Professional Documents
Culture Documents
Bài Giảng Chương 2
Bài Giảng Chương 2
Bài Giảng Chương 2
LÊ QUANG CƯỜNG
1
MỤC TIÊU HỌC TẬP
1. Giải thích khái niệm tính đầy đủ của một loại
thuế tốt.
2. Phân biệt giữa hiệu ứng thu nhập và hiệu ứng
thay thế.
3. Miêu tả các đặc điểm của một loại thuế thuận
tiện.
4. Sự trái ngược giữa các khái niệm cổ điển và
các khái niệm hiện đại về tính hiệu quả của thuế.
5. Định nghĩa công bằng theo chiều ngang và
công bằng theo chiều dọc.
2
MỤC TIÊU HỌC TẬP
6. Phân biệt giữa các cấu trúc thuế suất lũy
thoái, thuế suất cố định và thuế suất lũy tiến.
3
CHÍNH SÁCH THUẾ
7
TÍNH ĐẦY ĐỦ
Tiêu chuẩn đầu tiên mà qua đó để đánh giá
một loại thuế đó là tính đầy đủ (sufficiency)
của thuế trong chừng mực của người thu
thuế.
Một loại thuế đầy đủ nếu nó tạo ra đủ các
nguồn quỹ để chi trả cho các hàng hóa và
dịch vụ công do Chính phủ cung cấp.
Kết quả của một hệ thống thuế không đầy đủ
là gì? Chính phủ phải tiến hành bù đắp khoản
thâm hụt số thu từ một số nguồn thu khác
như:
- Tài sản quốc gia 8
- Vay nợ
TÍNH ĐẦY ĐỦ
Làm thế nào để gia tăng số thu thuế?
Các quyền đánh thuế có thể nổ lực tăng
số thu thuế ít nhất bằng ba cách.
Cách thứ nhất là khai thác một cơ sở
thuế mới. Ví dụ, cơ quan lập pháp của
một trong bảy bang chưa áp dụng thuế
thu nhập cá nhân có thể ban hành luật
thuế này.
9
TÍNH ĐẦY ĐỦ
Cách thứ hai là tăng mức thuế suất của
một loại thuế hiện hành. Quyền đánh thuế có thể
tăng mức thuế suất thuế thu nhập công ty từ 5%
lên 7%.
Cách thứ ba mở rộng một cơ sở thuế
hiện hành. Quyền đánh thuế với thuế doanh thu
bán lẻ áp dụng cho hàng hóa hữu hình có thể mở
rộng phạm vi tính thuế áp dụng cho các dịch vụ có
chọn lọc dành riêng cho cá nhân, như là dịch vụ
hớt tóc hoặc dịch vụ giặt ủi quần áo.
10
DỰ BÁO TĨNH VÀ DỰ BÁO ĐỘNG
13
DỰ BÁO ĐỘNG
19
HIỆU ỨNG THAY THẾ
Giả thiết rằng bà Hoover làm việc 60 giờ một tuần trong
vai trò một người tư vấn quản trị tự doanh, thu nhập
kiếm được $350.000 mỗi năm. Với mức thuế suất
tương ứng là 20%, thu nhập sau thuế của bà là
$280.000 – nhiều hơn nhu cầu đủ để trang trải cho kiểu
sống sung túc của bà.
Nếu Chính phủ gia tăng mức thuế lên 30%, bà Hoover
sẽ dành ít hơn thời gian và ít nổ lực hơn cho các hoạt
động kiếm tiền. Như một sự phản ứng lại theo trực giác
khi mà giá trị sau thuế của một giờ làm việc tăng thêm
lúc này của bà Hoover lại thấp hơn giá trị sau thuế của
một giờ không làm việc. Hành vi phản ứng này đối với
việc tăng mức thuế suất gọi là hiệu ứng thay thế
(substitution). 20
HIỆU ỨNG THAY THẾ
Dự báo tĩnh
21
HIỆU ỨNG THAY THẾ
Hiệu ứng thay thế
Số thu sau khi tăng thuế suất
(30% x $325.000 cơ sở) $97.500
Số thu trước khi tăng thuế suất
(20% x $350.000 cơ sở) (70.000)
Số thu tăng thêm của bà Hoover $27.500
22
HIỆU ỨNG THU NHẬP
HAY HIỆU ỨNG THAY THẾ
Hiệu ứng thu nhập tác động mạnh mẽ
nhất đối với những người nộp thuế có thu
nhập thấp, những người sẵn sàng với các
tiêu chuẩn để tồn tại của cuộc sống và
không có sự xa hoa trong việc lựa chọn
giữa làm việc hay nghỉ ngơi.
Hiệu ứng thay thế thuế suất tác động
mạnh hơn đến thu nhập sẵn có tăng lên
của một cá nhân và ý nghĩa tài chính của
một đồng đô la tăng thêm bị giảm sút.
23
HIỆU ỨNG THU NHẬP HAY
HIỆU ỨNG THAY THẾ
Theo quan điểm của kinh tế học vĩ mô, những
hành vi phản ứng mâu thuẫn này có những gợi ý
quan trọng với chính sách thuế. Sự suy xét theo
tục lệ gợi ý rằng Chính phủ đang cần nhiều số thu
nên tăng mức thuế suất đối với những cư dân có
mức thu nhập cao nhất. Nhưng nếu mức thuế
suất leo thang quá nhanh, ảnh hưởng của sự thay
đổi thuế suất trở nên lấn át làm cho số thu dự kiến
sẽ không bao giờ đi vào hiện thực khi mà ngày
càng nhiều dân cư không được khuyến khích làm
việc do thu nhập sau thuế nhận được từ công việc
24
30
THUẾ LÀ MỘT CÔNG CỤ CỦA
CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH
Nhà kinh tế học Anh John Maynard Keynes
không đồng tình với quan điểm truyền thống
rằng một loại thuế tốt cần phải trung lập.
Keynes đã tin rằng thị trường tự do là hiệu quả
trong việc tổ chức sản suất và phân phối các
nguồn lực khan hiếm nhưng lại thiếu một cơ cấu
tự thân quy định đầy đủ đối với việc duy trì sự
bền vững kinh tế. Theo Keynes, Chính phủ nên
bảo vệ các công dân và các tổ chức chống lại tính
không bền vững cố hữu của chủ nghĩa tư bản.
31
THUẾ LÀ MỘT CÔNG CỤ CỦA
CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH
Theo lịch sử để lại, tính không bền vững này đã
tạo ra các chu kỳ thất nghiệp cao, sự thay đổi
bất thường về giá cả (lạm phát và thiểu phát) và
phát triển kinh tế bất thường. Ngài Keynes đã
tin rằng các Chính phủ có thể trung hòa các vấn
đề này thông qua chính sách tài chính nhằm xúc
tiến đầy đủ việc làm, ổn định mức độ giá cả và
mức thuế bền vững đối với phát triển kinh tế.
Không phải là cố gắng thiết kế một hệ thống thuế
trung lập mà các Chính phủ nên cân nhắc việc sử
dụng thuế để điều tiết nền kinh tế theo định
hướng mong muốn. 32
THUẾ LÀ MỘT CÔNG CỤ CỦA
CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH
Nếu một nền kinh tế đang phải chịu đựng tình trạng phát
triển chậm và thất nghiệp cao, Chính phủ có thể giảm
thuế để chuyển các nguồn quỹ từ khu vực công sang
thành phần kinh tế tư nhân. Việc cắt giảm thuế có thể
vừa kích thích nhu cầu tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ
của người tiêu dùng vừa gia tăng đầu tư tư nhân. Kết
quả là, nền kinh tế có thể mở rộng và có nhiều việc làm
mới được tạo ra.
Ngược lại, nếu một nền kinh tế phát triển quá nóng đến
nỗi tiền lương và giá cả luôn trong tình trạng tăng giảm
lạm phát liên tục, Chính phủ có thể tăng thuế. Dân cư
sẽ có ít tiền chi tiêu hơn, nhu cầu tiêu dùng và đầu tư
giảm xuống, áp lực tăng lên của tiền lương và giá cả
cũng được giảm bớt.
33
CHI CẤP THUẾ
Những người phản đối lại việc ưu đãi thuế bảo thủ rằng
chúng được giấu quá kỹ trong Luật thuế Liên bang, kết
quả là, chi phí của họ cho Chính phủ dễ dàng nằm ngoài
tầm kiểm soát. Đáp trả lại các nhà phê bình này, Ủy ban
Liên hiệp Quốc hội về thuế ban hành hàng năm khoản
ngân sách cấp thuế qua đó xác định số lượng số thu từ
thuế bị mất đi do từng khoản ưu đãi thuế sơ cấp. Ví dụ,
Chính phủ mất khoản $90 tỷ mỗi năm bởi những cá nhân
có thể giảm trừ lãi tiền vay nợ mua nhà và $13 tỷ khác bởi
họ được giảm trừ thuế bất động sản địa phương cho các
ngôi nhà họ mua. Tổng số thu từ thuế bị mất đi từ chi cấp
thuế đã vượt $850 tỷ hàng năm.
Table 1
Top 10 Federal Government Tax Expenditures
Employer health insurance,
by Estimated 2005 Revenuemortgage
Impactinterest,
(billions
andof $)
retirement plans are key. Revenue
Tax Expenditure Impact
Exclusion of employer contributions for medical insurance $113.0
$16.500
MỨC THUẾ SUẤT BIÊN VÀ
THUẾ SUẤT TRUNG BÌNH
Thuế suất biên (marginal rate) là mức
thuế suất áp dụng cho đồng đô la thu
nhập kế tiếp.
Cá nhân C với $100.000 thu nhập tính
thuế có nghĩa vụ nộp $12.000 tiền thuế.
Nếu cá nhân C kiếm thêm 1 đồng đô
la nữa, đồng đô la này chịu sự tác động
của mức thuế suất 16%.
46
MỨC THUẾ SUẤT BIÊN VÀ THUẾ SUẤT
TRUNG BÌNH
Tuy nhiên, một sự thật là cá nhân C đang
trong bậc thuế biên 16% không có ý nghĩa
là chị sẽ nộp 16% trên thu nhập của chị cho
Chính phủ. $12.000 tiền thuế của chị chia
cho $100.000 thu nhập tính thuế là một
mức thuế suất trung bình chỉ ở mức 12%.
Cũng như thế, cá nhân B có mức thuế suất
biên 10%, nhưng mức thuế suất trung bình
của chị là 7.8% ($3.500 thuế chia cho
$45.000 thu nhập tính thuế).
47
PHÂN PHỐI CÔNG BẰNG
Theo ý thức xã hội, một loại thuế công bằng
nếu nó uốn nắn những bất công đang tồn tại
trong hệ thống tài chính.
Một sự phân phối rất thất thường của cải cá
nhân giữa các chủ hộ, được mô tả giữa hai thái
cực nghèo và sung túc là một sự không công
bằng. Bằng định nghĩa, thuế chiếm đoạt tài sản
của cá nhân để khu vực công sử dụng và họ
chiếm đoạt số tiền lớn hơn từ phía những
người giàu so với những nghèo. Do đó, thuế
trở thành một cỗ máy phân phối lại của cải
trong xã hội.
48
Các mức thuế suất biên và mức thuế suất trung bình
theo cấu trúc mức thuế suất cố định
Thuế suất (%)
20 50 100
49
50
Các câu hỏi và các vấn đề để thảo luận
Trên cơ sở dữ liệu hiện tại, thu nhập ròng mỗi năm là đối
tượng chịu thuế mới có thể lên đến $275 triệu. Tuy nhiên,
chính quyền nên thành lập một cơ quan công quyền mới
có trách nhiệm cưỡng chế và thu thuế thu nhập. Dự đoán
chi phí hàng năm của cơ quan này là $500.000. Quyền
đánh thuế B giáp ranh với bốn quyền đánh thuế khác, tất
cả các cấp chính quyền này đều có thuế doanh thu gộp và
hai trong số chính quyền đó có thu thuế thu nhập công ty.
1. Dựa trên cơ sở một dự báo tĩnh, bao nhiêu nguồn thu từ
thuế tăng lên khi quyền đánh thuế B thực hiện theo mỗi
cách thay đổi?
2. Giả định rằng cơ quan thẩm quyền thuộc quyền đánh
thuế B muốn một dự báo động đối với nguồn thu tăng lên
theo từng sự lựa chọn. Có thêm cơ sở lập luận nào là
quan trọng trong việc đưa ra các dự đoán và tại sao?