bậc cảm xúc ấy tuy đối lập nhưng lại rất hài hòa, dễ thương.

Nhà thơ sử dụng biện pháp nghệ thuật nhân hóa để nói đến hành trình đi tìm biển lớn của sóng: “Sông
không hiểu nổi mình/ Sóng tìm ra tận bể”. “Sông” là không gian chật hẹp, tù túng; “Bể” là biển, là
khoảng không rộng lớn, bao la. Chính vì quá chật hẹp và tù túng nên sông không hiểu nổi những đam
mê, những khát vọng lớn lao của sóng, vậy nên sóng đã quyết vươn ra đại dương bao la để thỏa sức
vùng vẫy, để tìm thấy sức sống mạnh mẽ của mình với những giá trị đích thực. Tình yêu của em cũng
vậy, em không cam chịu sự tầm thường, nhỏ hẹp, em muốn vươn tới cái lớn lao để hiểu sâu hơn về
tâm hồn mình, về tình yêu dành cho anh. Đây là một quan niệm mới mẻ, hiện đại trong tình yêu: tình
yêu của người con gái hiện đại không thụ động khi yêu mà chủ động vươn tới những điều cao cả, vĩ
đại. Thật mạnh bạo mà cũng thật quyết liệt!

Xuân Quỳnh viết “Sóng”, chị đang hát những khúc hát về tình yêu để đến bây giờ, biết bao nhiêu thập
kỷ trôi qua rồi, những độc giả vẫn dành biết bao nhiêu tình yêu của mình cho một mảnh “tình thơ” đã
cũ. Và tình yêu trong “Sóng” – mãi mãi là khát vọng của tuổi trẻ, của lứa đôi:

“Ôi con sóng ngày xưa


Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ”

Nỗi khát vọng tình yêu, luôn rạo rực trong trái tim con người và trong quan niệm của Xuân Quỳnh là
khát vọng muôn đời của nhân loại mà quyết liệt nhất là tuổi trẻ. Nó cũng như sóng, mãi mãi trường
tồn, vĩnh hằng với thời gian và không gian. Từ ngàn đời xưa, con người đã đến với tình yêu và mãi
mãi vẫn cứ đến với tình yêu như một chân lý không thể thay đổi, như nhà thơ Xuân Diệu từng viết:
“Làm sao sống được mà không yêu – Không nhớ, không thương một kẻ nào”. Ngay đầu đoạn thơ thứ
2, tác giả sử dụng thán từ “Ôi” như một tiếng nấc thổn thức khi nhận ra sự nhiệm màu của đất trời.
Cùng với đó, là nghệ thuật đối lập giữa “ngày xưa” – “ngày sau” lại càng làm tôn thêm vẻ đẹp của
sóng. Sóng là thế, muôn đời vẫn thế không bao giờ thay đổi, vẫn “dữ dội” - “dịu êm”, vẫn “ồn ào” -
“lặng lẽ” như tình yêu tuổi trẻ, không bao giờ đứng yên.
Đúng vậy, tình yêu luôn luôn song hành cùng tuổi trẻ, tuổi trẻ mãnh liệt nhất là khi yêu, vì tình yêu
mà sẵn sàng dâng hiến, sẵn sàng bất chấp tất cả. Bởi đó là giai đoạn đẹp nhất của đời người, giai đoạn
mà người ta ví “thanh xuân như một cơn mưa rào, dù cho bạn từng bị cảm lạnh vì tắm mưa thì bạn
vẫn muốn được đắm mình trong cơn mưa ấy lần nữa”. Nếu đại dương bao la vô tận mang nhịp đập
của những con sóng biển thì trong lồng ngực của tuổi trẻ lại thổn thức với muôn nhịp điệu của yêu
thương, ở đó là: “Nỗi khát vọng tình yêu/ Bồi hồi trong ngực trẻ”. Tình yêu là khát vọng, là ước mơ
của biết bao người và tình yêu làm cho tuổi trẻ phải “bồi hồi”, “xao xuyến”, phải nhớ nhung điên
cuồng, mà chính xác hơn phải nói là “cuộc sống này sẽ thật vô vị nếu không có dư vị ngọt ngào của
tình yêu”. Phải yêu, phải say đắm trong tình yêu, trong ánh mắt của kẻ si tình thì người ta mới hiểu
được cái cảm giác “bồi hồi” trong lồng ngực là như thế nào!

Những băn khoăn, suy nghĩ về sự khởi nguồn của tình yêu khi đứng trước biển lớn.
“Trước muôn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên?”
Đứng giữa biển rộng mênh mông, con người ta thường cảm thấy choáng ngợp, lo sợ trước sự hùng vĩ
của nó. Và chính điều đó, làm cho nữ thi sĩ cảm thấy băn khoăn, trăn trở về tình yêu của mình. Sự trăn
trở, âu lo đó hoàn toàn có căn cứ được thể hiện qua khổ thơ thứ 3, với hai lần điệp ngữ “Em nghĩ...
Em nghĩ...”. “Em nghĩ về anh, em/Em nghĩ về biển lớn”, nghĩ về “biển lớn” là nghĩ về những điều lớn
lao, về nguồn gốc bí ẩn của tự nhiên là sóng; nghĩ về “anh và em” là nghĩ về khởi nguồn tình yêu đôi
lứa, nghĩ về tình yêu của chúng ta. Sóng vì nhớ bờ mà vượt qua muôn trùng hải lý để hướng về bờ.
Liệu rằng, tình yêu của anh có đủ lớn để vượt qua sóng gió, vượt qua khó khăn thử thách để luôn
hướng về em như sóng biển được không? Những suy nghĩ ấy, những trăn trở ấy cuối cùng được dồn
trong một câu hỏi tu từ cuối khổ thơ “Từ nơi nào sóng lên?”. Đây cũng là câu hỏi làm tiền đề cho
những suy tư, trăn trở của nhà thơ Xuân Quỳnh trong tình yêu ở khổ thơ thứ tư.

Lý giải nguồn gốc của sóng, qua đó nhà thơ tự bâng khuâng về khởi nguồn của tình yêu:
“Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau”
Mọi quy luật tự nhiên đều có sự mình chứng, lý giải từ các nghiên cứu khoa học: Sóng bắt đầu từ gió,
gió bắt đầu từ sự di chuyển của không khí, từ nơi có áp suất cao xuống nơi có áp suất thấp, cũng như
nước chảy từ chỗ cao xuống chỗ thấp. Vậy mà, Xuân Quỳnh lại không thể lý giải được nguồn gốc của
gió và đành lắc đầu bất lực: “Em cũng không biết nữa”. “Không biết” ở đây không có nghĩa là Xuân
Quỳnh không hiểu gió bắt đầu từ đâu mà khi đứng trước sự bao la, rộng lớn của biển cả, đứng trước
những băn khoăn vô định của tình yêu, người ta không thể giải thích được bằng lý lẽ thông thường.
Tình yêu không giống như một phép “ 1 + 1 =2”; "2 x 2 = 4", mà nó là một hiện tượng tâm lý đầy bí
ẩn, không thể giải đáp được về thời điểm xuất phát hay nơi tình yêu bắt đầu. Như một vị triết gia
người Đức đã từng nói: “Cái đẹp không ở đôi má hồng của người thiếu nữ mà ở trong ánh mắt của kẻ
si tình", hay Xuân Diệu trước đó đã từng băn khoăn “Làm sao cắt nghĩa được tình yêu?” thì nay, lại
một lần nữa Xuân Quỳnh đưa câu hỏi mà bất kỳ người phụ nữ nào khi yêu cũng đều muốn giải đáp
lên một tầm cao mới, nhưng thật tiếc là đến nay vẫn chưa ai có thể giải đáp được: “Khi nào ta yêu
nhau?”. Chính vì không thể lý giải được nguồn gốc mà tình yêu trở nên huyền bí hơn, càng huyền bí
lại càng làm cho người ta khao khát khám phá, và càng khám phá lại càng thấy thiêng liêng cao quý.
Hay nói đúng hơn, đối với tình yêu chân thành không toan tính, không vụ lợi thì càng yêu càng say
đắm, càng say đắm càng khó lý giải.

Nỗi nhớ là câu chuyện của tình yêu, dù chúng ta có đang sống ở đâu, có là ai và ở thời đại nào đi
chăng nữa thì ai cũng mang cho mình những nỗi niềm nhớ nhung trong tình yêu mà thôi. Viết về nỗi
nhớ, Xuân Quỳnh như đang được sống thỏa với trái tim:
“Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”
Tình yêu bao giờ cũng gắn liền với nỗi nhớ, mà xa cách thì nỗi nhớ lại càng da diết hơn, có lẽ ta cộng
theo cấp số nhân cũng không thể diễn tả được hết nỗi nhớ ấy. Như thấu hiểu được điều đó, Xuân
Quỳnh đã dành riêng cho nhân vật trữ tình của mình một khổ thơ đặc biệt chỉ để bày tỏ nỗi nhớ. Sóng
không chỉ mang trong mình trạng thái “dữ dội” -“dịu êm”, “ồn ào”-“lặng lẽ” mà ở đây ta còn chứng
kiến thêm con sóng “dưới lòng sâu” – “trên mặt nước”, qua phép đối và hình thức lặp cấu trúc: “Con
sóng... Con sóng...” nhà thơ đã tạo nên sự trùng trùng điệp điệp của những con sóng với nhiều dạng
thức khác nhau. “Sóng dưới lòng sâu” là những con sóng ngầm thể hiện chiều sâu, không ai thấy và
cũng khó có thể cảm nhận được, chỉ có nó mới hiểu mình đang cồn cào, da diết đến mức nào; “Sóng
trên mặt nước” là những con sóng nổi tung bọt trắng xóa trên mặt biển ngày đêm gào thét cùng đại
dương bao la, nó thể hiện chiều rộng. Dù sâu hay rộng thì tất cả đều quy tụ lại tượng trưng cho tình
yêu và nỗi nhớ của em dành cho anh. Sóng là em, em chính là sóng, tuy hai nhưng là lại một, tuy một
mà lại là hai. Cũng giống như sóng, tình yêu của em, nỗi nhớ của em không đơn thuần là nhớ theo
cảm tính mà nỗi nhớ ấy vừa có chiều sâu vừa có chiều rộng. Xuân Quỳnh đã vô cùng tinh tế khi mượn
hình ảnh sóng động để ẩn dụ cho nỗi niềm của người phụ nữ khi yêu: “yêu” da diết dữ dội; “nhớ” cồn
cào mãnh liệt.

Ta lại gặp thán từ “Ôi” thêm một lần nữa trong lúc nỗi nhớ về bờ của sóng đang dâng trào. Bờ là đích
đến cuối cùng của sóng. Vì nhớ bờ mà sóng bất chấp không gian rộng lớn, bất chấp “muôn trùng sóng
bể”, bất chấp cả thời gian “ngày đêm” để vươn về bờ một cách nhanh nhất. Sóng khao khát gặp bờ
đến độ “không ngủ được”. Dường như bốn câu thơ không đủ để bày tỏ nỗi nhớ, Xuân Quỳnh đã tự
thêm vào khổ thơ thứ 5 hai câu thơ nữa để hoàn thiện giai điệu nỗi nhớ. Chủ thể trữ tình trong nỗi nhớ
da diết kia, không ai khác chính là em: “Lòng em nhớ đến anh/ Cả trong mơ còn thức". "Lòng” là nơi
sâu kín nhất của người phụ nữ, để nói được những tâm tư tình cảm ấy ra thật sự là một điều rất khó
nhưng nữ thi sĩ đã bộc lộ một cách thẳng thắn và chân thành. Điều đó chứng tỏ, tình yêu của em dành
cho anh phải mãnh liệt đến nhường nào thì mới có thể làm được như vậy. Và Xuân Quỳnh phải là một
hồn thơ rất hiện đại thì mới có thể bộc lộ một cách tinh tế như thế! Sự tương đồng giữa sóng và em,
giữa một hiện tượng thiên nhiên với trạng thái con người đó là nỗi nhớ, sóng nhớ bờ và em nhớ anh,
đó là quy luật muôn đời của tình yêu. Đố ai yêu mà không nhớ, làm gì có ai nhớ mà không yêu bao
giờ! Nỗi nhớ thường trực mọi không gian và thời gian, nỗi nhớ không chỉ tồn tại trong ý thức mà còn
len lỏi vào tiềm thức, xâm nhập vào cả cõi mơ. Vậy nên, nhớ đến nỗi “cả trong mơ còn thức” là điều
hoàn toàn dễ hiểu!

Câu chuyện của tình yêu muôn thuở không phải là chỉ riêng nỗi nhớ mà ở đó còn là khúc ca vang
vọng về một khát vọng tình yêu thủy chung. Xuân Quỳnh trải lòng mình với nỗi nhớ rồi lại ôm vào
mình một niềm khát khao về một tình yêu thủy chung:
“Dẫu xuôi về phương Bắc
Dẫu ngược về phương Nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh - một phương”
Trong tình yêu, khoảng cách và thời gian sẽ chẳng là gì, nếu chúng ta luôn nghĩ về nhau thì hình bóng
của người yêu sẽ đầy ắp trong tâm trí. Đến với khổ thơ thứ 6, sau khi thể hiện nỗi nhớ một cách trực
tiếp, chân thành không giấu diếm thì nhà thơ tiếp tục bày tỏ sự thủy chung son sắt của mình. Đầu mỗi
câu thơ, thi sĩ Xuân Quỳnh đã đóng vào đó những từ chỉ sự đối lập “хиôi” “ngược”,”Bắc”- “Nam”
như gợi lên sự gian nan vất vả cần phải vượt qua khi chúng ta yêu nhau. Lại thêm “dẫu xuôi” “dẫu
ngược” nữa thì đã xa cách lại càng xa cách muôn trùng. Ở đây có điều đáng ngẫm là: Người ta vẫn
hay nói “vào Nam ra Bắc”, tức “xuôi phương Nam, ngược phương Bắc” mới đúng, nhưng trong thơ
Xuân Quỳnh chị lại nói ngược lại. Phải chăng nhà thơ muốn nhắn nhủ: Cuộc đời dẫu có thế nào đi
chăng nữa thì em vẫn mãi yêu anh. Sóng gió có làm cho phương hướng đảo lộn thì tình yêu của em
vẫn hướng về một phương duy nhất – đó là “phương anh".

Bài thơ “Sóng” ra đời khi nhà thơ Xuân Quỳnh đã từng nếm trải sự đổ vỡ trong tình yêu. Song, với
người phụ nữ hồn nhiên, tha thiết, yêu đời này vẫn luôn phơi phới một niềm tin vào tình yêu chân
thành. Dẫu biết rằng, con người là hữu hạn so với sự bao la, vô hạn của vũ trụ. Một lần nữa “em” hòa
nhập vào “sóng” để gửi gắm những nỗi niềm suy tư:
“Ở ngoài kia đại dương
Trăm nghìn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở”
Hàng trăm, hàng ngàn con sóng ở ngoài đại dương xa xôi, dù gặp muôn trùng khó khăn, cách trở,
hàng vạn hải lý xa xôi nhưng chúng vẫn luôn hướng về bờ, bờ là đích đến cuối cùng của sóng. Và đó
cũng là nghệ thuật ẩn dụ mà nữ thi sĩ mang tên Xuân Quỳnh gửi gắm để chỉ tình yêu mãnh liệt của
người con gái đang yêu. Đồng thời, ta có thể thấy, hai câu thơ cuối được thi nhân đảo vị trí như một
lời khẳng định chắc chắn, một niềm tin sâu sắc vào tình yêu dù có phải trải qua biết bao khó khăn,
nhọc nhằn đi chăng nữa. Sóng xa vời cách trở vẫn tìm được bờ như tìm về cội nguồn yêu thương,
cũng như anh và em sẽ phải cùng nhau vượt qua mọi khó khăn thử thách thì mới có thể về bên nhau,
để sống trọn vẹn trong hạnh phúc lứa đôi. Như ông bà ta đã ví:
“Yêu nhau mấy núi cũng trèo
Mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua”.
Gian nan và thách thử là điều không thể thiếu trong tình yêu, nhưng khi chúng ta đã cùng nhau nếm
trải, cùng nhau vượt qua thì sẽ là tình yêu bền vững.
Chính vì yêu nồng nàn thế, yêu sâu sắc thế mà người con gái lại tự mang cho mình những lo âu, trăn
trở về sự trôi chảy của thời gian:
“Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa”
Trong tình yêu, Xuân Quỳnh gặp khá nhiều khó khăn trắc trở, từng nếm trải những khổ đau, cay đắng
nên chị luôn dự cảm trước những giông bão cuộc đời. Những từ “tuy dài thế” – “vẫn đi qua” – “dẫu
rộng” chứa đựng nỗi âu lo, sự ngậm ngùi. Bởi tương lai, hạnh phúc còn đang ở phía trước, chúng ta
không thể biết trước điều gì sẽ xảy ra, vì thế việc ý thức được thời gian hữu hạn của đời người làm
cho nữ thi sĩ có những băn khoăn, lo lắng, cùng những trực cảm, đắn đo về tình yêu là điều không thể
tránh khỏi. Tuy nhiên, qua ý thơ, Xuân Quỳnh như muốn nhắn nhủ đến tất cả các bạn trẻ: Hãy cứ tin
tưởng vào tình yêu, tình yêu chân thành sẽ vượt qua tất cả, sẽ không vì những khó khăn, thử thách mà
bị chia rẽ. Nhạy cảm về sự chảy trôi của thời gian nên tiếc cho sự hữu hạn của tuổi trẻ với cái bao la
của đất trời, ông hoàng thơ tình cũng rất đồng cảm với Xuân Quỳnh, Xuân Diệu viết:
Lòng tôi... [...trích...] ... cả đất trời

Có thể nói, Xuân Quỳnh đã yêu thì yêu rất mãnh liệt nhưng cũng rất tỉnh táo để nhận thức những trắc
trở, thách thức trong tình yêu. Đồng thời cũng rất tin tưởng vào sức mạnh của tình yêu sẽ giúp ta vượt
qua tất cả.
Đứng trước những nỗi niềm trăn trở âu lo đó, Xuân Quỳnh tìm đến khát khao được sống mãi trong
tình yêu, một mong ước đầy nữ tính:
“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ”
Tưởng chừng như tin tưởng vào tình yêu chân thành là lời nhắn của Xuân Quỳnh gửi tới tất cả chúng
ta là đủ để nữ thi sĩ dừng bút tại đây, nhưng không cái tôi trữ tình của nhà thơ không đơn giản như
vậy. Chị còn mang trong trái tim bé bỏng của mình một khát vọng to lớn, đó là khát vọng hòa tình yêu
bé nhỏ của mình vào cái chung rộng lớn, muốn được bất tử hóa tình yêu vào cái chung vĩnh hằng.
Nếu như Xuân Diệu “muốn thâu”, “muốn cắn”, muốn chiếm lĩnh lấy tình yêu thì ở Xuân Quỳnh, một
khát khao, một mong muốn rất riêng, rất nữ tính, đó là được hóa thân, được sống là những con sóng
để được trường tồn mãi mãi, được sống mãi trong tình yêu. Cái tôi cá nhân muốn được hóa thân, được
tan ra thành trăm con sóng nhỏ, được hòa vào đại dương để vĩnh viễn hát mãi khúc ca ngàn năm. Tình
yêu của em cũng vậy, nếu chỉ giữ riêng cho mình thì sẽ nhanh chóng tàn phai theo năm tháng, nếu
được hòa vào biển lớn tình yêu nhân loại thì sẽ bất tử mãi mãi. Trong ý thơ của Xuân Quỳnh, chỉ một
từ “Làm sao” nhưng cũng đủ để ta thấy đáng yêu vô cùng, dù mai sau này có ra sao, chỉ cần hôm nay
em được sống là chính mình, được sống trọn vẹn trong tình yêu. Đặt ở thời điểm ấy, đó có thể là tình
yêu Tổ quốc: cái tôi cá nhân hòa nhập vào tình yêu Tổ quốc. Xuân Quỳnh mang trong mình một khát
khao đồng điệu tuyệt đích, phá bỏ mọi giới hạn, mọi khoảng cách để sống trọn vẹn với tình yêu trong
từng hơi thở nồng nàn.
“Em trở về đúng nghĩa trái tim em
Là máu thịt đời thường ai chẳng có
Cũng ngừng đập lúc cuộc đời không còn nữa
Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi”.
Đây là một khát vọng vô cùng nhân văn của nhà thơ, một khát vọng mãnh liệt, tha thiết của người phụ
nữ với trái tim đôn hậu, chân thành đầy trực cảm.

Qua hình tượng sóng nói riêng và bài thơ “Sóng” nói chung, chúng ta cảm nhận được vẻ đẹp trẻ trung,
tâm hồn trong sáng của người con gái khi yêu. Họ chủ động bày tỏ những khao khát, những mong
muốn, những rung động của mình trong tình yêu, không giấu giếm, không che đậy. Đó là nét hiện đại,
là quan niệm mới mẻ của người phụ nữ trong thời đại mới. Chúng ta đã có một núi Vọng Phu, một
hòn Trống Mái tượng trưng cho sự thủy chung, son sắt trong tình yêu thì nay lại có thêm “Sóng” để tô
thêm cho bức tượng đài sừng sững về tình yêu.

Hình tượng “Sóng” là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của Xuân Quỳnh. Trước hết, nó được gợi ra từ
âm hưởng dạt dào, nhịp nhàng của bài thơ; sau đó là từ nhịp của những con sóng trên biển liên tiếp,
triền miên xô vào bờ. Điều đó có được là nhờ vào thể thơ năm chữ với những câu thơ thường, không
ngắt đã tạo nên một bản nhạc không lời hòa theo tiếng sóng lúc dạt dào, sôi nổi lúc sâu lắng, êm đềm.
Không chỉ là tiếng sóng mà còn là tiếng lòng của người phụ nữ đang yêu. Xuân Quỳnh đã mượn và
thể hiện một cách rất thành công. Qua bài thơ “Sóng”, tiếng lòng người phụ nữ mới có được một tiếng
nói bày tỏ trực tiếp cảm xúc tình yêu trên thi đàn thơ ca Việt Nam.
.

1. Vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu.


Đọc “Sóng” ta như thấy hình ảnh của từng cô gái trong đó mà không phải chỉ riêng Xuân Quỳnh.
Tình yêu là câu chuyện của muôn thuở, nó vượt mọi thời gian, mọi không gian, luôn mang trong mình
một sức sống bền bí. Thử hỏi có ai trong tình yêu mà không thương, không nhớ, không mong, có ai
trong tình yêu mà không mang khát vọng thủy chung, khát vọng được sống mãi trong tình yêu đẹp đẽ
ấy. Bởi vậy, với “Sóng” Xuân Quỳnh quả thật là “người đàn bà của muôn thuở”. “Sóng” - đó không
chỉ là cuộc tình mà đó là cả cuộc đời. Qua từng ý thơ của Xuân Quỳnh, người thi sĩ ấy không phải chỉ
gửi riêng nỗi niềm của mình mà còn là nỗi niềm của mọi cô gái, mọi trái tim yêu. Có những nỗi nhớ
trào dâng trong lòng khi nhớ thương một người, có niềm tin vững chắc vào tình yêu của chúng ta dù
phải cùng nhau vượt qua muôn trùng khó khăn, vất vả. Có những lo lắng, trăn trở trong những tháng
ngày xa cách thế nhưng, vượt lên trên tất cả những cảm xúc thường thấy ấy là một khát vọng hướng
tới sự thủy chung trong tình yêu và khát vọng hóa thân để vĩnh cứu hóa tỉnh yêu của chính mình.
Những cảm xúc ấy, niềm mong mỏi ấy đâu phải chỉ của riêng Xuân Quỳnh, đó là niềm mong mỏi của
biết bao trái tim người con gái đang yêu hay mong chờ một tình yêu. Viết ra những điều máu thịt ấy
"Xuân Quỳnh thực là người đàn bà của muôn thủa".

2. Nét hiện đại trong tình yêu của Xuân Quỳnh.


Với “Sóng”, ta như được lật mở những trang suy tư thầm kín nhưng rất đỗi đáng yêu của người con
gái. Vừa là một tâm hồn người nữ dịu dàng trong vẻ đẹp truyền thống thường thấy, vừa là một người
nữ với suy nghĩ về tình yêu, quan niệm về tình yêu hiện đại vô cùng. Không chỉ là “bến thì một dạ
khăng khăng đợi thuyền” mà Xuân Quỳnh còn chủ động trong kiếm tìm, gìn giữ, bảo vệ tình yêu như
một vật báu thiêng liêng của con người. Một tình yêu chân thành, yêu hết mình, là điều cao đẹp tuyệt
vời, là tình yêu không có tuổi: "Tay trong tay tôi đến bên người/ Tôi chẳng nói điều chỉ là vĩnh viễn/
Vì mỗi sáng, khi mặt trời hiển hiện/ Là một ngày tôi lại bắt đầu yêu”. Không những thế Xuân Quỳnh
khi yêu còn nồng nhiệt vô cùng. Chỉ cần trái tim cảm nhận được đó là tâm hồn đồng điều, dẫu cuộc
đời có bao nhiêu biến động, xa cách không gian hay thời gian trái tim của em cũng chỉ hướng về một
phương duy nhất. Em can đảm theo đuổi tình yêu của chính mình và luôn đặt niềm tin vào tình yêu
ấy. Hơn thế, người phụ nữ dám vượt qua nỗi lo âu để hướng tới khát vọng vĩnh cửu hóa tình yêu của
chính mình, đem tình em của mình hoà nhập vào cùng tình yêu Tổ quốc. “Em” trong “Sóng” thể hiện
một tâm hồn đầy sôi nổi và khát vọng sống hết mình cho tình yêu, bày tỏ khát vọng thành thực của
bản thân là được dâng hiến, sống và yêu hết mình. Với những điều tưởng chừng giản đơn ấy, đặt vào
bối cảnh ra đời của tác phẩm năm 1967, ta càng thấy rõ hơn nét hiện đại trong tình yêu của Xuân
Quỳnh. Nét hiện đại ấy thật phù hợp với con người chị - thẳng thắn, bộc trực:
“Không sĩ diện đâu, nếu tôi yêu được một người
Tôi sẽ yêu anh ta nhiều hơn anh ta yêu tôi nhiều lắm
Tôi yêu anh dẫu vạn lần cay đắng..."
Kết bài:

Những đoạn thơ trên và vẻ đẹp nữ tính trong thơ Xuân Quỳnh đã đem lại cho bối cảnh thời đại hiện
nay chiều sâu tâm lý và khơi vẫy mỗi cá nhân hướng về trái tim của mình - nơi phát sinh, cội nguồn,
căn rễ của những điều chân thật và mới mẻ luôn đợi chờ ta khám phá. Lắm người bảo rằng, sự thai
nghén và ra đời của "Sóng” dường như đã đi ngược lại với chủ lưu văn học lúc bấy giờ, khi cả nước
tiếp nhịp vào trong bản hùng ca dân tộc kháng chiến cứu quốc. Nhưng nào có đâu, nào phải đâu, nào
thật đâu..., bởi lẽ giữa những hồi bom đạn thả dài trên những miền đất rạng ngời của non sông, giữa
dòng chảy ào ạt dồn dập của văn chương cách mạng, giản đơn rằng, "Sóng" cùng vẻ đẹp nữ tính mà
Xuân Quỳnh trao gởi chỉ thuần túy như một đóa "Hoa dọc chiến hào" để mỗi cá nhân có cơ hội bày tỏ
dòng tâm sự và cảm nhận lặng lẽ những điều tâm hồn bên trong đang thổn thức. Chính cách mà
"Sóng" nở rộ mang theo mùi hương tao nhã, êm đềm của nó đã khiến cho mỗi người được sống dậy
những gì chân thật nhất và giữ niềm tin mãnh liệt hơn về một đời sống đáng mơ ước. Thông qua bài
thơ này ta thêm ngưỡng mộ, trân trọng những người phụ nữ Việt Nam luôn mang trong mình tấm
lòng thủy chung, sắc son. Đồng thời mạnh mẽ đi tìm tình yêu đích thực của cuộc đời mình. Mỗi người
độc giả hôm nay: bạn, tôi và tất cả chúng ta đều chiêm nghiệm được cho mình một dòng chảy yêu
ngọt ngào trong lời ca "Sóng"!

“ Em trở về với đúng nghĩa trái tim em

Là máu thịt đời thường ai chẳng có

Cũng ngừng đập khi cuộc đời không còn nữa

Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi”

(Tự hát - Xuân Quỳnh)

NLĐSĐ
Mở bài:

Vũ khí tối tân nhất là gì? Có phải là bom nguyên tử, những chiến cơ siêu hạng hay là những vũ khí
với hàng triệu thuật toán công nghệ cao? Trong bài thơ "Chiều biên giới" nhà thơ Lò Ngân Sủn có
viết:

"Tình yêu là vũ khí

Giữ đất trời quê hương"


Vũ khí của thực dân và đế quốc là công cụ giết người còn vũ khí của dân tộc chính là tình yêu nước,
tình yêu thiêng liêng tạo nên sức mạnh vượt khỏi mọi giới hạn. Không chỉ thời chiến mà ngay trong
thời bình, khi đất nước giành lại độc lập thì chính tình yêu nhiệm màu đó đã khiến cho những bước
chân không mỏi lên núi cao, xuống thác ghềnh, những nơi hiểm trở, lao động miệt mài, một lòng
dựng xây nên Tổ Quốc giàu mạnh. Đến với người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân, thông qua hình
ảnh con sông Đà hung bạo và thơ mộng, người lái đò bình dị trí dũng tài hoa, tác giả đã tỏ lòng yêu
mến với thiên nhiên miền Tây Bắc và những người lao động - chất vàng mười đã qua thử lửa.

Nguyễn Tuân là một trong những cây bút có sức sáng tạo dồi dào nhất của nền văn học Việt Nam với
những thành tựu xuất sắc ở cả hai giai đoạn trước và sau Cách mạng tháng Tám năm 1945. Ông là
một nghệ sĩ tài ba, uyên bác, có cá tính độc đáo. Là một nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp, Nguyễn Tuân
thường khám phá thế giới ở phương diện văn hóa thẩm mỹ, thường miêu tả con người trong vẻ đẹp tài
hoa nghệ sĩ. Ông sáng tác nhiều thể loại nhưng đặc biệt thành công ở thể tùy bút. Tác phẩm tiêu biểu
nhất của Nguyên Tuân ở thể loại này là tùy bút “Người lái đò sông Đà”, được ra đời sau chuyến đi
thực tế gian khổ đầy hào hứng tới miền Tây Bắc xa xôi, rộng lớn của Nguyễn Tuân và được in trong
tập “Sông Đà” xuất bản năm 1960. Với tình yêu quê hương sâu nặng và bầu nhiệt huyết sôi nổi ấy,
Nguyễn Tuân đã sử dụng uyển chuyển, tinh vi vốn ngôn ngữ phong phú của mình để viết nên những
trang vẫn nở hoa về con người và thiên nhiên miền sông núi này…

Qua cái nhìn của Nguyễn Tuân, con sông Đà trở nên có tính cách phong phú, phức tạp, như một cố
nhân "lắm bệnh lắm chứng, chốc dịu dàng đấy, rồi chốc lại bẳn tính và gắt gỏng thác lũ ngay đấy".

Sông Đà hung bạo, lắm thác nhiều ghềnh: "Đường lên Mường Lễ bao xa - Trăm bảy cái thác, trăm ba
cái ghềnh" (Ca dao) và cái hung bạo ấy còn được thể hiện qua dòng chảy ngỗ ngược của nó: "Chúng
thủy giai đông tẩu - Đà giang độc bắc lưu", một dòng chảy riêng, không khuôn mình vào lẽ thường.
Vẻ nguy hiểm của sông không chỉ được thể hiện qua thác ghềnh mà đó còn là "đá bờ sông, dựng vách
thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời. Có vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như
một cái yết hầu”.Động từ “chẹt” kết hợp với cách liên tưởng độc đáo của nhà văn gợi lên sự nguy
hiểm của dòng sông. Ấn tượng hơn nữa là việc “ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà
cũng thấy lạnh”. Những câu văn miêu tả, so sánh, liên tưởng đầy táo bạo mà không kém phần tinh tế
của Nguyễn Tuân làm cho sông Đà đẹp, nhưng đẹp ở vẻ hùng vĩ, hoang dại và nguy hiểm. Cứ thử
tưởng tượng con thuyền nào mà kẹt vào cái khe ấy thì tiến không được, lùi cũng không xong chỉ chờ
sóng nước và đá đập cho tan xác mà thôi.

Chưa dừng lại ở đó, nhà văn còn khiến người đọc bất ngờ khi miêu tả tính cách hung bạo ở cái dữ dằn
của “nước – đá – sóng và gió”: “hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng
gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò nào tóm được qua quãng ấy”.
Động từ “xô” được ngăn cách bởi nhiều dấu phẩy liên tiếp tạo nên sự trùng điệp, làm cho dòng sông
đã hung bạo lại càng dữ tợn hơn. Dòng sông như một kẻ bất chấp tất cả để lấy đi tính mạng của những
ai đi qua đây, bởi “quãng này nếu khinh suất không thận trọng tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng
thuyền ra”.

Đến quãng Tà Mường Vát phía dưới Sơn La, người đọc còn bị choáng ngợp trước sự hung bạo của
những cái hút nước và thác đá. Những cái hút nước “giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để
chuẩn bị làm móng cầu” xoáy tít tận đáy, “nước thở và kêu như cửa cống cái bị sặc” có lúc lại nghe
rờn rợn như tiếng “rót dầu sôi”. Đúng là con sông Đà không khác gì một loài hung thú đi đến đâu là
gieo rắc hiểm nguy đến đó. Cho nên, “không một chiếc thuyền nào dám men gần”, bởi nếu thuyền bị
hút là “trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút
sau là tan xác ở khuỷnh sông dưới”. Thác thì cứ thi nhau “rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng
đang lồng lộn giữa rừng”, tiếng nước “nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là
khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo”. Dưới chân thác“sóng bọt đã trắng xóa một chân trời đá”. Bằng
nghệ thuật so sánh, nhân hóa tài ba cùng những liên tưởng "rất khác người", Nguyễn Tuân đã cho thấy
một cảnh tượng thác nước hùng vĩ, nguy hiểm vô cùng. Lần đầu tiên trong thơ văn có người lại dùng
lửa để miêu tả nước, hai nguyên tố có sức hủy diệt rất lớn lại luôn tương khắc với nhau, có nước thì
không có lửa, ngược lại, có lửa thì không có nước. Vậy mà Nguyễn Tuân đã làm được điều đó. Ông
quả là một nghệ sĩ bậc thầy! Từ đó người đọc như cảm thấy “lạnh” khi được nghe, được nhìn thấy,
được tận mắt chứng kiến cái hung dữ của sông Đà mà thót tim lại trước vẻ hùng vĩ ấy của dòng sông.

Nếu chỉ dừng lại ở đó thì sông Đà sẽ không có được những câu ví “đắt” như “mang diện mạo và tâm
địa một thứ kẻ thù số một” của con người được. Bởi trùng vi thạch trận trên sông mới là nơi hấp dẫn
nhất, lôi cuốn nhất của sông Đà. Nơi mà đá mai phục hết trong lòng sông “mặt hòn nào trông cũng
ngỗ ngược”, “nhăn nhúm”, “méo mó”. Mỗi hòn đều có một nhiệm vụ riêng, chúng “đứng, nằm, ngồi
tùy thích” miễn sao hoàn thành tốt nhiệm vụ.

Sông Đà rất kiên định với mục tiêu của mình, nó thận trọng đặt ba trùng vây cho thạch trận trên sông
với cách bố trí lực lượng vô cùng nham hiểm, làm sao để bắt sống mỗi con thuyền qua đây. Ở trùng
vây thứ nhất: nó xếp đá chia thành ba tuyến, gồm năm cửa trận, bốn cửa tử và một cửa sinh lập lờ ở
phía tả ngạn (bên trái) dòng sông. Tuyến một, “đá chia làm ba hàng” như đòi ăn chết con thuyền, một
khi thuyền đã vào thạch trận là không có đường lui. Tuyến hai, có thêm hàng tiền vệ canh cửa để dụ
cái thuyền vào sâu bên trong, rồi “nước sóng luồng mới đánh khuýt quật vu hồi” (đánh ngược trở lại).
Tuyến ba, là cả một “pháo đài đá” với nhiệm vụ “phải tiêu diệt tất cả thuyền trưởng thủy thủ ngay ở
chân thác”. Trùng vây thứ hai: dòng sông tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền, cửa sinh lúc
này nằm lệch ở phía bờ hữu ngạn. “Dòng thác hùm beo đang hồng hộc lao mạnh trên sông đá” như
muốn nhấn chìm con thuyền, bọn tướng đá đứng khiêu khích ngay giữa cửa vào, dựng đứng thành cửa
ải “nhằm níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử”. Sang trùng vây thứ ba, tưởng dễ dàng hơn khi ít cửa
hơn, nhưng sự nguy hiểm lại tăng lên gấp bội bởi “bên trái bên phải đều là cửa chết”, của sinh nằm ở
giữa nhưng lại bị bọn đá hậu vệ bao quanh tạo thành 3 cửa “cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng”;
đá xếp thành cổng, cánh mở cánh khép.

Qua đó, ta thấy con Sông Đà như một loài thủy quái, hung hăng, bạo ngược biết bày thạch trận, thủy
trận hòng tiêu diệt thuyền bè trên dòng nước của nó, một thứ thiên nhiên Tây Bắc với "diện mạo và
tâm địa một thứ kẻ thù số một". Con sông mà "hằng năm và đời đời kiếp kiếp làm mình làm mẩy với
con người Tây Bắc và phản ứng giận dỗi vô tội vạ với người lái đò Sông Đà". Chẳng thế mà sông Đà
được gắn với câu đồng dao thần thoại Sơn Tinh Thủy Tinh "Núi cao sông hãy còn dài - Năm năm báo
oán đời đời đánh ghen". Đặc biệt, tính cách hung bạo của sông Đà cho thấy sự hùng vĩ của thiên nhiên
Tây Bắc, từ đó làm nổi bật hình ảnh con người lao động và tình yêu bao la mà Nguyễn Tuân dành cho
sông Đà. Ở đó không chỉ là cái tài ở văn chương, cái tâm của người nghệ sĩ mà còn là sự tinh tế của
một bậc thầy ngôn ngữ.

Sông Đà đâu chỉ lắm thác nhiều ghềnh đầy hiểm nguy cho người lái đò mà còn đậm nét thơ mộng, trữ
tình

Nguyễn Tuân đã quan sát sông Đà ở nhiều góc độ khác nhau để có một cái nhìn toàn diện nhất. Từ
trên tàu bay nhìn xuống sông Đà như “cái dây thừng ngoằn ngoèo” uốn quanh núi rừng Tây Bắc. Ở
những quãng yên, dòng sông lại giống như một người thiếu nữ kiều diễm “tuôn dài tuôn dài như một
áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo”. Điệp ngữ
“tuôn dài, tuôn dài” như mở ra trước mắt người đọc sự vô tận của dòng sông. Phép so sánh "như một
áng tóc trữ tình” tạo nên vẻ đẹp kiêu sa của Đà giang, nó như một kiệt tác của đất trời dành riêng cho
vùng đất thiêng liêng này. Hai chữ “ẩn hiện” càng làm tăng lên sự bí hiểm của dòng sông, ta như đi
lạc giữa chốn bồng lai vừa thực, vừa mộng. Mái tóc trữ tình ấy, còn được cài thêm hoa ban, hoa gạo
đẹp mơ màng trong khói nương mùa xuân. Không chỉ vậy, Nguyễn Tuân còn tha thiết gọi dòng sông
là “cố nhân” xa thì nhớ gặp lại thì mừng vui khôn xiết. Sự nhân cách hóa đó làm cho sông Đà đã trữ
tình lại càng trở nên gợi cảm hơn! Đúng như trong "Thư trách người tình nhân không quen biết” của
Tản Đà viết:

Dải sông Đà bọt nước lênh bênh

Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình


Vẻ đẹp trữ tình của sông Đà còn được Nguyễn Tuân thể hiện qua việc miêu tả sắc nước. Nhà văn
không đưa ra nhận xét một cách hồ đồ, mà ông “đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên sông Đà;
đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống” sau đó mới khẳng định: sắc nước sông Đà thay đổi
theo mùa. Mùa xuân, nước sông Đà “xanh ngọc bích” chứ không “xanh màu xanh canh hến như màu
của L hat O ^ prime prime sông Gâm, sông . “Xanh ngọc bích” là xanh trong xanh sáng – một sắc
màu gợi cảm giác trong lành, đó là sắc màu của nước, của núi, của da trời cùng nhau hòa quyện. Mùa
thu, nước sông Đà “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa”. Câu văn so sánh khiến
người đọc phải ngỡ ngàng trước sự đa dạng của sắc nước sông Đà, nó không thay đổi dồn dập như
màu nước sông Hương “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” hay đỏ nặng một màu phù sa như nước sông
Hồng. Chưa bao giờ, sông Đà màu đen như “thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ra đổ mực Tây vào
rồi gọi bằng một cái tên láo lếu”.

Bằng những câu văn đầy chất thơ, Nguyễn Tuân đã gieo vào tâm trí người đọc những cảnh đẹp ấn
tượng dọc đôi bờ sông. Không dữ dội như quãng bày thạch trận trên sông, “cảnh ven sông lặng như
tờ, từ đời Lý đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi”, “Bờ sông Đà,, bãi sông
Đà, chuồn chuồn, bươm bướm trên sông Đà”, đẹp thơ mộng “Chao ôi, trông con sông, vui như thấy
nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”. Tác giả hướng đến lịch sử
những buổi đầu dựng nước và giữ nước để làm nổi bật vẻ đẹp nguyên sơ của dòng sông. Đúng như
nhà văn đã so sánh “bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử”, “hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi
thơ”. Điểm thêm vào đó là “một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa” cùng “một đàn hươu
cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm”. Thiên nhiên nơi đây như một bức họa thủy mặc khiến ta
liên tưởng đến câu thơ của Lý Bạch “Yên hoa tâm nguyệt há Dương Châu” (Xuôi thuyền về Dương
Châu giữa tháng ba, mùa hoa khói). Chất thơ trong nét tính cách trữ tình này, có lẽ cũng toát lên từ
điển tích ấy, gợi lên trong tâm trí người đọc về vẻ đẹp của dòng sông Tây Bắc nơi khởi nguồn cho
tình yêu quê hương đất nước.

2. Hình tượng ông lái đò – người được nhà văn nhìn nhận: “không chỉ là người lao động trí dũng tuyệt
vời mà còn là một nghệ sĩ thực thụ trong công việc lao động sông nước củ mình, trong nghệ thuật
vượt thác leo ghềnh”.

Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Tuân đặt tên cho đứa con tinh thần của mình là “Người lái đò
sông Đà” trong khi lại đi vẽ lên một bức tranh hùng vĩ về sông Đà. Như vậy, nhân vật trung tâm phải
là hình tượng người lái đò. Nhà văn miêu tả cái hùng vĩ của dòng sông thực chất là để tôn vinh vẻ đẹp
con người – một khúc hùng ca của núi rừng Tây Bắc. Bước vào cái tuổi bảy mươi, đầu tóc bạc trắng
nhưng thân hình ông “vẫn đẹp như một pho tượng tạc bằng đá cẩm thạch” cùng cặp mắt tinh anh,
nhãn lực nhìn xa vời vợi. Cánh tay “lêu nghêu như cái sào, chân lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh như
đang kẹp lấy một cuống lái”, ngoại hình ông lái đò hiện lên đã in đậm dấu ấn của người lao động trên
miền sông nước. Trên ngực nổi lên một số “củ nâu” thương tích mà Nguyễn Tuân ngưỡng mộ gọi là
“thứ Huân chương lao động siêu hạng”. Sau hơn mười năm chèo đò ngược xuôi sông Đà hàng trăm
chuyến, ông đã “có tay lái ra hoa”, phá từng trùng vi thạch trận, giao phong sinh tử với “lũ đá nơi ải
nước” đã nắm vững từng con thác, cái ghềnh, nắm chắc binh pháp thần Sông, thần Đá. Cũng không
phải ngẫu nhiên mà người lái đò lại “nắm vững từng con thác, cái ghềnh, nắm chắc binh pháp thần
Sông, thần Đá” mà cuộc sống của họ là cuộc chiến đấu hằng ngày với thiên nhiên để giành lấy sự
sống từ tay nó về tay mình.

Nhà văn Nguyễn Tuân đi sâu vào miêu tả người lái đò trong cảnh vượt thác: ông lái đò khéo léo tinh
tế trong từng động tác đưa thuyền qua mỗi trùng vi thạch trận trên chiến trường sông nước, mỗi trùng
vi vượt qua lại một nét tính cách khác nhau hiện lên. Trước tiên, ở người lái đò là cả một sự từng trải,
phải là người thực sự say mê công việc, yêu mến thiên nhiên Tây Bắc thì mới có thể gắn bó với dòng
sông suốt cả một đời người. Ông lái đò hiểu sâu sắc về thạch trận sông Đà, ông “nhớ tỉ mỉ như đóng
đinh vào lòng tất cả những luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở”. Sông Đà đối với ông như
“một trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc đến cái chấm than, chấm câu và những đoạn xuống
dòng”. Chính vì vậy, ông “đã nắm chắc được binh pháp của thần Sông thần Đá, ông thuộc quy luật
phục kích của lũ đá” sông Đà.
Cảnh vượt thác được coi là một cảnh tượng xưa nay chưa từng có - ở đó là vẻ đẹp tài hoa, mưu trí; sự
thông minh, linh hoạt của người lái đò. Chất tài hoa nghệ sĩ ấy được thể hiện trong bản lĩnh chiến đấu
và tinh thần dũng cảm phi thường.

Ông xung trận với khí thế nghênh chiến quyết thắng “thạch trận vừa bày xong thì cái thuyền vụt tới”.
Trùng vị thứ nhất, sông Đà mai phục “bốn cửa tử, một cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông”. Đá kết
hợp với nước reo hò cổ vũ nhằm đánh đòn tâm lý. Những hòn đá oai phong lẫm liệt “đứng hất hàm
hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến”. Một hòn khác lùi lại một chút và “thách thức
cái thuyền có giỏi thì tiền gần vào”. Nguy hiểm như vậy nhưng ông lái đò vẫn rất bình tĩnh “hai tay
giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình”. Sóng nước thì như thế quân
liều mạng xông vào sát nách “đá trái mà thúc gối vào bụng và hông thuyền”, “có lúc đội cả thuyền
lên, túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa thuyền ra giữa trận”. Nguyễn Tuân miêu tả hình ảnh ông lái đò
điều khiển chiếc thuyền cứ như nghệ sĩ đang kéo đàn violin. Mặc dù bị đánh miếng đòn hiểm nhất
“bóp lấy hạ bộ, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm, đánh vào chỗ hiểm” đau điếng nhưng “hai chân ông vẫn
kẹp lấy cuống lái” và mặt méo bệch đi vì đau đớn nhưng ông vẫn sắc lạnh, tỉnh táo, đưa con thuyền
thoát khỏi nguy hiểm. Nhà văn không viết là “méo xệch” mà dùng từ là “méo bệch”, phải chăng cái
đau đớn tàn bạo của dòng nước nó làm cho bợt bạt cả sắc mặt người chứ không đơn thuần chỉ là đau.
Ngoài ra, khuôn mặt ấy của ông lái đò hiện ra không chỉ là gương mặt biến dạng, trắng bệch vì đau
đớn mà còn nhợt nhạt vì phải dầm lâu trong nước lạnh. Sự đau đớn của ông đò còn được gián tiếp
miêu tả trong một cảm nhận của thị giác và xúc giác “mặt sông trong tích tắc lòa sáng như một cửa bể
đom đóm rừng ùa xuống mà châm lửa vào đầu sóng”. Đó là một trận chiến không cân sức, con sông
Đà hùng vĩ và hung bạo vô cùng, người lái đò hiện lên nhỏ bé, với chiếc mái chèo nhưng với sức
mạnh thật lớn lao. Qua cách miêu tả tiếng hô chỉ huy ngắn gọn, tỉnh táo của người cầm lái, Nguyễn
Tuân đã không giấu được lòng ngưỡng mộ và cảm phục trước bản lĩnh kiên cường, sự dũng mãnh,
bình thản của người lái đò.

Tới vòng vây thứ hai của thạch trận, ông đò không chỉ dũng mãnh, kiên cường mà còn thể hiện sự
thông minh của một người lái đò dày dặn kinh nghiệm – người nắm chắc binh pháp của thần sông
thần đá, người đã “thuộc quy luật” của dòng sông, thác đá. Đến với trùng vi này, con sông Đà tăng
thêm nhiều cửa tử hơn, cửa sinh lại bố trí lệch qua bờ phía hữu ngạn. Ở trận đánh này ông đò đánh
phủ đầu với kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh. Ông đò “nắm chắc được cái bờm sóng đúng luồng rồi,
ông ghì cương lái”, ông “phóng nhanh”, “lái miết”, tốc độ nhanh vô cùng. Nhưng sông Đà nào đâu
phải dạng vừa, chúng xô ra, níu chiếc thuyền vào tập đoàn cửa tử. Ông đò đã cảnh giác sẵn “đứa thì
ông tránh mà rảo bơi chèo”, “đứa thì đè sấn lên chặt đôi ra để mở đường tiến lên”. Nguyễn Tuân quả
thực là bậc thầy của ngôn ngữ, ông huy động hàng loạt các động từ, hò reo theo từng nhịp lái chèo của
ông lão lái đò: nắm, ghì, phóng, lái, rảo, đè,... Ông lái đò như một dũng tướng tài ba điều khiển thuần
phục con ngựa bất kham của sóng thác sông Đà. Chính bằng sự mưu trí và tài năng của mình, ông lão
đã vượt qua hết các cửa tử, làm cho bọn đá thua cuộc phải bày bộ mặt “tiu nghỉu, xanh lè thất vọng”.
Thiên nhiên, thác đá sông Đà hung bạo hiểm độc là thế cũng không thể chiến thắng được sức mạnh
phi thường của ông lái đò - một tay lái ra hoa, trí tuệ, một tướng lĩnh thực thụ đã chiến thắng cả thần
sông, thần đá.

Có lẽ tất cả sự hiểm ác nhất của con sông Đà tập trung hết cả ở trùng vi cuối cùng. Không những ít
cửa hơn mà bên trái bên phải đều là luồng chết cả, luồng sống thì lại nằm ngay giữa bọn đá hậu vệ.
Bốn năm bọn thuỷ quân cửa ải nước bên bờ trái liên xô ra cảnh níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử.
Con sông ngày càng mưu mẹo vào hiểm ác, muốn dồn con người đến chỗ chết. Sự hiểm ác của thác
đá đã được nhà văn miêu tả trong hình ảnh ẩn dụ tài hoa về cổng đá cánh mở cánh khép – đó là cả một
mặt trận đá trùng điệp trong đó bức tường phòng ngự vững chắc của lũ đá hậu vệ kết hợp với những
mũi tấn công ào ạt, tới tấp không ngừng nghỉ của sóng dữ. Nhiệm vụ của ông đò là phải phóng thẳng
thuyền, chọc thủng một luồng sinh duy nhất ở ngay giữa cửa bọn đá hậu vệ trấn giữ, trong khoảnh
khắc cánh “cổng đá” mở giữa những đợt sóng thác dữ dội. Có lẽ ngay lúc này đây, tay lái chèo của
ông lái đò thực sự là một tay lái ra hoa. Không bằng quá nhiều từ ngữ, câu văn, hình ảnh con thuyền
lao vút qua khe hẹp được miêu tả trong những câu văn ngắn mà bản thân cách ngắt câu, sự kết hợp
những động từ và danh từ nối tiếp: vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng… đã thể hiện sự điêu
luyện khéo léo và sức mạnh của ông đò. Tốc độ phi thường của con thuyền dưới bàn tay vừa lái, vừa
xuyên, vừa lượn của ông đò không chỉ như một mũi tên tre mà còn được gợi tả tinh tế qua làn hơi
nước mà con thuyền xuyên qua, con thuyền không còn lướt trên mặt nước mà đã thực sự bay trong làn
hơi nước trên mặt sóng. Tài năng của ông đò khi ấy đã bao hàm cả trí tuệ, sự trải nghiệm, sức mạnh
thể lực, trình độ điêu luyện và bản lĩnh kiên cường – tất cả đều đạt tới mức phi phàm, kì diệu. Vậy là
cuối cùng, bằng tất cả tài hoa, trí lực và sự dũng mãnh của mình, ông lái đò đã chiến thắng con sông
Đà hiểm độc.

Thạch trận sông Đà, nguy hiểm là vậy, dữ tợn là vậy nhưng ông lái đò bằng mưu trí của mình, vẫn
vượt qua một cách đầy quả cảm. Qua đó, phải chăng nhà văn muốn chúng ta nghiền ngẫm một triết lý:
giữa cái thế giới độc dữ và nham hiểm, cái thế giới đầy sức mạnh man dại và lập lờ cạm bẫy, người
vẫn đủ khả năng tìm thấy luồng sinh.

Viết về con người bình thường trong cuộc sống đời thường nhưng không hề tầm thường. Nguyễn
Tuân luôn tìm đến và khắc họa những vẻ đẹp ấy bằng ngòi bút tài hoa nghệ sĩ nhất. Khung cảnh vượt
thác của ông lái đò - một nhịp sống thường niên trong suốt cuộc đời ông lái đò, qua ngòi bút của
Nguyễn Tuân cớ sao nó lại đẹp đẽ và tuyệt mĩ đến vậy. Người nghệ sĩ tài hoa ấy đã chạm đến tuyệt
đích của cái đẹp, đã thực sự thành công trên con đường đi tìm cái đẹp ấy. Không giống như “Chữ
người tử tù”, trong câu chuyện của “Người lái đò sông Đà” Nguyễn Tuân không đi tìm cái đẹp của
một thời đã qua nữa mà cái đẹp mà ông khám phá ở ngay trước mắt, trong chính cuộc sống đời
thường nhất, đúng như cái nghệ danh mà người đời đặt cho ông - “Một người nghệ sĩ suốt đời đi săn
tìm cái đẹp”.

Người lái đò là một người lao động vô danh, làm lụng âm thầm, giản dị, nhờ lao động mà chinh phục
được dòng sông dữ, nhờ ý chí kiên cường, bền bỉ, quyết tâm mà chiến thắng sức mạnh của thiên
nhiên. Đó chính là yếu tố làm nên chất “vàng mười” của nhân dân Tây Bắc. Nổi bật nhất, độc đáo
nhất ở người lái đò sông Đà là phong thái của một nghệ sĩ tài hoa. Khái niệm tài hoa, nghệ sĩ trong
sáng tác của Nguyễn Tuân có nghĩa rộng, không cứ là những người làm thơ, viết văn mà cả những
người làm nghề chẳng mấy liên quan tới nghệ thuật cũng được coi là nghệ sĩ, nếu việc làm của họ đạt
đến trình độ tinh vi và siêu phàm.

Nghệ thuật: Vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ của người lái đò được Nguyễn Tuân khám phá và ngợi ca dưới sự
kết hợp của những biện pháp nghệ thuật so sánh, nhân hóa, ẩn dụ gợi lên cảm giác mãnh liệt, hồi hộp
cho người đọc. Cảnh vượt thác là bài ca chiến trận hào hùng, một bức tranh hoành tráng về dũng sĩ
vượt thác. Tất cả được tạo nên bởi cái tài, cái tâm, cái trí tuệ uyên bác cùng vốn hiểu biết sâu rộng
trên nhiều lĩnh vực như thể thao, điện ảnh, quân sự... của Nguyễn Tuân.

Lời kết: Viết về người lái đò sông Đà trên vùng sông núi của Tổ quốc, Nguyễn Tuân đã thể hiện
nguồn cảm xúc tha thiết đối với người lao động và thiên nhiên đất nước. Sông Đà càng đẹp, càng sinh
động bao nhiêu thì hình ảnh ông lái đò càng anh dũng, ngoan cường bấy nhiêu, từ đó ta lại càng thấy
được tấm lòng nhân đạo sâu sắc của nhà văn. Có lẽ, đối với người dân vùng sông nước Tây Bắc thì
hình ảnh ông lái đò thật bình dị từ công việc đến hình dáng, cách ăn nói nhưng đó lại là người hùng
trong mắt Nguyễn Tuân và trong những trang văn của ông. Nhà văn đã phát hiện ra chất nghệ sĩ tài
hoa dám đương đầu với sóng to gió lớn, hăng hái lao động, quên mình vì công việc chèo chống con
thuyền trên sông.

Cuộc sống quanh ta luôn vận động với theo vòng quay của đất trời, nhưng suy cho cùng ngày lại qua
ngày, mây vẫn bay và gió vẫn thổi nhưng chính Nguyễn Tuân đã mang đến cho ta một thế giới mới,
tinh khôi và kì diệu. Song, ông cũng là một nhà văn góp phần sáng tạo lại thế giới. Văn chương của
ông đã mang đến cho chúng ta một chân trời huyền bí riêng biệt, hấp dẫn và độc đáo. Đó là chân trời
của cái đẹp, của sự tài hoa và uyên bác!

1. Nhận xét về vẻ đẹp ngôn ngữ/ cách sử dụng từ ngữ của Nguyễn Tuân.
Trong quá trình sáng tạo nghệ thuật, Nguyễn Tuân luôn giữ quan niệm: “Ở đâu có lao động thì ở đó
có sáng tạo ra ngôn ngữ. Nhà văn không chỉ học tập ngôn ngữ của nhân dân mà còn là người phát
triển ra ngôn ngữ sáng tạo, không nên ăn bám vào người khác. Giàu ngôn ngữ thì văn sẽ hay... Cũng
cùng 1 vốn ngôn ngữ ấy nhưng sử dụng có sáng tạo thì văn sẽ có bề thế và kích thước. Có vốn mà
không biết sử dụng chỉ như nhà giàu giữ của. Dùng chữ như đánh cờ tướng, chữ nào để chỗ nào phải
đúng vị trí của nó. Văn phải linh hoạt. Văn không linh hoạt gọi là văn cứng đơ thấp khớp.” Có thể
thấy, với quan niệm sáng tạo này, Nguyễn Tuân đã tinh tế sử dụng những từ ngữ chính xác, vừa có giá
trị gợi hình vừa mang giá trị biểu cảm cao. Đó là thứ ngôn ngữ gợi lên những liên tưởng, tưởng tượng
thú vị, độc đáo, gợi lên những rung cảm thẩm mĩ, đập mạnh vào mọi giác quan của bạn đọc. Ông
dùng những từ ngữ miêu tả hình ảnh sống động: dựng vách thành, cái yết hầu, cuồn cuộn luồng gió
gìn ghè, cái hút nước,... bên cạnh đó là những động từ đòi nợ xuýt, thở, kêu, sặc, ặc ặc lên, rót dầu
vào,... giúp người đọc hình dung ra được rõ ràng về sự hùng vĩ, hung bạo của dòng sông này. Với
“Người lái đò sông Đà”, Nguyễn Tuân dường như mang đến một màu vị mới cho ngôn từ, khiến cho
người đọc cảm thấy rất hứng thú, muốn dành nhiều thời gian hơn để nghiền ngẫm về những từ ngữ
độc đáo ấy. Có thể thấy, mỗi chữ Nguyễn Tuân đặt lên trang văn của mình là cả một quá trình sáng
tạo công phu, cẩn trọng và thiêng liêng. Ông lựa chọn ngôn từ một cách trau chuốt, tỉ mỉ để làm nên
những trang viết ấn tượng với độc giả, chính điều đó đã làm nên sự tài hoa của người nghệ sĩ trong
việc sử dụng từ ngữ của mình, đúng như nhà thơ người Nga Maia - cốp – xki có viết:

“Phải phí tốn nghìn cân quặng chữ

Mới thu về một chữ mà thôi

Nhưng chữ ấy làm cho rung động

Triệu trái tim trong hàng triệu năm dài.”

2. Nhận xét về cái nhìn của nhà văn Nguyễn Tuân đối với người lao động trong cuộc sống
mới.

Trên hành trình khám phá thẩm mỹ, Nguyễn Tuân đã gặp những sự trái khoáy, nghịch lý – cái đẹp thì
không thật, và cái thật thì không đẹp. Nguyễn Đình Thi đã nhận xét như sau: “Cách mạng là sự đổi
đời đối với Nguyễn Tuân, vì ông thấy cái có thật bây giờ đẹp và cái đẹp bây giờ có thật trong cuộc
đời”. Sau cách mạng, Nguyễn Tuân hướng con mắt của mình về những vẻ đẹp trong cuộc sống - mà
đối tượng trước hết là con người – ông tìm thấy vẻ đẹp trong chính những - con người lao động bình
dị. Cái nhìn của ông về người lao động trong cuộc sống mới luôn là cái nhìn phát hiện, ngợi ca, trân
trọng. hat Ong đi sâu tìm hiểu rõ không chỉ là về ngoại hình, công việc mà còn về phẩm chất con
người hình thành, phát triển về nghề nghiệp của mình. Họ có thể là những con người nhỏ bé, vô danh
nhưng họ luôn nỗ lực hết sức mình để góp công vào quá trình kiến thiết đất nước. Cảnh vượt thác
sông Đà có lẽ chính là một trong những kiệt tác nghệ thuật trong cuộc đời sáng tác của Nguyễn Tuân.
Khi chăm chú theo dõi hành trình vượt thác của ông lái đò, ta sẽ thấy ngay sự tương đồng đặc biệt
trong vẻ đẹp những người lao động trong các tác phẩm của Nguyễn Tuân luôn điêu luyện, tinh vi,
thuần thục như thế. Nếu ông lái đò là “nghệ nhân” vượt thác thì ông Líu trong "Giò lụa” cũng là
người “nghệ sĩ” giã giò. Ông Líu nghe tiếng giã giò là biết mẻ giò có ngon hay không cũng giống như
người lái đò nhìn thác, nhìn đá mà đoán biết được những chiêu thức tiếp theo của sông Đà. Quả thật
phải am hiểu và nhiều kinh nghiệm lắm, những người lao động mới đạt được đến trình độ trở thành
“người nghệ sĩ trong chính nghề của mình”. Cũng phải khẳng định một điều, chính Nguyễn Tuân đã
trở thành “môn đệ trung thành của nghệ thuật”, là “người sinh ra để tôn thờ Nghệ Thuật với hai chữ
viết hoa” để làm chủ những tài hoa uyên bác, cả những ngông nghênh và kinh bạc của mình.

3. Nhận xét về nét tài hoa của người nghệ sĩ Nguyễn Tuân

Dọc theo chiều dài hành trình sáng tác của Nguyễn Tuân, bạn đọc dễ dàng nhận ra sự tài hoa, uyên
bác có vẻ hơn đời của nhà văn này. Ông có thói quen nhìn sự vật ở mặt mỹ thuật của nó, cố tìm cho ra
ở đấy những gì nên hoạ, nên thơ. Đồng thời mỗi điểm quan sát của ông phải là một đối tượng khảo
cứu đến kì cùng. Trước cách mạng, Nguyễn Tuân bế tắc trong thực tại, tầm mắt không vượt khỏi được
môi trường quần đọng, xám xịt của cuộc sống tư sản, tiểu tư sản, ông thường đi tìm cái đẹp ở thiên
nhiên hay ở quá khứ tách rời hiện thực. Hồi ấy dùng tài hoa, uyên bác để chơi ngông với thiên hạ, ông
khó lòng tránh khỏi “chủ nghĩa hình thức, chủ nghĩa duy mĩ và lối suy nghĩ phù phiếm chẻ sợi tóc làm
tư.” Khi Cách mạng tháng Tám thành công, ông đi tìm cái đẹp, chất thơ trong thực tại và thiên hướng
khảo cứu giúp ông tìm hiểu nghiêm túc và sâu sắc cuộc sống chiến đấu của nhân dân, lòng yêu nước
không lúc nào thôi âm ĩ bỗng trào sôi bằng ngòi bút tự do, phóng khoáng khi viết về vẻ đẹp thiên
nhiên đất nước, vẻ đẹp người lao động trong cuộc sống đời thường. Sông Đà đi vào trang viết của
Nguyễn Tuân trong giai đoạn này. Cái uyên bác, tài hoa của Nguyễn Tuân ngày càng được phát huy
trên quan điểm nghệ thuật cách mạng, đã đem đến cho tác phẩm của ông một giá trị thẩm mĩ riêng,
một giá trị thông tin riêng. Thể hiện nét phong cách này, lối viết của Nguyễn Tuân thường tập trung
vào một điểm và vận dụng một cách tổng hợp cách khảo sát của nhiều ngành văn hoá khác nhau để
đào sâu cho đến “sơn cùng thuỷ tận”. Vì thế, có những hiện tượng, đối với những cây bút khác tưởng
chừng chẳng có gì đáng nói, nhưng Nguyễn Tuân thì có thể viết mãi, bàn mãi hiết trang này đến trang
khác; ông lật mặt này, ông trở mặt khác, xoay ngang, xoay dọc, nhìn xa, nhìn gần, khi thì bằng cặp
mắt văn học, khi thì bằng con mắt hội hoạ, điêu khắc, âm nhạc, vũ đạo hay điện ảnh, khi lại soi bằng
cặp kính nhà sử học, nhà địa lí học,... điều này được thể hiện rất rõ khi ông viết về sông Đà nói chung
và vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của sông Đà nói riêng.

4. Nhận xét về những chuyển biến trong phong cách của Nguyễn Tuân sau cách mạng.

Có thể thấy, vào những ngày cuối cùng của chế độ thuộc địa Pháp Nhật lúc bấy giờ, cũng giống như
nhiều nghệ sĩ khác, Nguyễn Tuân rơi vào tình trạng khủng hoảng sâu sắc về quan niệm nghệ thuật.
Thời điểm trước cách mạng, ông tập trung viết về các đề tài chính: chủ nghĩa xê dịch, vẻ đẹp của một
thời vang bóng và đời sống truy lạc. Người nghệ sĩ ấy đã tìm đến với “chủ nghĩa xê dịch" trong tâm
trạng bất mãn với thời cuộc. Thế nhưng, khi cách mạng tháng Tám thành công, cuộc cách mạng hat
ay đã trở thành “trục bản lề “để Nguyễn Tuân có được sự lột xác kỳ diệu, giúp ông vượt qua được
những bế tắc trong cuộc sống và sáng tác nghệ thuật đem đến nguồn cảm hứng sáng tạo mới cho
người nghệ sĩ này. Ngòi bút của Nguyễn đã thực sự hồi sinh. Ông hăng hái đến với cách mạng và
kháng chiến, hăng hái đi thực tế, dùng ngòi bút của mình say mê viết về vẻ đẹp của đất nước, con
người Việt Nam trong chiến đấu và lao động sản xuất. Nếu như nhân vật trung tâm trong các tác phẩm
trước cách mạng là ông Nghè, ông Cử, ông Tú,...những con người tài hoa bất đắc chí, thì giờ đây,
hình tượng chính trong sáng tác của người nghệ sĩ này là nhân dân lao động trên mặt trận vũ trang,
trong lao động sản xuất cụ thể với hình ảnh của người lái đò sông Đà. Điều đó đánh dấu chặng đường
mới của cây viết tài hoa trên con đường nghệ thuật gắn bó với dân tộc, với nhân dân và đất nước.
Nguyễn Tuân ở thời điểm này, đặc biệt là giai đoạn khi viết sông Đà đã đường đường chính chính
quay trở về hiện tại, say mê khám phá vẻ đẹp phi thường nơi những con người bình thường, hăng say
lao động, góp sức lực của mình xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao. Đó là những cán bộ địa chất đi
tìm quặng mỏ, là ông lái đò dùng cảm vượt tác dữ để vận tài hàng mậu dịch, những anh bộ đội từng
chiến đấu dũng cảm để giải phóng Điện Biên nay lại nguyện đêm cả gia đình mình lên mảnh đất nơi
đây lập nghiệp, những con người đi mở đường suốt ngày đêm, dẫu cho mưa nắng vẫn không quản
ngại,... Và có biết bao nhiêu những con người bình thường, đã đi vào trang văn của Nguyễn Tuân với
vẻ đẹp phi thường xuất phát từ lòng yêu tha thiết đất nước, con người của nhà văn. Bên cạnh những
chuyển biến ấy, Nguyễn Tuân vẫn có sự thống nhất trong phong cách nghệ thuật trước và sau cách
mạng: Cái đẹp là điểm đến, “xê dịch” là nơi đi, bây giờ xê dịch để hoà nhập với cuộc đời, dùng vốn từ
ngữ rộng mở, hiểu biết phong phú, những liên tưởng so sánh độc đáo để phác hoạ lên hình tượng
trong từng tác phẩm. Sự chuyển biến trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân là sự chuyển
biến phù hợp với thời cuộc, giúp Nguyễn Tuân tìm thấy chính mình chân thực nhất. Điều đó góp phần
làm cho độc giả thêm yêu thương, trân trọng, nể phục người nghệ sĩ tài hoa này.

5. Nhận xét tình cảm đối với quê hương đất nước của tác giả Nguyễn Tuân được thể hiện

Đoạn trích miêu tả vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của dòng sông Đà từ góc độ trên cao nhìn xuống đã thêm
một lần nữa cho ta thấy rõ tình cảm đối với quê hương đất nước của tác giả Nguyễn Tuân. Đó là một
thứ tình cảm tha thiết, trìu mến. Nó được thể hiện rất rõ qua góc nhìn tài hoa, tinh tế khi cảm nhận về
hình dáng và sắc nước con sông. Đồng thời cũng là cảm xúc trân trọng, mến yêu, sự nâng niu mà nhà
văn Nguyễn Tuân dành cho con sông của vùng đất Tây Bắc. Nguyễn Tuân luôn là như vậy – một
người nghệ sĩ yêu tha thiết quê hương, đất nước với những cảnh sắc thiên nhiên tuyệt mỹ, ông đã
dùng tình yêu ấy để đi, để viết và để lại cho thế hệ bạn đọc những phong cảnh ấn tượng, trong đó có
sông Đà. Sau khi trải qua giai đoạn trước cách mạng, yêu nước nhưng bất mãn với thời cuộc chỉ biết
đi tìm về những vẻ đẹp trong quá khứ của một thời vang bóng, Nguyễn Tuân của sau cách mạng tháng
Tám vẫn là người nghệ sĩ yêu dân tộc, tôn thờ cái đẹp, nhưng đã có cơ hội để thể hiện nó một cách rõ
nét, cởi mở. Ông tìm thấy và thể hiện lòng yêu ấy của chính mình trong những trang viết miêu tả cảnh
sắc quê hương đất nước vẫn ngời chói sự tinh tế trong cách viết của cây bút tài hoa.

6. Nhận xét cách nhìn mang tính phát hiện về con người của nhà văn Nguyễn Tuân.

Qua nhân vật ông lái đò, Nguyễn Tuân có cách nhìn mang tính phát hiện về người lao động mới. Ông
đò tiêu biểu là người anh hùng, cũng là nghệ sĩ trong môi trường làm việc và trong công việc của
mình khi dám đương đầu với thử thách và đạt tới trình độ điêu luyện trong công việc. Nhà văn đã phát
hiện ra “chất vàng mười đã qua thử lửa” của ông đò bằng phong cách nghệ thuật tài hoa, uyên bác với
thể tuỳ bút vừa giàu tính hiện thực, vừa tràn ngập cái tôi phóng túng đầy cảm hứng, say mê…

Qua cách nhìn nhân vật ông đò, nhà văn bày tỏ tình cảm yêu mến, trân trọng, tự hào về con người lao
động Việt Nam. Nếu trước đây, ông thường khắc họa người anh hùng trong chiến đấu, người nghệ sĩ
trong nghệ thuật và thuộc về quá khứ “vang bóng một thời” thì đến tác phẩm này, ông tìm thấy anh
hùng và nghệ sĩ ngay trong con người lao động thường ngày, trong công việc bình thường và trong
nghề nghiệp cũng bình thường. Nguyễn Tuân còn khẳng định với chúng ta rằng chủ nghĩa anh hùng
cách mạng đâu phải chỉ dành riêng cho cuộc chiến đấu chống ngoại xâm mà còn thể hiện sâu sắc
trong việc xây dựng đất nước và chinh phục thiên nhiên.

7. Nhận xét chất thơ thể hiện trong đoạn trích Sông Đà

Biểu hiện: chất thơ trong đoạn trích thể hiện: +Cảm nhận của tác giả về vẻ đẹp trữ tình của dòng sông:
Sông Đà như một người gái đẹp của núi rừng Tây Bắc với mái tóc dài, thật dài, mượt mà, tha thướt,
gài buông lơi những bông hoa ban trắng ngần hay những bông gạo đỏ rực, thấp thoáng ẩn hiện giữa
núi rừng mùa xuân mù sương khói.

+Vẻ tinh khôi, non tơ của nương ngô nhú lá non đầu mùa, của những vạt đồi cỏ gianh đang ra nõn
búp; vẻ lặng tờ, tịnh không một bóng người, hoang dại, hồn nhiên của đôi bờ biền bãi.

+Ở xúc cảm tinh tế của tác giả trước dòng sông thơ mộng, trữ tình: cảm giác đằm đằm ấm ấm như gặp
lại cố nhân sau chuỗi ngày chia biệt; cảm giác thấy thèm được giật mình vìỳ ngột ti điếm 2112 còi
xúp-lê của một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ - Yên Bái - Lai Châu…

+Ở những so sánh, liên tưởng thú vị độc đáo của Nguyễn Tuân: Sông Đà như một người con gái đẹp,
như một cố nhân, nước Sông Đà đổi màu liên tục qua mỗi mùa trong năm.

- Ý nghĩa: Chất thơ trong tuỳ bút của Nguyễn Tuân là một phần trong nội dung phong cách tài hoa,
uyên bác của ông. Ông để lại ấn tượng đặc biệt về một con sông đầy cá tính, mang tính cách của con
người với hai nét độc đáo, đối lập mà thống nhất: hung bạo và trữ tình. Qua đó, ta thấy nhà văn có
công đi tìm cái đẹp- chất vàng của thiên nhiên Tây Bắc để ca ngợi. Thiên nhiên là sản phẩm nghệ
thuật vô giá, là công trình mĩ thuật của tạo hoá đã ban tặng cho con người. Đó cũng chính là tình yêu
Tổ quốc mà nhà văn cách mạng Nguyễn Tuân đã gửi gắm qua trang tuỳ bút của mình.

8. Vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng của hình tượng sông Đà


- Sông Đà như một áng tóc trữ tình hình mềm mại, hiền hòa; mượt mà, duyên dáng, yêu kiều
như áng tóc của người con gái. Trên nền thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, Sông Đà toát lên nét ẩn
hiện, hư ảo, nên thơ.
- Vẻ đẹp trữ tình của sông Đà được Nguyễn Tuân thể hiện qua việc miêu tả sắc nước: khi thanh
khiết thơ mộng, khi đậm nét hư ảo, mơ màng cổ xưa; khi giận dữ nỗi niềm bực bội.
- Sông Đà như một cố nhân gần gũi đầm ấm, một cá tính mãnh liệt, hấp dẫn, đi xa thì nhớ, gặp
lại thì mừng vui khôn xiết.
- Nghệ thuật: Quan sát công phu; câu văn dài phóng túng, giọng điệu nhẹ nhàng, giàu chất thơ;
nghệ thuật so sánh, liên tưởng, nhân hóa tài hoa độc đáo; ngôn ngữ giàu hình ảnh……
9. Cái tôi trữ tình thể hiện trong đoạn trích
- Đam mê cái đẹp thiên nhiên; ngợi ca, tự hào trước vẻ đẹp hùng vĩ, thơ mộng của Tây Bắc; cái
tôi yêu nước, hòa nhập với cuộc sống mới, con người mới.
- Cái tôi uyên bác, tài hoa với thể tùy bút phóng túng. Từ đó làm nổi bật nét độc đáo trong
phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Qua việc ngợi ca vẻ đẹp độc đáo của dòng Sông
Đà, tác giả đã thể hiện tình yêu thiên nhiên,yêu đất nước,thiết tha của mình. Qua đó làm nổi
bật lên phong cách nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Tuân: sự độc đáo, tài hoa, uyên bác của
một nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp. Nguyễn Tuân luôn nhìn nhận mọi sự vật, sự việc dưới
phương diện thẩm mỹ, luôn đi tìm cảm hứng trong sáng tạo nghệ thuật, tô đậm những cái phi
thường để tạo cảm giác mãnh liệt gây ấn tượng.
-

You might also like