Professional Documents
Culture Documents
Viêm Gan M N
Viêm Gan M N
- Mức độ của viêm gan mạn B : rât khác nhau từ nhẹ đến
nặng. Đánh giá mức độ của viêm gan mạn B người ta cũng căn
cứ vào mô bệnh học, nhưng quan trọng hơn là dựa vào mức độ
nhân lên của virut viêm gan B ( HBV ). Trong giai đoạn nhân lên
mạnh của HBV ( HBeAg + , HBV – DNA +, HBcAg+
trong tế bào gan ) thì mức độ nặng hơn. Ngược lại trong giai
đoạn không nhân lên của HBV ( HBeAg - , anti – HBe + , HBcAg
– trong tế bào gan ) thì viêm gan mạn B nhẹ hoặc chỉ là mang
HBV không triệu chứng.
- Tiến triển : nhiễm HBV mạn, đặc biệt là mắc từ khi sinh sẽ
tăng nguy cơ dẫn đến ung thư tế bào gan. Viêm gan mạn B hoạt
động thì nhiều khả năng tiến triển đến xơ gan và k tế bào gan.
2. Viêm gan mạn D ( viêm gan mạn do virut Delta )
Kể cả đồng nhiễm virut viêm gan D ( HDV ) với virut viêm gan B
( HBV ) hoặc bội nhiễm HDV trên bệnh nhân HBV đều có thể
dẫn tới viêm gan mạn. Nhưng khi đồng nhiễm thường làm nặng
thêm viêm gan cấp và dể thành viêm gan ác tính, bội nhiễm
HDV trên người mang HBsAg mạn tính làm tăng khả năng tiến
triển thành viêm gan mạn.
- Biểu hiện lâm sàng của viêm gan mạn D hay viêm gan mạn
B không phân biệt được hay nói khác đi là viêm gan mạn D cũng
có biểu hiện lâm sàng như viêm gan mạn B.
- Đặc điểm huyết thanh học của viêm gan mạn D là có sự
hiện diện của kháng thể anti – LKM ( Liver Kidney Microsomes –
kháng thể kháng Microsome của gan, thận ) lưu hành trong
máu. ở bệnh nhân viêm gan mạn D có anti – LKM-3, khác với
anti – LKM-1 có ở bệnh nhân viêm gan mạn tự miễn và viêm gan
mạn C.
3. Viêm gan mạn C
Là viêm gan mạn tiến triển thầm lặng, nhiều trường hợp không hề có
triệu chứng và ngay cả men Transaminase cũng bình thường. Chẩn
đoán những trường hợp này chủ yếu dựa vào sinh thiết gan.
- Biểu hiện lâm sàng : viêm gan mạn C cũng giống như viêm gan mạn
B nhưng nói chung triệu chứng mờ nhạt hơn, hiếm gặp vàng da, tổn
thường ngoài gan ít hơn, men Transaminase dao động và thấp hơn.
Triệu chứng thường thấy là mệt mỏi, xét nghiệm huyết thanh học một
số trường hợp có thể thấy sự có mặt của kháng thể anti – LKM-1 như
ở bệnh nhân viêm gan tự miễn Typ 2.
- Về tiến triển : Có 50 – 70% số ca viêm gan mạn C tiến triển sau viêm
gan C cấp, tiến triển tới xơ gan sau 10 năm là 20%. Khoảng 50% bệnh
nhân viêm gan mạn C sẽ thành xơ gan kể cả những bệnh nhân viêm
gan mạn C không có triệu chứng và không có men Transminase tăng.
Nhưng đáng chú ư là những bệnh nhân nhiễm HCV – RNA với nồng
độ cao và thời gian nhiễm lâu. Viêm gan mạn C tiến triển tới xơ gan
và ung thư tế bào gan nhưng thường là rất chậm sau vài năm.
III. Viêm gan mạn tự miễn
- Là viêm gan mạn tiến triển do tự miễn có đặc điểm tiến
triển liên tục tới xơ gan và suy gan, tỷ lệ tử vong cao tới 40% sau
6 tháng nếu không được điều trị
- Về biểu hiện lâm sàng : khởi phát có thể âm thầm hoặc đột
ngột ở những phụ nữ trẻ tuổi hoặc trung niên. Những triệu
chứng của viêm gan tương tự như viêm gan mạn do virut
nhưng thường thấy những biểu hiện tổn thương ngoài gan
nặng nề hơn như : đau khớp, cường lách, viêm động, tĩnh
mạch, viêm cầu thận, rối loạn đông máu ...
- Những trường hợp nặng thường dẫn tới xơ gan, suy gan và
hôn mê gan. Xơ gan và ung thư gan là những triệu chứng muộn
của viêm gan mạn tự miễn
- Xét nghiệm máu ngoài men Transaminase và bilirubin tăng
còn tháy Globulin tăng. Kháng thể kháng nhân ( ANA ) và kháng
thể cơ trơn thường thấy nhưng ít đặc hiệu.
Viêm gan mạn tự miễn được chia làm 3 Typ :
* Viêm gan mạn tự miễn typ 1 : Globulin máu cao, ANA ( + ) , hay gặp ở
phụ nữ trẻ
* Viêm gan mạn tự miễn typ 2 : ANA ( - ) nhưng anti – LKM ( + ) giống như
viêm gan mạn C.
* Typ 2a : có anti – LKM 1 cao và đáp ứng với điều trị cocticoid ( thường gặp
ở phụ nữ trẻ Tây Âu.
* Typ 2b : là viêm gan mạn tự miễn kết hợp với viêm gan mạn C có Globulin
máu bình thường, anti – LKM 1 thấp đáp ứng vơi điều trị Interferon (thường
ở người lớn tuổi vùng Địa Trung Hải )
* Viêm gan mạn tự miễn typ 3 : không có ANA và anti – LKM 1 nhưng có
kháng thể với kháng nguyên gan hoà tan ( đa số là nữ ).
- Về tiến triển : những bệnh nhân ở mức độ vừa và nhẹ, tổn thương mô học
ở mức hạn chế ( chỉ có hoại tử mối gặm, chưa có hoại tử cầu nối ) thì tiến
triển đến xơ gan là hạn chế. Trong viêm gan mạn tự miễn nặng, men gan
Aminotransferase tăng > 10 lần, Globulin máu cao, Marker cao, tổn thương
mô học nặng ( hoại tử cầu nối hoặc tổn thương đa tiểu thùy), tiến triển đến
suy gan và tử vong tới 40% trong vòng 6 tháng nếu không được điều trị.
Những trường hợp khác có thể có biến chứng muộn : xơ gan và ung thư gan.
IV.Viêm gan mạn do thuốc và nhiễm độc
Là những tổn thương viêm gan do nhiễm độc hoặc do dị ứng, hoặc kết hợp
cả hai bởi các thuốc, các độc tố trong tự nhiên và công nghiệp ( hoá chất ).
tổn thương gan do thuốc và chất độc có thể từ nhẹ đến nặng và thậm chí là
hoại tử gan lan tràn. Thuốc và chất độc có thể gây ra viêm gan ( VG ) cấp,
viêm gan mạn ( VGM ), xơ gan và ung thư tế bào gan. Theo Bluger có thể kể
đến một số thuốc và chất độc sau :
Loại thuốc và chất độc Hình thái tổn thương Tiến triển
1.Thuốc :
VG cấp, VG bán cấp, - 10% chết vì hôn mê gan
- Thuốc chống lao
VGM, VG ứ mật, Nhiễm mỡ gan. - VGM và xơ gan sau hoại tử
- Có thể đãn đến xơ gan mật
- Chết vì hôn mê gan (10 –
- Thuốc điều trị tâm thần VG cấp, VGM và loạn dưỡng gan
20%)
- VGM và xơ gan sau hoại tử
-Thuốc diệt khuẩn ( một số VGM, nhiễm mỡ gan và viêm gan
Hôn mê gan, VGM, xơ gan.
kháng sinh và Sulfamid ) ứ mật
- Các hormon Loạn dưỡng gan mật Xơ gan mật
- Thuốc chống chuyển hoá ( anti Viêm gan hoại tử, trương các tế
– metabolis ) bào gan
Thuốc ức chế chức năng tuyến
Viêm gan, loạn dưỡng gan mật VGM
giáp ( điều trị Basedow )
- Thuốc gây mê Viêm gan Xơ gan sau hoại tử
2.Các chất độc CN
- Liều cao : gây tử
- Hydrocarbonchlorid :
Hoại tử gan lan tràn cấp, vongdo hôn mê gan
Naftalin, Diphenylchlorid
nhiễm mỡ gan, viêm gan . cấp
- Liều thấp : gây xơ gan
- Benzon Viêm gan cấp hoặc mạn Hôn mê gan, xơ gan.
-Các kim loại ( nhất là
Loạn dưỡn gan, viêm gan Xơ gan
-kim loại nặng )
3.Các chất độc thực
phẩm
- Ethanol Viêm gan, loạn dưỡng gan Hôn mê gan, xơ gan
Loạn dưỡng gan, hoại tử
- Nấm độc Tử vong, xơ gan
tế bào gan lan tràn
- Aflatoxin Loạn dưỡng gan Tử vong, xơ gan, k gan.
Tổn thương hệ thống
- Các Alcaloid thực vật
mạch
V.Điều trị viêm gan mạn
Đối với viêm gan mạn do thuốc và chất độc : chỉ cần ngừng thuốc hoặc
cách ly với chất độc, nghỉ ngơi là bệnh có thể tự khỏi
Đối với viêm gan mạn tồn tại và viêm gan mạn tiểu thùy nếu được nghỉ
ngơi và chế độ dinh dưỡng hợp lư thì đa số cũng thường tiến triển đến khỏi
hoàn toàn
( trừ nguyên nhân do virut ).
Do vậy nói đến thuốc điều trị viêm gan mạn thì chủ yếu là đối với viêm
gan mạn thể tấn công
Những nhóm thuốc chính được sử dụng trong điều trị VGM là :
- Thuốc tác động tới tình trạng miễn dịch
+ Thuốc ức chế miễn dịch : corticoid
+ Thuốc điều biến miễn dịch : levamisol
+ Thuốc kích thích miễn dịch : Thymogen, Thymodulin ( Thymocom ).
- Thuốc kháng virut : Lamivudin, Ribavirin.
- Interferon alpha ( IFN a)
- Thuốc có nguồn gốc thực vật ( thảo dược )
V.Điều trị viêm gan mạn
Đối với viêm gan mạn do thuốc và chất độc : chỉ cần ngừng thuốc hoặc
cách ly với chất độc, nghỉ ngơi là bệnh có thể tự khỏi
Đối với viêm gan mạn tồn tại và viêm gan mạn tiểu thùy nếu được nghỉ
ngơi và chế độ dinh dưỡng hợp lư thì đa số cũng thường tiến triển đến khỏi
hoàn toàn
( trừ nguyên nhân do virut ).
Do vậy nói đến thuốc điều trị viêm gan mạn thì chủ yếu là đối với viêm
gan mạn thể tấn công
Những nhóm thuốc chính được sử dụng trong điều trị VGM là :
- Thuốc tác động tới tình trạng miễn dịch
+ Thuốc ức chế miễn dịch : corticoid
+ Thuốc điều biến miễn dịch : levamisol
+ Thuốc kích thích miễn dịch : Thymogen, Thymodulin ( Thymocom ).
- Thuốc kháng virut : Lamivudin, Ribavirin.
- Interferon alpha ( IFN a)
- Thuốc có nguồn gốc thực vật ( thảo dược )
1.Điều trị viên gan mạn do HBV
Mục tiêu cao nhất trong điều trị viêm gan mạn do HBV là loại trừ
virut ra khỏi cơ thể ( HBsAg và HBV – DNA âm tính trong máu ), hồi
phục những tổn thương ở gan và hết các triệu chứng lâm sàng. Tuy
nhiên cho tới nay, các biện pháp điều trị viêm gan mạn do virut nói
chung và do HBV nói riêng vẫn còn là vấn đề khó khăn. Interferon và
các thuốc chống virut đã mang lại kết quả điều trị khả quan, những
hiệu quả cũng chỉ không quá 50%. Hầu hết các nghiên cứu đều thấy
rằng nếu thời gian dùng thuốc càng dài thì tỷ lệ khỏi bệnh càng cao.
nếu dùng thuốc thời gian ngắn thì tỷ lệ khỏi bệnh thấp và tái phát sau
khi ngừng thuốc tăng lên.
Do vậy, mục tiêu cần đạt trong điều trị là làm giảm hoặc ngừng quá
trình phát triển, nhân lên của HBV, giảm quá trình viêm trong gan,
ngăn chặn hoại tử tế bào gan, ngăn quá trình tiến triển đến xơ và ung
thư hoá. Với mục tiêu này, sau điều trị thấy nồng độ HBsAg và HBV
– DNA giảm trong máu, có sự chuyển đảo huyết thanh (HBeAg từ
dương tính trở thành âm tính và anti HBe xuất hiện)
thì được đánh giá là tiến triển điều trị tốt.
- Interferon ( IFN )
Interferon a của Mỹ ( hãng Schering Plough, tên thương mại Intron A)
là IFN a 2b lọ 3 triệu, 5 triệu UI.
Interferon a của Pháp ( hãng Roche, tên thương mại là Roferon) là
IFNa 2a, lọ 3 triệu và 4, 5 triệu UI.
+ Chỉ định điều trị cho bệnh nhân viêm gan mạn tấn công có men
Transaminase tăng, HBV – DNA thấp và thời gian mắc bệnh ngắn ( <
1,5 năm )
Những trường hợp này thường cho kết quả điều trị khả quan hơn.
+ Liều và thơi gian điều trị : thấp nhất là 3 triệu UI/ ngày đến 10 triệu
UI/ ngày tiêm bắp thịt hoặc tiêm dưới da hàng ngày hoặc 3 lần/ tuần
( cách ngày ).
Thời gian điều trị ít nhất là 4 tháng.
+ Tác dụng phụ : sốt, hội chứng "giả cúm", ức chế tuỷ xương ( nhẹ ),
rụng tóc, mọc ban, ngứa, ỉa chảy, có thể viêm tuyến giáp tự miễn
( hiếm )...Tác dụng phụ mất nhanh sau khi ngừng thuốc. Thuốc phải
bảo quản thường xuyên ở nhiệt độ 2 – 8*C và giá thành hiện nay là rất
đắt.
- Lamivudin
Lamivudin là chất đồng đẳng của nucleoside, có hoạt tính kháng virut
do ức chế men sao mã ngược, nên ức chế tổng hợp HBV – DNA.
Lamivudin được sử dụng điều trị viêm gan mạn do HBV và điều trị
người nhiễm HIV/ AIDS .
Thuốc hấp thu nhanh, dung nạp tốt, và rất ít tác dụng phụ. Thuốc làm
làm giảm nhanh nồng độ HBV – DNA, làm mất HBeAg, men
Transaminase trở về bình thường. Những trường hợp có sự đột biến
gen Polymerase của HBV ( gọi là đột biến YMDD ), tiếp tục điều trị
băng Lamivudin thấy vẫn có tác dụng.
Liều dùng : viên 100 mg, uống 1 viên/ngày, uống hàng ngày, kéo dài
ít nhất 1 năm. đã có nghiên cứu cho thấy điều trị dài hơn ( hai, ba
năm ) tác dụng tốt hơn. Có bệnh nhân đã điều trị 4 năm thuốc vãn
dung nạp tốt.
- Thuốc nguồn gốc thực vật :
Hiện nay có nhiều loại thuốc có nguồn gốc thực vật đang
được ứng dụng điều trị viêm gan cấp và mạn do HBV...
Tuy nhiên, để chứng minh các thuốc này có tác dụng điều
trị viêm gan mạn do HBV cần được nghiên cứu một cách
nghiêm túc, với số lượng bệnh nhân lớn hơn, Một số
thuốc đã được các tác giả Trung Quốc và Việt nam sử
dụng là :
+ Phyllantus ( Phyllantin...), được chiết xuất từ cây Diệp
hạ châu đắng hay là cây chó đẻ răng cưa ( tên khoa học :
Phyllantus amarus schum ).
+ Haima : được chiết xuất từ cây cà gai leo ( Solanum
hainanese ).
- Điều trị kết hợp thuốc :
+ Corticoid trong 6 tuần (Prednisolon : 60 mg/ngày x 2 tuần, sau giảm xuống 40 mg/
ngày x 2 tuần tiếp và 20 mg/ ngày x 2 tuần cuối ), tiếp theo dùng IFN ( liều lượng và
cách dùng như trên ) : Hiệu quả của IFN tang lên.
+ IFN + lamivudin ( liều lượng và cách dùng mỗi thuốc như trên )
+ IFN ( như trên ) + thuốc kích thích miễn dịch ( Thymocom, Thymomodulin... ) 80
mg x 1 –2 viên/ ngày x 6 – 12 tháng.
2. Điều trị viêm gan mạn do HDV :
IFN liều cao : 9 triệu UI/ ngày x 3 lần/ tuần. Hiệu quả kém hơn và dễ tái phát khi
ngừng thuốc.
3. Điều trị viêm gan mạn do HCV :
IFN có hiệu quả tốt hơn, liều 2 – 5 triệu UI/ ngày x 3 lần/ tuần x 6 tháng.
IFN + Thuốc kháng virut ( Ribavirin, viên 200 mg x 5 - 6 viên/ ngày x 1 năm ).
4. Điều trị viêm gan mạn tự miễn :
- corticoid liệu pháp : Prednisolon 20 mg/ ngày, tăng lên cho tới liều tác dụng, sau đó
giảm đến liều duy trì, kéo dài 6 - 12 tháng. Khi ngừng thuốc lại tái phát và không
ngăn được xơ gan.
- Corticoid + Azathioprine ( 50 mg/ ngày ).