ôn thi triết học

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 45

Vấn đề cơ bản của triết học

a) Nội dung vấn đề cơ bản của triết học


Triết học, khác với một số loại hình nhận thức khác, trước khi giải quyết các vấn đề
cụ thể của mình, nó buộc phải giải quyết một vấn đề có ý nghĩa nền tảng và là
điểm xuất phát để giải quyết tất cả những vấn đề còn lại - vấn đề về mối quan hệ
giữa vật chất với ý thức. Đây chính là vấn đề cơ bản của triết học. Ph.
Ăngghen viết: “Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là của triết học hiện
đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy với tồn tại”.
Để giải quyết được các vấn đề chuyên sâu của từng học thuyết về thế giới, câu hỏi đặt
ra đối với triết học trước hết vẫn là: Thế giới tồn tại bên ngoài tư duy con người
có quan hệ như thế nào với thế giới tinh thần tồn tại trong ý thức con người? Con
người có khả năng hiểu biết đến đâu về sự tồn tại thực của thế giới? Bất kỳ trường
phái triết học nào cũng không thể lảng tránh giải quyết vấn đề này - Mối quan hệ
giữa vật chất và ý thức, giữa tồn tại và tư duy.
Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt, trả lời hai câu hỏi lớn.
Mặt thứ nhất: Giữa ý thức và vật chất thì cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào
quyết định cái nào? Nói cách khác, khi tìm ra nguyên nhân cuối cùng của hiện
tượng, sự vật, hay sự vận động đang cần phải giải thích, thì nguyên nhân vật chất
hay nguyên nhân tinh thần đóng vai trò là cái quyết định.
Mặt thứ hai: Con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không? Nói cách
khác, khi khám phá sự vật và hiện tượng, con người có dám tin rằng mình sẽ nhận
thức được sự vật và hiện tượng hay không.
Cách trả lời hai câu hỏi trên quy định lập trường của nhà triết học và của trường phái
triết học, xác định việc hình thành các trường phái lớn của triết học.
b) Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm
Những người cho rằng vật chất, giới tự nhiên là cái có trước và quyết định ý thức
của con người được gọi là các nhà duy vật. Học thuyết của họ hợp thành các
môn phái khác nhau của chủ nghĩa duy vật, giải thích mọi hiện tượng của thế giới
này bằng các nguyên nhân vật chất - nguyên nhân tận cùng của mọi vận động
của thế giới này là nguyên nhân vật chất.
Những người cho rằng ý thức, tinh thần, ý niệm, cảm giác là cái có trước giới tự
nhiên, được gọi là các nhà duy tâm. Các học thuyết của họ hợp thành các phái
khác nhau của chủ nghĩa duy tâm, chủ trương giải thích toàn bộ thế giới này bằng
các nguyên nhân tư tưởng, tinh thần - nguyên nhân tận cùng của mọi vận động
của thế giới này là nguyên nhân tinh thần.
Chủ nghĩa duy vật:
Chủ nghĩa duy vật chất phác: là kết quả nhận thức của các nhà triết học duy vật thời
cổ đại. Chủ nghĩa duy vật thời kỳ này thừa nhận tính thứ nhất của vật chất
nhưng lại đồng nhất vật chất với một hay một số chất cụ thể của vật chất và
đưa ra những kết luận mà về sau người ta thấy mang nặng tính trực quan,
ngây thơ, chất phác. Tuy hạn chế do trình độ nhận thức thời đại về vật chất và
cấu trúc vật chất, nhưng chủ nghĩa duy vật chất phác thời cổ đại về cơ bản là
đúng vì nó đã lấy bản thân giới tự nhiên để giải thích thế giới, không viện đến
thần linh, thượng đế hay các lực lượng siêu nhiên
Chủ nghĩa duy vật siêu hình: là hình thức cơ bản thứ hai trong lịch sử của chủ nghĩa
duy vật, thể hiện khá rõ ở các nhà triết học thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII và điển
hình là ở thế kỷ XVII, XVIII. Đây là thời kỳ mà cơ học cổ điển đạt được
những thành tựu rực rỡ nên trong khi tiếp tục phát triển quan điểm chủ
nghĩa duy vật thời cổ đại, chủ nghĩa duy vật giai đoạn này chịu sự tác động
mạnh mẽ của phương pháp tư duy siêu hình, cơ giới - phương pháp nhìn thế
giới như một cỗ máy khổng lồ mà mỗi bộ phận tạo nên thế giới đó về cơ bản
ở trong trạng thái biệt lập và tĩnh tại. Tuy không phản ánh đúng hiện thực
trong toàn cục nhưng chủ nghĩa duy vật siêu hình đã góp phần không nhỏ
vào việc đẩy lùi thế giới quan duy tâm và tôn giáo, đặc biệt là ở thời kỳ
chuyển tiếp từ đêm trường trung cổ sang thời phục hưng.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng là hình thức cơ bản thứ ba của chủ nghĩa duy vật, do
C. Mác và Ph. Ăngghen xây dựng vào những năm 40 của thế kỷ XIX, sau đó
được V.I.Lênin phát triển. Với sự kế thừa tinh hoa của các học thuyết triết học
trước đó và sử dụng khá triệt để thành tựu của khoa học đương thời, ngay từ khi
mới ra đời chủ nghĩa duy vật biện chứng đã khắc phục được hạn chế của chủ
nghĩa duy vật chất phác thời cổ đại, chủ nghĩa duy vật siêu hình và là đỉnh
cao trong sự phát triển của chủ nghĩa duy vật. Chủ nghĩa duy vật biện chứng
không chỉ phản ánh hiện thực đúng như chính bản thân nó tồn tại mà còn là
một công cụ hữu hiệu giúp những lực lượng tiến bộ trong xã hội cải tạo hiện
thực ấy.
Chủ nghĩa duy tâm
Chủ nghĩa duy tâm chủ quan thừa nhận tính thứ nhất của ý thức con người. Trong
khi phủ nhận sự tồn tại khách quan của hiện thực, chủ nghĩa duy tâm chủ quan
khẳng định mọi sự vật, hiện tượng chỉ là phức hợp của những cảm giác.
Chủ nghĩa duy tâm khách quan cũng thừa nhận tính thứ nhất của ý thức nhưng coi
đó là thứ tinh thần khách quan có trước và tồn tại độc lập với con người.
Thực thể tinh thần khách quan này thường được gọi bằng những cái tên
khác nhau như ý niệm, tinh thần tuyệt đối, lý tính thế giới,...
Chủ nghĩa duy tâm triết học cho rằng ý thức, tinh thần là cái có trước và sản sinh ra giới tự
nhiên. Bằng cách đó, chủ nghĩa duy tâm đã thừa nhận sự sáng tạo của một lực lượng siêu nhiên
nào đó đối với toàn bộ thế giới. Vì vậy, tôn giáo thường sử dụng các học thuyết duy tâm làm cơ
sở lý luận, luận chứng cho các quan điểm của mình, tuy có sự khác nhau đáng kể giữa chủ nghĩa
duy tâm triết học với chủ nghĩa duy tâm tôn giáo.
Trong thế giới quan tôn giáo, lòng tin là cơ sở chủ yếu và đóng vai trò chủ đạo đối với vận động.
Còn chủ nghĩa duy tâm triết học lại là sản phẩm của tư duy lý tính dựa trên cơ sở tri thức và năng
lực mạnh mẽ của tư duy.
Về phương diện nhận thức luận, sai lầm cố ý của chủ nghĩa duy tâm bắt nguồn từ cách xem
xét phiến diện, tuyệt đối hóa, thần thánh hóa một mặt, một đặc tính nào đó của quá trình
nhận thức mang tính biện chứng của con người.
Bên cạnh nguồn gốc nhận thức, chủ nghĩa duy tâm ra đời còn có nguồn gốc xã hội. Sự tách rời
lao động trí óc với lao động chân tay và địa vị thống trị của lao động trí óc đối với lao động chân
tay trong các xã hội trước đây đã tạo ra quan niệm về vai trò quyết định của nhân tố tinh thần.
Trong lịch sử, giai cấp thống trị và nhiều lực lượng xã hội đã từng ủng hộ, sử dụng chủ
nghĩa duy tâm làm nền tảng lý luận cho những quan điểm chính trị - xã hội của mình.
Nhất nguyên luận: chỉ thừa nhận một trong hai thực thể (vật chất hoặc tinh thần) là bản nguyên
(nguồn gốc) của thế giới, quyết định sự vận động của thế giới
Nhị nguyên luận: Trong lịch sử triết học cũng có những nhà triết học giải
thích thế giới bằng cả hai bản nguyên vật chất và tinh thần, xem vật chất và tinh thần là
hai bản nguyên có thể cùng quyết định nguồn gốc và sự vận động của thế giới. Những người
theo thuyết nhị nguyên luận thường là những người trong trường hợp giải quyết một vấn đề nào
đó, ở vào một thời điểm nhất định là người duy vật, nhưng vào một thời điểm khác, và khi giải
quyết một vấn đề khác lại là người duy tâm. Song, xét đến cùng nhị nguyên luận thuộc về chủ
nghĩa duy tâm.
=> Những quan điểm, học phái triết học thực tế rất phong phú và đa dạng, nhưng dù đa dạng đến
mấy chúng cũng chỉ thuộc về hai lập trường cơ bản. Triết học, do vậy, được chia thành hai
trường phái chính: chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Vì thế, lịch sử triết học cũng chủ yếu
là lịch sử đấu tranh của hai trường phái duy vật và duy tâm.
Thuyết khả tri: Học thuyết triết học khẳng định khả năng nhận thức của con người. Thuyết
khả tri khẳng định về nguyên tắc con người có thể hiểu được bản chất của sự vật. Nói cách
khác, cảm giác, biểu tượng, quan niệm và nói chung ý thức mà con người có được về sự vật về
nguyên tắc là phù hợp với bản thân sự vật.
Thuyết bất khả tri: Học thuyết triết học phủ nhận khả năng nhận thức của con người. Theo
thuyết này, về nguyên tắc, con người không thể hiểu được bản chất của đối tượng. Kết quả
nhận thức mà loài người có được chỉ là hình thức bề ngoài, hạn hẹp và cắt xén về đối tượng. Các
hình ảnh, tính chất, đặc điểm... của đối tượng mà các giác quan của con người thu nhận được
trong quá trình nhận thức, cho dù có tính xác thực, cũng không cho phép con người đồng nhất
chúng với đối tượng. Đó không phải là cái tuyệt đối tin cậy.
Bất khả tri không tuyệt đối phủ nhận những thực tại siêu nhiên hay thực tại được cảm
giác của con người, nhưng vẫn khẳng định ý thức con người không thể đạt tới thực tại tuyệt đối
hay thực tại như nó vốn có, vì mọi thực tại tuyệt đối đều nằm ngoài kinh nghiệm của con người
về thế giới. Thuyết bất khả tri cũng không đặt vấn đề về niềm tin, mà chỉ phủ nhận khả
năng vô hạn của nhận thức.
Hoài nghi luận: Ít nhiều liên quan đến Thuyết bất khả tri là sự ra đời của trào lưu hoài nghi luận
từ triết học Hy Lạp cổ đại. Những người theo hoài nghi luận nâng sự hoài nghi lên thành nguyên
tắc trong việc xem xét tri thức đã đạt được và cho rằng con người không thể đạt đến chân lý
khách quan. Tuy cực đoan về mặt nhận thức, nhưng hoài nghi luận thời phục hưng đã giữ
vai trò quan trọng trong cuộc đấu tranh chống hệ tư tưởng và quyền uy của Giáo hội thời
trung cổ. Hoài nghi luận thừa nhận sự hoài nghi đối với cả Kinh thánh và các tín điều tôn giáo.

Vật chất và ý thức


1. Vật chất
Các quan niệm trước Mác về vật chất

- Vật chất là một phạm trù cơ bản của triết học, ra đời, tồn tại, biến đổi cùng sự ra đời, tồn tại và
biến đổi của lịch sử triết học.

- Các nhà duy vật cổ đại đồng nhất vật chất với các dạng cụ thể, hữu hình đang tồn tại của nó.

- Các nhà duy vật TK 17, 18, tiếp tục kế thừa thuyết nguyên tử cổ đại, đồng nhất vật chất với
khối lượng, tách rời vật chất với vận động.

- Đầu TK 19, KHTN phát triển tạo ra “cuộc khủng hoảng vật lý học”... Lênin khái quát tình
hình, chứng minh KHTN không bác bỏ phạm trù vật chất, chỉ bác bỏ quan niệm sai lầm về vật
chất... Và đưa ra định nghĩa nổi tiếng của mình.

Nêu định nghĩa vật chất của Lênin

“Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người
trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại phản ánh và tồn tại không lệ thuộc
vào cảm giác”.

Những nội dung cơ bản của định nghĩa vật chất Lênin

- Vật chất là “phạm trù triết học” do vậy vừa có tính trừu tượng, vừa có tính cụ thể.

● Tính trừu tượng của vật chất dùng để chỉ đặc tính chung, bản chất nhất của vật chất - đó
là đặc tính tồn tại khách quan, độc lập với ý thức con người và cũng là tiêu chí duy nhất
để phân biệt vật chất với khoa học vật chất cụ thể khác.

Ví dụ: Nhà nước phong kiến có bản chất là giai cấp địa chủ phong kiến chống lại nông dân và
những người lao động khác để củng cố, bảo vệ sự thống trị về mọi mặt của địa chủ, phân biệt với
nhà nước tư bản hay xã hội chủ nghĩa.

● Tính cụ thể của vật chất thể hiện ở chỗ chỉ có thể nhận biết được vật chất thông qua
nghiên cứu các sự vật hiện tượng vật chất cụ thể
Ví dụ: Tính nóng của nước sôi được cảm nhận thông qua xúc giác, qua nghiên cứu biết được
nước sôi nóng ở 100 độ C

- Vật chất là “thực tại khách quan”: có đặc tính cơ bản ( cũng là đặc trưng cơ bản ) là tồn tại
không phụ thuộc vào ý thức. Dù con người có nhận thức được hay chưa nhận thức được thì nó
vẫn tồn tại.

Ví dụ: Thủy triều là hiện tượng nước biển hay nước sông lên xuống trong 1 chu kỳ thời gian phụ
thuộc vào biến chuyển thiên văn, là đặc tính cơ bản của sông nước. Nó tồn tại 1 cách tự nhiên,
không phụ thuộc vào nhận thức của con người.

- Vật chất có tính khách thể: con người có thể nhận biết vật chất bằng các giác quan như thị giác,
xúc giác,…

Ví dụ: Sự tăng trưởng về cân nặng, kích thước của đàn lợn sau 1 thời gian nuôi dưỡng được
người chủ nhận biết bằng thị giác, xúc giác,..

- Ý thức là sự chép lại, chụp lại, phản ánh lại thực tại khách quan. Bằng các giác quan của mình
con người có thể trực tiếp hoặc gián tiếp nhận biết được thực tại khách quan; chỉ có sự vật, hiện
tượng của thực tại khách quan chưa được nhận biết, chứ không thể không biết.

Ví dụ: Kiến thức của nhân loại là kết quả của quá trình con người tiếp xúc và nghiên cứu thế giới
khách quan. Mọi khía cạnh về thế giới được con người cảm nhận và ghi chép lại.

- Vật chất là cái có trước, tồn tại độc lập với ý thức và quy định ý thức. Ý thức là cái có sau vật
chất, phụ thuộc vào vật chất. Như vậy vật chất là nội dung, là nguồn gốc khách quan của ý thức,
là nguyên nhân làm cho ý thức phát sinh. Tuy nhiên ý thức tồn tại độc lập tương đối so với vật
chất, có tác động , thậm chí chuyển thành sức mạnh vật chất khi nó thâm nhập vào chúng và
được quần chúng vận động.

Ví dụ: Trong quá trình phát triển đất nước, khi cuộc sống khó khăn, thiếu thốn về vật chất, nhưng
ý thức của con người đã vượt xa so với “vật chất hiện tại”. Điển hình là:

Nguyễn Tất Thành hay những tấm gương : Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh... nghĩ lớn, quyết
tâm tìm đường cứu dân tộc thoát khỏi ách đô hộ của Thực dân Pháp,..
Ý nghĩa thế giới quan và phương pháp luận của định nghĩa này.

- Giải quyết 1 cách đầy đủ và khoa học vấn đề cơ bản của triết học trên lập trường duy vật.

- Bác bỏ thuyết “không thể biết” và khắc phục những thiếu sót của các quan điểm duy vật trước
Mác về vật chất.

- Định hướng cho khoa học trong việc tìm kiếm những dạng vật chất mới.

- Cho phép xác định vật chất trong đời sống xã hội – đó là tồn tại xã hội, qua đó tạo lập cơ sở lí
luận cho việc xây dựng quan điểm duy vật về lịch sử , khắc phục được những hạn chế trong quan
niệm duy tâm về xã hội.

2. Ý thức

Ý thức là gì?

- Chủ nghĩa Mác-Lênin khẳng định, ý thức là một phạm trù triết học dùng để chỉ toàn bộ hoạt
động tinh thần phản ánh thế giới vật chất diễn ra trong não người, hình thành trong quá trình lao
động và được diễn đạt nhờ ngôn ngữ.

Nguồn gốc của ý thức

Theo quan niệm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, ý thức được bắt nguồn từ: nguồn gốc tự
nhiên và nguồn gốc xã hội.

- Nguồn gốc tự nhiên (Não bộ con người):

+ Thế giới khách quan tác động vào bộ não con người, não người phản ánh lại, sinh ra ý thức.
Não người - hoạt động ý thức của con người diễn ra trên cơ sở hoạt động của thần kinh não bộ;
bộ não càng hoàn thiện hoạt động thần kinh càng hiệu quả, ý thức của con người càng phong phú
và sâu sắc.
+ Ý thức là kết quả của quá trình tiến hóa của thuộc tính phản ánh ở mọi dạng vật chất. Phản ánh
là thuộc tính phổ biến của mọi vật chất, là sự tái tạo những đặc điểm của một hệ thống vật chất
này ở hệ thống vật chất khác trong quá trình tác động qua lại giữa chúng. Kết quả của sự phản
ánh phụ thuộc vào 2 vật: vật tác động và vật bị tác động.

Ví dụ: Thanh sắt (vật bị tác động) để lâu trong không khí (vật tác động là O2) sẽ xuất hiện hiện
tượng han gỉ.

+ Phản ánh là thuộc tính chung, phổ biến của mọi đối tượng vật chất. Sự phản ánh của vật chất
là một trong những nguồn gốc tự nhiên của ý thức. Phản ánh của vật chất có quá trình phát triển
lâu dài và từ hình thức thấp lên hình thức cao- tùy thuộc vào kết cấu của tổ chức vật chất.

Phản ánh thấp nhất là phản ánh vô sinh ( Thế giới vô cơ) là phản ánh thụ động

Ví dụ: Hai thanh kim loại chạm vào nhau sẽ phát ra tiếng kêu leng keng, và hiện tượng biến
dạng.

Phản ánh tiếp theo là phản ánh hữu sinh ( có sự sống) : phản ánh ở thực vật ;ở động vật chưa có
hệ thần kinh, não bộ và ở động vật có hệ thần kinh, trí khôn.

Phản ánh cuối cùng là ở con người- là phản ánh cao nhất để sản sinh ra ý thức.

+ Ý thức là sản phẩm của vật chất, nhưng không phải của mọi dạng vật chất mà chỉ của một dạng
vật chất cao nhất và duy nhất đó là bộ não của con người.

Như chúng ta biết, ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào trong bộ óc của con người. Bộ
óc của con người là cơ quan phản ánh, song chỉ có bộ óc thôi thì chưa có ý thức. Không có sự tác
động của thế giới bên ngoài lên các giác quan và qua đó đến bộ óc thì hoạt động ý thức không
thể xảy ra.

Như vậy bộ óc người cùng với thế giới bên ngoài tác động lên bộ óc đó là nguồn gốc tự nhiên
của ý thức.

Ví dụ: Một người có não bộ tổn thương thì ý thức rối loạn . Một người có não bộ bị chết thì
không có ý thức.
- Nguồn gốc xã hội:

Ý thức ra đời cùng với sự hình thành bộ óc con người nhờ lao động, ngôn ngữ và những quan hệ
xã hội. Lao động và ngôn ngữ được tiến hành trong xã hội và mang bản chất xã hội.

Lao động là quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác động vào thế giới tự nhiên nhằm
tạo ra những sản phẩm phục vụ cho nhu cầu của mình, trong đó con người đóng vai trò môi giới,
điều tiết và giám sát trong sự trao đổi vật chất giữa người và tự nhiên. Lao động là hoạt động đặc
thù của con người, lao động luôn mang tính tập thể, xã hội.

Vai trò của lao động là hoàn thiện con người.

Ví dụ: Xét theo suốt quá trình tiến hóa từ Vượn cổ tới Người tối cổ tới Người hiện đại:

Con người quen với việc di chuyển tứ chi tới di chuyển bằng hai chân nhưng gù lưng, và cuối
cùng là thẳng lưng

Thế giới khách quan bộc lộ những thuộc tính, kết cấu, quy luật vận động của mình trong quá
trình lao động. Trong lao động đòi hỏi xuất hiện ngôn ngữ. Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu, kí
hiệu mà con người ta quy ước với nhau để lưu giữ và truyền tải thông tin giữa người- người, giữa
các thế hệ với nhau.

Vai trò của ngôn ngữ: Nhờ ngôn ngữ mà con người tổng kết được thực tiễn, đồng thời là công cụ
của tư duy nhằm khái quát hóa, trừu tượng hóa hiện thực.

Ví dụ: Ngôn ngữ khô cứng, nghèo nàn thì tư duy cũng hạn hẹp

Ngôn ngữ linh hoạt thì tư duy thoáng

Từ đây, Não bộ là điều kiện cần, Lao động và Ngôn ngữ là điều kiện đủ. Không thể thiếu một
trong ba yếu tố trên, vì nếu thiếu thì sẽ không tạo nên một ý thức hoàn chỉnh.

Ví dụ : Câu chuyện cô bé Người sói:


Đều là con người bình thường, não bộ phát triển bình thường nhưng lại không sống trong môi
trường người nên cô bé không có ý thức như một con người mà là một con sói.

Vậy nguồn gốc nguồn gốc trực tiếp quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát triển của ý thức
là lao động là thực tiễn xã hội.

Bản chất của ý thức

- Ý thức là sự phản ánh sáng tạo của thế giới khách quan vào trong não người và được cải biến từ
đó. Là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là quá trình phản ánh tích cực, sáng tạo hiện
thực khách quan của óc người.

Ví dụ: Hình ảnh một dòng sông dưới con mắt thẩm mỹ của người nông dân khác với thi sĩ

- Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan: Ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất
thông qua não người, nội dung mà ý thức phản ánh là khách quan còn hình thức phản ánh là chủ
quan, nó phản ánh thế giới khách quan nhưng nằm trong phạm vi chủ quan

- Ý thức mang đặc tính năng động, sáng tạo: Ý thức không phải là kết quả của sự phản ánh đơn
lẻ thụ động mà hoàn toàn có định hướng mục đích, ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất vào bộ
nào người nhưng đây là sự phản ánh đặc biệt gắn với thực tiễn và đi liền với nhu cầu của con
người, trên cơ sở những cái đã có thì ý thức có thể tạo ra tri thức mới về sự vật tưởng tượng ra
những cái không có trong thực tế tạo ra một “ thiên nhiên thứ hai” .

- Ý thức mang bản chất xã hội. Nó phụ thuộc vào từng điều kiện, hoàn cảnh, môi trường, xã hội
quy định

Ví dụ: ý thức của người sống trong xã hội phong kiến khác so với con người hiện đại ngày nay:

Để duy trì giống nòi:

+ Trong xã hội phong kiến: Lấy anh em, chị em,...họ hàng là chuyện bình thường và một phần
tất yếu để dòng máu dòng tộc không bị pha loãng bởi ngoại tộc

+ Hiện đại: Loạn luân là một vấn đề xã hội đáng bị lên án gay gắt và cần phải xóa bỏ.
Sự phản ánh ý thức là sự thống nhất ba mặt

• Trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng (có định hướng, chọn lọc và mang tính hai chiều)

• Mô hình hóa đối tượng trong tư duy dưới hình ảnh tinh thần (mã hóa vật chất thành ý tưởng
tinh thần phi vật chất)

• Chuyển mô hình từ tư duy ra hiện thực (biến ý tưởng tinh thần phi vật chất thành vật chất)

Phản ánh và sáng tạo là hai mặt thuộc bản chất ý thức

Kết quả phản ánh của ý thức phụ thuộc vào nhiều yếu tố: đối tượng, điều kiện lịch sử xã hội,
phẩm chất, năng lực, kinh nghiệm,…

Ý thức hình thành và phát triển gắn liền với hoạt động thực tiễn

Ý thức có thể tiên đoán, dự báo về tương lai, có thể tạo ra những ảo tưởng, huyền thoại, những
giả thuyết, lý thuyết khoa học hết sức trừu tượng và có tính khái quát cao

Sự sáng tạo của ý thức phải dựa vào sự phản ánh của thế giới vật chất và sự sáng tạo này hoàn
toàn thống nhất trên cơ sở của sự phản ánh

2 nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật

Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến

Khái niệm liên hệ: “Mối liên hệ” là một phạm trù triết học dùng để chỉ các mối ràng
buộc tương hỗ, quy định và ảnh hưởng lẫn nhau giữa các yếu tố, bộ phận trong
một đối tượng hoặc giữa các đối tượng với nhau. Liên hệ là quan hệ giữa hai đối
tượng nếu sự thay đổi của một trong số chúng nhất định làm đối tượng kia thay
đổi.

Ngược lại, cô lập (tách rời) là trạng thái của các đối tượng khi sự thay đổi của đối
tượng này không ảnh hưởng đến các đối tượng khác, không làm chúng thay đổi.
Ví dụ: + sự biến đổi các nguyên tắc đạo đức không làm quỹ đạo chuyển động của trái
đất thay đổi,
+ những thay đổi xảy ra khi các hạt cơ bản tương tác với nhau cũng khó làm cho
các nguyên tắc đạo đức thay đổi
Quan điểm siêu hình về sự tồn tại của các sự vật, hiện tượng trong thế giới thường
phủ định mối liên hệ tất yếu giữa các đối tượng, được phổ biến rộng rãi trong
khoa học tự nhiên rồi lan truyền sang triết học
Trái lại, quan điểm biện chứng duy vật cho rằng, các sự vật, hiện tượng của thế giới
tồn tại trong mối liên hệ qua lại với nhau, quy định lẫn nhau, thâm nhập, chuyển
hóa lẫn nhau, không tách biệt nhau.
=> Đó là nội dung của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến. Cơ sở của sự tồn tại đa dạng
các mối liên hệ là tính thống nhất vật chất của thế giới. Theo đó, các sự vật, hiện tượng
phong phú trong thế giới chỉ là những dạng tồn tại khác nhau của một thế giới vật chất
duy nhất.

Tính chất của mối liên hệ phổ biến

Tính khách quan: Có mối liên hệ, tác động giữa các sự vật, hiện tượng vật chất với
nhau. Có mối liên hệ giữa sự vật, hiện tượng vật chất với các hiện tượng tinh thần.
Có mối liên hệ giữa những hiện tượng tinh thần với nhau (mối liên hệ và tác động
giữa các hình thức của nhận thức)... Các mối liên hệ, tác động đó suy đến cùng
đều là sự quy định, tác động qua lại, chuyển hóa và phụ thuộc lẫn nhau giữa các
sự vật, hiện tượng.

Tính phổ biến: bất kỳ ở đâu, trong tự nhiên, xã hội và tư duy đều có vô vàn các mối
liên hệ đa dạng, chúng giữ những vai trò, vị trí khác nhau trong sự vận động,
chuyển hóa của các sự vật, hiện tượng. Mối liên hệ qua lại, quy định, chuyển hóa
lẫn nhau không những diễn ra ở mọi sự vật, hiện tượng tự nhiên, xã hội, tư duy,
mà còn diễn ra giữa các mặt, các yếu tố, các quá trình của mỗi sự vật, hiện tượng.

Tính đa dạng, phong phú: Có mối liên hệ về không gian và cũng có mối liên hệ về
mặt thời gian giữa các sự vật, hiện tượng. Có mối liên hệ chung tác động lên toàn
bộ hay trong những lĩnh vực rộng lớn của thế giới; có mối liên hệ riêng chỉ tác
động trong từng lĩnh vực, từng sự vật và hiện tượng cụ thể. Có mối liên hệ trực
tiếp giữa nhiều sự vật, hiện tượng, có mối liên hệ gián tiếp. Có mối liên hệ tất
nhiên, có mối liên hệ ngẫu nhiên. Có mối liên hệ bản chất, có mối liên hệ không
bản chất chỉ đóng vai trò phụ thuộc. Có mối liên hệ chủ yếu và có mối liên hệ thứ
yếu... Các mối liên hệ đó giữ những vai trò khác nhau quy định sự vận động, phát
triển của sự vật, hiện tượng.
Mỗi sự vật, hiện tượng tồn tại trong nhiều mối liên hệ, tác động qua lại với nhau; do vậy,
khi nghiên cứu đối tượng cụ thể cần tuân thủ nguyên tắc toàn diện:
Thứ nhất, khi nghiên cứu, xem xét đối tượng cụ thể, cần đặt nó trong chỉnh thể thống
nhất của tất cả các mặt, các bộ phận, các yếu tố, các thuộc tính, các mối liên hệ
của chỉnh thể đó; “cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả các
mối liên hệ và “quan hệ gián tiếp” của sự vật đó”, tức là trong chỉnh thể thống
nhất của “tổng hòa những quan hệ muôn vẻ của sự vật ấy với những sự vật khác”
Thứ hai, chủ thể phải rút ra được các mặt, các mối liên hệ tất yếu của đối tượng đó
và nhận thức chúng trong sự thống nhất hữu cơ nội tại, bởi chỉ có như vậy, nhận
thức mới có thể phản ánh được đầy đủ sự tồn tại khách quan với nhiều thuộc tính,
nhiều mối liên hệ, quan hệ và tác động qua lại của đối tượng.
Thứ ba, cần xem xét đối tượng này trong mối liên hệ với đối tượng khác và với môi
trường xung quanh, kể cả các mặt của các mối liên hệ trung gian, gián tiếp; trong
không gian, thời gian nhất định, tức là cần nghiên cứu cả những mối liên hệ của
đối tượng trong quá khứ, hiện tại và phán đoán tương lai.
Thứ tư, quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện, một chiều, chỉ thấy
mặt này mà không thấy mặt khác; hoặc chú ý đến nhiều mặt nhưng lại xem xét
dàn trải, không thấy mặt bản chất của đối tượng nên dễ rơi vào thuật ngụy biện
(đánh tráo các mối liên hệ cơ bản thành không cơ bản hoặc ngược lại) và chủ
nghĩa chiết trung (lắp ghép vô nguyên tắc các mối liên hệ trái ngược nhau vào
một mối liên hệ phổ biến).

Nguyên lý về sự phát triển


Phát triển là quá trình vận động từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện
hơn, từ chất cũ đến chất mới ở trình độ cao hơn.
Như vậy, phát triển là vận động nhưng không phải mọi vận động đều là phát triển,
mà chỉ vận động nào theo khuynh hướng đi lên thì mới là phát triển. Vận động
diễn ra trong không gian và thời gian, nếu thoát ly chúng thì không thể có phát
triển.
Cần phân biệt hai khái niệm gắn với khái niệm phát triển là tiến hóa và tiến bộ:
Tiến hóa là một dạng của phát triển, diễn ra theo cách từ từ và thường là sự biến đổi
hình thức của tồn tại xã hội từ đơn giản đến phức tạp. Thuyết tiến hóa tập trung
giải thích khả năng sống sót và thích ứng của cơ thể xã hội trong cuộc đấu tranh
sinh tồn.
Trong khi đó, khái niệm tiến bộ đề cập đến sự phát triển có giá trị tích cực. Tiến bộ
là một quá trình biến đổi hướng tới cải thiện thực trạng xã hội từ chỗ chưa hoàn
thiện đến hoàn thiện hơn so với thời điểm ban đầu. Trong tiến bộ, khái niệm phát
triển đã được lượng hóa thành tiêu chí cụ thể để đánh giá mức độ trưởng thành
của các dân tộc, các lĩnh vực của đời sống con người.
Đối tượng mới chỉ là cái phù hợp với khuynh hướng tiến bộ của lịch sử, có tiền đồ rộng
lớn; đối tượng cũ là cái đã mất - vai trò tất yếu lịch sử, ngày càng đi vào xu hướng diệt
vong. Bởi vì:
Một là, xét từ mối quan hệ giữa đối tượng mới và hoàn cảnh thì đối tượng mới có kết
cấu và chức năng thích ứng với điều kiện mới đã biến đổi; đối tượng cũ chỉ gồm
các loại yếu tố và chức năng không còn phù hợp với hoàn cảnh đã biến đổi, xu thế
diệt vong là không thể cứu vãn.
Hai là, xét mối quan hệ giữa đối tượng cũ và đối tượng mới thì đối tượng mới là cái
đã manh nha nảy mầm từ trong lòng đối tượng cũ, là cái phủ định những tiêu cực
trong đối tượng cũ, đồng thời bảo lưu được những cái hợp lý, thích hợp với điều
kiện mới và bổ sung nội dung mới chưa có ở đối tượng cũ.

Tính chất của phát triển:

Tính khách quan: nguồn gốc của nó nằm trong chính bản thân sự vật, hiện tượng,
chứ không phải do tác động từ bên ngoài và đặc biệt không phụ thuộc vào ý thích,
ý muốn chủ quan của con người.

Tính phổ biến: sự phát triển có mặt ở khắp mọi nơi trong các lĩnh vực tự nhiên, xã
hội và tư duy.
Tính kế thừa: sự vật, hiện tượng mới ra đời không thể là sự phủ định tuyệt đối, phủ
định sạch trơn, đoạn tuyệt một cách siêu hình đối với sự vật, hiện tượng cũ. Sự
vật, hiện tượng mới ra đời từ sự vật, hiện tượng cũ, chứ không phải ra đời từ hư
vô. Vì vậy trong sự vật, hiện tượng mới còn giữ lại, có chọn lọc và cải tạo các yếu
tố còn tác dụng, còn thích hợp với chúng, trong khi gạt bỏ mặt tiêu cực, lỗi thời,
lạc hậu của sự vật, hiện tượng cũ đang gây cản trở sự vật, hiện tượng mới tiếp tục
phát triển.
Tính đa dạng, phong phú: tuy sự phát triển diễn ra trong mọi lĩnh vực tự nhiên, xã
hội và tư duy, nhưng mỗi sự vật, hiện tượng lại có quá trình phát triển không
giống nhau. Tính đa dạng, phong phú của sự phát triển còn phụ thuộc vào không
gian và thời gian, vào các yếu tố, điều kiện tác động lên sự phát triển đó.

Nguyên tắc phát triển:

Thứ nhất, khi nghiên cứu, cần đặt đối tượng vào sự vận động, phát hiện xu hướng
biến đổi của nó để không chỉ nhận thức nó ở trạng thái hiện tại, mà còn dự báo
được khuynh hướng phát triển trong tương lai.
Thứ hai, cần nhận thức được rằng, phát triển là quá trình trải qua nhiều giai đoạn,
mỗi giai đoạn có đặc điểm, tính chất, hình thức khác nhau nên cần tìm hình thức,
phương pháp tác động phù hợp để thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển đó.
Thứ ba, phải sớm phát hiện và ủng hộ đối tượng mới hợp quy luật, tạo điều kiện cho
nó phát triển; chống lại quan điểm bảo thủ, trì trệ, định kiến.
Thứ tư, trong quá trình thay thế đối tượng cũ bằng đối tượng mới phải biết kế thừa
các yếu tố tích cực từ đối tượng cũ và phát triển sáng tạo chúng trong điều kiện
mới.
Cặp phạm trù chung - riêng, nguyên nhân - kết quả:

Chung- riêng

Khái niệm :

Cái riêng là một phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật hiện tượng nhất định . Cái
đơn nhất là phạm trù triết học dùng để chỉ các mặt , các đặc điểm vốn có ở một sự
vật hiện tượng nào đó, mà không xuất hiện ở sự vật hiện tượng khác.

Cái chung là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt , những thuộc tính không
những có ở một sự vật hiện tượng nào đó , mà còn lặp lại ở nhiều sự vật hiện
tượng khác

Mối quan hệ :

Các nhà duy thực khẳng định cái chung tồn tại độc lập và không phụ thuộc vào cái
riêng .Cái riêng hoặc hoàn toàn không có hoặc tồn tại phụ thuộc vào cái chung do
cái chung sinh ra .Có hai luận giải :

Cái chung mang tính tư tưởng , tinh thần , tồn tại dưới các khái niệm chung

Cái chung mang tính vật chất , tồn tại dưới dạng một khối không đổi , bao
trùm tất cả , tự trùng với mình , hoặc dưới các dạng nhóm đối tượng khác

Các nhà duy danh cho rằng cái chung không tồn tại thực trong hiện thực khách quan ,
chỉ có sự việc đơn lẻ , cái riêng mới tồn tại thực , chỉ tồn tại trong tư duy con
người , chỉ là tên gọi các đối tượng đơn lẻ.

Chủ nghĩa duy vật biện chứng đã khắc phục những khiếm khuyết của cả hai xu hướng
trên :

Cả cái chung và cái đơn nhất đều không tồn tại độc lập tự thân , vì chúng là
thuộc tính nên phải gắn với đối tượng xác định.
Cái riêng mới tồn tại độc lập . Cái chung và cái đơn nhất tồn tại trong cái
riêng , như là một mặt của cái riêng .

Cái chung không tồn tại độc lập mà là một mặt của cái riêng , liên hệ không
tách rời với cái đơn nhất , như cái đơn nhất liên hệ chặt chẽ với cái chung .

Mọi cái riêng đều là sự thống nhất của các mặt đối lập, vừa là cái đơn nhất ,
vừa là cái chung

Mối liên hệ của cái đơn nhất với cái chung thể hiện trước hết ở mối liên hệ lẫn
nhau trong thể thống nhất gồm các mặt , các yếu tố đơn lẻ trong sự vật
hiện tượng này và các mặt các yếu tố ở nó được lặp lại ở hiện tượng sự vật
khác

Mối liên hệ giữa cái chung và cái riêng biểu hiện ở mối liên hệ lẫn nhau ở các
thuộc tính cùng có ở nhiều đối tượng với từng đối tượng đó được xét như
cái toàn bộ

Cái riêng là cái toàn bộ , cái chung là cái bộ phận

ý nghĩa phương pháp luận :

– Nhiệm vụ của nhận thức là phải tìm ra cái chung và trong hoạt động thực tiễn phải dựa vào cái
chung để cải tạo cái riêng.

– Khi vận dụng cái chung, phải cá biệt hoá cái chung trong mỗi hoàn cảnh cụ thể.

– Trong hoạt động thực tiễn phải tạo ra điều thuận lợi để cái đơn nhất và cái chung có thể chuyển
hoá lẫn nhau nếu có lợi cho con người.

B. Nguyên nhân kết quả

-Khái niệm:
+ Nguyên nhân là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự tác động qua lại giữa các mặt, các bộ
phận, các thuộc tính trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau gây ra những biến đổi nhất
định.

+ Kết quả là một phạm trù triết học dùng để chỉ những biến đổi do tác động qua lại đó.

+ Điều kiện: Khi xem xét mối liên hệ nhân quả, chúng ta thấy rằng kết quả do nguyên nhân gây
ra phụ thuộc vào những điều kiện nhất định. Điều kiện là cần thiết cho một sự biến đổi nào đó
xảy ra, nhưng bản thân chúng không gây nên biến đổi ấy. Các hiện tượng cùng với các hiện
tượng khác có mặt khi nguyên nhân gây ra kết quả được gọi là hoàn cảnh.

- Mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả:

+ Nguyên nhân là cái sinh ra kết quả, nên nguyên nhân luôn luôn có trước kết quả. Kết quả chỉ
xuất hiện khi nguyên nhân xuất hiện và bắt đầu tác động.

+ Tuy nhiên, không phải sự nối tiếp nào về mặt thời gian của các hiện tượng cũng là mối quan hệ
nhân quả. Ví dụ: ngày luôn luôn “đến sau” đêm, nhưng ngày không phải là nguyên nhân của
đêm.

+ Cái phân biệt liên hệ nhân quả với liên hệ nối tiếp nhau về thời gian chính là ở chỗ, giữa
nguyên nhân và kết quả còn có mối quan hệ sản sinh, mối quan hệ mà trong đó nguyên nhân sinh
ra kết quả.

+ Nguyên nhân sinh ra kết quả như thế nào?

Cùng một nguyên nhân có thể gây nên những kết quả khác nhau, tuỳ thuộc vào hoàn cảnh cụ thể.
Ngược lại, một kết quả có thể gây nên bởi những nguyên nhân khác nhau tác động riêng lẻ hay
tác động cùng một lúc.

Khi các nguyên nhân tác động cùng một lúc lên sự vật thì hiệu quả tác động của từng nguyên
nhân tới việc hình thành kết quả sẽ khác nhau, tuỳ thuộc vào hướng tác động của nó.

Nếu các nguyên nhân khác nhau tác động lên sự vật theo cùng một hướng, chúng sẽ gây nên ảnh
hưởng cùng chiều với sự hình thành kết quả. Ngược lại, nếu các nguyên nhân khác nhau tác động
lên sự vật theo các hướng khác nhau thì chúng sẽ làm suy yếu, thậm chí hoàn toàn triệt tiêu tác
dụng của nhau.

+ Cái trong mối quan hệ này là nguyên nhân nhưng trong mối quan hệ khác có thể là kết quả, và
ngược lại.

Một hiện tượng nào đó với tính cách là kết quả do một nguyên nhân nào đó sinh ra, đến lượt
mình, nó trở thành nguyên nhân sinh ra hiện tượng thứ 3. Quá trình đó cứ tiếp tục không bao giờ
kết thúc, tạo nên một chuỗi nhân quả vô cùng tận.

- Phân loại nguyên nhân:

Căn cứ vào tính chất và vai trò của nguyên nhân đối với sự hình thành kết quả, có thể chia
nguyên nhân ra làm nhiều loại khác nhau:

+ Nguyên nhân chủ yếu và nguyên nhân không chủ yếu

Những nguyên nhân nào mà thiếu chúng thì kết quả sẽ không xảy ra gọi là nguyên nhân chủ yếu.

Những nguyên nhân nào mà sự có mặt của chúng chỉ quyết định những đặc điểm nhất thời,
không ổn định, cá biệt của hiện tượng thì gọi là nguyên nhân không chủ yếu.

+ Nguyên nhân bên trong và nguyên nhân bên ngoài

+ Nguyên nhân bên trong là sự tác động lẫn nhau giữa những mặt hay giữa những yếu tố của
cùng một sự vật nào đó và gây ra những biến đổi nhất định.

+ Nguyên nhân bên ngoài là sự tác động lẫn nhau giữa những sự vật khác nhau và gây ra những
biến đổi thích hợp trong những sự vật ấy.

Nói chung, nguyên nhân bên trong giữ vai trò quyết định sự hình thành, tồn tại và phát triển của
các sự vật. Nguyên nhân bên ngoài chỉ phát huy được tác dụng thông qua những nguyên nhân
bên trong.
+ Nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan

Nguyên nhân khách quan là nguyên nhân xuất hiện và tác động độc lập đối với ý thức của con
người.

Nguyên nhân chủ quan là nguyên nhân xuất hiện và tác động phụ thuộc vào ý thức, hành động
của con người.

Nếu hoạt động của con người phù hợp với quan hệ nhân quả khách quan thì sẽ đẩy nhanh sự phát
triển của các hiện tượng sự vật, trong trường hợp ngược lại, sẽ kìm hãm sự phát triển ấy.

- Ý nghĩa phương pháp luận:

+ Đối với nhận thức:

Quá trình nhận thức sự vật là quá trình phát hiện nguyên nhân để hiểu đúng sự vật đó. Vì mọi
hiện tượng đều có nguyên nhân xuất hiện, tồn tại và tiêu vong của nó cho nên nhiệm vụ của nhận
thức nói chung và của nhận thức khoa học nói riêng là đi tìm những nguyên nhân hiện chưa được
phát hiện để có thể hiểu đúng hiện tượng.

Trong quá trình đi tìm nguyên nhân, cần lưu ý:

+ Chỉ có thể tìm nguyên nhân của hiện tượng ở trong chính các hiện tượng chứ không thể ở
ngoài nó.

+ Khi tìm nguyên nhân của hiện tượng nào đấy cần tìm những sự kiện, những mối liên hệ đã xảy
ra trước khi hiện tượng xuất hiện. Song cần lưu ý rằng không phải mọi sự kiện xảy ra trước đều
là nguyên nhân của sự kiện xảy ra sau.

+ Xác định nguyên nhân của một hiện tượng nào đấy cần hết sức tỉ mỉ, thận trọng, vạch ra cho
được hiệu quả tác động của từng mặt, từng sự kiện, từng mối liên hệ cũng như các tổ hợp khác
nhau của chúng trong việc nảy sinh hiện tượng mới; chỉ trên cơ sở đó mới có thể xác định đúng
về nguyên nhân sinh ra hiện tượng.
+ Một hiện tượng trong mối quan hệ này là kết quả, trong mối quan hệ khác có thể là nguyên
nhân, nên để hiểu rõ tác dụng của hiện tượng ấy, cần xem xét nó trong những quan hệ mà nó giữ
vai trò là nguyên nhân cũng như trong những quan hệ mà nó là kết quả.

_ Đối với hoạt động thực tiễn:

+ Muốn loại bỏ một hiện tượng nào đó, cần loại bỏ nguyên nhân làm nảy sinh ra nó.

+ Muốn cho hiện tượng nào đó xuất hiện, cần tạo ra nguyên nhân cùng những điều kiện cần thiết
cho nguyên nhân sinh ra nó phát sinh tác dụng.

+ Vì hiện tượng có thể xuất hiện do nhiều nguyên nhân tác động riêng lẻ hoặc đồng thời, nên
trong hoạt động thực tiễn cần tuỳ hoàn cảnh cụ thể mà lựa chọn phương pháp hành động thích
hợp, không nên hành động rập khuôn theo phương pháp cũ.

+Nguyên nhân chủ yếu và nguyên nhân bên trong giữ vai trò quyết định đối với sự xuất hiện, vận
động và tiêu vong của hiện tượng, nên trong hoạt động thực tiễn trước hết cần tìm ra các nguyên
nhân chủ yếu và nguyên nhân bên trong.

+ Để đẩy nhanh( hay kìm hãm, hoặc loại trừ) sự phát triển của một hiện tượng xã hội nào đó, cần
làm cho các nguyên nhân chủ quan tác động cùng chiều( hay lệch hoặc ngược chiều) với chiều
vận động của mối quan hệ nhân quả khách quan.

Bài 5: Quy luật lượng chất- Quy luật phủ định của phủ định

1. Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những

thay đổi về chất và ngược lại.

- Vị trí của quy luật: Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi
về chất và ngược lại là quy luật về phương thức cơ bản của mọi sự vận động, phát triển.

- Khái niệm:
+ Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng;
là sự thống nhất hữu cơ các thuộc tính làm cho sự vật là nó, phân biệt nó với các sự vật hiện
tượng khác.

+ Thuộc tính về chất là một khía cạnh nào đó về chất của một sự vật, nó được bộc lộ ra trong mối
quan hệ qua lại với sự vật khác.

+ Mỗi sự vật, hiện tượng đều có những thuộc tính cơ bản và không cơ bản. Chỉ những thuộc tính
cơ bản mới hợp thành chất của sự vật, hiện tượng. Khi những thuộc tính cơ bản thay đổi thì chất
của nó thay đổi.

+ Chất của sự vật, hiện tượng không những được xác định bởi chất của các yếu tố cấu thành, mà
còn bởi cấu trúc và phương thức liên kết giữa chúng, thông qua các mối liên hệ cụ thể.

+ Mỗi sự vật, hiện tượng không chỉ có một chất, mà có nhiều chất, tùy thuộc vào các mối quan
hệ cụ thể của nó với những cái khác. Chất không tồn tại thuần túy tách rời sự vật, hiện tượng,
biểu hiện tính ổn định tương đối của nó.

+ Lượng là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, hiện
tượng về các phương diện: số lượng các yếu tố cấu thành, quy mô của sự tồn tại, tốc độ, nhịp
điệu của các quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng.

+ Thuộc tính về lượng: Lượng được thể hiện thành số lượng, đại lượng, trình độ, quy mô, nhịp
điệu của sự vận động và sự phát triển. Mỗi sự vật, hiện tượng có thể tồn tại nhiều loại lượng khác
nhau, được xác định bằng các phương thức khác nhau phù hợp với từng loại lượng cụ thể của sự
vật, hiện tượng.

+ Chất và lượng là hai phương diện khác nhau của cùng một sự vật, hiện tượng. Tuy nhiên, sự
phân biệt giữa chất và lượng chỉ có ý nghĩa tương đối.

- Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng

+ Những sự thay đổi về lượng dẫn đến những sự thay đổi về chất: Chất và lượng là hai mặt, hai
tính quy định tồn tại khách quan trong sự vật, trong đó chất có tính ổn định hơn lượng. Hai mặt
chất và lượng quan hệ biện chứng với nhau, tác động qua lại với nhau làm cho lượng của sự vật
biến đổi trước theo cách thức tăng hoặc giảm. Sự tăng hoặc giảm của lượng không làm cho chất
của sự vật biến đổi ngay, mà chỉ khi sự biến đổi của lượng đạt đến một giới hạn nhất định mới
làm cho chất của sự vật biến đổi. Giới hạn trong đó sự biến đổi của lượng chưa làm cho chất biến
đổi đó được gọi là Độ của sự vật.

Khái niệm độ: là phạm trù triết học dùng để chỉ khoảng giới hạn trong đó sự thay đổi về lượng
của sự vật chưa làm thay đổi căn bản chất của sự vật ấy. Khi lượng tăng hoặc giảm đạt đến giới
hạn nhất định làm cho chất của sự vật biến đổi. Thời điểm tại đó xảy ra sự biến đổi về chất gọi là
điểm nút. Bản thân sự biến đổi về lượng tại điểm nút được gọi là bước nhảy.

Điểm nút là phạm trù triết học dùng để chỉ điểm giới hạn mà tại đó sự thay đổi về lượng sẽ làm
thay đổi về chất của sự vật.

Bước nhảy là phạm trù triết học dùng để chỉ sự chuyển hóa về chất của sự vật do sự thay đổi về
lượng của sự vật trước đó gây nên. Sự thay đổi về chất diễn ra với nhiều hình thức bước nhảy
khác nhau, được quyết định bởi mâu thuẫn, tính chất và điều kiện của mỗi sự vật. Đó là các bước
nhảy: nhanh và chậm, lớn và nhỏ, bộ phận và toàn bộ, tự phát và tự giác… Thông qua bước nhảy
chất cũ của sự vật mất đi và chất mới ra đời. Tương ứng với điều đó thì sự vật cũ chuyển sang sự
vật mới. Trong sự vật mới lại có chất mới và lượng mới.

+ Những thay đổi về chất dẫn đến những thay đổi về lượng: Chất mới của sự vật ra đời tác động
trở lại lượng của sự vật. Chất tác động đến lượng thể hiện ở chỗ: chất tạo điều kiện cho lượng
biến đổi. Khi chất mới ra đời làm cho lượng của của sự vật thay đổi về quy mô, tốc độ, nhịp điệu.

- Ý nghĩa phương pháp luận:

+ Trong nhận thức cũng như trong hành động phải coi trọng sự thay đổi về lượng, chống tư
tưởng chủ quan nóng vội muốn thay đổi về chất khi chưa có sự thay đổi đủ độ về lượng.

+ Đồng thời phải coi trọng sự thay đổi về chất, chống tư tưởng bảo thủ trì trệ, không muốn thay
đổi về chất khi có đủ điều kiện.

+ Trong hoạt động con người phải biết vận dụng linh hoạt các hình thức của bước nhảy và phải
biết cách tác động vào phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành sự vật.

+ Trong thực tế con người có thể chủ động tác động vào điều kiện để sự thay đổi về lượng nằm
trong giới hạn chất định nhằm duy trì một sự vật nào đó phục vụ mục đích của con người.
2. Quy luật phủ định của phủ định

- Vị trí của quy luật: Quy luật phủ định của phủ định là quy luật về khuynh hướng chung của mọi
sự vận động, phát triển.

- Nội dung quy luật:

+ Khái niệm phủ định là sự thay thế sự vật này bằng sự vật khác trong quá trình vận động phát
triển.

+ Phủ định biện chứng là sự phủ định tạo điều kiện, tiền đề cho sự phát triển tiếp theo của sự vật,
cho cái mới ra đời thay thế cho cái cũ. Phủ định biệnchứng có hai đặc trưng cơ bản là tính khách
quan và tính kế thừa.

+ Phủ định của phủ định là sự phủ định đã qua một số lần phủ định biện chứng để đưa sự vật
dường như quay lại điểm xuất phát ban đầu nhưng trên cơ sở mới cao hơn, hoàn thành một chu
kỳ phát triển.

+ Phủ định biện chứng mới nói lên một giai đoạn của quá trình phát triển. Với tư cách là kết quả
của phủ định lần thứ nhất, cái phủ định cũng chứa đựng trong bản thân nó yếu tố phủ định tiếp
theo. Thông qua một số lần phủ định biện chứng như vậy làm cho sự vật mới dường như quay lại
điểm xuất phát ban đầu nhưng trên cơ sở mới cao hơn, hoàn thành một chu kỳ phát triển. Sự phủ
định biện chứng đó được gọi là phủ định của phủ định.

+ Phủ định của phủ định kết thúc một chu kỳ phát triển của sự vật, nhưng không chấm dứt sự
phát triển. Sự vật mới do phủ định của phủ định làm xuất hiện lại chứa đựng yếu tố tự phủ định
mình, nghĩa là lại bắt đầu một chu kỳ phát triển mới.

+ Sự phát triển của sự vật thông qua sự phủ định của phủ định có tính chất chu kỳ như vậy tạo
thành một con đường xoáy ốc đi lên. Con đường xoáy ốc của sự phát triển biểu thị tính chất biện
chứng của quá trình phát triển: đó là tính kế thừa, tính chu kỳ, tính tiến lên và tính vô cùng tận
của sự phát triển.

+ Quá trình phủ định của phủ định ở mỗi sự vật được thực hiện dưới những hình thức rất khác
nhau.
+ Bản chất của quy luật nói lên xu hướng của sự phát triển. Quy luật phủ định của phủ định nêu
lên mối liên hệ, sự kế thừa giữa sự vật và sự tự phủ định của nó, nhờ đó sự phủ định biện chứng
là điều kiện cho sự phát triển; nó bảo tồn một số nội dung của các giai đoạn trước và bổ sung
thêm những thuộc tính mới, dẫn tới phủ định của phủ định, làm cho sự phát triển theo khuynh
hướng đường “xoáy ốc”.

- Ý nghĩa phương pháp luận:

+ Quy luật phủ định của phủ định là cơ sở để chúng ta nhận thức một cách đúng đắn về xu hướng
vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Quá trình đó không diễn ra theo đường thẳng mà là
con đường quanh co, phức tạp, gồm nhiều giai đoạn, nhiều quá trình khác nhau.

+ Theo quy luật phủ định của phủ định, trong thế giới khách quan, cái mới tất yếu phải ra đời để
thay thế cái cũ.

+ Phải có quan điểm biện chứng trong quá trình kế thừa sự phát triển. Quan điểm đó đòi hỏi phải
khắc phục tư tưởng tả khuynh và hữu khuynh trong khi kế thừa cái cũ để phát triển cái mới.

6. Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
phạm trù thực tiễn :
Khái niệm :
theo tiếng Hy Lạp cổ nghĩa là “hoạt động tích cực”:
các nhà triết học duy tâm cho hoạt động nhận thức , hoạt động ý thức , hoạt động của
tinh thần… gọi là hoạt độngthực tiễn
Các nhà triết học tôn giáo cho rằng : hoạt động sáng tạo ra vũ trụ của thực tế là hoạt
động thực tiễn
Các nhà triết học duy vật trước duy vật biện chứng chưa hiểu đúng được thực tiễn và
vai trò của thực tiễn đối với nhận thức.
Quan điểm Triết Mác Lênin : thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất cảm tính ,
có tính lịch sử , xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên phục vụ xã hội loài
người
Chủ nghĩ duy vật biên chứng thức tiễn bao gồm những đặc trưng sau :
Thực tiễn không phải toàn bộ hoạt động của con người mà chỉ là
những hoạt động vật chất cảm tính .(hđvcct là con người phải sử
dụng lực lượng vật chất công cụ vật chất tác động vào đối tượng
vật chất để làm biến đổi chúng )
Mang tính lịch sử- xã hội của con người
Có tính mục đích nhằm cải tạo tự nhiên , xã hội phục vụ con người
Theo chiều dọc : thực tiễn bao gồm mục đích( cái thoả mãn nhucầu ), phương
tiện(đểđạtđượcmụcdích , con người phải sử dụng phương tiện để thực
hiện), kết quả ( phụ thuộc vào mục đích và phương tiện )
=> Thực tiễn là hoạt động thể hiện tính mục đích , tính tự giác cao của con người , chủ động
tác động làm biến đổi tự nhiên, xã hội , phục vụ con người, khác với những hoạt động bản
năng của động vật , nhằm thích nghi với hoàn cảnh
b. Hình thức : tồn tại ở nhiều hình thức khác nhau :
Hoạt động sản xuất vật chất :
Là hình thức thực tiễn có sớm nhất , cơ bản nhất , quan trọng nhất.
Biểu thị mối quan hệ của con người với tự nhiên, là phương thức tồn tại cơ bản của
con người và xã hội loài người
Là cơ sở cho sự tồn tại các hình thức thực tiễn khác cũng như tất cả hoạt động sống
của con người
Hoạt động chính trị xã hội :
là hoạt động thực tiễn thể hiện tính tự giác cao của con người nhằm biến đổi và cải
tạo xã hội, phát triển các thiết chế xã hội, các quan hệ xã hội…
Bao gồm : đấu tranh giai cấp , đấu tranh giải phóng dân tộc , đấu tranh cho hoà bình
dân chủ tiến bộ , đấu tranh cải tạo các quan hệ chính trị , xã hội , nhằm tạo ra môi
trường xã hội dân chủ , lành mạnh ,thuận lợi cho con người phát triển
Hoạt động thực nghiệm khoa học :
Là hình thức đặc biệt của hoạt động thực tiễn , con người chủ động tạo ra điều kiện
không có sẵn trong tự nhiên để tiến hành thực nghiệm khoa học theo mục đích mà
mình đề ra .
Trên cơ sở đó vận dụng thành tựu khoa học, kĩ thuật vào sản xuất vật chất và cải tạo
chính trị
=> ba hình thức trên có mối quan hệ biện chứng, tác động ảnh hưởng lẫn nhau, trong đó
sản xuất vật chất đóng vai trò quan trọng quyết định hai hình thức thực tiễn kia
*thực tiễn là cầu nối của con người với tự nhiên, xã hội , nhưng đồng thời, thực tiễn cũng tách
con người khỏi thế giới tự nhiên , để “làm chủ” tự nhiên.
Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
Thực tiễn là cơ sở động lực của nhận thức :
Thực tiễn cung cấp những tài liệu , vật liệu cho nhận thức con người . Không có thực
tiễn thì không có lý luận , khoa học vì tri thức con người xét đến cùng là nảy sinh
từ thực tiễn .
Đề ra nhu cầu , phương hướng phát triển của nhận thức , vì thế thúc đẩy sự ra đời của
các ngành khoa học.
Hoạt động thực tiến chế tạo ra các công cụ , phương tiện máy móc mới hỗ trợ con
người trong quá trình nhận thức , mở rộng khí quan nhận thức của con người .
Thực tiễn chính là nền tảng , cơ sở để nhận thức con người nảy sinh, tồn tại và phát
triển; không những vậy nó còn là động lực để nhận thức phát triển
Thực tiễn là mục đích của nhận thức :
Nhận thức của con người khi mới xuất hiện đã được quy định bởi những nhu cầu thực
tiễn , bởi lẽ muốn sống con người phải sản xuất và cải tạo xã hội
Nhận thức con người nhằm phục vụ thực tiễn , soi đường dẫn dắt chỉ đạo thực tiễn.
Nếu không vì thực tiễn , nhận thức sẽ mất đi phương hướng , bế tắc .
Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý :
Tri thức con người là kết quả quá trình nhận thức vì thế có thể phản ánh đúng hoặc
không đúng hiện thực. Không thể lấy tri thức để kiểm tra tri thức , cũng không thể
lấy sự tán thành của số đông, hay sự hiển nhiên để kiểm tra đúng sai của tri thức .
Theo Mác- lênin , thực tiễn là tiêu chuẩn khách quan duy nhất để kiểm tra chân lý,
bởi vì chỉ có thực tiễn mới vật chất hoá tri thức , hiện thực hoá được tư tưởng .
Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý vừa có tính tuyệt đối , vừa có tính tương đối
=> Cần phải quán triệt quan điểm thực tiễn trong nhận thức
7. Sản xuất vật chất và vai trò của sản xuất vật chất
Sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồn tại và phát triển xã hội
Sản xuất là hoạt động không ngừng sáng tạo ra các giá trị vật chất và tinh thần nhằm
mục đích thỏa mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của con người. Quá trình sản xuất
diễn ra trong xã hội loài người là sự sản xuất xã hội - sản xuất và tái sản xuất ra
đời sống hiện thực.
Sự sản xuất xã hội, tức là sản xuất và tái sản xuất ra đời sống hiện thực, gồm ba
phương diện không tách rời nhau là sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần và sản
xuất ra bản thân con người. Mỗi phương diện có vai trò, vị trí khác nhau, trong
đó:
Sản xuất vật chất giữ vai trò là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của xã hội
loài người, quyết định toàn bộ sự vận động, phát triển của đời sống xã hội
Sản xuất tinh thần là hoạt động sáng tạo ra các giá trị tinh thần nhằm thỏa mãn
nhu cầu tồn tại và phát triển của con người và xã hội
Sản xuất ra bản thân con người: ở phạm vi cá nhân, gia đình là việc sinh đẻ
và nuôi dạy con cái để duy trì nòi giống; ở phạm vi xã hội là sự tăng
trưởng dân số, phát triển con người với tư cách là thực thể sinh học - xã
hội
Sản xuất vật chất là quá trình mà trong đó con người sử dụng công cụ lao động tác
động trực tiếp hoặc gián tiếp vào tự nhiên, cải biến các dạng vật chất của tự nhiên
để tạo ra của cải xã hội nhằm thỏa mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của con người
Sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồn tại và phát triển xã hội loài người.
Vai trò của sản xuất vật chất
Là tiền đề trực tiếp tạo ra tư liệu sinh hoạt của con người nhằm duy trì sự tồn tại
và phát triển của con người nói chung cũng như từng cá thể người nói riêng
Sản xuất vật chất là tiền đề của mọi hoạt động lịch sử của con người
+ Hoạt động sản xuất vật chất là cơ sở hình thành quan hệ kinh tế - vật chất giữa người
với người, từ đó hình thành nên các quan hệ xã hội khác giữa người với người như: chính
trị, pháp luật, đạo đức,...
+ Sản xuất vật chất tạo ra các điều kiện, phương tiện bảo đảm cho hoạt động tinh thần
của con người và duy trì phát triển phương thức sản xuất tinh thần của xã hội. Nhờ sản
xuất ra của cải vật chất để duy trì sự tồn tại và phát triển của mình, con người sáng tạo ra
toàn bộ đời sống vật chất và đời sống tinh thần của xã hội.
Sản xuất vật chất là điều kiện chủ yếu sáng tạo ra bản thân con người. Nhờ hoạt
động sản xuất vật chất mà con người hình thành nên ngôn ngữ, nhận thức, tư duy,
tình cảm, đạo đức,...Sản xuất vật chất là điều kiện cơ bản, quyết định nhất đối với
sự hình thành phát triển phẩm chất xã hội của con người. Ph. Ăngghen khẳng
định: “lao động đã sáng tạo ra bản thân con người”. Như vậy, nhờ lao động sản
xuất con người vừa tách khỏi tự nhiên, vừa hòa nhập với tự nhiên, cải tạo tự
nhiên, sáng tạo ra mọi giá trị vật chất và tinh thần, đồng thời sáng tạo ra chính bản
thân con người.
*Nguyên lý về vai trò của sản xuất là cơ sở của sự tồn tại và phát triển trong xã hội loài
người có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng. Để nhận thức và cải tạo xã hội phải xuất
phát từ đời sống sản xuất, từ nền sản xuất vật chất xã hội. Xét đến cùng, không thể dùng
tinh thần để giải thích đời sống tinh thần, để phát triển xã hội phải bắt đầu từ phát triển
đời sống kinh tế - vật chất.
8. Quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
Phương thức sản xuất
Phương thức sản xuất là cách thức con người tiến hành quá trình sản xuất vật chất ở
những giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người.
Phương thức sản xuất là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất với một trình độ nhất
định và quan hệ sản xuất tương ứng.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là các khái niệm chỉ hai mối quan hệ “song
trùng” của nền sản xuất vật chất xã hội, đó là quan hệ giữa con người với tự nhiên
và quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản xuất vật chất
=> Phương thức sản xuất là cách thức con người thực hiện đồng thời sự tác động giữa
con người với tự nhiên và sự tác động giữa người với người để sáng tạo ra của cải vật
chất phục vụ nhu cầu con người và xã hội ở những giai đoạn lịch sử nhất định
*Lực lượng sản xuất là sự kết hợp giữa người lao động với tư liệu sản xuất, tạo ra sức sản xuất
và năng lực thực tiễn làm biến đổi các đối tượng vật chất của giới tự nhiên theo nhu cầu nhất
định của con người và xã hội
Về cấu trúc, lực lượng xã hội được xem xét trên hai mặt: mặt kinh tế - kỹ thuật (tư
liệu sản xuất) và mặt kinh tế - xã hội (người lao động)
Là sự kết hợp giữa “lao động sống” với “lao động vật hóa” tạo ra sức sản xuất
=> Lực lượng sản xuất là một hệ thống gồm các yếu tố (người lao động, tư liệu sản xuất)
cùng mối quan hệ (phương thức kết hợp) tạo ra thuộc tính đặc biệt (sức sản xuất) để cải
biến giới tự nhiên, sáng tạo ra của cải vật chất theo mục đích con người.
Người lao động là con người có tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng lao động và năng lực
sáng tạo nhất định trong quá trình sản xuất của xã hội. Họ là chủ thể sáng tạo
đồng thời là chủ thể tiêu dùng. Đây là nguồn lực cơ bản, vô tận và đặc biệt của
sản xuất.
Tư liệu sản xuất là điều kiện vật chất cần thiết để tổ chức sản xuất, bao gồm tư liệu
lao động và đối tượng lao động
Đối tượng lao động là những yếu tố vật chất của sản xuất mà con người dùng tư liệu
lao động tác động lên, nhằm biến đổi chúng cho phù hợp với mục đích sử dụng
của con người
Tư liệu lao động là những yếu tố vật chất của sản xuất mà con người dựa vào đó để
tác động lên đối tượng lao động nhằm biến đổi đối tượng lao động thành sản
phẩm. Tư liệu lao động gồm công cụ lao động và phương tiện lao động.
Phương tiện lao động là những yếu tố vật chất của sản xuất, cùng với công cụ lao động
mà con người sử dụng để tác động lên đối tượng lao động trong quá trình sản xuất vật chất
Công cụ lao động là những phương tiện vật chất mà con người trực tiếp sử dụng để tác
động vào đối tượng lao động nhằm biến đổi chúng, tạo ra của cải vật chất phục vụ nhu cầu con
người. Công cụ lao động giữ vai trò quyết định đến năng suất lao động. Là yếu tố động nhất,
cách mạng nhất trong lực lượng sản xuất, là nguyên nhân sâu xa của mọi biến đổi kinh tế - xã hội
trong lịch sử, là thước đo trình độ tác động, cải biến tự nhiên của con người và tiêu chuẩn để
phân biệt các thời đại kinh tế khác nhau.
Đặc trưng chủ yếu của lực lượng sản xuất là mối quan hệ giữa người lao động và
công cụ lao động. Trong lực lượng sản xuất, người lao động là nhân tố hàng đầu
giữ vai trò quyết định, là nguồn gốc của mọi sự sáng tạo trong sản xuất vật chất,
nguồn gốc của sự phát triển sản xuất. Công cụ lao động là yếu tố cơ bản, quan
trọng không thể thiếu, đặc biệt, trình độ phát triển của công cụ lao động là nhân tố
quyết định năng suất lao động xã hội
Lực lượng sản xuất là kết quả năng lực thực tiễn của con người nhưng bản thân năng
lực thực tiễn này bị quy định bởi những điều kiện khách quan mà trong đó con
người sống và hoạt động. Do đó lực lượng xã hội luôn có tính khách quan. Tuy
nhiên quá trình phát triển lực lượng sản xuất là kết quả của sự thống nhất biện
chứng giữa khách quan và chủ quan
Trong sự phát triển của lực lượng sản xuất, khoa học ngày càng có vai trò quan trọng,
dần trở thành nguyên nhân trực tiếp biến đổi cả sản xuất và đời sống. Khoa học
công nghệ có thể được coi là đặc trưng của lực lượng sản xuất hiện đại
Sự phát triển của lực lượng sản xuất là phát triển cả tính chất và trình độ. Tính chất
nói lên tính chất cá nhân hoặc tính chất xã hội hóa trong việc sử dụng tư liệu sản
xuất. Trình độ là sự phát triển của người lao động và công cụ lao động. Trong
thực tế, tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất không tách rời nhau
Lực lượng sản xuất phát triển trong mối quan hệ biện chứng với quan hệ sản xuất
*Quan hệ sản xuất là tổng hợp các quan hệ kinh tế - vật chất giữ người với người trong quá
trình sản xuất vật chất. Đây là một quan hệ vật chất quan trọng nhất - quan hệ kinh tế, trong các
mối quan hệ vật chất giữa người với người
Quan hệ sản xuất bao gồm quan hệ về sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong
tổ chức quản lý và trao đổi hoạt động với nhau, quan hệ về phân phối sản phẩm
lao động
Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là quan hệ giữa các tập đoàn người trong việc
chiếm hữu, sử dụng các tư liệu sản xuất xã hội. Đây là quan hệ quy định địa vị
kinh tế - xã hội của các tập đoàn người trong sản xuất từ đó quy định quan hệ
quản lý và phân phối. Là quan hệ xuất phát, cơ bản, trung tâm của quan hệ sản
xuất, có vai trò quyết định các quan hệ khác vì lực lượng xã hội nắm phương tiện
vật chất chủ yếu sẽ quyết định quá trình sản xuất và phân phối sản phẩm
Quan hệ về tổ chức và quản lý sản xuất là quan hệ giữa các tập đoàn người trong việc
tổ chức sản xuất và phân công lao động. Có vai trò quyết định trực tiếp đến quy
mô, tốc độ, hiệu quả của nền sản xuất, có khả năng đẩy nhanh hoặc kìm hãm sự
phát triển của nền sản xuất xã hội
Quan hệ về phân phối sản phẩm lao động là quan hệ giữa các tập đoàn người trong
việc phân phối sản phẩm lao động xã hội, nói lên cách thức và quy mô của cải vật
chất mà các tập đoàn người được hưởng. Có vai trò đặc biệt quan trọng, kích thích
trực tiếp lợi ích con người, là “chất xúc tác” kinh tế thúc đẩy tốc độ, nhịp điệu sản
xuất, làm năng động hóa toàn bộ đời sống kinh tế - xã hội. Hoặc có thể làm trì trề,
kìm hãm quá trình sản xuất
=> Các mặt trong QHSX có mối quan hệ hữu cơ, tác động qua lại, chi phối, ảnh hưởng lẫn nhau.
Trong đó, quan hệ về sở hữu tư liệu sản xuất giữ vai trò quyết định bản chất và tính chất của
quan hệ sản xuất. Quan hệ sản xuất hình thành một cách khách quan, là quan hệ đầu tiên, cơ bản
chủ yếu, quyết định mọi quan hệ xã hội
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất-
Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất quy định sự vận
động, phát triển của các phương thức sản xuất trong lịch sử
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của một phương thức sản
xuất có tác động biện chứng, trong đó lực lượng sản xuất quyết định quan hệ
sản xuất, còn quan hệ sản xuất tác động trở lại đối với lực lượng sản xuất
Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất => lực
lượng sản xuất phát triển. Ngược lại không phù hợp thì sẽ kìm hãm sự phát triển
của lực lượng sản xuất. Đây là quy luật cơ bản nhất của sự vận động và phát
triển xã hội
*Vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất
Lực lượng sản xuất là yếu tố động nhất và cách mạng nhất, là nội dung của phương
thức sản xuất, còn quan hệ sản xuất là yếu tố tương đối ổn định, là hình thức xã
hội của phương thức sản xuất. Trong mối quan hệ giữa nội dung và hình thức thì
nội dung quyết định hình thức. Trong sự vận động của mâu thuẫn biện chứng, lực
lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất
VD: Thời phong kiến, làm nông là chủ yếu nên hình thành QHSX địa chủ - nông dân.
Lực lượng sản xuất quyết định sự ra đời của một kiểu quan hệ sản xuất mới trong
lịch sử, quyết định nội dung và tính chất của quan hệ sản xuất
Lực lượng sản xuất phát triển thì quan hệ sản xuất biến đổi theo phù hợp với tính chất
và trình độ của lực lượng sản xuất. Khi tính chất và trình độ của lực lượng sản
xuất phát triển đến mức nào đó sẽ mâu thuẫn với quan hệ sản xuất hiện có, đòi hỏi
xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ để hình thành quan hệ sản xuất mới phù hợp với lực
lượng sản xuất đang phát triển, làm phương thức sản xuất cũ mất đi, phương thức
sản xuất mới xuất hiện.
VD: săn bắn hái lượm – trồng trọt chăn nuôi – thuê người làm – làm nông trên diện rộng…
Sự phát triển của lực lượng sản xuất từ thấp đến cao qua các thời kỳ lịch sử khác nhau
đã quyết định sự thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới cao hơn,
đưa loài người trải qua nhiều hình thái kinh tế – xã hội khác nhau từ thấp lên cao,
với những kiểu quan hệ sản xuất khác nhau.
VD: Chiếm hữu nô lệ - Phong kiến - TBCN
*Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất
Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của quá trình sản xuất có tính độc lập tương đối
nên tác động mạnh mẽ trở lại đối với lực lượng sản xuất. Vai trò của QHSX đối
với LLSX được thể hiện thông qua sự phù hợp biện chứng giữa QHSX với trình
độ phát triển của LLSX
Quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất sẽ tạo địa
bàn rộng lớn cho sự phát triển của lực lượng sản xuất, trở thành động lực cơ bản
thúc đẩy, tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển. VD: trong cơ quan xí
nghiệp sản xuất hàng hóa nhiều và tốt, năng suất lao động tăng, người lao động
hăng hái sản xuất.
Khi quan hệ sản xuất đã lỗi thời, lạc hậu không còn phù hợp với tính chất và trình độ
của lực lượng sản xuất thì nó trở thành xiềng xích trói buộc, kìm hãm sự phát
triển của lực lượng sản xuất.
VD: sản phẩm máy móc thủ công – hai người lái máy cày bằng người cuốc ruộng suy ra
không còn đúng, dẫn đến cản trở; ở Việt Nam xây dựng hợp tác xã cấp cao quá nhanh
(cấp xã) cải tạo công thương nghiệp ồ ạt, mang tính chiến dịch trong khi trình độ lực
lượng sản xuất thấp kém.
Quan hệ sản xuất có thể tác động (thúc đẩy kìm hãm) sự phát triển của lực lượng sản
xuất, vì nó quy định mục đích của sản xuất; ảnh hưởng đến thái độ lao động của
quần chúng; kích thích hoặc hạn chế việc cải tiến công cụ, việc áp dụng thành tựu
khoa học – kỹ thuật vào sản xuất, việc hợp tác và phân công lao động, v.v..
VD: Mối quan hệ giữa sếp và nhân viên tốt, sếp có nhiều chính sách khen thưởng xứng
đáng thì nhân viên tích cực làm việc hiệu quả, doanh thu cao.
Trong xã hội có giai cấp đối kháng, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất biểu hiện thành mâu thuẫn giai cấp và chỉ thông qua đấu tranh giai cấp
mới giải quyết được mâu thuẫn đó để đưa xã hội tiến lên. VD: vô sản – tư bản.
Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng
sản xuất biểu hiện sự vận động nội tại của phương thức sản xuất khác cao hơn.
Quy luật này là quy luật phổ biến tác động trong mọi xã hội, làm cho xã hội loài
người phát triển từ thấp đến cao.
VD: Sự vận dụng quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ
của lực lượng sản xuất ở nước ta: chọn con đường xã hội chủ nghĩa bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa từ một nước công nghiệp lạc hậu với lực lượng sản xuất đậm chất nông nghiệp
với quan hệ làm chung, chia đều nên đã gặp phải những khó khăn lớn trong những năm
trước năm 1986; sau năm 1986 lực lượng sản xuất ngày càng phát triển, quan hệ sản xuất
cũng đa dạng hơn nên sau hơn 15 năm, nước ta đã từ một nước nông nghiệp lạc hậu
chuyển dần lên thành một nước công hoá.
*Ý nghĩa trong đời sống xã hội
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng. Trong thực tiễn, muốn phát
triển kinh tế phải bắt đầu từ phát triển lực lượng sản xuất mà trước tiên là
lực lượng lao động và công cụ lao động. Muốn xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ
thiết lập quan hệ sản xuất mới phải căn cứ từ trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất (tính tất yếu kinh tế, yêu cầu khách quan của quy luật kinh
tế, chống tùy tiện, chủ quan, duy tâm, duy ý chí)
Nhận thức đúng đắn quy luật này có ý nghĩa quan trọng trong quán triệt, vận
dụng quan điểm, đường lối, chính sách, là cơ sở khoa học để nhận thức
sâu sắc sự đổi mới tư duy kinh tế của ĐCSVN. Nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát, là sự vận dụng quy
luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất trong phát triển kinh tế ở VN hiện nay
9. Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
Mỗi xã hội trong lịch sử là một tổng thể các quan hệ xã hội, bao gồm
quan hệ vật chất và quan hệ tinh thần nhất định. Sự liên hệ và tác
động lẫn nhau giữa quan hệ vật chất với quan hệ tinh thần của xã hội
được phản ánh trong quy luật biện chứng giữa csht và kttt. Đây là quy
luật cơ bản tác động ở mọi hình thái kinh tế - xã hội trong lịch sử
Khái niệm cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội
*Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất của một xã hội trong sự vận động hiện
thực của chúng hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội đó
Được hình thành khách quan trong quá trình sản xuất vật chất của xã hội
Các quan hệ sản xuất tồn tại trên thực tế mà trong quá trình vận động của nó hợp
thành một cơ cấu kinh tế hiện thực. Các quan hệ sản xuất là các quan hệ cơ bản,
đầu tiên, chủ yếu, quyết định mọi quan hệ xã hội khác.
Cấu trúc của cơ sở hạ tầng bao gồm:
Quan hệ sản xuất thống trị (hiện tại). VD: Tư bản chủ nghĩa
Quan hệ sản xuất tàn dư (cũ). VD: chế độ phong kiến
Quan hệ sản xuất mầm mống (tương lai). VD: xã hội chủ nghĩa
=> Mỗi quan hệ sản xuất có một vị trí, vai trò khác nhau trong đó quan hệ sản xuất thống
trị là đặc trưng
*Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm, tư tưởng xã hội với những thiết chế
xã hội tương ứng cùng những quan hệ nội tại của thượng tầng hình thành trên một cơ sở
hạ tầng nhất định.
Cấu trúc bao gồm toàn bộ những quan điểm tư tưởng về chính trị, pháp quyền, đạo
đức, tôn giáo, nghệ thuật, triết học… cùng những thiết chế xã hội tương ứng như
nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể và tổ chức xã hội khác. Các yếu tố về
quan điểm tư tưởng xã hội và thiết chế xã hội có mối quan hệ với nhau hợp thành
kiến trúc thượng tầng xã hội
Mỗi yếu tố của KTTT có đặc điểm và quy luật phát triển riêng. Các yếu tố của kiến
trúc thượng tầng tồn tại trong mối liên hệ tác động qua lại lẫn nhau và đều nảy
sinh trên cơ sở hạ tầng, phản ánh những cơ sở hạ tầng nhất định
=> Không phải tất cả các yếu tố của kiến trúc thượng tầng đều liên hệ như nhau đối với
cơ sở hạ tầng của nó.

Có những yếu tố như chính trị và pháp lý có mối liên hệ trực tiếp với cơ sở hạ tầng có
mối liên hệ trực tiếp với cơ sở hạ tầng còn các yếu tố khác như triết học, nghệ
thuật, tôn giáo,…lại có liên hệ gián tiếp với cơ sở hạ tầng.

Trong xã hội đối kháng giai cấp, kiến trúc thượng tầng cũng mang tính chất đối
kháng .

=> Phản ánh tính đối kháng của cơ sở hạ tầng.

Tính đối kháng của kiến trúc thượng tầng được biểu hiện ở sự xung đột và sự đấu
tranh về tư tưởng của các giai cấp đối kháng.

Đặc trưng của kiến trúc thượng tầng là sự thống trị về chính trị và tư tưởng của giai
cấp thống trị.

Bộ phận có quyền lực mạnh nhất trong kiến trúc thượng tầng của xã hội có đối kháng
giai cấp là nhà nước. Nhờ có nhà nước mà giai cấp thống trị mới thực hiện sự
thống trị của mình về tất cả các mặt của đời sống xã hội.

Quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
của xã hội

Mối quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT là một quy luật cơ bản của sự vận
động, phát triển lịch sử xã hội.

CSHT và KTTT là hai mặt cơ bản của xã hội gắn bó hữu cơ, có quan hệ biện chứng,
trong đó CSHT quyết định KTTT, còn KTTT tác động trở lại to lớn, mạnh mẽ đối
với CSHT.
*Vai trò quyết định của CSHT đối với KTTT

Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng,
bởi vì, quan hệ vật chất quyết định quan hệ tinh thần, tính tất yếu kinh tế xét đến
cùng quyết định tính tất yếu chính trị - xã hội

Mỗi cơ sở hạ tầng sẽ hình thành nên một kiến trúc thượng tầng tương ứng với nó.
Tính chất của kiến trúc thượng tầng là do tính chất của cơ sở hạ tầng quyết định.
Trong xã hội có đối kháng giai cấp, giai cấp nào thống trị về kinh tế thì cũng
chiếm địa vị thống trị về mặt chính trị và đời sống tinh thần của xã hội. Các mâu
thuẫn trong kinh tế, xét đến cùng, quyết định các mâu thuẫn trong lĩnh vực chính
trị tư tưởng; cuộc đấu tranh giai cấp về chính trị tư tưởng là biểu hiện những đối
kháng trong đời sống kinh tế. Tất cả các yếu tố của kiến trúc thượng tầng như nhà
nước, pháp quyền, triết học, tôn giáo,… đều trực tiếp hay gián tiếp phụ thuộc vào
cơ sở hạ tầng, do cơ sở hạ tầng quyết định.

VD: Trước đây, vào khoảng từ 2000-4000 năm tcn, trên thế giới có xuất hiện hình thái
kinh tế chiếm hữu nô lệ: quan hệ sản xuất chiếm hữu nô lệ, đất đai và các tư liệu sản
xuất khác hầu hết thuộc sở hữu tư nhân của các chủ nô, kể cả nô lệ, từ đó hình thành
nên kiểu nhà nước chủ nô. Cơ sở kinh tế xã hội (hay CSHT) của nhà nước chủ nô là nhân
tố quyết định bản chất, chức năng, bộ máy, hình thức nhà nước (hay KTTT) cũng như
quá trình tồn tại, phát triển của nhà nước chủ nô. Nô lệ có địa vị vô cùng thấp kém, họ bị
coi là tài sản thuộc sở hữu của chủ nô, chủ nô có quyền tuyệt đối đối với nô lệ, khai thác
bóc lột sức lao động, đánh đập, đem bán, tặng cho, bỏ đói hay giết chết.

Khi cơ sở hạ tầng thay đổi kéo theo kiến trúc thượng tầng cũng thay đổi theo. Quá
trình thay đổi diễn ra không chỉ trong giai đoạn thay đổi từ hình thái kinh tế – xã
hội này sang hình thái kinh tế – xã hội khác, mà còn diễn ra ngay trong bản thân
mỗi hình thái kinh tế – xã hội. Sự thay đổi cơ sở hạ tầng dẫn đến làm thay đổi
kiến trúc thượng tầng diễn ra rất phức tạp. Trong đó, có những yếu tố của kiến
trúc thượng tầng thay đổi nhanh chóng cùng với sự thay đổi cơ sở hạ tầng như
chính trị, pháp luật.

VD: Thay đổi từ hình thái KT-XH này sang hình thái KT-XH khác: Nhà nước phong kiến
là nhà nước của giai cấp địa chủ phong kiến, cơ sở hình thành của nhà nước là quan hệ
sản xuất phong kiến mà đặc trưng là chế độ chiếm hữu ruộng đất của giai cấp này. Các
địa chủ phong kiến nắm trong tay đủ mọi quyền lực, còn nông dân chỉ có quyền sở hữu
nhỏ phụ thuộc vào địa chủ và hầu như không có quyền gì. Khi nền kinh tế hàng hóa thị
trường phát triển (tức sự thay đổi trong CSHT), sự tập trung tư liệu sản xuất và xã hội
hóa lao động đòi hỏi con người phải có quyền tự do bình đẳng, hội họp kinh doanh và
đảm bảo quyền sở hữu tài sản. Chế độ phong kiến hà khắc đã không còn phù hợp với
quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Vì thế các cuộc cách mạng dân chủ tư sản liên tiếp
nổ ra dưới sự lãnh đạo của giai cấp tư sản, lật đổ nhà nước phong kiến, thiết lập nhà
nước tư sản, mở đường cho nền kinh tế tư bản chủ nghĩa phát triển.

*Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng

Kiến trúc thượng tầng là sự phản ánh cơ sở hạ tầng, do cơ sở hạ tầng quyết định
nhưng có sự tác động trở lại to lớn đối với kiến trúc thượng tầng. Bởi vì kiến trúc
thượng tầng có tính độc lập tương đối so với cơ sở hạ tầng
Vai trò của kiến trúc thượng tầng chính là vai trò tích cực,tự giác của ý thức, tư
tưởng.Không chỉ vậy vai trò của kiến trúc thượng tầng còn do sức mạnh vật chất
của bộ máy tổ chức - thể chế luôn có tác động một cách mạnh mẽ trở lại cơ sở hạ
tầng

=> Thực chất vai trò của kiến trúc thượng tầng là bảo vệ , duy trì , củng cố lợi ích kinh tế
của giai cấp thống trị . Mặt khác còn đảm bảo về sự thống trị về chính trị và tư tưởng của giai
cấp giữ địa vị thống trị về kinh tế

Tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng diễn theo hai chiều hướng

+ Cùng chiều : sẽ thúc đẩy cơ sở hạ tầng phát triển (nghĩa là khi KTTT phản ánh
đúng tính tất yếu kinh tế, các quy luật kinh tế khách quan sẽ thúc đẩy kinh tế phát
triển)

+ Ngược chiều: kìm hãm sự phát triển của cơ sở hạ tầng (KTTT không phản ánh đúng
tính tất yếu kinh tế, các quy luật kinh tế khách quan sẽ kìm hãm sự phát triển của kinh
tế và đời sống xã hội)

Kiến trúc thượng tầng về chính trị có vai trò quan trọng nhất trong các bộ phận
KTTT, trong đó nhà nước có vai trò tác động to lớn đối với CSHT.

Nhà nước là tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, sử dụng sức mạnh bạo
lực để tăng cường sức mạnh kinh tế của giai cấp thống trị và củng cố vững
chắc địa vị của quan hệ sản xuất thống trị. Với ý nghĩa đó, Ăngghen đã
khẳng định: “ Bạo lực cũng là một sức mạnh kinh tế”
Tác động ngược lại của quyền lực nhà nước đối với sự phát triển kinh tế theo
hai chiều hướng cơ bản: cùng hướng với sự phát triển kinh tế sẽ thúc đẩy
kinh tế phát triển nhanh và ngược lại

Tuy nhiên trong thực tiễn không chỉ có quyền lực nhà nước mới có sự tác động to lớn
đến CSHT mà các bộ phận khác của KTTT như triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ
thuật,.. cũng đều tác động mạnh mẽ đến CSHT bằng những hình thức khác nhau
với các cơ chế khác nhau

Trong mỗi hình thái kinh tế – xã hội, kiến trúc thượng tầng có những quá trình biến
đổi nhất định. Quá trình đó càng phù hợp với cơ sở hạ tầng thì sự tác động của nó
đối với cơ sở hạ tầng càng có hiệu quả và ngược lại.

Trong thời đại ngày nay, vai trò của kiến trúc thượng tầng tăng lên rõ rệt, càng thể
hiện với tư cách là một yếu tố tác động mạnh mẽ đến tiến trình lịch sử. Song nếu
quá nhấn mạnh hoặc thổi phồng vai trò của kiến trúc thượng tầng đến mức phủ
định tính tất yếu kinh tế của xã hội, thì sẽ rơi vào chủ nghĩa duy tâm chủ quan,
duy ý chí.

VD: Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng trong thời kỳ quá độ ở nước ta

Cơ sở hạ tầng trong thời kỳ quá độ ở nước ta bao gồm các kiểu quan hệ sản xuất gắn
liền với các hình thức sở hữu tương ứng với các thành phần kinh tế khác nhau,
thậm chí đối lập nhau, cùng tồn tại trong một cơ cấu kinh tế thống nhất theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.

Về xây dựng kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là hệ thống chính trị
xã hội mang tính chất giai cấp công nhân, do đội tiền phong của nó là Đảng cộng
sản Việt Nam. Các tổ chức, bộ máy tạo thành hệ thống chính trị – xã hội không
tồn tại như một mục đích tự thân mà vì phục vụ con người, thực hiện cho được lợi
ích và quyền lực thuộc về nhân dân lao động.

*Ý nghĩa trong đời sống xã hội


Quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là cơ
sở khoa học cho việc nhận thức một cách đúng đắn mối quan hệ giữa kinh tế và
chính trị

+ Kinh tế và chính trị tác động biện chứng, kinh tế quyết định chính trị, chính trị tác động
trở lại đối với kinh tế.

Ví dụ: Các nước phát triển như Mĩ, Anh,… kinh tế phát triển mạnh đưa đất nước trở thành cường
quốc tạo điều kiện củng cố bộ máy nhà nước, chính trị. Khi chính trị ổn định sẽ tác động ngược
trở lại tạo điều kiện để phát triển kinh tế.

+ Vai trò của kiến trúc thượng tầng là vai trò hoạt động tự giác, tích cực của giai cấp,
đảng phái vì lợi ích kinh tế

+ Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng trước hết và chủ yếu thông
qua đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước

+ Lênin cho rằng: “Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế…Chính trị không thể
không chiếm địa vị hàng đầu so với kinh tế”

+ Giải quyết mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị: Kinh tế và chính trị có mối quan hệ
mật thiết, tác động qua lại lẫn nhau. Tuyệt đối hóa kinh tế, hạ thấp yếu tố chính trị là rơi
vào quan điểm duy vật tầm thường, dẫn đến vô chính phủ. Tuyệt đối hóa chính trị, hạ
thấp vai trò kinh tế sẽ dẫn đến duy tâm, duy ý chí, chủ quan và thất bại.

Ví dụ: Sự sụp đổ CNXH ở Liên Xô

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã rất quan tâm đến
nhận thức và vận dụng quy luật này: Đổi mới toàn diện cả về kinh tế và chính trị,
lấy đổi mới kinh tế làm trung tâm, đổi mới chính trị từng bước thích hợp ( Đổi
mới đất nước năm 1986 )

Giải quyết tốt mối quan hệ giữa đổi mới - ổn định – phát triển

10. Nguồn gốc, bản chất và đặc trưng của Nhà nước
Nguồn gốc của Nhà nước
Nguyên nhân sâu xa: Do sự phát triển của LLSX làm dư thừa của cải xã hội dẫn đến
xuất hiện chế độ tư hữu
Nguyên nhân trực tiếp: Do mâu thuẫn giai cấp trong xã hội gay gắt không thể điều hòa
được
Bản chất Nhà nước
Nhà nước là một tổ chức chính trị của một giai cấp thống trị về mặt kinh tế nhằm
bảo vệ trật tự hiện hành và đàn áp sự phản kháng của các giai cấp khác
Nhà nước mang bản chất giai cấp sâu sắc, bản chất của một giai cấp duy nhất, giai cấp tổ
chức vì:
Nhà nước ra đời từ xã hội có giai cấp, liên quan tới giai cấp
Nhà nước là bộ máy chuyên chính, công cụ bạo lực, trấn áp của giai cấp thống
trị để bảo vệ địa vị, quyền lợi của giai cấp thống trị
Như vậy, nhà nước là bộ phận quan trọng nhất của kiến trúc thượng tầng trong xã hội
giai cấp. Tất cả những hành động kinh tế văn hóa xã hội chính trị do nhà nước tiến hành
xét cho cùng đều xuất phát từ lợi ích của giai cấp thống trị
Đặc trưng của Nhà nước:
Quản lí dân cư trong một vùng lãnh thổ nhất định:
Là sự khác biệt với các tổ chức của xã hội thị tộc, bộ lạc và các tổ chức chính trị
xã hội khác
Quyền lực Nhà nước có hiệu lực với tất cả mọi thành viên trong biên giới quốc
gia không phụ thuộc vào huyết thống, giới tính và chính kiến
Nhà nước có hệ thống các cơ quan quyền lực chuyên nghiệp mang tính cưỡng
chế đối với mọi thành viên.

Khác với các cơ quan điều hành công việc chung trong thị tộc, bộ lạc, nhà nước
của giai cấp thống trị nào cũng có một bộ máy quyền lực chuyên nghiệp. Bộ máy
đó bao gồm các đội vũ trang đặc biệt như quân đội, cảnh sát, nhà tù…; và các cơ
quan quản lý hành chính.
Nhà nước quản lý xã hội dựa vào pháp luật là chủ yếu. Nhà nước thực hiện
quyền lực của mình trên cơ sở sức mạnh cưỡng bức của pháp luật và dùng các
thiết chế bạo lực để pháp luật của mình được thực thi trong thực tế.

Nhà nước có hệ thống thuế khóa để nuôi bộ máy chính quyền:

Để duy trì sự thống trị của mình, giai cấp thống trị trước hết phải đảm bảo hoạt
động của bộ máy nhà nước. Muốn bộ máy nhà nước hoạt động thì phải có nguồn
tài chính. Nguồn tài chính được nhà nước huy động chủ yếu là do thu thuế, sau đó
là quốc trái thu được do sự cưỡng bức hoặc sự tự nguyện của công dân.

11. Tồn tại xã hội và ý thức xã hội

Tồn tại xã hội:


Khái niệm:

Tồn tại xã hội là toàn bộ sinh hoạt vật chất và những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã
hội. Tồn tại xã hội của con người là thực tại xã hội khách quan, là một kiểu vật chất xã hội, là các
quan hệ xã hội vật chất được ý thức xã hội phản ánh. Tồn tại xã hội phản ánh quan hệ giữa
người với người, giữa người với tự nhiên

Các yếu tố cơ bản của tồn tại xã hội

Phương thức sản xuất vật chất


Điều kiện tự nhiên, hoàn cảnh địa lý
Dân số và mật độ dân số

Ý thức xã hội:
Khái niệm:

Ý thức xã hội là phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử được vận dụng để giải quyết vấn đề cơ
bản của triết học trong lĩnh vực xã hội. Nói cách khác, ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời
sống xã hội, là bộ phận hợp thành của văn hóa tinh thần của xã hội. Văn hóa tinh thần của xã hội
mang nặng dấu ấn đặc trưng của hình thái kinh tế - xã hội, của các giai cấp đã tạo ra nó.

Kết cấu của ý thức xã hội: Bao gồm ý thức xã hội thông thường, ý thức lý luận,
tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội

Ý thức xã hội mặc dù có mối quan hệ hữu cơ, biện chứng với ý thức cá nhân, cùng phản ánh
tồn tại xã hội song giữa ý thức xã hội và ý thức cá nhân vẫn có sự khác nhau tương đối vì
chúng thuộc hai trình độ khác nhau.
Ý thức cá nhân chính là thế giới tinh thần của các cá nhân riêng lẻ và cụ thể.
Ý thức xã hội thông thường hay ý thức thường ngày là những tri thức, những quan niệm của
con người hình thành một cách trực tiếp trong các hoạt động trực tiếp hằng ngày nhưng chưa
được hệ thống hóa, chưa được tổng hợp và khái quát hóa.
Ý thức lý luận hay ý thức khoa học là những tư tưởng, những quan điểm được tổng
hợp, được hệ thống hóa và khái quát hóa thành các học thuyết xã hội dưới dạng các khái niệm,
các phạm trù và các quy luật.

Tâm lý xã hội là ý thức xã hội thể hiện trong ý thức cá nhân. Tâm lý xã hội bao gồm toàn bộ tư
tưởng, tình cảm, tâm trạng, thói quen, nếp sống, nếp nghĩ, phong tục, tập quán, ước muốn, v.v.
của một người, một tập đoàn người, một bộ phận xã hội hay của toàn thể xã hội hình thành dưới
tác động trực tiếp của cuộc sống hằng ngày của họ và phản ánh cuộc sống đó.
Hệ tư tưởng là giai đoạn phát triển cao hơn của ý thức xã hội, là sự nhận thức lý luận về tồn tại
xã hội. Hệ tư tưởng có khả năng đi sâu vào bản chất của mọi mối quan hệ xã hội; là kết quả của
sự tổng kết, sự khái quát hóa các kinh nghiệm xã hội để hình thành nên những quan điểm, những
tư tưởng về chính trị, pháp luật, triết học, đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo, v.v

Mặc dù tâm lý xã hội và hệ tư tưởng thuộc hai trình độ khác nhau của ý thức xã hội nhưng
chúng có mối liên hệ qua lại và tác động qua lại lẫn nhau

Tính giai cấp của ý thức xã hội

Trong những xã hội có giai cấp thì các giai cấp khác nhau có điều kiện vật chất khác nhau, có
lợi ích và địa vị xã hội khác nhau thì ý thức xã hội của các giai cấp đó cũng khác nhau

Tính giai cấp của ý thức xã hội biểu hiện cả ở tâm lý xã hội lẫn ở hệ tư tưởng. Nếu ở trình
độ tâm lý xã hội, mỗi giai cấp xã hội đều có tình cảm, tâm trạng, thói quen, thiện cảm hay ác cảm
riêng thì ở trình độ hệ tư tưởng tính giai cấp thể hiện rõ rệt và sâu sắc hơn nhiều.

Hệ tư tưởng của giai cấp thống trị trong các xã hội có giai cấp đối kháng bao giờ cũng bảo vệ
địa vị và lợi ích của giai cấp thống trị, của chế độ người bóc lột người. Trái lại, hệ tư tưởng của
giai cấp bị trị bao giờ cũng bảo vệ quyền lợi của những người bị bóc lột, của đông đảo quần
chúng nhân dân bị áp bức nhằm lật đổ chế độ người bóc lột người đó.
Tuy nhiên, khi khẳng định tính giai cấp của ý thức xã hội thì quan niệm duy vật về
lịch sử cũng cho rằng, ý thức của các giai cấp trong xã hội có sự tác động qua lại với
nhau
Các hình thái ý thức xã hội
Ý thức chính trị: Ý thức chính trị, nhất là hệ tư tưởng chính trị, có vai trò rất quan
trọng đối với sự phát triển của xã hội. Hệ tư tưởng chính trị tiến bộ sẽ thúc đẩy
mạnh mẽ sự phát triển các mặt của đời sống xã hội; ngược lại, hệ tư tưởng chính
trị lạc hậu, phản động sẽ kìm hãm, thậm chí kéo lùi sự phát triển đó
Hệ tư tưởng chính trị giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội và xâm nhập
vào tất cả các hình thái ý thức xã hội khác
Ý thức pháp quyền: là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm của một giai cấp về bản
chất và vai trò của pháp luật, về quyền, trách nhiệm và nghĩa vụ của nhà nước,
của các tổ chức xã hội và của công dân, về tính hợp pháp và không hợp pháp của
hành vi con người trong xã hội.
Ý thức đạo đức: là toàn bộ những quan niệm về thiện, ác, xấu, lương tâm, trách
nhiệm, nghĩa vụ, công bằng, hạnh phúc, v.v. và về những quy tắc đánh giá, những
chuẩn mực điều chỉnh hành vi cùng cách ứng xử giữa các cá nhân với nhau và
giữa các cá nhân với xã hội.
Ý thức đạo đức bao gồm hệ thống những tri thức về giá trị và định hướng giá trị đạo
đức; những tình cảm và lý tưởng đạo đức, trong đó tình cảm đạo đức là yếu tố quan trọng
nhất.
Ý thức nghệ thuật hay ý thức thẩm mỹ:
Ý thức thẩm mỹ phản ánh tồn tại xã hội. Nghệ thuật phản ánh thế giới bằng hình tượng
nghệ thuật. Hình tượng nghệ thuật là sự nhận thức, sự lĩnh hội cái chung trong cái riêng;
là sự nhận thức cái bản chất trong các hiện tượng, cái phổ biến trong cái cá biệt nhưng
mang tính điển hình
Nghệ thuật chân chính gắn với cuộc sống của nhân dân và các hình tượng nghệ thuật có
giá trị thẩm mỹ cao đáp ứng những nhu cầu thẩm mỹ lành mạnh, đa dạng các thế hệ
Nghệ thuật mang tính giai cấp và chịu sự chi phối của các quan điểm chính trị, của các
quan hệ kinh tế
Ý thức tôn giáo:

Đối với C. Mác và Ph. Ăngghen, tôn giáo có trước triết học; nó là một hình thái ý thức xã
hội trực tiếp thể hiện thế giới quan của con người. Khác với tất cả các hình thái ý thức xã
hội khác, tôn giáo là sự phản ánh hư ảo sức mạnh của giới tự nhiên bên ngoài lẫn các
quan hệ xã hội vào đầu óc con người.

Tôn giáo với tư cách là một hình thái ý thức xã hội gồm có tâm lý tôn giáo và hệ tư tưởng
tôn giáo. Tâm lý tôn giáo là toàn bộ những biểu tượng, tình cảm, tâm trạng của quần
chúng về tín ngưỡng tôn giáo. Hệ tư tưởng tôn giáo là hệ thống giáo lý được các nhà
thần học và các chức sắc giáo sĩ tôn giáo tạo dựng và truyền bá trong xã hội. Tâm lý tôn
giáo và hệ tư tưởng tôn giáo có quan hệ chặt chẽ với nhau. Tâm lý tôn giáo tạo cơ sở
cho hệ tư tưởng tôn giáo dễ dàng xâm nhập vào quần chúng

Chức năng chủ yếu của ý thức tôn giáo là chức năng đền bù hư ảo.

Ý thức lý luận hay ý thức khoa học:

Khoa học là sự khái quát cao nhất của thực tiễn, là phương thức nắm bắt tất cả các hiện
tượng của hiện thực, cung cấp những tri thức chân thực về bản chất các hiện tượng, các
quá trình, các quy luật của tự nhiên và của xã hội.

Nếu ý thức tôn giáo là sự phản ánh hư ảo sức mạnh của giới tự nhiên bên ngoài lẫn các
quan hệ xã hội vào đầu óc con người thì ý thức khoa học phản ánh hiện thực một cách
chân thực và chính xác dựa vào sự thật và lý trí của con người.
Nếu ý thức tôn giáo hướng con người vào thế giới những ảo tưởng, siêu tự nhiên thì, trái
lại, ý thức khoa học có nhiệm vụ cao cả là hướng con người vào việc biến đổi hiện thực,
cải tạo thế giới nhằm phục vụ cho nhu cầu cuộc sống nhiều mặt và ngày càng tốt hơn,
cao hơn của con người.
Ý thức triết học:
Hình thức đặc biệt và cao nhất của tri thức cũng như của ý thức xã hội là triết học .
Triết học Mác Leenin, cung cấp cho con người tri thức về thế giới như một chỉnh thể
thông qua việc tổng kết toàn bộ lịch sử phát triển của khoa học và của chính bản thân triết
học.
Thế giới quan triết học bao hàm trong nóc cả nhân sinh quan.
Triết học duy vật biện chứng có vai trò to lớn để nhận thức đúng đắn ý nghĩa và vai trò
của các hình thái ý thức xã hội khác
Quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, tính độc lập tương đối
của ý thức xã hội
Chủ nghĩa duy vật lịch sử, khi xác định tồn tại xã hội là một hình thức đặc biệt của vật
chất, có xuất phát điểm từ "không phải ý thức của con người quy định sự tồn tại của họ, mà
ngược lại, tồn tại xã hội của họ quy định ý thức của họ" và khẳng định "ý thức xã hội phản
ánh tồn tại xã hội". Sự phản ánh đó là quá trình biện chứng phức tạp, là kết quả của mối liên
hệ tích cực giữa con người với thực tiễn.

a. Tồn tại xã hội quy định ý thức xã hội


1) Tồn tại xã hội là cái thứ nhất, ý thức xã hội là cái thứ hai. Tồn tại xã hội quy định nội
dung, bản chất, xu hướng vận động của ý thức xã hội; ý thức xã hội phản ánh cái lôgíc khách
quan của tồn tại xã hội. Sự biến đổi của một thời đại nào đó sẽ không thể giải thích được nếu
chỉ căn cứ vào ý thức của thời đại đó, mà phải giải thích ý thức ấy bằng những mâu thuẫn của
đời sống vật chất, bằng sự xung đột hiện có giữa các lực lượng sản xuất xã hội và những quan
hệ xã hội.
VD: Những người dân miền Tây sống quen với sông nước nên hình thành nền văn hóa sông
nước và kinh tế phát triển dựa trên những lợi ích khai thác được từ sông nước.
2) Tồn tại xã hội thay đổi là điều kiện quyết định để ý thức xã hội thay đổi. Mỗi khi tồn tại xã
hội, đặc biệt là phương thức sản xuất biến đổi thì những tư tưởng và lý luận xã hội cũng dần
biến đổi theo. Chính vì vậy, ở những thời kỳ lịch sử khác nhau, nếu có những quan điểm, tư
tưởng, học thuyết xã hội khác nhau về cùng một vấn đề thì đó là do những điều kiện khác
nhau của đời sống vật chất của các thời kỳ lịch sử khác nhau quy định.
VD: Trong xã hội nguyên thuỷ, do trình độ của lực lượng sản xuất còn hết sức thấp kém, mọi
người còn sống chung, làm chung, hưởng chung nên chưa có quan niệm tư hữu, chưa có ý
thức bóc lột. Nhưng khi chế độ công xã nguyên thuỷ tan rã, chế độ tư hữu ra đời xã hội phân
chia giầu nghèo, bóc lột và bị bóc lột thì ý thức con người cũng thay đổi căn bản: tư tưởng ăn
bám, tư hữu, bóc lột, chủ nghĩa cá nhân…xuất hiện.
3) Tồn tại xã hội quy định ý thức xã hội không giản đơn, trực tiếp mà thường thông qua các
khâu trung gian. Không phải bất kỳ tư tưởng, quan niệm, lý luận, hình thái ý thức xã hội nào
cũng phản ánh rõ ràng và trực tiếp những quan hệ kinh tế của thời đại, mà chỉ khi xét cho đến
cùng mới thấy rõ những mối quan hệ kinh tế được phản ánh trong các tư tưởng ấy.
VD: Trong xã hội phong kiến, khi quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa ra đời và dần dần lớn
mạnh thì cũng nảy sinh quan niệm cho rằng sự tồn tại của chế độ phong kiến là trái công lý,
không phù hợp với lý tính con người phải được thay thế bằng xã hội công bằng, bình đẳng,
bác ái. Ngay cả khi chủ nghĩa tư bản mới ra đời, đã xuất hiện các trào lưu tư tưởng xã hội chủ
nghĩa không tưởng phê phán những mâu thuẫn trong lòng chủ nghĩa tư bản, đề xuất xây dựng
một xã hội mới tốt đẹp hơn, thay thế chế độ tư bản.

b. Tính độc lập tương đối và sự tác động ngược trở lại của ý thức xã hội
- Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội
1) ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội do không phản ánh kịp những thay đổi
của tồn tại xã hội do sức ỳ của thói quen, truyền thống, tập quán và tính bảo thủ của một số
hình thái ý thức xã hội v.v… tiếp tục tồn tại sau khi những điều kiện lịch sử sinh ra chúng đã
mất đi từ lâu; do lợi ích nên không chịu thay đổi. VD: Một số hủ tục lạc hậu: chữa bệnh bằng
bùa chú, người Mông phơi xác chết hàng chục ngày rồi mới mai táng.
2) ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội. Do tính năng động của ý thức, trong những
điều kiện nhất định, tư tưởng, đặc biệt là những tư tưởng khoa học tiên tiến có thể vượt trước
sự phát triển của tồn tại xã hội; dự báo được quy luật và có tác dụng tổ chức, hướng hoạt
động thực tiễn của con người vào mục đích nhất định. Đó cũng là vai trò to lớn của những tư
tưởng tiên tiến, khoa học; tuy nhiên, sự vượt trước này cũng có khả năng là ảo tưởng.
VD: Chủ nghĩa Mác Lênin là hệ tư tưởng của giai cấp công nhân - giai cấp cách mạng nhất
của thời đại. Tuy ra đời vào thế kỷ XIX, trong lòng chủ nghĩa tư bản nhưng chủ nghĩa Mác
Lênin đã chỉ rõ qui luật của chủ nghĩa tư bản nói riêng. Qua đó khẳng định rằng chủ nghĩa tư
bản nhất định sẽ bị thay thế bằng chủ nghĩa cộng sản mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội.
Học thuyết đó đã trang bị cho giai cấp công nhân và chính đảng cộng sản vũ khí lý luận sắc
bén để giải phóng mình và giải phóng nhân dân lao động, các dân tộc bị áp bức trên toàn thế
giới thoát khỏi ách nô dịch, bóc lột, xây dựng một xã hội hoàn toàn tốt đẹp. Trong thời đại
ngày nay, chủ nghĩa Mác Lênin vẫn là thế giới quan và phương pháp luận chung nhất cho
nhận thức và cải tạo thế giới trên mọi lĩnh vực, vẫn là cơ sở lý luận và phương pháp khoa học
cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
3) ý thức xã hội có tính kế thừa. Quan điểm, lý luận của mỗi thời đại được tạo ra trên cơ sở
kế thừa những thành tựu lý luận của các thời đại trước. Kế thừa có tính tất yếu khách quan;
có tính chọn lọc và sáng tạo; kế thừa theo quan điểm lợi ích; theo truyền thống và đổi mới.
Do vậy, nếu không chú ý đến sự phát triển tư tưởng của các giai đoạn lịch sử trước được kế
thừa trong ý thức xã hội mới, thì khó giải thích được một tư tưởng nhất định. VD: chủ nghĩa
Mác Lênin, kế thừa tinh hoa tư tưởng của loài người đã đạt được trước đó mà trực tiếp là nền
triết học cổ điển Đức, nền kinh tế chính trị học cổ điển Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng
ở Pháp.
Lịch sử phát triển của các tư tưởng cho thấy những giai đoạn hưng thịnh và suy tàn của tư
tưởng nhiều khi không phù hợp hoàn toàn với những giai đoạn hưng thịnh và suy tàn của nền
kinh tế. Điều này chỉ ra rằng, vì sao một nước có trình độ kinh tế kém phát triển, nhưng tư
tưởng lại ở trình độ phát triển cao. VD: Nước Pháp thế kỷ XVIII nền kinh tế kém phát triển
hơn nước Anh, nhưng tư tưởng lại tiên tiến hơn nước Anh, hoặc so với nước Anh, Pháp nửa
đầu thế kỷ XIX, nước Đức lạc hậu hơn về kinh tế, nhưng đứng ở trình độ cao hơn về triết
học.
4) Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội cũng gây ảnh hưởng tới tồn tại xã
hội. Thông thường, trong mỗi thời đại, tuỳ theo những hoàn cảnh lịch sử cụ thể, có những
hình thái ý thức xã hội nào đó nổi lên hàng đầu tác động và chi phối các hình thái ý thức xã
hội khác.
VD: Ở Hy Lạp cổ đại, triết học và nghệ thuật đóng vai trò đặc biệt quan trọng, còn ở Tây Âu
thời trung cổ, tôn giáo ảnh hưởng mạnh mẽ đến mọi mặt của đời sống tinh thần xã hội như
triết học, nghệ thuật, đạo đức, chính trị, pháp quyền, ở giai đoạn lịch sử sau này thì ý thức
chính trị lại đóng vai trò to lớn tác động đến các hình thái ý thức xã hội khác nhau.
- Sự tác động ngược trở lại của ý thức xã hội lên tồn tại xã hội là biểu hiện quan trọng
của tính độc lập tương đối của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội. Đó là sự tác động nhiều
chiều với các phương thức phức tạp. Sự tác động này thể hiện mức độ phù hợp giữa tư tưởng
với hiện thực; sự xâm nhập của ý thức xã hội vào quần chúng cả chiều sâu, chiều rộng và phụ
thuộc vào khả năng hiện thực hoá ý thức xã hội của giai cấp và đảng phái.
VD: nguyên lý của triết học Mác Lênin về tính độc lập tương đối của ý thức xã hội chỉ ra bức
tranh phức tạp của lịch sử phát triển của ý thức xã hội và của đời sống tinh thần xã hội nói
chung. Nó bác bỏ mọi quan điểm siêu hình, máy móc tầm thường về mối quan hệ giữa tồn tại
xã hội và ý thức XH.
Như vậy, ý thức xã hội, với tính cách là thể thống nhất độc lập, tích cực tác động ngược trở
lại lên tồn tại xã hội nói riêng và lên đời sống xã hội nói chung.
12. Bản chất con người
1. Khái niệm con người
Con người là một thực thể tự nhiên mang đặc tính xã hội có sự thống nhất biện chứng giữa
hai phương diện tự nhiên và xã hội.
Bản tính tự nhiên của con người:
1) con người là kết quả của quá trình tiến hóa và phát triển lâu dài của giới tự nhiên. Cơ
sở khoa học của kết luận này đã được chứng minh bằng toàn bộ sự phát triển của chủ nghĩa
duy vật và khoa học tự nhiên, đặc biệt là học thuyết của Đácuyn về sự tiến hóa của các loài.
2) con người là một bộ phận của giới tự nhiên và đồng thời giới tự nhiên cũng "là thân
thể vô cơ của con người". Do đó, những biến đổi của giới tự nhiên và tác động của quy luật
tự nhiên trực tiếp hoặc gián tiếp thường xuyên quy định sự tồn tại của con người và xã hội
loài người; ngược lại, sự biến đổi và hoạt động của con người tác động trở lại môi trường tự
nhiên, làm biến đổi môi trường. Đây chính là mối quan hệ biện chứng giữa sự tồn tại của con
người, loài người và các tồn tại khác của giới tự nhiên. VD: Vùng ven sông có điều kiện tự
nhiên thuận lợi, dồi dào nguồn thức ăn, nguồn nước đầy đủ nên con người tập trung sinh sống
tại đây, khai thác các nguồn tài nguyên và nguồn lợi từ sông nước mang lại. Nhưng trong quá
trình đó, con người sản xuất, khi khai thác quá đà khiến thiên nhiên nơi đây cạn kiệt, xói
mòn, sạt lở, xuống cấp, ô nhiễm, gây ảnh hưởng xấu đến môi trường.
Tuy nhiên, con nguời không đồng nhất với các tồn tại khác của giới tự nhiên, nó mang
đặc tính xã hội bởi vì mỗi con người với tư cách là "người" chính là xét trong mối quan hệ
của các cộng đồng xã hội, đó là các cộng đồng: gia đình, giai cấp, quốc gia, dân tộc, nhân
loại.... Vì vậy, bản tính xã hội nhất định phải là một phương diện khác của bản tính con
người, hơn nữa đây là bản tính đặc thù của con người.
Bản tính xã hội của con người:
1) xét từ giác độ nguồn gốc hình thành, loài người có nguồn gốc xã hội, cơ bản nhất là
nhân tố lao động. Nhờ lao động mà con người có khả năng vượt qua loài động vật để tiến hóa
và phát triển thành người. VD: Người cổ đại ăn lông ở lỗ, sống trong các hang đá nguyên
thủy và hoang dã như các loài động vật. Qua lao động, con người biết chế tạo và sử dụng các
công cụ lao động, sử dụng lửa,… để chinh phục thiên nhiên.
2) xét từ giác độ tồn tại và phát triển, sự tồn tại của loài người luôn luôn bị chi phối bởi
các nhân tố xã hội và các quy luật xã hội. Xã hội biến đổi thì mỗi con người cũng có sự thay
đổi tương ứng. Ngược lại, sự phát triển của mỗi cá nhân lại là tiền đề cho sự phát triển của xã
hội. Ngoài mối quan hệ xã hội thì mỗi con người chỉ tồn tại với tư cách là một thực thể sinh
vật thuần túy, không thể là "con người" với đầy đủ ý nghĩa của nó. VD: xã hội phong kiến
buộc con người sống trong khuôn khổ, luật lệ, giáo điều với những tư tưởng khắt khe, nhưng
khi con người được giải phóng, bước sang chế độ XHCN thì con người văn minh hơn, tân
tiến hơn.
Hai phương diện tự nhiên và xã hội của con người tồn tại trong tính thống nhất, quy định
lẫn nhau, tác động lẫn nhau, làm biến đổi lẫn nhau, nhờ đó tạo nên khả năng hoạt động sáng
tạo của con người trong quá trình làm ra lịch sử của chính nó. Vì thế, nêu lý giải bản tính
sáng tạo của con người đơn thuần chỉ từ giác độ bản tính tự nhiên hoặc chỉ từ bản tính xã hội
thì đều là phiến diện, không triệt để và nhất định cuối cùng sẽ dẫn đến những kết luận sai lầm
trong nhận thức và thực tiễn.
2. Bản chất con người

Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật với mặt xã hội
Tiền đề vật chất đầu tiên quy sự tồn tại của con người là giới tự nhiên. Giới tự nhiên là "thân
thể vô cơ của con người"; con người là một bộ phận của tự nhiên; là kết quả của quá trình
phát triển và tiến hoá lâu dài của môi trường tự nhiên. Đặc trưng quy định sự khác biệt giữa
con người với thế giới loài vật là phương diện xã hội của nó. Trong lịch sử đã có những quan
niệm khác nhau phân biệt con người với loài vật, như con người là động vật sử dụng công cụ
lao động, là "một động vật có tính xã hội", hoặc con người động vật có tư duy... Những quan
niệm trên đều phiến diện chỉ vì nhấn mạnh một khía cạnh nào đó trong bản chất xã hội của
con người mà chưa nêu lên được nguồn gốc của bản chất xã hội ấy.
Với phương pháp biện chứng duy vật, triết học Mác nhận thức vấn đề con người một cách
toàn diện, cụ thể, trong toàn bộ tính hiện thực xã hội của nó, mà trước hết là lao động sản
xuất ra của cải vật chất. "Có thể phân biệt con người với súc vật, bằng ý thức, bằng tôn giáo,
nói chung bằng bất cứ cái gì cũng được. Bản thân con người bắt đầu bằng sự tự phân biệt với
súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình - đó là một
bước tiến do tổ chức cơ thể của con người quy định. Sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của
mình, như thế con người đã gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình". Thông
qua hoạt động sản xuất vật chất; con người đã làm thay đổi, cải biến giới tự nhiên: "Con vật
chỉ sản xuất ra bản thân nó, còn con người thì tái sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên". VD:
Người nguyên thủy bắt đầu biết chế tạo công cụ lao động, sản xuất, biết trồng trọt, canh tác,
chặt cây phá rừng làm nương rẫy, biết chăn nuôi, thuần hóa động vật phục vụ cuộc sống cá
nhân, từ đó làm thay đổi giới tự nhiên.
Tính xã hội của con người biểu hiện trong hoạt động sản xuất vật chất; hoạt động sản xuất vật
chất biểu hiện một cách căn bản tính xã hội của con người. Thông qua hoạt động lao động
sản xuất, con người sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần, phục vụ đời sống của mình; hình
thành và phát triển ngôn ngữ và tư duy; xác lập quan hệ xã hội. Bởi vậy, lao động là yếu tố
quyết định hình thành bản chất xã hội của con người, đồng thời hình thành nhân cách cá nhân
trong cộng đồng xã hội. VD: Nghề giáo viên định hình con người mô phạm, nghiêm túc, chỉn
chu; nghề cảnh sát, bộ đội hình thành con người kỉ cương, nề nếp, cứng rắn,…
Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và phát triển của con người luôn
luôn bị quyết định bởi ba hệ thống quy luật khác nhau, nhưng thống nhất với nhau. Hệ thống
các quy luật tự nhiên như quy luật về sự phù hợp cơ thể với môi trường, quy luật về sự trao
đổi chất, về di truyền, biến dị, tiến hóa... quy định phương diện sinh học của con người. Hệ
thống các quy luật tâm lý ý thức hình thành và vận động trên nền tảng sinh học của con người
như hình thành tình cảm, khát vọng, niềm tin, ý chí. Hệ thống các quy luật xã hội quy định
quan hệ xã hội giữa người với người. Ba hệ thống quy luật trên cùng tác động, tạo nên thể
thống nhất hoàn chỉnh trong đời sống con người bao gồm cả mặt sinh học và mặt xã hội,
cũng như nhu cầu sinh học và nhu cầu xã hội của con người.

Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội
Để nhấn mạnh bản chất xã hội của con người, C.Mác đã nêu lên luận đề nổi tiếng: "Bản chất
con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện
thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội"
Luận đề trên khẳng định rằng, không có con người trừu tượng, thoát ly mọi điều kiện, hoàn
cảnh lịch sử xã hội. Con người luôn luôn cụ thể, xác định, sống trong một điều kiện lịch sử cụ
thể nhất định, một thời đại nhất định. Trong điều kiện lịch sử đó, bằng hoạt động thực tiễn
của mình, con người tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển cả thể
lực và tư duy trí tuệ. Chỉ trong toàn bộ các mối quan hệ xã hội đó (như quan hệ giai cấp, dân
tộc, thời đại; quan hệ chính trị, kinh tế; quan hệ cá nhân, gia đình, xã hội...) con người mới
bộc lộ toàn bộ bản chất xã hội của mình. VD: Người sói, người vượn, người gà… Một người
đàn ông ở quốc đảo Fipji, bị cha mẹ nhốt vào chuồng gà trong một khoảng thời gian dài. Sau
khi trốn ra được thì người đàn ông này ảnh hưởng hầu hết những tập tính của gà như mổ thức
ăn, vỗ cánh và cất tiếng kêu gọi bầy…
Điều cần lưu ý là luận đề trên khẳng định bản chất xã hội không có nghĩa là phủ nhận mặt tự
nhiên trong đời sống con người. Song, ở con người, mặt tự nhiên tồn tại trong sự thống nhất
với mặt xã hội; ngay cả việc thực hiện những nhu cầu sinh vật ở con người cũng đã mang
tính xã hội. Quan niệm bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội mới giúp cho
chúng ta nhận thức đúng đắn, tránh khỏi cách hiểu thô thiển về mặt tự nhiên, cái sinh vật ở
con người.
Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử
Không có thế giới tự nhiên, không có lịch sử xã hội thì không tồn tại con người. Bởi vậy, con
người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hóa lâu dài của giới hữu sinh. Song, điều quan
trọng hơn cả là, con người luôn luôn là chủ thể của lịch sử - xã hội. C.Mác đã khẳng định:
"Cái học thuyết duy vật chủ nghĩa cho rằng con người là sản phẩm của những hoàn cảnh và
của giáo dục... cái học thuyết ấy quên rằng chính những con người làm thay đổi hoàn cảnh và
bản thân nhà giáo dục cũng cần phải được giáo dục". Như vậy, với tư cách là thực thể xã hội,
con người hoạt động thực tiễn, tác động vào tự nhiên, cải biến giới tự nhiên, đồng thời thúc
đẩy sự vận động phát triển của lịch sử xã hội.
Trong quá trình cải biến tự nhiên, con người cũng làm ra lịch sử của mình. Con người là sản
phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra lịch sử của chính bản thân con người. Hoạt
động lao động sản xuất vừa là điều kiện cho sự tồn tại của con người, vừa là phương thức để
làm biến đổi đời sống và bộ mặt xã hội. Trên cơ sở nắm bắt quy luật của lịch sử xã hội, con
người thông qua hoạt động vật chất và tinh thần, thúc đẩy xã hội phát triển từ thấp đến cao,
phù hợp với mục tiêu và nhu cầu do con người đặt ra. Không có hoạt động của con người thì
cũng không tồn tại quy luật xã hội, và do đó, không có sự tồn tại của toàn bộ lịch sử xã hội
loài người.
Bản chất con người, trong mối quan hệ với điều kiện lịch sử xã hội luôn luôn vận động biến
đổi, phải thay đổi cho phù hợp. Bản chất con người là hệ thống mở, tương ứng với điều kiện
tồn tại của con người. Mặc dù là "tổng hoà các quan hệ xã hội", con người có vai trò tích cực
trong tiến trình lịch sử với tư cách là chủ thể sáng tạo. Có thể nói rằng, mỗi sự vận động và
tiến lên của lịch sử sẽ quy định tương ứng (mặc dù không trùng khớp) với sự vận động và
biến đổi của bản chất con người. VD: người nông dân Việt Nam trong chế độ phong kiến
quằn lưng lao động phục vụ cho giai cấp địa chủ; Chí Phèo là sản phẩm của những quan hệ
xã hội trong xã hội phong kiến nửa thực dân thối nát; còn người nông dân trong XHCN đã
chủ động, tích cực, dân chủ và văn minh hơn.
Vì vậy, để phát triển bản chất con người theo hướng tích cực, cần phải làm cho hoàn cảnh
ngày càng mang tính người nhiều hơn. Hoàn cảnh đó chính là toàn bộ môi trường tự nhiên và
xã hội tác động đến con người theo khuynh hướng phát triển nhằm đạt tới các giá trị có tính
mục đích, tự giác, có ý nghĩa định hướng giáo dục. Thông qua đó, con người tiếp nhận hoàn
cảnh một cách tích cực và tác động trở lại hoàn cảnh trên nhiều phương diện khác nhau: hoạt
động thực tiễn, quan hệ ứng xử, hành vi con người, sự phát triển của phẩm chất trí tuệ và
năng lực tư duy, các quy luật nhận thức hướng con người tới hoạt động vật chất. Đó là biện
chứng của mối quan hệ giữa con người và hoàn cảnh trong bất kỳ giai đoạn nào của lịch sử
xã hội loài người.

You might also like