Professional Documents
Culture Documents
2. Chuyện Cũ Trong Phủ Chúa Trịnh
2. Chuyện Cũ Trong Phủ Chúa Trịnh
b) Ấn tượng nhất là cảnh đêm nơi vườn nhà chúa qua đoạn văn “mỗi khi đêm thanh cảnh
vắng, tiếng chim kêu, vượn kêu ran khắp bốn bề, hoặc nửa đêm ồn ào như mưa sa gió
táp, vỡ tổ tan đàn, kẻ thức giả biết đó là triệu bất tường”
- Cảnh được miêu tả thực nhưng âm thanh lại gợi cảm giác ghê rợn trước một cái gì tan
tác đau thương chứ không phải cảnh đẹp yên bình, phồn thực. “Triệu bất tường” tức là
điềm gở, điềm chẳng lành. Hình ảnh ẩn dụ tả cảnh bất thường của đêm thanh vắng như
dự báo trước sự suy vong tất yếu của một triều đại chỉ biết chăm lo đến chuyện ăn chơi,
hưởng lạc trên mồ hôi nước mắt và cả xương máu của dân lành. Cảm xúc chủ quan của
tác giả đến đây mới được bộc lộ.
2. Sự tham lam nhũng nhiễu của bọn quan lại hầu cận trong phủ chúa
-Thời Trịnh Sâm, bọn quan lại hầu cận trong phủ chúa rất được sủng ái, bởi chúng có thể
giúp chúa đắc lực trong việc bày trò ăn chơi, hưởng lạc. Do thế, chúng cũng ỷ thế nhà
chúa mà hoành hành, tác oai tác quái trong nhân dân.
-Để phục vụ cho sự hưởng lạc ấy, chúa cũng như các quan lại trở thành kẻ cướp ngày.
Chúng ra sức hoành hành trấn lột khắp nơi trong thành tìm đồ vật, cây cối đẹp, con thú
cướp về trang trí cho phủ chúa lộng lẫy, xa hoa “ bao nhiêu loài trân cầm dị thú, cổ mộc
quái thạch, chậu hoa cây cảnh ở chốn nhân gian, chúa đều ra sức thu lấy “trong phủ bày
vẽ ra hình ảnh núi non bộ, trông như bến bể đầu non” Chúa có những vật quý ấy thì bao
nhiêu người dân bị ăn cướp trắng trợn. Bọn quan lại thường mượn gió bẻ măng, ngoài
dọa dẫm “dò xem nhà nào có vật quý thì biên vào hai chữ “phụng thủ” đem cho người
lấy phăng đi. Rồi vừa ăn cướp vừa la làng, chúng còn dọa giấu vật cung phụng để lấy
tiền của dân”. Người dân vừa bị cướp vật quý vừa bị đòi tiền, có khi lại còn phải tự tay
phá hủy những thứ mình đã chăm sóc, nuôi trồng để tránh khỏi tai vạ. Còn bọn hoạn
quan đối với chúa thì được khen, được thưởng, được thăng quan tiến chức, trong khi tiền
ních đầy túi, một công mà lợi cả đôi đường
- Đoạn văn cuối là chi tiết kể rất thật về gia đình của chính tác giả: đã phải sai chặt đi một
cây lê và hai cây lựu quý rất đẹp trong vườn nhà mình để tránh tai vạ. Đây không chỉ là
điều tác giả mắt thấy tai nghe, mà còn là điều ông đã trải qua nên rất có sức thuyết phục.
Cảm xúc của tác giả (thái độ bất bình, phê phán) cũng được gửi gắm kín đáo qua nó
Đề số 3
Đọc đoạn sau và trả lời các câu hỏi bên dưới:
Khoảng năm Giáp Ngọ, Ất Mùi (1774 - 1775) trong nước vô sự, Thịnh Vượng (Trịnh
Sâm) thích chơi đèn đuốc, thường ngự ở các li cung trên Tây Hồ, núi Tử Trầm, núi Dũng
Thúy. Việc xây dựng đền đài cứ liên miên. Mỗi tháng ba bốn lần, Vương ra cung Thụy
Liên trên bờ Tây Hồ, binh lính dàn hồ vòng quanh bốn mặt hồ, các nội thần thì đều bịt
kín khăn, mặc áo như đàn bà, bày bách hóa chung quanh bờ hồ để bán. Thuyền ngự đến
đâu thì các quan hỗ tụng đại thần tùy ý ghé vào bờ mua bán các thứ như ở cửa hàng
trong chợ. Cũng có lúc cho bọn nhạc công ngồi trên gác chuông chùa Trấn Quốc, hay
dưới bóng cây bến đá nào đó, hòa vài khúc nhạc
1.Xác định các phương thức biểu đạt trong đoạn trên?
2.Tìm một câu đơn và một câu ghép trong đoạn trên?
3.Nêu nội dung chính của đoạn trên?
4. Viết đoạn văn ngắn từ 10 đến 15 câu nêu cảm nhận của mình về cuộc sống của chúa
Trịnh thông qua văn bản “Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh”?
* Gợi ý giải
1. Các phương thức biểu đạt: tự sự, miêu tả 2.
-Câu đơn: Khoảng năm Giáp Ngọ, Ất Mùi (1774 - 1775) trong nước vô sự, Thịnh Vượng
(Trịnh Sâm) thích chơi đèn đuốc, thường ngự ở các li cung trên Tây Hồ, núi Tử Trầm, núi
Dũng Thúy.
-Câu ghép: Mỗi tháng ba bốn lần, Vương ra cung Thụy Liên trên bờ Tây Hồ, binh lính dàn
hồ vòng quanh bốn mặt hồ, các nội thần thì đều bịt kín khăn, mặc áo như đàn bà, bày bách
hóa chung quanh bờ hồ để bán.
3.Nội dung chính: Thói ăn chơi xa đọa của vua chúa và nhũng nhiễu của bọn vua chúa,
quan lại thời Trịnh được Phạm Đình Hổ miêu tả rất cụ thể, sinh động.
4.Tham khảo đoạn sau:
"Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh" phản ánh cuộc sống xa hoa, hưởng lạc của vua chúa
và quan lại Lê - Trịnh ở thế kỉ XVIII. Thói ăn chơi xa xỉ của chúa Trịnh và các quan lại
hầu cận trong phủ chúa được miêu tả rất sinh động, cụ thể hoàn toàn tương phản đối lập
với cuộc sống đói khổ, túng quẫn của nhân dân: Chúa cho xây dựng nhiều đền đài, điện
các liên miên ở khắp mọi nơi để phục vụ cho thú chơi đèn đuốc, ngao du vô độ, rất hao
tiền, tốn của. Để thỏa sở thích, chúa bày ra các cuộc dạo chơi tốn kém ở các li cung
ngoài kinh thành: "mỗi tháng ba bốn lần". Chúa tổ chức các trò chơi, đám rước, hội
chợ, âm nhạc lố bịch, kệch cỡm để làm trò giải trí: các quan nội thần thì mặc áo đàn bà
bày bán hàng quanh phủ Tây Hồ; thuyền đi đến đâu thì các quan đại thần hỗ tụng đến
đó, chốc chốc lại ghé vào bờ mua bán các thứ như ở cửa hàng trong chợ. Đỉnh điểm của
sự kệch cỡm, lố lăng là chúng đã biến ngôi chùa Trấn Quốc cổ kính, linh thiêng trang
nghiêm (tứ trấn Thăng Long Hà Nội) trở thành nơi hòa nhạc, ca vũ mua vui: "Cũng có
lúc cho bọn nhạc công ngồi trên gác chuông chùa Trấn Quốc, hay dưới bóng cây bến đá
nào đó, hòa vài khúc nhạc". Như vậy, ngay ở phần đầu của văn bản, tác giả đã cho thấy
được cuộc sống ăn chơi xa hoa, hưởng lạc của vua chúa quan lại Lê Trịnh với những
việc làm tốn kém, vô bổ đến mức kệch cỡm, lố lăng. Qua đó, tác giả gián tiếp phản ánh
và tố cáo hiện thực bằng một giọng văn châm biếm, đả kích. Đồng thời cho thấy được
bản chất của vua chúa quan lại Lê Trịnh: yếu hèn, nhu nhược, tham lam, ích kỉ.
Đề số 4
Đọc đoạn văn sau và trả lời các câu hỏi bên dưới:
Bọn hoạn quan cung giám lại thường nhờ gió bẻ măng, ra ngoài dọa dẫm. Họ dò xem
nhà nào có chậu hoa cây cảnh, chim tốt khướu hay, thì biên ngay hai chữ “phụng thủ”
vào. Đêm đến, các cậy trèo qua tường thành lẻn ra, sai tay chân binh lính đến lấy phăng
đi, rồi buộc cho tội đem giấu vật cung phụng để dọa lấy tiền. Hòn đá hoặc cây cối gì to
lớn quá, thậm chí phải phá hủy tường nhà để khiêng ra. Các nhà giàu bị họ vu cho là
giấu vật cung phụng, thường phải bỏ của ra kêu van chí chết, có khi phải đập bỏ núi non
bộ, hoặc phá bỏ cây cảnh để tránh khỏi tai vạ. Nhà ta ở phường Hà Khẩu, huyện Thọ
Xương, trước nhà tiền đường có trồng một cây lê, cao vài mươi trượng, lúc nở hoa, trắng
xóa thơm lừng; trước nhà trung đường cũng trồng hai cây lựu trắng, lựu đỏ, lúc ra quả
trông rất đẹp, bà cung nhân ta sai chặt đi cũng vì cớ ấy.
1.Đoạn văn trên được trích trong văn bản nào? Do ai sáng tác?
2.Tìm một câu đơn, một câu ghép có trong đoạn trên?
3.Bọn quan lại hầu cận trong phủ chúa đã nhũng nhiễu dân bằng những thủ đoạn nào?
4.Nêu nội dung chính của đoạn trên?
* Gợi ý giải
1. Trích trong ‘Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh” của Phạm Đình Hổ 2.
-Câu đơn: Bọn hoạn quan cung giám lại thường nhờ gió bẻ măng, ra ngoài dọa dẫm.
-Câu ghép: Nhà ta ở phường Hà Khẩu, huyện Thọ Xương, trước nhà tiền đường có trồng
một cây lê, cao vài mươi trượng, lúc nở hoa, trắng xóa thơm lừng; trước nhà trung
đường cũng trồng hai cây lựu trắng, lựu đỏ, lúc ra quả trông rất đẹp, bà cung nhân ta
sai chặt đi cũng vì cớ ấy.
3. Sự tham lam, nhũng nhiễu của bọn quan lại ở phủ chúa.
-Thời chúa Trịnh Sâm, bọn quan lại lớn nhỏ trong phủ đều được sủng ái, chúng là tay
chân đắc lực bày ra các trò ăn chơi, hưởng lạc cho chúa.
-Chúng ỷ thế vào chúa để ra ngoài ăn chơi, hưởng lạc, sách nhiễu dân chúng: “bọn hoạn
quan cung giám thường nhờ gió bẻ măng, ra ngoài dọa dẫm”.
-Bọn quan lại ra sức cướp bóc, trấn lột khắp nơi, chúng “vừa ăn cướp vừa la làng”.
4. Nội dung chính: Trình bày sự nhũng nhiễu của bọn quan lại dưới quyền
BÀI 3. LUYỆN CÁC DẠNG ĐỀ VIẾT TẬP LÀM
I. Viết đoạnVĂN
văn từ 10-15 dòng nêu ý nghĩa của đoạn văn sau "Nhà ta ở phường Hà
Khẩu, huyện Thọ Xương, trước nhà Tiền đường có trồng một cây lê, cao vài mươi
trượng, lúc nở hoa, trắng xoá thơm lừng; trước nhà trung đường cũng trồng hai cây lựu
trắng, lựu đỏ, lúc ra quả trông rất đẹp, bà cung nhân ta sai chặt đi cũng vì cớ ấy."
(Phạm Đình Hổ - Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh - Ngữ văn 9 tập 1)
* Gợi ý:
a. Mở đoạn:
-Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm
-Đoạn văn được trích trong văn bản "Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh" - Phạm Đình Hổ -
Ngữ văn 9 tập 1
b. Thân đoạn:
-Tác giả kể lại một sự việc đã từng xảy ra ngay tại gia đình mình. Bà mẹ của tác giả đã
phải sai chặt đi một cây lê và hai cây lựu quý rất đẹp trong vườn nhà mình để tránh tai hoạ.
-Ý nghĩa: Cách dẫn dắt câu chuyện làm tăng sức thuyết phục cho những chi tiết chân thực
mà tác giả đã ghi chép, cách viết phong phú và sinh động. Qua đó cảm xúc của tác giả (thái
độ bất bình, phê phán) cũng được gửi gắm một cách kín đáo. Sự vật được kể mang tính
khách quan.
c. Kết đoạn:
- Thủ đoạn của bọn hoạn quan khiến cho người dân phải tự huỷ bỏ cây quý của nhà mình.
Đó là điều hết sức vô lí, bất công
II. CẢM NHẬN CỦA EM VỀ VĂN BẢN "CHUYỆN CŨ TRONG PHỦ CHÚA
TRỊNH" CỦA PHẠM ĐÌNH HỔ (NGỮ VĂN 9- TẬP 1)
1.Mở bài: Giới thiệu chung về tác giả - tác phẩm, khái quát nội dung nghệ thuật của tác
phẩm "Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh" phản ánh đời sống xa hoa của vua chúa và sự
nhũng nhiễu của quan lại thời Lê - Trịnh
1.Thân bài:
a. Thói ăn chơi xa xỉ của chúa Trịnh
-Xây dựng nhiều cung điện, đình đài ở các nơi để thoả ý
-Thích chơi đèn đuốc, ngắm cảnh đẹp Ý thích đó không biết bao nhiêu cho vừa. Vì
vậy việc xây dựng đình đài cứ liên miên, hao tài, tốn của
-Những cuộc dạo chơi của chúa ở Tây Hồ được miêu tả tỉ mỉ (diễn ra thường xuyên,
tháng ba bốn lần). Huy động rất đông người hầu hạ (Binh lính dàn hầu vòng quanh bốn
mặt hồ mà Tây Hồ rất rộng)
-Các nội thần, quan hộ giá, nhạc công ...bày đặt nhiều trò giải trí lố lăng và tốn kém
-Việc tìm thu vật "phụng thủ" thực chất là cưỡng đoạt những của quý trong thiên hạ
(chim quý, thú lạ) về tô điểm cho nơi ở của chúa.
VD: Miêu tả kĩ, công phu: Đưa một cây đa cổ thụ "từ bên bờ Bắc chở qua sông đem về"
phải một cơ binh hàng trăm người mới khiêng nổi
Ý nghĩa đoạn văn "Mỗi khi đêm thanh vắng... biết đó là triệu bất tường" => Cảm xúc
chủ quan của tác giả được bộc lộ, nhất là khi ông xem đó là "triệu bất tường" (Điềm gở,
điềm chẳng lành -> Báo trước sự suy vong tất yếu của một triều đại chỉ biết ăn chơi
hưởng
lạc).
b. Những thủ đoạn nhũng nhiễu dân của bọn quan lại hầu cận
Thời chúa Trịnh Sâm bọn hoạn quan hầu cận trong phủ chúa rất được sủng ái. Chúng
ỷ thế nhà chúa mà hoành hành tác oai, tác quái trong nhân dân. Thủ đoạn của chúng là
hành động vừa ăn cướp vừa la làng.
c. Tình cảnh của người dân
- Người dân bị cướp tới hai lần, bằng không thì phải tự tay huỷ bỏ của quý của mình.
Chính bà mẹ của tác giả đã phải sai chặt đi một cây lê và hai cây lựu quý rất đẹp trong
vườn nhà mình để tránh tai hoạ
d. Nghệ thuật: Cảnh được miêu tả là cảnh thực (cảnh ở các khu vườn rộng...)
-Cảm xúc chủ quan của tác giả được bộc lộ khi ông xem đó là "triệu bất tường"
-Các sự việc đưa ra cụ thể, chân thực, khách quan, không xen lời bình của tác giả, có liệt
kê và cũng có miêu tả tỉ mỉ vài sự kiện để khắc hoạ ấn tượng. Cảm xúc của tác giả (thái
độ bất bình, phê phán) cũng được gửi gắm kín đáo.
3. Kết bài
-Suy nghĩ của bản thân về thực trạng của đất nước qua những ghi chép của tác giả.
-Liên hệ thực tế xã hội ngày nay.
III. EM HÃY THỬ TƯỞNG TƯỢNG MÌNH LÀ TRỊNH SÂM VÀ TỰ KỂ LẠI Ý
THÍCH, THÓI QUEN ĂN CHƠI XA XỈ CỦA MÌNH (CÓ SỬ DỤNG YẾU TỐ
MIÊU TẢ)
1. Mở bài:
- (Dùng ngôi kể thứ nhất) Giới thiệu khái quát bản thân. (Ta - Thịnh Vương Trịnh Sâm,
thông minh sáng suốt, từng một tay dẹp yên các phe phái đối lập, lập lại trật tự kỉ cương
xã hội...)
2. Thân bài
-Kể lại cuộc sống của mình (bám sát nội dung văn bản)
-Thích ngao du sơn thuỷ uống rượu, cho thoả chí.
-Xây dựng rất nhiều cung điện, đền đài. Công việc xây dựng tiêu tốn khá nhiều tiền của
nhưng không hề gì, miễn là thích...
-Thường xuyên ngự trên Hồ Tây, trên núi, cứ mỗi tháng độ ba bốn lần ta lại ra Hồ Tây
ngắm cảnh, tưởng như đang lạc giữa chốn bồng lai tiên cảnh.
-Rất thích thú với cảnh binh lính dàn hầu đông đúc vòng quanh bốn bề mặt hồ rộng lớn,
cảnh các nội thần, thái giám hoá trang, mặc áo đàn bà…
-Suốt ngày ta chỉ nghĩ đi đâu chơi, bày đặt trò giải trí nào để thoả sức hưởng thụ. Cuộc
sống thật dễ chịu...
-Có thú chơi cao sang là sưu tầm đồ quý trong thiên hạ. Đi đến đâu cũng sai bọn hầu cận
lùng sục trong dân chúng xem có cái gì đáng giá là tịch thu ngay đem về phủ chúa...
Nhắc tới Phạm Đình Hổ, người đời nhớ tới tác phẩm “Vũ trung tùy bút” của ông. Một
bút pháp nghệ thuật tinh tế, tài hoa, một phong thái thư nhàn cao nhã, ông tiêu biểu cho
cốt cách kẻ sĩ Bắc Hà cuối thời Lê-Trịnh và thời kì đầu nhà Nguyễn.
“Chuyện cũ trong phủ Chúa Trịnh" là một trang tùy bút đặc sắc, rút trong “Vũ trung tùy
bút” của Phạm Đình Hôt. Tùy hứng mà viết, tùy bút mà viết, cảm hứng đào dạt, dâng
trào. Cảnh ăn chơi xa hoa của Chúa Trịnh Sâm, cảnh bán hàng của bọn nội thần nội thị,
cảnh tấu nhạc của bọn nhạc công cung đình tại chùa Trấn Quốc nơi Hồ Tây giữa thế kỉ
XVIII, sự nhũng nhiễu của bọn hoạn quan khắp chốn dân gian... đã được tác giả “Vũ
trung tùy bút" chấm phá một vài nét, thế mà ta chỉ đọc qua một lần là có thể nhớ mãi.
“Chuyện cũ..." đã xảy ra vào 2 năm Giáp Ngọ - Ất Mùi (1774-1775), đó là lúc Đàng
Ngoài "vô sự”, là những năm tháng hoàng kim của Thịnh Vương (Trịnh Sâm); khi mà
người ngọc Đặng Thị Huệ được Chúa sủng ái trở thành nguyên phi. Trịnh Sâm sống
trong xa hoa: “thích đi chơi ngắm cảnh đẹp, thường ngự ở các li cung trên Tây
Hồ, núi Tử Trâm, núi Dũng Thúy. Chúa ra chơi cung Thụy Liên trên bờ Tây Hồ mỗi tháng
ba bốn lần”. Cảnh đón tiếp với các thứ nghỉ lễ thật tưng bừng độc đáo. Có “binh lính dàn hầu
vòng quanh bốn mặt hồ". Có tổ chức hội chợ, do quan nội thần cải trang "đầu bịt khăn, mặc
áo đàn bà, bày bách hóa chung quanh hồ để bán”. Thuyền ngự đi tới đâu thì các quan hỗ
tụng đại thần tùy ý ghé vào bờ mua bán các thứ... Gác chuông chùa Trấn Quốc trở thành nơi
hòa nhạc của bọn nhạc công cung đình. Đình đài, cung điện được xây dựng “liên miên”
nhằm thỏa mãn cuộc sống ăn chơi của vua chúa và bọn quan lại thời Lê - Trịnh. Bao nhiêu
tiền của, vàng bạc, châu báu, nước mắt mồ hồi của nhân dân bị bòn vét đến kiệt cùng. Phạm
Đình Hổ đã được mắt thấy tai nghe những “chuyện cũ trong phủ Chúa Trịnh" nên cách kể,
cách tả của ông rất sống động.
Để được sống trong xa hoa, hưởng lạc đế vương, từ chúa đến quan đều trở thành bọn cướp
ngày ra sức hoành hành, trấn lột khắp chốn cùng quê. Chúa thì “sức thu lấy” trân cầm dị thú,
cổ mộc, quái thạch và chậu hoa cây cảnh ở chốn dân gian "không thiếu một thứ gì”. Có
những cây cảnh “cành lá rườm rà... như cây cổ thụ mọc trên đầu non hốc đá, rễ dài đến vài
trượng” phải dùng đến một cơ binh mới khiêng nổi, từ bên Bắc chở qua sông đem về. Trong
phủ chúa “điểm xuyết” bao núi non bộ trông lạ mắt như "bến bể đầu non”. Vườn ngự uyển,
trong những đêm thanh cảnh vắng, tiếng chim kêu vượn hót ran khắp bốn bề,
hoặc nửa đêm “ồn ào như trận mưa sa, gió táp, vỡ tổ tan đàn”. Nếu như trong “Thượng
kinh kí sự” Lê Hữu Trác ngạc nhiên viết:
“Hoa cung thoảng ngạt ngào đưa tới,
Vườn ngự nghe vẹt nói đòi phen.
Quê mùa cung cấm chia quen,
Khác gì ngư phủ đào nguyên thuở nào”.
thì ở đây, Phạm Đình Hồ ái ngại nghĩ: “kẻ thức giả biết đó là triệu bất thường”. Cuộc
sống cực kì xa hoa ấy là nguyên nhân cho sự sụp đổ ngai vàng ngày một ngày hai sẽ nổ
ra. Đó là năm 1782, Trịnh Sâm qua đời, loạn kiêu binh nổ ra, kinh thành Thăng Long bị
đốt phá tan hoang; năm 1786, Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc Hà lần thứ nhất, cơ nghiệp
họ Trịnh tan tành trong nháy mắt. “Cái triệu bất thường” mà Phạm Đình Hồ nghĩ tới thật
linh nghiệm. Quy luật cuộc đời vô cùng song phẳng, cay nghiệt:
“Thịnh mãn lắm, oán thù càng lắm,
Trăm loài ma mồ nấm chung quanh
Nghìn vàng khôn đổi đuợc mình
Lầu ca viện hát, tan tành còn đâu?”
(“Văn chiêu hồn" - Nguyễn Du)
Bọn hoạn quan trong phủ Chúa vừa trắng trợn vừa xảo quyệt, như dân gian đã khinh
bỉ chửi vào mặt: “Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan”. Chúng dùng thủ đoạn “nhờ gió
bẻ măng, ra ngoài dọa dẫm”, Chỉ bằng hai chữ “phụng thủ” biên ngay vào chậu hoa, cây
cảnh, chim tốt, khiếu hay của bất cứ nhà nào là chúng cướp được. Chúng còn lập mưu
“đêm đến” cho tay chân sai lính lẻn vào “lấy phăng đi, rồi buộc cho tội đem giấu vật
cung phụng để dọa dẫm lấy tiền". Chúng ngang ngược "phá nhà hủy tường” của dân để
khiêng hòn đá hoặc cây cối gì mà chúng cướp được! Đối với nhà giàu thì chúng lập mưu
vu cho là “giấu vật cung phụng” để hành hạ, để làm tiền, nhiều người phải "bỏ của ra
kêu van chí chết", có gia đình “phải đập bỏ núi nón bộ, hoặc phá bỏ cây cảnh để tránh
khỏi tai vạ”. Gia đình tác giả thuộc hàng quan lại, quý tộc thời Lê - Trịnh. Trước sự
nhũng nhiễu hoành hành, mẹ Phạm Đình Hôt là bà Cung Nhân phải sai người nhà chặt
cây lê "cao vài mươi trượng, lúc nở hoa, trắng xóa thơm lừng”, hai cây lựu trắng, lựu đỏ
“lúc ra quả trông rất đẹp”. Chi tiết này, tình tiết này rất sống động, rất thực. Tác giả đã kể
lại một chuyện có thật của gia đình mình ở phường Hà Khẩu để vừa tạo nên niềm tin cho
người đọc, vừa phê phán bộ mặt tham lam, ghê tởm của bọn quan lại thời Lê - Trịnh,
vạch trần sự thối tha trong phủ Chúa.
“Trang tùy bút “Chuyện cũ trong phủ Chúa Trịnh” của Phạm Đình Hổ có giá trị lịch
sử sâu sắc, nó đã làm hiện lên cảnh vật và con người, cuộc sống xa hoa ăn chơi của vua
chúa, hành động ăn cướp, làm tiền trắng trợn của bọn quan lại trong phủ Chúa. Ngòi bút
của Phạm Đình Hổ rất trầm tĩnh và sâu sắc. Mọi cảm xúc, ý nghĩ của ông về nhân tình
thế sự được gửi gắm qua những chi tiết, tình tiết, mẩu chuyện rất sống động, rất chọn
lọc, đậm đà, nhã thú.