LỚP: KY 14LT2 – XN1 MSSV: 147072030 CẤU TRÚC CỦA INSULIN VÀ PEPTIDE-C • Insulin là một phân tử protein, gồm 2 chuỗi A (21 acid amin) và chuỗi B (30 acid amin) nối với nhau bằng 3 cầu nối disulfur, trọng lượng phân tử 5808 Daltons. • Peptide-C (connecting peptide) là 1 đoạn ngắn polypeptide gồm 31 acid amin mà nối hai chuỗi A và chuỗi B của insulin trong phân tử proinsulin, trọng lượng phân tử 3020 Daltons. CHỨC NĂNG CỦA INSULIN VÀ PEPTIDE-C • Insulin là 1 hormon do tế bào beta của tuyến tụy tiết ra. Insulin có 3 mô đích chính là : mô gan, mô cơ xương va mô mỡ. Insulin là hormon duy nhất có tác động làm hạ đường huyết trong cơ thể. • Các chứng năng chính của insulin: • -Tác động lên chuyển hóa glucid • -Tác động lên chuyển hóa lipid • -Tác động lên chuyển hóa protid • -Trên sự phát triển: đồng tác dụng với GH TÁC ĐỘNG LÊN CHUYỂN HÓA GLUCID • Mở kênh GLUT4 (glucose transporter 4) đưa glucose vào tế bào, tạo năng lượng cung cấp cho các hoạt động khác. • Tại mô cơ xương: đẩy mạnh tổng hợp glycogen dự trữ. • Tại mô gan: Tổng hợp glycogen dự trữ sau bữa ăn, chuyển glucose thừa thành acid béo, ức chế quá trình tân tạo glucose. • Tại mô mỡ: chuyển glucose thành acid béo dự trữ. TÁC ĐỘNG TRÊN CHUYỂN HÓA LIPID • Tổng hợp và dự trữ lipid từ glucose, nhất là tại các tế bào mỡ. • Ức chế ly giải lipid và giải phóng acid béo (ức chế enzyme lipase HSL: hormone sensitive lipase) TÁC ĐỘNG TRÊN CHUYỂN HÓA PROTID
• Kích thích vận chuyển nhiều acid amin vào tế
bào, đồng thời làm tăng cường quá trình dịch mã tổng hợp các protein mới tại ribosome, ức chế sự thoái biến protein trong lysosome của tế bào. Như vậy insulin cũng là 1 hormone có chức năng tăng trưởng như GH của tuyến yên trước, thể hiện rõ nhất trong giai đoạn phát triển bào thai. CHỨC NĂNG CỦA PEPTIDE-C
Peptide-C là một đoạn ngắn của phân tử
proinsulin được sinh tổng hợp cùng lúc với insulin ở tế bào beta của tuyến tụy, nên việc định lượng peptide-C trong huyết tương có thể giúp đánh giá khả năng hoạt động của tế bào beta của tụy nội tiết. • Lượng insulin và peptide-C được sản xuất và bài tiết với lượng như nhau vào máu tuần hoàn qua đường tĩnh mạch cửa. Tuy nhiên do peptide-C được bài tiết qua thận còn insulin được bài tiết chủ yếu qua gan và cũng do thời gian bán hủy của peptide-C khoảng 30 phút còn của insulin là 5 phút nên nồng độ peptide-C trong máu thường cao hơn insulin khoảng 5 lần. KỸ THUẬT ĐỊNH LƯỢNG INSULIN VÀ PEPTIDE-C • Việc định lượng insulin và peptide-C hiện nay thường được tiến hành theo phương pháp hóa phát quang hoặc điện hóa phát quang dựa trên nguyên lý của phản ứng miễn dịch kiểu “sandwich”. Được gọi là “sandwich” là do kết quả thí nghiệm được đánh giá thông qua sự kết hợp giữa 2 kháng thể để phát hiện kháng nguyên cần tìm. Trong hóa chất sẽ có thêm chất phát huỳnh quang, cường độ sẽ tỉ lệ thuận với nồng độ của insulin hoặc peptide-C có trong mẫu thử. • Xét nghiệm được thực hiện trên các hệ thống máy như Elecsys, Cobas, Immulite….Máy phân tích cần chuẩn bị sẵn sàng để tiến hành phân tích mẫu : Máy đã được cài chương trình xét nghiệm insulin và peptide-C, đã được calibration, và chạy chuẩn đạt yêu cầu kiểm tra chất lượng. • Cần lưu ý là nồng độ của insulin và peptide-C sẽ giảm theo thời gian nên phải tiến hành xét nghiệm sau khi lấy mẫu trong vòng 2h đối với insulin và 4h đối với peptide-C. • Trong trường hợp không làm xét nghiệm được ngay thì phải bảo quản ở 2-8 độ C tối đa 24h, hoặc -20 độ C trong 6 tháng đối với insulin và 30 ngày đối với peptide-C ( chỉ được rã đông 1 lần). • Bệnh phẩm là huyết thanh, huyết tương chống đông bằng Li-heparin, K3 EDTA, sodium citrate hoặc nước tiểu 24h (đối với peptide – C). • Bệnh nhân phải nhịn đói từ 8 – 10h tính từ thời điểm lấy máu. • Khoảng tham chiếu: • -Nồng độ insulin trong huyết thanh/huyết tương: 5 -20 UI/ml Ý NGHĨA LÂM SÀNG CỦA INSULIN VÀ PEPTIDE-C • Bởi vì cả insulin và peptide-C đều được tế bào beta của tuyến tụy tiết ra tương đương nhau và cùng được phóng thích vào máu, nên việc xét nghiệm kết hợp cả 2 thông số này có vai trò góp phần giúp cho việc chẩn đoán đúng type của bênh đái tháo đường ( type 1 & type 2), đánh giá tình trạng hoạt động của tuyến tụy cũng như theo dõi quá trình điều trị bằng insulin. Khái quát về 2 type của bệnh đái tháo đường: • ĐTĐ type 1: là bệnh ĐTĐ phụ thuộc insulin. Nguyên nhân là do các kháng thể tự miễn sinh ra phá hủy tế bào beta của đảo tụy dẫn đến thiếu hụt insulin làm cho glucose không chuyển hóa thành glycogen dự trữ dẫn đến tăng glucose trong máu. • ĐTĐ type 2: lè bệnh ĐTĐ không phụ thuộc insulin. Nguyên nhân chủ yếu là do tình trạng đề kháng insulin ở mô đích dẫn đến giảm tác dụng của insulin mặc dù tế bào beta của tuyến tụy vẫn sản xuất insulin. • Khi xét nghiệm định lượng thấy nồng độ insulin rất thấp hoặc không có sẽ nghĩ tới ĐTĐ type 1. Còn nếu thấy nồng độ insulin bình thường hoặc biến động nhẹ ở người béo phì có thể nghĩ tới ĐTĐ type 2. • Tuy nhiên kết quả định lượng insulin bình thường, tăng hay giảm không kết luận được ngay là ĐTĐ type 1 hay type 2 vì nồng độ insulin còn giảm trong bệnh suy tuyến yên, nhiễm toan ceton do ĐTĐ…, và tăng trong hội chứng Cushing, insulinoma, bệnh xơ gan… • Đối với bệnh nhân được chẩn đoán là ĐTĐ type 1 việc định lượng peptide-C huyết tương được chỉ định để đánh giá các chức năng các tế bào beta còn lại. • Đối với ĐTĐ type 2 việc định lượng peptide-C huyết tương được chỉ định để theo dõi tình trạng và khả năng sản xuất insulin nội sinh theo thời gian để xác định khi nào cần tiêm insulin. • Việc định lượng insulin, peptide-C và glucose huyết tương được sử dụng để chẩn đoán phân biệt nguyên nhân hạ glucose huyết: • -Hạ glucose huyết giả tạo do tiếp nhận quá nhiều insulin ngoại sinh. • -Hạ gluocse huyết do sản xuất thừa insulin, do u insulin. Ở bệnh nhân bị u insulin việc định lượng peptide-C theo thời gian giúp đánh giá hiệu quả điều trị và phát hiện sự tái phát của khối u. • Xét nghiệm peptide-C cũng được chỉ định theo thời gian để đánh giá sự thành công của ghép tụy và theo dõi sau khi cắt tụy. • Peptide-C nước tiểu được chỉ định để đánh giá liên tục chức năng của tế bào beta hoặc khi khó lấy máu (ở trẻ em). • Peptide-C nước tiểu cũng được chỉ định để đánh giá chức năng của tụy trong ĐTĐ thai kỳ và ở các bệnh nhân ĐTĐ type 1 không kiểm soát ổn định được glucose huyết. • Nồng độ peptide-C tăng trong: • -Sản xuất insulin nội sinh tăng, gặp trong trường hợp cơ thể đáp ứng với sự tăng glucose máu do ăn nhiều glucose hoặc do kháng insulin. • -Insulinoma. • -Hội chứng Cushing. • -Suy thận. • -Trong thai kỳ • Nồng độ peptide-C giảm trong: • -Đái tháo đường type 1 • -Sau cắt tụy. • -Sử dụng quá nhiều insulin ngoại sinh.