Professional Documents
Culture Documents
Quản lí các dạng năng lượng khác- Hồ Sỹ Tùng
Quản lí các dạng năng lượng khác- Hồ Sỹ Tùng
Quản lí các dạng năng lượng khác- Hồ Sỹ Tùng
Sau đó vài thập kỷ, một vài nhà máy thủy điện được xây dựng.
Vào những năm 1940, thủy điện đã cung cấp 33% điện năng
cho nước Mỹ.
Một trong những lợi ích lớn nhất của nhà máy thủy điện là
khả năng lưu trữ điện năng, Nước ở trong hồ chứa nhân tạo
dự trữ năng lượng. Nước có thể được chứa trong hồ nhân tạo
và được giải phóng khi cần để sản xuất điện.
Khi nhu cầu sử dụng điện lớn, thì nước được chảy liên tục
để sản xuất ra điện năng. Khi nhu cầu giảm (các hộ gia đình,
nhà máy thường ngừng sản xuất khi ban đêm) thì nước được
dự trữ trong hồ nhân tạo. Ngoài ra dự trữ nước cũng tiết kiệm
nước cho mùa đông để sản xuất điện năng cho mùa hè, hoặc
là dự trữ nước trong mùa mưa và sản xuất điện năng cho mùa
khô.
.
1.1.1. Năng lượng thủy điện
Việc sản xuất điện năng từ nhà máy thủy điện rất rẻ bởi vì chỉ
cần đầu tư tiền cho việc xây đập 1 lần và thiết lập hệ thống cho nhà
máy, còn nguồn năng lượng chính là nước chảy, là miễn phí.
Nhà máy thủy điện cũng sản xuẩt ra năng lượng rẻ hơn do
cấu trúc bền vững và công nghệ đơn giản của nó. Nhà máy thủy
điện có tuổi thọ cao và bền vững, chi phí bảo hành thẩp nếu
đem so sánh số này với nhà máy điện đốt than hay nhà máy điện
nguyên tử.
● Tình hình sử dụng năng lượng thủy điện trên thế giới
Trong các dạng năng lượng nước thì thủy điện đóng vai trò chủ chốt. Có
khoảng hơn 2000 nhà máy thủy điện sử dụng năng lượng nước, nước Mỹ là
đất nước có nguồn năng lượng tái tạo lớn nhất, chiếm 49% nguồn năng
lượng tái tạo trên toàn thế giới. Nước Mỹ tăng lượng điện năng từ 16 nghìn
tỷ kWh năm 1920 đến gần 306 nghìn tỷ kWh trong năm 1999. Đứng ngay
sau Mỹ là Canada về tổng lượng điện năng sử dụng thủy điện. Tuy nhiên,
chỉ với 8 % trong số năng lượng điện của Mỹ là sản xuất nhờ thủy điện
(năm 1999). Do đó mà xu hướng trong tương lai nước Mỹ có khả năng đầu
tư xây dựng các nhà mảy thủy điện nhỏ có thể sản xuất điện cho một bang.
Trung Quốc đã phát triển ngành thủy điện trong thập kỷ trước và
bây giờ đang dẫn đầu trên toàn thế giới về nhu cầu cũng như sản xuất
thủy điện. Thứ tự của xếp hạng của các nước sản xuất thủy điện trên
thế giới được đưa ra ở bảng 1.1.
Người ta sử dụng cụm từ mỹ miều “chuyển đổi diện tích rừng tự nhiên” thay
cho việc phá rừng để làm các công trình thủy điện. Theo các chuyên gia sinh quyển,
để tạo ra 1 MW điện, phải “đổi” ít nhất 10-30 ha rừng, và để có 1.000 ha hồ chứa
nước cũng cần san phẳng, giải phóng từ 1.000 – 2.000 ha đất rừng ở phía thượng
nguồn.
Tác dụng của thủy điện còn phải kể đến nhiệm vụ quan trọng là cắt, chống lũ
cho hạ lưu mùa mưa bão kiêm cung cấp nước phục vụ sản xuất và nhu cầu dân sinh
mùa khô.
Tuy vậy, những năm qua, các công trình thủy điện nhỏ
đã được ví như những “thủy quái” đe dọa cuộc sống
người dân ở khắp các địa phương. Tương ứng với số
lượng dày đặc các công trình thủy điện tại các con sông,
có một lượng lớn các hệ sinh thái bao gồm thảm thực vật
và động vật xung quanh các thủy điện và phía hạ lưu bị
hủy diệt hoàn toàn.
Không chỉ là động vật, ngay cả con người cũng không
còn chỗ dung thân. Các khu dân cư ở gần khu vực hạ lưu
bấy lâu vẫn sống yên ổn với núi rừng, sông suối thì nay
phải dọn đi nơi khác nhường chỗ cho các công trình thủy
điện.
Nhưng hậu quả không chỉ dừng lại ở đó, những đợt xả lũ
của nhà máy thủy điện luôn là nỗi ám ảnh của người dân hạ
lưu. Do thiết kế và thi công không đảm bảo kỹ thuật, nhiều
công trình thủy điện nhỏ rất mong manh trước những cơn
mưa lớn tại đầu nguồn. Nhiều công trình không có khả năng
ngăn chặn và điều tiết lũ, thậm chí những đợt xả lũ bất ngờ
của các thủy điện nhỏ đã gây nên các đợt lũ lớn làm hư hại
nhà cửa, cây trồng và cướp đi cả tính mạng con người.
Do vậy cần phải cân nhắc thật kĩ lưỡng trong việc xây
dựng nhà máy thủy điện để đánh đổi với việc phá hoại
môi trường sống của hệ sinh thái khu vực đó cũng như
con người sống trong khu vực hồ thủy điện
● Tình hình sản xuất điện năng của nước ta