Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 2

VIẾNG LĂNG BÁC

- Viễn Phương -
I. Tác giả: Quê: An Giang
Là một (.) những cây bút có mặt sớm nhất của LL VN g/phóng miền Nam thời chống Mĩ cứu nước.
Thơ ông nhỏ nhẹ, giàu chất mộng mơ ngay cả những lúc khó khăn nhất.
II. Tác phẩm:
1. HSCT: Năm 1976, 1 năm sau khi cuộc kháng chiến chống Mĩ kết thúc thắng lợi, đất nước thống nhất,
lăng chủ tịch HCM cũng vừa được khánh thành.
VP cùng đoàn cán bộ miền Nam lần đầu ra thăm miền Bắc, vào lăng viếng Bác Hồ
2. Xuất xứ: in trong tập “Như mây mùa xuân” (1978)
3. Thể thơ: tự do
4. PTBĐ: biểu cảm + miêu tả
5. Mạch cảm xúc: niềm xúc động thiêng liêng, thành kính, lòng biết ơn, tự hào pha lẫn đau xót khi tác giả vào
lăng viếng Bác
- Theo trình tự thời gian và không gian cuộc hành trình vào lăng viếng Bác:
+ Cảm xúc trước cảnh bên ngoài lăng.
+ Cảm xúc khi hòa cùng dòng người vào lăng viếng Bác.
+ Cảm xúc khi ở trong lăng.
+ Cảm xúc khi rời lăng.
III. Phân tích:
1. Cảm xúc trước lăng Bác:
a. Cảm xúc trước cảnh bên ngoài lăng (khổ 1)
Câu thơ mở đầu như muốn giới thiệu xúc động, nghẹn ngào từ một người con ở chiến trường miền Nam với
Bác “Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”.
+ Từ “con” nghe thật ngọt ngào, đầm ấm, thân thương, rất Nam Bộ. Đó là tình cảm giữa những người
thân trong gia đình. Thế nên, tác giả từ miền Nam ra thăm Bác cũng giống như một người con về thăm cha.
Từ đó, tác giả bày tỏ niềm kính yêu, trân trọng của một người con sau bao năm xa cách.
Trong câu thơ tác giả dùng từ “thăm” chứ không phải “viếng”. Đây là cách nói giảm, nói tránh để giảm nhẹ
nỗi đau thương mất mát và tựa như Bác vẫn đang còn sống.
H/ảgây ấn tượng mạnh với tác giả là H/ả“hàng tre bát ngát”.
+ Trước hết, đây là một H/ảthực hết sức thân thuộc của làng quê Việt Nam. Đặc biệt từ láy “bát ngát” gợi
mở không gian khoáng đạt rộng lớn nơi người cha già đang yên nghỉ.
+ Từ H/ảthực, H/ảhàng tre mang ý nghĩa tượng trưng giầu liên tưởng sâu sắc. Cây tre đã trở thành biểu
tượng cho dân tộc Việt Nam, cho tâm hồn người Việt. “Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam/ Bão táp mưa sa
đứng thẳng hàng”
.) Cây tre cũng như con người có một sức sống mạnh mẽ, kiên cường, bền bỉ.
.)Thành ngữ “bão táp mưa sa” đặt ở đầu câu càng tô đậm những điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt
của đất nước nhiệt đới gió mùa. Những khó khăn gian khổ đó luôn thử thách con người Việt Nam, thế
nhưng trải qua bao bão táp mưa sa thì cây tre Việt Nam vẫn luôn đứng thẳng hàng.
+ Hàng tre đã mang trong mình những phẩm chất cao quý của con người Việt Nam: mộc mạc, thanh
cao, ngay thẳng, bất khuất.
Câu cảm thán “Ôi” được đặt ở đầu câu, tác giả không chỉ diễn tả sự xúc động mãnh liệt khi lần đầu được ra
thăm lăng Bác mà phải chăng còn gửi gắm tấm lòng thành kính thiêng liêng của mình cũng như của mọi người dân
đối với Bác. Những hàng tre xanh rợp bóng mát từ mọi miền Tổ quốc tụ hội về đây như đang canh gác, như lời ru
của quê hương đất nước chứa chan tình yêu thương cho giấc ngủ của Người.
 H/ảhàng tre đơn sơ giản dị nhưng đã thể hiện sự chọn lọc tinh tế mang giá trị biểu cảm lớn.
b. Cảm xúc khi hòa cùng dòng người vào lăng viếng Bác (khổ 2):
Khổ thơ thứ hai được tạo nên bởi cặp câu thơ sóng đôi với hai h/ảnh mặt trời “Ngày ngày … rất đỏ”.
H/ả mặt trời trong câu thứ nhất là mặt trời thực của tự nhiên, rực rõ chói lọi chiếu sáng cho nhân gian, đem
lại hơi ấm, sự sống cho con người. Mặt trời thực ấy đã được nhân hóa “ngày ngày đi qua trên lăng” để chiêm
ngưỡng “một mặt trời trong lăng rất đỏ”.
Còn, mặt trời trong lăng chính là một h/ả ẩn dụ chỉ Bác Hồ. Giống như mặt trời, Bác cũng là một nguồn sáng
soi đường dẫn lối đưa dân tộc ta đến tự do, ấm no, hạnh phúc.  Dùng h/ả mặt trời để nói về Bác chính là cách
để ngợi ca đạo đức sáng ngời cũng như công lao to lớn của Bác với dân tộc Việt Nam.
Cụm từ “rất đỏ” làm cho câu thơ có h/ả đẹp, gây ấn tượng đồng thời nói lên tư tưởng cách mạng, lòng yêu
nước nồng nàn của Bác.
Thông qua h/ả ẩn dụ trên, tác giả vừa nói lên được sự vĩ đại của Bác, vừa thể hiện được lòng biết ơn, sự
tôn kính của nhà thơ, của nhân dân đối với Bác.
Tôn kính Bác bao nhiêu thì nhà thơ lại vô cùng thương tiếc khi nhìn thấy cảnh: “Ngày ngày dòng người …
mùa xuân”.
Điệp từ “ngày ngày” lặp lại hai lần cùng nhịp thơ chậm diễn tả dòng người vào lăng viếng Bác như nối dài
liên tục, vô tận.
H/ả dòng người đi trong thương nhớ, vừa là h/ả thật, vừa là h/ả mang nghĩa tượng trưng. Ngày ngày dòng người
đi trong một không gian đặc biệt: “không gian thương nhớ”, trong nỗi xúc động bồi hồi, trong sự tiếc thương
kính cẩn, trong nỗi nhớ mênh mông. Nỗi nhớ ấy lan tỏa tạo thành một không gian mang đầy tâm trạng để rồi
“Kết thành tràng hoa dâng bảy chín mùa xuân”.
Tác giả đã dùng một h/ả ẩn dụ để ngầm so sánh những dòng người vào lăng viếng Bác như những tràng hoa
kính dâng lên Người. Mỗi con người là một bông hoa đẹp, cuộc đời họ đã nở hoa dưới ánh sáng của Bác.
Những bông hoa tươi thắm đó đang dâng lên Người những gì tốt đẹp nhất.
“bảy chín mùa xuân” là một h/ả hoán dụ đặc sắc. Cái tinh tế của Viễn Phương là đã dùng ngay cách nói lạc
quan của Người, dùng “xuân” để nói đến tuổi. Đồng thời còn nói lên được ý nghĩa tượng trưng, con người bảy
chín mùa xuân ấy đã sống một cuộc đời đẹp như những mùa xuân và đã làm ra mùa xuân cho đất nước con
người. Chính cách nói này đã gián tiếp khẳng định sự bất tử của Bác trong lòng mọi người.
2. Cảm xúc trong lăng (khổ 3):
Niềm biết ơn thành kính đã trở thành nỗi xúc động nghẹn ngào khi tác giả nhìn thấy Bác.
Hai câu thơ “Bác nằm trong … dịu hiền” diễn tả tinh tế khung cảnh ở trong lăng. Bác đang ngủ bình yên thanh
thản trong ánh sáng trong trẻo, dịu nhẹ cùng không gian tĩnh lặng thiêng liêng. Và nhà thơ đã có một liên
tưởng thú vị: vầng trăng sáng với vầng trăng dịu hiền.
Phải chăng nhà thơ mong muốn những gì từng gắn bó thân thuộc với Bác luôn ở bên Người. Bởi trăng là
người bạn tri ân, tri kỷ. Trong mỗi vần thơ của Bác luôn tràn ngập ánh trăng. Trăng đã từng đến với Bác ở chốn
lao tù, trên chiến khu, trong chiến trận và giờ đây trăng mãi mãi bên Người trong giấc ngủ bình yên.
H/ả trăng dịu hiền gợi nghĩ đến tâm hồn cao đẹp, sáng trong của Người. Bác có lúc như mặt trời ấm áp, có lúc
lại êm đềm tựa ánh trăng. Đó cũng là biểu hiện sự vĩ đại trong con người Bác.
Bằng h/ả ẩn dụ “trời xanh”, tác giả đã khẳng định: Tuy Bác ra đi nhưng Người đã hóa thân vào thiên nhiên
đất trời, Bác vẫn sống mãi với non sông đất nước, sống mãi trong tâm hồn người dân VN.
Dù tin như thế nhưng nhà thơ vẫn không thể không đau xót trước sự ra đi của Người. Nỗi đau xót được nhà thơ
biểu hiện rất cụ thể, trực tiếp “Mà sao nghe nhói ở trong tim”. Nỗi đau quặn thắt, tê tái trong sâu thẳm tâm
hồn như hàng nghìn cây kim đâm vào trái tim thổn thức. Đó là những rung cảm chân thành sâu sắc.
3. Cảm xúc khi rời lăng (khổ 4):
Khổ thơ cuối diễn tả tâm trạng lưu luyến của nhà thơ chỉ muốn được ở lại bên Người.
Câu thơ “Mai về miền Nam thương trào nước mắt” như một tiếng khóc thổn thức cố kìm nén lại nỗi đau chia
ly. Từ “trào” đã diễn tả cảm xúc thật mãnh liệt, luyến tiếc, bịn rịn không muốn rời xa Bác bởi Người ấm áp
quá, rộng lớn quá.
Lúc sắp xa mới chính là lúc muốn ở lại, muốn làm một cái gì đó dù là nhỏ, rất nhỏ cho Bác “Muốn … này”.
Điệp ngữ “Muốn làm” được nhắc lại ba lần tạo âm hưởng dồn dập, thể hiện dòng cảm xúc đang cuồn cuộn
dâng trào. Đó chính là ước muốn cháy bỏng được hóa thân thành những sự vật ở quanh Bác. Làm một con
chim cất cao tiếng hót, một đóa hoa tỏa hương thơm, một cây tre giữ mãi giấc ngủ bình yên cho Người.
H/ảcây tre một lần nữa xuất hiện trong khổ thơ cuối tạo cho bài thơ có kết cấu đầu cuối tương ứng gây ấn tượng
sâu sắc và khiến dòng cảm xúc được trọn vẹn . H/ả “cây tre trung hiếu” là một h/ả ẩn dụ. H/ả ẩn dụ này như
một lời thề, một lời hứa sắc son của nhà thơ: “Trung với nước, hiếu với dân”, ước nguyện được làm một cây tre
cùng với hàng tre quanh lăng canh giữ bảo vệ giấc ngủ bình yên cho Người.

You might also like