Professional Documents
Culture Documents
BÀI I - LSĐ - PHẦN II
BÀI I - LSĐ - PHẦN II
BÀI I - LSĐ - PHẦN II
- Xác định mâu thuẫn giai cấp ở Đông Dương ngày càng sâu
sắc giữa "một bên là thợ thuyền, dân cày và các phần tử lao
khổ; một bên thì địa chủ, phong kiến, tư bản và đế quốc chủ
nghĩa".
- Phương hướng chiến lược của cách mạng: Xác định lúc đầu
là cuộc "Cách mạng tư sản dân quyền" "có tính chất thổ địa và
phản đế". "Tư sản dân quyền cách mạng là thời kỳ dự bị để
làm xã hội cách mạng"
Sau khi cách mạng tư sản dân quyền thắng lợi sẽ bỏ qua thời
kỳ tư bản chủ nghĩa tiến thẳng lên CNXH
II. LÃNH ĐẠO ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN
(1930-1945)
- Nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng tư sản dân quyền là "đánh
đổ các di tích phong kiến"; "cách bóc lột tiền tư bổn"; "thực
hành thổ địa cách mạng cho triệt để" và "đánh đổ đế quốc chủ
nghĩa Pháp, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập". Hai
nhiệm vụ đó quan hệ khăng khít với nhau, song Luận cương
nhấn mạnh "Vấn đề thổ địa là cái cốt của cách mạng tư sản
dân quyền".
II. LÃNH ĐẠO ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN
(1930-1945)
- Về lực lượng cách mạng: Xác định giai cấp vô sản và nông
dân là hai động lực chính của cách mạng trong đó giai cấp vô
sản là giai cấp lãnh đạo cách mạng. Đối với các giai cấp khác,
Luận cương cho rằng: Tư sản thương nghiệp thì đứng về phe
đế quốc; Tư sản công nghiệp thì đứng về phía quốc gia cải
lương và khi cách mạng lên cao sẽ theo đế quốc; còn tiểu tư
sản, bộ phận thủ công nghiệp thì có thái độ do dự; bộ phận
thương gia thì không tán thành cách mạng, tiểu tư sản trí thức
có xu hướng quốc gia chủ nghĩa, chỉ hăng hái cách mạng ở
thời kỳ đầu. Theo Luận cương, chỉ có những phần tử lao khổ
mới đi theo cách mạng.
II. LÃNH ĐẠO ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN
(1930-1945)
- Về lãnh đạo cách mạng: Điều cốt yếu cho sự thắng lợi của
cách mạng là phải có một Đảng Cộng sản vững mạnh về mọi
mặt lãnh đạo.
- Về phương pháp cách mạng: Để giành chính quyền cần
thiết phải ra sức chuẩn bị cho quần chúng về con đường "võ
trang lao động". Đó là một nghệ thuật nên "phải theo khuôn
phép nhà binh".
- Xác định cách mạng Đông Dương là một bộ phận của cách
mạng thế giới và phải đoàn kết gắn bó với cách mạng thế
giới, trước hết là giai cấp vô sản Pháp, liên hệ mật thiết với
phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa
II. LÃNH ĐẠO ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN
(1930-1945)
- Hạn chế của Luận cương là chưa nêu rõ mâu thuẫn chủ yếu
ở nước ta, quá nhấn mạnh đấu tranh giai cấp, chưa thấy hết
tầm quan trọng của vấn đề dân tộc; chưa đánh giá đúng vai trò
của các giai cấp khác như tiểu tư sản, trí thức, tư sản dân tộc,
địa chủ vừa và nhỏ trong cách mạng dân tộc dân chủ ở nước
ta. Do đó không đề ra được chiến lược liên minh dân tộc và
giai cấp rộng rãi để tập trung mũi nhọn đấu tranh vào kẻ thù
chính lúc này là đế quốc và tay sai.
- Nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế đó là do nhận thức
chưa đầy đủ về thực tiễn cách mạng thuộc địa và chịu ảnh
hưởng của tư tưởng «tả khuynh» trong Quốc tế Cộng sản thời
kỳ này.
II. LÃNH ĐẠO ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN
(1930-1945)
- Sau cao trào cách mạng 1930-1931 với đỉnh cao là Xô viết
Nghệ Tĩnh, thực dân Pháp tiếp tục tiến hành khủng bố hòng
tiêu diệt bằng được Đảng Cộng sản và phong trào cách mạng
của nhân dân ta. Mặc dù gặp nhiều khó khăn và tổn thất nhưng
những người Cộng sản Việt Nam vẫn không hề nao núng. Với
sự giúp đỡ của quốc tế Cộng sản và Đảng anh em, năm 1932
Ban lãnh đạo Trung ương của Đảng do Lê Hồng Phong đứng
đầu đã được thành lập và đề ra "Chương trình hành động"
nhằm khôi phục lại tổ chức Đảng và phong trào cách mạng
Việt Nam.
II. LÃNH ĐẠO ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN
(1930-1945)
- Đầu năm 1932, Chương trình hành động của Đảng Cộng sản
Đông Dương (15-6-1932) do Lê Hồng Phong và một số đồng chí
soạn thảo đã vạch ra nhiệm vụ đấu tranh trước mắt để khôi phục
hệ thống tổ chức của Đảng và phong trào cách mạng, đặc biệt cần
phải “gây dựng một đoàn thể bí mật, có kỷ luật nghiêm ngặt, cứng
như sắt, vững như đồng, tức Đảng Cộng sản để hướng đạo quần
chúng trên con đường giai cấp chiến đấu” .
- Tháng 3-1933, Hà Huy Tập xuất bản sách ‘‘Sơ thảo lịch sử
phong trào cộng sản Đông Dương’’, bước đầu tổng kết kinh
nghiệm lãnh đạo của Đảng, trong đó khẳng định công lao, sáng
kiến của Nguyễn Ái Quốc.
II. LÃNH ĐẠO ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN
(1930-1945)
- Năm 1934, Ban chỉ huy ở ngoài của Đảng Cộng sản Đông
Dương được thành lập và Lê Hồng Phong được cử là thư ký (Bí
thư). Ban chỉ huy ở ngoài đã hoạt động hết sức tích cực để tập
hợp, xây dựng các cơ sở Đảng mới trong nước thành một hệ
thống, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Cuối năm 1934 đầu 1935, hệ
thống tổ chức Đảng đã được khôi phục và từng bước phát triển.
Đây là cơ sở để Đảng triệu tập Đại hội lần thứ nhất
II. LÃNH ĐẠO ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN
(1930-1945)
- Tháng 3-1935, Đại hội lần thứ nhất của Đảng họp ở Ma Cao
(TQ) đã khẳng định thành công của cuộc đấu tranh khôi phục lại tổ
chức Đảng và phong trào cách mạng, đồng thời chỉ ra những hạn
chế: lực lượng của Đảng còn ít và chưa phát triển ở công nghiệp
tập trung, hệ thống tổ chức Đảng chưa thật thống nhất, công nhân
gia nhập Đảng còn ít...
Đại hội đề ra 3 nhiệm vụ cần tập trung thực hiện :
1- Củng cố và phát triển Đảng.
2- Đẩy mạnh cuộc vận động tập hợp quần chúng,
3- Mở rộng tuyên truyền chống đế quốc, chống chiến tranh, ủng
hộ Liên Xô và ủng hộ cách mạng Trung Quốc…
II. LÃNH ĐẠO ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN
(1930-1945)
- Đại hội thông qua Nghị quyết chính trị, Điều lệ Đảng và các
nghị quyết về vận động quần chúng và bầu Ban Chấp hành Trung
ương mới do Lê Hồng Phong làm Tổng Bí thư.
- Tuy nhiên, Đại hội vẫn chưa đề ra được chủ trương chiến lược
phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam chưa đặt nhiệm vụ
giải phóng dân tộc lên hàng đầu và tập hợp lực lượng toàn dân
tộc. Đảng vẫn cho rằng, “người ta không làm cách mạng phản đế,
sau đó mới làm cách mạng điền địa. Cách mạng sẽ chỉ thắng lợi
với điều kiện hai cuộc cách mạng ấy gắn bó chặt chẽ với nhau và
cùng đi với nhau”.
II. LÃNH ĐẠO ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN
(1930-1945)
2.1.3. Giai đoạn 1936 - 1939
Tình hình thế giới và Việt nam có những biến chuyển:
- Chủ nghĩa phát xít lên cầm quyền ở Đức - Ý - Nhật. Nguy cơ
chiến tranh thế giới thứ 2 xuất hiện.
- Đại hội lần thứ 7 của Quốc tế Cộng sản (7-1935) đã đề ra chủ
trương mới nhằm tập trung lực lượng chống kẻ thù nguy hiểm lúc
này là chủ nghĩa phát xít, bảo vệ tự do, dân chủ, hoà bình.
- Ở Pháp, Chính phủ mới đã ban hành một số chính sách cải
cách ở thuộc địa tạo thuận lợi cho hoạt động cho các Đảng phái
chính trị ở thuộc địa.
- Tại Đông Dương đa số nhân dân có nguyện vọng cấp thiết về
II. LÃNH ĐẠO ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN
(1930-1945)
- Lê nin chỉ rõ: ‘‘Bản chất, linh hồn sống của C N Mác là phân
tích cụ thể một hoàn cảnh cụ thể ’’.
Người từng dạy những người cách mạng: Các nhiệm vụ cụ thể
phải đặt trong điều kiện cụ thể.
Những giáo huấn của Lê nin có ý nghĩa to lớn trong thực tiễn
hoạt động của các Đảng cộng sản và những người cách mạng
thế giới .
- Thấm nhuần lời dạy của Lê nin và căn cứ vào thực tiễn trong
và ngoài nước lúc này, Đảng ta đã có những đột phá trong
nhận thức và hành động thực tiễn, kịp thời đề ra nhiều chủ
trương mới đúng đắn, sáng tạo đưa cách mạng tiếp tục tiến lên
II. LÃNH ĐẠO ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN
(1930-1945)
- Điều này thể hiện qua các văn kiện chủ yếu sau:
+ Nghị quyết Hội nghị Trung ương tháng 7 năm 1936
+ Văn kiện "chung quanh vấn đề chiến sách mới" (tháng 10-1936)
+ Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng tháng 3-1937; tháng 9-
1937; tháng 3-1938
Nhận thức mới của Đảng được thể hiện rõ ở những vấn đề chủ
yếu sau:
Thứ nhất, đổi mới nhận thức nhằm “sửa chữa những sai lầm”
trước đó và “định lại chính sách mới” dựa theo những nghị
quyết của Đại hội lần thứ VII Quốc tế Cộng sản. (NQTƯ tháng
7- 1936)
II. LÃNH ĐẠO ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN
(1930-1945)
Thứ hai, xác định mối quan hệ giữa nhiệm vụ chống đế quốc và
chống phong kiến. Đảng ta cho rằng ‘‘không thể nói rằng: muốn
đánh đổ đế quốc cần phải phát triển cách mạng điền địa, muốn
giải quyết vấn đề điền địa thì cần phải đánh đổ đế quốc. Lý thuyết
ấy có chỗ không xác đáng” và “Cuộc dân tộc giải phóng không
nhất thiết phải kết chặt với cuộc cách mạng điền địa’’; ‘‘nếu phát
triển cuộc tranh đấu chia đất mà ngăn trở cuộc tranh đấu phản đế
thì phải lựa chọn vấn đề nào quan trọng hơn mà giải quyết trước’’,
‘‘Nghĩa là chọn địch nhân chính, nguy hiểm nhất, để tập trung lực
lượng của một dân tộc mà đánh cho được toàn thắng” (Chung
quanh vấn đề chiến sách mới tháng 10 - 1938)
II. LÃNH ĐẠO ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN
(1930-1945)
+ Với văn kiện này, Trung ương Đảng đã nêu cao tinh thần đấu
tranh, thẳng thắn phê phán quan điểm chưa đúng và bước đầu
khắc phục hạn chế trong Luận cương chính trị của Đảng Cộng
sản Đông Dương. Đó cũng là nhận thức mới, phù hợp với tinh
thần trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng và lý luận
cách mạng giải phóng dân tộc của Nguyễn Ái Quốc.
Thứ ba, mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc để khắc phục tư
tưởng "tả khuynh", cô độc. Thành lập mặt trận nhân dân phản
đế (đến tháng 3-1938 đổi thành Mặt trận dân chủ Đông Dương)
nhằm tập hợp tất cả các Đảng phái, các tầng lớp nhân dân đấu
tranh đòi tự do, dân chủ, cơm áo, hoà bình, chống bọn phản
động thuộc địa và tay sai.
II. LÃNH ĐẠO ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN
(1930-1945)
Thứ tư: giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa mục tiêu và
nhiệm vụ trước mắt với mục tiêu và nhiệm vụ lâu dài. Đảng
cho rằng chống đế quốc và phong kiến để giành độc lập dân
tộc, dân chủ, ruộng đất là mục tiêu không bao giờ thay đổi song
điều kiện cụ thể lúc này đây chưa phải là mục tiêu trực tiếp
trước mắt. Mục tiêu và nhiệm vụ cụ thể lúc này là chống bọn
phản động thuộc địa và tay sai, đòi các quyền dân chủ cơ bản,
đòi tự do, cơm áo, chống chiến tranh đế quốc, bảo vệ hoà bình
II. LÃNH ĐẠO ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN
(1930-1945)
Thứ năm, kết hợp và thực hiện nhiều hình thức đấu tranh và tập
hợp quần chúng. Ngoài hình thức bí mật bất hợp pháp, Đảng chủ
trương đẩy mạnh hình thức đấu tranh công khai, hợp pháp và nửa
hợp pháp, để xây dựng và phát triển lực lượng cách mạng.
Nhờ vậy Đảng đã tập hợp, rèn luyện tổ chức được một lực lượng
cách mạng khá đông đảo. Đây là một thành công lớn của Đảng
trong quá trình lãnh đạo công cuộc đấu tranh giành chính quyền .
+ Thắng lợi của cao trào dân chủ 1936-1939 đã chứng minh cho
sự đúng đắn của việc đổi mới tư duy của Đảng, trong việc xây
dựng thực hiện đường lối cách mạng ở một giai đoạn lịch sử đầy
biến động.
II. LÃNH ĐẠO ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN
(1930-1945)
Thứ ba, mối quan hệ dân tộc - dân chủ ( giữa nhiệm vụ chống đế
quốc và chống phong kiến).
- Vấn đề này Đảng ta chỉ rõ: Đây là 2 nhiệm vụ chủ yếu có
quan hệ mật thiết với nhau trong cách mạng dân tộc, dân chủ.
Tuy nhiên trong điều kiện chiến tranh cần phải tập trung vào
nhiệm vụ chống đế quốc giải phóng dân tộc. Đảng chỉ rõ:
"Cuộc cách mạng Đông Dương hiện tại, không phải là cuộc
cách mạng tư sản dân quyền, cuộc cách mạng phải giải quyết
hai vấn đề: phản đế và điền địa nữa, mà là cuộc cách mạng chỉ
giải quyết một vấn đề cần kíp dân tộc giải phóng, vậy thì cách
mạng Đông Dương trong giai đoạn hiện tại là cuộc cách mạng
dân tộc giải phóng"
II. LÃNH ĐẠO ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN
(1930-1945)
‘‘Chưa chủ trương làm cách mạng tư sản dân quyền mà chủ
trương làm cách mạng giải phóng dân tộc’’.
“Đứng trên lập trường giải phóng dân tộc, lấy quyền lợi dân tộc
làm tối cao, tất cả mọi vấn đề của cuộc cách mệnh, cả vấn đề điền
địa cũng phải nhằm vào cái mục đích ấy mà giải quyết” . Khẩu
hiệu “cách mạng ruộng đất” phải tạm gác và thay bằng các khẩu
hiệu chống địa tô cao, chống cho vay lãi nặng, tịch thu ruộng đất
của đế quốc và địa chủ phản bội quyền lợi dân tộc chia cho dân
cày, chia lại ruộng đất công...
Như vậy trong khi giải quyết mối quan hệ dân tộc – dân chủ lúc
này Đảng đã đặt nhiệm vụ dân tộc (chống đế quốc) lên hàng đầu.
II. LÃNH ĐẠO ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN
(1930-1945)
Thứ tư , quan hệ dân tộc - quốc tế
- Đảng chỉ rõ: chiến tranh lần này sẽ tạo điều kiện để cách
mạng nhiều nước thành công, Đảng và nhân dân ta cần phải
tranh thủ mọi sự giúp đỡ quốc tế (với Mỹ) và tích cực, chuẩn
bị mọi mặt để khi tình hình quốc tế thuận lợi kịp thời khởi
nghĩa giành chính quyền với tinh thần: muốn người giúp cho
trước hết mình phải tự giúp mình. Phân tích tình hình lúc này
lãnh tụ Hồ Chí Minh dự báo năm ‘‘bốn lăm cách mạng thành
công’’
- Đảng chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc trong từng nước
Đông Dương, thi hành chính sách ‘‘dân tộc tự quyết ’’ của Lê
nin và thành lập ở mỗi nước Đông dương một Mặt trận riêng
trực tiếp lãnh đạo cách mạng mỗi nước.
II. LÃNH ĐẠO ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN
(1930-1945)
Thứ năm, chủ trương ra sức xây dựng lực lượng để
chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền, coi khởi nghĩa giành
chính quyền là nhiệm vụ trung tâm.
- Chủ trương xây dựng, củng cố, phát triển mặt trận dân tộc
thống nhất để tập hợp lực lượng chống đế quốc và tay sai
(thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế , Mặt trận Việt
minh...)
- Nêu lên phương pháp giành chính quyền: khởi nghĩa từng
phần, giành chính quyền từng địa phương, tiến lên tổng khởi
nghĩa giành chính quyền trên toàn quốc, bằng lực lượng chính
trị của quần chúng là chủ yếu trên tinh thần: đem sức ta mà giải
phóng cho ta; dù phải hy sinh đến đâu, dù phải đốt cháy cả dãy
Trường sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập.
.
II. LÃNH ĐẠO ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN
(1930-1945)
Thứ sáu, chủ trương sau khi cách mạng thành công sẽ thành lập
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa theo tinh thần tân dân chủ, một
hình thức nhà nước “của chung cả toàn thể dân tộc” ; ‘‘chính phủ
dân chủ cộng hòa” .
Như vậy, từ Cương lĩnh chính trị đầu tiên (3- 2- 1930) đến Luận
cương chính trị tháng 10 -1930 và các Hội nghị Trung ương
trong các giai đoạn 1930 – 1935; 1936 – 1939; 1939 – 1945 nhất
là Hội nghị Trung ương 8 ( tháng 5 - 1941) do lãnh tụ Nguyễn
Ái Quốc chủ trì, đường lối đấu tranh của Đảng được xây dựng,
bổ sung, hoàn chỉnh, góp phần quyết định vào thắng lợi của công
cuộc giành chính quyền, làm nên thành công vĩ đại của cách
mạng tháng 8 – 1945.
II. LÃNH ĐẠO ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN
(1930-1945)
2.2. Tổ chức thực hiện đường lối cách mạng.
2.2.1. Xây dựng, phát triển lực lượng cách mạng.
2.2.1.1. Giai đoạn 1930 – 1935.
- Hội nghị Hợp nhất thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam ( 3- 2-
1930) do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chủ trì đã thành công, Đảng
Cộng sản Việt nam ra đời và chính thức nắm giữ ngọn cờ lãnh đạo
cách mạng Việt Nam, tạo ra bước ngoặt của cách mạng nước ta.
Đây là tổ chức chính trị quan trọng nhất của giai cấp công nhân và
dân tộc Việt nam trong lịch sử hiện đại.
- Ban chấp hành lâm thời được cử ra gồm Trịnh Đình Cửu,
Nguyễn Đức Cảnh, Châu Văn Liêm, Nguyễn Thiệu...
II. LÃNH ĐẠO ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN
(1930-1945)
‾ Đến ngày 24-2-1930, việc thống nhất các tổ chức cộng sản
thành một chính đảng duy nhất được hoàn thành với việc Đông
Dương Cộng sản liên đoàn gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam.
‾ Từ ngày 14 đến 31-10-1930, Ban chấp hành Trung ương họp
hội nghị lần thứ nhất tại Hương Cảng (Trung Quốc), quyết định
“bỏ tên Việt Nam cộng sản Đảng mà lấy tên Đông Dương cộng
sản Đảng”.
‾ Bầu Ban chấp hành Trung ương chính thức do Trần Phú làm
Tổng bí thư
II. LÃNH ĐẠO ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN
(1930-1945)
- Sau khi cao trào cách mạng 1930- 1931 nổ ra và chính quyền theo kiểu
Xô viết được thành lập ở một số nơi trong tỉnh Nghệ An và Hà tĩnh, TD
Pháp đã tiến hành đàn áp, khủng bố dã man Đảng và quần chúng, cách
mạng Việt Nam bị tổn thất nặng nề, hàng nghìn chiến sĩ cộng sản, hàng
vạn người yêu nước bị bắt, bị giết hoặc bị tù đày. Toàn bộ Ban chấp hành
Trung ương Đảng bị bắt, không còn lại một uỷ viên nào. “Các tổ chức
của Đảng và của quần chúng tan rã hầu hết” .
- Ngày 6-9-1931, đồng chí Tổng bí thư Trần Phú hy sinh để lại lời dặn:
“Hãy giữ vững chí khí chiến đấu’’
- Cuộc đấu tranh chống khủng bố, bảo vệ Đảng và phong trào cách
mạng, bảo vệ lý tưởng, giữ vững khí tiết, nâng cao nhận thức lý luận
được tiến hành mạnh mẽ và có thu được nhiều kết quả tích cực.
II. LÃNH ĐẠO ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN
(1930-1945)
- Ngày 18- 11- 1930, Thường vụ Trung ương Đảng ban hành Chỉ
thị về vấn đề thành lập Hội phản đế Đồng minh, để tập hợp, đoàn
kết các giai cấp, tầng lớp, dân tộc nhằm xây dựng và phát triển
lực lương cách mạng
- Tháng 1-1931, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Thông cáo
về việc đế quốc Pháp buộc dân cày ra đầu thú, vạch rõ thủ đoạn
của kẻ thù và đề ra các biện pháp hướng dẫn quần chúng đấu
tranh.
- Tháng 5-1931, Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị nghiêm
khắc phê phán chủ trương sai lầm về thanh Đảng của xứ ủy
Trung kỳ và vạch ra phương hướng xây dựng Đảng vững mạnh,
tránh tư tưởng tả khuynh.
II. LÃNH ĐẠO ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN
(1930-1945)
- Các cuộc đấu tranh của các đảng viên và quần chúng chống chế
độ tù đày hà khắc, tàn ác diễn ra quyết liệt.
- Nhiều Chi bộ Đảng trong nhà tù tổ chức huấn luyện, bồi dưỡng
lý luận Mác – Lê nin, đường lối chính trị, kinh nghiệm vận động
cách mạng; tổ chức học văn hóa, ngoại ngữ, xuất bản các báo bí
mật...
- Đầu năm 1932, theo chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, Lê Hồng
Phong cùng một số đảng viên tổ chức ra Ban lãnh đạo Trung
ương, công bố Chương trình hành động của Đảng Cộng sản Đông
Dương, và các chương trình hành động của Công hội, Nông hội,
Thanh niên cộng sản đoàn… Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng
bước đầu được khôi phục.
II. LÃNH ĐẠO ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN
(1930-1945)
- Đầu năm 1934, theo sự chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản, Ban Chỉ
huy ở ngoài của
“
Đảng cộng sản Đông Dương được thành lập,
hoạt động như một Ban chấp hành Trung ương lâm thời.
- Đầu năm 1935, hệ thống tổ chức của Đảng được phục hồi. Đó
là cơ sở để tiến tới Đại hội lần thứ nhất của Đảng.
- Tháng 3-1935, Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng họp ở
Ma Cao (Trung Quốc. Đại hội lần thứ nhất đánh dấu sự phục hồi
hệ thống tổ chức của Đảng và phong trào cách mạng quần
chúng, tạo điều kiện để bước vào một cao trào cách mạng mới.
- Đại hội bầu Lê Hồng Phong làm Tổng bí thư.
II. LÃNH ĐẠO ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN
(1930-1945)
- Tháng 5-1941, sau khi về nước Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội
nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung ương và chỉ rõ: “Vấn đề
chính là nhận định cuộc cách mạng trước mắt của Việt Nam là
một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, lập Mặt trận Việt Minh,
khẩu hiệu chính là: Đoàn kết toàn dân, chống Nhật, chống Pháp,
tranh lại độc lập; hoãn cách mạng ruộng đất” .
- Bầu Trường Chinh chính thức làm Tổng bí thư
- Hội nghị đã hoàn chỉnh chủ trương chiến lược được đề ra từ Hội
nghị tháng 11-1939, trở thành ngọn cờ dẫn đường cho toàn dân
Việt Nam đẩy mạnh công cuộc chuẩn bị lực lượng, tiến lên trong
sự nghiệp đánh Pháp, đuổi Nhật, giành độc lập, tự do.
II. LÃNH ĐẠO ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN
(1930-1945)
- Ngày 26-8-1941, thực dân Pháp xử bắn Nguyễn Văn Cừ, Phan
Đăng Lưu, Hà Huy Tập, Võ Văn Tần, Nguyễn Thị Minh Khai tại
Hóc Môn, Gia định. Lê Hồng Phong hy sinh trong nhà tù Côn
Đảo. Tháng 8-1942, Nguyễn Ái Quốc trên đường đi công tác ở
Trung Quốc cũng bị quân Trung Hoa dân quốc bắt giữ hơn một
năm (từ tháng 8-1942 đến tháng 9-1943).
- Tháng 2-1943, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp ở Võng La
(Đông Anh, Phúc Yên), đề ra những biện pháp cụ thể nhằm phát
triển phong trào quần chúng rộng rãi và đều khắp nhằm chuẩn bị
điều kiện cho cuộc khởi nghĩa trong tương lai có thể nổ ra ở
những trung tâm đầu não của quân thù
II. LÃNH ĐẠO ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN
(1930-1945)
- Bước vào tháng 8 – 1945 tình thế cách mạng đã xuất hiện, ta đã
làm chủ ở nhiều vùng rộng lớn, các tầng lớp nhân dân đã sục sôi
ý chí giành độc lập, Đảng đã chuẩn bị sẵn sàng khởi nghĩa giành
chính quyền. Ngày 15-8-1945 Nhật đầu hàng Đồng minh.
- Ngày 13-8-1945, Trung ương Đảng thành lập Ủy ban Khởi
nghĩa toàn quốc và 23 giờ cùng ngày, Ủy ban Khởi nghĩa toàn
quốc ban bố “Quân lệnh số 1”, phát đi lệnh tổng khởi nghĩa trong
toàn quốc.
- Ngày 14 và 15-8-1945 Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân
Trào, quyết định phát động toàn dân nổi dậy tổng khởi nghĩa
giành chính quyền từ tay phát xít Nhật trước khi quân Đồng minh
vào nước ta.
II. LÃNH ĐẠO ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN
(1930-1945)
- Ngày 16-8-1945, Đại hội quốc dân họp tại Tân Trào (Tuyên
Quang). Về dự đại hội có khoảng 60 đại biểu. Đại hội tán thành
quyết định tổng khởi nghĩa của Đảng, thông qua 10 chính sách
lớn của Việt Minh, lập Ủy ban giải phóng dân tộc Việt Nam do Hồ
Chí Minh làm Chủ tịch.
- Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta nhất tề vùng dậy với ý
chí dù hy sinh đến đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng
kiên quyết giành cho được độc lập. Ngày 19 - 8 - 1945 ta giành
thắng lợi ở Hà nội; 23 - 8 ở Huế và 25 - 8 ở Sài Gòn, kết thúc
thắng lợi cuộc đấu tranh đầy gian khổ và hy sinh, đưa Đảng ta trở
thành Đảng cầm quyền sớm nhất ở Đông Á,
II. LÃNH ĐẠO ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN
(1930-1945)
- Từ tháng 5-1930, phong trào phát triển thành cao trào. Riêng
trong tháng 5-1930 đã nổ ra 16 cuộc bãi công của công nhân, 34
cuộc biểu tình của nông dân và 4 cuộc đấu tranh của các tầng lớp
nhân dân thành thị. Từ tháng 6 đến tháng 8-1930 đã nổ ra 121
cuộc đấu tranh, nổi bật nhất là cuộc tổng bãi công của công nhân
khu Bến Thủy-Vinh (8-1930), đánh dấu “một thời kỳ mới, thời kỳ
đấu tranh kịch liệt đã đến” .
- Phong trào đấu tranh của nông dân cũng diễn ra ở nhiều địa
phương như Hà Nam, Thái Bình, Nghệ An, Hà Tĩnh… Truyền
đơn, cờ đỏ búa liềm xuất hiện trên các đường phố Hà Nội và
nhiều địa phương.
II. LÃNH ĐẠO ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN
(1930-1945)
- Từ cuối năm 1930, Thực dân Pháp tập trung lực lượng đàn áp.
Hàng nghìn chiến sĩ cộng sản, hàng vạn người yêu nước bị bắt, bị
giết hoặc bị tù đày. “Các tổ chức của Đảng và của quần chúng tan
rã hầu hết” .
- Tuy bị đế quốc và tay sai dìm trong biển máu, nhưng cao trào
cách mạng năm 1930 là bước thắng lợi đầu tiên có ý nghĩa quyết
định đến tiến trình phát triển về sau của cách mạng Việt Nam. Nó
đã “khẳng định trong thực tế quyền lãnh đạo và năng lực lãnh
đạo cách mạng của giai cấp vô sản mà đại biểu là Đảng ta; Đó là
bước thắng lợi đầu tiên có ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ tiến
trình phát triển về sau của cách mạng ’’ .
II. LÃNH ĐẠO ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN
(1930-1945)
- Cao trào cũng để lại cho Đảng những kinh nghiệm quý báu “về
kết hợp hai nhiệm vụ chiến lược phản đế và phản phong kiến, kết
hợp phong trào đấu tranh của công nhân với phong trào đấu tranh
của nông dân, thực hiện liên minh công nông dưới sự lãnh đạo
của giai cấp công nhân; kết hợp phong trào cách mạng ở nông
thôn với phong trào cách mạng ở thành thị, kết hợp đấu tranh
chính trị với đấu tranh vũ trang v.v…” .
- Phong trào đã rèn luyện, sàng lọc, đào tạo được một lực lượng
quần chúng kiên trung, một đội ngũ cán bộ, Đảng viên kiên
cường, hết sức trung thành với Đảng, gắn bó máu thịt với nhân
dân. Đây là nhân tố cơ bản để Đảng thực hiện thành công việc
khôi phục tổ chức Đảng và phong trào cách mạng giai đoạn 1932-
II. LÃNH ĐẠO ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN
(1930-1945)
2.2.2.2. Phong trào Dân chủ 1936- 1939
- Nắm vững tình hình trong và ngoài nước lúc này, Đảng đã phát
động phong trào đấu tranh mạnh mẽ đòi tự do, dân chủ, cơm áo,
hòa bình nhằm gây ảnh hưởng của Đảng trong quần chúng, tập
hợp và xây dựng lực lượng cách mạng. Đó là phong trào Dân chủ.
- Mở đầu bằng cuộc vận động lập “Ủy ban trù bị Đông Dương
đại hội” nhằm thu thập nguyện vọng quần chúng, tiến tới triệu tập
Đại hội đại biểu nhân dân Đông Dương. Hưởng ứng chủ trương
của Đảng, quần chúng sôi nổi tổ chức các cuộc mít tinh, hội họp
để tập hợp “dân nguyện”, lập Ủy ban hành động. Riêng ở Nam
Kỳ có 600 ủy ban hành động.
II. LÃNH ĐẠO ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN
(1930-1945)
- Đầu năm 1937, nhân dịp phái viên của chính phủ Pháp là Gôđa
(Godard) đi kinh lý Đông Dương và Brêviê (Brévié) sang nhận
chức toàn quyền Đông Dương, Đảng vận động hai cuộc biểu
dương lực lượng quần chúng dưới danh nghĩa “đón rước”, mít
tinh, biểu tình, đưa đơn “dân nguyện”.
- Các báo của Đảng, Mặt trận Dân chủ Đông Dương ra đời.
Nhiều sách chính trị được xuất bản để giới thiệu chủ nghĩa Mác-
Lênin và chính sách mới của Đảng. Cuốn Vấn đề dân cày của Qua
Ninh (Trường Chinh) và Vân Đình (Võ Nguyên Giáp) tố cáo tội
ác của đế quốc và phong kiến đối với nông dân và làm rõ vai trò
quan trọng của nông dân trong cách mạng.
II. LÃNH ĐẠO ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN
(1930-1945)
- Tháng 7- 1936 Đảng quyết định thành lập Mặt trận nhân dân
phản đế (đến tháng 3 – 1938 đổi tên thành Mặt trận Dân chủ) để
tập hợp rộng rãi mọi lực lượng yêu nước và dân chủ đấu tranh
đòi dân sinh, dân chủ.
- Theo sáng kiến của Đảng, Hội truyền bá quốc ngữ ra đời. Từ
cuối năm 1937 phong trào truyền bá quốc ngữ phát triển mạnh.
- Các hình thức tổ chức quần chúng phát triển rộng rãi, bao gồm
các hội tương tế, hội ái hữu. Trong những năm 1937-1938, Mặt
trận Dân chủ còn tổ chức các cuộc vận động tranh cử vào các
Viện dân biểu Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Hội đồng quản hạt Nam Kỳ,
Hội đồng kinh tế lý tài Đông Dương.
II. LÃNH ĐẠO ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN
(1930-1945)
- Qua cuộc vận động Dân chủ, đội quân chính trị quần chúng
gồm hàng triệu người được tập hợp, giác ngộ và rèn luyện. Uy tín
và ảnh hưởng của Đảng được mở rộng. Tổ chức Đảng được củng
cố và phát triển. Đến tháng 4-1938, Đảng có 1.597 đảng viên
hoạt động bí mật và hơn 200 đảng viên hoạt động công khai. Số
hội viên trong các tổ chức quần chúng 35.009 người.
- Đảng tích lũy thêm nhiều kinh nghiệm mới. Đó là kinh nghiệm
về chỉ đạo chiến lược: giải quyết mối quan hệ giữa mục tiêu
chiến lược và mục tiêu trước mắt; về xây dựng một mặt trận
thống nhất rộng rãi phù hợp với yêu cầu của nhiệm vụ chính trị;
II. LÃNH ĐẠO ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN
(1930-1945)
về kết hợp các hình thức tổ chức và đấu tranh; về phân hóa và cô
lập cao độ kẻ thù nguy hiểm nhất Đặc biệt thực tiễn phong trào chỉ
ra rằng: “Việc gì đúng với nguyện vọng nhân dân thì được quần
chúng nhân dân ủng hộ và hăng hái đấu tranh, và như vậy mới thật
là một phong trào quần chúng” .
- Phong trào Dân chủ 1936-1939 đã làm cho trận địa và lực lượng
cách mạng được mở rộng ở cả nông thôn và thành thị, thực sự là
một bước chuẩn bị hết sức quan trọng cho thắng lợi của Cách mạng
Tháng Tám sau này.
II. LÃNH ĐẠO ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN
(1930-1945)
- Ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, đầu năm 1945 đã xảy ra nạn đói
nghiêm trọng. Đảng đã phát động phong trào “phá kho thóc của
Nhật, giải quyết nạn đói”. Tại nhiều địa phương, quần chúng tự vũ
trang, xung đột với binh lính và chính quyền Nhật, biến thành
những cuộc khởi nghĩa từng phần, giành quyền làm chủ. Bộ máy
chính quyền Nhật nhiều nơi bị tê liệt.
- Cùng với việc đẩy mạnh xây dựng lực lượng chính trị, Đảng
chú trọng chuẩn bị lực lượng vũ trang và căn cứ địa cách mạng.
- Đội du kích Bắc Sơn được duy trì và phát triển thành Cứu quốc
quân.
II. LÃNH ĐẠO ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN
(1930-1945)
- Ngày 22-12-1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
do Võ Nguyên Giáp tổ chức ra đời ở Cao Bằng. Ngày 15-5-1945,
hai tổ chức này hợp nhất thành Việt Nam giải phóng quân. Các lực
lượng bán vũ trang cũng được phát triển và bảy chiến khu được
xây dựng trong cả nước.
- Theo chỉ đạo của Hồ Chí Minh, ngày 4-6-1945, khu giải phóng
gồm hầu hết các tỉnh Cao - Bắc - Lạng – Hà – Tuyên - Thái và một
số vùng lân cận chính thức được thành lập và trở thành căn cứ địa
của cả nước. Ủy ban lâm thời khu giải phóng được thành lập và thi
hành các chính sách của Việt Minh.
II. LÃNH ĐẠO ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN
(1930-1945)
- Chiến tranh du kích cục bộ và khởi nghĩa từng phần nổ ra ở
vùng thượng du và trung du Bắc kỳ. Việt Nam tuyên truyền giải
phóng quân và Cứu quốc quân phối hợp với lực lượng chính trị
giải phóng hàng loạt xã, châu, huyện thuộc các tỉnh Cao - Bắc -
Lạng – Hà - Tuyên - Thái… Khởi nghĩa Ba Tơ (Quảng Ngãi)
thắng lợi, đội du kích Ba Tơ được thành lập và xây dựng căn cứ
Ba Tơ.
- Trong các đô thị, nhất là những thành phố lớn, các đội danh dự
Việt Minh đẩy mạnh hoạt động vũ trang tuyên truyền, diệt ác trừ
gian, tạo điều kiện phát triển các tổ chức cứu quốc trong các tầng
lớp nhân dân thành thị và xây dựng lực lượng tự vệ cứu quốc
II. LÃNH ĐẠO ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN
(1930-1945)
- Những chuyển biến của tình hình trong và ngoài nước lúc này
đã dẫn đến xuất hiện thời cơ cách mạng cho Việt Nam và nó chỉ
tồn tại trong thời gian ngắn (từ khi Nhật đầu hàng Đồng minh,
15/8 đến cuối tháng 8, trước khi quân Đồng minh vào nước ta).
- Ba đặc trưng chủ yếu của thời cơ
+ Kẻ thù cách mạng đã suy yếu cực độ về lực lượng, hoang
mang về tinh thần, rệu rã về tổ chức
+ Đa số quần chúng đã đi theo cách mạng
+ Đội tiên phong lãnh đạo cách mạng đã chuẩn bị đủ lực lượng
và sẵn sàng lãnh đạo khởi nghĩa giành chính quyền.
II. LÃNH ĐẠO ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN
(1930-1945)