Professional Documents
Culture Documents
Chương 2 - Đông Bắc Á
Chương 2 - Đông Bắc Á
Chương 2 - Đông Bắc Á
Về mặt văn hóa, khu vực Đông Bắc Á gồm các quốc gia nằm
trong ảnh hưởng của nền văn minh Trung Hoa.
Các xã hội này về cơ bản là những xã hội Nho giáo. Các giá trị
Nho giáo như sự coi trọng trật tự xã hội và thứ bậc, kính trọng
bề trên, tu dưỡng phẩm chất đạo đức, coi trọng việc học hành là
những giá trị cơ bản.
Mỗi xã hội cũng có những nét đặc trưng của riêng mình.
Khu vực Đông Bắc Á
Những kỳ tích kinh tế của khu vực châu Á Thái Bình Dương vào nửa
sau thế kỷ 20 chủ yếu gắn liền với các quốc gia Đông Bắc Á.
Chúng ta sẽ xem xét các quốc gia riêng biệt theo trật tự thời gian trong
chuỗi kỳ tích kinh tế này:
Nhật Bản: 1970s-1980s
Hàn Quốc: 1980s-1990s
Trung Quốc: 1980s-2000s
Khu vực Đông Bắc Á
Người Nhật tin rằng, tổ tiên của họ là nữ thần Mặt Trời Amaterasu
Thiên Chiếu Đại Thần- một vị thần trong thần thoại Nhật Bản và
một là vị thần quan trọng trong Thần đạo. Bà đã sai cháu mình hóa
sinh thành người, lên ngôi vua để trị vì nước Nhật. Lịch sử đã khẳng
định hoàng tôn lãnh đạo đất nước là dòng dõi chính truyền của thần,
do vậy người Nhật có niềm tin sâu sắc, kính thờ, tôn trọng và không
bao giờ nghi ngờ về sự dẫn dắt của dòng dõi hoàng gia.
Suốt chiều dài lịch sử lập quốc, xây dựng đất nước Nhật Bản chưa
từng có một cuộc cách mạng nào mang tính chất lật đổ quyền
thống trị của Hoàng gia.
Nhật Bản
Phẩm cách dân tộc với đức tin là “hậu duệ nữ Thần Mặt Trời””
Tính đến năm 2020, nước Nhật có lịch sử gần 3.000 năm với 126 triều vua, có
một dòng họ duy nhất thống trị Hoàng gia và là con cháu của nữ Thần mặt trời.
Ngay cả khi có những tranh chấp trong hoàng thất, quyền lực của Hoàng gia suy
yếu nhưng Thiên hoàng vẫn được tôn kính một mực với lòng trung thành tuyệt
đối và không hề có sự rối loạn trong niềm tin, trong lòng dân chúng.
Đức tin vào nguồn gốc của dân tộc Nhật Bản, mà Thiên hoàng là hậu duệ của
Nữ thần Mặt trời tạo nên tính cách dân tộc độc đáo.
Nhật Bản
Kinh tế Nhật Bản GDP đứng thứ 4 thế giới sau Mỹ, Trung
Quốc và Đức
Đứng thứ 29 về Ease of Doing Business
Index năm 2020 và thứ 5 về chỉ số Global
Competitiveness Report năm 2018
Là nước sản xuất ô tô thứ 3 thế giới, có
ngành công nghiệp sản xuất điện tử hàng
đầu, số lượng hồ sơ sáng chế rất cao.
Dân số hiện tại hơn 125 triệu người nhưng
kinh tế Nhật đang gặp thách thức đáng kể
do dân số già và đang có xu hướng giảm,
thậm chí dự báo giảm xuống dưới 100 triệu
vào cuối thế kỉ 21.
Nhật Bản
Thương mại của Nhật Bản
Năm 2020, Nhật Bản này xuất khẩu chủ yếu là xe hơi (chiếm 14% kim ngạch
xuất khẩu), thiết bị phụ tùng bán dẫn (6%), phụ tùng xe hơi (4.3%), sắt theo
(3.8%),… đây là đặc trưng của nền kinh tế với thế mạnh về sản xuất ô tô và công
nghiệp chế tạo.
Ngược lại, dầu lửa và nhiên liệu thô chiếm 6.8% kim ngạch nhập khẩu, khí gas
hóa lỏng chiếm 4.7%, dược phẩm chiếm 4.7% là những mặt hàng được nhập
khẩu nhiều nhất vào Nhật Bản.
Nhật Bản
Thương mại của Nhật Bản
Năm 2020, đối tác xuất khẩu lớn nhất của Nhật Bản là Trung Quốc (chiếm
22% tổng kim ngạch), đây là lần đầu tiên Trung Quốc vượt Mỹ (18.4%) để trở
thành thị trường xuất khẩu lớn nhất của Nhật Bản.
Ở chiều nhập khẩu, Trung Quốc vẫn là đối tác lớn nhất và chiếm kim ngạch tỷ
trọng kim ngạch áp đảo (25.8%) so với các quốc gia khác là Mỹ (11%), Úc
(5.6%), Đài Loan (4.2%).
Ngoài ra, Việt Nam là thị trường xuất khẩu lớn thứ 9, đồng thời là đối tác
nhập khẩu lớn thứ 7 của Nhật Bản.
Nhật Bản
Các cột mốc lịch sử kinh tế Nhật Bản
Nền tảng của Mạc phủ Tokugawa, bước đầu công nghiệp hóa hiện đại
Minh Trị Duy tân, bắt đầu công nghiệp hóa
Chiến tranh thế giới thứ hai, nền kinh tế bị tàn phá
Kết thúc Thế chiến II, bắt đầu con đường khôi phục và trở thành một cường
quốc kinh tế “ Phép màu Nhật Bản”
22 tháng 9 năm 1985, Hiệp định Plaza, thoả thuận giảm giá USD và tăng giá
Yên Nhật
Nhật Bản
Các cột mốc lịch sử kinh tế Nhật Bản
Những năm 1990, "Thập kỷ mất mát", là thời gian sau khi bong bóng kinh
tế Nhật Bản sụp đổ. Chỉ số chứng khoán Nikkei 225 chạm đáy vào tháng 4
năm 2003
Tháng 7 năm 1997, bắt đầu khủng hoảng tài chính châu Á khiến một số công
ty bị phá sản
2011, Hậu quả của trận động đất và sóng thần Tōhoku 2011 đã ảnh hưởng sâu
rộng đến kinh tế
2012, Abenomics, chương trình của Thủ tướng Nhật Bản Shinzō Abe để giúp
phục hồi kinh tế của đất nước
Nhật Bản
Thời kỳ Minh Trị
Đến giữa thế kỷ XIX, sau hơn 200 năm thống trị, chế độ Mạc phủ Tokugawa ( thời kì
EDO) lâm vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng về mọi mặt từ kinh tế, xã hội đến chính trị.
1867 chế độ Mạc phủ Tokugawa chấm dứt. Ngày 3 tháng 1 năm 1868, chính quyền mới
do Thiên hoàng Minh Trị bổ nhiệm được thành lập. Giai cấp tư sản chưa được tham gia chính
quyền, nhưng chế độ mới tạo điều kiện cho chủ nghĩa tư bản phát triển, nên họ ủng hộ chính
quyền mới.
MEIJI: Thời kỳ 45 năm dưới triều Thiên hoàng Minh Trị 1868-1912.Trong thời kỳ này, Nhật
Bản bắt đầu công cuộc hiện đại hóa và vươn đến vị thế cường quốc trên thế giới.
Triều đình còn ban bố quyền tự do buôn bán (kể cả ruộng đất) và đi lại, thiết lập chế độ tiền tệ
thống nhất (đồng Yên), xây dựng cơ sở hạ tầng (đặc biệt là đường sắt) và phát triển chủ nghĩa
tư bản đến tận các vùng nông thôn. Triều đình còn ra lệnh phế đao, không người dân tự ý mang
đao kiếm
Về quân sự, quân đội được tổ chức và huấn luyện theo kiểu phương Tây
Nhật Bản
Thời kỳ Minh Trị
Nhiều phái đoàn được cử sang phương Tây học hỏi về cách thức quản lý hành chính và
kỹ thuật. Toà án mới (kiểu phương Tây) được thành lập.
Nhiều cải cách quan trọng về giáo dục được thi hành trong đó có việc thành lập các
trường Đại học để đào tạo tầng lớp lãnh đạo chính quyền và kinh doanh. Cơ sở hạ tầng
bắt đầu được quan tâm phát triển. Nhiều chuyên gia phương Tây được mời tới Nhật
Bản để phổ biến kiến thức và kỹ thuật.
Về giáo dục, đưa những thành tựu khoa học khoa học-kỹ thuật vào giảng dạy và áp
dụng chế độ giáo dục bắt buộc. Các môn học chuyển chủ yếu từ học thuộc Kinh
Sử sang Khoa học-Kỹ nghệ-Thương mại. Mô hình tự trị-tự chủ Đại học được áp dụng
theo hình mẫu phương Tây. Tư nhân được phép mở trường. Chất lượng dạy học cũng
như chương trình chịu ảnh hưởng Hoa Kỳ và Phương Tây nhiều mặt.
Năm 1889, Hiến pháp mới quy định Nhật Bản là một quốc gia quân chủ lập hiến.
Nhật Bản
Thời kỳ Minh Trị
Các nhà lãnh đạo mới và tầng lớp ưu tú mới của đất nước đều có nguồn gốc võ sĩ, vì thế
nước Nhật mới vẫn mang nhiều tính chất quân phiệt. Điều này giải thích tại sao Nb có
nhiều hoạt động quân sự quy mô cho đến tận Chiến tranh thế giới thứ hai.
Cuộc cách mạng 1868 cũng mở đường cho việc biến nước Nhật Bản phong kiến thành
một nước có nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, thoát khỏi số phận một nước thuộc địa hay
nửa thuộc địa.
Cuộc cách mạng Minh Trị đã dẫn đến quá trình công nghiệp hóa của Nhật Bản khiến
nền kinh tế Nhật Bản phát triển mạnh mẽ trong 30 năm cuối của thế kỷ XIX khiến nước
này trở thành một cường quốc quân sự năm 1905 sau khi đánh bại Nga và trước đó là
chiến thắng trong cuộc chiến tranh Giáp Ngọ (1894-1895) với nhà Thanh.
Sự phát triển của kinh tế Nhật Bản cũng làm xuất hiện các công ty độc quyền với những
nhà tài phiệt ZAIBATSU thao túng cả kinh tế và chính trị Nhật Bản.
Nhật Bản
Thời kỳ Minh Trị- Thành quả
Với mong muốn đuổi kịp phương Tây, giáo dục đã rất được coi trọng.
Và chỉ trong vòng hai, đến ba thế hệ, nước Nhật đã từ chỗ coi trọng
thân phận con người theo nguồn gốc dòng dõi, chuyển sang cất nhắc
cán bộ theo trình độ giáo dục (tân học) và năng lực thực tế. Điều này
làm cho xã hội Nhật Bản trở nên bình đẳng một cách đáng kể, thậm
chí hơn cả Anh Quốc cùng thời. Nhưng nó cũng làm cho tính giáo điều
trở thành nếp trong suy nghĩ của người Nhật.
Nhật Bản
Thế chiến thứ Hai
Quá trình công nghiệp hóa và quân phiệt hóa nhanh chóng dưới khẩu
hiệu phú quốc cường binh đã giúp Nhật Bản nổi lên như một cường
quốc và kèm theo đó là sự thành lập của một đế quốc thực dân.
Tình hình kinh tế và chính trị bất ổn trong thập niên 1920 đã dẫn tới
sự trỗi dậy của chủ nghĩa quân phiệt, và đỉnh điểm là việc Nhật
Bản gia nhập phe Trục rồi tiến hành chinh phạt phần lớn các lãnh
thổ thuộc châu Á-Thái Bình Dương.
Nhật Bản
Thế chiến thứ Hai
Theo sau sự kiện Liên Xô tuyên chiến và tấn
công vào Mãn Châu, cùng hai vụ ném bom
nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki, đế
quốc đã phải đầu hàng trước quân Đồng
minh vào ngày 15 tháng 8 năm 1945. Tiếp
đến là thời kỳ Đồng minh (chủ yếu là Mỹ)
chiếm đóng,
Hiến pháp mới được tạo lập vào năm 1947,
quyền lực của Thiên Hoàng bị phế bỏ và chỉ
còn có tính biểu tượng. Đế quốc Nhật Bản
chính thức tan rã.
Nhật Bản
Nhật Bản hồi phục thần kỳ sau thế chiến 1955-1973
Sau khi thất bại tại Thế Chiến thứ 2, Nhật Bản đã bắt đầu ngay vào công cuộc tái thiết
kinh tế sau chiến tranh, những đơn đặt hàng sản xuất quân nhu, quân dụng cho quân đội
Mỹ trong chiến tranh Triều Tiên trong giai đoạn 1950 đã làm tăng nhu cầu tiêu thụ hàng
hóa, kích thích sản xuất, kinh doanh trong nước Nhật và tạo điều kiện cho Nhật Bản hồi
phục kinh tế, thúc đẩy tiêu dùng.
Thời kì thịnh vượng của Nhật Bản bắt đầu từ giai đoạn những năm 1960 khi nền kinh tế
Nhật đều tăng trưởng mạnh mẽ trên 10% trong mỗi năm.
GDP của Nhật Bản đã tăng từ mức 44.3 tỷ USD (năm 1960) lên mức 5.5 nghìn tỷ USD
vào năm 1995.
Đây là giai đoạn Nhật Bản đã bắt kịp với thế giới về công nghệ sản xuất và nền công
nghiệp xe hơi trứ danh của Nhật Bản cũng bắt đầu vào thời điểm này với hàng loạt
những hãng xe hơi xuất hiện, chiếc xe hơi đầu tiên mang tên “Toyota Crown” của gã
khổng lồ Toyota cũng ra đời trong giai đoạn này (năm 1955).
Nhật Bản
Nhật Bản hồi phục thần kỳ sau thế chiến 1955-1973
Sự thành công của Nhật Bản trong giai đoạn này được dựa theo một công thức độc đáo-
đó là một nhà nước mạnh, dẫn dắt quá trình phát triển (được biết đến với khái niệm
“Nhà nước kiến tạo phát triển”). Điều này trái ngược với niềm tin của phương Tây về
việc thị trường cần được tự do vận hành để có thể phát triển kinh tế.
Quyền lực điều hành nền kinh tế được giao cho Bộ Thương mại quốc tế và Công
Nghiệp Nhật Bản (MITI). Cơ quan này quan trọng đến nỗi được nghiên cứu độc lập
như là một tác nhân đặc biệt trong kỳ tích kinh tế của Nhật Bản.
MITI hợp tác với các Keiretsu để đưa những chính sách của nhà nước vào triển khai tại
doanh nghiệp và trong nền kinh tế.
Nhật Bản
Keiretsu
Keiretsu ( 系列 ) có nghĩa đen là hệ thống dây chuyền hoặc chuỗi, là một phương thức
hợp tác kinh doanh mang đậm nét đặc trưng kiểu Nhật. Một Keiretsu gồm nhiều công
ty thành viên xoay quanh một định chế tài chính (thường là một ngân hàng). Định chế
tài chính vừa là cổ đông lớn của các công ty thành viên thuộc Tập đoàn, vừa đóng vai
trò tài trợ hoặc đảm bảo thanh khoản cho các công ty thành viên.
Giống như Zaibatsu, Keiretsu cũng kết hợp phát triển theo chiều ngang và chiều dọc
trên các chuỗi cung ứng. Họ cũng kết hợp các công ty thương mại tổng hợp được gọi là
"Sogo shousha - 総合商社 ".
Một số quốc gia như Mỹ cho rằng các tập đoàn Keiretsu thực hiện hoạt động kinh
doanh không công bằng nhằm ngăn chặn sự cạnh tranh nước ngoài. Cùng với xu hướng
độc quyền, cấu trúc Keiretsu có thể hạn chế khả năng phát triển và đổi mới của nền
kinh tế Nhật Bản.
Nhật Bản
Keiretsu
Ra đời trong những năm 1960 - 1970, khi một số công ty Mỹ phát triển mạnh
mẽ và trở thành những gã khổng lồ trong lĩnh vực kinh tế, các Keiretsu đã
ngăn kinh tế Nhật Bản khỏi sự tiến công mạnh mẽ của nước ngoài bằng cách
sáp nhập và mua lại. Các Keiretsu cho phép sở hữu cổ phần chéo với nhau, các
công ty cấu thành nắm giữ cổ phần của nhau, làm tăng khả năng lưu động vốn
trong các tập đoàn và tách ra khỏi các nhà đầu tư bên ngoài.
Ngay cả trong thế kỷ 21, cấu trúc cơ bản này vẫn được duy trì, hạn chế tính rủi
ro của Keiretsu đối với ảnh hưởng của các nhà đầu tư nước ngoài. Do đó, mặc
dù kinh tế Nhật Bản tiếp tục mở cửa nhiều hơn nhưng các nhà đầu tư nước
ngoài vẫn không thể chiếm lĩnh hoàn toàn kinh tế Nhật Bản.
Nhật Bản
Thập niên mất mát
Bóng bóng tài sản tại Nhật bắt đầu từ một hiệp ước nổi tiếng “Hiệp ước Plaza”
(năm 1985), thông qua đó chính phủ Nhật Bản đã đồng ý với với Mỹ về việc
hạ giá đồng USD và tăng giá trị đồng Yen Nhật.
Người Nhật giàu hơn, tiêu dung nhiều hơn và đầu tư nước ngoài nhiều hơn.
Chính sách tiền tệ nới lỏng tính thanh khoản cao quá mức, đầu cơ tài sản
khiến giá bất động sản tăng cao
Nhật Bản
Thập niên mất mát
Bong bóng kinh tế vỡ vào năm 1991 và bong bóng giá tài sản vỡ vào
năm 1992.
kinh tế Nhật Bản chuyển sang thời kỳ trì trệ kéo dài. Tốc độ tăng trưởng GDP
thực tế bình quân hàng năm của giai đoạn 1991-2000 chỉ là 0,5% - thấp hơn rất
nhiều so với các thời kỳ trước.
Thập niên mất mát chấm dứt chu kì phát triển rực rỡ và mạnh mẽ sau giai
đoạn phục hồi sau chiến tranh, thời kì GDP Nhật Bản tăng trưởng trung bình
10%/ năm. Bong bóng tài sản tại Nhật Bản chỉ mất 5 năm từ 1986 đến 1991 để
hình thành nhưng hậu quả đã kéo dài đến tận ngày nay.
Nhật Bản
Nhật Bản hôm nay
Nền kinh tế Nhật Bản vừa cho những dấu hiệu hồi phục trở lại vào những năm
2006, 2007 thì lại chịu ảnh hưởng lớn từ sự sụp đổ của Bong bóng Nhà đất tại
Mỹ (hệ quả của việc cho vay dưới chuẩn), với cái tên nhiều người Nhật thường
hay gọi là “Lehman Shock” (Ngân hàng Lehman Brothers tại Mỹ phá sản vào
năm 2008, mở đầu cho sự sụp đổ của thị trường nhà đất). Ngoài ra, đến năm
2011, thảm họa kép động đất, sóng thần tại Đông Nhật Bản (Tohoku) lại một
lần nữa kéo lùi nền kinh tế đang yếu kém vừa phục hồi sau sau thời kì khó
khăn.
Nhật Bản
Nhật Bản hôm nay
GDP Nhật Bản đã tăng trở lại trong giai đoạn sau 2010 khi Chính sách kích
thích Kinh tế (Abenomics) bắt đầu có hiệu lực khi Thủ tướng này đắc cử vào
năm 2012.
GDP Nhật Bản lại chứng kiến cú giảm mạnh trong giai đoạn 2014-2015 do
việc chinh phủ tăng thuế tiêu dùng vào tháng 4/2014, điều này khiến cho khu
vực chi tiêu cá nhân, vốn chiếm 60% trong cơ cấu nền kinh tế Nhật Bản bị sụt
giảm nghiêm trọng.
Tuy nhiên, có thể hiểu sự suy giảm này chỉ mang tinh nhất thời khi GDP của
Nhật Bản đã tăng trưởng trở lại từ năm 2016 và chỉ ghi nhận lần suy thoai tiếp
theo do dịch bệnh corona vào năm 2020.
Nhật Bản
Nhật Bản hôm nay
Chủ nghĩa tư bản kiểu mới- những kỳ vọng từ chính quyền
Phân phối bình đẳng thu nhập,
Xây dựng tầng lớp trung lưu lớn mạnh và
Đưa nền kinh tế trở lại quỹ đạo tăng trưởng
Sẽ là 3 trụ cột chính trong “Chủ nghĩa Tư bản Kiểu mới”, định hướng được Tân
Thủ Tướng Nhật Bản Kishida Fumio xem là kim chỉ nam cho việc điều hanh
nền kinh tế trong nhiệm kỳ sắp tới.
Vẫn còn rất sớm để hiểu rõ và đánh giá sự hiệu quả của “Chủ nghĩa Tư bản
Kiểu mới”, tuy nhiên, việc một Thủ tướng với phong cách cứng rắn, sẵn sàng
thực hiện những cải cách khi mới vừa nhậm chức đang đem lại một niềm hy
vọng lớn cho nền kinh tế Nhật Bản.
Nhật Bản
Tiểu kết phần 2
Giáo dục
Hoạch định chính sách
Viện trợ nước ngoài
Các tập đoàn Chaebol
Hàn Quốc
Tiểu kết phần 3
“Mèo trắng hay mèo đen không quan trọng, miễn là bắt được chuột.”
Đặng Tiểu Bình
Trung Quốc
Lịch sử kinh tế Trung Quốc
Trung Quốc và Mỹ
Thành công kinh tế của Trung Quốc đã đưa họ từ chỗ là một quốc gia nghèo trở
thành một quyền lực toàn cầu. Những năm gần đây, thông qua các khoản hỗ trợ và
hợp tác kinh tế, Trung Quốc đang tích cực tranh giành ảnh hưởng với Mỹ.
Với những sáng kiến như Vành đai và con đường, hoặc tạo các không gian hợp tác
riêng, Trung Quốc muốn thiết lập các sân chơi do mình làm chủ.
Năm 2022, GDP bình quân đầu người đã đủ để đưa Trung Quốc vào hàng ngũ
những nước thu nhập cao.
Trung Quốc
Lịch sử kinh tế Trung Quốc
Trung Quốc và Mỹ
Tầm ảnh hưởng toàn cầu ngày càng
cao của Trung Quốc và khả năng cạnh
tranh về kinh tế và công nghệ của TQ
đối với Mỹ thậm chí khiến chính quyền
Mỹ quan ngại và muốn suy giảm sức
mạnh của nền kinh tế TQ bằng việc
phát động chiến tranh thương mại.
Trung Quốc
Tiểu kết phần 4
Những nhóm dân cư đầu tiên định cư ở Đài Loan khoảng 8000 năm
trước. Họ là các sắc dân Nam Đảo, và vẫn còn tồn tại ở quy mô nhỏ
ngày nay ở Đài Loan.
Các triều đại Trung Hoa không quan tâm nhiều đến Đài Loan cho đến khi
người Tây Ban Nha và người Hà Lan đến xâm chiếm và xây dựng các
pháo đài, thương cảng ở đây vào thế kỳ 16.
Thế kỷ 17, Trịnh Thành Công đánh bai lực lượng Hà Lan, đưa Đài Loan
vào dưới quyền kiểm soát của nhà Minh. Sau đó, nhà Thanh tiếp tục duy
trì việc cai quản Đài Loan và cho phép di dân đến đây.
Năm 1895, sau khi thất bại trong cuộc chiến tranh Trung- Nhật, nhà
Thanh buộc phải nhượng lại Đài Loan cho Nhật. Đài Loan bước sang một
chương mới.
Đài Loan
Lịch sử
Trong giai đoạn 1895-1945, Đài Loan là một thuộc địa của Nhật.
Nhật tích cực phát triển và khai thác Đài Loan để biến nơi này thành nơi
cung cấp các nguyên liệu, hỗ trợ cho chính quốc Nhật Bản.
Về mặt chính quyền, Nhật bắt đầu dần dần xây dựng các thể chế cai trị
hiện đại, giới thiệu cách thiết chế hiện đại đến Đài Loan. Giai đoạn sau,
trong thời kỳ Thế chiến 2, Nhật gia tăng quá trình đế quốc hóa Đài Loan.
Dù di sản của thời kỳ này gây nhiều tranh cãi, nó cũng để lại những hệ quả
tích cực cho Đài Loan. Về mặt kinh tế, Đài Loan đã được người Nhật đầu
tư, phát triển hạ tầng, xây dựng các ngành công nghiệp. Thành công về mặt
kinh tế đã khiến cho một lượng đông đảo người Đài Loan ủng hộ chính
quyền thuộc địa.
Ngoài ra, người Nhật còn để lại cho Đài Loan những di sản về mặt văn hóa.
Đài Loan
Lịch sử
Sau năm 1945, Đài Loan được trao trả lại cho Trung Quốc và nằm dưới
quyền quản lý của Quốc dân đảng.
Năm 1949, sau khi bị lực lượng Đảng Cộng sản của Mao Trạch Đông đánh
bại trong nội chiến Quốc- Cộng, Tưởng Giới Thạch- lãnh đạo Quốc dân
đảng, đã chạy đến đảo Đài Loan- cùng hàng triệu binh lính và người dân từ
Đại Lục.
Dưới thời Tưởng Giới Thạch và con trai là Tưởng Kinh Quốc, Đài Loan đã
thực hiện thiết quân luật, kiểm soát mọi mặt đời sống người dân, đàn áp
các thành phần đối lập để kiểm soát đất nước và chống lại sự đe dọa từ
Trung Quốc đại lục.
Tiến trình dân chủ hóa đất nước được bắt đầu từ năm 1988, dưới thời tổng
thống Lý Đăng Huy.
Ngày nay Đài Loan là một nền dân chủ ổn định.
Đài Loan
Kinh tế Đài Loan là một nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa phát
triển với kỹ nghệ cùng mức độ công nghiệp hóa cao.
Đài Loan là một quốc gia trong 4 con Rồng kinh tế của châu Á cùng với Hàn
Quốc, Hồng Kông và Singapore, là một trong những nhà sản xuất vi mạch, máy
tính, điện tử tiêu dùng với công nghệ tiên tiến bậc nhất trên thế giới.
Không giống như nước láng giềng Nhật Bản và Hàn Quốc, các doanh nghiệp
vừa và nhỏ chiếm một tỷ lệ đáng kể trong các doanh nghiệp ở Đài Loan.
Nền kinh tế Đài Loan là đối tác không thể thiếu trong Chuỗi giá trị toàn cầu
của ngành công nghiệp điện tử. Linh kiện điện tử và máy tính cá nhân là hai lĩnh
vực có thế mạnh quốc tế của ngành Công nghệ thông tin Đài Loan, có nghĩa là
nền kinh tế của Đài Loan có lợi thế cạnh tranh về việc học hỏi từ các công nghệ
tiên tiến của nước ngoài với chi phí thấp hơn để sản xuất và bán ra nước ngoài.
6. Hong Kong
6. Hong Kong
Hong Kong là một đặc khu hành chính của Trung Quốc. Là một khu vực hành chính
tự trị đặc biệt, Hồng Kông duy trì các hệ thống chính trị, quản lý, luật pháp, giáo
dục, bầu cử và kinh tế tách biệt hoàn toàn với các hệ thống của Hoa lục theo mô
hình "một quốc gia, hai chế độ".
Hong Kong có dân số vào khoảng 7.5 triệu người, với mật độ dân số thuộc hàng cao
nhất thế giới. Hầu hết tất cả người dân sinh ra ở đây đều được đặt tên riêng theo tên
gọi của người Anh, sở hữu hộ chiếu, tiền tệ, mô hình kinh tế, hệ thống giáo dục
riêng, và đồng thời có xu hướng tự xác định bản thân là người Hồng
Kông (Hongkonger) hơn là người Trung Quốc (Chinese).
Hồng Kông là một trong '4 con rồng kinh tế châu Á' (cùng với Hàn Quốc, Đài
Loan và Singapore), và được phân loại là một thành phố toàn cầu hạng Alpha+
(α+) - cho thấy mức độ ảnh hưởng rất lớn của thành phố đối với nền kinh tế toàn
cầu.
6. Hong Kong
Hong Kong trở thành thuộc địa của Anh sau cuộc chiến tranh nha phiến- 1842. Sau
đó, thuộc địa này được mở rộng, với lần sau cùng gắn với sự kiện Anh thuê vùng
Tân Giới 99 năm vào năm 1989. Trong thời kỳ thuộc địa, Anh đã xây dựng ở Hong
Kong hệ thống hành chính, pháp luật, giáo dục theo kiểu Anh.
Sau năm 1945, Hong Kong trải qua thời kỳ công nghiệp hóa nhanh chóng, khởi đầu
là dệt may, sau đó là các ngành công nghiệp chế tạo.
Năm 1997, Hong Hong được trao trả về cho Trung Quốc. Trung Quốc cam kết tôn
trọng nguyên trạng hệ thống chính trị- kinh tế Hong Kong trong 50 năm.
Ngày nay, Hong Kong là một trung tâm dịch vụ, tài chính toàn cầu.
Việc can thiệp của chính quyền Trung Quốc vào đời sống chính trị Hong Kong ngày
càng gia tăng gây nên nhiều lo ngại, khiến nền kinh tế Hong Kong gặp nhiều thách
thức.
Tổng kết chương 2