CHÍNH QUYỀN (1930-1945) Đề dẫn : Theo Lê nin : Vấn đề cơ bản của mọi cuôc cách mạng là vấn đề chính quyền, vấn đề nhà nước . Một cuộc cách mạng chỉ được coi là thành công khi giai cấp tiến hành cách mạng giành được chính quyền. Đối với Đảng CSVN, để giành được chính quyền trước hết phải có đường lối chính trị đúng, phải vững mạnh về tổ chức, có đội ngũ đảng viên đủ phẩm chất, năng lực để tập hợp và tổ chức quần chúng thực hiện thắng lơi đường lối; có bản lĩnh vững vàng, sẵn sàng chiến đấu, hi sinh. Hơn nữa Đảng còn phải xây dựng được lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang đủ mạnh để giành chính quyền. 2.1. Xây dựng, phát triển đường lối cách mạng. 2.1.1. Luận cương chính trị tháng 10-1930 - Sau khi thống nhất các tổ chức cộng sản trong nước và cử Ban chấp hành Trung ương lâm thời, tháng 10- 1930 Trung ương Đảng đã họp hội nghị đầu tiên tại Hồng Kông (TQ) dưới sự chủ trì của đồng chí Trần Phú. Hội nghị đã quyết định: + Thông qua bản Luận cương chính trị do Trần Phú soạn thảo với những nội dung chủ yếu sau: * Tình hình thế giới và cách mạng Đông dương * Những đặc điểm về tình hình Đông dương * Tính chất và nhiệm vụ cách mạng Đông dương - Xác định mâu thuẫn giai cấp ở Đông Dương ngày càng sâu sắc giữa "một bên là thợ thuyền, dân cày và các phần tử lao khổ; một bên thì địa chủ, phong kiến, tư bản và đế quốc chủ nghĩa". - Phương hướng chiến lược của cách mạng: Xác định lúc đầu là cuộc "Cách mạng tư sản dân quyền" "có tính chất thổ địa và phản đế". "Tư sản dân quyền cách mạng là thời kỳ dự bị để làm xã hội cách mạng" Sau khi cách mạng tư sản dân quyền thắng lợi sẽ bỏ qua thời kỳ tư bản chủ nghĩa tiến thẳng lên CNXH - Nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng tư sản dân quyền là "đánh đổ các di tích phong kiến"; "cách bóc lột tiền tư bổn"; "thực hành thổ địa cách mạng cho triệt để" và "đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập". Hai nhiệm vụ đó quan hệ khăng khít với nhau, song Luận cương nhấn mạnh "Vấn đề thổ địa là cái cốt của cách mạng tư sản dân quyền". - Về lực lượng cách mạng: Xác định giai cấp vô sản và nông dân là hai động lực chính của cách mạng trong đó giai cấp vô sản là giai cấp lãnh đạo cách mạng. Đối với các giai cấp khác, Luận cương cho rằng: Tư sản thương nghiệp thì đứng về phe đế quốc; Tư sản công nghiệp thì đứng về phía quốc gia cải lương và khi cách mạng lên cao sẽ theo đế quốc; còn tiểu tư sản, bộ phận thủ công nghiệp thì có thái độ do dự; bộ phận thương gia thì không tán thành cách mạng, tiểu tư sản trí thức có xu hướng quốc gia chủ nghĩa, chỉ hăng hái cách mạng ở thời kỳ đầu. Theo Luận cương, chỉ có những phần tử lao khổ mới đi theo cách mạng. - Về lãnh đạo cách mạng: Điều cốt yếu cho sự thắng lợi của cách mạng là phải có một Đảng Cộng sản vững mạnh về mọi mặt lãnh đạo. - Về phương pháp cách mạng: Để giành chính quyền cần thiết phải ra sức chuẩn bị cho quần chúng về con đường "võ trang lao động". Đó là một nghệ thuật nên "phải theo khuôn phép nhà binh". - Xác định cách mạng Đông Dương là một bộ phận của cách mạng thế giới và phải đoàn kết gắn bó với cách mạng thế giới, trước hết là giai cấp vô sản Pháp, liên hệ mật thiết với phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa - Hạn chế của Luận cương là chưa nêu rõ mâu thuẫn chủ yếu ở nước ta, quá nhấn mạnh đấu tranh giai cấp, chưa thấy hết tầm quan trọng của vấn đề dân tộc; chưa đánh giá đúng vai trò của các giai cấp khác như tiểu tư sản, trí thức, tư sản dân tộc, địa chủ vừa và nhỏ trong cách mạng dân tộc dân chủ ở nước ta. Do đó không đề ra được chiến lược liên minh dân tộc và giai cấp rộng rãi để tập trung mũi nhọn đấu tranh vào kẻ thù chính lúc này là đế quốc và tay sai. Nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế đó là do nhận thức chưa đầy đủ về thực tiễn cách mạng thuộc địa và chịu ảnh hưởng của tư tưởng ‘‘tả khuynh’’ 2.1.2. Các chủ trương giai đoạn 1930- 1935. - Sau khi ra đời Đảng đã chủ trương mở cuộc đấu tranh mới nhằm đòi quyền lợi cho cho nhân dân và xây dựng phát triển tổ chức Đảng và lực lượng cách mạng. Về tổng thể Đảng chưa chủ trương giành chính quyền lúc này vì chưa có tình thế và thời cơ cách mạng. Tuy nhiên khi Xô viết Nghệ Tĩnh nổ ra và bị thực dân Pháp khủng bố dã man, tháng 9-1930 Ban Thường vụ Trung ương Đảng gửi thông tri cho Xứ ủy Trung kỳ vạch rõ chủ trương bạo động riêng lẻ trong vài địa phương lúc đó là quá sớm vì chưa đủ điều kiện. Trách nhiệm của Đảng là phải tổ chức quần chúng chống khủng bố, giữ vững lực lượng cách - Sau cao trào cách mạng 1930-1931 với đỉnh cao là Xô viết Nghệ Tĩnh, thực dân Pháp tiếp tục tiến hành khủng bố hòng tiêu diệt bằng được Đảng Cộng sản và phong trào cách mạng của nhân dân ta. Mặc dù gặp nhiều khó khăn và tổn thất nhưng những người Cộng sản Việt Nam vẫn không hề nao núng. Với sự giúp đỡ của quốc tế Cộng sản và Đảng anh em, năm 1932 Ban lãnh đạo Trung ương của Đảng do Lê Hồng Phong đứng đầu đã được thành lập và đề ra "Chương trình hành động" nhằm khôi phục lại tổ chức Đảng và phong trào cách mạng Việt Nam. - Đầu năm 1932, Chương trình hành động của Đảng Cộng sản Đông Dương (15-6-1932) do Lê Hồng Phong và một số đồng chí soạn thảo đã vạch ra nhiệm vụ đấu tranh trước mắt để khôi phục hệ thống tổ chức của Đảng và phong trào cách mạng, đặc biệt cần phải “gây dựng một đoàn thể bí mật, có kỷ luật nghiêm ngặt, cứng như sắt, vững như đồng, tức Đảng Cộng sản để hướng đạo quần chúng trên con đường giai cấp chiến đấu” . - Tháng 3- 1933, Hà Huy Tập xuất bản sách ‘‘Sơ thảo lịch sử phong trào cộng sản Đông dương’’, bước đầu tổng kết kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng, trong đó khẳng định công lao, sáng kiến của Nguyễn Ái Quốc. - Năm 1934, Ban chỉ huy ở ngoài của Đảng Cộng sản Đông Dương được thành lập và Lê Hồng Phong được cử là thư ký (Bí thư). Ban chỉ huy ở ngoài đã hoạt động hết sức tích cực để tập hợp, xây dựng các cơ sở Đảng mới trong nước thành một hệ thống, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Cuối năm 1934 đầu 1935 hệ thống tổ chức Đảng đã được khôi phục và từng bước phát triển. Đây là cơ sở để Đảng triệu tập Đại hội lần thứ nhất - Tháng 3-1935, Đại hội lần thứ nhất của Đảng họp ở Ma Cao (T Q) đã khẳng định thành công của cuộc đấu tranh khôi phục lại tổ chức Đảng và phong trào cách mạng, đồng thời chỉ ra những hạn chế: lực lượng của Đảng còn ít và chưa phát triển ở công nghiệp tập trung, hệ thống tổ chức Đảng chưa thật thống nhất, công nhân gia nhập Đảng còn ít... Đại hội đề ra 3 nhiệm vụ cần tập trung thực hiện : 1- Củng cố và phát triển Đảng. 2- Đẩy mạnh cuộc vận động tập hợp quần chúng, 3- Mở rộng tuyên truyền chống đế quốc, chống chiến tranh, ủng hộ Liên Xô và ủng hộ cách mạng Trung Quốc… - Đại hội thông qua Nghị quyết chính trị, Điều lệ Đảng và các nghị quyết về vận động quần chúng và bầu Ban Chấp hành Trung ương mới do Lê Hồng Phong làm Tổng Bí thư. - Tuy nhiên, Đại hội vẫn chưa đề ra được chủ trương chiến lược phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam chưa đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu và tập hợp lực lượng toàn dân tộc. Đảng vẫn cho rằng, “người ta không làm cách mạng phản đế, sau đó mới làm cách mạng điền địa. Cách mạng sẽ chỉ thắng lợi với điều kiện hai cuộc cách mạng ấy gắn bó chặt chẽ với nhau và cùng đi với nhau” . 2.1.3. Giai đoạn 1936 - 1939 . Tình hình thế giới và Việt nam có những biến chuyển: - Chủ nghĩa phát xít lên cầm quyền ở Đức - Ý - Nhật. Nguy cơ chiến tranh thế giới thứ 2 xuất hiện. - Đại hội lần thứ 7 của Quốc tế Cộng sản (7-1935) đã đề ra chủ trương mới nhằm tập trung lực lượng chống kẻ thù nguy hiểm lúc này là chủ nghĩa phát xít, bảo vệ tự do, dân chủ, hoà bình. - Ở Pháp, Chính phủ mới đã ban hành một số chính sách cải cách ở thuộc địa tạo thuận lợi cho hoạt động cho các Đảng phái chính trị ở thuộc địa. - Tại Đông Dương đa số nhân dân có nguyện vọng cấp thiết về dân sinh, dân chủ. - Lê nin chỉ rõ: ‘‘Bản chất, linh hồn sống của C N Mác là phân tích cụ thể một hoàn cảnh cụ thể ’’. Người từng dạy những người cách mạng: Các nhiệm vụ cụ thể phải đặt trong điều kiện cụ thể. Những giáo huấn của Lê nin có ý nghĩa to lớn trong thực tiễn hoạt động của các Đảng cộng sản và những người cách mạng thế giới . - Thấm nhuần lời dạy của Lê nin và căn cứ vào thực tiễn trong và ngoài nước lúc này, Đảng ta đã có những đột phá trong nhận thức và hành động thực tiễn, kịp thời đề ra nhiều chủ trương mới đúng đắn, sáng tạo đưa cách mạng tiếp tục tiến lên - Điều này thể hiện qua các văn kiện chủ yếu sau: + Nghị quyết Hội nghị Trung ương tháng 7 năm 1936 + Văn kiện "chung quanh vấn đề chiến sách mới" (tháng 10-1936) + Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng tháng 3- 1937; tháng 9-1937; tháng 3-1938 Nhận thức mới của Đảng được thể hiện rõ ở những vấn đề chủ yếu sau: Thứ nhất, đổi mới nhận thức nhằm “sửa chữa những sai lầm” trước đó và “định lại chính sách mới” dựa theo những nghị quyết của Đại hội lần thứ VII Quốc tế Cộng sản. (NQTƯ tháng 7- 1936) Thứ hai, xác định mối quan hệ giữa nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến . Đảng ta cho rằng ‘‘ ‘‘không thể nói rằng: muốn đánh đổ đế quốc cần phải phát triển cách mạng điền địa, muốn giải quyết vấn đề điền địa thì cần phải đánh đổ đế quốc. Lý thuyết ấy có chỗ không xác đáng” và “Cuộc dân tộc giải phóng không nhất thiết phải kết chặt với cuộc cách mạng điền địa’’; ‘‘nếu phát triển cuộc tranh đấu chia đất mà ngăn trở cuộc tranh đấu phản đế thì phải lựa chọn vấn đề nào quan trọng hơn mà giải quyết trước’’. ‘‘ Nghĩa là chọn địch nhân chính, nguy hiểm nhất, để tập trung lực lượng của một dân tộc mà đánh cho được toàn thắng”.(Chung quanh vấn đề chiến sách mới tháng 10 + Với văn kiện này, Trung ương Đảng đã nêu cao tinh thần đấu tranh, thẳng thắn phê phán quan điểm chưa đúng và bước đầu khắc phục hạn chế trong Luận cương chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dương. Đó cũng là nhận thức mới, phù hợp với tinh thần trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng và lý luận cách mạng giải phóng dân tộc của Nguyễn Ái Quốc. Thứ ba, mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc để khắc phục tư tưởng "tả khuynh", cô độc. Thành lập mặt trận nhân dân phản đế (đến tháng 3-1938 đổi thành Mặt trận dân chủ Đông Dương) nhằm tập hợp tất cả các Đảng phái, các tầng lớp nhân dân đấu tranh đòi tự do, dân chủ, cơm áo, hoà bình, chống bọn phản động thuộc địa và tay sai. Thứ tư: giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa mục tiêu và nhiệm vụ trước mắt với mục tiêu và nhiệm vụ lâu dài. Đảng cho rằng chống đế quốc và phong kiến để giành độc lập dân tộc, dân chủ, ruộng đất là mục tiêu không bao giờ thay đổi song điều kiện cụ thể lúc này đây chưa phải là mục tiêu trực tiếp trước mắt. Mục tiêu và nhiệm vụ cụ thể lúc này là chống bọn phản động thuộc địa và tay sai, đòi các quyền dân chủ cơ bản, đòi tự do, cơm áo, chống chiến tranh đế quốc, bảo vệ hoà bình Thứ năm, kết hợp và thực hiện nhiều hình thức đấu tranh và tập hợp quần chúng. Ngoài hình thức bí mật bất hợp pháp, Đảng chủ trương đẩy mạnh hình thức đấu tranh công khai, hợp pháp và nửa hợp pháp, để xây dựng và phát triển lực lượng cách mạng. Nhờ vậy Đảng đã tập hợp, rèn luyện tổ chức được một lực lượng cách mạng khá đông đảo. Đây là một thành công lớn của Đảng trong quá trình lãnh đạo công cuộc đấu tranh giành chính quyền . + Thắng lợi của cao trào dân chủ 1936-1939 đã chứng minh cho sự đúng đắn của việc đổi mới tư duy của Đảng, trong việc xây dựng thực hiện đường lối cách mạng ở một giai đoạn lịch sử đầy biến động. 2.1.4. Giai đoạn 1939 - 1945 - Lý luận về mối quan hệ giữa chiến tranh và cách mạng của CN Mác- Lê nin chỉ rõ : Chiến tranh đế quốc với nhau sẽ làm suy yếu kẻ thù của cách mạng và thúc đẩy nhân dân đứng lên đấu tranh đánh đổ bọn thống trị và áp bức ; tình thế và thời cơ cách mạng sẽ xuất hiện. - Sau khi chiến tranh thế giới thứ 2 nổ ra ( 1- 9- 1939), với tầm nhìn chiến lược đúng đắn, Đảng đã nhận đinh: Nếu như chiến tranh thế giới lần thứ nhất đẻ ra một Liên xô thì chiến tranh lần này đẻ ra nhiều Liên xô, ta cần tích cực chuẩn bị về mọi mặt, đón đợi thời cơ khởi nghĩa giành chính quyên. - Trên cơ sở nhận thức sáng suốt đó, Đảng đã chuyển hướng chỉ đạo chiến lược đưa nhiệm vụ chống đế quốc, giải phóng dân tộc lên hàng đầu. - Chủ trương này của Đảng được thể hiện trong những văn kiện chủ yếu sau: + Thông cáo của Đảng ngày 29-9-1939 + Nghị quyết Hội nghị TW lần thứ 6 (11-1939) + Nghị quyết Hội nghị cán bộ Đảng (11-1940) + Nghị quyết Trung ương lần thứ 8 (5-1941) Các văn kiện này đã giải quyết đúng đắn những vấn đề cơ bản sau: Thứ nhất, xác định đúng mâu thuẫn chủ yếu và gay gắt của xã hội Việt nam lúc này là giữa nhân dân ta với bọn đế quốc Nhật – Pháp phải tập trung lực lượng đánh đổ chúng, giành chính quyền. Thứ hai, về mối quan hệ dân tộc - giai cấp - Đây là vấn đề đặc biệt quan trọng liên quan đến sự thành bại của cách mạng. Vấn đề này nếu được giải quyết đúng đắn, khoa học thì sẽ tạo ra động lực mạnh mẽ thúc đẩy cách mạng tiến lên không ngừng, còn giải quyết không đúng sẽ gây tác hại to lớn cho phong trào cách mạng nước nhà. - Với kinh nghiệm thu được qua thực tiễn lãnh đạo cách mạng, Đảng đã tự mình vượt lên và có nhận thức mới rất đúng đắn : "Trong lúc này... nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng thì chẳng những toàn thể quốc gia, dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được" Thứ ba, mối quan hệ dân tộc - dân chủ ( giữa nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến). - Vấn đề này Đảng ta chỉ rõ: Đây là 2 nhiệm vụ chủ yếu có quan hệ mật thiết với nhau trong cách mạng dân tộc, dân chủ. Tuy nhiên trong điều kiện chiến tranh cần phải tập trung vào nhiệm vụ chống đế quốc giải phóng dân tộc. Đảng chỉ rõ: "Cuộc cách mạng Đông Dương hiện tại, không phải là cuộc cách mạng tư sản dân quyền, cuộc cách mạng phải giải quyết hai vấn đề: phản đế và điền địa nữa, mà là cuộc cách mạng chỉ giải quyết một vấn đề cần kíp dân tộc giải phóng, vậy thì cách mạng Đông Dương trong giai đoạn hiện tại là cuộc cách mạng dân tộc giải phóng" ‘‘ Chưa chủ trương làm cách mạng tư sản dân quyền mà chủ trương làm cách mạng giải phóng dân tộc’’. “Đứng trên lập trường giải phóng dân tộc, lấy quyền lợi dân tộc làm tối cao, tất cả mọi vấn đề của cuộc cách mệnh, cả vấn đề điền địa cũng phải nhằm vào cái mục đích ấy mà giải quyết” . Khẩu hiệu “cách mạng ruộng đất” phải tạm gác và thay bằng các khẩu hiệu chống địa tô cao, chống cho vay lãi nặng, tịch thu ruộng đất của đế quốc và địa chủ phản bội quyền lợi dân tộc chia cho dân cày, chia lại ruộng đất công... Như vậy trong khi giải quyết mối quan hệ dân tộc – dân chủ lúc này Đảng đã đặt nhiệm vụ dân tộc ( chống đế quốc) lên hàng đầu. Thứ tư , quan hệ dân tộc - quốc tế - Đảng chỉ rõ: chiến tranh lần này sẽ tạo điều kiện để cách mạng nhiều nước thành công, Đảng và nhân dân ta cần phải tranh thủ mọi sự giúp đỡ quốc tế (với Mỹ) và tích cực, chuẩn bị mọi mặt để khi tình hình quốc tế thuận lợi kịp thời khởi nghĩa giành chính quyền với tinh thần: muốn người giúp cho trước hết mình phải tự giúp mình. Phân tích tình hình lúc này lãnh tụ Hồ Chí Minh dự báo năm ‘‘bốn lăm cách mạng thành công’’ - Đảng chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc trong từng nước Đông Dương, thi hành chính sách ‘‘dân tộc tự quyết ’’ của Lê nin và thành lập ở mỗi nước Đông dương một Mặt trận riêng trực tiếp lãnh đạo cách mạng mỗi nước. Thứ năm, chủ trương ra sức xây dựng lực lượng để chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền, coi khởi nghĩa giành chính quyền là nhiệm vụ trung tâm. - Chủ trương xây dựng, củng cố, phát triển mặt trận dân tộc thống nhất để tập hợp lực lượng chống đế quốc và tay sai (thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế , Mặt trận Việt minh...) - Nêu lên phương pháp giành chính quyền: khởi nghĩa từng phần, giành chính quyền từng địa phương, tiến lên tổng khởi nghĩa giành chính chính quyền trên toàn quốc, bằng lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu trên tinh thần: đem sức ta mà giải phóng cho ta; dù phải hy sinh đến đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập. . Thứ sáu, chủ trương sau khi cách mạng thành công sẽ thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa theo tinh thần tân dân chủ, một hình thức nhà nước “của chung cả toàn thể dân tộc” ; ‘‘chính phủ dân chủ cộng hòa” . Như vậy, từ Cương lĩnh chính trị đầu tiên (3- 2- 1930) đến Luận cương chính trị tháng 10 -1930 và các Hội nghị Trung ương trong các giai đoạn 1930 – 1935; 1936 – 1939; 1939 – 1945 nhất là Hội nghị Trung ương 8 ( tháng 5 - 1941) do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chủ trì, đường lối đấu tranh của Đảng được xây dựng, bổ sung, hoàn chỉnh, góp phần quyết định vào thắng lợi của công cuộc giành chính quyền, làm nên thành 2.2. Tổ chức thực hiện đường lối cách mạng. 2.2.1. Xây dựng, phát triển lực lượng cách mạng. 2.2.1.1. Giai đoạn 1930 – 1935. - Hội nghị Hợp nhất thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam ( 3- 2-1930) do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chủ trì đã thành công, Đảng Cộng sản Việt nam ra đời và chính thức nắm giữ ngọn cờ lãnh đạo cách mạng Việt Nam, tạo ra bước ngoặt của cách mạng nước ta. Đây là tổ chức chính trị quan trọng nhất của giai cấp công nhân và dân tộc Việt nam trong lịch sử hiện đại. - Ban chấp hành lâm thời được cử ra gồm Trịnh Đình Cửu, Nguyễn Đức Cảnh, Châu Văn Liêm, Nguyễn Thiệu... - Đến ngày 24-2-1930, việc thống nhất các tổ chức cộng sản thành một chính đảng duy nhất được hoàn thành với việc Đông Dương Cộng sản liên đoàn gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam. -Từ ngày 14 đến 31-10-1930, Ban chấp hành Trung ương họp hội nghị lần thứ nhất tại Hương Cảng (Trung Quốc), quyết định “bỏ tên Việt Nam cộng sản Đảng mà lấy tên Đông Dương cộng sản Đảng”. - Bầu Ban chấp hành Trung ương chính thức do Trần Phú làm Tổng bí thư -Sau khi cao trào cách mạng 1930- 1931 nổ ra và chính quyền theo kiểu Xô viết được thành lập ở một số nơi trong tỉnh Nghệ an và Hà tĩnh , TD Pháp đã tiến hành đàn áp, khủng bố dã man Đảng và quần chúng, cách mạng Việt Nam bị tổn thất nặng nề hàng nghìn chiến sĩ cộng sản, hàng vạn người yêu nước bị bắt, bị giết hoặc bị tù đày. Toàn bộ Ban chấp hành Trung ương Đảng bị bắt, không còn lại một uỷ viên nào . “Các tổ chức của Đảng và của quần chúng tan rã hầu hết” . - Ngày 6- 9 1931, đồng chí Tổng bí thư Trần Phú hy sinh để lại lời dặn:‘ Hãy giữ vững chí khí chiến đấu’’ - Cuộc đấu tranh chống khủng bố, bảo vệ Đảng và phong trào cách mạng, bảo vệ lý tưởng, giữ vững khí tiết, nâng cao nhận thức lý luận được tiến hành mạnh mẽ và có thu được nhiều kết quả tích cực. - Ngày 18- 11- 1930, Thường vụ Trung ương Đảng ban hanh Chỉ thị về vấn đề thành lập Hội phản đế Đồng minh, để tập hợp, đoàn kết các giai cấp, tầng lớp, dân tộc nhằm xây dựng và phát triển lực lương cách mạng - Tháng 1-1931, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Thông cáo về việc đế quốc Pháp buộc dân cày ra đầu thú, vạch rõ thủ đoạn của kẻ thù và đề ra các biện pháp hướng dẫn quần chúng đấu tranh. - Tháng 5-1931, Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị nghiêm khắc phê phán chủ trương sai lầm về thanh Đảng của xứ ủy Trung kỳ và vạch ra phương hướng xây dựng Đảng vững mạnh, tránh tư tưởng tả - Các cuộc đấu tranh của các đảng viên và quần chúng chống chế độ tù đày hà khắc, tàn ác diễn ra quyết liệt. Nhiều Chi bộ Đảng trong nhà tù tổ chức huấn luyện, bồi dưỡng lý luận Mác – Lê nin, đường lối chính trị, kinh nghiệm vận động cách mạng; tổ chức học văn hóa, ngoại ngữ, xuất bản các báo bí mật... - Đầu năm 1932, theo chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, Lê Hồng Phong cùng một số đảng viên tổ chức ra Ban lãnh đạo Trung ương, công bố Chương trình hành động của Đảng Cộng sản Đông Dương, và các chương trình hành động của Công hội, Nông hội, Thanh niên cộng sản đoàn… Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng bước đầu được khôi phục. - Đầu năm 1934, theo sự chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản, Ban Chỉ huy ở ngoài của Đảng cộng sản Đông Dương được thành lập, hoạt động như một ban chấp hành trung ương lâm thời. - Đầu năm 1935, hệ thống tổ chức của Đảng được phục hồi. Đó là “ cơ sở để tiến tới Đại hội lần thứ nhất của Đảng. - Tháng 3-1935, Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng họp ở Ma Cao (Trung Quốc. Đại hội lần thứ nhất đánh dấu sự phục hồi hệ thống tổ chức của Đảng và phong trào cách mạng quần chúng, tạo điều kiện để bước vào một cao trào cách mạng mới. - Đại hội bầu Lê Hồng Phong làm Tổng bí thư. 2.2.1.2. Giai đoạn 1936 – 1939 - Tháng 7-1936, Ban chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị tại Thượng Hải (Trung Quốc), “sửa chữa những sai lầm” trước đó và “định lại chính sách mới” dựa theo những nghị quyết của Đại hội lần thứ VII Quốc tế Cộng sản . Hội nghị cử Hà Huy Tập làm Tổng bí thư ( từ tháng 8 - 1936 đến tháng 3 - 1938 ) - Tiếp theo BCH Trung ương họp các Hội nghị tháng 3 - 1937; tháng 9 - 1937; tháng 3- 1938 để chuyển mạnh hơn nữa về phương pháp tổ chức và hoạt động nhằm tập hợp quần chúng, xây dựng, phát triẻn Đảng và lực lượng cách mạng. Tại Hội nghị TƯ tháng 3- 1938 quyết định lập mặt trận Dân chủ Đông dương. - Tháng 3 – 1938 Nguyễn Văn Cừ được cử làm Tổng bí thư ( 1938 – 1940 ) và đầu năm 1939 xuất bản cuốn sách Tự chỉ trích ( Tự phê bình) để chỉ ra những sai lầm, khuyết điểm của Đảng và nêu lên những bài học trong lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng. - Qua cuộc vận động Dân chủ, đội quân chính trị quần chúng gồm hàng triệu người được tập hợp, giác ngộ và rèn luyện. Uy tín và ảnh hưởng của Đảng được mở rộng. Tổ chức Đảng được củng cố và phát triển. Đến tháng 4-1938, Đảng có 1.597 đảng viên hoạt động bí mật và hơn 200 đảng viên hoạt động công khai. Số hội viên trong các tổ chức quần chúng công nhân, nông dân, phụ nữ, học sinh, cứu tế là 35.009 2.2.1.3. Giai đoạn 1939 – 1945. - Ngày 1- 9 – 1939, chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ ảnh hưởng sâu sắc đến thế giới và Việt Nam. Ngay khi Chiến tranh thế giới thứ hai mới bùng nổ, Đảng kịp thời rút vào hoạt động bí mật, chuyển trọng tâm công tác về nông thôn, đồng thời vẫn chú trọng các đô thị. - Ngày 29 -9-1939, Trung ương Đảng thông báo chỉ rõ: “Hoàn cảnh Đông Dương sẽ tiến bước đến vấn đề dân tộc giải phóng”, định hướng cho toàn Đảng, toàn toàn dân bước vào giai đoạn đấu tranh mới rất quyết liệt để giành chính quyền bởi Đảng ta hiểu sâu sắc rằng: ‘‘ bằng cải cách không thể nào thay đổi một cách căn bản trật tự xã hội cũ’’. - Tháng 11-1939 Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 6 tại Bà Điểm đã xác định: “Bước đường sinh tồn của các dân tộc Đông Dương không có con đường nào khác hơn là con đường đánh đổ đế quốc Pháp, chống tất cả ách ngoại xâm vô luận da trắng hay da vàng để giành lấy giải phóng độc lập”. - Ngày 17- 1- 1940 Tổng bí thư Nguyễn Văn Cừ bị bắt. Tháng 11 - 1939 Hội nghị cán bộ Trung ương họp và cử Trường Chinh làm quyền Tổng bí thư. Tại Hội nghị này Trung ương Đảng vẫn còn trăn trở, chưa thật dứt khoát với chủ trương đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu được đề ra tại Hội nghị tháng 11- 1939. - Tháng 5-1941, sau khi về nước Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung ương và chỉ rõ: “Vấn đề chính là nhận định cuộc cách mạng trước mắt của Việt Nam là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, lập Mặt trận Việt Minh, khẩu hiệu chính là: Đoàn kết toàn dân, chống Nhật, chống Pháp, tranh lại độc lập; hoãn cách mạng ruộng đất” . - Bầu Trường Chinh chính thức làm Tổng bí thư - Hội nghị đã hoàn chỉnh chủ trương chiến lược được đề ra từ Hội nghị tháng 11-1939, trở thành ngọn cờ dẫn đường cho toàn dân Việt Nam đẩy mạnh công cuộc chuẩn bị lực lượng, tiến lên trong sự nghiệp đánh Pháp, đuổi Nhật, giành độc lập, tự do. - Ngày 26-8-1941, thực dân Pháp xử bắn Nguyễn Văn Cừ, Phan Đăng Lưu, Hà Huy Tập, Võ Văn Tần, Nguyễn Thị Minh Khai tại Hóc Môn, Gia định. Lê Hồng Phong hy sinh trong nhà tù Côn Đảo. Tháng 8- 1942, Nguyễn Ái Quốc trên đường đi công tác ở Trung Quốc cũng bị quân Trung Hoa dân quốc bắt giữ hơn một năm (từ tháng 8-1942 đến tháng 9-1943). - Tháng 2-1943, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp ở Võng La (Đông Anh, Phúc Yên), đề ra những biện pháp cụ thể nhằm phát triển phong trào quần chúng rộng rãi và đều khắp nhằm chuẩn bị điều kiện cho cuộc khởi nghĩa trong tương lai có thể nổ ra ở những trung tâm đầu não của quân thù - Đảng tích cực chăm lo xây dựng Đảng và củng cố tổ chức, mở nhiều lớp huấn luyện ngắn ngày, đào tạo cán bộ . Nhiều cán bộ, đảng viên trong các nhà tù vượt ngục về địa phương tham gia lãnh đạo phong trào. - Tháng 12-1941, Trung ương ra thông cáo Cuộc chiến tranh Thái Bình Dương và trách nhiệm cần kíp của Đảng, chỉ rõ những việc các đảng bộ địa phương phải làm chuẩn bị cho khởi nghĩa giành chính quyền. - Ngày 12 - 3- 1945 Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta, xác định phát xít Nhật là kẻ thù chủ yếu của nhân dân ta và phát động cao trào kháng Nhật cứu nước - Ngày 15-5-1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ tại Hiệp Hoà (Bắc Giang). Hội nghị chủ trương thống nhất các lực lượng vũ trang thành Việt Nam giải phóng quân, phát triển lực lượng bán vũ trang và xây dựng bảy chiến khu trong cả nước. - Tháng 5-1945, Hồ Chí Minh về Tân Trào (Tuyên Quang), chỉ thị gấp rút chuẩn bị đại hội quốc dân, thành lập “khu giải phóng”. Ngày 4-6-1945, khu giải phóng chính thức được thành lập gồm hầu hết các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Hà Giang và một số vùng lân cận. - Bước vào tháng 8 – 1945 tình thế cách mạng đã xuất hiện, ta đã làm chủ ở nhiều vùng rộng lớn, các tầng lớp nhân dân đã sục sôi ý chí giành độc lập, Đảng đã chuẩn bị sẵn sàng khởi nghĩa giành chính quyền. Ngày 15-8-1945 Nhật đầu hàng Đồng minh. - Ngày 13-8-1945, Trung ương Đảng thành lập Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc và 23 giờ cùng ngày, Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc ban bố “Quân lệnh số 1”, phát đi lệnh tổng khởi nghĩa trong toàn quốc. - Ngày 14 và 15-8-1945 Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào, quyết định phát động toàn dân nổi dậy tổng khởi nghĩa giành chính quyền từ tay phát xít Nhật trước khi quân Đồng minh vào nước ta. - Ngày 16-8-1945, Đại hội quốc dân họp tại Tân Trào (Tuyên Quang). Về dự đại hội có khoảng 60 đại biểu. Đại hội tán thành quyết định tổng khởi nghĩa của Đảng, thông qua 10 chính sách lớn của Việt Minh, lập Ủy ban giải phóng dân tộc Việt Nam do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. - Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta nhất tề vùng dậy với ý chí dù hy sinh đến đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng kiên quyết giành cho được độc lập. Ngày 19- 8 – 1945 ta giành thắng lợi ở Hà nội; 23- 8 ở Huế và 25- 8 ở Sài gòn, kết thúc thắng lợi cuộc đấu tranh đầy gian khổ và hy sinh, đưa Đảng ta trở thành Đảng cầm quyền sớm nhất ở Đông Á, 2.2. 2. Tổ chức các phong trào quần chúng. 2.2.2.1. Phong trào cách mạng 1930 – 1935. - Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với hệ thống tổ chức thống nhất và Cương lĩnh chính trị đúng đắn, nắm quyền lãnh đạo duy nhất đối với cách mạng Việt Nam đã “lãnh đạo ngay một cuộc đấu tranh kịch liệt chống thực dân Pháp” - Từ tháng 1 đến tháng 4-1930, bãi công của công nhân nổ ra liên tiếp ở nhà máy xi măng Hải Phòng, hãng dầu Nhà Bè (Sài Gòn), các đồn điền Phú Riềng, Dầu Tiếng, nhà máy dệt Nam Định, nhà máy diêm và nhà máy cưa Bến Thủy - Từ tháng 5-1930, phong trào phát triển thành cao trào. Riêng trong tháng 5-1930 đã nổ ra 16 cuộc bãi công của công nhân, 34 cuộc biểu tình của nông dân và 4 cuộc đấu tranh của các tầng lớp nhân dân thành thị. Từ tháng 6 đến tháng 8-1930 đã nổ ra 121 cuộc đấu tranh, nổi bật nhất là cuộc tổng bãi công của công nhân khu Bến Thủy-Vinh (8-1930), đánh dấu “một thời kỳ mới, thời kỳ đấu tranh kịch liệt đã đến” . - Phong trào đấu tranh của nông dân cũng diễn ra ở nhiều địa phương như Hà Nam, Thái Bình, Nghệ An, Hà Tĩnh… Truyền đơn, cờ đỏ búa liềm xuất hiện trên các đường phố Hà Nội và nhiều địa phương. - Ở vùng nông thôn hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh, nổ ra nhiều cuộc biểu tình lớn của nông dân với những hình thức ngày càng quyết liệt. Cuộc biểu tình của nông dân Hưng Nguyên, ngày 12-9-1930, bị máy bay Pháp ném bom giết chết 171 người. Như lửa đổ thêm dầu, phong trào cách mạng bùng lên dữ dội. - Trước sức mạnh của quần chúng, bộ máy chính quyền của đế quốc và tay sai ở nhiều nơi tan rã. Các tổ chức đảng lãnh đạo ban chấp hành nông hội ở thôn, xã đứng ra quản lý mọi mặt đời sống xã hội ở nông thôn, làm chức năng, nhiệm vụ một chính quyền cách mạng dưới hình thức các uỷ ban tự quản theo kiểu Xô viết. - Từ cuối năm 1930, Thực dân Pháp tập trung lực lượng đàn áp. Hàng nghìn chiến sĩ cộng sản, hàng vạn người yêu nước bị bắt, bị giết hoặc bị tù đày. “Các tổ chức của Đảng và của quần chúng tan rã hầu hết” . - Tuy bị đế quốc và tay sai dìm trong biển máu, nhưng cao trào cách mạng năm 1930 là bước thắng lợi đầu tiên có ý nghĩa quyết định đến tiến trình phát triển về sau của cách mạng Việt Nam. Nó đã “khẳng định trong thực tế quyền lãnh đạo và năng lực lãnh đạo cách mạng của giai cấp vô sản mà đại biểu là Đảng ta; Đó là bước thắng lợi đầu tiên có ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ tiến trình phát triển về sau của cách mạng ’’ . - Cao trào cũng để lại cho Đảng những kinh nghiệm quý báu “về kết hợp hai nhiệm vụ chiến lược phản đế và phản phong kiến, kết hợp phong trào đấu tranh của công nhân với phong trào đấu tranh của nông dân, thực hiện liên minh công nông dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân; kết hợp phong trào cách mạng ở nông thôn với phong trào cách mạng ở thành thị, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang v.v…” . - Phong trào đã rèn luyện, sàng lọc, đào tạo được một lực lượng quần chúng kiên trung, một đội ngũ cán bộ, Đảng viên kiên cường, hết sức trung thành với Đảng, gắn bó máu thịt với nhân dân. Đây là nhân tố cơ bản để Đảng thực hiện thành công việc khôi phục tổ chức 2.2.2.2. Phong trào Dân chủ 1936- 1939 - Nắm vững tình hình trong và ngoài nước lúc này, Đảng đã phát động phong trào đấu tranh mạnh mẽ đòi tự do, dân chủ, cơm áo, hòa bình nhằm gây ảnh hưởng của Đảng trong quần chúng, tập hợp và xây dựng lực lượng cách mạng. Đó là phong trào Dân chủ. - Mở đầu bằng cuộc vận động lập “Ủy ban trù bị Đông Dương đại hội” nhằm thu thập nguyện vọng quần chúng, tiến tới triệu tập Đại hội đại biểu nhân dân Đông Dương. Hưởng ứng chủ trương của Đảng, quần chúng sôi nổi tổ chức các cuộc mít tinh, hội họp để tập hợp “dân nguyện”, lập Ủy ban hành động. . Riêng ở Nam Kỳ có 600 ủy ban hành động. - Đầu năm 1937, nhân dịp phái viên của chính phủ Pháp là Gôđa (Godard) đi kinh lý Đông Dương và Brêviê (Brévié) sang nhận chức toàn quyền Đông Dương, Đảng vận động hai cuộc biểu dương lực lượng quần chúng dưới danh nghĩa “đón rước”, mít tinh, biểu tình, đưa đơn “dân nguyện”. - Các báo của Đảng, Mặt trận Dân chủ Đông Dương ra đời. Nhiều sách chính trị được xuất bản để giới thiệu chủ nghĩa Mác-Lênin và chính sách mới của Đảng. Cuốn Vấn đề dân cày của Qua Ninh (Trường Chinh) và Vân Đình (Võ Nguyên Giáp) tố cáo tội ác của đế quốc và phong kiến đối với nông dân và làm rõ vai trò quan trọng của nông dân trong cách mạng. - Tháng 7- 1936 Đảng quyết định thành lập Mặt trận nhân dân phản đế ( đến tháng 3 – 1938 đổi tên thành Mặt trận Dân chủ) để tập hợp rộng rãi mọi lực lượng yêu nước và dân chủ đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ. - Theo sáng kiến của Đảng, Hội truyền bá quốc ngữ ra đời. Từ cuối năm 1937 phong trào truyền bá quốc ngữ phát triển mạnh. - Các hình thức tổ chức quần chúng phát triển rộng rãi, bao gồm các hội tương tế, hội ái hữu. Trong những năm 1937-1938, Mặt trận Dân chủ còn tổ chức các cuộc vận động tranh cử vào các Viện dân biểu Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Hội đồng quản hạt Nam Kỳ, Hội đồng kinh tế lý tài Đông Dương. - Qua cuộc vận động Dân chủ, đội quân chính trị quần chúng gồm hàng triệu người được tập hợp, giác ngộ và rèn luyện. Uy tín và ảnh hưởng của Đảng được mở rộng. Tổ chức Đảng được củng cố và phát triển. Đến tháng 4-1938, Đảng có 1.597 đảng viên hoạt động bí mật và hơn 200 đảng viên hoạt động công khai. Số hội viên trong các tổ chức quần chúng 35.009 người . - Đảng tích lũy thêm nhiều kinh nghiệm mới. Đó là kinh nghiệm về chỉ đạo chiến lược: giải quyết mối quan hệ giữa mục tiêu chiến lược và mục tiêu trước mắt; về xây dựng một mặt trận thống nhất rộng rãi phù hợp với yêu cầu của nhiệm vụ chính trị; về kết hợp các hình thức tổ chức và đấu tranh; về phân hóa và cô lập cao độ kẻ thù nguy hiểm nhất Đặc biệt thực tiễn phong trào chỉ ra rằng: “Việc gì đúng với nguyện vọng nhân dân thì được quần chúng nhân dân ủng hộ và hăng hái đấu tranh, và như vậy mới thật là một phong trào quần chúng” . - Phong trào Dân chủ 1936-1939 đã làm cho trận địa và lực lượng cách mạng được mở rộng ở cả nông thôn và thành thị, thực sự là một bước chuẩn bị hết sức quan trọng cho thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám sau này. 2.2.2.3. Phong trào chống Pháp - Nhật, cứu quốc. - Ngày 27-9-1940, khi quân Pháp ở Lạng Sơn bị Nhật tiến đánh phải rút chạy đảng bộ Bắc Sơn đã lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa, làm chủ châu lỵ Bắc Sơn. Đội du kích Bắc Sơn được thành lập. - Ở Nam kỳ, phong trào cách mạng của quần chúng lan rộng ở nhiều nơi. Xứ ủy Nam kỳ đã đề ra kế hoạch gấp rút khởi nghĩa vũ trang và 23- 11-1940 khởi nghĩa đã nổ ra quyết liệt, chính quyền cách mạng được thành lập ở một số địa phương. - Ngày 13-1-1941, cuộc binh biến ở đồn Chợ Rạng (huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An) do Đội Cung chỉ huy cũng đã nổ ra và đã làm chủ đồn . - Ngày 25-10-1941, Việt Minh công bố Tuyên ngôn, nêu rõ: “Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh) ra đời”. Chương trình Việt Minh đáp ứng nguyện vọng cứu nước của mọi giới đồng bào, nên phong trào Việt Minh phát triển rất mạnh. - Nhiều tờ báo được xuất bản : Giải phóng, Cờ giải phóng, Chặt xiềng, Cứu quốc, Việt Nam độc lập, Bãi Sậy, Đuổi giặc nước, Tiền phong, Kèn gọi lính, Quân giải phóng, Kháng địch, Độc lập... - Năm 1943, Đảng công bố bản Đề cương văn hóa Việt Nam, xác định văn hóa cũng là một trận địa cách mạng, chủ trương xây dựng một nền văn hóa mới theo ba nguyên tắc: dân tộc, khoa học và đại chúng. - Ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, đầu năm 1945 đã xảy ra nạn đói nghiêm trọng. Đảng đã phát động phong trào “phá kho thóc của Nhật, giải quyết nạn đói”. Tại nhiều địa phương, quần chúng tự vũ trang, xung đột với binh lính và chính quyền Nhật, biến thành những cuộc khởi nghĩa từng phần, giành quyền làm chủ. Bộ máy chính quyền Nhật nhiều nơi bị tê liệt. - Cùng với việc đẩy mạnh xây dựng lực lượng chính trị, Đảng chú trọng chuẩn bị lực lượng vũ trang và căn cứ địa cách mạng. - Đội du kích Bắc Sơn được duy trì và phát triển thành Cứu quốc quân. - Ngày 22-12-1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân do Võ Nguyên Giáp tổ chức ra đời ở Cao Bằng. Ngày 15-5-1945, hai tổ chức này hợp nhất thành Việt Nam giải phóng quân. Các lực lượng bán vũ trang cũng được phát triển và bảy chiến khu được xây dựng trong cả nước. - Theo chỉ đạo của Hồ Chí Minh, ngày 4-6-1945, khu giải phóng gồm hầu hết các tỉnh Cao - Bắc - Lạng – Hà – Tuyên - Thái và một số vùng lân cận chính thức được thành lập và trở thành căn cứ địa của cả nước . Ủy ban lâm thời khu giải phóng được thành lập và thi hành các chính sách của Việt Minh. - Chiến tranh du kích cục bộ và khởi nghĩa từng phần nổ ra ở vùng thượng du và trung du Bắc kỳ. Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân và Cứu quốc quân phối hợp với lực lượng chính trị giải phóng hàng loạt xã, châu, huyện thuộc các tỉnh Cao - Bắc - Lạng – Hà - Tuyên - Thái… Khởi nghĩa Ba Tơ (Quảng Ngãi) thắng lợi, đội du kích Ba Tơ được thành lập và xây dựng căn cứ Ba Tơ. - Trong các đô thị, nhất là những thành phố lớn, các đội danh dự Việt Minh đẩy mạnh hoạt động vũ trang tuyên truyền, diệt ác trừ gian, tạo điều kiện phát triển các tổ chức cứu quốc trong các tầng lớp nhân dân thành thị và xây dựng lực lượng tự vệ cứu quốc - Những chuyển biến của tình hình trong và ngoài nước lúc này đã dẫn đến xuất hiện thời cách mạng cho cách mạng Việt Nam và nó chỉ tồn tại trog thời gian ngắn từ khi Nhật đầu hàng Đồng minh ( từ 15/8 đến cuối tháng 8 trước khi quân Đồng minh vào nước ta) . - Ba đặc trưng chủ yếu của thời cơ + Kẻ thù cách mạng đã suy yếu cực độ về lực lượng, hoang mang về tinh thần, rệu rã về tổ chức + Đa số quần chúng đã đi theo cách mạng + Đội tiên phong lãnh đạo cách mạng đã chuẩn bị đủ lực lượng và sẵn sàng lãnh đạo khởi nghĩa giành chính quyền. - Hội nghị toàn quốc của Đảng ( từ 14 – 15/ 8/ 1945) đã chỉ rõ phải kịp thời khởi nghĩa giành chính quyền vì ‘‘ Quân Đồng minh sắp vào nước ta và đế quốc Pháp lăm le khôi phục lại địa vị cũ ở Đông dương’’. - Với gần 5000 Đảng viên, Đảng ta đã kịp thời lãnh đạo toàn dân đứng lên khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước bằng lực lượng chính trị là chủ yếu. Chỉ trong vòng 15 ngày cách mạng tháng 8 – 1945 đã toàn thắng; ách thống trị của bọn đế quốc, thực dân, phong kiến bị đánh đổ; độc lập, chủ quyền quốc gia được khôi phục; Đảng ta trở thành Đảng cầm quyền; nhân dân ta trở thành người chủ đất nước; lịch sử dân tộc đã bước sang thời kỳ mới đầy tự hào.
Câu 1. Quá trình Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị về tư tưởng chính trị và tổ chức cho việc thành lập Đảng. Những luận điểm chính trong tác phẩm "Đường Cách mệnh" của Nguyễn Ái Quốc