Professional Documents
Culture Documents
B3-Ohsm C5&C6
B3-Ohsm C5&C6
ACCIDENT NEARMISS
Điều tạo nên sự khác biệt là mức độ thiệt hại thực tế.
“Tai nạn lao động là tai nạn gây tổn thương cho bất kỳ bộ phận, chức năng nào của
cơ thể hoặc gây tử vong cho người lao động, xảy ra trong quá trình lao động, gắn
liền với việc thực hiện công việc, nhiệm vụ lao động”.
Khoản 8, Điều 3 Luật An toàn, vệ sinh lao động (Quốc hội, 2015)
TỬ VONG
Hỏi: Trường hợp tai nạn của ông A có phải là TNLĐ hay không?
ĐÁNH GIÁ TÌNH HUỐNG
Tình huống 2:
Ông Nguyễn Văn A là nhân viên phân phối sản phẩm cho Công
ty B. Hằng ngày, ông A có nhiệm vụ lấy hàng từ kho của Công
ty để giao cho các đại lý trong tỉnh bằng xe ô tô. Ngày
09/9/2020, theo nhiệm vụ được phân công, ông A đến kho
của công ty lấy hàng để giao cho đại lý. Khoảng 10 giờ 30
cùng ngày, khi đang trên đường giao hàng, xe ô tô của ông A
va chạm với xe ô tô đi ngược chiều, hậu quả làm ông A tử
vong.
Hỏi: Trường hợp tai nạn của ông A có phải là TNLĐ hay
không?
Tình huống 3
Bà Nguyễn Thị X là giáo viên Trường THPT Y.
Ngày 15/3/2019, khoảng 17 giờ 15, sau khi kết
thúc giảng dạy trên lớp, bà X đi ra nhà xe để lấy
xe máy đi về nhà, lúc dắt xe máy ra cổng trường,
trên đường đi, bà X bị quả bóng đá do học sinh Z
(đang chơi bóng đá cùng nhóm tại sân bóng của
Trường) đá trúng vào người, bà X bị ngã, xe máy
đổ vào người làm bà X gãy chân.
Hỏi: Trường hợp tai nạn của bà X có phải là
TNLĐ hay không?
Tình huống 4
Bên công ty X có 01 công nhân bị tai nạn giao thông trên đường từ
nhà đến công ty. Thời gian bắt đầu làm việc ca đêm của công ty là
23h, nhưng sự việc tai nạn của công nhân này xảy ra lúc 22h20.
Địa điểm xảy ra chỉ còn khoảng 4km (khoảng 10 phút đi xe máy )
nữa là công nhân này đến công ty.
Hỏi: Vậy trường hợp tai nạn của công nhân này có phải là TNLĐ
hay không??
Theo Điều 9 Nghị định số 39/2016/NĐ-CP ngày 15/05/2016 của
Chính phủ, có 03 loại tai nạn lao động
Tai nạn lao động chết người a. Chết tại nơi xảy ra tai nạn
b. Chết trên đường đi cấp cứu hoặc
trong thời gian cấp cứu
c. Chết trong thời gian điều trị hoặc
chết do tái phát vết thương do tai nạn
lao động gây ra theo kết luận tại biên
bản giám định pháp y
d. Người lao động được tuyên bố chết
theo kết luận của Tòa án trong trường
04 trường hợp hợp mất tích
a. Chết tại nơi xảy ra tai nạn
Đây là trường hợp người lao động chết tại nơi làm việc, nơi thực hiện công
việc mà người lao động đã được người sử dụng lao động chỉ định hoặc thỏa
thuận trong hợp đồng lao động.
Do đó, nơi xảy ra tai nạn không chỉ là trụ sở, cơ sở sử dụng lao động mà
có thể là bất kỳ nơi nào, phụ thuộc vào quá trình thực hiện công việc của
người lao động.
Ví dụ:
• Người lao động là công nhân xây dựng bị rơi từ tầng 5 xuống trong quá trình
xây dựng căn nhà dẫn đến chết, được coi là tai nạn lao động chết người và
người lao động chết tại nơi xảy ra tai nạn.
• Người lao động thực hiện công việc đàm phán hợp đồng tại một nhà hàng với
khách hàng của doanh nghiệp, nhưng bị ngộ độc thực phẩm dẫn đến chết
người ngay tại nhà hàng. Trường hợp này người lao động vẫn được coi là bị
tai nạn lao động chết người.
b. Chết trên đường đi cấp cứu hoặc trong thời gian cấp cứu
Khi người lao động gặp tai nạn lao động trong quá trình thực hiện công việc,
người lao động không chết tại nơi xảy ra tai nạn mà chết trên đường đi cấp cứu
hoặc trong thời gian cấp cứu. Cái chết là hậu quả trực tiếp của tai nạn đã xảy ra
với người lao động.
Ví dụ:
• Ông A bị tai nạn lao động được đưa đi cấp cứu, nhưng trên đường đi cấp cứu, do mất
máu nhiều quá, ông A qua đời khi đang trên đường đến bệnh viện. Trường hợp này
được coi là chết trên đường đi cấp cứu và được xếp vào loại tai nạn lao động chết
người.
• Ông B gặp tai nạn lao động xước tay và đang trên đường đến bệnh viện, thì bị đột
quỵ dẫn đến chết trên đường đi cấp cứu. Trường hợp này cần xem xét kỹ nguyên
nhân đột quỵ của ông B có phải do tai nạn lao động gây ra, hay do yếu tố khác, ông
B có thể không được coi là trường hợp tai nạn lao động chết người.
c. Chết trong thời gian điều trị hoặc chết do tái phát vết thương do tai nạn lao
động gây ra theo kết luận tại biên bản giám định pháp y.
Người lao động được đưa đi điều trị sau khi bị tai nạn lao động. Thời gian điều trị
của người lao động là quãng thời gian người lao động được điều trị tại bệnh viện, cơ
sở y tế, hoặc điều trị tại nhà nhưng có sự theo dõi y tế từ phía các cơ sở y tế. Trong
quá trình này, người lao động nếu chết do các vấn đề, di chứng của tai nạn lao động,
thì được coi là chết trong thời gian điều trị.
Sau thời gian điều trị, người lao động trong quá trình phục hồi đột nhiên tái phát
bệnh, vết thương do tai nạn gây ra dẫn đến chết người, thì đây cũng được coi là
trường hợp tai nạn lao động chết người.
Rất khó để xác định nguyên nhân dẫn đến cái chết có phải do tai nạn lao
động không khi thời gian điều trị, tái phát vết thương cách thời gian xảy ra
tai nạn một quãng thời gian nhất định chỉ được công nhận khi có kết luận
tại biên bản giám định pháp y.
Ví dụ:
• Người lao động C bị tai nạn lao động và rách phổi, trong quá
trình điều trị tại bệnh viện bệnh nhân C bị nhiễm trùng máu do
rách phổi, dẫn đến chết. Trường hợp này được coi là tai nạn lao
động chết người.
• Người lao động D bị tai nạn lao động, do bệnh đã có tiến triển,
bệnh viện cho người này điều trị tại gia. Tuy nhiên, trong quá
trình điều trị tại gia, các vết thương trong của người lao động bị
chảy máu, nhiễm trùng dẫn đến chết. Trường hợp này vẫn được
coi là chết trong thời gian điều trị, vừa được coi là tái phát vết
thương do tai nạn lao động gây ra.
d. Người lao động được tuyên bố chết theo kết luận của Tòa án trong
trường hợp mất tích
Người lao động trong quá trình thực hiện công việc, lao động, bị mất tích và bị
Tòa án tuyên bố chết theo quy định tại Điều 71 Bộ luật dân sự số 91/2015/QH13
ngày 24/11/2015. Trong trường hợp này, nguyên nhân mất tích của người lao
động phải gắn liền với hoạt động thực hiện công việc, lao động.
Ví dụ:
• Người lao động E mất tích khi đang thực hiện công việc tại nơi làm việc
được coi là trường hợp mất tích khi đang trong quá trình lao động nên khi
Tòa án tuyên bố E chết thì người này vẫn được coi là trường hợp tai nạn
lao động chết người.
• Người lao động F đang trên đường đi công tác thì gặp lũ quét và mất tích,
sau khi Tòa án tuyên bố F chết thì trường hợp của người này cũng được
tính là tai nạn lao động.
Tai nạn lao động làm người lao động bị
thương nặng
Gây nhiễm độc cấp tính (SO2, SO3, CO, CO2, NO2, H2S;
thường là hậu quả của trạng thái vật chất không bền vững, không ổn định gây ra, như:
• sập lở
• vật rơi từ trên cao trong xây dựng;
• đá rơi, đá lăn trong khai thác đá, trong đào
đường hầm;
• đổ tường, đổ cột điện, đổ công trình trong xây
lắp; cây đổ; đổ hàng hoá khi sắp xếp, vận
chuyển...
(5) Nhóm yếu tố nguy hiểm về nổ
Nhận diện yếu tố nguy hiểm là một quá trình để nhận diện sự tồn tại của yếu tố nguy
hiểm và xác định những đặc tính của nó (đặc điểm, tính chất, nguồn gốc phát sinh,…) để
từ đó có thể loại bỏ hoặc kiểm soát thông qua các biện pháp phù hợp.
• các lợi ích trực tiếp: phát hiện ra các yếu tố nguy
hiểm đã bị bỏ qua, xác định các yếu tố nguy hiểm
phát sinh sau khi một quy trình, hoạt động hoặc nhiệm
vụ cụ thể được thiết lập….
• Tần suất sự cố
• Thiết bị, quy trình và hoạt động mới hoặc thay đổi
• Khảo sát người lao động là một phần độc lập, hoạt động này có thể được
thực hiện đồng thời, trước hoặc sau khi thực hiện các nghiệp vụ kiểm tra,
nghiên cứu khách quan về điều kiện, quy trình lao động.
Đánh giá rủi ro
Rủi ro trong an toàn và sức khỏe nghề nghiệp chính là sự kết hợp giữa khả năng
xảy ra hoặc khả năng tiếp xúc với các yếu tố nguy hiểm với mức độ nghiêm
trọng của chấn thương (thường được xem là hậu quả) do các yếu tố nguy hiểm
gây ra.
(ILO, 2021)
Rủi ro = xác suất thiệt hại x mức độ nghiêm trọng của thiệt hại.
S: Severity
F: Frequency P: Posibility
Mức độ nghiêm trọng ước
Tần suất tiếp xúc Khả năng xảy ra
tính của rủi ro
(Xác suất xảy ra)
RPN = S * F * P
18-27 8-12 1-6
Rủi ro mức độ Rủi ro mức độ Rủi ro mức độ
cao–Không trung bình – thấp – Chấp
chấp nhận được Cần có đối sách nhận được
xử lý
S: Mức độ nghiêm trọng của vấn đề
Hậu quả lớn nhất cũng chỉ là ngã đau do
vấp ngã
S = 1
RPN = 3 x 1 x 2 = 6
Rủi ro mức độ thấp Chấp nhận được
S: Mức độ nghiêm trọng của vấn đề
Hậu quả lớn nhất có thể là tử vong
S = 3
F: Tần suất tiếp xúc
Vì ở khu vực sản xuất nên công nhân đi
lại khá nhiều, khá liên tục
F = 3
RPN = 3 x 3 x 1= 9
Rủi ro mức độ trung bình cần có đối sách phù hợp
Phương pháp ma trận rủi ro 3X3
Ma trận rủi ro (còn được gọi là ma trận xác suất và tác động) là các bảng được sử dụng để
đánh giá các rủi ro hiện có trên cơ sở khả năng xảy ra của chúng (xác suất, khả năng xảy ra)
và mức độ nghiêm trọng của hậu quả của chúng (tác hại đến an toàn hoặc sức khỏe)
Hậu quả Mô tả
Không chấn thương, chấn thương hoặc ốm đau chỉ yêu cầu sơ cứu (bao
gồm các vết đứt và trầy xước nhỏ, sưng tấy, ốm đau với lo lắng tạm
Nhẹ thời). Người lao động không phải nghỉ làm hoặc chỉ phải nghỉ làm việc
tạm thời, từ 1 - 3 ngày (nếu có).
Thương tật hoặc bệnh tật nghiêm trọng hơn yêu cầu điều trị y tế hoặc
ốm đau dẫn đến ốm yếu tàn tật, gây mất khả năng lao động tạm thời
Trung mà người đó có thể phục hồi (ví dụ như gãy tay hoặc gãy xương nhẹ).
bình Thương tật hoặc bệnh tật khiến nạn nhân phải nghỉ làm và không khỏe
trong một khoảng thời gian đáng kể.
Chết người, chấn thương trầm trọng hoặc bệnh nghề nghiệp có thể làm
chết người hoặc thương tật với hậu quả lâu dài, vĩnh viễn (bao gồm:
Nặng chấn thương sọ não, cụt chân tay, gãy xương lớn, đa chấn thương, ung
thư nghề nghiệp, nhiễm độc cấp tính và chết người).
Hạng mục Điểm Diễn giải
Rất thường xuyên
5 Xảy ra hàng ngày
Thường xuyên
4 Hàng tuần hoặc sự việc có tính lặp đi lặp lại
Khả năng
Thỉnh thoảng xảy ra
xảy ra (P) 3 >1 tháng hoặc đã có những trường hợp tương tự
2 Hiếm khi xảy ra > 1 năm
1 Rất hiếm khi xảy ra
> 5 năm, có tiềm ẩn nguy cơ nhưng vẫn chưa xảy ra
5 Rất nghiêm trọng
Chết người
Nghiêm trọng
Bị thương tật toàn bộ vĩnh viễn, mất khả năng lao động (Đa chấn thương về
4 các phần thân thể ở múc độ không thể hồi phục lại, phải sống thực
Mức độ tác vật...hoặc bị mắc bệnh nghề nghiệp đe dọa tính mạng)
động/ Hậu Nặng
quả (S) Bị thương nặng và phải nghỉ làm trên 3 ngày (Bị chấn thương sọ não, bỏng
3 nặng, cụt tay, cụt chân, dập gan,...)
2 Nhẹ
Bị thương và phải nghỉ làm việc tạm thời, từ 1 - 3 ngày
Không đáng kể
1 Chỉ phải sơ cấp cứu, NLĐ không phải nghỉ làm
Bước 02: Xác định những người có thể bị ảnh hưởng và ảnh hưởng như
thế nào.
Sau khi xác định được các yếu tố nguy hiểm, nhóm đánh giá cũng cần xác
đinh rõ đối tượng bị ảnh hưởng và ảnh hưởng như thế nào.
• Một số nhóm đối tượng lao động có yêu cầu đặc
thù. Ví dụ: người lao động trẻ, phụ nữ mang thai
và người khuyết tật là nhóm đối tượng có thể
phải đối mặt với những rủi ro đặc thù.
Bước 6: Ghi lại những phát hiện, giám sát và rà soát việc
đánh giá rủi ro, và cập nhật khi cần thiết.
Hồ sơ đánh giá rủi ro nên được lưu giữ bằng văn bản trong tổ
chức. Để đánh giá là 'phù hợp và hiệu quả', chỉ cần ghi lại
những nguy cơ đáng kể và có kết luận rõ ràng. Hồ sơ cũng
phải bao gồm chi tiết về các nhóm người bị ảnh hưởng bởi
các mối nguy và các biện pháp kiểm soát hiện có cũng như
tính hiệu quả của chúng. Hồ sơ này nên luôn sẵn sàng để
người lao động, người giám sát và thanh tra lao động có thể
tiếp cận được.
YÊU CẦU BÁO CÁO KHẢO SÁT