Qs

You might also like

Download as pptx, pdf, or txt
Download as pptx, pdf, or txt
You are on page 1of 4

1) Thâm hụt NSNN trong dài hạn sẽ làm gia tang gánh nặng nợ trong tương lai vì vậy

cần hạn
chế thâm hụt NS.
Thâm hụt ngân sách nhà nước trong dài hạn sẽ dẫn đến việc gia tăng gánh nặng nợ trong
tương lai vì những lý do sau:
Lãi suất: Khi chính phủ vay nợ, họ sẽ phải trả lãi cho các khoản vay. Lãi suất là chi phí cho việc
vay tiền, và nó có thể tăng theo thời gian. Do đó, thâm hụt ngân sách trong dài hạn sẽ dẫn đến
việc chính phủ phải trả nhiều lãi hơn cho các khoản vay, từ đó làm gia tăng gánh nặng nợ.
Nợ gốc: Khi chính phủ vay nợ, họ sẽ phải trả lại khoản vay gốc vào một thời điểm nhất định
trong tương lai. Do đó, thâm hụt ngân sách trong dài hạn sẽ dẫn đến việc chính phủ phải trả lại
nhiều nợ gốc hơn, từ đó làm gia tăng gánh nặng nợ.
Tác động đến tăng trưởng kinh tế: Gánh nặng nợ cao có thể ảnh hưởng tiêu cực đến tăng
trưởng kinh tế. Khi chính phủ phải dành nhiều nguồn lực tài chính để trả nợ, họ sẽ có ít nguồn lực
hơn để đầu tư vào các lĩnh vực khác, chẳng hạn như giáo dục, y tế và cơ sở hạ tầng. Điều này có
thể dẫn đến việc giảm năng suất lao động và tăng trưởng kinh tế chậm lại.
Do đó, cần hạn chế thâm hụt ngân sách nhà nước trong dài hạn để giảm thiểu gánh nặng
nợ và đảm bảo sự phát triển bền vững của nền kinh tế.
2) Đi vay trong nước làm thoái lui đầu tư ở khu vực tư nhân vì vậy CP cần ưu tiên vay trong nước để tài
trợ cho các dự án đầu tư công.
Có một số lý do khiến việc vay trong nước có thể làm thoái lui đầu tư ở khu vực tư nhân:
Nâng lãi suất: Khi chính phủ vay tiền trong nước, họ sẽ cạnh tranh với khu vực tư nhân để lấy vốn. Điều này có thể
dẫn đến việc lãi suất tăng lên, khiến cho việc vay vốn trở nên đắt đỏ hơn cho các doanh nghiệp và người tiêu dùng.
Gây áp lực lên giá cả: Khi chính phủ vay tiền, họ sẽ in thêm tiền để trả cho các khoản vay. Điều này có thể dẫn đến
việc tăng cung ứng tiền tệ, từ đó gây áp lực lên giá cả và dẫn đến lạm phát.
Dẫn đến việc dịch chuyển nguồn vốn: Khi chính phủ vay tiền, họ sẽ thu hút nguồn vốn từ các kênh đầu tư khác,
chẳng hạn như thị trường chứng khoán hoặc thị trường bất động sản. Điều này có thể dẫn đến việc giảm giá cổ
phiếu và bất động sản, từ đó làm giảm đầu tư của khu vực tư nhân.
Tuy nhiên, cũng có một số lý do khiến việc vay trong nước có thể không làm thoái lui đầu tư ở khu vực tư
nhân:
Tăng niềm tin của nhà đầu tư: Khi chính phủ có trách nhiệm tài chính và quản lý nợ hiệu quả, việc vay trong
nước có thể giúp tăng niềm tin của nhà đầu tư vào nền kinh tế. Điều này có thể dẫn đến việc tăng đầu tư của khu vực
tư nhân.
Cải thiện cơ sở hạ tầng: Khi chính phủ vay tiền để đầu tư vào cơ sở hạ tầng, chẳng hạn như đường sá, cầu cống và
trường học, điều này có thể giúp cải thiện môi trường kinh doanh và khuyến khích đầu tư của khu vực tư nhân.
Giảm bớt rủi ro tài chính: Khi chính phủ vay tiền trong nước, họ sẽ ít bị ảnh hưởng bởi những thay đổi về lãi suất
và tỷ giá hối đoái trên thị trường quốc tế. Điều này có thể giúp giảm bớt rủi ro tài chính cho nền kinh tế.
-> Do đó, việc vay trong nước có thể làm thoái lui đầu tư ở khu vực tư nhân hay không phụ thuộc vào một số
yếu tố, bao gồm tình hình tài chính của chính phủ, môi trường kinh tế vĩ mô và hiệu quả của các chính sách
kinh tế.
Trong trường hợp của Việt Nam, việc vay trong nước đã có một số tác động tiêu cực đến đầu tư của
khu vực tư nhân trong những năm gần đây.
Lãi suất tăng: Lãi suất cho vay trung hạn và dài hạn của Việt Nam đã tăng đáng kể trong những năm gần
đây, do một phần là do chính phủ vay nhiều tiền để tài trợ cho các dự án đầu tư công. Điều này đã khiến cho
việc vay vốn trở nên đắt đỏ hơn cho các doanh nghiệp và người tiêu dùng, từ đó làm giảm đầu tư.
Gây áp lực lên giá cả: Việc vay trong nước của chính phủ cũng đã góp phần gây áp lực lên giá cả, dẫn đến
lạm phát tăng cao. Điều này đã khiến cho môi trường kinh doanh trở nên khó khăn hơn cho các doanh
nghiệp và làm giảm niềm tin của nhà đầu tư.
Dẫn đến việc dịch chuyển nguồn vốn: Việc vay trong nước của chính phủ cũng đã thu hút nguồn vốn từ
các kênh đầu tư khác, chẳng hạn như thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản. Điều này đã dẫn
đến việc giảm giá cổ phiếu và bất động sản, từ đó làm giảm đầu tư của khu vực tư nhân.
Do đó, chính phủ Việt Nam cần cân nhắc kỹ lưỡng trước khi vay trong nước để tài trợ cho các dự án
đầu tư công. Chính phủ cần đảm bảo rằng việc vay vốn không gây ra những tác động tiêu cực đến đầu tư
của khu vực tư nhân.
Có một số giải pháp mà chính phủ Việt Nam có thể áp dụng để giảm thiểu tác động tiêu cực của việc
vay trong nước đến đầu tư của khu vực tư nhân:
Tăng cường quản lý tài chính: Chính phủ cần tăng cường quản lý tài chính và quản lý nợ hiệu quả để đảm
bảo rằng việc vay vốn không gây ra gánh nặng tài chính cho nền kinh tế.
Cải thiện môi trường kinh doanh: Chính phủ cần cải thiện môi trường kinh doanh để khuyến khích đầu tư
của khu vực tư nhân. Điều này bao gồm việc giảm bớt thủ tục hành chính, cải thiện cơ sở hạ tầng và nâng
3) Tỷ trọng trong NSNN: Chi thường xuyên (1)-> chi đầu tư phát triển (2)
4) Chi tx luôn chiếm tỷ trọng lớn nhất
5) Tính chất khác nhất của 2 cái trên: chi TX có tính chất tiêu dùng ở thời điểm hiện tại, chi
đầu tư có tính chất duy trì, trong mỗi một giai đoạn thì cơ cấu của 2 khoản chi là khác nhau
6) Thủ tục thuế do tổng cục thuế và hải quan còn nơi nắm giữ tiền là kho bạc
7) Tổng thu ns thực hiện trên địa bàn càng lớn -> tỷ lệ điều tiết càng NHỎ
-> SAI. Còn tùy vào Chi và cơ cấu nguồn thu
8) Quỹ tiền tệ lớn nhất gắn với Nhà nước là Quỹ Ngân sách
9) Tại sao có quỹ NSNN rồi mà vẫn cần có quỹ Nhà nước ngoài ngân sách? 10.3 tr385
10) Sử dụng nợ công ntn để hướng tới mục tiêu phát triển bền vững?

You might also like